Long Hoa Lược Truyện

Thảo luận trong 'Thư giãn, giải trí' bởi ogashop, 14/8/2023.

  1. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    108. MÀI ĐAO TRÊN ĐÁ

    Ngày xửa ngày xưa vào thời Thượng Hùng Vương, truyền ngôi đến đời Hùng Thục Lang, đời Hùng Vương thứ mười tám.

    Khi ấy ở phương bắc Nhà Thương, Vua Thành Thang nối truyền đến đời thứ mười ba Tổ Dân Thiên Tử. Có mộng xâm lấn nước Văn Lang, luôn cho người theo dõi nước Văn Lang.

    – Lúc bây giờ nước Văn Lang vẫn còn hùng mạnh thái bình an lạc no cơm ấm áo. Tại làng Tân Khánh, Xã Đồng Văn, Huyện An Trạch, Tây Trung Châu.

    – Có chàng thanh niên mồ côi tên là A Mẫn không còn cha mẹ xin đi ở đợ cho một nhà giàu. Nhưng ông chủ từ chối A Mẫn buồn quá lang thang khắp núi rừng, đào củ mài để mà ăn, tối ngủ trong hang đá cho đến một hôm, trời hừng hừng sáng cây cỏ núi đồi vẫn còn chìm trong sương mù, nhưng chim đã kêu, vượn đã hú như chào mừng một ngày mới, mở màn cho cuộc sống tiếp nối hết ngày nầy sang ngày kia.

    – A Mẫn trên đường trở lại thôn làng sau đó tìm kiếm việc làm trên Thị Trấn, vì ở trên rừng vừa buồn vừa hiu quạnh suốt ngày chỉ làm bạn với chim, trái rừng và suối chảy. A Mẫn vừa đi vừa suy nghĩ cầu gặp sự may mắn đến với mình, đang đi trên đường A Mẫn nhìn thấy một cụ già ăn mặc rách rưới, cụ run rẩy đi không nổi liền chạy nhanh tới nói, để con cõng cụ đi, nhà cụ ở đâu sao chẳng có con cháu nào theo, để cụ đi một mình như thế nầy, tuổi già như trái mít chín trên cây dễ rụng lắm.

    Cụ già nghe A Mẫn nói thế càng thêm run rẩy.

    A Mẫn nói

    Cụ có sao không?

    Cụ già chỉ lắc đầu mà không đáp

    A Mẫn hỏi tiếp

    Cụ đi tìm ai lặn lội cực khổ thế nầy

    Ông cụ trả lời thân một mình chẳng còn ai là người thân. A Mẫn nghe xong thương cụ vô cùng, hoàn cảnh giống như mình chẳng còn ai.

    Bỗng nghe cụ la đói, đói quá đi thôi, đói quá đi thôi, tay xoa bụng miệng thời lẩm bẩm, đói quá trời ơi đói quá.

    – Nhìn dáng đói run run của cụ A Mẫn động lòng liền lấy trong mình ra củ mài, không dám ăn để dành trên đường đi tìm công việc lúc đói quá mới dám ăn. A Mẫn cầm củ mài nướng từ sớm khi mặt trời chưa lên, dâng hai tay đưa cho cụ nói, cụ ăn đi.

    – Cụ già đưa tay cầm lấy ăn ngấu nghiến, nhìn cụ ăn ngấu nghiến, bụng A Mẫn cũng đã sôi lên vì đói.

    A Mẫn nhìn cụ rồi hỏi

    Cụ có nhà không?

    Ông cụ vừa trả lời vừa tiếp tục ăn, cụ nói cụ không có nhà chỉ đi lang thang, ai cho gì ăn nấy.

    A Mẫn nói cháu cũng chẳng còn ai, thôi thì cụ theo cháu, cháu có gì thời cụ ăn nấy.

    Ông cụ nói một mình cháu đã khó sống, làm sao nuôi thêm một người như cụ, chỉ biết ăn mà chẳng làm ra tích sự gì.

    – A Mẫn nói cháu sẽ xin việc làm cụ đừng lo, thế là A Mẫn đi đâu dắt theo Ông cụ đi đó, xin được gì A Mẫn đều dành cho cụ ăn trước, còn mình thời ăn sau, nếu cụ ăn hết thời nhịn đói vậy.

    – Thời gian trôi qua được hơn tháng A Mẫn vẫn chưa tìm ra được việc làm. Một hôm Ông Cụ nhìn A Mẫn rồi nói tấm lòng thương người của con đã động đến lòng Trời. Cụ có hai vật báu cụ sẽ cho con. Ông cụ lấy trong người ra một thanh đao nhỏ, cụ hô lớn tức thời thanh đao lớn lên cụ mài vào phiến đá, tức thời tiếng mài đao vang dội núi rừng. Cụ lại móc trong người ra tấm lưới nhỏ. Cụ nói tấm lối nầy khi quăng xuống sông liền hô biến, tức thời tấm lới bung ra phủ khắp lòng sông kéo lên thời đầy tôm đầy cá. Cụ lại lấy trong người ra một chiếc hộp nhỏ. Cụ nói trong hộp nầy có ba viên Thần Châu Đơn. Cứ một tháng con uống một viên, uống hết ba viên, thời con hãy ra vùng biên giới nơi có giặc đóng quân, lấy đao ra mài trên núi, chừng nào thấy quân giặc rút lui, thời con tìm đến những dòng sông bên kia có quân giặc đồn trú, liền quần lưới xuống sông bắt cá. Khi nào thấy giặc bên kia đồn trú biến hết thời về Tây Trung Châu làm ăn sinh sống, phát rẫy, chài lưới giúp dân, mở mang thêm ruộng đồng rộng lớn. Ông cụ trao cho A Mẫn ba vật báu vài lượng bạc truyền cho nội công tâm pháp. rồi biến mất.

    – A Mẫn mới biết Ông Cụ là Thánh Tiên hiện ra thử lòng tốt của mình.

    – A mẫn có bạc có tiền liền mua bộ quần áo mới, việc ăn tiêu vô cùng tiếc kiệm, không dám ăn thịt cá, chỉ ăn bát cơm với quả cà. A Mẫn tìm nơi vắng vẻ uống Thần Châu Đơn luyện nội công tâm pháp, được ba tháng Thần Đơn cũng không còn A Mẫn thấy người khỏe mạnh lạ lùng bằng nhổ thử một gốc cây bằng bắp chân như nhổ cây bắp. A Mẫn kinh ngạc vô cùng như không tin ở đôi mắt mình, bằng nhổ cây to lớn hơn nhẹ như không. A Mẫn đến lúc nầy mới tin mình có sức mạnh vô cùng.

    – A Mẫn xuống thị trấn nghe người ta xì xào sắp có chiến tranh, vì quân giặc Nhà Thương đã kéo sát biên giới. Hùng Thục Lang đã chuẩn bị quân binh sẵn sàng chiến đấu. A Mẫn nhớ lại lời chỉ dạy của cụ Ông liền đến biên giới, đi mấy ngày đêm không hề ngủ nghỉ cuối cùng cũng đến được biên giới. A Mẫn nghe bên kia ngựa hí vang trời. A Mẫn liền leo lên một sừng đồi tìm vị trí thích hợp để cho quân giặc dễ nghe thấy. Bằng rút đao Thần ra ngồi mài trên phiến đá, tức thời tiếng mài Đao rung trời chuyển đất vang dội núi rừng.

    – Tướng quân Thương tên là Vu Đà đang luyện tập quân binh, chờ lệnh đưa quân vào tấn công nước Văn Lang. Nghe tiếng mài Đao rung trời chuyển đất không hiểu là chuyện gì. Bằng cho quân binh đi thị sát xem chuyện gì đã xảy ra.

    – Quân binh phi ngựa đến sườn đồi dọ thám nơi phát ra tiếng động dữ dội, thời thấy một người tiều phu trai trẻ đang mài đao trên đá, phát ra tiếng động ầm ầm. Rền trời rền đất thời vô cùng kinh hãi. Phi ngựa về báo lại cho chủ soái. Chủ soái tướng quân nhà thương là Hầu Đôn nghe quân binh báo như vậy thời kinh hãi nhưng chưa tin lắm bằng cùng tướng quân Vu Đà đến sườn đồi nơi phát ra tiếng động xem thử thiệt hư ra sao. Chủ Soái Hầu Đôn cùng tướng quân Vu Đà nhìn thấy một chàng trai trẻ đang mài đao tiếng mài đao vang động dậy núi rừng, thời khiếp vía kinh hồn. Nghĩ một người dân tầm thường mà cũng có Thần Thông như vậy. Ôi nước Văn Lang quả thật là nhân tài khắp nơi khắp chốn, không thể nào lường hết được, liền hạ trai rút lui binh, không còn chiếm đóng nơi biên giới nữa.

    – A Mẫn thấy quân Thương đường bộ rút hết. Chỉ còn cánh quân binh đường thủy, do tướng soái Dương Phàm chỉ huy nơi khúc sông gần thượng nguồn thuyền bè qua lại lớp lớp. A Mẫn đến chỗ khúc sông ấy quăng lưới bắt cá, lưới chài vừa quăn ra bỗng to lớn phủ muốn hết cả lòng sông. A Mẫn niệm chú kéo lưới, tôm cá cả tấn chất đống trên bờ. Thuyền dọ thám quân Thương nhìn thấy kinh hồn bạt vía. Cá tôm bắt xong liền thả hết xuống sông.

    – Tướng Soái chỉ huy thủy quân là Dương Phàm, nghe quân binh dọ thám về báo có người chài lưới tài giỏi như vậy liền kinh hãi, Dương Phàm chọn vài ba tướng lĩnh tài giỏi đi thuyền con đến xem thật hư. Khi chứng kiến tận mắt A Mẫn quăng lưới bắt cá, Dương Phàm tái mặt nói chỉ là người dân chài lưới bình thường, mà tài nghệ đến kinh hồn bạt vía như vậy thời làm sao xâm lược được nước Văn Lang. Bằng thu quân trở về đất bạc liền tâu lên Vua Thiên Tử Tổ Dân. Bản tấu trình nói nước Văn Lang nhân tài như nấm chỉ một người dân chài cũng đã làm khiếp hồn khiếp vía quân binh. Chỉ cần quăn mẻ lưới là phủ hết thuyền quân binh.

    – Dương Phàm vừa tấu trình xong, thời có một vị tướng soái vào tấu trình là Hầu Đôn. Hầu Đôn tấu trình Thưa Bệ Hạ nước Văn Lang không thể suy lường, chỉ nội một người tiều phu khi mài đao thần lực phát ra rung chuyển đất trời. Làm cho quân binh kinh sợ. Nước Văn Lang quả là nhân tài như rừng khó mà xâm lược nỗi e bỏ mạng có đi mà không có về. Đưa quân xâm lược nước Văn Lang khác nào lùa dê vào miệng hổ.

    – Vua Tổ Dân nghe hai vị nguyên soái tâu như vậy lấy làm khiếp hãi run sợ, từ đó không dám nói tới xâm lược nước Văn Lang nữa.

    – Nói về A Mẫn thấy quân Thương rút lui không còn một tên binh lính, liền trở về quê hương Đồng Văn, An Trạch Tây Châu. Giúp dân phát rẫy khai hoang vỡ hóa đất đai thổ canh rộng lớn ngô bắp, lúa thóc đầy đồng. Tiếng tăm A Mẫn vang lừng.

    – Nói về Hùng Thục Lang, biết được A Mẫn đẩy lui quân giặc, liền ban cho vàng, bạc, lụa là, châu báu mười xe. Phong cho chức tước làm Đại Nhân Tri Huyện An Trạch. Tây Trung Châu. Thế cho Đại Nhân Tri Huyện Phùng Lương tuổi già về hưu.

    – Phùng Lương Đại Nhân Tri Huyện có người con gái xinh đẹp tên là Hạnh Châu gả cho A Mẫn.

    – A Mẫn từ đó sống cuộc đời hạnh phúc bên người vợ xinh đẹp, hết lòng vì dân vì nước. Hạnh Châu sanh được sáu người con. Khi mãn kiếp trần gian hai vợ chồng A Mẫn siêu sanh về Non Tiên, Cực Lạc.
     
    Đang tải...


  2. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    109. THIÊN ẤN

    Ở vào thời Hồng Hoang, khi tuổi thọ con người tăng lên tám mươi tuổi, thọ một trăm tuổi, yểu sáu mươi tuổi là thời kỳ Ma, Quỉ hưng thịnh, có nhiều làng Ma làng Quỉ khắp mọi nơi. Ma, Quỉ đánh nhau nổi giông nổi gió, khắp mặt địa cầu không chỗ nào yên.

    – Khi ấy nơi Làng Phù Sa dân chúng phải nói là rất đông, đông hơn cả một xã, hàng năm đủ loại cúng nào là cúng Thần, cúng Ma, cúng Quỉ, cho đến cúng yêu tinh quỉ dữ, ở mới yên. Bằng không thời chúng quấy phá, không những chúng bắt hết gà, vịt, trâu, bò, dê, heo, ngựa, mà còn nhập hồn vào xác người, làm cho con người điên loạn, vì thế mà con người vô cùng lo sợ.

    – Khi ấy có một gia đình lập bàn thờ, thờ Trời đó là gia đình Ông Bà Tân Gia Bá. Ông Bà Tân Gia Bá sanh được một người con trai tên là Gia Khá, gia đình Gia khá nghèo vốn bửa đói bửa no, ở vào thời điểm ấy thời tiết khắc nghiệt nắng hạn suốt ba năm, không trồng được ngô, khoai, lúa, nói chung là không khô hạn không trồng được ngũ cốc nên đói cả làng. Nhà Gia Khá vốn đã nghèo lại hạn suốt ba năm không lấy đâu ra hạt thóc hạt ngô để mà ăn. Tuy mới mười tuổi nhưng Khá cũng theo cha vào rừng hái lượm, hoa quả, đào củ mài, đem về nhà cho cả gia đình ăn.

    – Dân chúng Làng Phù Sa do hạn hán kéo dài không trồng gì được, đồng khô cỏ cháy bửa đói bửa no, trâu, bò, heo, dê, gà, vịt cũng chết theo, nếu con nào còn sống cũng ốm tong ốm teo lấy đâu ra mà cúng. Ma, Quỉ thường làm mưa làm gió nhưng cơ trời hạn hán chúng cũng đành bó tay không làm mưa làm gió gì được. Cũng phải đành đói lây vì dân chúng không còn gì để cúng.

    – Ma thời ít quậy phá, nhưng Quỉ thời lại khác quấy phá dân lành không lúc nào yên, dân làng chỉ biết khóc than đâu có cách gì khác.

    – Một hôm có bầy yêu tinh từ Ngạo Lai kéo đến nói với dân Làng nếu Yêu Tinh tôi làm cho mưa thời dân làng phải dâng nạp người sống để cúng. Nhưng người đó phải sanh vào giờ Dậu tháng Dậu, năm Dậu, chỉ mười tuổi trở lại không quá mười hai, cùng một con heo, con bò, con dê, con gà, con vịt đủ những lễ vật ấy thời dân Làng không lo chi nước.

    Dân Làng bị hạn ba năm thiếu nước uống có người đã bỏ mạng nói chi đến chuyện canh tác trồng hoa màu. Lũ Yêu Tinh nói Trời còn hạn thêm một năm nữa. Dân làng nghe xong kinh hoảng nếu hạn thêm một năm nữa chết hết cả Làng. Bằng ưng thuận theo lời của Yêu Tinh.

    – Lũ Yêu Tinh về tâu với chúa Yêu Tinh loài người đã chấp nhận lời của Yêu Tinh Ta. Chúa Yêu Tinh nói Ta chỉ uống máu ăn thịt người sanh vào giờ Dậu, tháng Dậu, năm Dậu, để tu luyện pháp thuật thần thông, còn các ngươi thời nhận lấy phẩm vật heo, bò, dê, gà, vịt mà thưởng thức. Lũ Yêu Tinh mừng rỡ reo hò.

    – Chúa Yêu Tinh liền bay đến Làng Phù Sa, hô mây gọi gió, tức thời mây đen phủ kín mịt trời, cuồng phong, sấm sét nổi lên ầm ầm sau đó là trận mưa như trút ngập đồng ngập sá. Dân chúng mừng quá nhưng cũng rất đau lòng, vì phải nạp mạng cho Yêu Tinh một người.

    – Dân chúng tìm người có tuổi Dậu sanh vào tháng Dậu, năm Dậu tìm mãi phát hiện ra chính là con Ông Bà Tân Gia Bá, cậu con trai tên Gia Khá phải nạp mạng cho Yêu Tinh.

    – Đúng vào giờ dậu tối mai Gia Khá sẽ không còn trên đời vào bụng con Chúa Quỷ Yêu Tinh, mấy tháng nay người trong làng đói, khác chết cũng khá đông, đối với cái chết thời không gì đáng nói nếu hạn thêm năm nữa thời cả làng chết hết, nhưng cái chết nạp mạng cho yêu tinh ăn thịt thời đau đớn thê thảm vô cùng. Đêm hôm ấy Bà Tần Gia Bá thắp hương cầu Trời lạy sáng đêm không ngủ. Khấn nguyện rằng con chỉ có một đứa con duy nhất sắp bị Chúa Quỷ Yêu Tinh ăn thịt coi như nhà Họ Tân Gia Bá đi vào tuyệt tự. Gia đình con thờ Trời gần ba mươi năm. Xin Trời gia hộ cứu giúp.

    – Nói về Gia Khá sợ Yêu Tinh ăn thịt quỳ lạy theo mẹ khóc lóc sáng đêm Gia Khá mệt quá ngủ đi lúc nào không biết. Trong lúc mơ màng Khá thấy một người uy nghi hào quang rực rỡ. Nói rằng công lao thờ Trời của Cha Mẹ con gần ba mươi năm nên Ta không thể để cho gia đình tuyệt tự. Ta vân lệnh Đức Chí Tôn Thiên Đế xuống trần cứu giúp con, con đưa bàn tay đây cho Ta. Ta vẽ Thiên Ấn vào lòng bàn tay con Ma, Quỉ, Yêu Tinh nhìn thấy Thiên Ấn liền tan biến hết. Chúng sợ hãi và không bao giờ đến Làng nầy nữa.

    – Con vẫn để cho dân Làng đem con dâng cúng cho yêu tin. Sau nầy dân chúng Làng Phù Sa sẽ đi theo con hết. Con trở thành chúa Làng Vua một vùng rộng lớn. Cơ Trời niên hạn kéo dài nắng hạn đã hết mưa thuận gió hòa dân chúng sẽ sống trong yên bình no cơm ấm áo. Nói xong vị Thần phất tay một cái tức thời hai lòng bàn tay của Khá có hình quả tim, trong quả tim có hình thập giá. Có năm nút từ trên xuống dưới. Nút thứ năm có nền vuông, tròn.

    – Chỉ một mình Gia Khá nhìn thấy không ai có thể nhìn thấy, Gia Khá nhìn thấy Thiên Ấn trong lòng hai bàn tay thời không còn lo sợ khóc lóc nữa mà tươi cười vui vẻ. Ông Bà Tân Gia Bá lấy làm lạ, cả xóm cũng kinh ngạc không kém. Không lẽ Gia Khá không sợ Yêu Tinh ăn thịt sao mới đây khóc lóc cả đêm lẫn ngày.

    – Ánh nắng chiều dần dần lịm tắt hoàng hôn buông xuống màn đêm bao phủ khắp đất trời, nơi đâu cũng thấy một màu đen, chớp mắt giờ Dậu cũng sắp đến. Những ngọn đuốc sáng bừng soi bóng Khá đang ngồi cúi mặt ai nhìn thấy cũng đứt ruột có người không cầm được giọt nước mắt, xung quanh Khá nào là bò, heo, dê, gà, vịt đã quay chín bốc mùi thơm phức mùi gia vị. Ai nhìn thấy không thèm mới lạ.

    Dân chúng không ai dám thò đầu ra để nhìn. Vì sợ Yêu Tinh bắt mất, giờ Dậu đã tới, trên bầu trời mây đen cuồn cuộn, một trận gió nổi lên làm cho đèn đuốc tắt ngúm bóng Yêu Tinh chập chờn. Trên không chúa Yêu Tinh bay xuống nhìn vào con mồi lè lưỡi liếm mép, nanh vuốt dài thoàng thấy mà ghê. hai con mắt như hai ngọn đèn pha Chúa Yêu Tinh dơ tay chụp bắt Gia Khá. Gia Khá lấy hết can đảm sè hai lòng bàn tay về Chúa Quỷ Yêu Tinh tức thời hai đạo hào quang từ Thiên Ấn phóng ra vang lên những tiếng sấm Chúa Yêu Tinh sợ quá biến mất lũ yêu tinh vừa nhìn thấy Thiên Ấn thời đau nhức như kim đâm vô cùng kinh hãi chịu không nổi bỏ chạy biến mất.

    – Khá lấy làm khoái chí, bụng lại đói cồn cào nghe mùi thịt nướng từ xưa tới nay mấy khi được ăn. Nhìn bê quay, heo quay, dê quay, gà, vịt quay, vẫn còn bốc hơi Khá không bỏ lỡ cơ hội ăn một ruột. Nào thịt bò, thịt heo, thịt dê, thịt gà, thịt vịt no nê. Khá đánh một giấc cho tới sáng.

    Chừng nghe tiếng ồn ào Khá mở mắt ra thấy Cha Mẹ bà con lối xóm vây quanh nhìn Khá chăm chăm. Khá bật ngồi dậy Ông Bà Tân Gia Bá mừng quá thì ra con chưa chết. Bà con Làng xóm ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra.

    Khá nói bà con hãy yên tâm lũ yêu tinh không dám đến đây nữa đâu. Từ đây về sau mưa thuận gió hòa. Không còn sợ nắng hạn nữa. Khá dơ hai bàn tay ra nói bà con Làng xóm có thấy gì không. Trong lòng bàn tay có Thiên Ấn đấy. Không những Yêu Tinh mà Ma Quỉ nhìn thấy cũng bỏ chạy. Nhưng nào ai có thấy Thiên Ấn gì đâu chỉ thấy hai lòng bàn tay không của Gia Khá. Dân Làng chỉ biết Yêu Tinh Quỷ Dữ không ăn thịt được Khá mà còn bỏ chạy. Cho Khá là con Trời nên Quỷ, Ma, Yêu Tinh mới không ăn thịt được. Liền suy tôn Khá lên làm chúa Làng.

    – Khá ra lệnh cho dân chúng chia phần bê quay, heo quay, dê quay, gà quay, vịt quay cho mỗi gia đình. Khá họa Thiên Ấn treo trước cổng Làng từ đó cả Quỉ lẫn Ma cũng như Yêu Tinh không dám tới quấy phá dân làng nữa. Làng Phù Sa yên ổn bình yên no cơm ấm áo dân số phát triển rất nhanh, các Làng xa gần theo về sau nầy trở thành Bộ Lạc Da Ba hùng mạnh.
     
  3. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    110. SỰ TÍCH THÀNH CỔ LOA

    Nói về thời xa xưa Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc, trong đó có nước Việt Trung Nguyên.

    Nước Việt Trung Nguyên chính là Bắc Văn Lang, cha con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy, đến đời Việt Vương Câu Tiễn, thời nước Việt Trung Nguyên đã quy thuận Nhà Chu. Ở vào thời Chu Nguyên Vương. Đến cuối đời Việt Vương Câu Tiễn thời nước Việt Trung Nguyên mất về tay Tần Thủy Hoàng.

    – Ở thời Việt Vương Câu Tiễn quân binh phần lớn nằm trong tay họ Triệu. Nước Việt Trung Nguyên mất về tay quân Tần. Tàn dư quân Việt Trung Nguyên chạy vào Trung Văn Lang chiếm lĩnh một vùng rộng lớn, vùng Đông Hải, Quân Triệu Đà. Còn các cánh quân họ Triệu khác thất bại chạy tản lạc khắp nơi.

    – Các cánh quân họ Triệu chạy tản lạc khắp nơi, khi biết Triệu Đà đã có đất dụng võ chiếm lĩnh Đông Nam Hải Trung Văn Lang, liền kéo đến gia nhập với quân Triệu Đà. Quân Triệu Đà vì thế lớn mạnh như thổi không bao lâu lên đến hơn mười vạn quân. Dân Chúng vùng Nam Hải cũng như các vùng khác ở Trung Văn Lang theo về rất đông quân Triệu vì thế trở nên hùng mạnh, có hơn mười lăm vạn quân.

    – Khi ấy con cháu Tây Thục Vương, là Thục Phán ở phía Tây Nam, Văn Lang nổi danh như cồn vì có Cao Lỗ theo trợ giúp. Và nhiều tướng tài khác như Dương Sàn, Tây Lương, Dương Lương. Cao Lỗ là nhà khoa học, nhà binh pháp kỳ tài. Lại hiểu rõ cách luyện thép tốt nhất chế tạo mũi tên bắn xuyên thủng áo giáp đồng mũ đồng.

    – Thục Phán là con cháu nhiều đời của Tây Thục Vương. Tây Thục Vương đã từng đánh bại quân Ân xâm lược lần thứ nhất thời Hùng Tiên Lang. Mẹ Thục Phán là Công Chúa Mị Hoa con của Hùng Nghị Vương anh em với Hùng Duệ Vương. Thục Phán kêu Hùng Duệ Vương bằng cậu.

    – Thục Phán họ An rất thông minh cơ trí hơn người thạo nghề cung, nỏ. Có thể đứng xa một trăm mét bắn trúng vào hồng tâm năm 26 tuổi Thục Phán trở thành một vị Tây Vương.

    – Có lẽ niên đại Hùng Vương sắp kết thúc, nên đến đời Hùng Duệ Vương luôn ở trên đà suy vong. Năm giáp thìn 257 trước công nguyên nước Văn Lang chỉ còn lại Nam Văn Lang là nằm trong vòng kiểm soát của Hùng Duệ Vương. Nam Văn Lang liên tiếp xảy ra mất mùa dân chúng khốn khổ đói kém, giặc đói, giặc cướp, giặc nội loạn thường nổi lên. Nhất là nạn quan liêu, nạn tham nhũng, giặc ngoại xâm tìm trăm phương nghìn kế thôn tính Nam Văn Lang. Dân chúng khổ chồng lên khổ, họa chồng lên họa, trăm họ lầm than mệt mỏi mong cầu có sự thay đổi.

    – Hùng Duệ Vương không có con trai nối dõi luôn buồn phiền lấy rượu ca múa hát thay thế, thường lơ là việc triều chính, các quan thi nhau mà vơ mà vét khiến lòng dân bất mãn vô cùng.

    – Thục Phán khi ấy ra sức chống giặc Tần. giặc Triệu từng ngày xâm lấn đất đai. Công khổ nhọc biết bao, nhiều tướng tài bỏ mạng nơi sa trường.

    – Bỗng một hôm Thục Phán nghe Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho cho con rể là Tản Viên Sơn Thánh, thời hét lớn. Ta là con cháu trong nhà, biết bao công lao cực khổ giữ gìn tất đất của Ông Cha. Không nhường ngôi cho Ta, mà lại nhường ngôi cho người ngoài. Ta phải giành lấy không thể để mất vào tay người khác.

    – Trước tình hình như vậy các tướng lĩnh đều hợp lại nói với Thục Phán.

    Bẩm Thục Vương hãy kéo quân vào kinh đô Văn Lang ép Vua Hùng nhường ngôi. Hùng Duệ Vương thấy quân binh Thục Vương kéo về cung thành đông như kiến lấy làm kinh hãi, bằng cho người mời Sơn Tinh đến nói. Ta sẽ nhường ngôi cho con, con hãy hóa phép đánh tan quân Thục Phán.

    – Sơn Tinh thấu rõ cơ Trời bằng tâu rằng. Con đủ sức đánh tan quân binh Thục Phán. Nhưng Ý Trời không cho làm thế đành phải thuận theo Ý Trời.

    – Hùng Duệ Vương nghe Tản Viên Sơn Thánh nói thế, bằng nói như vậy Cha phải nhường ngôi cho Thục Phán.

    Sơn Tinh nói muôn tâu Phụ Hoàng đúng như vậy. Dù cho Phụ Hoàng triệu hết quân đóng phía Nam Văn Lang, quân đóng phía Đông Nam Văn lang lên đến 20 vạn quân cũng không đánh lại quân Thục Phán đâu. Vì Thục Phán đã ngấm ngầm chế tạo mũi tên thép, bắn xuyên thủng áo giáp đồng, mũ đồng. Trở thành những nỏ Thần vô cùng lợi hại.

    – Hơn nữa khi xảy ra chiến tranh, nhất là anh em tương tàn, nồi da xáo thịt. Không bên nào có lợi sự hi sinh chết chóc vô ích. Lưỡng hổ tranh nhau thợ săn đắp lợi. Quân Triệu đang rình rập, quân Tần trăm mưu nghìn kế nuốt trọn đất nước Văn Lang. Chi bằng nhường ngôi cho Thục Phán là thuận theo ý Trời.

    – Hùng Duệ Vương không còn con đường nào khác, mở cổng thành đón quân Thục Phán, rồi nhường ngôi cho Thục Phán. Thục Phán quá bất ngờ trước sự thay đổi ý định của Hùng Duệ Vương, không nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh mà nhường ngôi cho mình.

    – Thục Phán chính thức lên ngôi báu, chuyển đổi niên đại Hùng Vương thành niên hiệu An Dương Vương, đặt tên nước là Âu Lạc.

    – Cùng vào thời gian ấy quân Tần đã gồm thâu lục quốc Việt Trung Nguyên đã thuộc về nhà Tần, với tham vọng chiếm trọn nước Văn Lang.

    – Năm 218 trước công nguyên Vua Tần sai tướng Đồ Thư thống lãnh 50 vạn quân đánh tiến vào Trung Văn Lang ồ ạt thế mạnh như chẻ tre. Quân Tần giáp trụ đầy mình, nón đồng phủ kín, nào kị binh, bộ binh, chiến xa, trang bị ná phóng đá, xe chống tên vô cùng lợi hại. Chia ra làm hai đạo quân, một đạo quân tiến đánh Triệu Đà đang ở Nam Hải. Đạo Quân chủ lực do Thống Soái Đồ Thư trực tiếp chỉ huy thống lãnh 30 vạn quân tiến đánh Nam Văn Lang.

    – Trước thế giặc hung hãn An Dương Vương ra lệnh cho Dương Sàn cùng Tây Lương, bình tỉnh vừa đánh vừa chủ động vừa rút lui. Dân chúng ở mọi Châu mọi vùng miền tạm thời duy cư sâu vào Nam Văn Lang, theo kế sách ( Vườn không nhà trống)

    – Giặc Tần đi đến đâu cũng không thấy dân, nên không cướp bóc được gì, chờ cho quân Tần chia ra nhiều nhánh tiến sâu vào các châu quận địa phận Nam Văn Lang. Thống soái Dương Sàn, cùng phó thống soái Tây Lương, cho quân Văn Lang mai phục những nơi địa hình hiểm trở nơi sông suối, đèo, dốc mai phục, bất ngờ tấn công quân Tần. Đại quân di chuyển nhanh chóng, nhất là đội quân cung nỏ, phóng lao tinh nhuệ, cũng như áp dụng chiến thuật bắn tỉa, dồn quân Tần vào nơi phục kích, dùng nỏ tên hạ gục chúng.

    – Với chiến thuật trên kéo dài trận chiến, dưới dồn ép quân Tần vào chỗ hiểm nghèo quân Tần chết vô số kể, lại không cướp bóc được gì của dân. Đứng trước nguy cơ thiếu lương thực. Quân Tần không làm chi được, tiến đánh không xong mà lùi cũng bị kẹt, tình thế vô cùng bất lợi, càng kéo dài càng nguy, hơn nữa quân dân Bách Việt tinh thần yêu nước quật khởi rất cao. Có thể nói là không sao quân Tần đánh bại được.

    – 211 trước công nguyên Tướng Đồ Thư quyết định rút lui về Việt Trung Nguyên, không tiến đánh Nam Văn Lang nữa. Quân Tần rút lui vừa tới nơi hiểm trở. An Dương Vương trực tiếp thống lãnh đại quân xạ thủ đuổi theo truy kích, quân Tần quay lại chống trả. Quân Âu Lạc nhiều ngã kéo tới xáp chiến. Quân Tần bị động, lại thêm thiếu lương thực nhiều ngày đã mệt mỏi, tinh thần chiến đấu không còn cao. Quân Âu Lạc thời khí thế dâng trào. Những mũi tên thép bắn ra từ quân Âu Lạc. Xuyên thủng giáp thủng nón đồng quân Tần chết như rạ. Tướng giặc Đồ Thư chỉ huy la hét. An Dương Vương liền bắn một phát tên thép xé gió vút nhanh cắm thẳng vào cổ tướng giặc Đồ Thư. Thống soái Đồ Thư tướng giặc ngã nhào. An Dương Vương nhanh như con mèo phi ngựa lao tới vớt cho một đao, tướng Đồ Thư đầu lìa khỏi cổ.

    – Đại quân binh mã nhà Tần như rắn mất đầu khiếp kinh hốt hoảng tháo chạy dẫm đạp lên nhau lớp chết lớp bị thương vô số những quân binh sống sót chạy về Việt Trung Nguyên Bắc Văn Lang hú hồn hú vía.

    – Sau lễ ăn mừng đánh đuổi quân Tần. An Dương Vương chọn đất Phong Khê (nay là vùng Cổ Loa) lập kinh đô. Phòng thủ trước âm mưu xâm lược từ phương bắc.

    – Khu vực chọn để đắp thành là một quả đồi Rắn. Quân binh cùng dân chúng ra sức hì hục đắp lũy đào hào hết ngày nọ sang ngày kia. Thành rộng hơn nghìn trượng, gồm lớp tường thành quây tròn lại với nhau giống hình trôn ốc. Dân quen gọi là loa thành. Việc xây dựng An Dương Vương ủy quyền cho vị tướng thân tín là Cao Lỗ. Vị Tướng học rộng hiểu nhiều, lại lắm biệt tài không ai sánh kịp toàn quyền xây dựng.

    – Kiến trúc thành cổ loa vô cùng phức tạp xen giữa khu chung cư là lũy hào chiến đấu. Nền móng của tòa thành vừa có nước vừa có thành, lũy. Nên việc đào, đắp vô cùng công phu. Với sức người sỏi đá cũng thành cơm, việc khó khăn chi cũng làm nổi. Tòa thành cao lần, hào càng sâu thẳm. An Dương Vương cùng các quan đến xem lấy làm hài lòng. Cho rằng một tòa thành có thể đứng vững muôn đời, không ai có thể làm cho nó sụp đổ được, mưa bão sấm sét không lay chuyển, quân giặc cũng không thể nào phá nổi.

    – Nhưng ai ngờ sau một đêm, cả tường thành quanh co đều sụp đổ xuống như đất bằng. An Dương Vương đến xem vô cùng tức giận. Cho người dò hỏi chúng dân gần đó cũng như quân dân đắp lũy xây thành kể lại rằng ban đêm họ nghe thấy những bước chân rầm rập có thể nói là rất đông khắp các ngã kéo đến, với những tiếng xì xào. Quân dân sợ quá nên không dám ra nhìn, chỉ nghe những tiếng đổ ầm ầm như sấm dậy.

    – An Dương Vương sai các tướng lĩnh đốc thúc quân dân đắp lại, nhưng hổi ôi xây lên rồi lại đổ xuống chỉ trong vòng một đêm. An Dương Vương lại sai người dọ hỏi, thời dân chúng vẫn kể y như những lời kể trước, ban đêm họ nghe thấy rầm rầm như thiên binh vạn mã đi qua, rồi lại nghe những tiếng huỳnh huỵch ầm ầm đùng đùng như sấm dậy.

    – Dân chúng nói đã lâu rồi, ở núi Thất Diệu có con Ma Quỷ hiện con gà trắng đêm đêm hiện về phá quấy phá cuộc sống an lành dân chúng, nhất là gần đây quấy phá dân quân đắp thành. Những người có trách nhiệm trong công cuộc xây thành nghe dân địa phương nói thế thời lấy làm chán nản sợ hãi.

    – An Dương Vương không nản lòng, Vua động viên ba quân tướng sĩ cũng như những người có trách nhiệm đôn đốc xây thành nhất tâm không bỏ cuộc, nhất là động viên Cao Lỗ tiếp tục công trình. An Dương Vương nói với quân binh cùng dân chúng “sống chết có số ma quỷ làm gì nổi chúng ta”

    – An Dương Lập đàn cầu Trời phù hộ đắp cho được loa thành. Cao Lỗ nói hãy cầu Thần Kim Quy sẽ có cách chỉ cho Bệ Hạ xây thành. An Dương Vương theo lời Cao Lỗ vừa cầu Trời vừa cầu Thần Kim Quy. Quả đúng như lời Cao Lỗ nói Thần Kim Quy xuất hiện chắp tay bái lạy An

    Dương Vương rồi nói. Thần là Thần Kim Quy, ở vào thời dựng nước. Thần được Cao Tổ cứu sống nên nhớ mãi ơn người, nay có Cao Lỗ con cháu nhiều đời của Cao Tổ mách bảo Bệ Hạ cầu Thần, Thần liền xuất hiện.

    – Tâu Bệ Hạ ở núi Thất Diệu có một con Gà Trắng to lớn Hồn của con Gà Trắng chính là Hồn Hồ Tinh có phép biến hóa khôn lường, nó thường hảm hại dân lành nhất là những cô gái đẹp, cũng như những khách trọ trong vùng nầy.

    – Ở vào thời dựng nước Bách Việt Văn Lang giết chết không biết bao nhiêu là yêu tinh quỷ dữ trong đó có họ nhà Hồ Tinh. Đến thời Hậu Hùng Vương thời Hùng Vân Lang yêu tinh lại nổi lên quấy phá, bị quân dân Bách Việt tiêu diệt chôn lấp dưới núi Thất Diệu có đến hàng vạn, những u hồn yêu tinh quỷ quái đến nay vẫn chưa tan. Lẩn khuất trong khe đá, ở hang sâu có cơ hội là phục thù.

    – Con Gà Trắng sống ở núi Thất Diệu vì có chơn dương rất cao nên bị Hồ Tinh cướp xác tu luyện thành Tinh, có pháp thuật thần thông biến hóa khôn lường, tụ tập những linh hồn tiểu yêu tiểu quỷ. Chúng có mối thù truyền kiếp với Bách Việt Văn Lang nay là Bách Việt Âu Lạc.

    – Chính con Gà Trắng nầy điều động những u hồn đến chân thành xúm nhau phá đổ tường thành gần sáng lại kéo về núi. Nếu không có cách thời không dễ gì tiêu diệt được chúng. Hồ Tinh Gà Trắng vốn thích gái. Thường hiện ra chàng trai, đến nhà lão chủ quán, ân ái với con gái lão chủ quán gần chân núi Thất Diệu.

    – Bệ Hạ muốn xây được thành thời phải trừ khử cho được con Gà Trắng, và giết đứa con gái của lão chủ quán kia đi. Con gái của lão chủ quán chính là Hồ Tinh Cái đầu thai. Thần Kim Quy tấu trình xong thời biến mất.

    – Nghe theo lời Thần Kim Quy mách bảo An Dương Vương liền sai vài viên tướng có võ công cao cường, dẫn quân vào rừng mai phục. Những mũi tên tẩm máu chó mực. An Dương Vương cùng hai vị tướng có tài trừ yêu diệt quỷ cải trang làm khách bộ hành, đến quán xin ngủ trọ qua đêm viện cớ là trời sắp tối. Chủ quán từ chối lấy cớ nói là trong núi có nhiều yêu quái hay làm hại khách trọ.

    – An Dương Vương cùng hai vị tướng nói to nói nhỏ năn nỉ chủ quán, cũng như trả vàng bạc với giá cao, cuối cùng chủ quán đành phải chiều theo ba vị khách lạ.

    – Đêm đến An Dương cùng hai vị tướng nghe thấy bước chân rầm rập mỗi lúc một rộn ràng. Một con Gà Trắng to lớn xuất hiện hóa ra chàng trai lao nhanh vào buồn người con gái ông chủ quán. Theo lời dặn của Thần Kim Quy trời hừng sáng mới ra tay.

    – An Dương cùng hai vị tướng vẫn chờ đợi tiếng gà đã gáy, không bao lâu nơi phương đông hừng sáng. Liền thấy một con Gà Trắng từ trong phòng con gái ông chủ quán đi ra, có lẽ suốt đêm thỏa giấc vu sơn chàng trai đã hiện nguyên hình là con Gà Trắng, thần thông pháp thuật đã giảm sút. Đây chính là cơ hội để giết chết con Gà Trắng.

    – Không thể bỏ lỡ cơ hội An Dương Vương liền bắn một phát tên trúng ngay vào con Gà. Con Gà không chết kêu quát quát cất cánh bay lên, hai vị tướng liền phối hợp nhau nhanh như chớp phi tới chém mỗi người mỗi đao giết chết con Gà Trắng. Con Gà Trắng vừa chết thời người con gái ông chủ quán cũng lăn đùng ra chết. Hóa thành con chim lớn từ trong phòng bay ra. An Dương Vương liền bắn một phát con chim trúng tên chết ngay lập tức.

    – An Dương Vương ra lệnh cho quân binh đuổi theo đám u hồn yêu tinh mà bắn. Cứ một loạt tên bay đi, liền nghe thấy tiếng Ma kêu Quỷ khóc vô cùng rùng rợn. Tiếng thét hãi hùng mỗi lúc một thưa dần.

    – Đến khi mặt trời mọc thời yêu khí tan biến hết, quân binh theo lệnh của An Dương Vương đào được rất nhiều hài cốt bỏ vào từng đống, chất thành đống cao, đốt đi rồi đổ tro xuống suối, không cho u hồn trụ bám tan biến hết.

    – Yêu Ma đã trừ xong An Dương Vương ra lệnh cho quân, dân, cùng binh lính xây lại thành. Dưới sự chỉ huy của Cao Lỗ dùng những tảng đá lớn chèn vào chân thành. Lũy Thành xây đến đâu, hệ thống sông đào đến đó. Tạo thành vùng khép kín, thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ Thủy Binh, Bộ Binh, Kỵ Binh, hùng mạnh. Cuối cùng thành Cổ Loa cũng xây xong. Vua, Vương, Quan, nhân dân vui mừng khôn xiết thành Cổ Loa rộng tới nghìn trượng, Tường thành vừa dày vừa cao, sông hào vừa sâu vừa rộng. xoáy tròn như hình trôn ốc nên gọi là Loa Thành.

    – Thành Cổ Loa là một công trình Văn Hóa vào loại phi thường nhất trong lịch sử Văn Minh nhân loại vào thời cổ đại của người Việt.

    – Thành Cổ Loa có chín vòng, chu vi vòng ngoài cùng 8km2 vòng giữa 6,5 km2. Vòng trong cùng 1,6 km2 Diện tích trung tâm thành lên tới 2km2 lũy cao 4, 5 m, có chỗ cao đến 8m đến 12 m. Mặt lũy rộng đến 6- 12 m chân lũy tường thành rộng đến 20- đến 30 m. Đây là một duy chứng, di tích lịch sử quý báu nhất. Nhiều lớp tường cổ vẫn còn.

    – Nói về An Dương Vương xây xong thành Cổ Loa ra sức tổ chức quân đội, tập dợt chiến đấu. Tướng Lĩnh và Binh Lính hàng ngày cần mẫn thao luyện.

    – Những đội thợ chuyên rèn vũ khí, sản xuất hàng loạt mũi tên đồng. Cũng như, lao, côn, kiếm, thương, đao, giáo, mác đều đạt đến kỹ thuật cao.

    Nhất là kỹ thuật chế tạo mũi tên thép là cả sự bí mật của Âu Lạc. Chỉ riêng Cao Lỗ mới chế tạo được những mũi tên thép nầy, trên toàn thế giới ở vào thời kỳ ấy chưa có nước nào sản xuất được.

    – Cao Lỗ không những chế tạo ra mũi tên thép, mà còn phát minh ra liên châu nỏ thần. Loại vũ khí bắn ra một lần hàng trăm mũi vô cùng lợi hại. Tên đồng, tên sắt, tên thép bay thẳng vào mục tiêu.

    – An Dương Vương làm chủ hai thứ vũ khí vô cùng lợi hại đó là mũi tên phép, và nỏ thần liên châu.

    – An Dương Vương đặc nỏ Thần Liên Châu vào những chỗ trọng yếu loa thành. Để thử sự lợi hại nỏ Thần Liên Châu bằng ra lệnh cho Cao Lỗ bắn thử. Đám mưa tên dày đặc bắn ra, sức mạnh thật kinh hồn, hàng trăm mũi tên xé gió đến rợn người. An Dương Vương lấy làm hài lòng lắm, không hết lời khen tài bác học Cao Lỗ.

    * Đây nói về Hồ Tinh Gà Trắng cùng con gái Ông Chủ quán chết. Thân Gà tuy chết nhưng Linh Hồn Hồ Tinh Gà Trắng vẫn còn do tu luyện nghìn năm Linh Hồn chúng vô cùng lợi hại bám sát An Dương Vương, có cơ hội là báo thù. Hồ Tinh Gà Trắng nói với Hồ Tinh cái muốn diệt được An Dương Vương thời chúng Ta phải đầu thai làm người một đàng làm con Triệu Đà, một đàng làm con An Dương Vương. Hai ta sẽ có cơ hội trả thù. Thế là Hồ Tinh Gà Trắng đầu thai làm con Triệu Đà trở thành Trọng Thủy. Hồ Tinh cái trước đây cướp xác người con gái Ông Chủ Quán, trở thành con gái Ông Chủ Quán, đêm nào cũng ái ân với Hồ Tinh Gà Trắng, bị An Dương Vương giết chết, Liền đầu thai làm con An Dương Vương trở thành Mỵ Châu.

    – Nói về An Dương Vương có người con gái xinh đẹp tuyệt trần mắt phụng mày ngài giọng nói ngọt ngào như mật rót vào tai. Một hôm Mỵ Châu đang ngồi soi mặt xuống giếng thời thấy một con Chồn xuất hiện dưới mặt giếng. Mỵ Châu hoảng sợ thét ré lên nhưng thật ra con chồn cái Mỵ Châu thấy khi soi mặt dưới giếng chính là tiền Thân của Mỵ Châu Hồ Tinh Cái. Mỵ Châu sau cơn thấy Chồn liền trở nên khôn khéo hơn xưa nhất là càng về sau càng xinh đẹp. Lúc nào cũng dạ dạ vâng vâng ngọt ngào còn hơn lúc trước. An Dương Vương lấy làm mừng lắm nghĩ mình có phúc mới mới có đứa con như Mỵ Châu. Vừa thông minh, vừa xinh đẹp, vừa có hiếu. An Dương Vương coi Mỵ Châu hơn châu báu, còn quý hơn sanh mạng của mình.

    – Nói về Triệu Đà có nhiều người con nhưng Trọng Thủy là khôi ngô tuấn tú thông minh hơn cả. Một hôm Trọng Thủy thấy mình biến thành con Chồn to lớn bị người ta chém máu me đầy mình con Chồn thét lên Trọng Thủy liền mê mang không biết gì nữa. Khi tỉnh dậy như người bịnh nặng tính tình Trọng Thủy đổi khác, đôi lúc làm phật ý Triệu Đà. Triệu Đà không mấy quan tâm về tánh tình Trọng Thủy. Vì nghĩ Trọng Thủy là người tài giỏi lại khôi ngô tuấn tú nên tánh tình kiêu căng là chuyện bình thường. Quả đúng như vậy Trọng Thủy từ khi thấy Chồn trở nên khôn lanh đáo để, ma mị ít ai bì kịp.

    – Quân Triệu càng ngày càng trở nên hùng mạnh lên đến 30 vạn quân Triệu Đà trực tiếp chỉ huy, nhờ có móng Rồng đội lên đầu Triệu Đà đánh bại quân Tây Lương, bắn chết Dương Sàn vị thống soái tài ba của An Dương Vương Thục Phán qua trận giao tranh khốc liệt chiếm trọn Trung Văn Lang. Quân Triệu vì thế mạnh lên gấp bội.

    – Triệu Đà lên ngôi xưng Triệu Việt Vương rắp tâm chiếm nước Âu Lạc, tức là Nam Văn Lang.

    – Triệu Đà ngày đêm luyện tập binh mã, cách đánh thành, những binh pháp được coi như là tối ưu nhất.

    – Mùa đông năm 210 trước công nguyên Triệu Đà thống lãnh ba quân Bộ Binh, Thủy Binh, Kị Binh, tấn công vào Nam Văn Lang, thế mạnh như chẻ tre. Tướng Tây Lương chống cự không lại đành bỏ mạng. Quân Triệu hung hãn tiến quân vào thành Cổ Loa. Triệu Đà xua quân công thành hai bên xáp chiến long trời lở đất. Bao chiến thuật cao nhất Triệu Đà bằng sử dụng hết.

    Thơ rằng:

    Thang lớp lớp bắt lên tường đất

    Người trùng trùng lớp lớp leo lên

    Máy xe đá bắn lên không ngớt

    Tiếng gươm đao, dậy sóng cùng tên

    Mù trời mịt đất tấn công

    Long trời lở đất khiếp kinh hãi hùng

    Nói về An Dương Vương thấy quân Triệu trèo lên tường lớp lớp đông như kiến cỏ. Liền ra lệnh cho Cao Lỗ sử dụng nỏ Thần Liên Châu.

    – Cao Lỗ phất cờ ra hiệu bắn tức thời nỏ Thần Liên Châu phản pháo nhã tên quân Triệu chết thôi là chết chỉ trong nháy mắt quân Triệu đi tiêu hơn mười vạn quân. Triệu Đà khiếp vía hoảng kinh. Đánh trống thổi kèn lui binh.

    Thơ rằng:

    Quân Âu Lạc bừng bừng khí thế

    Thành Cổ Loa, huyền bí lạ lùng

    Quân Triệu khiếp vía kinh hồn

    Chết không kịp ngáp tàn đời xác thân

    Thành trôn ốc, vòng quanh khép kín

    Lũy tường thành nào khác mê cung

    Có vào thời hết đường ra

    Ăn tên ăn giáo gươm đao tàn đời

    Thân trúng tên ngã nhào như rạ

    Khiếp kinh hồn bỏ mạng vùi thây

    Loa thành bí hiểm biết bao

    Chỉ trong chớp mắt đi tiêu mười vạn quân binh không còn

    Triệu Đà khiếp vía kinh hồn

    Thua to nhục nhã hết còn xâm lăng.

    Triệu Đà thua to nhục nhã rút quân về. An Dương Vương đại thắng mở tiệc ăn mừng ba ngày ba đêm. Không bao lâu Triệu Đà sai sứ cầu hòa. Hai bên thỏa thuận lấy sông Thiên Đức làm ranh giới. An Dương Vương lấy đó cho là thắng lợi mới, mở tiệc chiêu đãi ăn mừng cả tháng, quần thần trong triều ai nấy cũng hào hứng say sưa.

    – Cao Lỗ thấy vậy lo lắng bằng quỳ xuống tâu rằng.

    – Muôn tâu Quốc Vương Bệ Hạ. Quốc Vương nên bớt tiệc tùng, hãy chăm lo chận đứng mưu đồ của quân Triệu.

    – An Dương Vương nghe Cao Lỗ tâu như thế liền cười lớn nói “Ta có loa thành hiểm hóc lại có nhiều dàn nỏ Thần Liên Châu vô địch bày binh bố trận” kẻ nào dám gây sự với Ta.
     
  4. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    111. TRỌNG THỦY MỴ CHÂU

    Nói về Triệu Đà thua trận Cổ Loa đi tiêu hơn mười vạn quân, nếu tiếp tục tấn công thời chết sạch. Bằng rút quân về đầm Nhất Dạ. Biết mình khó đánh bại được quân Âu Lạc nhất là có thành trì vững chắc, nỏ thần kinh khiếp. Bằng sai sứ cầu hòa, lấy sông Thiên Đức làm ranh giới.

    – Đã hơn một năm Triệu Đà ngày đêm buồn bực âu sầu nghĩ đến nỏ thần mà ớn lạnh da gà, nghĩ đến Cổ Loa thành mà rợn tóc gáy, không biết làm sao đánh bại được nước Âu Lạc. Triệu Đà bằng nghĩ ra một kế, muốn thắng được Âu Lạc thời phải biết được bí mật luyện thép, cách làm nỏ Thần Liên Châu. Cũng như vẽ được sơ đồ Cổ Loa thành.

    – Triệu Đà liền gọi con trai là Trọng Thủy vừa thông minh lại khôi ngô tuấn tú, có tài ăn nói lưu loát ít ai bằng. Nhất là hai năm vừa rồi Trọng Thủy học đâu nhớ đó cái gì cũng biết quả là một nhân tài khôn khéo ít ai bì. Triệu Đà bằng tính kế với Trọng Thủy là phải tiêu diệt cho được An Dương Vương Thục Phán. Trọng Thủy nghe nói lấy làm ưng ý, bằng nói Cha có kế sách gì chưa. Triệu Đà nói kế sách thời có nhưng con có chịu giúp Cha không? Trọng Thủy nói miễn là tiêu diệt được An Dương Vương Thục Phán thời chuyện gì con cũng làm. Triệu Đà bằng nói nhỏ với Trọng Thủy chỉ thấy Trọng Thủy gật đầu lia lịa.

    – Nói về Triệu Đà với âm mưu thôn tính nước Âu Lạc liền đem lễ vật thật hậu nào là gà chín cựa, ngựa chín hồng mao, nhân sâm nghìn năm, chim trĩ trắng, nào là vàng bạc châu báu, ngà voi, sừng tê giác, nhiều vô số kể chính thức cầu hôn công chúa Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Cũng như ở rễ làm phò mã nước Âu Lạc.

    – An Dương Vương nào biết mưu sâu kế độc của Triệu Đà. Triệu Đà lúc nào cũng nói cầu hòa, nhưng trong lòng lại khác. An Dương Vương luôn tự đắc ỷ vào cung thành cũng như nỏ Thần không sợ Triệu Đà bằng vui vẻ nhận lời gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy. Với những lời cam kết, đất ai nấy ở, nước ai nấy lo, nước ao không phạm nước giếng.

    – Cao Lỗ có vẻ nghi ngờ thận trọng khuyên An Dương Vương, không nên chấp nhận vội việc Triệu Đà cầu hôn Mỵ Châu cho Trọng Thủy, đề phòng âm mưu của Triệu Đà.

    – An Dương Vương không nghe, Cao Lỗ chỉ biết thở dài dù sao đề phòng cũng là tốt hơn.

    – Mỵ Châu gặp Trọng Thủy liền say đắm. Trọng Thủy cũng thế chẳng khác gì Mỵ Châu vừa gặp Mỵ Châu liền say đắm. Hai người tâm đầu ý hợp chớp nhoáng đã yêu nhau quên trời quên đất. Như đã từng yêu nhau ở kiếp trước giờ gặp lại nhau như keo, sơn, bám chặt dính nhau.

    – Trọng Thủy ở lại thành cổ loa say đắm Mỵ Châu đến nổi quên mất lời Cha dặn suốt ngày quấn quít bên Mỵ Châu. Vốn Linh Hồn Hồ Tinh về đường ái dục thời khỏi chê suốt ngày suốt đêm không biết ớn.

    – Nói về Triệu Đà lúc bây giờ là Chúa Tể đất Nam Hải quân binh hùng mạnh, nhưng lại sợ tên thép, nỏ Thần, loa thành vô cùng bí hiểm. Ngày đêm trông đợi sự thành công của Trọng Thủy. Nhưng không thấy Trọng Thủy báo tin gì, bằng cho người giả làm thường dân đến Cổ Loa đưa cho Trọng Thủy một phong thơ, hối thúc Trọng Thủy làm theo kế hoạch như đã bàn trước đây. Trọng Thủy xem thơ xong liền giật mình gần một năm trôi qua chỉ lo yêu đương chưa làm gì cả.

    – An Dương Vương cho người theo dõi Trọng Thủy thấy gần một năm, thấy Trọng Thủy ngoài yêu thương Mỵ Châu ra không hề để ý đến chuyện gì khác An Dương bắt đầu tin tưởng nên lơ là đề phòng. Trọng Thủy Mỵ Châu hai người yêu nhau đến nổi Trọng Thủy làm gì, nói gì Mỵ Châu cũng nghe theo, làm theo.

    – Một hôm Trọng Thủy nói với Mỵ Châu em dẫn anh đi dạo trong trong thành. Trọng Thủy đòi xem hết chỗ nầy đến chỗ kia không chỗ nào mà Mỵ Châu không dẫn đến. Trọng Thủy là người có trí nhớ vô cùng chỉ cần xem qua một lần là nhớ rõ in không sót một chi tiết. An Dương Vương không nghi ngờ gì cả. Thấy đôi trẻ yêu nhau đến nổi không còn xa nhau được nữa.

    – Từ đó Trọng Thủy Mỵ Châu hai người như một không chuyện gì bí mật mà dấu nhau.

    – Một đêm trăng sao vằng vặc bầu trời rất đẹp, muôn vạn vì sao nhấp nháy, một cơn gió lạnh lùa qua. Mỵ Châu nép sát vào người Trọng Thủy. Đây là cơ hội cho Trọng Thủy khai thác bí mật luyện thép. Cũng như nỏ Thần Liên Châu.

    – Trọng Thủy hỏi vợ

    Nàng ơi bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được. Mỵ Châu nói:

    Có bí quyết gì đâu, chẳng qua là có thành cao, hào sâu, lại có tên thép cũng như nỏ Thần Liên Châu, bắn một phát chết hàng trăm quân địch, thời có kẻ nào đánh được.

    – Trọng thủy nhìn Mỵ Châu vờ như lần đầu mới nghe nói đến tên thép cũng như nỏ Thần Liên Châu bằng nói ước gì được nhìn xem qua. Mỵ Châu nói muốn xem thời mai thiếp dẫn chàng đi xem chuyện nhỏ nhoi như thế có gì là mơ ước.

    – Đêm ấy Trọng Thủy nhìn Mỵ Châu trằn trọc không ngủ được, vì nghĩ đến tương lai u ám không biết sẽ ra sao. Trọng Thủy vờ như ngủ Linh Hồn Trọng Thủy chính là Linh Hồn Hồ Tinh Gà Trắng tu luyện hàng nghìn năm. Nên trí nhớ không ai bằng chỉ cần một con cọp nhảy ngang qua là vẽ lại y chang.

    – Mặt trời đã lên cao hơi ấm tràn về khắp lối, ánh nắng ngập tràn khắp quê hương ruộng đồng sông núi. Mỵ Châu dẫn Trọng Thủy đi xem nỏ Thần Liên Châu. Trọng Thủy chú tâm khám phá cấu trúc hình thành lên nỏ Thần Liên Châu. Cũng như nơi vị trí hiểm yếu đặc nỏ Thần trong loa thành. Mỵ Châu giải thích không thiếu sót bày cách bắn, cách lắp tên.

    – Trọng Thủy thành công khám phá hai phần ba sự bí mật của Âu Lạc. Chỉ còn lại phương pháp bí quyết luyện thép nữa là xong. Trọng Thủy là người rất thông minh sau khi khám phá hai phần ba bí mật của Âu Lạc liền nghĩ ra một kế đang đi chơi với Mỵ Châu liền ôm bụng đau đớn rên la Mỵ Châu hoảng kinh đưa Trọng Thủy về phòng chăm sóc. Cứ lâu lâu chứng bệnh lại tái phát Mỵ Châu vô cùng lo lắng hỏi Chàng bị chứng bệnh gì Trọng Thủy chỉ lắc đầu làm thinh không nói. Trọng Thủy lại lên cơn đau dữ dội Mỵ Châu phát hoảng nói đã là vợ chồng anh đau cũng chính là em đau. Bệnh của Chàng không có thuốc chữa sao? Trọng Thủy ngập ngừng không nói. Mỵ Châu hỏi đến lần thứ năm sắc mặt vô cùng lo lắng. Trọng Thủy biết đã đến lúc cần nói chỉ cần một ít bột trong lò luyện thép pha chế uống vào là khỏi. Mỵ Châu ngần ngừ đôi chút. Trọng Thủy nói nàng là Công Chúa thời nơi nào mà đến không được.

    Mỵ Châu nói không vào chỗ đó được đâu, đó là chỗ Cao Lỗ luyện kim một nơi bí mật, quân canh lính giác khó vào.

    – Trọng Thủy ôm bụng la đau Mỵ Châu hốt hoảng nói vào đó hốt nhanh rồi rút lẹ không được ở lâu.

    – Mỵ Châu dẫn Trọng Thủy đến một nơi bí mật vào chỗ luyện kim của Cao Lỗ. Quân binh canh giữ nhìn thấy Công Chúa không ai ngăn cản chỉ cúi đầu.

    – Trọng Thủy xem qua nơi luyện thép có mấy thùng đựng bột kim loại pha chế, cũng như cách thức đắp lò luyện kim, Trọng Thủy liền hốt nhanh mỗi thứ một ít rồi đi ra.

    – Nói về Trọng Thủy đã được cả ba, bằng nói với Mỵ Châu ở đây không có dụng cụ để sắc uống. Một dụng rất đặc biệt. Trọng Thủy lại nói đã có những thứ bột đặc biệt nầy thời không còn tái đi tái lại nữa. Anh về Nam Hải mấy ngày sẽ trở lại ngay. Mỵ Châu không muốn chia tay nhưng chàng về bên ấy chữa bệnh, nên không có cách gì giữ Trọng Thủy ở lại bằng chấp thuận cho chàng về bên Nam Hải.

    – Qua hôm sau Mỵ Châu xin phép An Dương Vương cho Trọng Thủy về bên ấy chữa bệnh. An Dương Vương liền chấp thuận, vì lúc nầy An Dương Vương đã tin Trọng Thủy. Trọng Thủy vô cùng khôn khéo lại có trí nhớ đến kinh người, chỉ cần nhìn qua là trở thành bản in sao chép không bỏ sót một chi tiết nhỏ. Coi như những bí mật Âu Lạc không còn che dấu được nữa. Kinh Dương Vương không ngờ Trọng Thủy lại tài giỏi như vậy ăn cắp nghề nhưng không lộ ra cho người ta thấy.

    – Lúc chia tay với Mỵ Châu Trọng Thủy nói “Anh về bên ấy rồi nhỡ có chuyện gì xảy ra, thời làm thế nào để tìm được nàng”. Mỵ Châu sụt sùi đáp, thiếp có chiếc áo lông ngỗng sáng rực khác thường, nếu phải đi đâu thiếp sẽ rút lông ngỗng thả dọc đường chàng cứ theo dấu lông ngỗng mà tìm.

    – Trọng Thủy trở về Nam Hải họa lại sơ đồ thành Cổ Loa. Chỗ đặt nỏ Thần Liên Châu, họa lại nỏ Thần Liên Châu và cách sử dụng.

    – Trọng thủy lấy trong người ra những thứ bột pha chế, cũng như cách thức luyện kim, lò luyện kim cấu kết thành thép.

    – Triệu Đà dồn hết thợ luyện kim. Thợ pha chế, Thợ rèn kiếm, thợ rèn đao, nghiên cứu suốt tháng, chỉ luyện được thép, nhưng chưa đạt được đến đỉnh cao, không bằng những mũi tên thép do Âu Lạc chế ra. Nhưng so với mũi tên đồng tên sắt thời hơn xa. Triệu Đà lấy làm mừng.

    – Nói về Triệu Đà gấp rút hơn tháng chửng bị quân hùng tướng mạnh, tập dợt phá thế trận Cổ Loa, Tránh né thế trận nỏ Thần Liên Châu. Đánh đúng lúc, chiếm đúng chỗ, sử dụng chiêu thức phá trận đúng nơi. Tiến quân lui quân đúng cách. Quân lương vận hành thông suốt, phát động chiến tranh lâu dài.

    – Triệu Đà dốc toàn lực lượng hùng mạnh nhất chưa từng có tiến đánh thành Cổ Loa.

    – Cao Lỗ nghe tin vào tâu An Dương Vương, chuẩn bị quân cơ sẵn sàng chiến đấu.

    An Dương Vương nghe xong cười ngất nói rằng. Giặc không muốn sống nữa hay sao, có lẽ hơn hai năm chúng đã quên nỏ thần, kệ chúng, chúng đến sẽ đánh lo gì

    – An Dương Vương tiếp tục đánh cờ, không lo lắng gì cả, không đầy ba ngày quân giặc kéo tới vây kín loa thành.

    – Nhờ có bản đồ loa thành do Trọng Thủy vẻ ra, chỗ nào đặc nỏ Thần Liên Châu, quân địch đều rõ hết. Triệu Đà xua quân đánh chỗ không phải tầm ngắm nhả tên của nỏ Thần. Biết chỗ nào bắc thang trèo tường, lại hiểu rõ đường đi nước bước trong loa thành. Quân Triệu trèo tường như nước lở. An Dương Vương ra lệnh dùng nỏ Thần Liên Châu bắn quân địch. Tên bắn ra nhiều mà chẳng trúng được bao nhiêu. Quân Triệu tràn vào thành như nước lũ. Quân nội thành chỉ hơn ba vạn, còn đại quân ở xa làm sao cứu được lửa. Chống làm sao lại tên sắt, tên thép, tên đồng quân Triệu bắn ra. Quân Triệu phá cổng thành tiến sâu vào trong. Hàng trăm nỏ Thần Liên Châu bị những tay cao thủ thượng đẳng phá nát. Thế là hết quân Triệu từ các ngã tiến vô ồ ạt như nước vỡ bờ. Quân Âu Lạc trở thành con mồi cho hổ báo.

    – Vị Trung Thần Cao Lỗ khuyên vua chạy về phương nam, điều động quân binh chống trả lại quân Triệu. Cao Lỗ xông lên phía trước ngăn cản quân giặc không cho đuổi theo An Dương Vương, một mình Cao Lỗ cùng một số quân binh tả xông hữu đột liều thân ngăn sự rượt đuổi quân Triệu đông như kiến cỏ.

    Sau có thơ rằng;

    Ôi khí phách, trung thần Cao Lỗ

    Cùng quân binh, quyết tử hi sinh

    Chận đứng quân Triệu rượt theo

    Để An Dương Vương thoát khỏi vòng vây quân thù

    – Trận đánh không cân sức cuối cùng Cao Lỗ chết một cách hiên ngang, người cắm đầy mũi tên Quân Triệu cũng phải khiếp kinh.

    Vì nước non, một lòng dốc sức

    Thà chết đi, trọn hiếu trọn trung

    Sợ gì cái chết vì non

    Một lòng một dạ trung kiên anh hùng

    Người đời sau có thơ kính tặng ông

    “Thành Ốc Treo Cao Vầng Nhật Nguyệt

    Tất dạ Trung Trinh Thục Sử Truyền”

    – Nói về An Dương Vương giục ngựa ngõ sau phi nước đại chạy về biển đông.

    – Mỵ Châu ngồi sau lưng Cha bứt lông ngỗng ở áo thả khắp dọc đường. Trời tối mù tối mịt Trọng Thủy đang lúc hoang mang không biết tìm Mỵ Châu nơi đâu, bỗng nhìn thấy lông ngỗng. Trọng Thủy nhớ tới lời Mỵ Châu, bằng dẫn theo một toán quân binh cứ theo vết lông ngỗng mà truy đuổi. Đường núi gập ghềnh hiểm trở ngựa chạy cả trong ngày lẫn đêm, đến dạ sơn gần biển. Hai cha con định xuống ngựa ngơi nghỉ, thời quân giặc đã đuổi tới gần.

    – Trời đã hừng đông đường núi quanh co dốc ngược không còn lối nào chạy. An Dương Vương liền hướng ra biển khấn vái Thần Kim Quy phù hộ cho mình. Vừa khấn xong tức thời một cơn gió nổi lên cát bụi mịt mù Thần Kim Quy hiện ra nói với An Dương Vương rằng giặc ở sau lưng nhà vua đấy.

    – An Dương Vương liền tỉnh ngộ rút gươm chém Mỵ Châu một luồng khí xanh bay lên hiện ra con chồn rồi biến mất, An Dương Vương vô cùng sửng sốt. Nhìn Mỵ Châu không hiểu nó là yêu tinh hay con mình. Nếu con mình sao làm hại mình như vậy.

    – An Dương Vương nhìn thấy từ xa cát bụi mịt mù biết là số mình đã tận liền nhảy xuống sông tự tử.

    – Nói về Trọng Thủy dẫn theo một toán quân rượt đuổi theo sau An Dương Vương theo dấu lông ngỗng đi tìm Mỵ Châu. Đến gần bờ biển thấy xác vợ nằm trên đám cỏ. Tuy chết mà nhan sắc không phai mờ Trọng Thủy khóc òa lên. Thu nhặt thi hài đêm về chôn trong thành. Rồi đâm đầu xuống giếng trong thành mà Mỵ Châu thường soi mặt cũng như thường tắm.

    – Ngày nay ở thành Cổ Loa trước đền thờ An Dương Vương còn có cái giếng, gọi là giếng Trọng Thủy.

    – Đời sau truyền rằng Mỵ Châu bị Cha giết, máu chảy xuống biển, loài trai ăn được làm cho ngọc trai sáng đẹp ra.

    – Cuộc đời An Dương Vương Thục Phán, Hồ Tinh Gà Trắng. Hồ Ly con gái Ông Chủ Quán. Oan Gia tương báo thành câu chuyện Trọng Thủy, Mỵ Châu. Phá tan cơ nghiệp An Dương Vương, Là một tấm bi kịch.

    – Tuy vậy nhiều thế hệ người Việt coi An Dương Vương là vị vua thông minh tài ba lỗi lạc.

    – Đền thờ của Ông được lập ở ngay chân núi Mộ Dạ. Quanh năm hương khói. Còn có đền Thần thờ vị tướng tài Cao Lỗ. Nhà Bác học, Khoa Học, Chính Trị, Quân Sự, Kiến Trúc, Luyện Kim, Chế Tạo Tên Thép. Có một không hai trong thời ấy.
     
  5. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    112. SỰ HỒN NHIÊN

    Một ngôi nhà nhỏ cạnh đầu làng

    Hàng cau trong nắng, đứng chịu tang

    Bảy mùa thu đến, mùa lá rụng

    Cô đơn người Mẹ sáu xuân sang

    Mới đó giờ đây, Hân đã lớn

    Tiếng cười giọng nói dậy ngân vang

    Mẹ giá con côi theo ngày tháng

    Đôi lúc vẫn còn, tiếng thở than

    Dưới cơn mưa tầm tã. Bé Hân đang ngồi với mẹ thấy người ta kẻ đội nón, người che dù đi vào nhà Ông Hai, mỗi lúc một đông.

    – Bé Hân hỏi; Mẹ ơi hôm nay nhà Ông Hai làm gì vậy? Bà Vân nghe con hỏi liền nói, hôm nay là ngày kị cơm Chú Ba Ổi con Ông Hai đấy con.

    – Bé Hân hồn nhiên hỏi Chú Ba Ổi vì sao chết vậy mẹ. Bà Vân nghe Bé Hân hỏi như nhớ lại, một đêm tối không trăng tiếng chó sủa inh ỏi, sau đó thời tiếng súng nổ như bắp rang, canh nông, đại bác, đạn cối, thi nhau nổ ầm ầm kinh hồn bạt vía. Tiếng máy bay gầm rú đầy trời tiếng bom rền sông núi. Hình ảnh người chồng Ông Vân trúng mảnh bom không qua khỏi đành bỏ mạng, bỏ lại mẹ giá con côi Bà Vân càng nghĩ càng rơi nước mắt.

    – Bé Hân thấy Mẹ rơi lệ liền lấy khen lau nước mắt cho Mẹ rồi nói, Mẹ lớn rồi mà con khóc. Bà Vân ôm con vào lòng dằn cảm xúc. Nhớ lại những ngày bom rơi đạn nổ như mới đây mọi việc hiện ra trước mắt thấy rõ như in. Trận giao tranh giữa Quốc Gia và Cộng Sản cho tới sáng, thây người rải rác khắp nơi. Ở đời người ta thường nói Trâu Bò húc nhau ruồi muỗi chết. Cộng Sản, Quốc Gia đánh nhau dân mang họa. Bà ngồi bên xác chồng lòng nghẹn ngào đau đớn không sao tả hết.

    – Cuộc chiến tranh đầy phi lý, hai bên đều cho mình là đúng, đã làm đúng sao còn phải đánh nhau. Súng đã nổ thời không chết cũng bị thương, hai bên thi nhau ngã xuống không phải yêu nước thương nòi gì, mà là anh em tương tàn, nồi da xáo thịt. dù cho bên nào bị tiêu diệt cũng là Đồng Loại, anh em Đồng Bào, máu đỏ da vàng nào phải kẻ thù gì đâu. Bà Vân càng nghĩ càng thấy lòng đau, chỉ tội cho người dân vô can cũng phải chịu khổ lây, cái chết của chồng Bà do hai bên gây ra nhưng nào ai chịu trách nhiệm đâu. Sự chết đi chỉ vì trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết. Bà Vân nhớ lại chồng bà nằm trên vũng máu sự hi sinh vô lý trở thành nạn nhân do hai bên chém giết lẫn nhau.

    Chiến tranh ơi hỡi chiến tranh

    Cướp đi sinh mạng, người dân thiện lành

    Làm cho chồng vợ chia lìa

    Tiêu tan nhà cửa xóm làng xác xơ

    Dù cho Cọng Sản, Quốc Gia

    Cũng là Đồng Loại anh em Đồng Bào

    Tương tàn chém giết hận thù

    Gây bao thảm kịch hiểm nghèo cho dân

    Chiến tranh phi lý chiến tranh

    Đớn đau dân tộc tiêu tan nước nhà

    Đầu xanh tuổi trẻ không còn

    Gò hoang chôn xác nấm mồ quạnh hiu

    Tấm chồng cũng bỏ ra đi

    Để cho mẹ giá con côi tháng ngày

    Trò hề ai đã đặt bày

    Khói mây rồi cũng trở khói mây

    Nhưng rồi biết trách ai đây

    Trách cho con tạo trớ trêu cuộc đời

    Càng nghĩ nước mắt tuôn dài

    Nghĩ thương dân chúng họa đày gian nan

    Bà Vân nước mắt chảy tuôn

    Bé Hân nhìn Mẹ, Mẹ ơi Mẹ khóc nữa nè

    Bà Vân lau nước mắt gượng cười. Bé Hân nhìn qua nhà Ông Hai như nhớ ra điều gì nói, Mẹ chưa trả lời Chú Ổi vì sao mà chết. Cơn mưa như trút đã tạnh Bà Vân nhìn rõ từng người đi vào nhà Ông Hai.

    – Bà Vân nói nhỏ Chú Ba Ổi đi Lính Quốc Gia chết đó con.

    – Bé Hân ngơ ngác hỏi hôm nay là ngày kị cơm Chú Ba Ổi Lính Quốc Gia. Sao con thấy những người đến ăn giỗ không ít người đội nón cối, không lẽ những người đội nón cối quân giải phóng kia, không hiểu Chú Ba Ổi là lính Quốc Gia họ đã giết chết hay sao?

    – Bà Vân bụm miệng con gái nói nhỏ thôi. Những người đội nón cối quân giải phóng kia là anh em ruột với Chú Ba Ổi người đã chết đấy, không phải người ngoài đâu.

    – Bà Vân nói người đội nón cối bận đồ xám là Chú Dừa anh cả của Chú Ba Ổi đã chết. Còn người đội nón cối mặc bộ đồ xanh là Chú Mận em ruột Chú Ba Ổi người đã chết. Họ là anh em cùng một mẹ một cha. Người đi theo Quốc Gia, kẻ đi theo Cộng Sản thế là chém giết lẫn nhau. Anh em họ chẳng thấy đau, người ngoài như mẹ đây nhìn anh em họ giết nhau mà thấy xót dạ.

    – Bé Hân nghe mẹ nói thế lấy làm lạ nói Anh Em nhà họ có vấn đề gì không, Anh Em như thể tay chân sao họ lại làm như thế kẻ đi bên nầy, người đi bên kia chém giết nhau. Bà Vân nói là do tình thế tạo ra không đi theo Cộng Sản thời phải theo Quốc Gia mà thôi không còn cách nào khác. Khi con lớn lên con sẽ biết hai bên tranh nhau giành lấy từng người thi nhau bắt đi lính. Con muốn trốn cũng không được. Trong thế buộc không theo Cộng Sản thời cũng phải theo Quốc Gia. Đối lập nhau coi như không đội trời chung đi đến chém giết lẫn nhau tạo ra bi kịch đó con. Bé Hân như chợt nhớ ra bài học tuần trước liền đọc lên cho Mẹ nghe.

    Gà con lạc Mẹ đá nhau

    Đá cho sức trán u đầu chưa thôi

    Đá cho ruột thịt tả tơi

    Đá cho bỏ mạng rồi đời anh em

    Đá cho lem luốt tèm lem

    Máu tanh thầm đỏ hết mong sống còn

    Đá cho xanh cỏ xanh mồ

    Hồn Ma bóng Quỉ bạn đời gió sương

    Đá cho xốm nát làng tan

    Ngư ông đắc lợi ngoại bang vui mừng

    Cũng vì đánh mất Cội Nguồn

    Gà con lạc Mẹ tranh giành đá nhau

    Bà Vân nghe xong khen bài học hay quá. Nghe mà thấm thía, mắn yêu con gái, con coi vậy mà thông minh ghê.

    – Tà áo hồng vừa đi ra khỏi ngõ thời có người lên tiếng hỏi, hai mẹ con chị đi đâu mà ăn diện xinh đẹp vậy,

    – Bà Vân quay đầu nhìn lại hỏi. Cô Hằng cũng đi đền thờ phải không? Cô Hằng cười nói con cháu Tiên Rồng không đi đền thờ thời còn đi đâu. Thời nay những người không quên Cội Nguồn khác gì hạt gạo trên sàng mà chị. Bà Vân nhìn Hằng rồi nói cô nói cũng phải, đi đền thờ lễ lạy Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Trời Âu Cơ cũng như lễ lạy Quốc Tổ, Cội Nguồn của chúng Ta.

    Ta về Ta tắm ao Ta

    Dù trong dù đục đạo nhà vẫn hơn

    Đạo nhà truyền thống Cha Ông

    Con thuyền Nguồn Cội biết bao đẹp lành

    Hiếu Trung, Trung Hiếu một lòng

    Theo chân Quốc Tổ về trời cõi tiên

    Đạo nhà cũng lắm linh thiên

    Cha Ông phù hộ Hồn Thiên phù trì

    Mắc gì ta lại mắc gì

    Quên Nguồn bỏ Cội để rồi bơ vơ

    Ta về Ta tắm ao Ta

    Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn

    – Bà Vân Cô Hằng phải nói là tâm đầu ý hợp kẻ xướng người họa, vừa mới lạ vừa văn minh ai nghe cũng thấm thía trong lòng. Hai người kẻ nói lại người nói qua, không bao lâu thời đến đền thờ.

    – Bé Hân nhìn thấy người đông quá áo chen sắc áo, người chen lấy người, chật ếm như nêm. Trong lòng bé Hân vô cùng thích thú, nắm lấy tay Mẹ giục giật rồi nói người đông như thế có phải là người cách mạng hết không? Hằng trả lời thay cho Bà Vân, đã về Cội Nguồn thời không còn phân biệt Cộng Sản hay Quốc Gia. Tất cả đều là anh em Đồng Bào đoàn kết yêu thương như anh em một nhà. Tôn Giáo, Đảng Phái cũng chỉ là con Rồng cháu Tiên. Tình Đồng Bào nghĩa anh em, chung nhau một đất nước quê hương, đâu còn phân biệt chia rẽ nữa. Bé Hân nhìn Mẹ rồi hỏi đã về Nguồn thời tất cả đều là anh em phải không Mẹ. Bà Vân gật đầu thay cho lời nói.

    – Bé Hân nói Cô Hằng giải thích con hiểu rồi, con thường nghe bài hát Dòng Giống Tiên Rồng đâu chỉ cho người nào tất cả Đồng Bào Dân Tộc Việt Nam đều là anh em. Cọng Sản, Quốc Gia chỉ là thời thế, thế thời, khi tỉnh lại rồi thời Cộng Sản, Quốc Gia cũng chỉ là anh em. Hằng nhìn Bé Hân khen con giỏi lắm.

    – Trời đã khuya, ngôi nhà nhỏ của Bà Vân ánh điện vẫn còn sáng. Hân đang học bài chăm chú, như chợt nhớ ra điều gì liền hỏi Mẹ.

    – Đáng lý ra dân tộc mình thời phải mạnh như Rồng đẹp như Tiên. Nhưng vì Phụng Hoàng đang bệnh xù lông xù cánh nên trông không được đẹp. Rồng thời trúng độc nên đau bụng không bay lên được bị người ta đè đầu cưỡi cổ phải không Mẹ.

    Bà Vân nghe xong không nhịn được cười, cười sặc sụa mắn yêu, cái tổ cha mầy không lo học mà nghĩ những chuyện vu vơ.
     
  6. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    113. KHA VÀ ĐÀO

    Tấn Nam là một cây cao trong thượng viện chế độ Việt Nam Cộng Hòa, một mẫu người khá đẹp trai, địa vị cao để bao cô gái ước mơ. Nhìn cái vẻ bề ngoài hào hoa đẹp trai của Nam, cũng đã làm ngã gục bao cô gái, huống chi là có tài ăn nói, nhất là tài đánh bóng biết chiều chuộng phái đẹp. Thời có khối cô nàng chết mê chết mệt.

    – Nhất là Hương quên ăn bỏ ngủ vì Nam. Hương biết rằng mình nhà nghèo khó tranh lại, với những cô gái nhà giàu tiền muôn bạc tỉ. Hương yêu Nam đến nỗi, Nam muốn gì thời Hương cũng cho, kể cả những thứ quý giá nhất cuộc đời của cô. Cô đã có bầu hơn tháng ý định nói cho Nam biết

    – Nào ai ngờ ba mươi tháng tư quân giải phóng cách mạng nuốt trọn miền nam, trong tình thế hỗn loạn. Hương tới nhà Nam thời gia đình Nam đã bỏ đi đâu không biết. Quân Cách Mạng sau đó làm chủ đất nước. Chế Độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, Sài Gòn không còn nữa trở thành tên khác Thành Phố Hồ Chí Minh.

    – Binh Lính Quốc gia những người còn sống thời bỏ nước ra đi, cũng như cải tạo ở tù. Bóng hình Nam vẫn biền biệt mịt mù, Hương không còn hi vọng gì nữa, sống một mình lủi thủi sanh con ra rồi nuôi.

    Hai mươi năm sau:

    – Trời đã khuya Kha vẫn chưa đi ngủ ngồi bên cửa sổ nhìn mãi về ngôi nhà của Đào.

    – Đào là con cán bộ cấp cao của Đảng, nhà Đào rất giàu không những thế Đào còn rất đẹp, với chiếc áo dài màu trắng ôm sát người những đường cong đẹp lạ kỳ, trông Đào như một nàng tiên, nữ sinh hoa khôi trong thời đại Hồ Chí Minh.

    – Kha là con của Tấn Nam cấp cao của Quốc Gia. Kha chỉ biết vậy thôi chưa bao giờ biết mặt Cha. Tuy đất nước đã đi qua hai chục năm, nhưng thân phận Kha dính dấp đến Quốc Gia vì Kha là con của Tấn Nam, tuy đã hơn hai mươi năm trôi qua nhưng nói về kỳ thị chế độ vị thế xã hội thời Kha vẫn còn nơi đất cái. Còn bên giai cấp thắng cuộc chiến thắng thời ở tận trên mây.

    – Kha biết thân phận là con ngụy quân, nên chỉ thầm yêu Đào. Một tình yêu đơn phương không bao giờ có kết quả.

    – Có lẽ nhờ vào tình yêu đơn phương nầy Kha không nghĩ đến tình yêu nào khác, chỉ lo đèn sách chăm học nên Kha học rất giỏi, luôn đỗ đạt cao tiếng tăm lừng lẫy. Một hôm Kha ngồi bên cửa sổ nhìn ánh trăng vằng vặc trên trời ngâm mấy dòng thơ, cho bớt nỗi buồn.

    Trăng kia ở tận trên trời

    Chỉ nhìn trăng sáng dịu hiền mà thôi

    Ước ao cũng chỉ ước ao

    Mấy đời chiếu rách trãi lên giường ngà

    Đũa tre khó để mâm vàng

    Vốn thân con cóc đâu cùng Thiên Nga

    Hoa Hồng cắm ở bình hoa

    Có đâu cắm chỗ ở nơi sình lầy

    Mấy ai hiểu được sự đời

    Hoa sen thường ở vũng bùn tỏa hương

    Thương người thời cứ mà thương

    Không hình thời bóng vấn vương tháng ngày

    Trăng kia ở tận trên trời

    Chỉ nhìn trăng sáng cuộc đời cũng vui

    – Tiếng ngâm thơ trong màn đêm u tịch, gió rầm rì như chuyển vận lời thơ. Gửi ai kia một bóng hình xa thẳm, trong nỗi niềm ẩn chứa những lời thơ.

    – Đào ngồi bên cửa sổ dưới ánh đèn khuya chợt nghe tiếng ngâm thơ từ nhà Kha vọng lại. Tim Đào run lên hồi hộp Đào không hiểu vì sao mỗi lần nghe Kha ngâm thơ, là Đào không kìm nổi quả tim nó cứ run lên theo giọng ngâm thơ của Kha.

    Đào cố xua đuổi hình bóng của Kha, những lời tỏ tình yêu đơn phương của Kha, như một ma lực làm cho Đào không quên được, càng xua đuổi. Thời hình ảnh của Kha càng hiện lên rõ nét, những lời thơ thi nhau thấm vào óc không cách nào xua đuổi ra được.

    – Đào phải thừa nhận Kha phong độ khá đẹp trai, nét mặt trông rất hiền từ có sức thu hút đối với giới nữ. Kha học giỏi con đường tương lai của Kha rộng mở thênh thang. Đào thở dài tâm Đào mãi giao động hồ thu đã gợn sóng lăng tăng.

    – Thế thời, thời thế nào phải đứng yên, thời bao cấp lùi xa thay vào đó là cơ chế thị trường bắt đầu hé mở. Bao tháng năm Đào luôn đấu tranh tư tưởng có những đêm Đào quá mệt mỏi rồi thiếp đi.

    – Từ hôm nghe được những dòng thơ tỏ tình bâng quơ không đi vào đối tượng mục đích rõ ràng, nhưng đối với Đào thời Đào biết Kha yêu mình nhưng không dám ngỏ lời vì ngăn cách giàu nghèo, cũng như cách biệt hai dòng sông kẻ ở bên nầy người ở bên kia.

    – Nhà Đào với nhà Kha không xa mấy chỉ vài mươi thước chung nhau trên một con đường. Đào thấy Kha liền né tránh. Kha càng đau nhói càng dồn tâm vào việc học. Kha tốt nghiệp Thạc Sĩ ngành kinh tế loại ưu. Còn Đào thời tốt nghiệp trường đại học mở kế toán.

    – Ở đời người ta thường nói có duyên xa mấy cũng thấy gần, vô duyên đối mặt nhưng lòng cách xa. Những ngày qua Kha nhìn bóng hình Đào qua gần bên nhau thế mà như xa tận chân trời.

    Đêm đã khuya trời trở lạnh, để quên đi nỗi buồn Kha ngâm mấy dòng thơ.

    Trời sinh ra người, để người chịu khổ

    Trời sinh ra cây cỏ, để cây cỏ chịu sầu

    Chiến tranh kia, đã chia lìa Nam Bắc

    Để giờ đây, diềm chết quả tim đau

    Lạnh lùng chi, tim đã đầy băng giá

    Tránh mặt chi, tim đã chết từ lâu

    Ông tơ bà nguyệt đi đâu

    Để cho chú Cuội ngồi rầu gốc đa

    Đào nghe những lời thơ của Kha như vạn mũi kim đâm vào quả tim. Đào thổn thức em đã yêu anh từ lâu lắm từ khi ta mới gặp nhau. Đào liền khẻ ngâm thơ.

    Đêm về những giọt mưa ngâu

    Trời kia ngăn cách mỗi nơi mỗi người

    Ngưu Lang, Chức Nữ trên trời

    Gần nhau chẳng được Thiên Hà cách ngăn

    Chàng nào biết được lòng em

    Con tim cũng đã rộn lên vì chàng

    Bao đêm trong lúc mơ màng

    Đôi chim vượt khó trong làn bão dông

    Trải bao thử thách gian nan

    Mới mong tìm được bình an cùng người

    Tim em đã có chủ rồi

    Bóng người ở tận chân trời xa xăm

    – Kha ngồi bật dạy nhìn qua khu nhà bên cạnh thấy Đào ngồi bên cửa sổ. Như sợ bóng hình kia sẽ biến mất, Kha càng ra sức mà nhìn, hình như Đào cũng biết là Kha đang nhìn Đào. Đào để cho Kha ngắm nhìn như mây cùng gió xích gần lại nhau.

    – Thế là từ đó hai người một sợi dây vô hình càng ngày càng trói chặt vào nhau, nụ cười ánh mắt càng thêm đậm đà. Vườn xuân đã có người làm, bón phân tưới nước rực hồng hồn xuân.

    – Kha, Đào, yêu nhau không thể xa nhau được nữa Kha nói với Mẹ là Bà Hương. Qua nói Đào về làm dâu nhà mình. Bà Hương nói tuy con là thạc sĩ cũng đã ổn định việc làm, đối tượng nào thời được. Nhưng đối tượng chỗ nầy thời con đừng mơ mộng. Kha thôi thúc mãi, Kha nói Mẹ cứ qua bên ấy khi nào họ không gả thời thôi. Cuối cùng Bà Hương đành phải nghe theo, qua nhà Ông Bộ dạm hỏi Đào cho Tấn Kha. Ông Bộ lạnh lùng nói xin lỗi Bà Hương Bà đến hơi muộn con Đào đã có chỗ rồi. Bà Hương nghe xong thời lấy làm thẹn thùng như bị gáo nước lạnh tạt vào mặt. Bà Hương từ giả ra về nói lại tình hình cho Kha Nghe.

    – Kha không lấy gì làm lạ cách từ chối khéo vì họ là người trên mây. Còn mình thời chỉ là cỏ dại ở dưới đất, hai giai cấp khác nhau quá xa, lại là kẻ bên địch người bên ta để khỏi xót xa, cũng như mỗi lần nhìn thấy Đào cầm lòng không được. Càng yêu Đào thời gia đình càng thêm tủi nhục. Kha bán nhà cùng Mẹ đến nơi ở khác, trước khi từ biệt Đào. Kha nói anh vẫn chờ đợi, khi nào em có chồng thời anh mới tính tới chuyện trăm năm.

    – Kha cùng Bà Hương đến nơi ở mới trong một con hẻm lớn, Kha cũng tìm nơi làm mới. Kha xin làm cho một công ty nước ngoài, giám đốc công ty là Tấn Nam. Một việc kiều về nước làm ăn, công ty Tấn Nam có mặt trên nhiều nước Châu Á. Kha lương rất khá tháng năm sáu chục triệu, không bao lâu thời leo lên trợ lý cho Tổng Giám Đốc. Kha ăn nói lưu loát làm việc trôi chảy không chỗ nào thiếu sót. Lúc ngồi bên Tổng Giám Đốc ai nấy cũng đều kinh ngạc vì Kha rất giống Tổng Giám Đốc y như là Cha Con.

    – Tấn Nam Tổng Giám Đốc cũng lấy làm kinh ngạc, nhưng rồi Ông nghĩ người giống người, nên Ông cũng không quan tâm nữa.

    – Một hôm Tấn Nam Tổng Giám Đốc xem lại hồ sơ của Tấn Kha thời Ông giật cả mình. Chỉ có một điều ở đây là cha Tấn Kha, là Tấn Nam đã chết. Ông sững sờ giây lác lấy lại sự bình tỉnh, hồi tưởng lại quá khứ cách đây đã hơn hai mươi năm. Có lẽ bây giờ Hương đã có chồng, mình không nên quấy phá.

    – Một hôm Ông gọi Tấn Kha đến hỏi trợ lý còn mấy anh em, Tấn Kha thật thà trả lời con làm gì có anh em, con chỉ biết khi con lớn lên đã mồ côi cha. Ông lại hỏi Mẹ Trợ Lý không có chồng nữa sao? Kha nghe Ông hỏi lấy làm kinh ngạc nhưng cũng trả lời Mẹ con không có chồng chỉ ở vậy nuôi con, biết rằng không biết bao nhiêu người đeo đuổi. Ông nhìn Kha rồi hỏi Trợ Lý có biết mặt Cha Trợ Lý không. Kha lại càng thêm kinh ngạc Ông Tổng Giám Đốc bữa nay hơi là lạ. Nhưng rồi Kha cũng trả lời, tôi không hiểu vì sao Cha tôi lại rất giống Ông Chủ. Xin lỗi Ông Chủ tôi không có ý gì khác, Ông nghe Tấn Kha nói như vậy trầm ngâm giây lát rồi hỏi người Mẹ Trợ Lý thờ rất giống Ta phải không? Kha gật đầu như xác nhận.

    – Ông Chủ Tấn Nam đã biết chắc Tấn Kha là con của mình Ông trở nên nghiêm khắc, Ông dạy từng cách ứng xử, cũng như cách điều hành công ty. Tấn Kha vô cùng ngạc nhiên Ông ấy đối xử với mình như con của Ổng. Tấn Kha trở nên quan trọng, trong công ty. Cũng là đối tượng bao cô gái bám theo. Nhà Bà Hương từ đó không ít người lui tới toàn là con gái xinh đẹp. Bà Hương lắc đầu thở dài thằng Kha giờ đây không khác gì thằng cha của nó, chỉ tổ làm khổ người ta.

    – Mấy cô ăn mặc xinh đẹp vừa ra, thời một người con gái xinh đẹp từ xa đi đến. Người con gái xinh đẹp ấy chính là Đào. Đào bước vào nhà lễ phép nói con chào thím, Bà Hương niềm nở tiếp Đào như người thân. Đào cảm động muốn rơi nước mắt.

    – Bà Hương nhìn Đào rồi hỏi Cha Mẹ con vẫn khỏe. Đào nói Cha con đã về hưu rồi không còn quyền lực như trước đây nên Cha con cũng có phần dễ dãi hơn trước. Công ăn việc làm của con, con tự quyết định lấy. Bà Hương hỏi con ở riêng hay còn ở với Cha Mẹ? Đào hơi ngạc nhiên nhưng chợt nhớ ra nói. Cha con không muốn gả con cho anh Kha nên nói con đã có chỗ có nơi. Thời nay là thời văn minh hiện đại con tự quyết định tương lai hạnh phúc cho mình, ép buộc làm gì người con không yêu.

    – Đào xuống bếp phụ một tay làm cơm thân thiện nói đáng lý ra con đến sớm hơn, nhưng vì tìm mãi không được nơi ở của anh Tấn Kha, con mới tìm ra đây thôi.

    – Tiếng đồng hồ đã gõ Bà Hương nói năm giờ rồi thằng Kha sắp về, nó đi nó về đúng giờ đúng giấc lắm Bà Hương vừa nói xong thời Kha cung đã về tới nhà, nhìn thấy Đào đang loay hoay làm cơm với Mẹ. Kha nhìn Đào sửng sốt cảm động. Đào thấy Kha nhìn sững mình cúi đầu thỏ thẻ nói, lạ lắm sao mà nhìn người ta dữ vậy, chỉ mới hơn năm mà anh đã câu hàng tá.

    – Bà Hương tằng hắng không có đâu con, đó là những cô làm ở công ty đến thăm. Tấn Kha bật cười thời ra em cũng giống như bao người khác, ớt nào mà ớt chẳng cay. Đào bỉm môi nhìn Kha ý anh nói gái nào mà chẳng thường hay ghen chồng, Tấn Kha không nhịn cười được nữa cười vang cả nhà.

    – Căn nhà Bà Hương hôm nay vui vẻ khác thường, Đào thời cười nói luôn miệng hết chuyện nầy đến chuyện khác, hết chuyện nọ đến chuyện kia. Đào nói em tìm việc khắp nơi, nạp đơn nhiều chỗ, chỗ em ưng ý thời người ta không nhận thành ra lang bang hơn cả năm nay, cha em đã nghỉ hưu, đâu còn quyền lực để xin việc cho em, nghe Đào nói thế. Tấn Kha suy nghĩ hồi lâu rồi nói, anh sẽ xin cho em vào nơi công ty nơi anh làm.

    – Đào nghe nói vô cùng mừng rỡ anh xin được không? Kha nói anh hiện giờ đang là trợ lý cho Tổng Giám Đốc. Việc tuyển chọn người làm trong công ty là do anh, nhưng phải qua Tổng Giám Đốc ký nhận thời mới được vào làm.

    – Nói về Đào đến công ty nạp đơn xin việc, công ty Việt Á bề thế tầm cỡ thành phố. Đào cũng không ngờ địa vị vai vế của Kha lại lớn như vậy. Muốn gặp Kha rất khó phải lên phòng Tổng Giám Đốc mới gặp được. Đào không gặp được Kha chỉ nạp hồ sơ xin việc rồi ra về.

    – Đào được nhận vào công ty Việt Á với mức lương khá cao. Kha trực tiếp đem giấy trúng tuyển của công ty đến nhà Đào. Thật bất ngờ gia đình Đào tiếp đãi Kha thật chu đáo.

    Mới hay vật đổi sao dời

    Thế thời thay đổi vận thời đổi thay

    Nghỉ hưu quyền lực nghỉ theo

    Tìm xin công việc cho con bầm trầy

    Mới hay thế sự ở đời

    Còn quyền còn lực thời còn ông tôi

    Hết quyền hết lực như vôi

    Làm dân vạn đại làm quan nhất thời

    Đến khi thức tỉnh lại rồi

    Mới hay cơ sự ở đời chuyển xoay

    Láy lay, lắm chuyện láy lay

    Lúc mưa lúc nắng đổi thay cuộc đời

    Nói về Cha, Mẹ, của Đào thấy Kha đến, không còn lạnh ngạc như trước kia Ông gọi Đào tiếp đãi Kha thật chu đáo, còn Ông thời lui vào trong.

    – Kha hôm nay là trợ lý cho Giám Đốc công ty đi chiếc xe con bóng loáng đâu còn như trước mang đôi dép trành. Kha, Đào thoải mái chuyện trò bờ rào ngăn cách đâu còn biến tan.

    – Ông Bà Bộ nhìn theo chiếc xe con, mà tiếc thầm trong bụng, thương cho Đào vuột mất con rồng lên mây.

    Đào làm trong công ty Việt Á hơn cả tuần mà không gặp được Kha. Vì Kha đã đi công tác cùng Tổng Giám Đốc qua nhiều nước đến các công ty chi nhánh của công ty Việt Á.

    – Đào làm chung với một số nhân viên làm trong công ty cô nào cô nấy cũng xinh đẹp, đều luôn nhắc đến tên Kha. Ở đời mèo biết mèo, chuột biết chuột, Đào nhìn ra họ cũng yêu Kha. Có những cô đã đến nhà Kha, Đào vô cùng lo lắng, con đại bàng đã sải cánh thời khó mà giữ chân cho được. Đã hai tháng rồi cô không gặp được Kha.

    – Tấn Kha đã hai tháng chưa về nhà nghe nói đi cùng Ông Chủ Bà Hương lòng suy nghĩ Ông Chủ Việt Á là người thế nào mà đối xử với con Bà tốt như vậy. Hôm nay trông Bà thật xinh đẹp, có lẽ vì thấy con đã đạt được ước mơ, tiền của dư ăn, không còn vất vả, khi có của thời dũa ra người, có xấu cũng thành đẹp, huống chi Bà Hương là hoa khôi thời trai trẻ, giờ đây lòng thỏa mãn hưng chí nên người đẹp ra.

    – Thật bất ngờ một chiếc xe con đến trước nhà bà đậu lại, Bà đang kinh ngạc mình làm gì có bà con sang trọng như vậy, cánh cửa xe mở ra, một người khách trông rất giống Tấn Kha bước xuống. Bà Hương quá đỗi bất ngờ đứng như trời trồng nhìn người khách lạ. Người khác lạ sau khi đóng cửa xe nhìn thấy Bà Hương thời không khỏi xúc động suýt chút nữa thời chạy tới ôm Bà Hương.

    Ông khách dằn lòng lấy lại bình tĩnh nói Tấn Kha về nhà chưa? Bà Hương cũng dằn xúc động nói nó đi cùng Ông Chủ hai tháng nay chưa về nhà. Bà dụi mắt xem mình đang mơ hay ngủ. Người xưa biền biệt hơn hai mươi năm bỗng dưng xuất hiện trước mặt bà. Bà gọi nhỏ anh Tấn Nam phải không? Tấn Nam cố dằn lòng không cho nước mắt trào ra Ông bước tới nắm lấy tay bà Hương. Hai người nắm tay nhau vào nhà, Bà Hương ngã vào lòng Tấn Nam người mà Bà đã hơn hai mươi năm chờ đợi, tưởng đâu đã chết giờ sống lại trở về với Bà. Bà không xúc động sao được.

    – Ông Tấn Nam nhìn Bà Hương nói em vẫn đẹp như ngày nào. Anh không ngờ anh lại có người con giống anh như đúc. Nó thông minh không khác gì anh thời con trẻ. Bà Hương nói anh gặp nó rồi sao? Tấn Nam nói Tấn Kha ở bên anh hơn năm nay rồi Tấn Kha làm trong công ty của anh. Bà Hương sững sờ thế ra là vậy, anh đã biết tất cả Tấn Nam gật đầu chỉ biết mới đây.

    – Bà Hương bỗng nổi lên một cơn buồn vô tả hỏi. Anh được mấy người con. Tấn Nam nói trong cuộc hỗn loạn ấy anh đâu còn cơ hội để gặp lại em. Mạng sống chỉ nghìn cân treo sợi tóc. Anh cũng không ngờ em lại mang thai, từ nơi quê hương nửa vòng trái đất xa xôi. Anh đã bỏ lại bao cô gái đã yêu anh. Họ đã có chồng, còn em thời chờ đợi ở vậy mà nuôi con. Anh nợ em quá nhiều biết bao giờ mới trả hết được đây. Anh không có con trai, chỉ có hai người con gái một đứa hiện giờ đang ở Thái Lan. Một đứa hiện giờ đang ở singapore, vợ anh đã ly dị ưng người chồng mỹ từ lâu.

    Cảm thấy cuộc đời tẻ nhạt nên anh mới trở về Châu Á mở ra nhiều công ty để làm ăn quên đi người vợ Tây. Bà Hương nghe Tấn Nam kể Bà khóc vùi như hồi còn trẻ, tiếng điện thoại reo làm hai người sực tỉnh, thì ra có người từ công ty gọi đến. Tấn Nam liền từ giả Bà Hương hai người như không muốn xa nhau. Nhưng rồi Tấn Nam cũng phải trở về công ty giải quyết một số công việc.

    – Năm giờ Tấn Kha đã về chiếc xe con đã đậu trước nhà. Kha lấy trong xe ra nào đủ thứ, thứ nào cũng đắc tiền toàn là hàng ngoại của nhiều nước. Kha nói đáng lý ra con đã về từ sớm, nhưng Ông Chủ vì bận việc đi đâu đó con phải thay thế tiếp khách nên con mới về muộn.

    – Tấn Kha hỏi hai tháng nay Đào có đến nhà chơi không Mẹ. Bà nói Đào cũng thường xuyên đến. Đào nói không gặp con hai tháng nay. Bà nhìn Kha rồi hỏi con thấy Ông Chủ tổng giám đốc là người thế nào?

    – Kha nói con thấy hơi lạ, có lẽ con giống ổng nên ổng coi con như con. Những trọng yếu nơi công ty ổng đều giao cho con. Đôi lúc con thấy có gì đó không ổn làm cho con hết bất ngờ nầy đến bất ngờ khác. Hai đứa con gái Tổng Giám Đốc con đã gặp rồi. Một người ở Thái, một người ở Singapore, đang điều hành công ty. Bà nói hai người con gái giống tây phải không? Kha kinh ngạc sao Mẹ biết Bà hương cười bí mật nói mấy cô nhân viên làm ở công ty nói cho Mẹ nghe. Kha nói hai người con gái Tổng Giám Đốc người Việt pha Tây đẹp lắm mẹ.

    – Bà nhìn Kha rồi nói Cha con còn sống chưa có chết. Và Cha con cũng đã mới đến đây, Mẹ đem hình trên bàn thờ xuống rồi không thờ nữa, ai lại thờ người còn sống. Kha vui mừng không kể xiết Cha lâu nay ở đâu vậy Mẹ làm sao Cha biết Mẹ ở đây mà tìm tới ai chỉ cho vậy.

    – Có lẽ từ ngày Mẹ về đây con hẻm lớn nhà mình là con hẻm lớn đường Âu Cơ, Mẹ hàng đêm thường nghĩ đến Mẹ Âu Cơ nên khiến xui cho Mẹ cùng con gặp được người cha của con. Cha con đã nhận ra con từ lâu con không hay không biết đó thôi. Kha nghe Mẹ nói đã có ý nghi ngờ nhưng không dám chắc. Nhưng vẫn hỏi người đó là ai vậy Mẹ.

    – Con là người thông minh tự mình suy nghĩ hỏi Mẹ làm gì. Kha nói thì ra là Ông ấy, thảo nào Ông coi mình như con, truyền dạy tất cả tài năng kinh nghiệm của Ông, như muốn giao sự nghiệp lại cho mình, Kha thấy mình đã chuyển sang một cuộc đời mới.

    Bà Hương nhìn Kha thở dài nói đúng là con với Đào lắm tường rào ngăn cách, tường rào kia chưa phá vỡ nổi lại thêm tường rào mới. Cha của con vốn trước đây là thượng nghị sĩ trong thượng viện Việt Nam Cọng Hòa.

    – Kha nói con nghe Mẹ kể cha con là Thượng Nghị Viện thời Việt Nam Cộng Hòa, như giờ Việt Nam Cộng Hòa đâu còn đi vào quá khứ làm gì có chuyện ngăn cách giữa con và Đào. Con có biết cha con hiện giờ là ai không? Tấn Kha như nói giỡn không lẽ con là con Ông Tổng Giám Đốc Việt Á. Bà Hương nói không sai. Tổng Giám Đốc tập đoàn Việt Á chính là cha con, Ông Tấn Nam. Lời xác nhận của Mẹ Kha không còn nghi ngờ gì nữa Kha chỉ biết lặng thinh hai gia đình như hai bức tường cao cả mình và Đào khó vượt qua. Tấn Kha thở dài lắc đầu.

    Ở đời lắm chuyện éo le

    Xưa thời chiếu rách hôm nay son vàng

    Nhận cha duyên phận khó thành

    Trong hai chọn một thật là khó khăn

    Nghĩ mình thời hiểu người ta

    Bấy lâu Đào chịu biết bao trận đòn

    Vượt tường nào có dễ dàng

    Đến nay vẫn giữ chung tình cùng ai

    Kha nói Đào rất giống Mẹ tấm lòng vô cùng cao thượng Đào thương con chỉ là một gia đình nghèo. Trong khi gia đình Đào rất giàu. Đào cũng biết con là con của Quốc Gia nhưng vẫn thương yêu con. Mẹ ơi con phải vượt qua lẽ nào con không bằng Đào.

    – Cả đêm Kha trằn trọc không ngủ khổ sở vô cùng nên ngã bệnh may là bữa chủ nhật Kha không đi làm. Bà Hương hoảng quá mau điện thoại cho cha con. Kha nói con không dám điện Mẹ điện đi. Bà Hương liền gọi a lô a lô anh Nam đó hả thằng Kha bệnh rồi, chưa đầy nửa tiếng xe con đã tới. Trời xui đất khiến Đào cũng nghé chơi.

    – Đào chứng kiến tất cả Cha của Kha đã trở về người Cha thương con không khác gì từng chung sống với Kha Ông lo lắng cho Kha. Lại nữa Cha của Kha là Tổng Giám Đốc tập đoàn công ty Việt Á. Đào choáng váng định lén đi về. Kha ngồi dậy nắm tay Đào ở lại, giới thiệu với Cha. Đây là người yêu của con, chúng con yêu nhau từ lâu.

    – Bà Hương liền kể lại tất cả những gì đã xảy ra Tấn Kha nghe đến đâu thời tái mặt đến đó. Bà nói tuy Đào là con cấp cao của Đảng. Nhưng Đào không bao giờ chê Kha là con của Ngụy. Đào vẫn yêu Kha vượt qua bao nỗi khó khăn.

    – Tấn Nam ngồi yên lặng một hồi. Đào nảy giờ đã khóc giờ đây lại đào thêm hố sâu ngăn cách. Cô định lao ra cửa Kha nắm chặt tay không cho Đào đi.

    – Tấn Nam nói vết thương nào lâu ngày rồi cũng khỏi chúng con thế hệ sau nào có tội tình gì. Nam Bắc còn nối liền được thay, miễn là đời sau quên đi quá khứ không còn ngăn cách vứt bỏ thương đau. Cha đã về Nguồn theo chân Quốc Tổ Vua Hùng, cha không phản đối tình yêu hai con. Miễn là Cha Mẹ Đào chấp thuận là được.

    – Kha nghe xong vô cùng cảm động, người cha thật là vĩ đại vượt qua hận thù, hàn gắn lại những vết thương. Đào đã khóc. Tấn Kha nghe Cha không ngăn cản tình yêu liền khỏe mạnh trở lại, liền nói với Tấn Nam con uống mấy liều thuốc là khỏi.

    – Tấn Nam nhìn Bà Hương như nói rằng sức mạnh tình yêu chân thật là sức mạnh không gì ngăn cản nổi.

    Tấn Kha cùng Đào không bao lâu nên nghĩa vợ chồng sống với nhau thật hạnh phúc. Tấn Kha trở thành cô đông lớn thứ nhì trong Việt Á trở thành phó Tổng Giám Đốc. Đào trở thành Bà chủ trong công ty Việt Á.

    – Ba năm sau Ông Bộ dẫn theo một đứa cháu trai đi dạo phố, Ông nói mệt chưa Tấn Thành. Tấn Thành nói con muốn đi chơi nữa Ông Ngoại.
     
  7. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    114. ĐI TÌM CHUYỂN LUÂN THÁNH VƯƠNG

    Thời nay phải nói là rất nay, mới rợi những năm gần đây. Có một cậu con trai nhà giàu Họ Nguyễn tên là Văn Ba, muốn tìm gặp cho được Chuyển Luân Thánh Vương mà kinh sấm thường nhắc đến đã lâm phàm, nhưng không biết người là ai ở đâu.

    Từ ngày có vợ, vợ Văn Ba là Hồng Liên rất phiền lòng không thấy chồng làm ăn mà chỉ suốt ngày nghe ngóng có ai tài giỏi, nhất là xưng Di Lặc thời tìm đến.

    Một hôm Hồng Liên nói thời đại bây giờ nhiều người xưng Di Lặc lắm không dễ gì nhận ra ông nào thật ông nào giả. Em là vợ cũng hiểu thế nào là đúng sai, nên không ngăn cản anh tìm Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Nếu tìm được thời đời anh lên mây cả em nữa, còn tìm lầm người tin lầm người giả, không những tiền mất tật mang, bệnh mù quáng mê muội sanh ra làm hại đời anh mà cả đời em. Em ủng hộ anh đi tìm Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng với một điều kiện khi anh gặp được Chuyển Luân Thánh Vương anh phải về kể lại cho em biết không bỏ sót một chi tiết nào.

    Văn Ba nghe vợ nói thế thời lấy làm mừng.

    Qua mấy ngày sau Văn Ba lặn lội đường xa tìm người xưng là Di Lặc khi đến nơi thấy người ta theo về khá đông Văn Ba lấy làm mừng vị nầy đích thực là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương rồi, nên người ta mới theo về khá đông như vậy Văn Ba có bề khúm núm trước một vị thầy tuổi đã cao ăn mặc uy nghi có kẻ hầu người hạ. Văn Ba thành tâm cúng dường như bao nhiêu người khác hầu cầu mong được phúc báo cũng như sự quan tâm của Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương.

    Văn Ba nhớ theo lời dặn của vợ

    1, là biết rõ việc làm của người ấy

    2, là họ đang làm gì nói gì

    3, là chí hướng họ ra sao

    4, là họ đã làm được những gì

    5, là có lợi gì cho nhân loại, cho non sông đất nước

    6, là họ để lại những gì, con đường của họ ấy.

    Văn Ba ở lại nơi ấy tìm hiểu việc làm của bậc bề trên Đức Chuyển Luân Thánh Vương, Văn Ba thấy Ông Ta giảng thao thao bất tuyệt chuyện trên trời chuyện dưới đất, ba hồi Ông nói theo lời Phật. Ba hồi Ông nói theo lời Chúa. Ba hồi Ông nói theo sấm, ba hồi thời Ông nói theo lệnh Thượng Đế. Văn Ba về kể lại cho vợ nghe. Hồng Liên nghe xong rồi nói Ông ấy không phải Chuyển Luân Thánh Vương đâu Ông ta tự xưng đấy thôi.

    Hồng Liên nói Chuyển Luân Thánh Vương là Vua trên tất cả Vua là Chúa trên tất cả Chúa. Người đến trần gian, là làm cho trần gian trở thành thiên đàng cực lạc. Cần gì phải nói theo Ông nầy Bà Kia. Mà tự mình trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, giải thoát nô lệ, kể cả nô lệ Thần Quyền. người phải có đường mới ra cho nhân loại đi theo, không lệ thuộc vào Chúa hay là Phật, nói chung là không lệ thuộc bất cứ Tôn Giáo, Đạo Giáo nào. Kể cả Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Chuyển Luân Thánh Vương thường là làm việc theo Thiên Ý không có ý riêng chỉ làm theo Ý Trời.

    Còn vị mà anh đã gặp không phải làm việc theo Thiên Ý mà là làm việc cho Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Nên ba hồi nói Phật, ba hồi nói Chúa, ba hồi nói Thượng Đế giáng cơ, làm theo sắc lệnh của Ông nầy Bà kia, một trăm phần trăm là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả. Chuyển Luân Thánh Vương dễ tìm như vậy thời đâu gọi là Chuyển Luân Thánh Vương. Chỉ khi nào người lộ diện cho biết mà thôi. Còn không phải nhờ những người gặp được Chuyển Luân Thánh Vương chỉ cho. Giả sử dù cho gặp cũng không nhận ra được Chuyển Luân Thánh Vương đâu. Văn Ba nghe vợ nói thế liền tỉnh ngộ vô cùng chán nản.

    Không bao lâu Văn Ba nghe người ta đồn rầm lên là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương đã lộ diện đáng mừng hơn nữa chính là người Việt Nam đang chuyển pháp luân ở nước ngoài. Văn Ba liền lặn lội đường xa tìm qua nước bạn. Đến nơi nhìn thấy cơ ngơi của Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương phải nói là bề thế hoành tráng đệ tử lớp lớp phần đông là người Việt Nam đang sanh sống nơi nước bạn ngồi nghe thuyết pháp. Có cả đội ca múa hát ca ngợi Chuyển Luân Thánh Vương, Văn Ba nghĩ đây mới thật là Chuyển Luân Thánh Vương Văn Ba mừng lắm bằng chen lấn vào đảnh lễ cúng dường hầu mong vị Thầy, vị Cha, quan tâm chú ý. Văn Ba cúng dường xong ngồi lắng nghe Chuyển Luân Thánh Vương thuyết giáo.

    Vị Thánh Vương nói Ta là đấng tối cao xuống trần chỉ cần quy y Ta, là Ta đưa về Trời, không còn sa đọa xuống địa ngục. Quyền năng của Ta sao thời Ta nói vậy. Mỗi lần vị Chuyển Luân Thánh Vương quan tâm đến ai là mỗi lần bắt ấn niệm chú làm tiêu tan hết mọi tội lỗi, thọ ký cho lên cõi thiên đàng. Văn Ba mừng quá trở về nước kể lại cho vợ nghe. Hồng Liên nghe xong rồi hỏi.

    Người ấy có nói đến năm màu da Anh Em không? Có nói đến chủ nghĩa Đại Đồng không? Văn Ba nói Ông ấy không làm việc cho chủ nghĩa Đại Đồng cũng như không nói đến năm màu da anh em, chỉ ca ngợi tài năng của Ông mà thôi.

    Hồng Liên lại hỏi. Ông Ấy đang làm việc cho ai? Thiên Ý Cha Trời Thiên Luật Vũ Trụ. Văn Ba nói Ông Ấy làm việc cho quyền năng của Ông.

    Hồng Liên lại hỏi:

    Vị Chuyển Luân Thánh Vương Di Lặc ấy có để lại Kinh Giáo không? Làm rạng danh cho dân tộc Việt Nam không Có ca ngợi Cội Nguồn không? Có nói đến Rồng Tiên không? Văn Ba nói không có Kinh Giáo để lại, cũng không ca ngợi Cội Nguồn, không đá động gì đến con Rồng cháu Tiên. Hồng Liên nghe xong, rồi nói cũng chỉ là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả.

    Theo đúng những gì cơ sấm nói Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương sanh xuống đất nước nào dân tộc nào, thời đất nước đó tỏa sáng, dân tộc đó trổi dậy anh linh, trở thành dân tộc bá chủ năm châu Văn Minh về Tinh Thần lẫn Vật Chất. Đời, Đạo cũng chỉ là một. Tất cả đều tôn thờ Thiên Luật sống theo Thiên Ý. Biến trần gian thành Thiên Đàng Cực Lạc. Theo như lời anh kể vị Chuyển Luân Thánh Vương ấy tự cho mình còn hơn cả quyền Tạo Hóa. Nên mới nói chỉ cần quy y Ông Ta là Ông Ta đưa lên thiên đàng cực lạc. Chỉ cần vài câu Ấn Chú là đủ. Luật Nhân Quả, Luật Vay Trả, Luật Siêu Đọa là do Ông Ta tạo ra chắc. Quả là lừa dối có tầm cỡ.

    Đã là người Việt Nam không làm cho đất nước Việt Nam tỏa sáng, mà chỉ khoe khoang ca ngợi quyền năng quyền phép của mình. Không làm cho dân tộc Việt Nam trổi dậy anh linh trở thành Dân Tộc Thần Thánh. Thời sự giáng sanh xuống Dân Tộc Việt Nam có ý nghĩa gì. Cũng không để lại Kinh Luân Giáo Pháp lấy gì mở hội Long Hoa, vì Hội Long Hoa chính là Truyền Thống Anh Linh Rồng Tiên kết trái đơm hoa kéo dài đến ba nghìn năm. Văn Ba nghe vợ giải thích liền nói không lẽ Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả. Hồng Liên nói giả hiệu một trăm phần trăm. Văn Ba lại một phen nữa thất vọng.

    Cho đến một hôm Văn Ba vô tình thấy trên Faecbook xuất hiện Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương, người nầy thay mặt cho Thượng Đế. Hàng phục nhân loại mở hội Long Hoa đi vào cơ Thánh Đức, Văn Ba mừng lắm qua mấy ngày sau thời tìm đến lễ lạy cúng dường, người ấy xưng là Cha. Qua sự tìm hiểu kỹ người ấy cũng không để lại kinh luân, đôi lúc nói theo Phật, Chúa, nhất là tiếp điển tối cao Thượng Đế, nhưng được cái là ca ngợi Cội Nguồn, Ca Ngợi Quốc Tổ, đề cao con cháu Tiên Rồng. Không lẽ lại là người nầy Di Lặc tái sanh Chuyển Luân Vương xuất thế. Bằng trở về nói lại với vợ. Hồng Liên nghe xong liền lắc đầu đây cũng chỉ là Di Lặc dỏm Chuyển Luân Thánh Vương giả hiệu. Vì sao lại nói như thế.

    Theo như kinh sấm nói Chuyển Luân Thánh Vương xuất thế hàng phục nhân loại con người, đi vào cơ Bất Chiến Tự Nhiên Thành. Có nghĩa là Chuyển Luân Thánh Vương hàng phục nhân loại con người bằng Trí Huệ chính là giáo pháp chân lý của Ngài. Thế gian có gì thời Ngài có nấy để hàng phục.

    Ví dụ: Nhân loại thế gian nhiều thành phần. Thành phần chuyên môn về Văn, thành phần chuyên môn về Sử, thành phần chuyên môn về Triết, thành phần chuyên môn về Thơ, thành phần chuyên môn về Truyện, thành phần chuyên môn về Kinh, thành phần chuyên môn về luận. thành phần chuyên môn về Khoa Học, chuyên môn về Kinh Tế, v.v… Người nầy tuy xưng là Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương, nhưng không có để lại Kinh, Thơ, Văn, Triết, Sử, Truyện, Luận. Chuyển Luân Thánh Vương là vị Tối Cao Trị Quốc người xuất hiện là Luật Tạng Vũ Trụ cũng xuất hiện, trở thành Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp. Pháp Vương của thời Thánh Đức.

    Còn người tự xưng là Chuyển Luân Thánh Vương không có gì cả. Thời lấy gì để hàng phục nhân loại đi vào Cơ Thánh Đức cũng như mở Hội Long Hoa. Văn Ba nghe vợ phân tích xong lấy làm thất vọng nói. Trên đời nầy làm gì có người như thế nội giỏi về Sử không cũng đã khó, nói gì đến giỏi Kinh, giỏi Thơ, Giỏi Triết, giỏi Truyện, giỏi Luật, giỏi Luận. Giỏi Khoa Học. Đời Đạo đều ở đỉnh cao như vậy. Làm gì có con người nầy. Hồng Liên nói khi nào anh tìm ra được con người nầy dù ở giai cấp thành phần nào không quan trọng. Dù người ấy không xưng mình là Di Lặc hay Chuyển Luân Thánh Vương. Thời nhân loại cũng suy tôn Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương.

    Như vậy muốn tìm ra Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương phải nhìn thấy Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật, Luận, do người để lại. Đi vào Cơ Tận Độ. Hết lớp thừa kế nầy truyền trao cho lớp thừa kế tiếp theo cứ như thế theo con đường do Chuyển Luân Thánh Vương đã mở ra đi vào cơ tận độ nhân loại con người kéo dài hàng nghìn nghìn năm.

    Và cho đến một hôm Văn Ba vô tình thấy trên Faecbook Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật Văn Hóa Cội Nguồn, liền nói với vợ anh đã tìm ra Di Lặc Chuyển Luân Thánh Vương rồi. Hồng Liên nghe nói cũng vui mừng từ đó hai vợ chồng thi nhau đọc Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo Luận.

    Hồng Liên nói Kinh, Thơ, Triết, Truyện, Văn, Sử, Đạo, Luật, Luận chính là Huệ Mạng Anh Linh Chuyển Luân Thánh Vương. Vì sự thành tâm mong cầu nên gặp được người mình xưa nay muốn tìm. Nghe được những lời truyền dạy cao siêu phải nói là không thể nghĩ bàn hay luận bàn sự vi diệu của sự truyền dạy ấy.
     
  8. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    115. CÂU CHUYỆN LY KỲ NGU NHƯ BÒ

    Ngày xửa ngày xưa có một đồng cỏ, ngày nào đàn Trâu đàn Bò cũng đến đó ăn, nhưng có một cái ao để uống, nên đàn Bò đàn Trâu không ai muốn nhường cho ai, nên thường xảy ra xung đột lẫn nhau.

    Vào một ngày kia, đàn Trâu nói với đàn Bò để có sự công bằng hể bên nào thắng thời làm chủ cái ao kia, đàn Bò vốn tự cho mình là thông minh, nên gật đầu bằng lòng. Hai bên đấu lý qua đấu lý lại bên nào cũng cho mình thắng không ai chịu mình thua ai. Khi ấy có một đàn sáo bay đến nói lũ Trâu Bò kia dù cho đấu lý đến cả tháng cũng không phân được thắng thua vì không có trọng tài. Vì bên nào cũng cho mình thắng. Đàn Trâu đàn Bò nghe đàn Sáo nói thế cũng có lý bằng nói để có sự thắng thua một cách Công Bằng xin đàn Sáo làm trọng tài cho, đàn Sáo gật đầu.

    Đã có đàn Sáo làm trọng tài bên nào cũng muốn ra đề trước không ai chịu nhường cho ai. Đàn Sáo thấy vậy nói tôi có một cách là hai bên đánh tù tì bên nào thắng bên đó ra đề trước. Đàn Trâu đánh tù tì thắng cuộc bằng ra đề.

    Nầy đàn Bò ai là người ban cho chúng Ta ơn huệ nhiều nhất. Đàn Bò hội ý với nhau rồi trả lời, đàn Bò nói Ông Chủ của chúng Ta chứ còn ai nữa. Đàn Trâu nghe xong lắc đầu nói không đúng, tuy rằng Ông chủ làm chuồng cho chúng ta ở, bỏ rơm cắt cỏ cho chúng ta ăn, xách nước cho chúng ta uống, nuôi lớn chúng ta. Đàn Bò cắt ngang nói thấy công lao của Ông Chủ chưa ngoài Ông chủ ra còn ai ban cho chúng ta nhiều ân huệ như thế, đàn Bò nói lũ Trâu các ngươi thua rồi, ao nước kia thuộc về đàn Bò chúng tôi. Đàn Trâu các ngươi phải tìm ao khác để mà uống.

    Đàn Trâu nói thua hay thắng phải do trọng tài phán quyết đâu phải đàn Bò các ngươi. Đàn Trâu nói người ban cho chúng ta nhiều ân huệ nhất chính là Trời. Trời tạo ra quả địa cầu cho chúng ta sống, quả địa cầu rộng lớn để cho chúng ta tự do muốn đi đâu thời đi, tạo ra cây cỏ cho chúng ta ăn. Trời tạo ra không khí cho chúng ta hít thở, tạo ra nước để cho chúng ta uống. Trời tạo ra mặt trời để chúng ta sưởi ấm, tạo ra những trận mưa có nước tắm mát chúng ta. Nhưng Trời nào đòi hỏi ở chúng ta gì cả.

    Còn Ông Chủ ban cho ta chuồng để ở là nhốt chúng ta lại, bắt chúng ta nằm trong khuôn khổ cướp mất quyền tự do chúng ta. Ông Chủ nuôi chúng ta thời cũng bắt chúng ta cày ruộng kéo bừa, đạp mía, kéo xe đủ thứ khó nhọc. Ông Chủ bỏ rơm cắt cỏ cho ta ăn, xách nước cho ta uống để ta có thịt Ông Chủ bán chúng ta vào lò mổ. Ông Chủ kiếm tiền trên xương máu của chúng ta, có qua có lại chúng ta đâu thiếu nợ gì Ông Chủ không nói là Ông Chủ bóc lột tận xương tủy của chúng ta, ăn trên xương máu của chúng ta. Đâu như Ông Trời ban cho chúng ta đủ thứ. Ban cho chúng ta chúng ta sự sống, sự tự do, sự mưu cầu hạnh phúc. Nhưng Trời nào có đòi hỏi ở chúng ta, dù đó chỉ là một lời cảm ơn. Phi Ân Bất Cầu Báo. Đàn Bò nghe xong chẳng hiểu gì cả nhìn đàn Sáo. Đàn Sáo nói đàn Bò các ngươi thua rồi. Đàn Bò cải thua ở chỗ nào? Đàn Sáo nói Trời có bán các ngươi vào lò mổ không? Đàn Bò nói làm gì có chuyện đó, đàn Sáo lại nói sống bị nhốt, sống tự do lũ Bò ngươi chọn cái nào. Đàn Bò trả lời thế mà cũng hỏi đương nhiên sống tự do hơn hẳn sống bị nhốt rồi. Đàn Sáo lại nói người tạo ra cỏ cho đàn Bò ngươi ăn, tạo ra nước cho đàn Bò ngươi uống, tạo ra không khí cho đàn Bò ngươi thở. Tạo ra quả địa cầu to lớn cho đàn bò ngươi được đi đây đi đó tự do sung sướng, tự do mưu cầu hạnh phúc nhưng không đòi hỏi gì ở đàn Bò các ngươi dù là một lời cảm ơn. Người ấy có hơn Ông Chủ không? Đàn Bò nói hơn hẳn Ông Chủ gấp vạn lần. Đàn Sáo nói đàn Bò các ngươi thua rồi đàn Bò cải thua ở chỗ nào. Đàn Trâu nghe trọng tài đàn chim Sáo phán thế reo hò ùa xuống ao uống nước khoái chí ngâm mình tắm mát dưới ao. Đàn bò thua cuộc kéo nhau bỏ đi đàn chim sáo nhìn theo nói ngu như Bò.
     
  9. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    116. TU VẠN KIẾP NGỘ NHẤT THỜI

    Ngày xửa ngày xưa có một vị thầy tên là Pháp Hải thường cho mình thông thạo đạo pháp ít ai bì kịp. Để chọn một người học trò thật ưng ý liền nghĩ ra một cách người nào từ bỏ lòng Ái Dục, cũng như lòng Mong Cầu Ham Muốn, thời sẽ nhận làm đệ tử.

    Sự chọn lựa ấy cuối cùng Thầy Pháp Hải cũng tìm được một người đệ tử như ý tên là Thông Tuệ.

    Thông Tuệ được nhận làm đệ tử theo học chăm chỉ tu luyện tinh tấn kinh kệ thông suốt, cho đến một hôm Thông Tuệ hỏi thầy Pháp Hải.

    Thưa Thầy đoạn diệt lòng Ái Dục chấm dứt sự Ham Muốn Mong Cầu của mình mới đạt đến đỉnh cao của sự tu hành phải không thầy.

    Thầy Pháp Hải nói đúng vậy:

    Nếu không đoạn được Ái Dục, cũng như sự Ham Muốn Mong Cầu thời không bao giờ đi đến thành quả được.

    Thông Tuệ nói theo con nghĩ sự Ái Dục cũng như lòng Ham Muốn Mong Cầu chính là căn bản của Đạo Giải Thoát đó thầy. Thầy Pháp Hải nghe xong lắc đầu nói con bị Tà Ma nhập rồi nên mới nói như thế Ái Dục, Ham Muốn, Mong Cầu chính là căn bản của Phiền Não. Các bậc chân tu đều đoạn diệt sự Ái Dục cũng như lòng Ham Muốn, Mong Cầu giải thoát sự đau khổ.

    Thông Tuệ nói Thầy là bậc chân tu, tu mấy mươi năm mà không bỏ được sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu. Phải nói sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu của thầy phải nói là rất mạnh, ít ai theo kịp Thầy.

    Bằng chứng Thầy lúc nào cũng ưa mến Tây Phương Ham Muốn Mong Cầu siêu sanh về Tây Phương cực lạc. Thầy là bậc cao siêu còn bỏ không được sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu phải nói là liên tục không lúc nào quên, chỉ một đệ tử tầm thường như con làm sao bỏ được. Thầy Pháp Hải nghe xong như bị một cú sốc mạnh.

    Thông Tuệ lại nói sự Ái Dục lòng Ham Muốn ý Mong Cầu là điều tất yếu tự nhiên của con người, là căn bản cái Gốc của Đạo làm sao mà bỏ được. Nhưng Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu cái gì, mới là đều đáng nói.

    Nếu đó là sự Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu bất chính thời không nên, còn Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu chân chính là việc đáng nên làm. Dù sống trên Tây Phương cũng thế, sống nơi Trần Gian cũng vậy. Biết cái nào cần phải loại bỏ cái nào cần phải duy trì. Thời đó mới chính là quả Trí Tuệ.

    Đã là sự sống thời có lòng Ái Dục sự Ham Muốn Mong Cầu. Ngay cả A Di Đà phát 48 lời đại nguyện không phải là sự Ham Muốn Ái Dục Mong Cầu độ tận nhân loại con người hay sao, quyết chí làm cho ai cũng được như mình đều có sự an vui tự tại cực lạc. Bỏ mất lòng Ham Muốn sự Ái Dục Mong Cầu thời lấy đâu đi đến quả Phật, tuy chân Tâm là Phật, Lương Tâm là Phật Tánh, nhưng muốn thành quả Phật thời phải phát nguyện độ chúng sanh. Thầy Pháp Hải lặng thinh không nói vì Thầy Pháp Hãi đã tỉnh ngộ hiểu rõ lòng Ham Muốn sự Ái Dục ý Mong Cầu chính là căn cội của Đạo Bồ Đề. Lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu không sáng suốt thời chính lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu chính là căn bản tạo ra Phiền Não dẫn đến vô lượng khổ. Còn lòng Ái Dục sự Ham Muốn ý Mong Cầu chân chính. Thúc Dục con người mau thành Đạo Quả chứng quả Ba La Trí Huệ thành tựu vô lượng phước đức an vui tự tại.

    Cho đến một hôm Thông Tuệ lại hỏi thưa Thầy từ bỏ sự giàu sang, xa lánh những báu vật mới thật sự là chân tu có phải không thầy.

    Thầy Pháp Hải nói người tu chân chính đương nhiên phải là như thế.

    Thông Tuệ nghe xong trầm ngâm giây lát rồi nói, thế thời những người ở trên cõi Cực Lạc Tây Phương, hay những cõi Thiên Đàng đều sống trên thế giới châu báu đều là những người phạm giới không phải chân tu. Trong kinh nói cõi Linh Sơn nơi Phật ở cũng toàn là châu báu. Cõi Tây Phương Cực Lạc cũng toàn là châu báu. Nói như Thầy sống trên châu báu đều không phải là chân tu. Như vậy những vị chân tu không nên cầu siêu sanh về thế giới Cực Lạc toàn là châu báu. Mà cầu sanh về Sa Mạc để ở đúng với chân tu là từ bỏ sự giàu sang.

    Thầy Pháp Hải nghe xong tái mặt nói Tao là Thầy hay là Mầy. Thấy Thầy nổi giận quát tháo Thông Tuệ nói con chỉ nói lên sự thật. Tu hành chẳng qua là bỏ cái Ác đi đến cái Thiện. Bỏ sự Mê Muội đi đến Giác Ngộ mà thôi. Lìa bỏ sự giàu sang nơi cõi tạm trần gian, tìm đến sự giàu sang vĩnh hằng trên Thiên Giới. Thầy Pháp Hải nghe những lời ấy liền tỉnh ngộ. Tìm Phật cũng chẳng ở đâu xa mà ngay tại nơi Tâm của chính mình. Quả Phật cũng rất gần chính là tận độ con người hành thiện. Cực Lạc không phải chỉ ở Tây Phương, mà ngay tại trần gian nầy cũng tìm thấy Tây Phương Cực Lạc. Ở ngay trong Chân Tâm của chính mình. Dù ở đâu cũng thế mà thôi. Thiên Đàng, Trần Gian, hay Địa Phủ. Liền ra khỏi tam giới an vui tự tại.

    Thông Tuệ cũng không còn ở đó nữa mà đã bỏ đi không biết là đi đâu. Thầy Pháp Hải tự nói cho mình nghe đi đâu nữa nơi đâu cũng là nhà. Chỗ nào cũng là Cực Lạc an vui tự tại.
     
  10. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    117. GIẢI THOÁT SANH TỬ

    Ngày xửa ngày xưa có vị Tu Sĩ tu mãi mà không chứng được quả Sanh Tử dù đã có lục thông, thấy rõ Thiên Đàng, Địa Phủ. Cho đến một hôm vị Tu Sĩ tìm đến Tôn Sư Chân Nhân hỏi.

    Thưa Tôn Sư: Tu hành giải thoát Sanh Tử là sao?

    Vị Tôn Sư nói: Chân Tâm Chân Tánh làm gì có sanh tử mà tu giải thoát. Chỉ hội ngộ Chân Tâm Chân Tánh cũng như thấu hiểu Lương Tâm của chính mình Minh Tâm Kiến Tánh mà thôi.

    Vị Tu Sĩ lại hỏi: Khi chứng ngộ Minh Tâm Kiến Tánh thành phật rồi có sanh tử không?

    Vị Tôn Sư trả lời: Thành Phật là sống theo Chân Tâm Chân Tánh hành động theo Lương Tâm làm gì có sanh tử. Nhưng xác thân thể tướng của Phật đã có sanh thời phải có tử. Đã vay mượn xác thân tứ đại, thời phải trả xác thân về cho tứ đại. Dù cho đó là xác thân kim cương thời cũng phải có tuổi thọ của nó. Cho nên nói thấy 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp chưa phải là thấy được Chân Tâm Chân Tánh cũng như Lương Tâm Phật Tánh, Thánh Tánh nên chưa diện kiến được Như Lai.

    Những người sống theo Lương Tâm Phật Tánh, Thánh Tánh làm chủ Chân Tâm Chân Tánh, không bao giờ thấy mình sanh tử. Chỉ vay mượn xác thân rồi trả lại xác thân mà thôi. Hết xác thân nầy đến xác thân khác. Kiếp thời mang xác thân Tiên Thiên, kiếp thời mang xác thân Phàm Tục. Kẻ chưa Minh Tâm Kiến Tánh nghĩ xác thân tứ đại là của mình nên tưởng rằng mình có sanh có tử.

    Còn những người sống theo Lương Tâm Phật Tánh làm chủ Chân Tâm Chân Tánh dù trải qua hàng nghìn xác thân cũng không thấy mình sanh tử. Vì đã ra khỏi sanh tử, hiểu rõ chính mình, cũng như hiểu rõ xác thân vay mượn. Đã vay mượn thời phải trả thế thôi.

    Thân xác vay mượn dù có chết, nhưng Linh Hồn nào có mất. Đừng bao giờ sợ chết, vì chết chỉ là trả lại xác thân tạm mượn mà thôi. Bằng chứng là Tu Sĩ đã trải qua vô lượng kiếp. Có những kiếp Tu Sĩ đã từng làm vua Trời. Có những kiếp Tu Sĩ đã từng làm người giàu, cũng có kiếp làm người nghèo vì đã hết phước, có những kiếp làm Quan. Kiếp nầy làm Tu Sĩ. Chân Tâm Chân Tánh, Lương Tâm của Tu Sĩ khi ở kiếp nghèo cũng bấy nhiêu. Khi làm Vua Trời cũng chẳng thêm, giờ đây làm Tu Sĩ cũng chẳng bớt nói chung là Chân Tâm, Chân Tánh, Lương Tâm Phật Tánh, Thánh Tánh dù trả qua vô lượng kiếp cũng không thêm không bớt, dù cho là kiếp chúng sanh hay kiếp phật. Bất Tăng, Bất Giảm, Bấu Cấu, Bất Nhiễm Như Như thường còn mãi mãi.

    Nhưng điều đáng nói ở đây hể Chân Tâm Chân Tánh bị vô minh che lấp hành động trái ngược lại Lương Tâm gieo bao nghiệp ác, thời nhất định bị sa đọa theo nghiệp ác của mình không sao tránh khỏi theo định luật tự nhiên của vũ trụ.

    Nói Tóm Lại: Người sống theo Chân Tâm Chân Tánh, Sống Theo Lương Tâm, Minh Tâm Kiến Tánh thời coi như ra khỏi Sanh Tử.

    Vị Tu Sĩ nghe xong liền tỉnh ngộ thầm nghĩ thì ra giải thoát Sanh Tử chỉ là như vậy, nhận ra Chân Tâm Chân Tánh Lương Tâm của mình là thôi. Thì ra nhân loại con người ai cũng như ai không ai khác ai Chân Tâm Chân Tánh, Lương Tâm đồng nhất y chang nhau. Nên Phật nói Ta thành Phật trước các ngươi, chúng sanh thành Phật sau. Chỉ khác nhau ở cảnh giới Mê và Ngộ. Ác và Thiện mà thôi. Vị Tu Sĩ nói Văn Hóa Cội Nguồn quả là Văn Hóa Chánh Đẳng Chánh Giác. Vị Tôn Sư nói đúng vậy. Vì Văn Hóa Cội Nguồn chính là Văn Hóa Thiên Ý Cha Trời. Văn Hóa Tối Cao Vũ Trụ. Văn Hóa giải thoát sanh tử. Văn Hóa Thầy Nhân Loại và Chư Thiên.
     
  11. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    118. CHỨNG NGỘ GIẢI THOÁT

    Trong thời đại xã hội văn minh, có một người giàu có tên là Ông Hộ sanh được hai trai một gái. Nhất là cô gái út tên là Mỹ Duyên cực kỳ xinh đẹp càng lớn càng mộ đạo, lại thông minh hơn người. Bao chàng trai nhà giàu đem lòng mơ ước tán tỉnh, nhưng không có chàng nào lọt vào mắt xanh của cô.

    Ông Hộ thấy con lớn tuổi bằng khuyên Mỹ Duyên con nên lấy chồng lập gia đình vì tuổi con đã lớn. Mỹ Duyên nghe cha nói vậy bằng nói thời nay mà cha, lấy chồng làm gì cho sớm ba mươi không ế đâu mà sợ. Mấy đứa bạn của con có chồng rồi chẳng may duyên phận rủi ro gặp phải hoàn cảnh không như ý muốn than thở sầu khổ, có đứa không tìm thấy hạnh phúc bằng ly dị. Cuộc thế vô thường sự đời luôn thay đổi, đang hạnh phúc trở thành buồn tẻ, con không chịu được cái cảnh mười hai bến nước trong nhờ đục chịu. Ông Hộ nghe Mỹ Duyên nói như vậy nên làm thinh không nói gì nữa.

    Mỹ Duyên theo Văn Hóa Cội Nguồn thường đến đền thờ nghe Tôn Sư Thiện Hạnh thuyết giáo giảng đạo, đệ tử theo về rất đông. Hôm ấy có một số đệ tử trong đó có Mỹ Duyên thỉnh cầu Tôn Sư Thiện Hạnh giảng về đạo giải thoát. Tôn Sư Thiện Hạnh liền giảng chân lý giải thoát cho hàng đệ tử nghe.

    Tôn Sư Thiện Hạnh thuyết giáo giảng rằng chân Lý giải thoát vô cùng đơn giản, nhưng đi vào hành động giải thoát thời mới khó.

    Ví Dụ: người mê bài bạc, càng mê bài bạc thời càng khổ, dẫn đến tan nhà nát cửa, liền tỉnh ngộ lìa bỏ bài bạc thoát ra khỏi đam mê bài bạc, có nghĩa là quyết tâm giải thoát ra khỏi cảnh giới bài bạc, tìm lại sự bình yên đó là Đạo. Đi vào cốt lõi của tứ diệu đế. Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế, Đạo Đế một cách tự nhiên, dù biết rằng mình chưa bao giờ học qua Tứ Diệu Đế. Vì nhận ra cái Khổ, đi vào cái khổ chính là thói quen kết tập mê bài bạc. Để dứt khổ thời phải đoạn Diệt dứt bỏ thói quen mê bài bạc. ra khỏi cảnh giới cờ bạc tìm lại sự bình yên cho bản thân đó là Đạo. Thức tỉnh con người xa lánh bài bạc đó là Đức.

    Lại nữa người nghiện rượu càng nghiện càng khổ. Thức tỉnh giác ngộ lìa bỏ thói quen nghiện rượu, thói quen nghiện rượu chính là tập quán kết Tập ưa thích trong tâm, đoạn Diệt thói quen ưa thích kết Tập trong tâm, ra khỏi cảnh giới nghiện rượu tìm lại sự bình yên trong tâm đó là Đạo. Đi vào cốt lõi của tứ diệu đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo như một định luật tự nhiên. Muốn giải thoát sự Khổ thời phải đi vào quy luật Tứ Diệu Đế, theo Định Luật Tứ Diệu Đế thời nhất định giải thoát khổ. Tứ Diệu Đế là một công thức tự nhiên công thức Diệt Khổ đi đến an vui gọi đó là Đạo. Biết nghiện rượu là khổ, đoạn diệt thói quen tập quán nghiện rượu là Giải, ra khỏi cảnh giới nghiện rượu là Thoát, đem lại sự bình yên cho bản thân gọi đó là Đạo. Thức tỉnh con người không nên sa đọa nghiện ngập đó là Đức.

    Lại nữa đấu tranh chém giết lẫn nhau dẫn đến kết Tập Hận Thù là khổ. Lấy oán trả oán không sao dứt được Hận Thù khổ chồng lên khổ. Muốn dứt khổ cần phải dứt bỏ sự kết tập lấy oán trả oán gọi là Giải, thoát ra khỏi sự Hận Thù gọi là Thoát. Giải Thoát Hận Thù đem lại sự bình yên cho cuộc sống gọi đó là Đạo. Khuyên người nên mở rộng lòng thương yêu tha thứ cho nhau đó là Đức.

    Lại nữa đất nước mãi rơi vào Nô Lệ là Khổ, nỗi khổ nô lệ là do bỏ Cội lạc Nguồn dẫn đến kết Tập bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu. Muốn dứt trừ từ bỏ nô lệ dẫn đến Khổ. Thời phải đoạn Diệt kết Tập bất nhân, bất nghĩa, bất trung, bất hiếu đối với Cha Ông. Sống có Nhân, có Nghĩa, có Trung, có Hiếu đối với Cha Ông Cội Nguồn đó là Đạo. Khuyên con cháu Tiên Rồng trở về Cội Nguồn tôn thờ Ông Cha đó là Đức. Nói chung chân lý giải thoát sự khổ đi đến an vui là như vậy. Diệt cái Nhân gây ra sự Khổ thời Đạo an vui sẽ thành.

    Rộng lớn hơn nữa là sự Giải Thoát toàn diện, trở lại Thiên Đàng Cực Lạc. Khi nhận thức Trần Gian Bể Khổ, không những là Bể Khổ, mà còn là Trần Gian Cõi Tạm. Là trường thi tiến hóa Linh Hồn. Từ Mê sang Ngộ, từ Ác sang Thiện. Đã gọi là Trường Thi Trần Gian Cõi Tạm Bể Khổ, không có sự Vĩnh Hằng. Vì thế càng Dục Vọng nơi Trường Đời Giả Tạm thời càng khổ do đó phải đoạn Diệt sự ham muốn nơi Trần Gian đi vào kết Tập. Ham muốn Tiền Tài Danh Lợi. Ham muốn ăn sung mặc sướng. Nói chung là Ham Muốn đủ thứ thường tục dẫn đến sự Khổ. Khổ sa đọa xuống các tần Địa Phủ vì hành Ác. Khổ do gieo Nhân bất chính nên gặt quả chẳng lành. Để có được sự an vui Vĩnh Hằng như siêu thoát về Thiên Đàng. Chuyển hướng sự Ham Muốn theo một lộ trình khác. Tức là đi theo con đường Đạo Đức, mà Quốc Tổ đã truyền lại cho đời. Đi theo con đường Đại Đạo Vũ Trụ Thiên Ý Cha Trời. Trở thành Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mệnh, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định. Như một Định Luật Tự Nhiên. Không cần học Bát Thánh Đạo trong tâm cũng tự có Bát Thánh Đạo. Đi đến giải thoát toàn diện qua Định Luật Thập Nhị Nhân Duyên.

    Con đường đi đến kết quả an vui, hay đi đến kết quả khốn khổ đều trải qua Thập Nhị Nhân Duyên. 12 móc xích liên kết tạo ra.

    1, là Chân Tâm Chân Tánh, 2, là Hành, 3, là Thức ý thức nhận thức, 4, là Danh Sắc lục trần, 5, là Lục Nhập lục trần nhập vào lục căn, 6, là Xúc sự tiếp xúc, 7, là Thụ Thọ cảm nhận, 8, là Ái ưa thích, 9, là Thủ bảo thủ, 10 là Hữu hữu là có, căn nghiệp hình thành đầy đủ. Hể có quả nghiệp đầy đủ liền khởi sanh. Khởi sanh là đi vào kiếp mới hễ có sanh thời có tử như một Định Luật Tự Nhiên.

    Nếu Chân Tâm Chân Tánh Bất Minh có nghĩa là không sáng Vô Minh. Đi vào Hành Động Ác tạo ra một chuỗi dài từ Vô Minh Mê Muội. sanh ra Hành Ác, tạo ra Nhận Thức Bất Chính. Tiếp nhận Danh Sắc Bất Chính từ lục trần. Lục trần xâm Nhập vào 6 giác quan. Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, sự tiếp Xúc ấy thành thói quen gọi là Thụ. Thụ Thọ lãnh đi đến là Ái ưa thích, đã ưa thích liền bảo Thủ bám chặt gắng bó không rời. Sanh ra có hình có tướng của nghiệp Ác gọi là Hữu. Đã có nghiệp Ác thời khởi sanh tướng mạng, có tướng mạng thời phải chịu theo Định Luật Tuần Hoàn. Sanh Trụ, Dị, Diệt có nghĩa là Sanh, Lão, Bệnh, Tử. Đi đến chu kỳ một vòng đời. Nếu Chân Tâm Chân Tánh Bất Minh Hành ác thời kết quả một vòng đời con người từ quá khứ đến hiện tại phải nhận lấy nhiều thảm họa tai ương khốn khổ.

    Còn nếu Chân Tâm Chân Tánh Minh Chánh tỏa sáng hành động Chân Thiện tạo ra một chuỗi dài từ Chân Tâm Chân Tánh, hành động tạo tác phúc lành, nhận thức Giác Ngộ. tiếp nhận Danh Sắc từ lục trần những gì tốt đẹp. Nhập vào 6 giác quan, Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý. Sự tiếp xúc Lục Nhập ấy kết tập thành thói quen. Sanh ra cảm tình yêu mến tức là ưu Ái ưa thích. Đi đến Bảo Thủ bám chặc gắng bó. Cảnh giới chân thiện đi vào kết quả. Đã có kết quả liền khởi sanh đi vào sự sống kiếp mới. Thai sanh hoặc hóa sanh. Đương nhiên có sanh thời phải có tử đó là Định Luật của Tạo Hóa. Nhưng kiếp đời của vị nầy phải nói là phước báo vô cùng vô tận vô biên.

    Mỹ Duyên nghe xong liền giác ngộ làm chủ chân lý Định Luật giải thoát đi vào Đạo. Truyền bá Văn Hóa Cội Nguồn độ người gieo trồng Phước Đức. Về sau trở thành Thánh Mẫu. Làm Vương Mẫu một cõi trời. Trường sanh bất tử an vui tự tại.

     
  12. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    VĂN LANG
    SỬ TRUYỆN

    CÂU CHUYỆN
    HỒNG TRẦN

    CUỘC ĐỜI THANH VÂN



    2003

    Lê Văn An


    QUYỂN 1

    Cách đây 3 nghìn 6 trăm 34 năm ở vào thời Hùng Yên Lang. Đời thứ 19 Thời thượng Hùng Vương. Câu chuyện hồng trần cuộc đời Thanh Vân được kể lại như sau.

    Hùng Yên Lang lên ngôi quốc vương vào năm 1634 đến năm 1562 trước công nguyên. Thời ấy nền Quốc Đạo vô cùng hưng thịnh, giang san thái bình, an lạc, no cơm ấm áo Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc.

    Hùng Yên Lang thường thuyết giáo dạy rằng:

    Dân tộc Văn Lang chúng ta là dân tộc con cháu Tiên Rồng. Giọt máu trong người chúng ta là giọt máu của Cha Trời, Địa Mẫu, Lạc Long Quân và Âu Cơ truyền xuống. Cây có cội nước có nguồn, loài chim có tổ con người có tông. Mất đi nguồn gốc Tiên Rồng, như cây không gốc như sông không nguồn, Dân tộc Văn Lang con cháu chúng ta luôn thờ mãi Cội Nguồn là thờ Cha Trời Mẹ Trời, Cha Lạc Long Quân Mẹ Âu Cơ. Với lòng thuận hiếu dân tộc Văn Lang chúng ta luôn được Cha Trời Mẹ Trời che chở phù hộ độ mạng. Khiến cho trên thuận dưới hòa đất nước yên bình, làm đâu được đấy dân giàu nước mạnh, khắp phương Đông không có đất nước nào sánh kịp. Với truyền thống đoàn kết, cùng nhau phấn đấu vươn lên, sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Quốc Tổ Vua Hùng đã truyền dạy.

    Quốc Tổ dạy: Thế gian là cõi tạm Thiên Đàng mới thật chánh quê. Người nào làm trái ý lời dạy của Đức Cha Trời không sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp, Văn Hóa Cội Nguồn, Truyền Thống Anh Linh Dân tộc, làm mất công bằng, bình đẳng, đàn áp những quyền cơ bản con người, quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc, thời sẽ bị Trời giáng họa. Các quan cũng như dân chúng, ăn lộc Trời hưởng phước Trời thì phải gương mẫu Đạo Đức trong đời sống, trong lối sống, trong lao động, trong công việc. Có lao động học tập thì mới có phát minh sáng tạo, nhờ phát minh sáng tạo thời xã hội mới văn minh, xã hội văn minh thời thói hư tật xấu mới được đẩy lùi. Một xã hội tốt đẹp phải loại bỏ những văn hóa độc hại nhơ bẩn, theo bước Cha Ông là có nghĩa theo về với Đạo với Đức. Sống đúng Hiến Pháp, Luật Pháp, hãy tự mình thắp sáng ngọn đuốc chân lý Chính Nghĩa, mà Ông Cha ta đã truyền dạy cho chúng ta. Truyền Đạo Đức cho thế hệ mai sau, đó là nghĩa vụ thiêng liêng mà Ông Cha ta đã giao phó cho chúng ta. Trong các nghĩa vụ thì nghĩa vụ làm trong sạch bộ máy chính quyền là nghĩa vụ cao cả nhất. Đất nước Văn Lang, Tổ Quốc Văn Lang là đất nước cộng đồng xã hội, Đại Đồng 100 bộ tộc anh em Bách Việt Văn Lang, chung sống cùng nhau hướng về Cội Nguồn thái bình an lạc. Đất nước Văn Lang không có kẻ thù chỉ có Đồng Bào anh em, Đó là lời Quốc Tổ dạy, chúng ta hãy nhớ lấy và làm theo, nhờ những lời truyền dạy nầy nên nước Văn Lang thái bình hưng thịnh Độc Lập kéo dài mãi mãi về sau.

    Các thời Thượng Hùng Vương nhờ nền Quốc Đạo nên thiên hạ thái bình no cơm ấm áo.

    Trời xanh xanh, đất xanh xanh

    Lúa, ngô, trải khắp, mây lành giăng giăng

    Dân lành cuộc sống dư ăn

    Thái bình thịnh vượng thường hằng ấm no

    Thờ Trời, Trời đải Trời cho

    Giàu sang trù phú hết lo đói nghèo

    Văn Lang trải gấm phơi màu

    Non sông Tổ Quốc đất trời bình yên.

    Bắc Văn Lang nguyên là nước Xích Quỷ, nước có bảy Bộ phần lớn là đất Giao Chỉ. Không những bằng phẳng rộng lớn, đất đai màu mỡ dân cư đông đúc vô cùng. Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ, ở phía Bắc nước Xích Quỷ phía nam sông Trường Giang chín đời vua Kinh Dương Vương nối tiếp nhau trị vì thiên hạ. Đến đời thứ 10 thời từ niên hiệu Kinh Dương Vương chuyển sang niên hiệu Hùng Vương. Nước Xích Quỷ trở thành nước Văn Lang mở rộng. Hơn một nửa dân số nước Xích Quỷ theo Quốc Tổ Vua Hùng di cư vào Trung Văn Lang, Nam Văn Lang, nhưng dân số vẫn còn khá đông ước định 196 nghìn 099 hộ dân số ước lượng 1 triệu 285 nghìn 239 người. Nước Văn Lang chia làm ba miền Bắc Văn Lang, Trung Văn Lang, Nam Văn Lang. Nước Văn Lang chia làm 23 Bộ nhưng về thời Hạ Hùng Vương chỉ còn có 15 Bộ.

    Thời Thượng Hùng Vương. Đời thứ 19 Hùng Yên Lang lên ngôi Quốc Vương 1634 – 1562 trước công nguyên. Phía Nam cách sông Âu không xa, từ lâu đã hình thành lên nhiều khu phố, buôn bán trao đổi hàng hóa dân chúng phần nhiều là giàu có. Làm nên ăn ra Nông nghiệp, Thương nghiệp, chăn tằm dệt vải, gốm sứ rất là thịnh vượng. Dọc theo hai bên sông Âu rất nhiều khu phố giàu có. Nhưng giàu có nhất vẫn là đô phố Thuận Yến Giang, Phúc Châu người qua kẻ lại lúc nào cũng tấp nập. Người chen sắc áo, hội đình chật ếm, hội hè như nem. Nhất là tòa lâu đài nguy nga rộng lớn, ngựa xe tấp nập nhưng đó không phải là tòa dinh thự của Vua Quan, mà là một Thương Gia giàu có nhất vùng. Người ta thường thấy nơi tòa lâu đài ấy, tà áo thướt tha bóng hồng rực rỡ, đó là một mỹ nhân sắc nước hương trời không biết bao nhiêu người trằm trồ ca ngợi.

    Người chi mà đẹp lắm thay

    Nếu không Tiên Nữ cũng này Hằng Nga.

    Người thiếu nữ xinh đẹp lộng lẫy ấy không ai khác hơn là Thanh Vân. Thanh Vân con gái út, nhưng cũng là con gái lớn, vì người chị của cô sau cơn lâm bệnh nặng đã qua đời. Vị thương gia giàu có bậc nhất đô phố chỉ còn lại một cô con gái duy nhất là Thanh Vân mà thôi.

    Mỗi lần cô xuất hiện trước đám đông thời tiếng xì xào nổi lên không dứt, người chi cốt cách như Tiên. Mặt như hoa, da như tuyết luôn pha sắc hồng, lưng ong, ngực nở, mông tròn, chim sa cá lặn, đổ thành, nước nghiêng, hồ thu trong vét trời xanh, xuân sơn nhường chỗ, liễu cành kém xa. Tiếng như chim hót oanh ca, ai mà nhìn thấy không mê mới kỳ. Không biết bao nhiêu Vương quan công tử, cậu ấm nhà giàu đến dạm hỏi. Nhưng Cô không chọn được ai, Cô nổi tiếng là người khó tánh kén chọn, điều nầy làm cho cha Cô lo lắng không yên. Nhìn từng đàn én xuất hiện dệt mộng đưa thoi trên bầu trời xanh lơ thăm thẳm, như báo hiệu mùa đông sắp tàn. Cây mai, cây đào trụi lá khoe mình đón xuân, thế là sắp thêm một tuổi, con người mới sanh ra cứ thêm một tuổi có nghĩa là đã đi lần về cõi tử.

    Thịnh Ông thương gia giàu nhưng lúc nào cũng buồn rười rượi, Thanh Vân nũng nịu nói:

    Thưa Cha, Cha buồn vì con chưa chịu lấy chồng sao? Con đi theo chồng thì Cha bầu bạn với ai, Mẹ con đã chết từ lâu. Con nghĩ Cha cũng lạ làm sao không cưới thêm má hai để khỏi cô đơn trên bước đường đời, nhất là tuổi về già không có con trai nối dõi.

    Thịnh Lão Gia nghe con nói thế không lấy gì làm giận vui vẻ nói đùa:

    Đêm nào Cha cũng thấy Mẹ con về ở với Cha thì làm sao Cha cưới má hai cho được. Hơn nữa thể xác Mẹ con tuy mất nhưng linh hồn mẹ con có mất đâu, cuộc đời con người như bóng câu vụt qua cửa sổ thoáng cái là trở về với cát bụi, Cha Mẹ sẽ gặp lại nhau. Con nhìn kìa tà tà bóng ngả về Tây, Cha đâu còn trẻ gì để Cha theo Mẹ cho trọn tình trọn nghĩa.

    Thanh Vân nghe Cha nói mà không khỏi thở dài:

    Tình nghĩa vợ chồng là như thế ư? Tốt đẹp như thế ư? Chung thủy thiêng liêng cao đẹp làm sao.

    Thịnh Lão gia thấy Thanh Vân có vẻ hơi buồn liền an ủi nói:

    Con yên trí mà đi lấy chồng. Chú Ba, Chú Tư con cũng gần ở đây ngày nào cũng qua chơi Con không thấy sao. Hơn nữa Cha cũng mơ có cháu ngoại lắm.

    Với vóc dáng mảnh mai đầy vẻ yêu kiều tiếng nói êm dịu như tiếng chim hót. Thanh Vân nũng nịu nói với Cha:

    Con chưa muốn có chồng là vì Con sợ xa Cha lắm, người Cha yêu kính nhất của đời Con.

    Thịnh Lão Gia lúc nào cũng tỏ vẻ hài lòng về tài ăn nói dịu ngọt khéo léo của Con. Nhất là Lão nhìn Thanh Vân tuy lớn tuổi hơn 17 nhưng tính nết vẫn còn trẻ con lắm, thật hồn nhiên và trong sáng làm sao. Vuốt chòm râu đen nhánh dài thòn, ông nhìn người con gái út thân yêu, liền nhớ đến người chị xấu số của nó đã qua đời hơn mấy năm. Hai chị em nó giống Mẹ như đúc, phong tư tài mạo ai bì, tràn đầy phúc hậu, thuộc hàng tài danh. Mùa xuân đã đến, Thịnh Gia buôn bán giao dịch người ra vào càng thêm tấp nập, người ăn kẻ ở Thịnh Gia lên đến hàng trăm người, tiền của vô ra như nước, châu báu ngọc ngà càng lúc càng nhiều. Nhưng cũng không bao giờ thấy đủ, được cái nầy thì mất cái kia. Được cảnh giàu sang phú quý của cải không làm gì tiêu xài cho hết, thì vợ chết sớm không có con trai nối dõi nối dòng. Còn nhà người ta nghèo nhưng vợ chồng sống đến răng long đầu bạc, con cháu đầy đàn đông vui, ông đã nhận thức ra nhà nghèo cũng có cái quý của nhà nghèo, mà nhà giàu nhiều khi mơ ước cũng không được.

    Thịnh Lão Gia là người luôn luôn tôn trọng sự tự do, tôn trọng sự quyết định lựa chọn của mỗi con người. Và đối với Thanh Vân ông cũng thế, luôn luôn tôn trọng sự quyết định của con. Nhưng ông không khỏi lo lắng cho tuổi xuân con gái cứ mãi trôi qua, nói đến xuân người thì không bao giờ lặp lại.

    Thiên hương sắc thắm trời cho

    Thời gian đâu thể không lo phai tàn

    Hỏi người trong khắp thế gian

    Hoa già hoa cũng phai tàn sắc hoa.

    Cho đến một hôm, trải qua bao ngày tháng thơ lặng ác tà, hè lại trở về trên nhành phượng đỏ, sen pha sắc hồng. Thanh Vân nói với Cha:

    Thưa Cha lâu lắm Con chưa về thăm quê Ngoại con nhớ Ngoại lắm.

    Thịnh Lão Gia nghe con nói thế, nét mặt ông bỗng già đi như lo lắng điều gì, ông nói:

    Mấy năm nay thời tiết rất khác thường, Con thấy đó vừa rồi có trận mưa trái mùa khủng khiếp nước sông còn lớn lắm. Con biết rồi đường về quê Ngoại qua nhiều sông lớn.

    Thanh Vân thấy Cha lúc nào cũng lo lắng cho mình thì cảm động, nhìn Cha có vẻ già đi Thanh Vân thương Cha vô cùng, để an ủi Cha Thanh Vân nói:

    Không sao đâu Cha, con người vốn sanh ra đều có số có phần, kiếp nạn là do nhân duyên nhiều kiếp trước, có muốn tránh cũng không thoát khỏi được đâu. Theo con nghĩ trời đã mưa lớn như thế thì không còn mưa lớn nữa đâu. Nếu Cha cảm thấy lo lắng thì Con chờ dịp khác vậy.

    Thịnh Lão Gia rất hiểu Con gái lão tuy con bé nói thế, nhưng lòng nó buồn lắm có khi buồn đến hằng mấy tháng, tính con bé là thế mà. Nói về Thịnh Lão Gia vốn biết Thanh Vân ưa thích Hoa Mai khi mùa xuân về, Hoa Sen khi mùa hạ đến. Nên trong khu vườn nhà rộng lớn, ông cho người trồng rất nhiều Mai, cũng như cho xây nhiều hồ Sen. Quê ngoại Thanh Vân ở Đông Hải Châu nhiều loại hoa sen rất đẹp.

    Thịnh Lão Gia vuốt chòm râu ngẫm nghĩ:

    Có lẽ con bé nhớ Ngoại vì lâu lắm rồi chưa về thăm Ngoại. Nhân dịp hè nầy về quê Ngoại thưởng thức Hoa Sen. Thịnh Lão Gia nghĩ Thanh Vân nói cũng có lý, nay là mùa hè nào phải cuối thu sang đông, mà có mưa bão lớn thôi thì để cho nó về thăm Ngoại vậy, chọn mấy người giỏi võ cũng như giỏi bơi lội là không có gì xảy ra đâu. Hơn nữa bạn bè giao dịch làm ăn buôn bán cùng khắp, có gì xảy ra cũng không thiếu người sẽ giúp đỡ.

    Thịnh Lão Gia đã nghĩ thông suốt liền nở nụ cười gượng ông vui vẻ nói:

    Con là đứa con yêu quý nhất của Cha, nên Cha mới cẩn thận cân nhắc nếu có bề gì thì Cha ân hận suốt đời, Con biết rồi hiện giờ Cha chỉ có một mình Con là đứa Con duy nhất. Trên đường về quê ngoại Con phải hết sức cẩn thận, tuy đất nước thái bình, nhưng cũng không ít người thấy sắc thấy vàng, thì lóa cả mắt không còn kể gì đến nhân tính làm càng làm ẩu, thì khổ cho Con.

    Thanh Vân thấy Cha đồng ý bằng lòng cho về thăm quê Ngoại nét mặt liền rạng rỡ tươi như hoa mùa xuân hừng sáng. Thanh Vân nắm lấy tay Cha như nắm lấy một tình thương vô hạn nói:

    Con cảm ơn Cha.

    Nhìn Thanh Vân vui vẻ mặt tươi như hoa buổi sáng Thịnh Lão Gia cũng cảm thấy vui theo. Vì sự an toàn cho Thanh Vân, Thịnh Lão Gia sắp xếp vô cùng chu đáo, nào là xe ngựa, nào là người hầu cẩn thận hầu bảo đảm cho một chuyến đi xa của Con.

    Nói về Thanh Vân mai là ngày về thăm quê ngoại nên trằn trọc mãi ngủ không được. Thanh vân cứ mãi vẫn vơ suy nghĩ hơn bảy năm rồi còn gì, quê Ngoại đẹp lắm.

    Bến nước bờ tre đầm gợn sóng

    Mênh mông đồng ruộng cánh cò bay

    Thong thả ngư ông buông mẻ lưới

    Mục đồng thổi sáo, bóng chiều sa

    Lòng quê êm ả vời con nước

    Khói dậy lều tranh ánh trăng soi

    Quây quần bếp lửa nghe ấm áp

    Hạnh phúc trào dâng, tiếng hát ca

    Ôi miền quê ngoại, miền yêu mến

    Gió đàn, quê hát rộn thiết tha.

    Thanh Vân nghĩ:

    Không biết Ngoại còn khỏe mạnh như ngày xưa không, hồi đó mình còn nhỏ chạy nhảy tung tăng, ôi sen trắng, sen đỏ, sen hồng, đẹp lắm.

    Nghe luồng gió lạnh Thanh Vân nhìn ra cửa sổ thấy chị hằng mờ nhạt về Tây.

    Gương nga mờ nhạt đầu non

    Sao lòng cứ mãi bâng khuâng thế nầy

    Về quê thăm có mấy ngày

    Vẩn vơ không ngủ ôi nầy vẩn vơ.

    Thanh Vân không hiểu là mình nhớ ngoại, hay là xa nhà nhớ Cha mà đêm nay không hề chợp mắt.

    Tiếng gà rộn rã thi đua

    Hừng đông bừng dậy xa xa chân trời

    Gió như réo gọi con người

    Đã tàn cơn mộng hết rồi đêm đen.

    Khu dinh thự nguy nga rộng lớn đã phá tan đi sự yên tĩnh bởi tiếng ồn ào của xe ngựa lẫn tiếng chào hỏi của những người làm việc. Ánh bình minh không như mọi ngày yếu ớt xuyên vào cửa sổ, như báo rằng dậy đi Thanh Vân, nhưng Thanh Vân vẫn còn nằm ì ra đó ngáp lên, ngáp xuống.

    Tiếng Thịnh Lão Gia vang lên:

    Nay là ngày về quê Ngoại thế mà giờ nầy con bé vẫn chưa dậy, đúng là ăn chưa no lo chưa tới.

    Thanh Vân xuất hiện nói:

    Con dậy từ lâu rồi.

    Cô nhìn thấy trước sân thấy một chiếc xe ngựa không kém gì bậc Vương quan cùng những người hầu đã chờ sẵn ở đó. Nhìn sự chuẩn bị chu đáo của Cha, lo lắng của Cha. Thanh Vân càng thêm hiểu tình thương của Cha dành cho Cô như là núi cao biển cả không gì đền đáp nổi. Thanh Vân vào phòng trang điểm sơ sài nhưng cũng đủ làm cho người ta ngơ ngẩn khi Thanh Vân vội vã bước ra. Thịnh Lão Gia nhìn Thanh Vân hôm nay trông lộng lẫy làm sao, có lẽ là do bộ đồ tơ lụa quý hiếm may theo kiểu đời mới thoát ly những sự ràng buộc tầm thường, mà người phụ nữ chỉ biết khép mình sau bức tường của những gì cũ kỹ lạc hậu lỗi thời. Thanh Vân như nàng Tiên từ biệt Cha lên xe ngựa cùng số tuỳ tùng xuất phát ra đi, Thịnh Lão Gia nhìn theo chiếc xe ngựa cho đến khi mất hút, ông cứ mãi linh cảm như có điều gì không may đến với Con.

    Đây nói về Thanh Vân như cánh chim bay về miền quê sông nước.

    Rộng đồng xanh tận chân trời

    Hiu hiu gió thổi cánh cò bay xa

    Đường mòn theo lối chân quê

    Nao nao sông nước lũy tre điệp trùng.

    Thanh Vân đang chìm mình theo miền quê sông nước, đồng ruộng lũy tre hầu như không hay biết tiếng xe ngựa lạch cạch trên bước đường dài.

    Bỗng tiếng nói vang lên:

    Cô Chủ.

    Thanh Vân nói:

    Kiều My, đừng gọi chị là cô chủ nữa, hãy gọi là chị Vân.

    Kiều My nói:

    Dạ em hiểu rồi. Chị Vân chúng ta sắp đến con sông lớn rồi đó kìa bến đò sông Âu.

    Thanh Vân, Kiều My lúc nào cũng tâm đầu ý hợp nói cười cười không bao lâu thời tới bến đò sông Âu. Bến đò sông Âu tuy vài ngôi nhà đơn sơ nhưng cũng buôn bán ra phết, kiểu cách lắm. Bến đò sông Âu không kém gì bến đò sông Lạc, khách qua lại đông nườm nượp, nhưng vì trận mưa lớn vừa qua sông nước chảy xiết, nên cũng thưa thớt ít người qua lại vì bầu trời vẫn còn âm u. Nơi bến đò sông Âu cũng có nhiều tay anh chị đao búa, thấy Thanh Vân, Kiều My đẹp tựa Hằng Nga thì thèm nhỏ dãi mấy lần định ra tay, nhưng nhìn thấy những tay theo hầu, toàn là những tay đệ nhất kiếm đao thời ớn lạnh. Kiều My thuê chiếc thuyền to nhất, chở riêng những người theo Thanh Vân qua sông. Thuyền đang xuôi theo dòng nước ra đến giữa sông, thì bầu trời bỗng trở nên khác lạ mây đen kéo tới đen nghịt, sau đó là gió to sóng lớn sấm sét rền trời rền đất. Thế là một cơn mưa trút xuống lớn chưa từng thấy.

    Những người chèo thuyền hốt hoảng la lớn:

    Nguy cơ tới nơi rồi!

    Thanh Vân cũng kinh hồn bạt vía, nhưng sau đó lấy lại bình tỉnh la lớn:

    Hãy niệm mẹ Âu Cơ cứu chúng ta.

    Ào ào nước đổ gió to

    Sông Âu cuồn cuộn sóng xô ầm ầm

    Khắp nơi trắng xóa một màu

    Chỉ nghe nước chảy, nước tràn nước dâng.

    Nói về Thịnh Lão Gia khi Thanh Vân rời khỏi khu dinh Thự, thì tâm hồn cứ mãi không yên liền cho người phi ngựa dò la xem thử Thanh Vân đi đến đâu rồi. Thịnh Lão Gia bỗng thấy một nỗi buồn cô đơn kỳ lạ. Lặng nhìn căn nhà con gái thấy vắng hiu quạnh quẽ làm sao.

    Bóng hồng vừa mới đi xa

    Căn nhà quạnh quẽ còn pha sắc buồn.

    Thịnh Lão Gia thấy trời đất mỗi lúc một xấu đi mây đen mỗi lúc một nhiều không bao lâu thời phủ kín bầu trời trong lòng nổi lên kinh hãi, tiếp theo đó là sấm sét ầm ầm cuồng phong nổi dậy những cơn mưa thi nhau trút xuống xối xả lớn chưa từng thấy. Thịnh Lão Gia vô cùng nóng ruột chờ đợi thông tin, trong cơn mưa một bóng người xuất hiện.

    Thịnh Lão Gia vừa thấy người đó liền hối hả hỏi ngay:

    Con bé đi đến đâu rồi, hãy biểu nó quay về gấp.

    Người ấy giọng run run nói:

    Thưa Lão Gia, Cô Chủ đã xuống thuyền qua sông rồi.

    Thịnh Lão Gia nghe xong thì mắt hoa đầu choáng ngả sấp xuống nền nhà không còn biết gì nữa. Làm cho ai nấy đều hốt hoảng xúm nhau cứu ông chủ. Ngoài trời mưa to gió lớn gào thét càng lúc càng dữ dội. Khi Ông tỉnh dậy thì mưa to gió lớn không còn, Ông nào có biết trận mưa kéo dài hơn ba ngày ba đêm, dân chúng bị cuốn trôi bỏ mạng rất nhiều.

    Thịnh lão Gia vừa tỉnh dậy thì hỏi ngay:

    Ta đã bất tỉnh bao lâu?

    Thưa Anh cả:

    Anh đã bất tỉnh hơn năm ngày năm đêm rồi.

    Thịnh Lão Gia giật mình hỏi lại:

    Chú Ba, Chú Tư nói sao, tôi đã bất tỉnh đến năm hôm rồi sao?

    Chú Ba, Chú Tư thưa:

    Vâng đúng vậy Anh cả.

    Thịnh Lão Gia lại hỏi:

    Hai chú dò la tin tức con bé không?

    Chú Ba, Chú Tư nói:

    Thưa anh cả nước vẫn còn ngập mênh mông lớn quá, chưa dò hỏi gì được.

    Thịnh Lão Gia nghe xong chỉ biết thở dài. Rồi im lặng một sự im lặng cô đơn, đôi dòng lệ cứ chảy dài theo đôi má vợ mất, con mất, nay tới Thanh Vân ra đi không bao giờ trở lại thì còn nỗi buồn nào hơn nữa. Trong phút chốc nỗi già nua chợt đến nhanh, đầu Thịnh Lão Gia lốm đốm thêm nhiều tóc bạc. Căn nhà rộng lớn vẫn như ngày nào, nhưng giờ đây sao mà đầy vẻ âm u. Dòng Tộc, Họ Hàng, anh em người ăn kẻ ở vẫn đông đúc nhưng Thịnh Lão Gia vẫn thấy cô đơn, sự cô đơn chìm đắm trong mùa đông lạnh giá, không thấy ánh sáng mặt trời. Một nỗi cô đơn mất đi sự sống của những tháng ngày còn lại.
     
  13. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Ở cùng thời Thịnh Lão Gia, ở bộ Ninh Hải dân chúng vẫn còn thưa thớt không như Bộ Giao Chỉ, độ khoảng 167.776 hộ, nhưng chỉ có Huyện Hải Hậu, Đông Hải Châu là đông dân nhất, lại có nhiều sông hồ kinh rạch chảy qua.

    Nổi tiếng vùng đông bắc Bộ Ninh Hải nầy có vị quan Bố Chính tên là Chí Nhân. Vị quan nổi tiếng là mẫu mực thanh liêm, hết lòng lo cho dân cho nước, tiếng thơm bay xa lan khắp dân chúng. Dân chúng Huyện Hải Hậu coi quan Bố Chính như là Cha Mẹ của mình. Hàng năm Quan Bố Chính Chí Nhân đều được ở Bộ ở Châu khen thưởng, gia đình Quan Bố Chính Chí Nhân đang sống yên ổn, thì có công văn ở Bộ ra lệnh, Quan Bố Chính Chí Nhân đi diệt con Quỉ râu xanh. Nhận được bức công văn, Chí Nhân đọc cho Mẹ cùng Vợ nghe, Chí Nhân là người chí hiếu chuyện gì cũng thông qua Mẹ.

    Bức công văn nội dung như sau: Con Quỉ Râu Xanh xuất hiện đã lâu, làm hại dân lành không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt đã tử nạn vì con Quỉ ấy. Hùng vương ra chiếu chỉ mỗi Bộ chọn ra một người tiêu diệt con Quỉ Râu Xanh. Bộ Ninh Hải không thể tìm đâu ra người tài để diệt trừ con Quỉ đành phải lệnh cho quan Bố Chính diệt trừ con quỉ cứu dân thoát kiếp nạn. Việc nầy Bộ đã báo cáo lên Quốc Vương rồi Quan Bố Chính nhanh chóng thi hành mệnh lệnh.

    Đọc xong công lệnh cho Mẹ và Vợ nghe Chí Nhân lấy làm vui mừng hỏi:

    Ý Mẹ ra sao? Mẹ chỉ dạy cho con rõ.

    Mẹ Chí Nhân nói:

    Việc nầy con còn hỏi Mẹ sao, con là quan triều đình thì con cũng phải hiểu khi Nước cần Dân tiến cử, thì phải hết lòng mà phụng sự trọn đạo Hiếu Trung. Đây là niềm vinh dự cho gia đình Ta, con cứ yên tâm lên đường mà diệt trừ yêu tinh quỉ quái.

    Bừng bừng khí phách chí nam nhi

    Diệt quỉ trừ yêu có ngại gì

    Một kiếm tung hoành nơi trận địa

    Rừng đao núi kiếm có sợ chi.

    Thế là quan Bố Chính Chí Nhân một mình một ngựa lên đường, đi suốt ngày lẫn đêm nhắm dãy núi Hùng Phong Sơn phi tới. Nói về con Quỉ Râu Xanh mấy ngày nay no bụng ngày nào cũng nuốt hơn năm mạng. Nhìn bộ mình đầy lông lá, hai con mắt to như hai cái chum luôn luôn phóng ra những tia yêu quang khủng khiếp. Mười móng vuốt nhọn hoắt dài hơn thước cong vút đến ghê sợ. Con Quỉ Râu Xanh mài răng chờ đợi ăn thịt người cuối cùng đó là Chí Nhân. Chí Nhân đã nhìn thấy ngọn núi Quỉ cao chót vót trong dãy Hùng Phong Sơn.

    Con Quỉ Râu Xanh hình như đánh hơi được người mới đến. Liền bay xuống ăn thịt, Chí Nhân thấy một đám mây đen cuồn cuộn phủ tới liền biết đó là con Quỉ Râu Xanh, phi thân bay lên không trung, rút kiếm chém vào đám mây đen cuồn cuộn phủ tới. Con Quỉ vì xem thường đối thủ trúng liền một kiếm đứt mất một cánh tay, máu phụt ra đỏ cả khu rừng con Quỉ Râu Xanh đau đớn rú lên rung chuyển đất trời. Thế là trận chiến giữa con Quỉ Râu Xanh kéo dài ba ngày ba đêm cuối cùng Chí Nhân cũng diệt được con Quỉ râu xanh ấy. Tuy thắng trận nhưng Chí Nhân cũng đã bị thương rất nặng, may là ông vẫn trở về nhà được trước sự hoan hô thám phục của dân chúng tiếng tăm Chí Nhân từ đó lừng lẫy khắp nơi. Được sự quan tâm của triều đình Chí Nhân được các thầy thuốc tài giỏi khắp nơi đến chửa trị nhưng không khỏi và Ông đã qua đời.

    Chí Nhân qua đời để lại bao nỗi buồn thương tiếc cho gia đình cũng như bà con dân Huyện Hải Hậu. Cuộc đời làm quan thanh liêm, hết mực thương dân nên gia đình Bố Chánh không có gì là khá giả lắm. Ông chết đi để lại gánh nặng đè lên người hóa phụ, Mẹ chồng vì quá thương con nên lâm bệnh nặng đột quỵ nằm một chỗ. Liễu Huệ mất chồng đã khó khăn giờ lại thêm chồng chất khó khăn.

    Nói về mẹ Chí Nhân từ khi đột quỵ đến giờ bà nhìn thấy con dâu trăm bề cơ cực. Con dâu lúc nào cũng hết lòng phụng sự cho Bà mà không có một chút than vãn. Bà lấy làm cảm động cầm tay con dâu nước mắt ràn rụa nói:

    Liễu Huệ con dâu của Mẹ tốt bụng quá, tiếc rằng thằng Chí Nhân có được người vợ tốt như thế nầy không sống để mà hưởng phúc. Chí Nhân chết còn quá trẻ để lại Con cô độc một mình, trong khi bụng mang dạ chửa.

    Liễu Huệ vừa đút cháo cho mẹ ăn, vừa an ủi. Liễu Huệ nói:

    Chí Nhân về trời thì còn có Con, Con là con dâu của Mẹ cũng là con của Mẹ. Mẹ chuẩn bị có cháu nội nữa, Mẹ cứ yên tâm mà trị bệnh.

    Mẹ Chí Nhân nghe Liễu Huệ nói thế thì an ủi vô cùng. Liễu Huệ ngày ngày thay chồng sớm hôm lo cho Mẹ.

    Nét đẹp tâm hồn đẹp biết bao

    Lòng Vàng Đức Hạnh sáng hơn sao

    Tuổi xuân con đã dâng cho mẹ

    Khốn khổ trăm bề cảnh lao đao.

    Một hôm Liễu Huệ đi chợ về, nhìn thấy mấy thằng ăn trộm từ trong nhà vọt ra. Liễu Huệ la làng:

    Ăn trộm! Ăn trộm!

    Bà con lối xóm nghe chạy tới thời bọn ăn trộm trốn đi hết rồi, dân làng hỏi:

    Bọn chúng là ai thế? Báo Quan, báo Quan.

    Nhưng nào ai trả lời được bọn chúng là ai. Liễu Huệ chạy nhanh đến chỗ cất bạc cất vàng thì điếng cả người, bọn trộm lấy đi tất cả rồi, Liễu Huệ không dám nói với Mẹ chồng sợ Mẹ chồng biết thì bệnh nặng thêm.

    Tai ương dồn dập liên miên

    Họa chồng lên họa hết phương sống còn

    Trần gian bể khổ mịt mù

    Tai bay họa gởi khốn cùng lao đao.

    Nói về Liễu Huệ đến Huyện Nha nhờ truy tìm ăn trộm, Huyện Nha là nơi Chí Nhân thường làm việc, nơi mà Liễu Huệ vẫn thường lui tới, vừa đến cổng Huyện Liễu Huệ đứng sững lại vô cùng kinh ngạc, vì nơi đây mới lạ hoàn toàn, Liễu Huệ nhìn hai tên gác cổng như hai tên bợm cũng mới nốt.

    Liễu Huệ lẩm bẩm:

    Vật đổi sao dời, thay đổi nhanh quá nhanh đến nỗi không thể nào ngờ được.

    Cũng phải thôi Quan Huyện hôm nay nào phải Chí Trung của mình, mà là Ông Quan Bố Chính Tri Huyện mới. Ông Ta là tay háo sắc đã mấy lần đến nhà Liễu Huệ thăm viếng hương khói Chí Nhân, nhưng thật ra Ông Ta đến là để nhìn Liễu Huệ, vì Liễu Huệ quá đẹp Ông Ta chưa từng thấy bao giờ. Ông Ta ao ước được ôm Liễu Huệ một lần có chết cũng được, Liễu Huệ là người thông minh chỉ nhìn sơ qua cũng biết là tay háo sắc tiểu nhân và người nầy sẽ làm hại dân chúng, cũng như lập mưu lập kế hãm hại đời mình.

    Nhà Liễu Huệ đến Nha Huyện rất gần chỉ hơn dặm. Liễu Huệ đến Nha Huyện, nhưng cứ chần chừ mãi không muốn bước vào cổng vì nó xa lạ quá nhưng không lẽ tới đây rồi về, thôi thì vào vậy tới đâu hay tới đó. Hai tên lính gác cổng thấy Liễu Huệ đẹp quá, chúng như con Mèo nhìn thấy miếng mỡ, với bộ dạng muốn ăn tươi nốt sống con mồi.

    Liễu Huệ rùng mình nghĩ:

    Chúng là hai tên lính canh cửa, mà còn như thế xem ra chúng được Ông Chủ huấn luyện tỉ mỉ. Hai tên lính gác cổng mà còn như thế, thì Ông Quan Tri Huyện không nói cũng biết là tay háo sắc dê xồm như thế nào rồi.

    Bốn con mắt hau háu nhìn Liễu Huệ đi vào cổng bước thẳng vào Huyện Nha, hai tên gác cổng liền cúi đầu chào, như nói rằng bà là người có phúc sẽ được quan trên chăm sóc chu đáo. Liễu Huệ bước vào sân Nha rồi tiến thẳng vào nơi làm việc của Chí Trung ngày nào. Nơi đây hầu như thay đổi hoàn toàn cả sự bố trí lẫn màu sắc, vị Quan Bố Chánh Tri Huyện ngồi chễm chệ trên chiếc ghế bành sang trọng chạm Rồng trổ Phụng, trông thật uy nghiêm, ai nhìn thấy cũng phải khiếp sợ trước uy quyền của Ông Ta.

    Nhìn cái mũi tẹt, mắt cặp lương ti hí, da mặt sần sùi như tổ ong lúc nào cũng hích hích hai lỗ mũi như hai ống giang đánh hơi mùi lạ. Mười những ngón tay như quả chuối ngự đeo đầy nhẫn thể hiện mình là tay giàu có quyền thế. Với bộ mặt sàm sỡ chăm chăm nhìn Liễu Huệ như cú vọ diều hâu, với kiểu mô đênh áo quần lòe loẹt của những bà diêm chúa trùm sò nơi đàn điếm. Vị Quan mới trông giống Ma Cô pha trò ngộ nghĩnh làm sao, chẳng khác gì một chú hề trên sân khấu. Làm cho khán giả lúc nào cũng ôm bụng mà cười, nhìn sơ qua tính cách, nhân cách, âu phục cũng biết là tay chẳng hiểu gì Nhân Cách, Đạo Đức của một vị Quan, mà chỉ phô bày vẻ ăn chơi vô độ trác tán của bọn lưu manh.

    Liễu Huệ nghĩ: Cũng phải thôi nghe đâu nói vị quan mới chẳng học hành gì cho ra phết, nhưng nhờ gia đình giàu có lại có quyền thế nhờ Ông Bác làm quan lớn, nên mới bổ nhiệm về đây làm Quan Bố Chánh Tri Huyện.

    Nhìn cử chỉ đón tiếp, nửa treo nửa ghẹo dành cho khách quý. Những hành vi lố bịch đê tiện, cũng đã tố cáo một tên đầu trộm đuôi cướp ngồi đây, nhưng làm như ra vẻ oai phong đánh lừa sự nhầm lẫn, của những người dân thiếu hiểu biết.

    Liễu Huệ đã nhận ra chân tướng từ lâu nhưng làm như không hay không biết, chắp tay lễ phép ngọt ngào thưa rằng:

    Thưa Huyện Quan nhà tôi vừa bị mất một số vàng bạc, chúng là những tên trộm chuyên nghiệp có tổ chức, xin Huyện Quan ra ơn truy nã bắt chúng trị tội, trả lại số vàng bạc cho gia đình tôi thì gia đình tôi cảm ơn vô hạn.

    Vị Quan Huyện hau háu nhìn Liễu Huệ nói:

    Cái gì giúp đỡ gia đình tôi, phải nói là giúp đỡ gia đình em phải là thân thiện hơn không.

    Liễu Huệ chỉ biết thở dài ngao ngán, nhưng vẫn nói ngọt:

    Em xin cảm ơn Huyện Quan.

    Nói xong Liễu Huệ vội vã rút lui, đi được mấy bước Liễu Huệ quay đầu nhìn lại thấy cặp mắt giả té lửa đứng tròng, với bộ mặt chênh vênh sinh động như con khỉ ăn phải ớt trông phát ghét làm sao. Liễu Huệ trở về nhà với lòng buồn rười rượi. Còn lại chút tài sản Liễu Huệ đêm ra bán lần bán hồi rồi cũng hết sạch, Liễu Huệ không biết phải làm sao kiếm ra bạc chữa bệnh cho Mẹ, khi Mẹ càng ngày càng nặng phần thì bụng mang dạ chửa gần ngày sanh đẻ.

    Nói về Liễu Huệ vì quyết tâm chạy chữa cho Mẹ nên lần lần bán sạch những đồ quý giá trong nhà nói chung là không còn gì nữa để mà bán, Liễu Huệ chua xót biết làm sao đây.

    Cái khổ nào hơn cái khổ nầy

    Chỉ cần chén cháo cũng khó thay

    Nhìn con trong bụng rơi nước mắt

    Nhìn mẹ đau nằm mắt đắng cay

    Có phải kiếp xưa mình ở ác

    Nhân quả luân hồi kiếp trả vay

    Cuối xin Trời cao thương soi xét

    Thoát nạn thời tu kiếp ăn chay.

    Nhìn con dâu gần ngày sanh nở mà cứ nhịn cháo cho bà Liễu Huệ ốm đi thấy rõ, nằm trên giường bệnh bà tuôn rơi nước mắt than rằng.

    Gia đình nầy đã mắc tội chi

    Khốn khổ đau thương nạn li bì

    Nếu cứu được con tôi xin thế

    Núi đao biển lửa cũng xin đi.

    Liễu Huệ đang quét nhà trông có vẻ yếu ớt vì cơn đói hoành hành dữ dội, quay lại nhìn thấy nước mắt Mẹ ràn rụa thì kinh hãi tưởng là Mẹ sắp ra đi liền chạy tới nắm tay Mẹ khóc.

    Mẹ ơi, Mẹ đừng có chết đi

    Gia đình tuy khổ có hề chi

    Mùa đông chấm dứt xuân sẽ tới

    Cháu nội ra đời hết sầu bi.

    Mẹ ơi Mẹ đừng bỏ con mà đi, Liễu Huệ khóc nức nở bà nắm tay con dâu nói:

    Mẹ chưa chết đâu khi chưa thấy cháu nội của Mẹ.

    Nghe nhắc đến đứa cháu nội Liễu Huệ bỗng thấy trong mình chuyển dạ cơn đau nổi lên thì kinh hãi biết mình sắp sanh. Biết làm sao đây biết làm sao đây.

    Trời hỡi Trời ơi cứu giúp con

    Cô đơn chuyển dạ thắt ruột gan

    Khốn nguy đến lúc càng thêm khốn

    Sanh tử kề bên phút bàng hoàng.

    Bỗng có tiếng vang lên:

    Có ai ở nhà không có quà từ Kinh Thành đến.

    Liễu Huệ mừng quá vội ôm bụng chạy ra nói:

    Có tôi đây, có tôi đây.

    Liễu Huệ đi như không muốn nổi, bà khách nhìn thấy Liễu Huệ liền la lớn:

    Sắp sanh rồi, sắp sanh rồi.

    Bà khách la lớn:

    Có ai giúp đỡ không? Liễu Huệ sắp sanh rồi, Liễu Huệ sắp sanh rồi.

    Người hàng xóm nghe bà khách la lớn liền cùng nhau chạy tới, kẻ lo chuyện nầy người lo chuyện kia, thật may thay cho Liễu Huệ, bà khách ấy chính là bà mụ giỏi nhất Hải Châu, bạn thân nhất của Liễu Huệ từ thuở ấu thơ. Liễu Huệ như nhìn thấy cứu tinh xuất hiện, biết là con mình sẽ ra đời bình yên. Khi ấy bà con chạy đến cũng đông, có người nói Liễu Huệ chưa ăn gì nên yếu lắm, họ nào có biết Liễu Huệ nhịn đói tới mấy ngày rồi, Liễu Huệ lúc nào cũng nghĩ cho mẹ, không bao giờ nghĩ tới bản thân. Chỉ cần kéo dài thêm mấy ngày nữa Liễu Huệ có lẽ ngã quỵ mất, vì nhịn tất cả phần cháo ít ỏi cho Mẹ.

    Có người nói:

    Tôi mới nấu nồi cháo gà ở nhà để tôi về múc mang qua.

    Nhìn những người hàng xóm tốt bụng kẻ lo điều nầy người giúp điều kia, ba chân bốn cẳng chạy về nhà múc cháo. Bà khách nghĩ không gì qua ăn ở hiền lành nên bà con lối xóm mới tận tâm như vậy, Liễu Huệ ăn xong bác cháo liền thấy sức lực tràn đầy mạnh hẳn lên. Bà khách như chợt hiểu, vì nhìn thấy trong nhà chẳng còn gì, có lẽ Liễu Huệ nhịn tất cả phần ăn cho mẹ.

    Bà cầm tay Huệ nói:

    Mầy cừ lắm không khác gì hồi còn nhỏ lúc nào cũng hi sinh cho người khác không nghĩ đến thân mình, về điểm nầy tao học hỏi mầy nhiều lắm.

    Liễu Huệ tuy cơn đau mỗi lúc một dữ dội nhưng sắc mặt lúc nào cũng tươi như hoa nỗi lo lắng sanh con biến mất như chẳng có chuyện gì xảy ra.

    Nói về bà Mẹ Chí Nhân đang nằm trên giường bệnh nghe tiếng trẻ con bậc khóc, thì mừng rỡ nói:

    Sanh rồi, Liễu Huệ sanh rồi, không hiểu là trai hay gái.

    Bỗng Bà nghe có người nói:

    Liễu Huệ sanh thằng con trai khôi ngô tuấn tú giống hệt như cha nó, thằng bé kháu khỉnh tội làm sao.

    Bà chắp tay khấn vái:

    Cảm ơn Cha Trời Lạc Long Quân, Mẹ Âu Cơ đã ban cho bà một thằng cháu nội.

    Không ngờ bà quá xúc động làm tăng huyết áp quá cao dẫn đến nhồi mạch máu cơ tim đột ngột qua đời. Sau ba ngày Liễu Huệ mới biết Mẹ chồng đã chết. Liễu Huệ là người can đảm luôn luôn đối mặt với sự thật, cũng đoán được phần nào vì sao Mẹ chồng đột ngột qua đời.

    Liễu Huệ rơi nước mắt thở dài nói với bà khách Hạ Thu:

    Mẹ chồng tôi trước đây cũng vì quá xúc động trước cái chết của Chí Nhân dẫn tới đột quỵ toàn thân tê liệt nằm một chỗ. Nay Mẹ thấy Tôi sanh được cháu trai nội lại một lần nữa quá xúc động nên dẫn tới lìa đời ra đi.

    Liễu Huệ vừa nói vừa cố dằn lương tâm lắng bớt đi cơn xúc động. Tiếng đồn Liễu Huệ mới sanh, Bà Cụ lại qua đời làng trên xóm dưới thương xót ngậm ngùi già trẻ gái trai lũ lượt kéo đến lo đám tang cho Bà Cụ, tuy không linh đình nhưng thật ấm cúng.

    Thương người, người lại thương ta

    Giúp người, người lại giúp ta Đạo Trời

    Ở đời cuộc sống ở đời

    Cứu người người cứu có thời sai chi.

    Đây nói về bà khách bạn thân của Liễu Huệ ở lại giúp Liễu huệ hơn cả tuần, Liễu Huệ kể lại tất cả nỗi khổ từ khi Chí Nhân chết, ăn trộm vào nhà cho đến ông Quan Huyện mới dê xồm cho người khách nghe.

    Nghe xong bà khách nói với Liễu Huệ:

    Tôi quyết báo cáo lên Bộ, nhờ Cha chồng tôi tâu lên Quốc Vương tóm cổ tay háo sắc cường hào ác bá nầy chuyên lạm dụng quyền chức làm hại Dân hại Nước. À xưa rày vì lo bận chuyện tôi quên mất chuyện đến đây Bộ có gửi thông điệp cho Chồng Tôi, Chồng Tôi sai Tôi đem cái nầy đến trao cho gia đình Liễu Huệ.

    Liễu Huệ nhận thông điệp báo tin rồi nói:

    Cảm ơn Hạ Thu.

    Thì ra người khách giúp đỡ Liệu Huệ vượt qua tai kiếp chính là Hạ Thu người bạn thân thời thơ ấu của Liễu Huệ. Liễu Huệ nhận thông điệp báo tin mở thông điệp ra nói gì trong đó thì thấy Bộ thông báo là hơn tháng nữa có quan triều đình từ Kinh Đô Văn Lang đến, phong tặng vàng bạc cũng như phong sắc chỉ của triều đình cho Dòng Họ Chí. Nhận được thông tin nầy Liễu Huệ vô cùng mừng rỡ vì có vàng bạc xoay xở để nuôi con. Cuộc hội ngộ nào cũng phải đến lúc chia tay, Hạ Thu từ biệt người bạn thân trải qua không biết bao nhiêu là hoạn nạn, trở về Châu Phủ. Lúc Chí Nhân lâm bệnh vợ chồng Hạ Thu cũng đã có đến mấy lần.

    Nói về Liễu Huệ một mình nuôi con trong căn nhà quạnh quẽ, hơn ba tháng không thấy Quan Triều Đình đến cái nghèo cứ mãi đeo bám không thôi lại còn phải chịu tang Mẹ chồng tiếng hát ru con nghe thê thảm làm sao.

    Nghẹn ngào tiếng hát ru con

    Hàng cau ủ rũ chịu tang giữa trời

    Khổ thân giá phụ đã rồi

    Mẹ con côi cút biết thời nương ai.

    Bỗng có tiếng vó ngựa vào sân, người đó lên tiếng nói:

    Hãy nương vào Quan Ta chớ nương vào ai nữa. Nàng sanh con đã hơn ba tháng rồi còn gì nay Quan mới đến thăm.

    Liễu Huệ vô cùng kinh hãi lão dê xồm đã đến biết làm sao đây.

    Lão dê xồm háo sắc đến rồi

    Bão tố dập vùi kéo đến nơi

    Một mình trống vắng người đơn chiếc

    Nanh vuốt quỉ ma nuốt nuốt xơi.

    Liễu Huệ như cầu cứu nhưng nào có ai, nhưng ai làm gì được Giả, vì Giả là Quan Tri Huyện kia mà. Liễu Huệ nghĩ nếu Giả dở trò thì ta liều mạng với Giả, Liễu Huệ lấy lại bình tỉnh như không có chuyện gì. Giả xuống ngựa đi xồng xộc vào nhà. Hai con mắt láo lư tìm kiếm báu vật.

    Giả chợt bật lên:

    Kia rồi, báu vật kia rồi.

    Nhìn vóc người thon gọn nở nang của Liễu Huệ, làng da trắng mịn như trứng gà bóc. Giả như bốc lửa trước mắt Giả là tòa lâu đài nguy nga tráng lệ. Giả cần phải làm chủ nó để mà say sưa. Giả vội bước tới định nắm lấy tay Liễu Huệ, nhưng Giả đã kịp dừng lại vì Giả biết loài hoa Hồng đệ nhất nầy lắm gai không khéo bị đâm mà bật gọng. Giả chầm chừ rồi ngồi xuống, Liễu Huệ vừa thấy Giả thì phát ói, với thân hình xấu xí hết chỗ chê, mập như con heo ú vừa thô kệch, vừa thô lỗ lúc nào cũng khoe hàm răng bẩn thỉu lòi xỉ chẳng ngay ngắn gì, hai con mắt ti hí như mắt lương, cứ hau háu nhìn người ta chằm chằm không chớp mắt, với cái mũi tẹt trống hoác hích hích lên đánh hơi tìm của lạ, làm tăng thêm vẻ mặt ngu si đần độn mặt rỗ tổ ong của Giả.

    Liễu Huệ giả vờ hỏi:

    Quan Huyện đến đây để làm gì?

    Lão cười khùng khục chẳng khác gì loài sói điên, miệng Lão phun ra toàn là những thứ nhơ bẩn:

    Quan đến thăm bộ gió khả ái của Nàng, Quan nhớ Nàng đến phát điên, Nàng đẹp như thế nầy không có người nâng niu thì phí quá, chi bằng đến với Quan thì muốn gì mà chẳng có. Vì Quan là Quan Tri Huyện vàng bạc thiếu chi, có ai mà không sợ Quan nào. Quan muốn là Trời muốn không ai ngăn cản được Quan đâu.

    Giả vừa nói vừa tỏ vẻ thèm thuồng bởi bộ ngực no đầy căng sữa của Liễu Huệ, lại thêm da mịn như trứng gà bóc, trắng như tuyết. Giả phát điên lên như con Sói đói lâu ngày lao tới chụp lấy để, nhưng Giả liền bị một cái tát vào mặt té lửa.

    Giả la lớn:

    Người đẹp sao đánh Quan mạnh thế.

    Giả nổi khùng định chửi mắng Liễu Huệ, nhưng Giả là con Cáo Già sành điệu Giả liền vuốt ve xuống giọng tán tỉnh:

    Đừng làm như thế, Quan sẽ cho người đẹp biết mùi sung sướng là gì.

    Lần nầy Giả đã đề phòng, với một cú vồ đầy nghệ thuật. Giả lao nhanh tới với ngón nghề lấy mạnh đè yếu, thế là Giả chụp được Liễu Huệ. Liễu Huệ vùng vẫy la hét kêu cứu.

    Giả nói:

    Ngoài kia có mấy tên lính gác của Ta, ai dám đến mà kêu, thôi ngoan ngoãn đi cục cưng của Ta.

    Thằng bé Chí Trung bỗng khóc to lên, Giả bực cả mình quát:

    Có im không để cho mẹ ngươi rửa tội với Thượng Đế.

    Bỗng có tiếng quát lớn:

    Hãy bắt hết lại cho ta, túm cổ cái Thằng hổn láo với Thượng Đế kia.

    Thế là binh lính vào nhà bắt Giả Quan Huyện lôi đi xềnh xệch như lôi một Chó. Giả quát to:

    Thằng nào dám bắt Ta, Ta sẽ cho Thằng đó chết.

    Chừng Giả nhìn thấy Quan Tri Phủ thì Giả điếng cả hồn, Quan Tri Phủ chắp tay thưa với Vị Quan kế bên:

    Thưa Quan Thượng Thư, việc nầy xử lý ra sao?

    Quan Thượng Thư nói:

    Giải Thằng khốn nầy về Kinh xét xử.

    Đến lúc nầy Liễu Huệ mới lấy lại bình tĩnh, tới quỳ lạy Quan Thượng Thư. Quan Thượng Thư nói:

    Khổ cho con quá. Con không biết Ta đâu, Ta với Cha Chí Nhân vốn xưa kia là quan triều đình, Ta quan văn còn Cha Chí Nhân quan võ hai người rất thân. Cha Chí Nhân vốn là Hầu Tướng võ công tuyệt thế, vì không muốn làm quan nên về ẩn dật làm dân khi nào đất nước cần Ông sẽ ra mặt không ngờ Ông lại chết sớm quá. Khi nghe Chí Nhân chết lúc đó Ta đang công tác ở tận Kinh Thành Kinh Đô Văn Lang, nên không về được, với công lao diệt được con Quỉ Râu Xanh, Hùng Vương đã ban cho vải trăm cây, vàng trăm lượng, bạc trăm lượng, đúng lý Ta phải đến thăm Con sớm hơn hai tháng. Nhưng được tin báo cáo thằng Quan gian ác nầy hãm hại Con, Ta liền cho quan Bộ kết hợp với Quan Tri Phủ điều tra làm rõ tội ác làm hại dân hại nước của tên lạm dụng quyền chức nầy. Việc hắn cho người ăn trộm nhà Con là một tội ác không thể thứ tha, huống chi làm hại Dân hại Nước. Nếu nặng thì tru di cả nhà, nếu nhẹ thì cũng bị chặt đầu làm gương cho kẻ khác. Bọn chúng đã khai hết rồi truy tìm lại được số vàng bạc nhà Con đã mất.

    Nói xong Quan Thượng Thư cho người mang vải, mang vàng, mang bạc triều đình ban cho, cũng như vàng, bạc đã lấy lại được từ tay bọn trộm cướp, giao tất cả lại cho Liễu Huệ.

    Đây nói về Quan Thượng Thư đã tóm cổ được tên Quan Huyện gian ác, giải đi kiếp nạn cho gia đình Liễu Huệ. Vì còn nhiều việc phải làm Quan Thượng Thư thắp nén hương cho Cha Mẹ Chí Nhân cũng như Chí Nhân, bố trí một số quan binh ở lại bảo vệ mẹ con Liễu Huệ, cho đến khi nào có Quan Huyện mới nhận chức, thì quân binh mới trở về bộ.

    Nói về Liễu Huệ thoát tai kiếp, thoát nghèo khổ nhờ số vàng số bạc Vua ban thưởng, cũng như tìm lại số vàng số bạc do mấy tên trộm lấy đi. Liễu Huệ nhớ lại lời hứa của mình đối với Trời Đất hễ thoát được kiếp nạn thì Liễu Huệ tu hành ăn chay. Liễu Huệ liền đem một nửa số vàng số bạc triều đình thưởng cho phân phát cho những người nghèo khổ. Với Công Đức nầy Liễu Huệ danh thơm khắp chốn khắp nơi. Với số bạc vàng còn lại hai mẹ con Liễu Huệ sống dư thừa suốt đời, nên không lo đói nghèo nữa.

    Vết thương lâu cũng lành đi

    Chí Trung nay đã vậy thì lên năm

    Không giàu cũng khá dư ăn

    Nhìn con khôn lớn cũng quên nỗi buồn

    Bàn thờ luôn mãi khói hương

    Linh thiên Ông hỡi chỉ đường cho Con

    Đời Ông Trung Hiếu uy phong

    Mẹ con tôi cũng thơm lây Đức Chồng

    Đường số phận đường gập ghềnh

    Chỉ mong con trẻ tràn đầy ấm êm.

    Tấm thân Góa Phụ truân chuyên

    Tiết Trung giữ trọn Đức Hiền trao con

    Cầu mong Trời Đất ban ân

    Tre già măng mọc thềm phần tốt tươi.

    Thế là năm tháng cứ trôi qua, xuân đi rồi xuân đi lại đến. Chí Trung càng ngày càng lớn, càng khôi ngô tuấn tú, thông minh tài trí hơn cả Cha ngày xưa. Nhà khá giả nên Chí Trung học hành cả văn lẫn võ đến nơi đến chốn, hết trường làng trường xã, rồi đến trường châu trường bộ. Nhờ tư chất thông minh Chí Trung học một biết mười, danh tiếng lừng lẫy, khắp Bộ, khắp Châu, khắp Huyện. Đã từ lâu lắm hôm nay mới thấy nhà Chí Trung rộn rịp đông đúc, có lẽ Chí Trung đã mãn niên khóa học cấp Bộ đổ đạt rất cao chỉ còn chờ ngày vào Kinh Đô Văn Lang ứng thí toàn nước.

    À ra là thế tôi hiểu rồi, hôm nay là ngày kị cơm cha Thằng Trung mà, Bà Liễu Huệ kết hợp cả hai vừa kị cơm cho chồng vừa làm tiệc mừng Thằng Trung đỗ đạt cao ở cấp Bộ. Bà con lối xóm láng giềng đều được mời, cảnh quan nhà Bà Liễu Huệ xôn xao nhộn nhịp vui vẻ hầu như lấy lại được khí thế phong độ ngày nào khi cha Chí Trung làm quan Bố Chánh Trị Huyện. Trong những người được mời người ta nhìn thấy một người trung niên phụ nữ sang trọng khá xinh đẹp đó là Hạ Thu.

    Hạ Thu cùng Liễu Huệ nói nói cười cười. Hạ Thu hỏi:

    Thằng Chí Trung năm nay bao nhiêu tuổi rồi Chị?

    Liễu Huệ nói:

    Nhắc đến thằng Chí Trung thì tôi không biết lấy gì để đền công ơn với Chị, nó năm nay 19 tuổi nhưng còn trẻ con lắm.

    Hạ Thu nói:

    Mới đó mà đã trải qua 19 năm, mình không già sao được.

    Liễu Huệ nói:

    Hạ Thu trông còn trẻ lắm vẫn xinh đẹp như ngày nào.

    Hạ Thu cảm thấy rất vui khi nghe câu nói khen mình còn trẻ, sẵn còn đang vui vẻ Hạ Thu hỏi:

    Chưa có nơi nào được mắt sao lâu có dâu thế?

    Liễu Huệ không có gì phải dấu diếm nói:

    Không biết bao nhiêu là con nhà danh giá, quyền thế, giàu có, nhưng Chí Trung chưa muốn có vợ, tôi thấy tuổi nó càng lớn tôi lo quá, con cái người ta 16 tuổi đã lấy vợ rồi, có người còn có con nữa, còn nó sắp sang tuổi hai mươi. Thế mà nó cứ phớt lờ không để ý gì đến chuyện vợ con. Hạ Thu biết rồi hai chúng Ta là người theo quan điểm đổi mới không theo phong tục cổ hủ lạc hậu nên không ràng buộc con cái.

    Hạ Thu nói:

    Chúng Ta theo quan điểm Quốc Tổ Vua Hùng luôn luôn đổi mới tư duy tiến hóa đấy chứ, nên Cha Mẹ chúng ta mới không gò ép, người Mẹ như hai chúng Ta lúc nào cũng tôn trọng sự lựa chọn quyết định của Con. Thôi thì để cho định mệnh Ông Trời quyết định vậy.

    Hạ Thu ở lại nhà Liễu Huệ đến mấy ngày, hai người kể hết câu chuyện nầy đến câu chuyện khác, vậy mới biết mấy bà gặp nhau là xổ ra, như cơn bão lũ thế mà vẫn không hết câu chuyện. Hạ Thu chia tay Liễu Huệ trở về Châu Phủ để lại sự trống vắng trong lòng Liễu Huệ. Đêm buông xuống, Liễu Huệ ngồi một mình ôn lại những kỷ niệm bỗng Liễu Huệ nghe luồng gió lạnh tràn qua cửa sổ như báo hiệu sắp có một cơn mưa lớn.

    Liễu Huệ nghĩ: Cõi trần gian tan họp, hợp tan, cuộc trần là thế, mới đây cách mấy ngày bà con đông đảo thật là vui vẻ, nhưng giờ đây ngôi nhà hiu quạnh chỉ hai mẹ con nhất là về đêm, đời là như thế vui buồn, tan họp vô thường, phước họa khó mà lường trước.

    Bà Liễu Huệ nghĩ vẩn vơ rồi ngủ đi lúc nào không biết, Bà dậy trưa hơn mọi khi vì thấy trong người uể oải, Bà quá hiểu rõ sự mỏi mệt của mình khi trời chuyển. Mặt Trời ló dạng nhưng yếu ớt hơn mọi ngày chỉ hơn nửa buổi thì mây đen kéo đến che kín cả bầu trời sấm chớp nổi lên gió to ập đến sau đó là mưa lớn chưa từng thấy bao giờ không bao lâu thời nước ngập nhanh trắng xóa.
     
  14. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Nói về Chí Trung không muốn vào Kinh Đô Văn Lang ứng thí, mà theo chí hướng của Cha chỉ muốn làm quan nhỏ Tri Huyện, Chí Trung là người sùng Đạo, nhất là sùng kính nền Quốc Đạo Tiên Rồng, Chí Trung rất giống Cha theo chí hướng Quốc Tổ Vua Hùng, thờ Cha Trời Mẹ Trời Lạc Long Quân Và Âu Cơ. Hai ngày nay Chí Trung chỉ biết ngủ, vì trời mưa bão lớn quá, nhất là những trận mưa lớn trái mùa chưa từng thấy bao giờ. Chí Trung chỉ biết ngày ngủ, đêm ngủ.

    Chí Trung đang trong lúc ngủ say thời như có ai đó kêu dậy:

    Hãy thức dậy đi Con, Ta là Mẹ Âu Cơ.

    Chí Trung thấy một đạo hào quang từ trên không bay xuống, hiện ra một người phụ nữ vô cùng xinh đẹp trên tay cầm một cái hộp, lên tiếng nói:

    Trung Con đây là là chiếc hộp đựng Tinh Hoa Tiên Thiên Linh Đan. Có công năng cải tử hoàn sanh, Con hãy dùng nó cứu người con gái bị cuốn trôi, con nhớ nhé.

    Nói xong người phụ nữ vô cùng xinh đẹp biến mất.

    Tiếng gà giục giã gọi nhau

    Bình minh trỗi dậy bão giông vẫn còn

    Đất trời mờ mịt bão bùng

    Lòng nghe ai gọi lạnh lùng nổi trôi.

    Chí trung giật mình thức giấc, nhớ lại giấc chiêm bao kỳ lạ. Lạ hơn nữa. Chí trung thấy một chiếc hộp trên đầu giường thì biết không phải là chiêm bao mà là hiện thực, Chí Trung hồi hộp chuyện gì xảy ra đây, họa hay là phúc.

    Bà Liễu Huệ thấy Chí Trung hôm nay vô cùng khác lạ bước ra hè nhìn trời mưa như trút, lẳm bẩm mãi:

    Trời mưa hai ngày hai đêm rồi còn gì, nay là ngày thứ ba. Ta biết cứu người nơi đâu? Ta biết cứu người ở đâu?

    Chí Trung thẫn thờ tự hỏi. Bà Liễu Huệ hỏi:

    Hôm nay con làm sao thế Chí Trung.

    Chí Trung liền kể câu chuyện đêm hôm cho Mẹ nghe, Chí Trung lấy chiếc hộp cho Mẹ xem, Bà cầm chiếc họp xem xong thì trao lại cho Chí Trung. Bà nói:

    Người con sắp cứu không phải là người con gái tầm thường đâu.

    Nhà Chí Trung gần con Sông Âu mưa trắng xóa nước dân ngập khắp nơi không ai dám ra khỏi nhà nói gì đến cứu người. Nói về Chí Trung như có ai giục giã trong lòng không thể ngồi ở nhà được nữa một mình lao vào trong mưa bơi qua cánh đồng mênh mông biển nước đến một gò cao nhìn ra dòng sông Âu nước sông chảy xiết cuồn cuộn.

    Mênh mông biển nước bờ là đâu

    Gió bão mưa tuôn trắng một màu

    Nào thấy bóng ai trôi dạt cả

    Bồng bềnh vùi dập bèo đớn đau

    Lặng lẽ ngồi chờ lòng trăm ngả

    Ước như chuột lột lạnh thấm sâu

    Ngày đã ốm buồn đêm sắp đến

    Bóng người trôi dạt ở nơi đâu.

    Nói về Chí Trung ngồi trong mưa bão ướt như chuột lột. Chờ đợi hết buổi sáng, qua buổi trưa, sang qua buổi chiều trời sắp tối, thế mà nào thấy xác ai trôi nổi trên sông, cái đói làm Chí Trung như cảm thấy người yếu đi, lại thêm cái lạnh đã thấm sâu vào người.

    Nước tràn nước ngập mênh mông

    Rào rào mưa bão cuồng phong ào ào

    Mịt mù trắng xóa khắp trời

    Chỉ nghe cuồn cuộn nước đòi hồn ai.

    Chí Trung thẫn thờ nhìn trời sắp tối nước mỗi lúc một dâng cao, hồn ma xuất hiện than khóc trong mưa bão Chí Trung rợn cả người không lẽ bỏ cuộc. Chí Trung cảm thấy sợ hãi, trước sức mạnh của thiên nhiên, nước chảy xiết cuồn cuộn. Mưa cứ xối xuống như trút, gió vẫn cứ gào cứ thét, nước mỗi lúc một trắng xóa mênh mông, bèo bồng bềnh vùi dập tả tơi, tầm nhìn mờ lần, đêm lần lần sa xuống. Chí Trung không còn hy vọng nào nữa, bỗng một chấm Hồng xuất hiện, trôi nhanh trên mặt nước.

    Chí Trung vụt kêu lên:

    Kia rồi, kia rồi, Nàng kia rồi.

    Đây nói về sông Âu nước còn rất lớn chảy xiết, nên thưa thớt thuyền đò qua lại, Thanh Vân cùng những người theo hầu thuê thuyền lớn qua sông Âu, thuyền ra đến giữa dòng thời mây đen ngùn ngụt hiện ra phủ kín bầu trời, gió to ập tới chủ thuyền cùng một số thủy thủ hốt hoảng la lớn nguy rồi nguy rồi thuyền chao đảo dữ dội không còn chèo lái gì được nữa sấm sét nổi lên rền trời rền đất. Tiếng mưa rào rào từ xa ập tới, từ trên không trút xuống xối xả lớn chưa từng thấy bao giờ, thuyền phần bị mưa xối xuống, phần bị nước, gió, cuốn trôi, chao đảo muốn lật nhào. Ai nấy trên thuyền kinh hoàng khiếp vía.

    Kiều My khiếp quá la lớn:

    Cứu tôi với, cứu tôi với.

    Thanh Vân cũng kinh hoàng không kém nhưng sau đó lấy lại bình tỉnh nói với Kiều My:

    Niệm Mẹ Âu Cơ mau lên, phó mặc cho định mệnh.

    Thế là Thanh Vân cùng Kiều My niệm Mẹ Âu Cơ không còn biết sợ hãi gì nữa.

    Âm ầm nước cuộn thuyền nghiêng

    Ào ào mưa bão kinh thiên ào ào

    Thuyền trôi thuyền lật thuyền nhào

    Mênh mông sóng nước ôi nào mênh mông

    Thanh Vân niệm Mẹ Âu Cơ

    Mặt cho số phận chuyển xây cuộc đời

    Thuyền nghiêng nước cuốn lật nhào

    Lỉm chìm xuống tận âm tào còn chi

    Thanh Vân nước cuốn trôi đi

    Hồn lìa khỏi xác bay lên Thiên Đàng

    Cõi Trần biển khổ Cõi Trần

    Mấy ai thoát khỏi gieo vần Tử Sanh.

    Trong cơn mưa bão khủng khiếp thuyền trôi đến khúc sông rộng lớn thời chìm lỉm trong biển nước mênh mông. Nói về Thanh Vân chìm lỉm theo chiếc thuyền thì không còn biết gì nữa. Linh hồn thoát ra khỏi thể xác bay lên Thiên Đàng thấy mình bay qua vô số tầng mây bỗng xuất hiện trước mắt có người bay đến, thì ra là các Nàng Tiên.

    Các Nàng Tiên chắp tay thưa:

    Thưa Cung Chủ mời Cung Chủ theo Chúng Em.

    Thanh Vân không hỏi lý do vì sao bay theo các Tiên Nữ không bao lâu thì tới một cảnh quan chưa từng thấy bao giờ. Lầu đài cung điện trùng trùng điệp điệp đất nơi đây toàn bằng lưu ly sáng chóa trong suốt. Cây báu khắp nơi, cây bằng vàng, lá cành bằng ngọc. hoa kim cương, quả trân châu, đẹp lạ chưa từng thấy bao giờ. Đường sá rộng đẹp lát toàn bảy báu, vàng, bạc, trân châu, kim cương, pha lê, lưu ly, xà cừ, cứ mỗi đoạn đường đều có ao sen báu, hương sen thơm ngát tâm hồn thanh thoát một cách kỳ lạ.

    Thanh Vân nói:

    À ra đây là Thiên Đàng cực lạc sao ta thấy quen quá.

    Các Tiên Nữ nói:

    Cung Chủ hiện giờ chỉ là linh hồn bị bao phủ bởi u minh trần thế, lại không có nhị xác kim thân còn vướng trần tục thế mà còn nhớ nơi đây quả là hi hữu.

    Thanh Vân được các Tiên Nữ dẫn đến một tòa lâu đài cổ kính lộng lẫy nguy nga tráng lệ hào quang muôn màu vạn sắc tỏa lên trùng trùng đẹp vô cùng. Đàn Chim Phụng Hoàng đang ca hát bay lượn trên không trung, liền bay đến chào hỏi Thanh Vân:

    Chúng em kính chào Cung Chủ.

    Thanh Vân nhìn đàn Chim Phụng cảm thấy mến yêu vô cùng. Thanh Vân chỉ lo chăm chú nhìn đàn Chim Phụng chào hỏi ca múa, khi nhìn lại thì các Tiên Nữ biến mất tự lúc nào không hay. Bỗng linh hồn Thanh Vân nghe tiếng đàn ca sáo thổi từ xa vọng lại làm cho tâm hồn say sưa không còn muốn đi đâu nữa. Thanh Vân đang thưởng thức cảnh giới Bồng Lai Tiên Cảnh, cũng như tiếng đàn ca sáo thổi.

    Thời thấy một Tiên Nữ vô cùng xinh đẹp từ tòa lâu đài cổ kính bảy báu nguy nga tráng lệ bay đến:

    Em kính chào Sư Tỷ

    Thanh Vân nói:

    Tiên Nữ là ai? Sao Ta thấy quen quá.

    Tiên Nữ nói:

    Căng tu của Sư Tỷ quả hơn người, hiện giờ Sư Tỷ chỉ là linh hồn không có kim thân khí trần còn bao phủ thế mà vẫn còn nhớ nơi đây. Sư Tỷ hãy theo em trở lại trần gian kẻo không còn kịp vì ở đây một ngày bằng trần gian một năm.

    Vị Tiên Nữ xinh đẹp liền phất tay một cái, đưa linh hồn Thanh Vân trở lại trần gian. Đây nói về Chí Trung ở trên một gò cao hai con mắt chăm chăm nhìn dòng sông Âu nước cuồn cuộn mênh mông tràn ngập khắp nơi, trâu, bò, heo, gà, vịt, chết trôi lớp lớp, trời sắp tối gió mưa vẫn thi nhau gào thét, nước mỗi lúc một lớn Chí Trung cảm thấy lạnh mình, bởi hồn ma ám ảnh khắp nơi ẩn hiện trên dòng sông chảy xiết cuồn cuộn.

    Khắp nơi trắng đục một màu

    Mưa gào gió thét thấy gì được đâu

    Nhìn trông bèo dạt trôi mau

    Chỉ nghe cơn lạnh thấm sâu vào người

    Trời buồn đêm sắp xuống rồi

    Biết làm sao hỡi Ông Trời chỉ cho.

    Kìa một chấm Hồng xuất hiện Chí Trung vô cùng hồi hộp có phải là người ấy chăng, Chí Trung bỗng nhận ra đó là xác một cô gái trôi theo dòng nước. Chí Trung không còn suy nghĩ gì nữa vội phóng mình lao tới bơi ra vớt xác cô gái rồi quay mình trở lại băng qua cánh đồng mênh mông biển nước Chí Trung lặng hụp vật lộn trong cơn mưa bão tầm tã. Quyết đưa cho được xác cô gái về nhà.

    Nói về bà Liễu Huệ mẹ Chí Trung, thấy Chí Trung đi lâu quá từ sáng tới chiều trời cũng đã sắp tối rồi mà chưa thấy về Bà lo sợ vô cùng, mưa cứ gào gió cứ thét, nước càng lúc càng lớn, Bà sợ điếng cả hồn Bà khấn vái Cha Lạc Long Quân, Mẹ Âu Cơ không dứt.

    Chắp tay cầu nguyện Thánh Thần

    Âu Cơ Đức Mẹ, Cha TRời Lạc Long

    Cứu con thoát khỏi tai ương

    Cứu con thoát khỏi qua cơn hiểm nghèo.

    Trong mưa bão Bà Liễu Huệ chợt nghe tiếng gọi:

    Mẹ ơi Mẹ, Con đã với được người rồi, con đã vớt được người rồi.

    Tiếng chân vội vã mỗi lúc một gần Bà vui lên vì Chí Trung đã về. Hai tay Chí Trung bồng một xác người, xác một người con gái, Chí Trung để xác người con gái nằm xuống giường hai mẹ con không khỏi giật mình, không phải giật mình vì sợ hãi, mà vì xác người con gái quá đẹp cao sang quí phái vô cùng, tuy là một xác chết nhưng cũng làm mê đắm lòng người.

    Bà Liễu Huệ lẩm bẩm:

    Cô nàng là người Tiên bị đọa. Không biết quê Nàng ở đâu? Thuộc dòng dõi Vương Gia nào?

    Bà Liễu Huệ nhìn xác cô gái mà thấy thương vô cùng than rằng.

    Thân ta đã khổ trăm bề

    Nào hay có kẻ não nề hơn Ta

    Người chi đẹp tựa Hằng Nga

    Vì sao nông nỗi mà ra cảnh nầy.

    Qua bao phút ngậm ngùi rơi lệ, Bà Huệ thúc dục Chí Trung:

    Con mau lấy hộp thuốc ra cho cô gái uống.

    Chí Trung ba chân bốn cẳng lao nhanh vào phòng đêm hộp thuốc ra loay hoay một hồi mới mở được. Nắp hộp vừa mở ra hương thơm ngào ngạt hào quang sáng rực, trong hộp là một viên linh đơn to như ngón tay cái, Chí Trung không biết làm làm sao cho Cô uống được, vì Cô nàng đã chết rồi.

    Bà Huệ nói:

    Con bỏ viên Linh Đơn vào miệng Cô.

    Ta Chí Trung làm theo nhưng viên Linh Đơn không làm sao trôi xuống bụng được, Bà thấy thế liền nói:

    Con dùng thần lực từ miệng Con thổi Linh Đơn trôi xuống bụng Cô Ta.

    Chí Trung nghe lời Mẹ làm theo quả nhiên Linh Đơn trôi xuống nhanh chóng tan biến đi vào cơ thể của xác chết. Thì điều kỳ diệu đã xảy ra. Mặt cô gái tái xanh tái ngắt liền trở nên hồng hào nhanh chóng, Cô cựa mình tỉnh dậy hớt hãi nhìn quanh nhìn quất, thấy mình đang ở một nơi xa lạ không biết nơi đây là đâu. Thanh Vân chợt hiểu mình vẫn còn sống người ta đã cứu vớt mình, Thanh Vân muốn nói lời cảm ơn nhưng cô ú ớ mãi nói không được nước mắt cô cứ thế tuôn ra.

    Bà Liễu Huệ nghĩ: Cô gái nầy bị câm thì phải, không biết Cô bị câm từ lúc nào? Người đẹp thế kia sao lại bị câm tiếc quá. Bà không khỏi xúc động.

    Hồng trần trong cõi người ta

    Mấy ai trọn vẹn đều do số phần

    Biển trần bể khổ Hồng trần

    Phong ba vùi dập má Hồng truân chuyên.

    Thanh Vân không ngờ mình bị câm như thế. Một nỗi buồn vô hạn Cô thở dài ngán ngẩm cho số phận cuộc đời, Thanh Vân nhớ lại tất cả những gì đã xảy ra với Cô, nhưng Thanh Vân không nói được. Cô nhìn Bà Liễu Huệ nước mắt cứ chảy, Cô cứ ú ớ mãi như muốn nói thật nhiều nhưng nào ai có biết Thanh Vân muốn nói gì. Chí Trung nhìn cô, như nhìn vật báu nhất trên đời nhìn mãi nhìn mãi như sợ cô sẽ biến mất. Chí Trung thấy lòng mình ấm áp, nẩy mầm tình yêu không biết từ lúc nào. Chí Trung biết mình bị cô gái nầy lấy mất trái tim rồi.

    Anh đã mê rồi Tiên Nữ ơi

    Nàng hốt hồn anh mất mất rồi

    Trăm mối tơ duyên đà trói buộc

    Trúc, mai, tao ngộ yến một đôi

    Tạo hóa vần xoay duyên tiền định

    Xuân đến hoa về khắng khít trao

    Thương em từ thuở Hồng Hoang ấy

    Nhớ mãi bóng hình mãi khát khao.

    Nói về Chí Trung cứ nhìn mãi Cô Gái như sợ Cô biến mất mỗi lần nhìn cô Ta trong lòng Chí Trung bỗng thấy ấm áp một cách lạ thường, và không hiểu nẩy mầm tình yêu từ lúc nào.

    Nhìn em quên cả đất trời

    Nghe như sóng dậy trong lòng xôn xao

    Thương nàng từ thuở xa xôi

    Tìm em góc biển chân trời chân mây

    Trời xuôi em đến nơi đây

    Cho anh nhớ mãi đêm ngày khó quên.

    Thanh Vân không phải như những người con gái tầm thường, Cô hiểu rõ hoàn cảnh của Cô, Cô không phải Thanh Vân tiểu thơ đài các như ngày nào. Mà là một cô gái câm, vừa mới được người ta cứu sống. Thanh Vân vội ngồi dậy tới trước mặt Bà Liễu Huệ lạy tạ ơn cứu mạng. Bà Liễu Huệ như nhận ra trước mặt mình là một Cô Gái không những vô cùng xinh đẹp mà còn có nghị lực phi thường qua đôi mắt như hồ thu trong sáng của Cô.

    Bà đỡ Thanh Vân dậy hỏi:

    Nhà con ở đâu?

    Thanh Vân lắc đầu như không nhớ mình từ đâu tới. Như thông cảm nỗi bất hạnh của người con gái, Bà vội vỗ về an ủi:

    Con cứ ở lại đây với Mẹ chừng nào con nhớ ra nhà mình ở đâu thì thằng Chí Trung sẽ đưa con về.

    Thanh Vân nghe bà Liễu Huệ gọi mình bằng con, tiếng gọi con thân thương làm sao Thanh Vân vô cùng xúc động không cầm được giọt nước mắt. Chí Trung nhìn Thanh Vân khóc như lạc vào cảnh giới đâu đâu.

    Vườn xuân lác đác giọt châu sa

    Bốn biển hồ thu ngọc lệ nhòa

    Tiếng lòng xao xuyến theo nhịp đập

    Đầy trời thân mến những thiết tha.

    Nói về Thanh Vân không nói được nhưng tinh thông hội họa ý văn, ở vào thời đó chữ viết chỉ là những biểu tượng ra ni hình tượng hội họa, chỉ có bậc Vương Quan nhà giàu mới học được, nhưng học giỏi thì đếm trên đầu ngón tay. Ở lại nhà Chí Trung Thanh Vân hết lòng phục vụ siêng năng công việc gia đình thức khuya dậy sớm hầu trả chút công ơn cứu mạng. Bà Liễu Huệ càng ngày càng yêu quý Thanh Vân hơn tất cả, không chỉ yêu mến Cô qua vẻ đẹp mảnh mai hiền dịu, mà còn yêu mến Đức tính, Công, Dung, Ngôn, Hạnh tuyệt vời của Cô. Mỗi việc làm, mỗi cử chỉ, mỗi lời ăn tiếng nói không chê vào đâu được.

    Bà chưa biết tên của Cô là gì, Bà chỉ gọi Cô bằng con có một hôm bà hỏi Thanh Vân:

    Con còn nhớ tên con không?

    Thanh Vân vội lấy những tấm da mà Chí Trung thường dùng để vẽ để học, Thanh Vân dùng bút lông vẽ nhanh một vần mây bay trên bầu trời xanh lơ tiếp theo đó là những biểu dấu hiệu biểu tượng hình tượng ra ni. Bà Liễu Huệ vô cùng kinh ngạc với tài hoa bút tích kỳ diệu những hình vẽ vô cùng sống động.

    Bà nói:

    Con là Thanh Vân.

    Thanh Vân gật đầu. Bà Liễu Huệ nghĩ với cái tài văn chương hội họa bút pháp nầy thời không thua gì Chí Trung nhà Bà cả, Bà Liễu Huệ càng kính nể yêu quý Thanh Vân hơn nữa.

    Nói về Chí Trung từ khi có Thanh Vân lúc nào cũng vui vẻ suốt ngày. Thanh Vân mỗi lần nhìn Chí Trung không khỏi nỗi lên bao niềm rung động, Chí trung như có một mãnh lực thu hút kỳ lạ, bất cứ một cô gái nào cũng mơ cũng mộng. sự trầm tĩnh tư cách đứng đắn của Chí Trung, Thanh Vân như nghe tràn đầy nỗi xao xuyến Cô ngơ ngẩn xuất thần.

    Anh hoa phát tiết ra ngoài

    Nếu không Tinh Tú cũng nầy Thần Tiên

    Xuôi thời gặp gỡ mà chi

    Cho lòng xao xuyến con tim nhớ thầm.

    Sự tương giao giữa Trai và Gái trong vườn xuân tình duyên trai gái đầy sức sống giao cảm luôn hướng về nhau. Chí Trung lúc nào cũng nghĩ đến Thanh Vân, Thanh Vân cũng thế lúc nào cũng nghĩ đến Chí Trung.

    Lần đầu rung động nỗi thương yêu

    Rung rẩy hồn xuân nắng ốm chiều

    Đã nghe sóng dậy tình lai láng

    Giao cảm cùng nhau một nhịp yêu.

    Nhìn Chí Trung, Thanh Vân không khỏi rung động, quả tim Cô luôn hướng về người, gần gũi Chí Trung Cô thấy mình thật bình yên, dù cho trời đất có sụp xuống cô không lấy gì làm sợ, Cô thầm nghĩ Chí Trung thật khôi ngô tuấn tú, tư cách trong sáng, tư chất bất phàm. Cô bỗng e thẹn khuôn trăng càng thêm rực rỡ làm say đắm cả lòng người. Chí Trung ngây ngất như lạc vào cõi Tiên. Tiếng tằng hắng của Bà Liễu Huệ làm Chí Trung giật mình.

    Bà nói:

    Con không muốn vào Kinh Đô Văn Lang ứng thí Trạng Nguyên, thì cũng lo tìm cho mình một tương lai nhất là con đường vợ con, con đã 21 tuổi rồi không còn trẻ gì nữa đâu. Mai là ngày kỵ cơm cho Ba con, thời gian trôi qua nhanh quá.

    Thanh Vân đến đây mới đó mà đã gần một năm. Bà thở dài cuộc đời như bóng câu qua cửa sổ. Nghe Bà Liễu Huệ nói, Thanh Vân nghĩ mình đến đây gần một năm thời gian trôi qua như tên bắn, Thanh Vân bỗng thấy nhớ nhà, nhớ cha, mặt Cô buồn rười rượi.

    Bà Liễu Huệ thấy Thanh Vân buồn như vậy không hiểu là nguyên do gì. Bà nói:

    Con đừng buồn Mẹ coi con như là con của Mẹ. Con nhớ nhà chăng?

    Thanh Vân gật đầu. Nhà con ở đâu? Bà Liễu Huệ hỏi. Thanh Vân chỉ lắc đầu, như khi cô mới tới đây. Để cho Thanh Vân được vui Bà Liễu Huệ kể chuyện. Bà kể lại chuyện hơn 20 năm về trước.

    Bà sanh ra trong một gia đình tuy không giàu có nhưng cũng khá giả, Bà cũng có học hành nhưng không đến nơi đến chốn, Bà kể hồi đó Mẹ cũng có chút nhan sắc tuy không đẹp bằng con nhưng cũng nhất Đông Hải Châu, không biết bao nhiêu con quan, công tử nhà giàu, để mắt đến dạm hỏi nhưng Mẹ từ chối tất cả. Một hôm Mẹ đi xem dạ hội ở Bộ vô tình Mẹ gặp một người thanh niên khôi ngôi tuấn tú, hỏi ra mới biết người thanh niên khôi ngô tuấn tú ấy tên là Chí Nhân ở Huyện Hải Hậu thi đỗ xuất sắc ở Bộ chờ ngày bổ nhiệm làm Quan Tri Phủ, nhưng Chí Nhân từ chối chỉ xin bổ nhiệm về Huyện Hải Hậu làm Bố Chánh Tri Huyện đại nhân, không hiểu vì sao lòng mẹ rung động dữ quá, có lẽ Chí Nhân cũng thế, hai người tâm đầu ý hợp dẫn đến yêu nhau, rồi trở thành chồng vợ. Hai vợ chồng hết mực thương yêu nhau, sống vô cùng vô cùng hạnh phúc.

    Một hôm Chí Nhân Cha con nói:

    Trần gian là cõi tạm cũng là bể khổ, hai ta phải hết dạ thương yêu nhau mới đi hết đoạn đường trần. Chí Nhân nói: Trăm năm có là bao, và chúng ta lại phải chia tay nhau, vì hai ta đã sang qua một thế giới khác, anh đường anh anh đi, em đường em em đi.

    Mẹ nghe Cha con nói thế bỗng nghe lòng buồn rười rượi. Nhưng lời nói của Cha con là sự thật. Mẹ hỏi:

    Có cách gì chúng ta mãi mãi không xa nhau không.

    Cha Con nói:

    Có đó là thủy chung và hết dạ thương yêu nhau dù cho hoàn cảnh gì xảy ra cũng không đánh mất lòng chung thủy, và chỉ có lòng chung thủy chúng ta mới không xa cách nhau, tất cả sự xa cách chỉ là tạm thời.

    Chí Nhân Cha con nói:

    Đường đời trần gian quá ngắn, gặp nhau rồi cũng sớm chia tay, chỉ có đường đời trên Thiên Giới mới sống lâu vĩnh viễn, nếu hai ta giữ trọn niềm chung thủy hai quả tim hòa chung thành một, chồng hết lòng vì vợ, vợ hết lòng vì chồng. Lo lắng cho nhau, chồng sống vì vợ, vợ sống vì chồng. Không sống vì mình, khi chia ly biết chờ đợi nhau để rồi gặp lại nhau đi chung trên con đường đời, hay là đi chung trên con đường Thiên Giới.

    Chí Nhân nói:

    Nếu hai ta làm được như vậy, khi hai ta mãn con đường trần gian, thì chúng ta lại tiếp tục đi chung trên con đường Thiên Đàng. Chúng ta mãi mãi sống bên nhau hạnh phúc.

    Bà Liễu Huệ lại kể: Chí Nhân, Cha Chí Trung là vị quan thanh liêm lại hết mực thương dân làm Quan Tri Huyện đã hơn năm năm nhưng cuộc sống chỉ khá hơn dân thường mà thôi vườn tược ngôi nhà cũng chỉ có thế nầy, nhưng gia đình êm ấm hạnh phúc. Bỗng một hôm có công văn chiếu chỉ của Bộ lệnh cho Cha Chí Trung lên đường đến dãy núi Hùng Phong có một ngọn núi lớn hết sức quái dị giống như một con thú, gọi là ngọn núi quỉ, quanh năm mây đen phủ kín. Những xóm làng cách xa đó hàng chục dặm, vẫn luôn luôn gặp tai họa, mất mùa, mất Trâu, mất Bò, mất Heo. Thậm chí mất cả Trẻ Con. Thì ra ở ngọn núi nầy có một con Quỉ Râu Xanh. Chuyên làm hại Dân Làng. Tin nầy đã đến tai Vua. Hùng Vương liền ra chiếu chỉ ai diệt được con Qủi Râu Xanh thì phong cho làm quan, thưởng cho một trăm cây vải, một trăm lượng bạc một trăm lượng vàng. Thế là không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt lên đường tiêu diệt con Quỉ Râu Xanh nhưng có đi mà không có về, sau đó không còn có ai dám đến đó nữa. Vua Hùng có lệnh khẩn cấp bắt buộc mỗi Bộ một người tài giỏi hiệp sức cùng nhau tiêu diệt Con Quỉ. Có lẽ Chí Nhân là con nhà võ cái thế Cha Chí nhân tức là Ông Nội của Chí Trung đã từng là quan võ bậc nhất ở Triều Đình. Chí Nhân đã được chân truyền võ học tiếng tăm lừng lẫy khắp Châu Bộ thế là Chí Nhân cha Chí Trung được chọn lựa cùng một số võ tướng ở bộ khác lên đường tiêu diệt con Quỉ Râu Xanh. Cha Chí Trung được lệnh lên đường, liền trong ba ngày ba đêm không nói không rằng. Lấy thanh kiếm cổ truyền của Ông nội Chí Trung để lại, Cha Chí Trung ngày cũng như đêm, đem kiếm cổ ra phơi dưới ánh trăng ánh nắng hút lấy tinh hoa Nhật Nguyệt. Nghe nói thanh kiếm cổ ấy là chính tay Quốc Tổ Vua Hùng ban cho Dòng Họ Chí vì có công tiêu diệt Thuồng Luồng làm hại mùa màng dân chúng tới nay đã hơn 20 mấy đời. Có những đời chỉ để thờ không hề động đến. Cha Chí Trung phơi kiếm cổ ba ngày ba đêm hút lấy tinh hoa Nhật Nguyệt, trước khi lên đường Chí Nhân rút kiếm ra tức thời hào quang tỏa ra sáng chóa làm Mẹ lóa cả mắt. Cha Chí trung cười lên ha hả nét mặt Chí Nhân vui sướng làm sao.

    Chí Nhân nói với Mẹ:

    Chỉ cần anh lên đường tới nơi, chính là ngày tận số của con Quỉ Râu Xanh.

    Bà Liễu Huệ lại kể: Lòng Mẹ lúc ấy thật tự hào về người Cha của con, những cũng lo sợ vô cùng. Cha con từ biệt Mẹ lên đường, Mẹ cứ nhìn về dãy núi xa xa thấy ánh hào quang chơm chớp tới ba ngày ba đêm có lẽ Cha Chí trung đang giao tranh với con quỉ. Mẹ bỏ ăn bỏ ngủ thầm khấn vái Cha Lạc Long Quân, Mẹ Âu Cơ phù hộ che chở cho Cha con. Sau ba ngày ba đêm Cha con diệt được Con Quỉ chiến thắng trở về, xách đầu Con Quỉ nộp cho Bộ, trên đường về nhà dân chúng túa ra hai bên đường hoan hô ca ngợi, bậc anh hùng Hải Châu, Hải Hậu. Cha Chí Trung bị thương khá nặng, về vừa tới nhà thì ngã lăn ra bất tỉnh vì vết thương nhiễm độc quá nặng. Thầy thuốc khắp nơi tận tâm cứu chữa nhưng không khỏi, sau đó thì qua đời. Cha Chí Trung qua đời, trong khi Chí Trung vừa mới tượng hình nằm trong bụng mẹ.

    Bà Liễu Huệ Kể tới đó thì nước mắt rơi đầm đìa bà hồi tưởng lại tất cả như vừa mới xảy ra. Bà kể tiếp: Bà nội Chí Trung vì quá thương con, xúc động quá lớn dẫn tới ngã bệnh đột quỵ tê liệt toàn thân nằm liệt trên giường. Mẹ bụng mang dạ chửa lại phải hết lòng chăm sóc mẹ chồng, Bà thở dài nói. Đúng là cái khổ chồng lên cái khổ, nổi họa chồng lên nỗi họa, kiếp nạn nầy chưa xong thì kiếp nạn khác kéo đến. Thừa cơ hội Mẹ đi chợ bọn ăn trộm lẻn vào nhà lấy đi tất cả vàng bạc, chẳng còn cái chi. Mẹ đi báo Quan nhưng Huyện Quan không những không giúp Mẹ lấy lại số bạc vàng đã mất, mà con dở trò sàm sỡ với Mẹ.

    Thanh Vân nghe tới đó trợn mắt tức giận vô cùng, Chí Trung cũng vậy Bà Liễu Huệ như cảm thấy đau đớn kể tiếp: Điều đáng thương tâm hơn nữa, trong nhà chẳng còn gì để mà ăn, đến bát cháo cũng không có. Nếu có được chút cháo nào Mẹ dành hết cho Bà Nội con, Mẹ đói quá đành té xỉu trong lúc Mẹ đau bụng sắp sanh. Chí Trung nghe đến đó thì kinh hãi Thanh Vân cũng vậy.

    Bà Liễu Huệ lắng đi nỗi xúc động rồi kể tiếp: Trong lúc nguy cấp ấy may nhờ người bạn của Mẹ đến kịp nên Chí Trung chào đời mới được an toàn. Bà Liễu Huệ thở dài rơi nước mắt nói, đúng là họa vô đơn chí, tiếp nối liên miên, thương tâm kia chưa dứt, thời nỗi xót xa nọ chồng lên. Chí Trung vừa lọt lòng chào đời, thì Mẹ chồng trút hơi thở mà ra đi, thê thảm chồng lên thê thảm, bao tai họa cứ ập đến làm người mẹ góa bụa không biết đâu mà chống đỡ, khi ấy Mẹ còn quá trẻ lại có nhan sắc nên Quan Tri Huyện bám theo như đĩa không buông tha cho Mẹ. Lão dê xồm dẫn binh lính tới nhà dở trò hãm hiếp Mẹ.

    Chí Trung kinh hoảng thét lớn:

    Đồ khốn.

    Thanh Vân cũng kinh hãi vô cùng. Bà thở dài nói:

    May lúc ấy có Quan Bộ, Quan Thượng Thư ở Triều Đình đến.

    Chí Trung thở phào nhẹ nhõm may quá, Chí Trung như thấy gì khác lạ hỏi:

    Thưa Mẹ. Quan Thượng Thư đến nhà mình sao?

    Mẹ cũng lấy làm ngạc nhiên điều nầy, như khi nghe quan Thượng Thư nói Mẹ mới hiểu. Ông nội con với Quan Thượng Thư là hai người bạn chí thân Quan Thượng Thư là Quan Văn, Ông nội con là thống soái Quan Võ.

    Chí Trung kinh ngạc hỏi:

    Ông Nội con làm lớn như thế sao?

    Bà Liễu Huệ như hồi tưởng xa xăm Bà tự hào nói:

    Dòng Họ Chí nào phải tầm thường, nên mới được Quốc Tổ Vua Hùng trao cho bảo kiếm.

    Bà kể tiếp: Tay Quan Huyện định hãm hiếp Mẹ nhưng lão chưa thực hiện được liền bị bắt giải về kinh nghe đâu bị chém đầu bêu ra ngoài chợ, làm gương cho những tên Quan bất chính làm hại Dân hại Nước, hãm hiếp phụ nữ.

    Chí Trung nghe xong hả dạ nói:

    Gieo ác lai gặt ác báo Ông Trời có mắt, đúng là lưới Trời lồng lộng một mảy lông cũng không lọt.
     
  15. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Nói về Thanh Vân lắng tai Bà Liễu Huệ kể lại nỗi bi ai mà bà đã trải qua, một người Dâu, một người Mẹ, một người Vợ, Trung Trinh, Hiếu Nghĩa, Tiết Liệt, Nghị Lực, Đảm Đang như thế, thì không khỏi thám phục phải nói là hi hữu hiếm có trên đời. Thanh Vân chợt nghĩ đến số phận mình sao đây, có đủ dũng khí nghị lực vượt qua không. Bà Liễu Huệ nhìn Chí Trung và Thanh Vân, hai đứa nó thật là tâm đầu ý hợp, không khác gì Bà với Chí Nhân ngày xưa.

    Bà Liễu Huệ thở dài nói:

    Chí Nhân bỏ Mẹ ra đi khi Mẹ còn rất trẻ, vừa tròn 23 tuổi, nhưng Mẹ quyết ở vậy tu hành nuôi con hầu mong gặp Chí Nhân ở cõi Thiên Đàng. Theo như những gì Chí Nhân Cha con nói, trần gian cõi tạm lại rất ngắn, Thiên Đàng mới là chánh quê Mẹ nguyện về quê Thiên Đàng sống với Cha con. Thủy Chung là đức tính cao cả để gặp lại nhau. Tuy Cha con đã qua đời từ lâu, nhưng Mẹ vẫn luôn luôn xem như Cha con còn sống, không lúc nào quên.

    Thanh Vân nghe những lời nói nầy vô cùng xúc động, vừa kính phục vừa thương yêu Bà Liễu Huệ vô cùng. Nói về Thanh Vân càng nghe càng thám phục, phải nói là hiếm có người phụ nữ nào như Bà Liễu Huệ, Hiếu Nghĩa, Trung Trinh, Tiết Liệt, Nghị Lực, Đảm Đang, chịu đựng sự dồn dập của họa tai không đầu hàng trước số phận. Cũng như sự cám dỗ của tình dục, cạm bẫy nghiệt ngã trước Quan Tri Huyện, đầy quyền thế, chai lì tán tỉnh, Thanh Vân nhìn Bà Liễu Huệ tuy đã lớn tuổi trên 40 nhưng vẫn còn đẹp lắm, huống gì lúc còn trẻ thì khối người muốn đến với bà, nhưng Bà vẫn thủy chung ở vậy nuôi con cho đến ngày nay. Càng nghĩ Thanh Vân càng yêu kính Bà Liễu Huệ vô cùng. Bà không sợ nỗi cô đơn, không sợ thời gian dài đăng đẵng một mình một bóng ở vậy cho đến ngày già. Cô thầm hiểu Bà Liễu Huệ không những yêu chồng vô bờ bến mà còn sẵn sàng hi sinh tất cả vì chồng, có nghĩa là Bà sống vì con vì chồng, không phải sống vì bà cho bà. Nên Bà Nội Chí Trung nói, Chí Nhân cha Chí Trung không sống để mà hưởng phước vì có một người vợ tuyệt vời như vậy. Thanh Vân nghĩ chỉ có những người vợ hết dạ thương chồng coi chồng là tất cả, lẽ sống của chồng chính là lẽ sống của mình, sống vì chồng không sống vì mình mới đạt đến cảnh giới thủy chung sắc son như vậy.

    Bà Liễu Huệ như nhìn về một khoảng trời xa xăm. Bà nói:

    Những gì Cha con nói rất đúng, không có gì quý hơn tấm lòng vàng và lòng chung thủy. Thể xác chỉ là bề ngoài và cũng chóng phai tàn theo thời gian, đức tính chân thiện và lòng chung thủy mới là báu vật vô giá.

    Bà Liễu Huệ nhìn Chí trung, nhìn Thanh Vân thầm nghĩ hai đứa nó thật xứng đôi, nhưng đáng tiếc Thanh Vân viên ngọc câm không nói được, cuộc sống ở đời có năm điều vô cùng quan trọng. Ăn, Ở, Quan Hệ, Xã Giao, Nói. Bà Liễu Huệ nhìn Thanh Vân mà lòng thương yêu vô hạn. Trong năm điều quan trọng sự sống ở đời, Thanh Vân đã đạt được bốn, Ăn, Ở, Quan hệ, Xã Giao, đều ở bực thượng, nếu Thanh Vân nói được không bị câm thì không còn ai sánh kịp được nữa tiếc thật. Nếu Chí Trung không ngại sự câm của Thanh Vân, cũng như sự mặc cảm đàm tiếu của ở đời, thì Bà cũng chấp nhận cho hai đứa nó nên duyên chồng vợ.

    Sau lần kể của Mẹ. Chí Trung như khác hẳn đi và luôn luôn ra chiều suy nghĩ. Nhà Chí Trung có một căn phòng vô cùng bí mật đó là nơi luyện kiếm của Cha Chí Trung. Bà không bao giờ cho Chí Trung vào phòng đó vì sợ Chí Trung lâm vào đại họa như Cha của nó, bí mật bảo kiếm gia truyền đến giờ nầy Chí Trung mới biết được qua câu chuyện nghe Mẹ kể. Chí Trung không bao giờ làm trái ý mẹ nên suốt 20 năm qua. Chí Trung chưa một lần bước vào căn phòng bí mật đó, có lần Chí Trung thấy Mẹ bước vào căn phòng đó rất lâu rồi mới trở ra, nhưng Chí Trung không dám hỏi sợ Mẹ phật lòng. Đêm đã khuya nhưng Chí Trung chưa ngủ trằn trọc mãi, Chí Trung bước xuống giường ra hè nhìn về căn phòng bí mật.

    Chí Trung nghĩ: Căn phòng kia có gì bí mật mà Mẹ cấm không cho mình vào.

    Càng nghĩ Chí Trung càng tò mò lòng hiếu kỳ nổi lên dữ dội. Không kìm nỗi lòng hiếu kỳ Chí Trung len lén đến nơi căn phòng bí mật, ngần ngừ một chặp rồi mở cửa bước vào. Chí Trung bật lửa lên rọi xem, qua ánh lửa Chí Trung lấy làm ngạc nhiên, chẳng có gì cả ngoài chiếc giường bằng đá để luyện công, loại đá rất lạ hơi lạnh tỏa ra. Trên đầu giường treo một thanh cổ kiếm và một cái hộp lớn, thì không còn gì nữa.

    Chí Trung nhìn thanh kiếm cổ, thanh kiếm mà Quốc Tổ ban cho Dòng Họ Chí thầm nghĩ: Có lẽ thanh kiếm cổ nầy Cha dùng nó chém chết con Quỉ Râu Xanh. Không hiểu nó có uy lực gì mà ghê gớm như vậy.

    Chí Trung liền bước tới lấy thanh kiếm cổ xuống, tuốt kiếm ra liền nghe có tiếng chấn động hào quang tỏa ra rực rỡ làm Chí Trung giật cả mình kinh sợ, kêu lên:

    Kiếm Thần.

    Chí Trung múa thử một vòng thời thấy hơi lạnh tỏa ra kiếm quang chóa mắt. Chí Trung khen:

    Đúng là Thần Kiếm báu vật.

    Những bậc anh hùng quý kiếm còn hơn sanh mạng của mình, Chí Trung cũng không ngoài lệ, huống chi là Bảo Kiếm gia truyền của Quốc Tổ ban cho. Các quan văn võ thấy bảo kiếm nầy đều phải cúi đầu, không dám xem thường hay ngạo mạn.

    Chí Trung nghĩ: Đây là bảo vật gia truyền thuộc sở hữu của Dòng Họ Chí sao Mẹ lại cấm mình như thế.

    Chí Trung treo kiếm về chỗ cũ, bước tới chiếc hộp chần chừ một lúc rồi mở ra xem thử trong chiếc hộp đựng vật gì chiếc hộp được mở ra Chí Trung thấy một bộ hình võ thuật, lẫn bộ hình võ công, rất kỳ lạ. Chí trung xưa nay vẫn học nhiều trường võ, nhưng chưa thấy võ công nào kỳ bí như vậy liền tò mò luyện thử vài thế. Thì thấy kinh mạch khác lạ một luồng khí nóng chuyển động lưu thông.

    Chí Trung vô cùng kinh hãi nói:

    Võ công gì kỳ lạ thế nầy.

    Chí Trung không dám luyện nữa, trả về nguyên vị trí như cũ. Chí Trung từ đó ít nói ít cười dù có Thanh Vân bên cạnh. Thanh Vân không hiểu mình có làm gì phật lòng Chí Trung không, nhưng xem đi xét lại thì không có điều gì làm phật lòng Chí Trung cả.

    Bà Liễu Huệ cũng lấy làm lạ Chí Trung thường ngày vô cùng vui vẻ, nhưng mấy ngày nay có vẻ hơi khác hình như có nỗi buồn gì khó nói. Bà hỏi:

    Con có gì muốn nói với Mẹ sao?

    Chí Trung nói:

    Con có những điều vô cùng khó hiểu, muốn thưa hỏi Mẹ nhưng không dám vì sợ Mẹ không vui.

    Bà Liễu Huệ tưởng đâu là chuyện hai đứa nó, nên nói:

    Tuy Thanh Vân bị câm, nhưng phẩm hạnh đức tính đều hơn hẳn người thường, Mẹ đã chấp nhận Thanh Vân làm con dâu từ lâu, miễn hai đứa thương nhau thời mẹ vui rồi.

    Thanh Vân khi ấy ở nhà dưới chú tâm lắng nghe, nghe Bà Liễu Huệ nói như thế thời lòng vui không sao kể xiết tim Thanh Vân nhảy thình thịch. Thanh Vân nghĩ mình đã yêu Chí Trung từ khi mới gặp nhau, từ đó đến nay tình yêu càng đậm thêm, nhất là đôi mắt Chí Trung lúc nào cũng nói lên là yêu thương mình tha thiết. Hơn một năm chung sống một nhà, niềm khát khao thầm kín gắn bó hai tâm hồn luôn xích lại gần nhau, như không muốn xa nhau biết bao nhiêu là kỷ niệm, Cô dành cho Chí Trung, Chí Trung dành cho Cô tình yêu tha thiết lúc nào cũng cháy bỏng trong lòng theo ngày tháng đi qua. Cô nghĩ Chí Trung sẽ trả lời con muốn nên nghĩa vợ chồng với Thanh Vân, nhưng cô đã đón sai vì Chí Trung thưa với Mẹ một chuyện khác.

    Chí Trung nói:

    Thưa Mẹ, con nghĩ báu vật của Dòng Họ Chí con phải thừa kế tiếp nối làm rạng danh Tiên Tổ Dòng Họ Ông Cha, sao Mẹ lại cấm con như thế.

    Nghe Chí Trung nói Bà biết mình đã đoán sai, thì ra Chí Trung buồn là vì một chuyện khác. Bà Liễu Huệ thở dài nói:

    Có lẽ đây là cái lỗi của Mẹ vì Mẹ sợ con giống Ông, giống Cha con, chết sớm bỏ lại vợ con nheo nhóc, tai họa luôn kéo đến dồn dập Mẹ rất sợ, vì con là đứa con độc nhất của Mẹ không muốn con gặp nhiều bão tố phong ba. Mẹ muốn con được bình yên trên đường đời, tài càng cao thời tai họa càng lớn.

    Chí Trung nghe Mẹ nói thế, lòng buồn vô hạn nói:

    Thưa Mẹ, sống chết là do số Trời, họa phúc là do nhân duyên kiếp trước đã tạo ra, nào liên quan gì đến vật bảo gia truyền của Dòng Họ Chí, hơn nữa cổ kiếm là do Quốc Tổ ban cho. Mẹ hãy cho phép con thừa kế di bảo Ông Cha làm rạng danh nhà Họ Chí.

    Bà Liễu Huệ ngẫm nghĩ: Có lẽ mình quá lo xa, chỉ biết sống cho mình mà quên đi những gì thiêng liêng nhất mà bao đời Ông Cha tôn thờ gìn giữ, Bà Liễu Huệ như thấu suốt làm người Dâu tốt, người Mẹ tốt, không chỉ biết đối nhân xử thế ăn ở cho phải đạo làm con Dâu mà còn phải biết gìn giữ Uy Linh truyền thống Dòng Họ Ông Cha. Truyền lại cho con cái.

    Bà đứng dậy nói:

    Con đi theo Mẹ.

    Chí Trung vô cùng mừng rỡ, Bà dẩn Chí Trung đến căn phòng bí mật, Bà chần chừ một lát rồi mở cửa bước vào, Bà nhìn thấy những vật ấy như thấy Chí Nhân hiện về. Bà nói:

    Chí Nhân ông hãy tha lỗi cho tôi, bởi vì quá thương con nên tôi mới cấm ngăn như thế, nếu không có Chí Trung nhắc nhở thì tôi đã phạm sai lầm lớn, hôm nay Chí Trung đã trưởng thành tôi giao báu vật gia truyền lại cho nó.

    Bà chỉ vào chiếc hộp nói:

    Bí kíp võ công gia truyền của Dòng Họ Chí đều ở hết trong đó, võ công của con hiện tại so với Cha con, con chỉ là Đom Đóm so với ánh đèn lớn, tảng băng giường đá nầy là báu vật vô giá ngồi luyện công trên đây một giờ bằng tu luyện ở ngoài một năm. Còn kia là Bảo Kiếm không những chém sắt như chém bùn, mà nó còn phát ra uy lực vô biên, thế mà Cha con còn chết về tay Con Quỉ, thì con biết Yêu Tinh Quỉ dữ lợi hại như thế nào. Với võ công của con hiện giờ cũng không rờ được cái lông của Con Quỉ, nói gì chiến đấu với nó. Từ nay con là người thừa kế những báu vật vô giá nầy. Con cố gắng tu luyện sau nầy làm rạng danh Dòng Họ Chí như con mong ước.

    Bà Liễu Huệ giao bảo vật gia truyền cho Chí Trung xong, Bà cảm thấy nhẹ nhàng hơn bao giờ hết, vì tảng đá nặng sâu kín trong lòng đã bị trút bỏ. Đây nói về Chí Trung từ khi tiếp nhận được võ thuật gia truyền, ngày đêm luyện tập không ngừng nghỉ, không bao lâu thời võ công gia truyền đã học xong. Chí Trung giờ đây trông khác hẳn, đức trí song toàn võ công cái thế.

    Chí Trung nghĩ lại: Võ công trước đây của mình chỉ là con đom đóm so với ánh đuốc lớn. Không là gì cả thế mà vẫn nổi danh là cao thủ ít ai sánh kịp, đúng là trò hề võ công.

    Chí Trung đang miên man suy nghĩ Thanh Vân đi đến sát bên cạnh lúc nào Chí Trung cũng không hay. Đến khi Thanh Vân nắm lấy tay Chí Trung, Chí Trung mới giật mình. Cô chỉ đàn chim én bay lượn thi nhau dệt mộng mùa xuân như nói với Chí Trung rằng, em đến đây đã hơn hai năm trải qua hai mùa xuân. Chí Trung nhìn sâu trong mắt cô, thấy Thanh Vân hình như có nỗi buồn xa xăm muốn đi ra. Chí Trung bỗng dâng lên một nỗi buồn vô hạn.

    Chí Trung nói:

    Anh đã nhận ra, em biết nhà em ở đâu, nhưng em không nói vì em muốn ở lại đây đền đáp chút công ơn cứu mạng, và cũng đến lúc em muốn ra đi trở lại quê nhà. Anh cũng đã đoán được điều nầy từ lâu.

    Thanh Vân ra ni nói với Chí Trung: Em không muốn xa Anh nhưng sao Em bỗng thấy nhớ nhà nhớ Cha quá. Vì tết cũng sắp đến Anh đã hứa là đưa Em về nhà kia mà, Anh quên rồi sao.

    Chí Trung nói:

    Anh không quên đâu.

    Có thế chứ Thanh Vân nũng nịu nói: Em đi với người có võ công cái thế thì ai dám ăn hiếp em.

    Chí Trung đang buồn bỗng vui vẻ nói:

    Em khéo ăn nói quá.

    Chí trung nhìn đàn chim én bay lượn thở dài nói:

    Em như một nàng Tiên đến đây đã hơn hai năm, trong hơn hai năm ấy Em đã để lại cho gia đình Anh không biết là bao nhiêu kỷ niệm, thiếu vắng Em thì đời Anh trống rỗng như lạc vào chốn không gian vô tận không có gì buồn bằng.

    Nghe Chí Trung nói thế Thanh Vân rơi lệ: Em tạm rời khỏi ngôi nhà nầy về thăm Cha thôi mà, Em sẽ trở lại khi Anh làm lễ xin cưới Em.

    Chí Trung nói:

    Biết là biết thế nhưng sao Anh vẫn thấy buồn khi xa vắng Em, dù chỉ là một ngày.

    Thanh Vân nũng nịu nói: Chí nam nhi tại bốn phương, không thể quấn quít bên người yêu mãi, mà phải bay cao bay xa, lấy nước non làm đại cuộc.

    Chí Trung như chợt nhớ ra nói:

    Anh có một việc muốn thưa với Mẹ, muốn nói với Em từ lâu nghe nói trên kinh đô Xích Quỷ Giao Chỉ đang dán cáo thị bổ nhiệm chức Quan Phủ gì đó, trước khi xin cưới Em Anh cũng phải có sự nghiệp không lẽ trắng tay như vầy mãi được, có chút tài chút đức thì ra giúp nước giúp non, không những không uổng công Mẹ nuôi Anh ăn học gia tài cũng đã cạn kiệt rồi còn gì, không khéo thì khốn khổ mất. Anh phải ra ứng thí may ra có được chức Quan làm rạng danh Dòng Họ. Em hãy chờ Anh lên Kinh Đô ứng thí trở về đưa Em đi trở về nhà đoàn tụ với gia đình.

    Thanh Vân biết làm gì hơn đành ưng thuận gật đầu. Bà Liễu Huệ nhìn hai đứa nó thương yêu nhau như vậy, bà như nhớ lại ngày xưa, những ngày hạnh phúc bên chồng. Chí Nhân chỉ xa bà có mấy ngày là xa nhau vĩnh viễn, ra đi không bao giờ trở lại. Nhìn Chí Trung, Thanh Vân, Bà thầm khấn vái, chúng nó sẽ thật hạnh phúc bên nhau mãi mãi đừng giống như cuộc đời của Bà. Thanh Vân nghe Chí Trung nói lên Kinh Đô Nam Kinh Xích Quỷ, ứng thí thì lấy làm mừng vì Nam Kinh Xích Quỷ cách quê cô không xa. Thanh Vân gật đầu theo lời đề nghị của Chí Trung là ở nhà chờ đợi, Chí Trung ứng thí xong rồi trở về đưa cô trở về nhà đoàn tụ với gia đình.

    Nói về Bà Liễu Huệ đã trải qua không biết bao nhiêu là cuộc bể dâu chìm nổi khốn cùng, Bà cũng đã nhận thức được sự thay đổi của cuộc đời, sự thay đổi theo tuổi tác của con người, cuối cùng là già nua tử hoại lần lần các tế bào dẫn đến cái chết. Chết là đi vào cõi tái sanh tiếp tục hành trình cuộc sống mới, và thời gian là sự vận động cho quy luật tiến hóa tuần hoàn, sanh rồi lại tử, tử rồi lại sanh, vận mệnh luân hồi con người là như thế. Cuộc đời con người chẳng khác gì mặt trăng hết tròn rồi lại khuyết, khuyết rồi lại tròn, lúc hưng thịnh, lúc tàn lụi Chỉ có những bậc đại Giác Ngộ ra khỏi sự tròn khuyết, giữ mãi cái tròn vĩnh viễn. Bậc đại Giác Ngộ đã thoát ly ra khỏi cảnh giới Thiện Ác, Họa Phúc, nên vĩnh viễn ở mãi trong cảnh giới đại thiện đại phúc, các bậc đại Giác Ngộ không có gì để mất nên chẳng có gì để mà luyến tiếc. Cũng như thoát ra khỏi sự vui buồn, nên mới được cái vui trọn vẹn tuyệt đối. Những bậc đại giác ngộ quá hiểu rõ trong sự sống đã hình thành lên sự chết, trong sự chết đã hình thành lên sự sống, trong đại phúc đã có cái nhân hình thành lên đại họa, trong đại họa nó đã có cái nhân của đại phúc. Sự luân chuyển đối lập tuần hoàn như vậy làm cho con người không biết đâu mà thoát ra. Chỉ có con người đại Giác Ngộ sống tự nhiên đây mới là điểm then chốt quan trọng. Lối sống vì người không làm tổn hại đến nhân loại, đây chính là lối sống của những bậc đại Giác Ngộ, không đi vào lẩn quẩn xoay vần của sự thương ghét hận thù, không bám lấy sự họa phúc nên đặng cái phúc mãi mãi. Bà Liễu Huệ vẫn thường nghe những triết lý cao thâm nầy nhưng bà vẫn không thể nào hiểu được những triết lý sâu xa ấy. Thấy phúc đến thì vui thấy họa đến thì sợ chỉ có thế thôi, theo bà nghĩ cuộc sống dù cho đó là chính nghĩa, hay cuộc sống của bọn ác đạo tà gian, cũng cần phải có địa vị danh lợi, nếu không có những thứ nầy thời chỉ là cuộc sống vô vị không nói là sống khổ. Bà ủng hộ tán thành cho Chí Trung lên Kinh Thành ứng thí làm rạng danh Dòng Họ thì Bà coi như là mãn nguyện lắm rồi.

    Nói về Chí Trung Thanh Vân sắp chia tay nhau nên suốt buổi chiều luôn ở bên nhau, không rời nhau nửa bước.

    Trời chiều như giục cơn buồn

    Mặt trời gác núi lòng càng nhớ nhau.

    Đêm buông xuống Chí Trung Thanh Vân lại càng khắng khít tay nắm tay hòa chung cùng một nhịp đập.

    Đôi ta lặng ngắm trăng lên

    Gương nga chênh chếch đầu non chân trời.

    Nhìn nhau muôn ức vạn lời

    Thề non hẹn biển đất trời chứng tri.

    Hơn hai năm Chí Trung, Thanh Vân chưa hề rời nhau nữa bước, như chim liền cánh, như cây liền cành, đêm buông xuống, giọt sương gieo nặng cuối đông, ánh trăng vằng vặc như soi nỗi buồn của hai quả tim, nhìn những đám mây trôi nối tiếp nhau miên man vô định không biết rồi sẽ về đâu.

    Thanh Vân thở dài ra ni chỉ lên những đám mây đang lững lờ trôi nổi nói với Chí Trung: Em rất sợ cô đơn, sợ dòng đời trôi nổi như những đám mây kia.

    Chí Trung nói:

    Anh cũng giống như Thanh Vân, xa Thanh Vân Anh thấy đời mình như vô nghĩa mất mát khao khát lạc loài vào thế giới xa lạ bơ vơ.

    Mất em anh chẳng còn chi

    Lòng đơn tim vắng quạnh hiu với lòng.

    Ánh trăng vằng vặc cảnh vật huyền ảo lung linh phải nói là sinh động tuyệt vời, nhưng Chí Trung, Thanh Vân hai người thấy cảnh vật như có một nỗi buồn vô tận, hai quả tim, hai nhịp đập luôn khắn khít với nhau quên đi thời gian và chợt nghe tiếng gà xa xa vọng lại.

    Đêm tàn giấc mộng cũng tàn

    Tiếng gà giục dã đất trời xa nhau

    Chia tay ta tạm chia tay

    Chờ anh trở lại chung nhau con thuyền.

    Bà Liễu Huệ nhìn Chí Trung cưỡi ngựa ra đi mà lòng buồn rười rượi bà như linh cảm một chuyến đi xa lâu trở lại, tuy chưa một lần ra trận, nhưng Chí Trung vẫn có khí phách của một đại anh hùng. Với thanh cổ kiếm mang sau lưng trông oai phong lẫm liệt, Chí Trung phất tay chào Mẹ, tạm biệt Thanh Vân phi ngựa lướt đi vùn vụt dần dần lẩn khuất sau những rặng cây xanh.

    Bóng chàng đã khuất sau non

    Trời cao đất rộng bon bon đường dài

    Sợi buồn em đã trao ai

    Sợi thương sợi nhớ mãi theo chân người.

    Nói về Chí Trung phi ngựa lướt đi vùn vụt đi suốt mấy giờ thời đến một khúc sông chi nhánh của sông Âu, nơi đây hoang vu không nhà không cửa, chỉ có mấy túp lều bên kia dòng sông hình như là nhà dân chài thì phải. Trong lúc suy nghĩ tìm đò qua sông liền nghe có tiếng giao tranh dữ dội, tiếng kêu cứu một người con gái vô cùng thảm thiết. Chí Trung liền phi ngựa tới, thấy một chàng thanh niên đánh với bọn cướp.

    Chàng Ta quát lên ầm ĩ:

    Hãy thả ngay vợ Ta ra, hãy thả ngay vợ Ta ra.

    Tên chúa cướp đang nắm tay một cô gái nhan sắc mặn mà phải nói là rất đẹp, tên chúa cướp nói:

    Người đẹp như thế nầy mà làm vợ ngươi sao, Ta đưa Nàng về núi làm áp trại Phu Nhân. Xác ngươi ta quen xuống sông cho cá nuốt, võ công thằng nhãi ngươi cũng khá đấy nhưng bỏ mạng đến nơi rồi.

    Tên chúa cướp ra lệnh:

    Giết thằng nhãi đó mau lên chúng ta còn về núi.

    Thế là bọn lu la mấy chục thằng xông vào chém tới tấp, chàng thanh niên chống đỡ muốn hụt hơi và đã bị thương mấy chỗ, trong lúc mạng sống của chàng thanh niên chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc.

    Thì một tiếng quát như sấm nổ vang lên:

    Hay cho lũ ăn cướp hãm hại dân lành, cướp bắt đàn bà con gái. Tội các ngươi đáng chết.

    Nói xong Chí Trung xuống ngựa lao vào với chiếc roi ngựa Chí Trung đánh bọn ăn cướp tơi bời đứa thì lỗ đầu, đứa thì sứt tráng, đứa thì què chân, đứa thì gãy tay bọn lâu la khiếp đảm. Tên chúa cướp thả nàng con gái ra lao tới múa thanh đại đao sáng giới bén ngót.

    Tên Chúa Cướp quát:

    Thằng nhãi kia ngươi là ai dám vuốt râu hùm.

    Chí Trung quát:

    Hãy bỏ đao quỳ xuống thề với trời cao đất rộng là từ nay bỏ nghề ăn cướp, thời Ta tha cho mạng sống bằng không các ngươi phải chết hết, vì các ngươi gây ra không biết bao nhiêu là tội ác rồi.

    Tên chúa cướp quát lên như sấm nổ:

    Thằng nhái con kia ngươi thật là hỗn láo, đại đao Ta nó đã ngửi thấy mùi máu của ngươi. Mau xưng tên họ rồi về chầu âm phủ.

    Chí Trung quát:

    Im mồm tên ăn cướp hổn láo mau cải tà quy chánh xin Ta tha mạng, thì may cái đầu nhà ngươi mới còn.

    Tên Chúa cướp quát:

    Rút kiếm ra đấu với ác Phong ta một trận. Để ngươi mở tầm mắt biết thế nào là tuyệt thế phong đao của Ta, mà về bên kia thế giới.

    Nói về chàng thanh niên được giải cứu, chạy tới ôm chầm lấy người con gái nói:

    Em đừng sợ có người đến cứu chúng ta.

    Chừng nghe tên Chúa cướp xưng mình là Ác Phong thì chàng thanh niên kinh hồn bạt vía nói:

    Thế là hết đời hai ta, hãy nhảy xuống sông cùng chết.

    Người con gái nói:

    Còn con chúng ta thì sao.

    Chàng thanh niên như chợt tỉnh nói:

    Con chúng Ta còn trong giấc ngủ túp lều bên kia sông.

    Đôi nam nữ đang ôm nhau khóc lóc thì giật mình vì tiếng quát như sấm nổ của tên tướng cướp:

    Xem Phong Đao của Ta đây.

    Tên chúa cướp vận kình lực lên thanh đại đao tức thời kình lực tuôn ra làm cho cây cối xung quanh muốn ngã rạp. Chí Trung thấy thế kinh hãi không xong rồi ánh đao tướng cướp chớp lên chém tới. Chí Trung liền sử dụng ảo ảnh kinh công tuyệt thế của Dòng Họ Chí né tránh ầm một tiếng cây gạo to bằng người ôm bị Phong Đao chặt đứt tiện. Tên chúa cướp nào để cho Chí Trung chạy thoát với chiêu Thiên Long Giáng Hạ thanh đại đao nhanh như chớp từ trên trời chém xuống, lại ầm một tiếng tảng đá to như con Voi bị chém đứt làm đôi. Chí Trung không ngờ trên đời nầy có người sử dụng đao pháp lợi hại đến khủng khiếp như thế. Nếu không cẩn thận toi mạng như chơi. Chí Trung thân Pháp như ma quỉ lúc ẩn lúc hiện, tên chúa cướp không biết đâu mà lường.

    Ác Phong tên chúa cướp chém liền hai chiêu không trúng tức quá gầm lên:

    Xem chiêu Tuyệt Đao Đoạt Mệnh của ta đây.

    Tức thời thanh đại đao biến vô số đại đao tên chúa cướp di chuyển thân hình như ma quỉ quyết giết Chí Trung trong một chiêu nầy.

    Chí Trung quát lên một tiếng:

    Xem đây.

    Tức thời một đạo hào quang chớp lên chỉ nghe một tiếng thét hãi hùng sau đó thời im bặt tên chúa cướp đã bị chặt đứt làm đôi. Chí Trung ngơ ngẩn một hồi thầm nghĩ: Kiếm Pháp Triệt Ma lợi hại như thế sao?
     
  16. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Nói về Chí Trung thấy tên chúa cướp với chiêu Tuyệt Đao Đoạt Mệnh quá lợi hại như vậy bằng vận mười hai thần công lực lên cánh tay sử dụng tuyệt chiêu Triệt Ma Kiếm Pháp chém chết Chúa cướp, bọn lu la sợ quá chúng thi nhau chạy thoát thân bán sống bán chết.

    Hai vợ chồng trẻ chạy tới lạy tạ ân nhân cứu mạng, Chí Trung nhìn kỹ chàng thanh niên nầy cũng là trang hảo hán khôi ngô tuấn tú, ra cách con nhà có học sao lại ở nơi hoang vu hẻo lánh nầy. Có lẽ nhỏ hơn mình chỉ hai ba tuổi.

    Chàng thanh niên trai tráng nói:

    Tôi tên là Thạch An, vợ tôi tên là Kiều My, hai vợ chồng tôi sinh sống trên khúc sông nầy, hơn hai năm có với nhau được một mụn con hằng ngày vợ chồng tôi đánh cá trên nhánh sông nầy để sanh sống. Không ngờ có một bọn ăn cướp tới làm hại, chúng nó ở cách đây khá xa nghe nói trong một khe núi ve sầu không ai dám động đến chúng. Quan Phủ mấy lần vây bắt chúng nhưng đều bị chúng giết sạch hết thảy, ít khi thấy bọn cướp xuất hiện không hiểu vì sao hôm nay chúng lại đến đây, nếu ân nhân không đến cứu kịp thì vợ chồng tôi đã tan đàn xẻ nghé rồi có lẽ giờ nầy xác tôi đã bị cá nuốt. Chúng là mối họa cho dân chúng nhưng chưa ai làm gì được may nhờ Ân Công diệt trừ, dứt đi mối họa cho dân về sau. Xin mời ân nhân ghé qua nhà để vợ chồng tôi hầu tạ.

    Chí Trung thấy Thạch An ăn nói lưu loát, lại có võ nghệ cao cường quả là đệ nhất võ công cao thủ nếu như mình không học được võ công đệ nhất gia truyền thì không phải là đối thủ của Thạch An. Hai vợ chồng trẻ nầy không phải là dân quê mùa sao lại lẩn tránh người đời ẩn dật nơi đây, chắc là có nỗi khổ riêng.

    Chí Trung chuyện trò với đôi vợ chồng nầy cũng có đôi phần tâm đầu ý hợp nên nói:

    Thôi đừng gọi tôi bằng ân nhân nữa.

    Chí Trung hỏi:

    Huynh năm nay bao nhiêu tuổi?

    Thạch An lễ phép trả lời:

    Tôi năm nay 19 tuổi.

    Chí Trung nói:

    Thế là Thạch đệ nhỏ hơn Huynh 2 tuổi.

    Vợ chồng Thạch An nghe ân nhân gọi mình là anh em huynh đệ thì mừng quá. Thạch An chạy đến chỗ bụi rậm lôi ra một chiếc thuyền cũng khá lớn, vợ chồng Thạch An đưa Chí Trung qua sông Chí Trung vào túp lều tranh cũng khá rộng nhất là sạch sẽ thoáng mát vô cùng, Chí Trung ở lại theo lời mời của vợ chồng Thạch An. Chí Trung hỏi gì vợ chồng Thạch An đáp trôi chảy đến đó.

    Chí Trung nói:

    Vợ chồng hiền Đệ tài cao học rộng sao không ra ứng thí làm quan giúp nước.

    Thạch An thở dài không nói Chí Trung biết có gì ẩn khúc Thạch An mới không tiện nói ra, để câu chuyện khỏi tẻ nhạc, Kiều My hỏi:

    Hiền huynh làm gì đi qua đây?

    Chí Trung nói:

    Huynh lên Kinh Đô ứng thí.

    Kiều My nói:

    Hiền huynh đậu Trạng Nguyên là cái chắc.

    Chí Trung khiêm nhường nói:

    Nhân tài đất nước hiếm chi, núi nầy cao còn có núi khác cao hơn nữa.

    Thạch An nói:

    Hiền huynh nói cũng phải. Nếu đệ không nhìn tận mắt thời không thể nào tin được, chỉ cần một chiêu là Ác Phong phải bỏ mạng, nếu tin nầy đồn ra khắp Châu, khắp Bộ, đến tai Hùng Vương, thời cũng đủ làm chức quan lớn rồi. Quả thật tiểu Đệ mến mộ võ công của hiền Huynh quá, khi còn nhỏ cha Đệ có kể võ công của nhà Họ Chí mới đáng gọi là vô địch thiên hạ.

    Thạch An như chợt nhớ hỏi:

    Hiền huynh Họ gì?

    Chí Trung không giấu giếm nói:

    Huynh Họ Chí tên Trung.

    Thạch An sửng sốt thốt lên:

    Thì ra hiền huynh là con của Chí Đại Nhân tiếng tăm lừng lẫy, thảo nào mà võ công hiền huynh khủng khiếp như vậy. Ác Phong chết dưới tay huynh cũng là một ân huệ cuối cùng cuộc đời lẫy lừng một tên tướng cướp.

    Không muốn ở lại thêm nữa Chí Trung nói:

    Cuộc hội ngộ nào mà không có cuộc chia ly, chia ly rồi hẹn ngày tái ngộ cuộc trần là thế, âu đây cũng là một sự thường ở đời. Huynh tạm biệt vợ chồng hiền Đệ vậy.

    Nói xong Chí Trung lên ngựa nhắm hướng Kinh Đô Xích Quỷ phi ngựa lao đi.

    Đường dài ngựa chạy bon bon

    Bờ tre bến nước lanh quanh đường làng

    Sông Âu sông Lạc đò sang

    Lều giăng quán chật mấy hàng cau xanh

    Chiều tà trời xuống non Tây

    Nao nao sông nước lượn quanh chân trời

    Hiu hiu gió thổi rì rào

    Đồng quê kinh rạch một vài bông lau

    Ngựa phi vùn vụt qua mau

    Kinh đô xuất hiện một màu vàng son

    Ngựa xe rộn rịp dọc ngang

    Sắc màu nhung lụa người chen chật người

    Kia rồi cáo thị kia rồi

    Ta mau đến đó xem thời thử xem.

    Nói về Lạc Hầu Vương từ ngày dáng cáo thị ai giết được con Mãng Xà Tinh, thì triều đình thưởng cho trăm lạng vàng, trăm lạng bạc, trăm cây vải, còn được phong chức làm quan Tri Huyện nếu giỏi cả văn phong làm quan Tri Phủ. Cáo thị thông báo đã dán lên, không bao lâu có hơn năm bảy người gỡ cáo thị nhận ấn chỉ lên đường tiêu diệt Xà Tinh nhưng không một ai trở lại bị Xà Tinh ăn thịt hết rồi. Tin đồi ra khắp cả nước, Xà Tinh còn lợi hại hơn con Quỉ Râu Xanh. Thế là không còn ai dám đi diệt Xà Tinh nữa. Cáo thị lại được dán lên hơn năm tháng không ai đá động đến, nay có người gỡ bản cáo thị Lạc Hầu Vương lấy làm mừng.

    Nói về Chí Trung đọc xong bản cáo thị liền gỡ xuống tức thì có người báo cho Lạc Hầu Vương biết, Lạc Vương cho mời Chí Trung vào.

    Lạc Hầu Vương hỏi:

    Tráng sĩ quê quán nơi đâu? Tên họ là chi?

    Chí Trung thưa:

    Vãn bối quê ở Bộ Ninh Hải, Đông Hải Châu, Huyện Hải Hậu, tên là Chí Trung.

    Lạc Hầu Vương hỏi:

    Tráng sĩ có quen biết Chí Nhân không?

    Chí Trung thi lễ thưa:

    Chí Nhân là thân phụ của vãn bối.

    Lạc Hầu Vương vô cùng kinh ngạc nói:

    Thì ra cháu là Chí Trung đây mà, Ta cùng cha cháu là bà con Chú Bác, khi Cha cháu còn sống thường lên Kinh Đô gặp Bác. Trước đây Quan Thượng Thư cũng đã đến đây nói nhiều về Cháu. Nghe nói Cháu đổ thủ khoa ở cấp Bộ, sao không lên Kinh Đô ứng thí để thi Trạng Nguyên. Nếu Cháu không muốn vào Kinh Đô Văn Lang ứng thí Trạng Nguyên thì Cháu ở lại đây để Bác báo cáo lên Quốc Vương Vua Hùng, xin bổ nhiệm cho Cháu chức quan Tri Phủ, Dòng Họ Chí vẫn còn uy thế nơi Triều lắm. Cháu không cần phải đi đánh với con Xà Tinh ấy đâu, thiên hạ thiếu gì người tài. Cháu khỏi lo điều đó, diệt trừ con Xà Tinh có người khác.

    Chí Trung nói:

    Con muốn lập công với Triều Đình, tỏ rõ uy danh của Dòng Họ Chí. Bác để cho con đi diệt trừ con yêu tinh đó trừ hại cho dân lành.

    Lạc Hầu Vương thấy khí phách Chí Trung như vậy không ngăn cản nữa. Bằng cấp ấn lệnh cho Chí Trung lên đường diệt yêu tinh.

    Khí phách hùng anh dậy trong ta

    Hào khí bừng lên chí bay xa

    Rồng Tiên con cháu luôn bất khuất

    Dù cho Xà Quỉ lắm tài ba

    Gươm báu Vua Hùng trao bén ngót

    Đã từng chém Quỉ diệt tà Ma

    Đất trời ngang dọc hiên ngang bước

    Bốn biển tung hoành chí ông cha.

    * * *

    HẾT QUYỂN 1

    * * *


    QUYỂN 2

    Nói về Chí Trung nhận ấn lịnh xong từ giã Lạc Hầu Vương rời khỏi kinh đô nhắm dãy núi Hùng Phong Sơn phi tới, ngựa phi nhanh hơn mấy giờ xa xa trước mặt là một quán rượu bên đường. Chí Trung liền ghé vào thấy khách cũng khá đông, hầu hết là khách buôn bán trao đổi động vật hoang dã. Tiểu Nhị thấy Chí Trung đến chạy ra dắt ngựa mời Chí Trung vào, hơn bốn mươi cặp mắt nhìn Chí Trung như để đánh giá sự hiểu biết của mình, vì Chí Trung quá hào hoa phong nhã anh hoa khí phách biểu lộ hơn người.

    Chí Trung phớt lờ như không thấy nói với Tiểu Nhị:

    Có món gì ngon nhất, quý hiếm nhất ngươi dọn lên cho Ta.

    Tiểu Nhị nói:

    Ở đây có món đặc sản hiếm quý vô cùng cả mấy lạng vàng mới ăn nổi một đĩa, còn món thứ hai năm lạng bạc mới ăn nổi một đĩa.

    Nghe Tiểu Nhị nói đĩa thịt mà tới năm lượng vàng, có người nhịn không được nói:

    Tiểu Nhị chủ quán nói khoác vừa thôi.

    Tiểu Nhị như giả vờ không nghe hỏi:

    Đại nhân có dùng không?

    Chí Trung nói:

    Nếu có món đó thời càng hay mau dọn lên cho ta cả hai.

    Tiểu Nhị nói:

    Phải chờ đợi một tí mới có được.

    Chí Trung liền móc túi lấy ra năm lượng vàng, năm lượng bạc đưa cho Tiểu Nhị, có người nhịn không được nói với Chí Trung:

    Công tử bị lừa rồi.

    Chí Trung giả đò như không nghe, trong số những khách đang ăn thấy Chí Trung mắc lừa như vậy nói:

    Hảo Hán dám bỏ năm lượng vàng, năm lạng bạc ăn hai đĩa thịt thời đây là lần đầu tiên tôi mới thấy. Có lẽ Hảo Hán mới đi lại giang hồ nên không hiểu giang hồ hiểm ác xảo trá.

    Chí Trung chấp tay thi lễ nói:

    Cảm ơn lời giáo huấn khách anh hùng.

    Có người nói:

    Hảo Hán công tử nầy là ai mà giàu có đến như vậy, xem vàng bạc hết sức tầm thường. Với số vàng bạc nầy mua vài chục con trâu bò, vài con ngựa, nào phải ít đâu, thế mà dám bỏ ra ăn hai đĩa thịt.

    Có người lớn tiếng nói:

    Tiểu Nhị ngươi lừa vừa thôi. Nhất Kiếm ta đi khắp Bắc Văn Lang món gì mà ta chưa ăn, ngươi nói thử đó là món gì mà quý hiếm như vậy.

    Tiểu Nhị nói:

    Không phải món ăn nầy lúc nào cũng có nhiều khi có đến cả mấy năm cũng không có, quán tôi có một nhóm người chuyên săn lùng những cao lương mỹ vị quý hiếm tận núi cao rừng sâu, tên là Thất Hiệp, bảy người đều là võ công cái thế, thường đến chân núi ngọn Quái Phong cách ngọn núi Quỉ không xa mới tìm thấy những đặc sản quý hiếm đó.

    Mới nghe nói tới ngọn núi Quỉ thời ai nấy cũng đều sợ hãi tái mặt. Tiếng nói vang lên như cắt đi sự sợ hãi những người khách:

    Thưa Cha, Thất Hiệp là người thế nào không sợ ngọn núi Quỉ.

    Người lớn tuổi có lẽ là một Hảo Hán giang hồ Cha thiếu niên kia lặng thinh một hồi lâu, người con lại nói tiếp:

    Cha hành hiệp giang hồ đã lâu lại bảo tiêu cho nhiều tiêu cục danh tiếng lừng lẫy, Cha không biết thì còn ai biết.

    Người trung niên nói:

    Thất Hiệp là bảy đại cao thủ giang hồ võ công cái thế chuyên săn lùng những vật quý hiếm ít ai được thấy mặt.

    Người Con nói:

    Thưa Cha, sao Thất Hiệp không diệt trừ Mãng Xà Tinh ba đầu cứu dân.

    Người Cha nói:

    Mãng Xà Tinh ba đầu, là con Trăn khổng lồ tu luyện hơn mấy nghìn năm thần thông pháp thuật vô biên đừng nói là Thất Hiệp cho đến một nghìn Thất Hiệp cũng bị con Trăn đó nuốt sạch.

    Siêu Đại Phi nói:

    Đúng thế.

    Người lên tiếng xác nhận của lời nói Siêu Đại Phi chính là Tiểu Nhị. Tiểu Nhị nói:

    Người giết nổi còn xà tinh ba đầu may ra Chí Đại Nhân sống dậy, còn khó có ai làm nổi điều nầy.

    Siêu Đại Phi nói với cậu thiếu niên bên cạnh:

    Con có biết không. Tiểu Nhị đây chính là người thứ bảy trong Thất Hiệp uy danh lừng lẫy.

    Những người trong quán nghe Siêu Đại Phi nói thế thời ồ lên. Có người nói:

    Thật bất ngờ.

    Có người nghĩ: Đã là Thất Hiệp mà cũng làm cái nghề chạy bàn nầy sao, sao không để cho bọn Tiểu Nhị làm.

    Biết chân tướng đã bị bại lộ. Thất Hiệp xuống bếp không bao lâu thì trở ra trên tay bưng hai đĩa thịt bốc hơi thơm phức làm cho ai nấy thấy nhẹ cả người, đặt hai đĩa thịt xuống bàn.

    Tiểu Nhị nói:

    Mời Đại Nhân thưởng thức.

    Chí Trung không khách sáo ăn ngay. Ăn xong Chí Trung thấy thần lực tăng lên một cách kỳ lạ.

    Chí Trung hỏi:

    Thất Hiệp tiểu nhị, thịt gì mà quý hiếm như thế.

    Thất hiệp nói:

    Chim Trĩ Trắng, và Gà chín cựa.

    Hơn hai mươi người khách đang ăn đều giật mình, có người kinh hãi, không chỉ có Chim Trĩ Trắng, Gà chín cựa không, mà còn có cả Tuyến Liên hàng nghìn năm nấu chung để cho người ăn tăng công lực.

    Thất Hiệp nói:

    Thật ra mà nói, Thất Hiệp tôi cũng chưa có phúc ăn được món ăn nầy.

    Đến lúc ấy Nhất Kiếm, cũng như Siêu Đại Phi, chắp tay hướng về Thất Hiệp vị tướng công nầy. Thất Hiệp như hiểu ý phất tay mời ngồi xuống rồi nói:

    Nhị vị không biết vị nầy đâu.

    Nói xong Thất Hiệp móc ra năm lượng vàng, năm lượng bạc trả lại cho Chí Trung và nói:

    Tôi được lệnh từ Kinh Đô Xích Quỷ là tiếp đón Chí Công Tử cho tử tế. Là con của Chí Đại Nhân khi xưa đã giết chết Quỉ Râu Xanh tiếng tăm lừng lẫy.

    Những người trong quán đồng loạt ồ lên một tiếng chắp tay hướng về Chí Trung thưa rằng:

    Chúng tôi có mắt như mù, không thấy núi Thái Sơn trước mắt.

    Chí Trung đáp lễ:

    Tôi chỉ là vô danh tiểu tốt nào đáng để các anh hùng ca ngợi quí mến như vậy.

    Tiểu Nhị Thất Hiệp nói:

    Thưa Chí Trung Đại Nhân, Đại Nhân đến núi Quỉ diệt Mãng Xà Tinh trừ hại cho dân lành. Chúc Đại Nhân thành công.

    Những người trong quán lại một phen kinh hoàng khiếp vía một thân một ngựa đi diệt Yêu Tinh quả là can đảm phi thường.

    Chí Trung không tiện ở lâu chấp tay thi lễ xin cáo từ anh hùng chư vị:

    Từ đây đến ngọn núi Quỉ còn xa, Chí Trung tôi xin cáo từ.

    Chí Trung từ biệt khách anh hùng phi ngựa lao đi vùn vụt, Tiểu Nhị chính là người thứ bảy trong Thất Hiệp, nhìn theo lẩm bẩm: Cầu mong Đại Nhân an toàn trở về.

    Một làn gió nhẹ lướt qua nhanh

    Nước chảy trong veo suối ngọt lành

    Điệp trùng rừng thẳm chim ca hát

    Mây nhìn thác suối thú lướt nhanh

    Kia kìa ngọn núi cao chót vót

    Buông lụa phủ rèm thác trắng tinh

    Chợt nghe hương thoảng đầy mặt đất

    Sắc màu cùng khắp hoa lung linh.

    Càng tiến sâu vào núi Quỉ, những luồng khí lạnh như thấm sâu vào người, Chí Trung chợt nghĩ đến Cha, một mình một ngựa xông vào núi Quỉ giết chết Quỉ Râu Xanh, tuy chết đi nhưng danh tiếng vẫn lẫy lừng cho đến tận ngày nay Chí Trung vô cùng tự hào, có một người Cha đầu đội trời chân đạp đất, coi sống chết nhẹ tựa lông hồng, lúc nào cũng vì nhân loại, vì dân vì nước mà quên mình. Chí Trung nghĩ đến Cha tâm vững như núi không chút sợ hãi là gì cứ tiếng sâu vào núi Quỉ.

    Mây bây cao vút tận tần không

    Ngựa đi chầm chậm suối hoa bông

    Chợt nghe tiếng thét đầy kinh hãi

    Ai kia gặp nạn có phải không.

    Chí Trung liền giục ngựa lao về phía ấy, thấy sáu người mặt mày kinh hãi thi nhau chạy bán sống bán chết, không ai nói rõ nên lời. Chí Trung nghe như cây cối ngã rạp. Con ngựa hoảng kinh hí lên khiếp hoảng như muốn bỏ chạy. Chí Trung liền xuống ngựa con ngựa hí lên phóng nhanh trốn mất, Chí Trung chưa biết chuyện gì xảy ra, thì thấy một con Mãng Xà ba đầu to lớn xuất hiện, sáu con mắt đỏ lồm phát ra sáu luồng ánh sáng trông thấy mà phát khiếp. Chí Trung lấy lại bình tỉnh nhìn con Xà Tinh xuất hiện, con Xà Tinh ba đầu thè ba cái lưỡi dài hơn mấy thước quét qua quét lại kình phong tuôn ra ù ù.

    Xà Tinh kinh khiếp biết dường bao

    Choáng ngợp dài to biết dường nào

    Chỉ cần nhúc nhích liền giông tố

    Cuồn cuộn chuyển mình núi thành ao

    Chí trung đối mặt lòng cương quyết

    Trấn tỉnh linh hồn chẳng lãng xao

    Tư thế sẵn sàng cho cuộc chiến

    Tử sanh còn mất chẳng núng nao.

    Con yêu tinh Mãng Xà thấy Chí Trung không chút sợ hãi sẵn sàng chống trả lại nó, nó vô cùng tức giận. Cái đầu chính giữa hút một hòn đá to như con bò lên miệng thổi một cái hòn đá bay đến Chí Trung với một tốc độ kinh hồn. Chí Trung thất kinh dùng ảo ảnh pháp thân né tránh ầm một tiếng kinh thiên động địa, cây cổ thụ hơn mấy người ôm cao hơn mấy chục mét bị ngã đổ, Chí Trung nhìn thấy không khỏi khiếp đảm. Con Mãng Xà quật cái đuôi thì cuồng phong nổi lên cây cối ngã đổ ầm ầm Chí Trung vận thần công chống trả lại cơn cuồng phong do con Mãng Xà tạo ra khủng khiếp, con Mãng Xà thấy Chí Trung chống trả lại cuồng phong bằng giận dữ lao tới há cái mồm to lớn định nuốt chửng Chí Trung. Chí Trung bình tỉnh phi thân lên cao chém vào đầu phía phải Mãng Xà một cái, hào quang kiếm báu tỏa ra lóa cả mắt, Mãng Xà Tinh bị chém bay mất một cái đầu đau đớn gào thét dữ dội bão tố nổi lên ầm ầm mây đen cuồn cuộn mưa xối xả ầm ầm lở núi lở đồi. Cái đầu chính giữa phun ra luồn yêu khí, hầu giết chết Chí Trung. Chí Trung liều mạng múa kiếm phi thân lao tới chém vào đầu Mãng Xà. Đầu bên trái Mãng xà liền thè lưỡi thổi ra một luồng kình lực Chí Trung bị hất văng ra hơn mấy trăm thước Chí Trung chưa kịp rớt xuống đất con Mãng Xà liền bay đến thổi ra một luồng yêu quang giết chết Chí Trung, Chí Trung múa kiếm quang chống trả, ầm ầm long trời lở đất, con Mãng Xà nào để cho Chí Trung kịp trở tay, thè hai cái lưỡi dài mấy thước quét qua quét lại kình phong tuôn ra ầm ầm đánh tới Chí Trung, Chí Trung múa kiếm quang chống trả, hai bên đánh nhau trời long đất lở hơn mấy giờ liền. Xà Tinh quyết hạ gục Chí Trung liền thổi ra một luồng khí cực độc bao phủ một vùng rộng lớn làm Chí Trung xây xẩm mặt mày té lăng xuống đất nằm bất động con Mãng Xà lao tới há mồm định nuốt chửng Chí Trung.

    Trong lúc cái chết chỉ còn trong đường tơ kẽ tóc thì có một tiếng quát:

    Yêu tinh hỗn láo chỉ nghe ầm ầm, đùng đùng long trời lở đất con Mãng Xà bị đánh nát như tương.

    Đây nói về Bà Liễu Huệ nhìn Chí Trung rời khỏi gia đình lên Kinh Đô như Linh cảm có gì không may đến gia đình bà. Bà lo lắng không yên, Chí Trung ra đi một ngày hai ngày, cả tuần, rồi đến cả tháng Chí Trung vẫn biệt vô âm tích chẳng thấy trở lại quê nhà. Bà bắt đầu sợ hãi Chí Trung sẽ ra đi vĩnh viễn không bao giờ trở lại quê nhà như Cha của nó sao. Bà nhìn Thanh Vân nước mắt Bà ràn rụa. Thanh Vân không khác gì Bà Liễu Huệ lo lắng không yên Thanh Vân nghĩ Chí Trung võ nghệ cao thâm như thế, mấy ai mà hại nổi nhưng sao biệt vô âm tích như vậy, mặt hoa ủ rũ đêm ngày thẫn thờ nhớ Chí Trung không bút mực nào tả xiết.

    Một mình lặng ngắm trăng lên

    Giọt sương lạc bước còn vương nỗi sầu

    Vầng trăng u ám giữa trời

    Mưa phùn lất phất lệ nhoài nhớ ai

    Chân trời góc biển bơ vơ

    Buồn theo cánh nhạn bến bờ xa xăm.

    Một hôm Thanh Vân thấy Bà Liễu Huệ quỵ ngã, cô như hồn bay phách tán kinh hãi vô cùng, cô vội đỡ Bà Liễu Huệ vào giường, Cô ngồi bên cạnh Bà ôm mặt khóc.

    Mẹ ơi mẹ có sao không

    Lòng con đau buốt xiết bao kinh hoàng

    Mẹ ơi đừng bỏ con khờ

    Cô đơn giữa chốn Hồng Trần cô đơn

    Tai ương ơi hỡi tai ương

    Mi gieo tai họa không may cho người

    Mẹ Trời ơi hỡi Mẹ Trời

    Âu Cơ Mẹ hỡi cứu thời Mẹ con.

    Thanh Vân nhớ tưởng đến Mẹ Âu Cơ lòng sầu khổ vô cùng bỗng cô nhìn thấy trên đầu giường Bà Liễu Huệ có một chiếc hộp rất đẹp, chiếc hộp như cuốn hút cô, cô vội lấy chiếc hộp lên xem, xem xong cô lại để xuống, cô nghĩ của Mẹ không nên động vào đó, cô lại ôm mặt khóc.

    Nói về Bà Liễu Huệ được Thanh Vân dìu vào giường một lúc sau thì bất tỉnh không biết gì nữa, trong hoàn cảnh nầy Thanh Vân chưa biết phải làm sao chỉ biết ôm mặt mà khóc, đến khi cô nhìn thấy chiếc hộp xinh đẹp kỳ lạ trên đầu giường của Bà Liễu Huệ, như thúc giục cô hãy mở nó ra, nhưng cô không dám vì đây là chiếc hộp của Mẹ. Thanh Vân cứ lấy lên để xuống nhiều lần, bỗng Thanh Vân như chợt nhớ, không lẽ chiếc hộp nầy đã cứu cô như Chí Trung thường nói. Lần nầy Cô mạnh dạng bốc chiếc hộp lên rồi mở ra hơi thơm trong hộp tỏa ra ngào ngạt, kỳ diệu thay Bà Liễu Huệ cựa mình tỉnh dậy.

    Thanh Vân mừng quá la lên:

    Mẹ tỉnh lại rồi, Mẹ tỉnh lại rồi.

    Bà Liễu Huệ nghe Thanh Vân gọi mình bằng Mẹ, Bà tưởng như mình nghe nhầm bà hỏi:

    Con gọi Mẹ bằng gì?

    Thanh Vân trả lời:

    Con gọi Mẹ bằng Mẹ chớ gọi bằng gì nữa.

    Bà Liễu Huệ ngồi bật dậy nắm lấy tay Thanh Vân nói:

    Con nói được rồi, con nói được rồi. Cảm ơn Cha Trời Lạc Long Quân, Cảm ơn Mẹ Âu Cơ.

    Thanh Vân mừng rỡ reo lên:

    Con nói được rồi, hết câm rồi, hết câm rồi.

    Thanh Vân chỉ nghĩ đến Mẹ mà quên đi cả mình, đến khi nghe Bà Liễu Huệ nói mình nói được rồi. Thanh vân mừng quá cũng reo lên con nói được rồi, hết câm rồi, Bà Liễu Huệ cũng vui mừng theo cảm ơn Cha Trời, cảm ơn Mẹ Âu Cơ.

    Thanh Vân nói:

    Chiếc hộp, chiếc hộp.

    Cô vội cầm lấy chiếc hộp lên tất cả là nhờ chiếc hộp mầu nhiệm nầy. Bỗng chiếc hộp thoát khỏi tay cô bay mất, cô hết hồn thời trên không trung có tiếng nói vọng xuống:

    Ta thừa lệnh Địa Mẫu Âu Cơ thâu chiếc hộp Thiên Tiên về Trời. Mẹ con ngươi vận mệnh thay đổi gặp một hai kiếp nạn nhỏ nữa là hết.

    Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân lạy tạ Cha Trời cũng như Mẹ Âu Cơ. Nói về Bà Liễu Huệ trải qua nhiều kiếp nạn đời Cha, đời Bà, đời Con, có lẽ con đất nầy không hạp với Dòng Họ Chí, nhưng đến nơi đâu trong khi gia đình cũng không còn khá giả như trước. Thanh Vân thấy Bà Liễu Huệ trong mấy ngày liền trầm tư suy nghĩ.

    Thanh Vân thấy vậy hỏi:

    Mẹ có gì không vui sao?

    Bà Liễu Huệ nói:

    Có lẽ gia đình chúng ta ở con đất nầy không hợp, nên mới liên tiếp gặp tai ương kiếp họa đến ba đời nhưng Mẹ đã lớn tuổi, Chí Trung lại biệt tích tăm hơi không biết chuyện gì đã xảy ra.

    Bà nói xong rồi thở dài buồn bã vô cùng. Thanh Vân nói:

    Thưa Mẹ về ở với con.

    Bà nói:

    Mẹ đang ở với con đây là gì.

    Thanh Vân nói:

    Không phải ở đây mà là về Thịnh Gia. Thưa Mẹ quê con ở Thuận Yến Giang, Phúc Châu, cách Kinh đô Xích Quỷ không xa. Mẹ con chết sớm, con không có Mẹ, chỉ sống với người chị người Cha, nhưng người chị qua đời cách đây hơn ba năm.

    Thanh Vân kể lại tất cả cô trên đường về quê ngoại bị nước lụt cuốn trôi, khi con được cứu sống tỉnh dậy không hiểu vì sao lại bị câm, lúc đó con buồn vô kể, lại mang ơn cứu tử của Chí Trung nên con nguyện ở lại đây với Mẹ.

    Bà Liễu Huệ nói:

    Con thật tốt bụng, Mẹ cũng muốn rời bỏ ngôi nhà nầy, để đến ở một nơi khác, nhưng Mẹ còn tiền bạc quá ít không đủ để mua đất làm nhà.

    Thanh Vân nói:

    Mẹ khỏi lo, nếu Mẹ chịu đi với con thì con sẽ có cách sắp xếp.

    Bà Liễu Huệ coi Thanh Vân như là con của mình bằng nói:

    Tùy con định đoạt vậy.
     
  17. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Thanh Vân nói:

    Nhà mình chẳng còn thứ gì quý, chỉ có phiến đá báu vật gia truyền, đào lỗ chôn đi là xong, nói cho bà con lối xóm biết coi dùm nhà đi ra một thời gian sẽ trở lại. Con để lại bút tích cho Chí Trung biết là Mẹ đã đến Thuận Yến Giang, Phúc Châu, Thịnh Lão Gia.

    Thanh Vân là người tài trí khôn ngoan khó có người sánh kịp, từ đây đến Thuận Yến Giang rất xa đi nhanh cũng phải mất năm ngày đường, ở vào thời kỳ nầy đất rộng người thưa xóm làng cách nhau rất xa đồi rừng khắp nơi, trộm cướp lai rai cũng có những nơi hẻo lánh, cọp, beo, sư tử rất nhiều, nếu trục trặc bảy ngày đường cũng chưa chắc đã tới nơi, nên Thanh Vân dự tính đường đi nước bước hết sức là chu đáo đề phòng bất trắc xảy ra, đối phó những tình huống bất lợi cho mình.

    Nói về Bà Liễu Huệ từ lâu nhận ra Thanh Vân là người trọng tình trọng nghĩa hiếm thấy trong đời có thể nói hơn hẳn bà mấy bậc. Bà xem Thanh Vân như là con dâu của mình, nên lúc nào cũng đặt niềm tin hết vào Thanh Vân. Thanh Vân cũng thế với đôi mắt tinh tường của Cô. Cô đã nhận ra Bà Liễu Huệ là người đàn Bà hiếm thấy trên đời, tài, sắc, trung, hiếu, tiết, nghĩa, đảm đang, nghị lực, gan dạ, bao dung, rộng lượng, không bị ràng buộc trong phong tục cổ hủ lạc hậu tập quán, lúc nào cũng đổi mới vươn lên. Thanh Vân học hỏi ở bà rất nhiều, nhất là Công, Dung, Ngôn, Hạnh của Bà Liễu Huệ phải nói là tuyệt vời và Cô cũng đặt hết niềm tin ở người Mẹ chồng nầy. Bà Liễu Huệ nhìn Thanh Vân hoa dung tuyệt thế, cá lặn, nhạn sa, khuynh quốc nghiêng thành, thì nổi lên một mối lo, cảnh đường xa diệu vợi. Sắc đẹp là cái phúc của người con gái, nhưng nó cũng là cái họa không biết đâu mà lường, cũng như ngọc ngà châu báu, phúc cũng đó mà họa cũng đó. Bà suy đi xét lại tìm ra giải pháp an toàn cho hai Mẹ Con.

    Bà đề nghị:

    Hai Mẹ Con hóa trang thành hai người đàn ông tầm thường nghèo xấu xí, buôn bán làm ăn, để tránh đi tai mắt của kẻ háo sắc, cũng như dấu kín những vàng bạc không cho ai biết.

    Thế là sáng hôm sau từ trong nhà Bà Liễu Huệ, hai người đàn ông bước ra một người đứng tuổi một người trẻ, người già tuổi nhìn ngôi nhà lần cuối lòng bỗng nổi lên một cơn buồn vô tận.

    Lòng buồn trải khắp không gian

    Nhớ ngôi nhà nhỏ cùng chàng năm xưa

    Tình chồng vợ nghĩa phu thê

    Mặn nồng chung thủy trọn thề cùng nhau

    Ra đi lòng thấy đớn đau

    Nếu chàng thương thiếp cùng đi với mình

    Đời em chỉ một mình chàng

    Lên rừng xuống biển chẳng hề đổi thay

    Dù cho trôi dạt khắp nơi

    Lòng em chỉ có mình anh sớm chiều

    Thương chàng em nhớ bao nhiêu

    Tìm con đường sống đổi chiều vận may

    Thương chàng lên vút trời xa

    Chàng ơi theo thiếp rời xa chốn nầy.

    Trong giây phút rời xa ngôi nhà Bà đã gắn bó hơn mấy mươi năm, đôi dòng lệ đầm đìa trước khi từ bỏ ra đi.

    Nói về Thanh Vân cùng Bà Liễu Huệ rời xa ngôi nhà thân yêu, không bao lâu thời ra khỏi Huyện Hải Hậu, đến Huyện An Bình. Huyện An Bình dân chúng thưa thớt đồi rừng khắp nơi cũng là huyện cuối của Đông Hải Châu. Tới Tây Châu. Nói về Bà Liễu Huệ cùng Thanh Vân đã băng qua nhiều khu rừng cũng đã thấm mệt, Bà Liễu Huệ thấy khát nước vô cùng, nhưng bầu nước đã uống hết từ lâu.

    Thanh Vân nói:

    Ráng lên mẹ chúng ta sắp ra khỏi khu rừng rồi.

    Thanh Vân cũng khát nước đắng cả miệng trong bầu còn một chút nước không dám uống vì để dành cho Mẹ. Thanh Vân biết Mẹ cũng khát nước như mình, đi hết muốn nổi.

    Cô liền mở cái bầu nước mang theo dâng lên cho bà Liễu Huệ nói:

    Thưa Mẹ, Mẹ uống chút nước cho lại sức.

    Bà Liễu Huệ nói:

    Con uống đi Mẹ chịu đựng được.

    Thanh Vân nói mãi bà Liễu Huệ từ chối không được đành phải uống, uống xong Bà hồi sức trở lại, hai mẹ con đang ngồi nghĩ thì nghe tiếng vó ngựa từ xa vọng lại, Bà Liễu Huệ như Linh cảm điều không may, có người đến, có người đến.

    Đây nói về Chí Trung sau khi tỉnh dậy thấy mình nằm trong Sơn Động nói:

    Mình chưa chết sao? Mình đang ở đâu đây?

    Chí Trung chợt nhìn thấy bên cạnh mình là một Tiên Ông cốt cách siêu phàm râu dài tóc bạc. Chí Trung chưa kịp hỏi gì, thời nghe Tiên Ông nói:

    Con nằm ở đây bảy ngày bảy đêm rồi.

    Chí Trung giật cả mình, hồi tưởng lại tất cả những gì đã trải qua khi nghĩ đến con Mãng Xà ba đầu thần thông pháp thuật vô biên thì không khỏi kinh hãi Chí Trung nghĩ quả là lợi hại, mình không phải là đối thủ của nó. Chí Trung biết người cứu mình không ai khác hơn chính là Tiền Bối Tiên Ông cốt cách thoát tục siêu phàm nầy.

    Chí Trung liền ngồi dậy đến trước mặt vị Tiền Bối Tiên Ông lạy xuống ba lạy thưa rằng:

    Vãn bối tên là Chí Trung không may gặp nạn may nhờ Tiền Bối Tiên Ông cứu mạng, ơn cứu mạng như trời biển, Vãn bối không biết lấy gì báo đáp chỉ biết lạy Tiền Bối Tiên Ông mấy lạy xin Tiền Bối Tiên Ông nhận cho.

    Tiên Ông thấy Chí Trung lễ phép biết nhân biết nghĩa như vậy rất hài lòng đưa tay vuốt chòm râu bạc Tiên Ông nói:

    Có lẽ con cũng đói bụng rồi.

    Chí Trung nghe Tiên Ông nói thế liền nghe thấy bụng đói như cồn cào. Tiên Ông chỉ những quả đào chín nói:

    Con ăn đi.

    Chí Trung không còn khách sáo gì nữa liền ăn hết ba quả đào, Chí Trung ăn xong thấy trong người khỏe mạnh một cách kỳ lạ hình như kinh mạch thông suốt. Chí Trung vận thử thời thấy thần lực cuồn cuộn trong người vô tận, không khỏi giật mình thầm nghĩ: Chuyện gì thế nầy?

    Tiên Ông như hiểu Chí Trung muốn hỏi gì. Tiên Ông nói:

    Con có biết, con ăn ba quả đào Tiên ở nơi nào không?

    Chí Trung lắc đầu không biết. Tiên Ông vuốt chùm râu bạc nói:

    Tổ Tổ hái nó ở núi Trì Địa cách đây rất xa dãy núi tiếp giáp với cõi trần gian núi thứ 7 trong Năm Non Bảy Núi.

    Chí Trung hỏi:

    Thưa Tiên Ông Năm Non Bảy Núi ở đâu?

    Tiên Ông vút chòm râu bạc mỉm cười rồi nói:

    Con không biết nơi đó đâu, khi con đọc Kinh con sẽ hiểu.

    Tiên Ông nói:

    Con biết không chỉ cần ăn một quả đào Tiên thì sáu tháng không cần ăn uống gì cả, công lực tăng lên bằng sáu mươi năm tu luyện, con đã ăn được ba quả thời công lực đã tăng lên bằng 180 năm tu luyện.

    Chí Trung nghe Tiên Ông nói thế thời kinh hãi vô cùng, trong cái rủi lại được một cái may chưa từng thấy. Tiên Ông lại nói:

    Với công lực nầy thì con có thể là thiên hạ vô địch. Nhưng đánh bại được con Mãng Xà Tinh, thì còn xa lắm nhưng con không lo vì Tổ Tổ đã giết chết con Mãng Xà trừ hại cho dân lành rồi.

    Chí Trung ngơ ngác hỏi:

    Thưa Tiên Ông, con Mãng Xà Tinh lợi hại như thế sao?

    Lão Ông nói:

    Con Mãng Xà Tinh nó đã tu luyện hơn một nghìn mấy trăm năm, nếu không nhờ vào Bảo Kiếm thì đừng nói đến chuyện giết nó, dù cho thiên binh vạn mã cũng bị nó nuốt sạch.

    Chí Trung nghe Tiên Ông nói thế thời hết sức kinh hoàng thảo nào biết bao nhiêu người tài giỏi đều bị Mãng Xà nuốt sạch.

    Tiên Ông nói:

    Ngày xưa Cha con giết được Quỉ Râu Xanh là nhờ có Bảo Kiếm, con Quỉ lại xem thường đối thủ, hơn nữa Bảo Kiếm thu hút tinh hoa Nhật Nguyệt bảy ngày bảy đêm lợi hại vô cùng, con Quỉ Râu Xanh vì xem thường Cha con, không đề phòng bị kiếm báu chém đứt cánh tay máu tuôn lai láng không cầm được máu và cuối cùng kiệt sức bị Cha con giết chết. Nếu Nó biết Cha con có Bảo Kiếm lợi hại như vậy nó đề phòng thì dù có một trăm Chí Nhân cũng chết dưới tay con Quỉ Râu Xanh.

    Chí Trung nghe Tiên Ông nói thế, mới biết Cha mình giết được con Quỉ Râu Xanh hoàn toàn đều nhờ ở sự may mắn, tính cao ngạo Chí Trung liền tiêu tan hết thảy. Yêu Tinh, Quỉ dữ không phải là loại dễ trêu vào, mà phải thật sự có tài, ít ra phải có thần thông pháp thuật đấu phép với nó.

    Chí Trung nghĩ đến Cha liền nhớ đến Mẹ, nhớ đến Thanh Vân, không biết Thanh Vân cùng Mẹ giờ nầy làm gì ở nhà có lẽ lo lắng cho mình lắm. Chí Trung như muốn trở về nhà, vì con Mãng Xà đã chết coi như nhiệm vụ của mình đã hoàn thành.

    Chí Trung bằng chắp tay thưa với Tiên Ông rằng:

    Con xin từ biệt Tiên Ông trở về nhà để Mẹ con khỏi lo lắng.

    Tiên Ông nói:

    Con muốn trở về không được đâu vì nơi đây là đỉnh núi Tuyết Sơn cao nhất trong dãy núi Hi Mã Lạp Sơn (Himalaya) chỉ có loài chim đại bàng mới bay qua những thung lũng của các ngọn núi. Còn con người thường không thể lên xuống nơi đây được.

    Chí Trung nghe Tiên Ông nói thế chỉ biết thở dài, niềm hi vọng trở về không còn. Chí Trung liền thưa:

    Thưa Tiên Ông, còn có cách nào xuống núi được không?

    Tiên Ông nói:

    Có.

    Chí Trung hỏi:

    Thưa Tiên Ông, con phải làm cách nào để vượt qua trùng trùng thung lũng núi tuyết xuống núi?

    Tiên Ông nói:

    Chỉ còn một con đường duy nhất là luyện tập võ công cũng như pháp thuật thần thông không còn con đường nào khác.

    Chí Trung hỏi:

    Sự luyện tập đó bao lâu?

    Tiên Ông nói:

    Có thể đến 10 năm, 5 năm, 1 năm tùy ở tư chất thông minh, cũng như sự khổ luyện của chính bản thân mình, có khi cả đời cũng không xuống núi được.

    Tiên Ông lấy trong mình ra hai quyển Kinh, một quyển Hậu Thiên Kinh, một quyển Thiên Tiên Kinh nói:

    Trong đây ghi chép những võ công tối thượng con chỉ cần luyện tập xong thì vượt qua những ngọn núi tuyết trùng trùng xuống núi.

    Chí Trung là người thông minh biết đây là nhân duyên kỳ ngộ có một không hai liền quỳ lạy Tiên Ông nói:

    Con là Chí Trung kính lạy Sư Phụ.

    Tiên Ông phất tay một luồng kình lực vô hình đở Chí Trung dậy, rồi trao hai quyển Kinh cho Chí Trung. Tiên Ông nói:

    Đi theo sư phụ.

    Chí Trung liền đi theo một hồi thời ra khỏi Sơn Động. Đứng trên đỉnh núi cao cao nhất trong các đỉnh núi Gió thổi ào ào lạnh buốt xương. Chí Trung đứng nơi cửa động nhìn xuống thấy một màu trắng xóa núi non thấp cao lớp lớp trùng trùng điệp điệp bao la dài xa thăm thẳm tưởng chừng như tới tận chân trời. Chí Trung kinh hãi: Sư Phụ nói đúng không cách gì vượt qua trùng trùng núi non đầy gió to bão tuyết lạnh buốt nầy xuống núi được, nếu không phải là chim đại bàng thời khó mà vượt qua trùng núi non tuyết phủ nầy. Những cơn gió thổi ào ào lạnh buốt như cắt thịt da cố gắng lắm Chí Trung mới chịu đựng nổi.

    Tiên Ông nhìn Chí Trung nói:

    Nếu không nhờ ăn ba quả đào Tiên thời con chết cóng từ lâu rồi, con hãy vận công chống trả lại cái lạnh.

    Chí Trung liền làm theo, một luồng hơi nóng từ đan điền tỏa ra khắp cùng châu thân Chí Trung không còn thấy lạnh nữa. Tiên Ông nói:

    Con nhìn thấy một tảng đá khổng lồ lớn bị tuyết phủ kia không.

    Chí Trung nói:

    Dạ đệ tử đã thấy.

    Tiên Ông nói:

    Con hãy xem đây.

    Tiên Ông dơ bàn tay lên nắm lại sè ra tức thời Chí Trung nghe tiếng rít lên đinh tai nhức óc tảng đá khổng lồ đầy tuyết phủ kia liền bị xẻ ra làm trăm mảnh Chí Trung nhìn thấy không khỏi rởn óc kinh hồn khiếp vía.

    Chí Trung hỏi:

    Thưa Sư Phụ đây là loại võ công gì mà khủng khiếp như thế?

    Tiên Ông nói:

    Chiêu pháp vừa rồi là một trong 18 chiêu trong Tiên Thiên Thần Công Bí Pháp.

    Tiên Ông nói:

    Con đưa Bảo Kiếm gia truyền cho sư phụ.

    Chí Trung liền trao Bảo Kiếm dâng lên Tiên Ông. Tiên Ông nhận xong Bảo Kiếm nói:

    Tuy đây không phải một trong bảy Bảo Kiếm Trấn Quốc, nhưng không có Bảo Kiếm nào qua được nó. Nó có tên là Triệt Quỉ Kiếm, yêu tinh quỉ dữ gặp Bảo Kiếm nầy là xong đời. Oai lực Bảo Kiếm nầy vô biên, nếu chưa luyện được Tiên Thiên Chân Khí thì khó mà phát huy hết tác dụng uy lực của nó. Khi xưa Cha con đánh với Quỷ Râu Xanh cũng chí phát huy một phần trăm uy lực của Bảo Kiếm mà thôi.

    Tiên Ông nói xong rút kiếm ra chuyển vận Tiên Thiên Chân Khí vào Bảo Kiếm tức thời muôn đạo hào quang tỏa ra chóa cả mắt. Sau đó thời sấm sét nổi lên ầm ầm kinh thiên động địa. Tiên Ông liền chém xuống ngọn núi tuyết bên kia, tức thời chỉ nghe ầm ầm long trời lở đất ngọn núi tuyết bên kia đổ xuống ầm ầm. Chí Trung nhìn thấy cảnh đó không sao tưởng tượng nổi cứ ngỡ đây là một giấc chiêm bao, nghĩ lại tài năng của mình trước đây, như hạt các trong sa mạc, như đom đóm trước thái dương. Chí Trung liền tỉnh ngộ bỏ hết tạp niệm cầu mong luyện được võ công cái thế nầy.

    Nói về:

    Núi non tuyết phủ một màu

    Khắp nơi mây trắng mảnh đời cô đơn

    Xa xôi muôn dặm quan sang

    Lòng không dập tắt vấn vương tơ tình

    Trời cao đất rộng một màu

    Quản chi khó nhọc đêm ngày luyện công

    Lửa lòng nguội lạnh núi non

    Lấy câu vận mệnh vấn an nỗi lòng.

    Nói về Tiên Ông ở lại với Chí Trung giảng giải Kinh Hậu Thiên, Kinh Thiên Tiên cho Chí Trung nghe, Tiên Ông giảng tới đâu Chí Trung nhớ tới đó, hơn một tháng Chí Trung đã thuộc làu.

    Tiên Ông khen:

    Tư chất của con thông minh hiếm thấy, chỉ cần hơn một tháng mà con đã thông suốt, muốn thuộc hai quyển Kinh nầy ít nhất cũng phải một năm đó là nói đến người sáng láng thông minh, còn người ngu đần thì suốt đời không thể nào thuộc được.

    Tiên Ông nói:

    Sư Phụ ở trên cõi Trời Đao Lợi Thiên biết con mắt nạn nên xuống trần cứu giúp. Sư Phụ chính là Tổ Tổ ông bà cao đời của con, Tổ Tổ theo Quốc Tổ Vua Hùng dựng nước Văn Lang có công diệt loài thủy quái Thuồng Luồng, nên được Quốc Tổ Vua Hùng trao Bảo Kiếm.

    Chí Trung nghe Sư Phụ nói thế thì mừng rỡ kêu lên:

    Thì ra Sư Phụ chính là Tổ Tổ của con.

    Chí Trung hình như nhớ ra một điều gì hỏi:

    Tổ Tổ có gặp Cha con không?

    Tiên Ông mỉm cười nói:

    Mẹ con khá lắm, Cha con chờ Mẹ con trên Trời.

    Tiên Ông nói:

    Nhờ lòng con lúc nào cũng nghĩ đến dân chúng nghĩ đến non sông Tổ Quốc nên kiếp nạn cũng sắp chấm dứt, khi con diệt xong con Quỉ tu luyện thành người, làm hại dân lành biên giới Tây Bắc Văn Lang, kiếp nạn không còn hồng phúc kéo đến, gia đình đoàn tụ, sống an vui hạnh phúc, con cái cháu chắt đầy đàn.

    Nói xong Tiên Ông biến mất. Chí Trung ở lại một mình trong Sơn Động, một nỗi cô đơn lạnh lẽo bao trùm khắp nơi, nhưng xuống núi thì không thể nào xuống được. Chí Trung nhớ lại lời nói Tổ Tổ nói: Muốn xuống núi không còn con đường nào khác hơn, là tu học võ công đến thượng thừa. Chí Trung là người thông minh liền loại bỏ hết tạp niệm tâm linh an định như hư không, lần lần không còn gợn một chút mảy trần nào nữa, tập trung tu luyện võ thuật thần thông. Chí Trung vốn từ nhỏ ham thích nghiên cứu các môn võ thuật, tu thiền, luyện khí, bấm huyệt, cũng như nhờ học được võ công gia truyền, nên tu thiền luyện khí không khó. Chí Trung hít một luồng không khí sâu xuống tận đan điền kết hợp với khí Tiên Thiên. Tức thời từ nơi đan điền một luồng hơi nóng cuồn cuộn tỏa ra khắp châu thân. Chí Trung dùng tư tưởng dồn luồng khí nóng Tiên Thiên trở lại đan điền, rồi dùng ý tưởng dẫn khí Tiên Thiên khai thông các huyện đạo. Chí Trung dẫn khí thông xuống huyệt Trung Nguyên, thông xuống huyệt Trung Cực, thông xuống huyệt Khúc Cốt, (xung môn) dùng ý tưởng nhí nhí hậu môn, dẫn Tiên Thiên chân khí tràn qua xương cụt. Theo xương sống chạy lên đỉnh đầu, từ xương cụt thông lên huyệt Yêu Di, thông lên huyệt Yêu Dương Quang, rồi đến Thừa Phù, Tích Trung, Trung Khu, rồi thông lên Thần Đạo, Thân Trụ, Đào Đạo, Đại Chùy, rồi thông lên Chùy Đỉnh, Á Môn, rồi đến Phong Phủ thông lên huyệt Bách hội (đỉnh đầu). Rồi từ đỉnh đầu Chí Trung tiếp tục dùng tư tưởng dẫn khí chạy về phía trước, thông xuống huyệt Tinh Minh, Dương bạch, thông qua hai huyệt Thái Dương, xuống huyệt Ngự yêu, Toán Túc, Tức Bạch, dùng tư tưởng vận khí thông xuống Cự Liêu, thông Xuống Nhân Trung, Thừa Tương, Đại Nghinh, thông xuống cổ xuống ngực, thông xuống huyệt Cửu Vĩ thông xuống đan điền, tích tụ thần công nơi đây biển khí hải. Chí Trung dẫn chân khí Tiên Thiên khai không hàng loạt các huyệt đạo bắt đầu từ dưới rún huyệt đan điền biển khí hải vận hành chân khí xuống xương cụt, từ xương cụt chạy qua sau lưng chạy lên đỉnh đầu, rồi từ đỉnh đầu chân khí chạy xuống tráng, xuống mắt, sống mũi, xuống miệng, xuống cổ, xuống ngực, xuống đan điền. Thì coi như đã khai thông các huyệt đạo từ trước ra sau, từ trên xuống dưới, một vòng Thái Cực. Chí Trung cứ thế vận hành khí hóa lưu thông huyệt đạo, Chí Trung càng vận hành càng thấy trong cơ thể hình thành lên một con sông lớn chảy từ trước chảy ra sau, từ sau chảy đến trước, từ trên chảy xuống dưới, từ dưới chảy lên trên, càng ngày càng trào dân cuồn cuộn mạnh mẽ vô cùng. Chí Trung lại dẫn chân khí từ Bách Hội (đỉnh đầu) dùng tư tưởng dẫn chân khí phân ra hai bên (lưỡng nghi) thông xuống hai huyệt Xuất Cốc, thông xuống hai huyệt Nhĩ Môn, thông xuống hai huyệt Thính Hội rồi đến hai huyệt Hạ quang, thông xuống hai huyệt Ế Phong, hai huyệt Hạ Ế Phong, thông xuống hai huyệt Giáp Xa, xuống cổ xuống bả vai. Dùng tư tưởng dẫn khí thông xuống nách khai thông hai huyệt Vân Môn, hai huyệt Chương Môn, thông xuống hai huyệt Đới Mạch, hai huyệt Đại hành, thông xuống hai huyệt Ngũ Xu, Duy Đạo, dẫn khí thông xuống xương cụt hai luồng chân khí nhập chung lại một. Rồi dẫn chân khí từ xương cụt chạy ra sau lưng theo xương sống chạy lên đỉnh đầu, rồi từ đỉnh đầu phân làm đôi hai luồng chân khí chạy xuống tai, xuống cổ, xuống vai, xuống Nách xuống hai bên mông bắp vế trở lại xương cụt, một vòng lưỡng nghi.

    Cứ như thế Chí Trung vận hành chân khí tuần hoàn khai thông huyệt đạo, theo Tiên Thiên vô cực, Hậu Thiên lưỡng nghi, hết ngày nầy sang tháng kia. Chí Trung vận Tiên Thiên thần công thông ra tứ chi làm cho các huyệt đạo thông suốt. Chí Trung không biết là mình luyện tập thời gian bao lâu, chỉ thấy thân thể nhẹ tựa lông hồng, không còn thấy lạnh lẽo chi nữa biết rằng mình đang chung sống với tuyết. Chí trung bỗng nghe thấy một mùi thơm kỳ lạ liền lao ra khỏi cửa Sơn Động. Thời thấy xa có nhiều loài chim bay lượn trên bầu trời, cách xa Sơn Động hàng dặm, Chí Trung nghĩ không lẽ mùi thơm từ đó lan đến đây. Từ đây đến đó vượt qua bao hố sâu núi tuyết thăm thẳm. Chí Trung nghĩ không cách gì tới đó được thật tiếc quá. Chí Trung thấy đàn chim xấu xé nhau lao lên lao xuống dữ đội. Chí Trung hít một luồng chân khí vào đan điền hầu trút đi buồn phiền không ngờ thấy thân người nhẹ bỗng như muốn bay lên. Chí Trung liền nhích chân theo pháp Thăng Thiên bí lục gia truyền không ngờ Chí Trung nhích chân một cái thân hình liền bay cao lên chín mười trượng. Chí Trung lơ lửng trên hư không hoảng kinh, nhưng sau đó lấy lại bình tỉnh. Chí Trung vận Tiên Thiên thần công toàn thân tức thì lơ lửng trên không, không rớt xuống. Chí Trung phát hiện ra sự kỳ diệu nầy liền dùng Lăng Không Bộ Pháp kinh công tưởng niệm lướt đi, thì kỳ diệu thay Chí Trung bay đi như một loài chim. Chí Trung liền phi thân bay đến chỗ đàn chim đang cấu xé lẫn nhau. Ở trên không Chí Trung thấy một quả tuyết liên to lớn kỳ lạ đang tỏa hương thơm ngào ngạt. Chí Trung thấy bụng đói cồn cào không còn chần chờ gì nữa lao nhanh xuống chỗ quả tuyết liên. Chí Trung chưa kịp hái thời mười mấy con chim đại bàng to lớn từ trên không lao xuống nhanh hơn tên bắn mấy mươi móng vuốt chụp tới, ai nhìn thấy cũng phải kinh hồn bạt vía, nghĩ rằng Chí Trung khó mà thoát chết. Chí Trung tức tốc Chí Trung vận Tiên Thiên chỉ công trong Tiên Thiên thần công đánh lên chỉ nghe chỉ phong réo lên đinh tai nhức óc hơn mười mấy con đại bàng chết không kịp kêu, chỉ còn một hai con là thoát chết kêu lên kinh hãi, kinh khiếp bay đi mất dạng. Các loài chim khác cũng khiếp đảm bay đi hết. Chí Trung không ngờ Tiên Thiên Chỉ Công lợi hại đến khủng khiếp như thế. Chí Trung hái quả tuyết liên ăn ngay vào miệng, thì thấy thần lực tăng lên ngùn ngụt thân hình như muốn bay lên không trung, không còn thấy đói khát gì nữa cả. Chí Trung biết đây là cơ hội nghìn năm có một không hai tu luyện mau đạt đến tối cao của võ học, liền phi thân bay về Động.

    Chí Trung giờ đây không khác gì chim đại bàng bay qua những thung lũng núi tuyết. Chí Trung bay lượn trên không trung tập luyện Lăng Không Bộ Pháp cho đến khi thành thục.

    Bay lượn trên không thật tuyệt vời

    Nghiêng mình đảo lộn khắp nơi nơi

    Sải cánh dang tay ôm trời đất

    Phỉ chí hùng anh một cuộc đời.

    Chí Trung hạ chân xuống núi tuyết luyện tập Ảo Ảnh Thân Pháp di chuyển như ma quỉ. Chí Trung luyện tập không bao lâu thì không còn thấy Chí Trung đâu nữa. Ảo bộ pháp Chí Trung luyện tới cảnh giới tàng hình rồi con mắt thường không thể nhìn thấy được. Từ đó Chí Trung chú tâm tu luyện Hậu Thiên Chân Kinh, Tiên Thiên Chân Kinh, đạo pháp, thuật pháp, kiếm pháp, thời gian cứ thế trôi qua, Chí Trung ngày đêm chuyên tâm luyện tập võ công không còn nhớ gì đến Mẹ, đến Thanh Vân nữa.

    Một mình ở chốn núi non

    Ngày đêm luyện tập quên luôn đất trời

    Võ công đạt đến thượng thừa

    Chờ ngày trở lại quê nhà đoàn viên.

    Đây nói về Bà Liễu Huệ cùng Thanh Vân vượt qua quãng đường dài phần nhiều là rừng đồi cây cối rậm rạp, chim kêu vượn hú, không một bóng người. Những đồi rừng nối tiếp nhau hơn mười mấy dặm nổi tiếng là đồi rừng Ma, không biết bao nhiêu người qua đây thường là gặp nạn nhất là phụ nữ. Mẹ Con Bà Liễu Huệ đi qua những khúc quanh hai bên đường cây cối rậm rạp không khỏi lạnh mình rởn óc.

    Rừng xanh xa tận chân trời

    Chim kêu vượn hú hổ gầm sói tru

    Mặt trời ngả bóng về Tây

    Vắng người, lặng ngắt rừng cây bạt ngàn

    Đường đi quanh quẹo lượn vòng

    Trong lòng rờn rợn hãi hùng xiết bao.

    Bà Liễu Huệ uống xong ngụm nước thì thấy trong người hồi sức trở lại sau một đoạn đường dài vượt qua đồi rừng khác đắng cả họng. Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân bỗng nghe thấy tiếng ngựa sau lưng từ xa vọng lại Bà Linh cảm như điều gì không may. Từ một khúc quanh sau lưng ba người cưỡi ngựa hiện ra, khi chúng đến gần Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân giật mình vì thấy chúng không giống người tử tế. Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân giả đò không thấy chúng để cho chúng đi qua, không ngờ chúng không đi qua mà dừng lại sáu con mắt lôm lôm nhìn Thanh Vân cũng như Bà Liễu Huệ. Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân thấy chúng dừng lại lôm lôm nhìn mình thì trong lòng kinh hãi hai quả tim đập thình thịch.

    Bà Liễu Huệ lấy lại bình tỉnh nói:

    Chúng ta đi thôi Thanh Vân.

    Bỗng một tiếng quát chói tai:

    Đứng lại đó.

    Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân nghe tiếng quát biểu đứng lại thì điến cả hồn. Tên mang thanh đao nói với hai người kia:

    Đại Ca, Tứ Đệ hai người nầy cũng khá đấy chứ.

    Tên mang kiếm nói:

    Lục soát trong mình chúng lấy đi tất cả.

    Tên cầm cái quạt hích hích bộ mặt đầy nốt ruồi với cái môi dưới dày như cái thớt trề ra như máng heo trông ngu đần đồ tể làm sao. Gã ra giọng đàn anh nói:

    Hai đệ đừng vội hai thằng nhóc nầy làm gì được chúng ta, hơn nữa nơi đây hoang vắng vô cùng, mặt trời cũng đã về chiều rồi, không có tốp đoàn nào vào đường rừng nầy nữa đâu. Ba ta bỡn cợt với chúng một trận cho đã đời rồi cho chúng một đao về chầu âm phủ, quăng xác chúng vào rừng cho Cọp ăn là xong.
     
  18. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Hai Mẹ Con Thanh Vân nghe bọn chúng nói bỡn cợt cho đã đời thời rung lên cần cập. Thanh Vân lấy lại bình tỉnh nói:

    Các hạ muốn gì ở hai chúng tôi.

    Tên mang đao nói:

    Thằng nầy lại cái hay sao mà nói giống tiếng đàn bà con gái thế.

    Bà Liễu Huệ sợ chúng phát hiện ra hai mẹ con là gái giả trai liền giả giọng khàn khàn nói:

    Hai anh em tôi nào có tội gì xin các vị tha thứ cho.

    Tên mang kiếm quát:

    Mau lột hết quần áo chúng, vét sạch lấy sạch nếu kháng cự thì cho một kiếm đi đời.

    Tên mang đao nhìn hai mẹ con Thanh Vân rút đao ra cái sọt ánh đao sáng ngời quát:

    Mau cởi lột hết quần lột áo ra, bỏ hết lại đây.

    Thanh Vân lúc nầy bình tĩnh lạ thường không còn chút sợ hãi nhìn tên mang đao hung tàn bạo ngược, thấy bộ mặt phúng phính trông chẳng khác gì mặt con lợn ú nu ú nần. Còn tên mang kiếm bộ mặt như mặt khỉ cái mũi vừa ngắn vừa to trống hoác như hai ống tre. Còn thằng cầm quạt thời cái môi dày trề ra như cái máng lợn, ba thằng nầy nhìn sơ qua cũng biết là bọn bất lương nếu chọc giận chúng, chúng sẽ giết không tha, không khéo lại làm nhục mình nữa là khác.

    Thanh Vân lễ phép nói giọng sợ hãi khàn khàn:

    Bẩm ba đại hiệp hai anh em tôi lên Kinh Đô tìm người quen xin Ba đại hiệp tha mạng, anh em tôi tự nguyện dâng lên tất cả những gì hai anh em tôi có.

    Tên cầm cái quạt nghe Thanh Vân gọi mình bằng đại hiệp thì không còn muốn giết hai Mẹ Con Thanh Vân nữa. Người mang kiếm quay lại hỏi người cầm quạt:

    Thưa đại ca xử lý hai thằng nầy ra sao?

    Người cầm quạt nói:

    Nghĩ tình hai anh em nó tôn ba chúng ta là Đại Hiệp nên tha tội chết, nhưng phải lấy hết những gì chúng mang theo.

    Biết không còn con đường nào khác, cứu lấy sinh mạng là tất cả, Bà Liễu Huệ định đưa hết vàng bạc cho chúng. Thanh Vân ngăn lại nói:

    Anh khoang đưa cái đã.

    Tên mang kiếm mặt hơi hơi bò cái quát:

    Hai ngươi định đấu lại Tam Quỉ nầy sao?

    Thanh Vân nghe bọn chúng xưng Tam Quỉ thì lạnh cả người. Thanh Vân khôn khéo thưa:

    Thưa ba đại hiệp anh em tôi chỉ là con thỏ nào dám vuốt râu hùm. Anh em tôi sợ đưa hết vàng bạc cho ba đại hiệp, ba đại hiệp không giữ lời hứa giết anh em chúng tôi thì biết làm sao?

    Người cầm đao nói:

    Đại ca ta nói không giết là không giết ngươi lôi thôi quá.

    Người mang kiếm nói:

    Nếu hai anh em ngươi không đưa hết còn dấu, ta lục trong mình hai ngươi mà còn thì giết chết không tha.

    Bà Liễu Huệ biết đã gặp phải bọn sát thủ chỉ còn cách là để lại tất cả cho chúng may ra mới cứu lấy sinh mạng của mình mà thôi. Bà đặt hành lý xuống móc trong mình ra một túi đựng vàng bạc đưa hết cho tên cầm quạt. Tên cầm quạt nhận lấy cái túi mở ra xem thời cả ba đều lóa cả mắt vì trong túi có hơn mười lạng vàng mười lạng bạc. Chúng lao xuống lấy cả hành lý của hai mẹ con Thanh Vân rồi phóng lên ngựa lao đi mất hút. Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân thở phào biết là mình vẫn còn sống sót, hai người ráng sức vượt qua khu rừng may đoạn đường rừng không dài lắm, hai mẹ con đi không bao lâu thì rời khỏi đường rừng đến một thị trấn nhỏ cũng vừa đúng lúc mặt trời lặng xuống núi, may thay lúc ấy gặp một tốp thợ săn cũng đi vào thị trấn nhỏ. Hai mẹ con Thanh Vân liền đi theo thị trấn nhỏ nầy toàn là quán xá buôn bán động vật hoang dã những đoàn thợ săn cũng như những người phương xa đến mua bán trao đổi thịt rừng tấp nập. Hai bên đường rất nhiều quán xá Bà Liễu Huệ nghe mùi chiên xào thì nghe bụng đói cồn cào chịu không nổi, Thanh Vân cũng đói lả người lại còn khát nước khô cả họng.

    Bà Liễu Huệ nhìn Thanh Vân rơi nước mắt nói:

    Vàng bạc chúng lấy hết rồi khổ con quá.

    Thanh Vân thấy Bà Liễu Huệ khóc, Thanh Vân nói:

    Con còn bạc.

    Bà Liễu Huệ như không tin ở tai mình hỏi lại:

    Con nói sao?

    Thanh Vân dắt bà Liễu Huệ vào một cái quán cũng khá sang trọng, Thanh Vân kêu mấy đĩa thịt rừng cũng như nước uống. Hai người đói quá ăn một loáng là hết sạch. Thanh Vân nhìn thấy khách trong quán cũng đông toàn là khách buôn bán, xen lẫn không ít bọn giang hồ, cũng không thiếu những tay anh chị, mà Cha cô thường kể cho cô nghe những hạng người nầy.

    Thanh Vân kêu chủ quán tới nói:

    Chủ quán cho ta một phòng nghỉ thượng hạng.

    Thanh Vân móc trong mình ra một ít bạc lẻ trả cho chủ quán. Bà Liễu Huệ không biết Thanh Vân có số bạc lẻ từ lúc nào vì Thanh Vân ở nhà bà chưa một lần ra khỏi nhà không hiểu Thanh Vân kiếm ở đâu ra số bạc lẻ như thế. Vì quá mệt mỏi đi đường xa hai người ngủ cho đến mặt trời lên cao mới thức dậy.

    Nói về Bà Liễu Huệ cùng Thanh Vân vì cả ngày vượt đường xa, nhất là đi qua qua rừng ma đầy sỏi đá lại thêm đói khát chân đã bong sưng sít chút nữa thời bỏ mạng nên ngủ thiếp đi mặt trời lên cao mới thức dậy, ông chủ quán thông cảm không lấy thêm bạc. Thanh Vân cảm thấy trong người hồi phục khỏe mạnh như cũ không còn thấy mỏi mệt nữa, nhưng chỉ còn đôi chân là vẫn còn đau nhức vì đi ròng rã cả ngày bong cả hai bàn chân. Thanh Vân là tiểu thơ đài các đi trên xe cộ ngồi trên nhung lụa, chưa bao giờ có cảnh đi xa vượt qua sỏi đá đồi rừng như thế nầy không nghĩ đến mình, mà lúc nào cũng nghĩ đến Mẹ, lo cho Mẹ, từng miếng ăn giấc ngủ.

    Thanh Vân thấy chân mẹ vẫn còn đi chưa được bình thường lo lắng hỏi:

    Chân Mẹ có sao không?

    Bà Liễu Huệ nói:

    Chân Mẹ không sao đâu con.

    Bà nhìn Thanh Vân nào khác gì Bà đi những bước đi cà nhắc không được bình thường thì lòng xót xa vô kể. Thanh Vân gọi chủ quán hãy dọn lên cho ta những món ăn ngon bổ dưỡng mục đích cho Mẹ Bà Liễu Huệ ăn ngon đầy đủ dinh dưỡng hồi phục sức khỏe.

    Thấy Bà Liễu Huệ ăn hơi yếu Thanh Vân lo lắng hỏi:

    Những món nầy Mẹ ăn được không con kêu món khác cho Mẹ.

    Bà Liễu Huệ thấy trong lòng ấm áp vì Thanh Vân lúc nào cũng lo cho Bà, thậm chí còn hi sinh tất cả cho Bà. Bà nghĩ có trải qua bao gian nan nguy hiểm đường dài, mới thấy hết tấm lòng cao quý đối nhân xử thế Thanh Vân. Thanh Vân tính toán suy nghĩ từ đây về đến Thuận Yến Giang, Phúc Châu cũng hơn năm ngày đường nữa, phải nói là đường xa vời vợi. Mẹ lại chân còn đau nên Thanh Vân ở lại quán trọ thêm mấy ngày ăn uống ngủ nghỉ dưỡng sức.

    Bà Liễu Huệ lúc nào cũng thấy Thanh Vân xài sang lo cho Bà đủ thứ. Bà lo lắng nói:

    Vàng bạc chúng lấy hết rồi còn đâu mà con lo cho Mẹ tốn kém như vậy.

    Thanh Vân nói:

    Thưa Mẹ, Mẹ đừng lo con có cách.

    Thanh Vân bằng kêu chủ quán tới hỏi:

    Nầy chủ quán có chỗ nào trao đổi buôn bán vàng bạc không?

    Chủ quán vui vẻ trả lời:

    Cách đây hai dãy nhà có một tiệm buôn, buôn bán vàng bạc cũng khá lớn, hai vị tới đó mà mua sắm.

    Thanh Vân cùng Bà Liễu Huệ ăn xong tìm đến tiệm buôn bán vàng bạc, đúng như lời chủ quán nói Thanh Vân cùng Bà Liễu Huệ đi qua hai dãy nhà thời thấy có một tiệm buôn bán vàng bạc khá lớn, trước nhà đề bản hiệu tiệm buôn vàng bạc Thị Trấn Hà Châu.

    Thanh Vân nói:

    Mẹ ở đây chờ con. Con vào đó rồi ra ngay.

    Thanh vân nói xong thì đi ngay vào tiệm buôn bán vàng bạc. Bà Liễu Huệ ở ngoài đợi khá lâu chưa thấy Thanh Vân trở ra hơi lo. Bà tính vào trong đó xem thử có chuyện gì xảy ra không sao mà lâu quá vậy. Bà định đi vào thời thấy Thanh Vân trở ra.

    Bà Liễu Huệ hỏi:

    Con làm gì trong ấy lâu quá vậy? Làm Mẹ ở ngoài nầy lo sợ quá, Mẹ định vào đó xem thử thấy con ra nên thôi.

    Thanh Vân nói:

    Ông chủ tiệm vàng bạc nầy gian xảo quá, chiếc vòng quý giá như thế mà ông ta chỉ trả có mười lượng vàng, năm lượng bạc vì ít quá con kèo nài mãi tên chủ tiệm không chịu thêm lên mà đòi còn bớt xuống. Cuối cùng con đành phải bán với giá rẻ mèm chỉ mười lượng vàng với năm lượng bạc.

    Bà liễu Huệ không ngờ chiếc vòng đeo tay của Thanh vân lại có giá như vậy. Bà nghĩ chỉ vài lượng bạc là cùng, nào hay Thanh Vân bán với giá mười lượng vàng năm lượng bạc mà còn nói rẻ bèo. Mẹ Con Thanh Vân có vàng bạc không sợ đói khát nữa chân cũng đã hết đau lại có vàng bạc làm lộ phí ăn theo dọc đường.

    Đây nói về ông chủ buôn bán vàng bạc, thấy Thanh Vân có chiếc vòng ngọc có những hạt kim cương quý hiếm vô cùng, gã định nuốt luôn nhưng vì ban ngày ban mặt khách buôn bán lui tới đông đúc không tiện ra tay. Thanh Vân ra giá chiếc vòng ngọc có những hạt kim cương lấp lánh năm mươi lượng vàng. Chủ tiệm chê mắc nhưng không muốn trả lại vòng ngọc lại cho Thanh Vân, Thanh Vân làm dữ Gã mới trả giá mười lượng vàng năm lượng bạc. Nghe ông chủ cãi vã với người bán, bọn trộm cướp tới gần lén nghe, chúng nghe rõ là ông chủ trả giá mười lượng vàng năm lượng bạc.

    Từ đó chúng theo dõi Thanh Vân ráo riết, chúng bàn tính với nhau:

    Hai Gã đàn ông kia có nhiều thứ quý giá lắm, vừa rồi Gã trẻ hơn bán chiếc vòng gì đó tới mười lượng vàng năm lượng bạc. Chỉ cần bấy nhiêu đó cũng đủ cho chúng ta sung sướng rồi.

    Một Gã nói:

    Chúng ta hai người ít quá chỉ cần thuê thêm ba tay có võ công đi theo sau chờ khúc đường vắng vẻ làm thịt hai gã đàn ông yếu đuối kia thật dễ dàng.

    Nói về Bà Liễu Huệ cùng Thanh Vân nào có hay biết gì sau khi rời khỏi quán trọ mua thêm mấy bầu nước lên đường. Bỗng có một người trung niên cũng từ trong quán trọ đi ra mang thanh kiếm sau lưng hỏi mẹ con Thanh Vân:

    Nhị Vị đi về đâu?

    Bà Liễu Huệ giả giọng khàn khàn trả lời:

    Hai cha con tôi đến Phúc Châu.

    Người trung niên nói:

    Thì ra chúng ta đi cùng đường, tôi đến Giang Tây.

    Thế là ba người cũng đi chung trên một đường dài đi hơn nữa ngày thời đến một thị trấn, ba người vào quán ăn một ruột no bụng rồi tiếp tục lên đường, đi thêm một đoạn đường dài nữa thì tới một thị trấn lớn người đông đúc qua lại người trung niên dừng lại nói trời cũng sắp tối nhị vị hãy vào thị trấn mà nghĩ qua đêm. Hình như có người theo dõi chúng ta từ sáng đến giờ, nhưng bọn chúng chưa dám ra tay, nhị vị đi đường xa hết sức cẩn thận, bèo bọt gặp gỡ cũng phải đến lúc chia tay, tạm biệt hai vị người trung niên nói xong đi về một hướng khác.

    Nói về hai Mẹ Con Thanh Vân được sự cảnh báo của người trung niên tốt bụng dáo dác nhìn xem có ai theo sát mình không.

    Thanh Vân nói:

    Phía trước hình như là quán trọ thì phải?

    Hai người liền vội vã bước nhanh đến nơi. Bà Liễu Huệ nhìn quán trọ thấy bản hiệu họa tiết Đông Mai trông bề thế vô cùng khách ra vào tấp nập. Bà thấy Thanh Vân như đang tìm ai đó, Bà đứng bên yên lặng.

    Bà nghe tiếng Thanh Vân thở dài liền hỏi:

    Con làm sao vậy?

    Thanh Vân trả lời:

    Không sao đâu Mẹ, con tìm người quen nhưng không thấy ai cả.

    Bà Liễu Huệ chỉ lấy làm lạ nhưng không hỏi. Thanh Vân dắt tay Bà đi Mẹ, hai người bước vào trong quán, quán lớn như thế mà không còn cái bàn nào trống. Thanh Vân nhìn quanh nhìn quất thấy có một cái bàn nhỏ vừa đủ cho hai người Thanh Vân nói:

    Đến chỗ kia ngồi Mẹ.

    Những người phục vụ ở đây thật lão luyện không những nhanh chóng mà cũng biết cách ăn nói nữa. Hai Mẹ Con vừa ngồi xuống ghế thời người phục chạy đến ra chiều lễ phép thân mật thưa:

    Quý khách dùng gì?

    Thanh Vân nói:

    Làm cho vài món đặc sản ở vùng nầy.

    Người phục vụ nghe Thanh Vân sành điệu như thế thì hơi có vẻ kinh ngạc vì hai vị khách nầy đâu phải là khách thượng lưu. Thanh Vân lắng nghe lời trao đổi những vì khách xem có ai cùng đường lên Kinh Đô với mình không, nhưng không thấy ai là người cùng đường với mình. Hai Mẹ Con Thanh Vân ăn xong liền thuê phòng trọ để ngủ qua đêm. Thanh Vân trằn trọc trăn trở mãi không sao ngủ được vì đường dài còn quá xa, còn phải vượt qua những nơi hoang vắng không người ở nguy hiểm vô cùng.

    Trải bao kiếp nạn đường đời

    Gian nan nguy khốn chân trời bơ vơ

    Tiếng gà giục dã gáy mau

    Chân trời hừng sáng lao đao đường dài

    Gội sương tắm gió bao ngày

    Cuộc đời đã nhuốm phong trần gian truân.

    Mặt trời đã lên cao, con người cũng chia nhau trăm ngả, người lên núi, kẻ xuống biển, người về quê kẻ lên Kinh, hai Mẹ Con Thanh Vân đường còn xa vời vợi nên đã vội vã lên đường.

    Thanh Vân nói:

    Kìa Mẹ, phía sau mình có tốp người đi cùng đường với mình thì phải.

    Hai Mẹ Con Thanh Vân chờ người đến nhập hội đi chung, càng về trưa số người đi chung càng ngày càng ít vì họ tẻ đi theo các ngã đến trưa thì chỉ còn lại có ba người. Hai Mẹ Con Thanh Vân cùng người thanh niên trạc độ 19 tuổi trông có vẻ khôi ngô tuấn tú lắm, chàng ta ít nói chỉ lầm lì vác trên vai một bao đồ lớn không biết là đựng thứ gì trông có vẻ nặng lắm. Thế mà chàng ta vác đi như không từ sáng đến giờ hơn nửa ngày mà không hề thấy mệt phải nói là có sức khỏe hơn người. Chàng trai ấy có lẽ là người tốt bụng không muốn bỏ rơi Mẹ Con Thanh vân, nên vừa đi vừa chờ hai người.

    Thanh Vân thấy người trai trẻ thanh niên nầy có vẻ đứng đắn bắt chuyện làm quen hỏi:

    Thưa tráng sĩ tráng sĩ đi về đâu?

    Chàng thanh niên nói:

    Nhà tôi ở nơi hoang vu từ đây đến đó không còn nhà dân nào nữa.

    Từ hoang vu nghe xa lạ làm sao Thanh Vân dù có tò mò nhưng chỉ biết nghe không dám hỏi thêm gì nữa. Bà Liễu Huệ hỏi:

    Từ đây đến nhà tráng sĩ còn bao xa?

    Chàng thanh niên tốt bụng không ngần ngại trả lời:

    Khoảng hơn 20 dặm đi tới chiều mới tới.

    Thanh Vân hỏi:

    Đây có phải là con đường lên Kinh Đô Xích Quỷ không?

    Chàng thanh niên trả lời:

    Tuy là con đường lên Kinh Đô Xích Quỷ nhưng ít ai đi con đường nầy, vì con đường nầy vừa vắng vẻ vừa nguy hiểm. Chỉ có những bậc giang hồ hiệp sĩ thì thường đi con đường nầy, con đường gần nhất từ Kinh Đô xuống Đông Nam Hải. Những người đi buôn cũng như dân chúng họ đi theo con đường hướng Đông vòng quanh lên Kinh Đô Xích Quỷ rất xa nhưng an toàn vì dân chúng ở theo hai bên dọc đường rất đông. Còn đi theo con đường hướng Tây Bắc nầy gần hơn nhưng phải đi qua nhiều nơi hoang vắng kéo dài hàng mấy mươi dặm, khi nào qua khúc sông chi nhánh sông Âu trải qua thêm 20 mươi dặm nữa mới tới dân cư đông đúc.

    Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân nghe chàng thanh niên nói thế thì kinh hãi khôn cùng. Bà Liễu Huệ hỏi:

    Con đường lên Kinh Đô theo hướng Đông cách đây bao xa?

    Chàng thanh niên có vẻ ngạc nhiên hỏi:

    Quả thật nhị vị không biết thật sao? Nếu muốn đi theo con đường hướng Đông nhị vị phải trở lại thị trấn, đi theo con đường hướng Đông Bắc, tại hạ nghĩ nhị vị ngại đường vòng xa nên mới đi con đường nầy.

    Thanh Vân nói:

    Hỏi là hỏi thế, đã đi con đường nầy trở lại con đường kia làm gì. Hơn nữa trời cũng đã xế chiều, chúng tôi cùng đồng hành với tráng sĩ vậy.

    Thế là từ đó ba người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ chàng thanh nên thật dễ mến lại ăn nói lưu loát quả là một đấng anh tài. Bỗng ba người nghe tiếng vó ngựa từ phía sau vọng tới, Bà Liễu Huệ linh cảm như là có chuyện không hay.

    Thanh Vân nói:

    Không lẽ là bọn chúng.

    Chàng thanh niên hỏi:

    Là ai thế?

    Bà Liễu huệ nói:

    Bọn cướp chớ còn ai nữa có lẽ chúng đuổi theo chúng ta nguy mất.

    Nói về Mẹ Con Thanh Vân hầu như nhận ra bọn cướp chúng đã theo dõi hơn hai ngày nay và đây chính là cơ hội cho chúng thủ tiêu lấy sạch của cải vàng bạc. Thoáng một cái năm tên đã tới, không hiểu bọn chúng thuê ở đâu ra hai con ngựa rượt theo Mẹ Con Thanh Vân chúng vượt qua ba người rồi quay đầu chặn đứng ba người lại, tên nào tên nấy mặt mày hung dữ, chúng mang theo đao kiếm trông thấy mà rợn cả người.

    Tên mặt nhiều vết thẹo trông có vẻ đại ca anh chị hung bạo vô cùng quát:

    Đưa tất cả đây cho ta.

    Mẹ Con Thanh Vân run lên cầm cập chúng ta bỏ mạng tại đây mất. Tên mặt thẹo lại quát lên một lần nữa:

    Đưa tất cả đây cho ta.

    Chàng thanh niên tự nãy giờ đứng quan sát năm tên ăn cướp xem nhất cử nhất động của chúng. Nghe tên mặt thẹo quát lên lần thứ hai chàng thanh niên hỏi:

    Các ngươi bảo đưa cái gì?

    Tên mỏ chuột hai con mắt như ốc bươu bộ mặt ngang như cua hung tợn quát:

    Cả ngươi nữa bỏ hết đồ đạt lại cho ta.

    Năm tên đồng loạt nhảy xuống ngựa chúng rút đao rút kiếm ra múa qua múa lại thị uy, tên ốm tong bộ mặt như con cú mèo hườm hườm quát:

    Giết chúng đi, quăng xác chúng vào bụi.

    Tên mập lùn tịt có vẻ háo sát hơn nữa lao tới chém vào chàng thanh niên một nhát. Chàng thanh niên trớ khỏi, tên mập càng nổi khùng thằng nhóc con xem đây tên mập múa đao vùn xụt chém tới lia lịa chàng thanh niên không hiểu dùng bộ pháp gì tránh né dễ như không. Tên mập chém một hơi không trúng anh em xông vô đi chớ nhìn gì nữa. Thế là bọn chúng năm người đánh một, chúng la hét dữ dội chết nầy chết nầy, kẻ kiếm người đao chém xối xả. Bà Liễu Huệ nhìn bộ pháp di chuyển của chàng thanh niên thì biết ngay là một tay cao thủ năm tên ăn cướp kia khó mà thắng được, Thanh Vân cũng nghĩ như vậy.

    Chàng thanh niên thấy năm tên ăn cướp quyết giết mình quát lên như sấm nổ:

    Lũ các ngươi quả là đã tới số.

    Với một thân pháp vô cùng kỳ lạ chỉ cần ra tay một cái là cướp ngay cây đao của tên mập, chàng thanh niên định cho một nhát nhưng kịp dừng đao lại, tên mập mới thoát chết. Bọn chúng ỷ đông kẻ kiếm người đao chém tới tấp vào chàng thanh niên, chàng thanh niên chỉ múa nhẹ vài đường chống trả, thế mà bốn tên mặt mày kinh khiếp tay cầm kiếm cầm đao như muốn tắt hổ khẩu rướm máu ra, cầm kiếm cầm đao không còn vững được nữa.

    Chàng thanh niên quát:

    Ta lấy mạng các ngươi đây.

    Thế là bọn chúng quăng đao quăng kiếm phóng lên ngựa chạy trốn mất dạng. Chàng thanh niên quăng đao vào bụi cười lên ha hả:

    Chỉ có thế mà cũng đòi làm ăn cướp.

    Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân thở phào nhẹ nhõm, nhất là Thanh Vân khâm phục chàng thanh niên nầy vô cùng, Thanh Vân biết rõ vị tráng sĩ thanh niên nầy có ý tha chết cho năm tên cướp kia, nếu không chỉ cần chém mấy đao là năm tên cướp kia bỏ mạng. Lần đầu tiên Thanh Vân thấy có người hào hoa phong nhã ăn nói lưu loát, võ nghệ cao cường như vậy. Trong số người đến cầu hôn với cô năm xưa không ai hơn được chàng thanh niên tráng sĩ nầy.

    Thanh Vân chắp tay nói:

    Cảm ơn sự cứu mạng hai cha con tôi.

    Chàng thanh niên như chợt nhớ ra và lên tiếng:

    Thì ra nhị vị là hai cha con.

    Chàng thanh niên nhìn lên bầu trời nói tiếp:

    Đi mau không khéo trời tối mất.

    Thế là ba người tăng tốc độ không bao lâu thì tới một khúc sông nước chảy cuồn cuộn. Hai bên bờ sông vắng vẻ tĩnh lặng đến lạnh người, Bà nhìn con sông nước chảy xiết thì không khỏi nổi da gà. Nhất là Thanh Vân nhìn thấy nước sông cuồn cuộn thì không khỏi sợ hãi vì nhớ lại tai nạn đã qua. Mặt trời sắp lặng hai người càng thêm rờn rợn, nhưng hai người tin tưởng người thanh niên nầy nên không lấy gì làm lo lắng lắm. Thanh Vân chợt nhìn thấy một chiếc đò cỡ lớn đã chất đầy củi.

    Chàng thanh niên chạy tới mở dây cột đò ra, đẩy đò ra mé sông nói:

    Nhị vị lên thuyền đi, tôi đưa nhị vị qua sông nhà tôi ở bên kia sông.

    Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân nhìn theo tay chỉ của tráng sĩ thanh niên thời thấy một ngôi nhà tranh ở bên kia bờ sông. Chàng thanh niên chèo đò ra giữa sông rồi nói:

    Bờ bên kia là đất Ninh Hải, bờ bên nầy là đất Giao Chỉ.

    Thanh Vân chợt mừng rỡ reo lên:

    Tới địa phận đất Giao Chỉ rồi sao.

    Chàng thanh niên gật đầu rồi nói:

    Nhưng Kinh Đô Xích Quỷ còn xa lắm cũng phải đi ba ngày đường nữa mới tới.

    Đò qua sông thời mặt trời cũng đã lặng xuống núi, bóng đêm trùm xuống nhân gian, Bà Liễu Huệ, Thanh Vân bước xuống đò thì nghe trong ngôi nhà tranh vang vọng tiếng hát thanh tao như tiếng sơn ca.

    Buồn không lặng ngắt như tờ

    Buồn theo nỗi nhớ buồn chờ đợi ai

    Rì rào gió gọi đêm đen

    Pha màu lành lạnh ánh trăng gợn buồn

    Ba thu nhóm lại một ngày

    Hoa trôi biền biệt biết là về đâu.

    Thanh Vân nghe câu hát nầy lòng bỗng xúc động vô cùng hỏi:

    Người hát kia là ai mà đượm vẻ u buồn như vậy?

    Chàng thanh niên nói:

    Đó là vợ tôi, mời nhị vị vào nhà nghĩ lại đây sáng mai lên đường cũng không muộn.

    Bà Liễu Huệ thấy từ trong nhà dưới ánh đèn leo lét một bóng người thon nhỏ từ trong nhà bước ra với giọng ngọt ngào:

    Sao anh về tối dữ vậy, làm em lo lắng không yên.

    Tuy dưới ánh đèn lờ mờ nhưng Bà Liễu Huệ cũng nhận ra người phụ nữ nầy rất xinh đẹp, người phụ nữ nói:

    Đưa đây em vác cho.

    Chàng thanh niên nói:

    Nặng lắm em vác không nổi đâu.

    Chàng thanh niên giới thiệu với Mẹ Con Thanh Vân đây là nhà tôi, người phụ nữ cúi đầu thi lễ, chàng thanh niên lên tiếng:

    Kiều My em vào nhà bắt con gà làm thịt đãi khách đi.

    Kiều My vâng dạ rồi đi ngay. Thanh Vân từ khi nghe giọng hát sao quen quá không biết là mình gặp ở đâu, đến khi nghe chàng thanh niên gọi là Kiều My thì càng thêm giật mình. Thanh Vân nghĩ Kiều My của mình bị nước cuốn trôi sao lại ở nơi xa xôi hẻo lánh nầy được. Vì nghĩ như thế Thanh Vân không để tâm chú ý nữa, mà nghĩ đôi cặp vợ chồng nầy tuy nghèo mà sống thật hạnh phúc.
     
  19. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Cái nợ con con vợ chồng chồng

    Lo Tây chưa dứt lại lo Đông

    Xiềng xích lại rồi đâu dễ dứt

    Nghĩa chồng tình vợ đợi chờ trông.

    Thanh Vân từ khi bước vào nhà, quan sát một vòng tuy cuộc sống đơn giản, nhưng đâu vào đấy ngăn nắp gọn gàng nhất là sạch sẽ, nhìn qua cũng biết là có người phụ nữ giỏi giang đảm đang mọi việc gia đình.

    Bỗng có tiếng trẻ con kêu:

    Mẹ nhà mình có khách.

    Em bé xuất hiện tuy dưới ánh đèn không mấy sáng nhưng Bà Liễu Huệ cũng nhận ra vẻ khôi ngô tuấn tú của cậu bé, không nói là giống cha như đúc. Người thanh niên chắc có lẽ bận lo nấu cùng vợ nên không lên tiếp khách sự cộng kham cùng khổ nầy cũng đã nói lên vượt qua tập quán cổ hủ vợ lo tất chồng ngồi xơi nước, có lẽ đồ ăn thức uống đã nấu xong hai vợ chồng trẻ tốt bụng, bưng lên thật nhiều món, những món mà Thanh Vân vẫn thường ăn khi còn ở Thịnh Gia Trang. Thanh Vân nhìn những món ăn không khỏi nhớ nhà.

    Người thanh niên thấy Thanh Vân ngơ ngẩn nhìn những món ăn thì hơi đắc ý nói rằng:

    Hôm nay đủ gia vị, nhà tôi nấu lên mấy món phải nói là không kém gì những gia đình giàu có, chính tôi cũng không ngờ vợ tôi có cái tài như vậy.

    Bà Liễu Huệ không ngờ nơi đây lại có người nấu ăn tài giỏi như vậy, thậm chí Bà cũng chưa bao giờ thưởng thức những món nầy bao giờ. Người thanh niên lễ phép:

    Mời hai vị dùng bữa.

    Thanh Vân nếm qua mấy món thì kinh ngạc đến ngơ ngác không tin ở tai mắt của mình, Bà Liễu Huệ thấy món nào cũng ngon vừa miệng vô cùng, còn ngon hơn những quán mà Bà đã đi qua.

    Bà không khỏi thốt lên:

    Ngon quá.

    Chàng thanh niên nói:

    Tuy gặp gỡ nhị vị cũng lâu nhưng tôi chưa giới thiệu tôi tên Thạch An. Còn vợ tôi Kiều My tôi đã giới thiệu khi nảy.

    Thanh Vân nhìn Kiều My sửng sốt như muốn rớt cả đũa lẫn chén la lên:

    Em Kiều My đây mà, em còn sống sao cảm ơn Cha Trời Địa Mẫu.

    Thanh Vân liền nắm lấy tay Kiều My. Kiều My giật tay ra nói:

    Người lầm rồi tôi không quen biết mấy người.

    Thạch An lẫn Bà Liễu Huệ không sao hiểu được cử chỉ Thanh Vân kỳ lạ như vậy không nói là vô lễ với vợ người ta, nhất là Thạch An. Thạch An ngơ ngác nhìn vợ mình với chàng thanh niên xa lạ, không lẽ họ đã quen nhau từ trước.

    Thanh Vân thấy ai cũng nhìn mình khó hiểu, thì chợt hiểu ra nói:

    Phải rồi. Chị đã hóa trang nên em nhìn không ra. Chị là Thanh Vân đây mà.

    Thạch An nghe hai chữ Thanh Vân thì giật cả mình, cả Kiều My cũng vậy. Thanh Vân nói:

    Múc nước cho chị để chị tẩy xóa hóa trang em sẽ nhận ra ngay.

    Nói về Kiều My nghe tiếng nói của người thanh niên giống tiếng nói cô chủ tiểu thơ Thanh Vân, nhưng Thanh Vân vô cùng xinh đẹp, phải nói là đẹp như Tiên. Còn trước mặt mình là một thanh niên xa lạ chưa hề quen biết, thấy chàng thanh niên nắm lấy tay mình Kiều My bất mãn ra mặt, nhưng vì nể họ là khách quen của chồng nên Kiều My cho qua. Chừng nghe chàng thanh niên nói, chị là Thanh Vân đây thì Kiều My giật mình sửng sốt. Kiều My nữa tin nữa ngờ chạy ra múc nước đem vào. Thanh Vân rửa xóa hết hóa trang tóc xõa xuống tức thời hiện ra bộ mặt đẹp như Tiên giáng trần. Thạch An sững sờ một hồi lâu mới trấn tỉnh tinh thần trở lại Thạch An nghĩ thế gian có người đẹp đến như thế sao.

    Kiều My ôm chầm Thanh Vân khóc nức nở:

    Cô chủ đây mà, cô chủ vẫn còn sống. Em cứ tưởng cô chủ đã chết rồi, nên em không muốn trở về Thịnh Gia Trang nữa.

    Thạch An nghe hai tiếng Thịnh Gia Trang thì không khỏi kinh hãi, thì ra Thanh Vân là cô chủ của Thịnh Gia Trang. Hai chị em gặp nhau mừng mừng tủi tủi nói chuyện một hồi.

    Thanh Vân chợt như nhớ ra điều gì nói:

    Chị giới thiệu cho em một người.

    Thanh Vân nhìn Bà Liễu Huệ nói:

    Đây là Mẹ chồng của chị.

    Kiều My cúi đầu chào, con chào bác gái, đến lúc nầy Bà Liễu Huệ mới thốt lên:

    Thì ra tất cả đều là người nhà.

    Bà cũng xóa đi hóa trang, hiện ra một người phụ nữ đứng tuổi xinh đẹp vô cùng. Thạch An lại phải giật mình lần nữa ta có hoa mắt chăng, trước mắt ta là ba người phụ nữ tuyệt sắc.

    Thạch An ngơ ngác câu chuyện xảy ra quá đột ngột chưa biết phải làm gì thì Kiều My chạy đến nắm tay nói:

    Mau chào cô chủ, chào bác gái đi.

    Thạch An như cái máy chỉ biết làm theo lời chỉ bảo của Kiều My. Bà Liễu Huệ đến lúc nầy mới hỏi:

    Hai con là người học rộng hiểu nhiều, nhất là Thạch An võ công cái thế sao lại ở chốn hoang vu như thế nầy?

    Thạch An nói:

    Không dấu gì cô chủ cùng Bác gái, thưa bác gái Vãn Bối quê ở Phúc Châu nhưng không phải ở Thuận Yến Giang, mà ở Điền Hạ cách Thuận Yến Giang khá xa, gia đình Vãn Bối cũng có qua lại buôn bán với Thịnh Gia Trang, Cha Vãn Bối cứ hối thúc Vãn Bối đến cầu hôn với cô chủ, nhưng Vãn Bối lúc ấy tính tình kiêu ngạo không coi ai ra gì nên không đến Thịnh Gia Trang cầu hôn.

    Kiều My cắt ngang lời nói của Thạch An, Kiều My nhìn Thanh Vân rồi nói:

    Nếu lúc đó anh có tới Thịnh Gia trang cũng không thể nào lọt vào mắt xanh cô chủ được đâu. Vì cô chủ là người nổi tiếng kén chọn anh kiêu ngạo như thế khó mà được lòng cô chủ.

    Nghe Kiều My nói nửa đùa nửa thật như thế không ai là không khỏi phì cười, Thạch An kể tiếp:

    Có một hôm Vãn Bối gặp một công tử dẫn theo nhiều thuộc hạ, nhất là gã công tử ỷ mình là con nhà quan bắt ép người con gái phải ăn ngủ với hắn, người con gái khóc thảm thiết xin tha mạng, thấy chuyện bất bình Vãn Bối chạy đến can, tên cậu ấm công tử không nghe còn cho thuộc hạ đánh Vãn Bối tới tấp, Vãn Bối nhịn không được nữa liền đánh cho tên công tử đó một trận nên thân. Không ngờ Vãn Bối đánh mạnh tay quá làm cho cậu ấm công tử đó sụp mũi gãy mất một cái tay một cái chân mặt mày chảy máu lênh láng. Chừng nghe nói cậu ấm đó là con Tri Huyện Thuận Yến Giang quyền thế rất lớn, thế là Vãn Bối kinh hồn bạt vía bỏ nhà trốn luôn không dám về nhà nữa, không biết cậu ấm Quan Huyện sống chết ra sao chưa rõ. Vãn Bối bỏ trốn một thời gian định trở về nhà xem xét tình hình, thì xảy một trận lụt đại hồng thủy lớn chưa từng thấy bao giờ. Vô tình Vãn Bối thấy một xác chết trôi, Vãn Bối vớt lên thời thấy tim còn đập. Vãn Bối có thông hiểu về dược liệu, cũng như thông hiểu chữa trị bấm huyệt, nên Vãn Bối cứu được người con gái chết trôi. Vãn Bối thấy cô gái chết đuối quá xinh đẹp, nên đã yêu ngay từ lúc cô chưa tỉnh dậy, khi cô gái tỉnh dậy cô vô cùng yếu đuối không thể tự mình đi đứng được, Vãn Bối hỏi gì cô gái chỉ lắc đầu không nói, trong tình thế về nhà không được ở lại đây cũng không xong, mưa bão dữ dội. Vãn bối đành đưa cô đến một khách trọ cố gắng chữa trị nhưng cô vẫn còn yếu lắm, phần thời sợ quan tri huyện Thuận Yến Giang nhờ quan tri Phủ Phúc Châu truy bắt nên Vãn Bối mới thuê xe đưa cô gái đến tận nơi đây, dựng lều sanh sống. Nơi đây hoang vu ít người lui tới, may ra sống được an toàn. Khi cô gái hồi phục khỏe mạnh cô thường ra bờ sông ngồi khóc miệng kêu cô chủ cô chủ. Cô chủ chết rồi tôi còn trở về nhà làm gì nữa, Vãn Bối hỏi cô chủ tên gì? Cô gái trả lời cô chủ tên là Thanh Vân, còn tôi tên là Kiều My, cô chỉ nói thế không nói gì thêm nữa. Thế là từ đó Vãn Bối cùng Kiều My yêu nhau nên nghĩa vợ chồng, một năm sau sạnh hạ một thằng con trai. Hai vợ chồng Vãn Bối sanh sống trên khúc sông nầy, làm ăn cũng được không đến nổi đói, lâu lâu có khách qua sông nên cũng có bạc để mua sắm. Thạch An thở dài mới đó mà đã hơn hai năm gần ba năm. Nghe đâu gia đình Vãn Bối bán hết tài sản bồi thường mới khỏi bị vào tù. Vãn Bối cũng muốn trở về nhưng sự việc đã trở nên thế nầy hơn nữa gia đình đã dời đi nơi khác không biết lưu lạc nơi đâu. Lúc đầu chúng em ở đây nghĩ là an toàn nào ngờ không phải như vậy, vì sợ bọn cướp.

    Thanh Vân nói:

    Người giỏi võ công như Thạch Hiền đệ đây thì bọn cướp nào dám vuốt râu hùm.

    Thạch An nói:

    Cao nhơn tất hữu cao nhơn trị, núi nầy cao còn có núi khác cao hơn, ngoài trời nầy còn có trời khác, nếu không nhờ Chí Ca cứu mạng thì vợ chồng Vãn Bối đã chết hơn sáu tháng nay rồi.

    Bà Liễu Huệ nói:

    Bọn nào mà tài năng đến như thế?

    Kiều My nói:

    Ác quỉ Phong Đao. Một tay cướp khét tiếng quân binh Quan Phủ cũng không làm gì nổi chúng, thế mà Chí Ca chỉ đánh có mây chiêu tên Ác Phong khét tiếng rồi đời.

    Nói về Thanh Vân nghe Thạch An, Kiều My khen ngợi Chí Ca mãi thầm nghĩ: Không lẽ là Chí Trung?

    Bằng hỏi Kiều My:

    Chí Ca người như thế nào mà tài ba như vậy?

    Thạch An trả lời thay:

    Chí Ca tên thật là Chí Trung.

    Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân nghe hai tiếng Chí Trung thời biến sắc, Thạch An không để ý sự biến sắc ấy kể tiếp:

    Chí Trung là con của Chí Đại Nhân, danh tiếng lừng lẫy, học cao hiểu rộng võ công cái thế, Vãn Bối chỉ là con đom đóm so với ngọn đuốc lớn Chí Ca mà thôi.

    Đến lúc nầy Thanh Vân mới nói:

    Chí Ca chính là anh Chí Trung nhà mình rồi.

    Bà Liễu Huệ gật đầu. Thạch An, Kiều My sửng sốt kêu lên:

    Bác gái là…

    Bà Liễu Huệ chậm rãi nói:

    Chí Trung là con của Bác.

    Thạch An cũng như Kiều My bước tới quỳ trước mặt bà Liễu Huệ thưa:

    Chúng con có mắt như mù không biết Bá Mẫu, xin Bá Mẫu tha thứ cho.

    Bà Liễu Huệ nói:

    Hai con đừng đa lễ như thế đứng dậy đi.

    Thạch An nói:

    Cách đây hơn ba tháng, có mấy vị khách qua đây có kể về Chí Ca.

    Thanh Vân hỏi dồn hỏi dập:

    Họ nói những gì?

    Thạch An vờ như không để ý chậm rãi kể:

    Họ kể rằng Chí Ca đến Kinh Đô nhận ấn chỉ đi diệt Mãng Xà Tinh, nghe nói Chí Ca đánh nhau với Xà Tinh cả ngày cuối cùng Xà Tinh cũng bị Chí Ca giết chết xác Xà Tinh nát bấy.

    Thanh Vân nóng ruột hỏi:

    Rồi sao nữa?

    Thạch An cứ chậm rãi kể:

    Nhưng sau đó không ai thấy Chí Ca đâu nữa.

    Bà Liễu Huệ nghe xong thì xỉu luôn, Thanh Vân nghe xong cũng muốn xỉu luôn, làm cho ai nấy đều kinh hãi. Khi Bà Liễu Huệ tỉnh dậy hỏi:

    Tin nầy do ai nói lại.

    Thạch An nói:

    Thưa Bá Mẫu, những người khách đi đường nói.

    Thanh Vân nói:

    Lời đồn nầy có đáng tin không?

    Thạch An nói:

    Tin nầy do Thất Hiệp nói ra.

    Thanh Vân hỏi:

    Thất Hiệp là người thế nào?

    Thạch An nói:

    Thưa Tỷ Tỷ, Thất Hiệp là bảy đại hiệp uy danh lừng lẫy nói ra những gì thì khó mà sai.

    Kiều My thấy Bá Mẫu cũng như Tỷ Tỷ lo sợ như vậy liền nói:

    Khi nhỏ con có đọc qua tướng số, nên biết rõ Chí Ca sống thọ rất lâu không thể chết yểu được, điều nầy con chắc chắn như vậy.

    Nói về Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân ở lại nhà Thạch An mấy ngày lấy lại sức. Bà Liễu Huệ mỗi lần nhìn Thạch An thời nhớ đến Chí Trung vô cùng, không biết bây giờ sống chết ra sao.

    Đây nói về Chí Trung một mình ở trên hang động luyện tập võ thuật, pháp thuật, thần công không ngừng nghỉ. Một hôm Chí Trung đang luyện thần công pháp thuật trong động nghe tiếng động lạ bên ngoài, liền phi thân ra thời thấy có một con Quỉ đứng trước cửa động. Con Quỉ thấy Chí Trung lao ra liền tấn công ngay. Chí Trung nhanh chóng né tránh. Con Quỉ võ nghệ cao cường thân pháp biến hiện không sao lường nổi, trận chiến càng lúc càng khốc liệt. Nói về Chí Trung đã dở hết chiêu pháp trong dòng họ Chí mà cũng không hạ được con Quỉ. Chí Trung khó mà nhìn rõ được con Quỉ chỉ thấy mình đầy lông lá hai con mắt đỏ lồm. Với đôi bàn tay lúc dài lúc ngắn, lúc lớn lúc nhỏ chụp vào Chí Trung nhanh như tia chớp, kình lực từ đôi bàn tay con Quỉ tuôn ra ầm ầm làm lở núi sụp đồi. Chí Trung với bộ pháp ảo ảnh, thân pháp biến hóa ẩn hiện như ma quỉ, với 108 chiêu tuyệt học bí truyền của Dòng Họ Chí chưởng phong ầm ầm chỉ phong véo véo bị con quỉ hóa giải tất cả. Chí Trung càng đánh càng kinh hãi, không ngờ con Quỉ võ công cái thế khó mà hạ gục nó được. Chí Trung bằng rút Bảo Kiếm gia truyền ra hào quang chóa cả mắt. Chí Trung hét lên một tiếng dùng Lăng Không Bộ Pháp bay lên không thi triển chiêu Thiên Kiếm Tuyệt Ma là chiêu tối cao trong tuyệt học bí truyền của Dòng Họ Chí. Đúng là khủng khiếp kiếm ảnh đầy trời, kiếm quang rợp đất từ trên không trung một trận mưa kiếm phủ xuống, chỉ nghe con Quỉ hú lên một tiếng tàng hình biến đi đâu mất kiếm phong chém xuống núi tuyết, tuyết đổ ầm ầm bay lên tứ tung mù mịt ai nhìn thấy cũng phải khiếp vía. Chí Trung bay lượn trên không một vòng không thấy con Quỉ đâu cả, bỗng con Quỉ xuất hiện đánh Chí Trung một chưởng, Chí trung phất tay chưởng phong tuôn ra chống đỡ ầm ầm đinh tai nhức óc. Chí Trung như muốn thổ huyết trước nội lực thần công của đối thủ. Con Quỉ không bị kiếm chém trúng, nó trở nên hung dữ bàn tay Ma Quỉ như tia chớp dài ra chụp tới, liên miên bất tận Chí Trung kinh hoảng vận Tiên Thiên Thần Công chống trả ầm ầm đùng đùng long trời lở đất. Chí Trung thấy như máu huyết trong người như đảo lộn vô cùng kinh hãi, không còn cách nào khác hơn Chí Trung sử dụng tuyệt học 18 chiêu bí pháp Tiên Thiên Thần Công, bàn tay Chí Trung phất lên xòe ra nắm lại kết hợp với bộ pháp ảo ảnh tấn công con Quỉ nhanh như chớp. Chỉ nghe chỉ phong chưởng phong réo lên đinh tai nhức óc núi non như muốn sụp đổ, con Quỉ không chút gì sợ hãi ra tay chống đỡ ầm ầm đùng đùng liên miên bất tận. Chí Trung thi triển hết 18 chiêu tiên thiên chỉ pháp thần công cũng không hạ được con Quỉ thì hoang mang kinh sợ vô cùng. Chí Trung tay phải thi triển 36 chiêu Tiên Thiên Kiếm Pháp, tay trái sử dụng Tiên Thiên Chỉ Pháp thần công sấm nổ ầm trời chỉ phong gào thét như thiên la địa võng đánh xuống con Quỉ, con Quỉ tránh không được trúng liền một kiếm một chỉ chết tốt, Chí Trung lao tới xem thử thì ra chỉ là một miếng da thú, họa tiết mấy câu nói con khá lắm tu luyện đến tầng thứ năm của Tiên Thiên chỉ phong kiếm Tiên Thần Công không bao lâu nữa con sẽ đạt đến tầng thứ chín, Chí Trung đọc xong kinh hãi thì ra là Tổ Tổ thử tài mình, từ đó Chí Trung càng khổ luyện hơn nữa, có đôi lúc Chí Trung cũng nhớ đến Mẹ, nhớ đến Thanh Vân.

    Đây nói về Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân thấy sức khỏe đã hồi phục, Thanh Vân liền đề nghị với vợ chồng Thạch An, hai em theo chị về Thịnh Gia Trang trước là bảo vệ chị cùng Mẹ chị trên đường đi, hơn nữa ở đây vô cùng nguy hiểm lại chẳng có tương lai gì cho hai em cũng cháu Hào.

    Thạch An còn do dự, Bà liễu Huệ nói:

    Bá Mẫu cũng bỏ quê hương mà đến nơi ở mới, tìm cuộc sống mới.

    Kiều My nói:

    Phải đấy anh, chúng ta không thể ở đây mãi còn con chúng ta thì sao? Bá Mẫu, Thanh Vân Tỷ Tỷ phận gái yếu đuối đi đường xa sao tiện gặp nguy hiểm thì sao? Thuận Yến Giang cũng không xa Kinh Đô Xích Quỷ là mấy, chúng ta dễ tìm Chí Ca hơn.

    Thạch An như nhận thức được: Ở đây nào có tương lai gì chôn vùi cuộc đời Thạch Hào, hơn nữa tội án của mình cũng đã giải quyết xong rồi.

    Thế là vợ chồng Thạch An quyết rời xa nơi đây theo Thanh Vân trở về Thịnh Gia Trang.

    Trời xanh thăm thẳm cao vời

    Bình minh trỗi dậy chân trời hồng tươi

    Lanh quanh đường vắng xa xôi

    Bốn phương mây trắng nổi trôi một màu

    Lấy câu Nhân Nghĩa làm đầu

    Văn ôn võ luyện có ngày vinh quy.

    Thạch An bồng Thạch Hào nhìn lại ngôi nhà tranh lần cuối bốn người dần mất hút sau những rặng cây đi hơn một giờ trước mắt là đồi rừng trùng điệp.

    Thạch An nói:

    Qua khỏi khu đồi rừng nầy cũng phải mất hơn nửa ngày đồi rừng bạt ngàn cây cối rậm rạp không có bọn cướp nhưng lại nhiều thú dữ nhất là sư tử, cọp, beo. Đi qua khu rừng nầy thường là phải đông người, thú dữ mới không làm hại đi buổi sáng không nên đi buổi chiều, vì đi buổi chiều rất nguy hiểm.

    Nghe Thạch An nói Bà Liễu Huệ, Thanh Vân, Kiều My thấy rờn rợn cả người. Bốn người đi sâu vào đường rừng hơn mười dặm thì nghe hai bên đường rừng như có tiếng động đi theo.

    Thạch An nghi ngờ nói:

    Hãy đi sát lại gần nhau.

    Bốn người tinh thần căng thẳng luôn hồi hộp từng phút từng dây, đi thêm một đoạn đường nữa thì nghe tiếng hổ gầm dữ dội không phải một con mà nhiều con. Ba Liễu Huệ kinh hồn, Kiều My khiếp vía, Thanh Vân sợ hãi, cả ba người phụ nữ nghe tiếng hổ gầm thì sợ điếng cả hồn. Thạch An lấy Lại bình tỉnh đề cao cảnh giác tối đa nhìn khúc quanh trước mặt cây phủ rậm rạp. Thạch An bỗng thấy một sự im lặng đáng sợ, đàn hổ dữ không lẽ đang rình nơi đó.

    Thạch An rút kiếm ra đi xà lui, trong giây phút vô cùng căng thẳng. Bỗng nghe một tiếng quát:

    Chết nầy.

    Tức thời nghe tiếng hổ dữ gào lên khiếp sợ tiếp theo sau đó là một bóng người xuất hiện trên tay xách một con hổ lớn ước lượng nặng gần hai tạ, bị trường thương đâm trúng ngay cổ họng. Người ấy nói:

    Không có gì đáng sợ nữa đâu. Chúng bỏ chạy hết rồi, con hổ nầy định rình bắt các vị, tôi liền phóng cây thương trúng ngay cổ họng chết tốt. Có lẽ đàn hổ nầy theo chân các vị từ lâu chưa có cơ hội cho chúng bắt vì các vị đã đề phòng thủ thế và chúng quyết định bắt các vị ngay khúc quanh nầy.

    Ba người phụ nữ nghe hổ rình chụp bắt ăn thịt có thể nói là cái chết đã tới nơi thì sợ xanh cả mặt. Người tráng sĩ diệt cọp lại nói tiếp:

    Số phần các vị không bị Cọp ăn nên nó đã chết dưới cây trường thương của tôi.

    Thạch An đưa con cho Kiều My bước tới vòng tay thi lễ nói:

    Bốn chúng tôi thoát kiếp nạn là nhờ ơn sự cứu mạng của tráng sĩ, xin nhận chúng tôi một lạy.

    Tráng sĩ diệt cọp đỡ Thạch An dậy nói:

    Không nên làm thế, không nên làm thế.

    Bà Liễu Huệ nói:

    Không biết tráng sĩ tên họ là chi để ngày sau chúng tôi có dịp báo đáp.

    Vị tráng sĩ giết cọp trả lễ nói:

    Không có gì, không có gì giang hồ hiệp nghĩa gặp chuyện thì ra tay cứu giúp. Tại hạ tên là Phi Hổ.

    Phi Hổ thấy Thạch An khôi ngôi tuấn tú anh hoa phát tiết ra ngoài thời hơi kính nể. Đến lúc nầy Thanh Vân mới nhìn rõ vị hảo hán thịt bắp vai u nầy cũng khá bảnh trai nhưng không bằng Thạch An có lẽ còn nhỏ tuổi hơn Thạch An nữa là khác.

    Bà Liễu Huệ nói:

    Tráng sĩ tuổi còn trẻ mà tài cao như vậy thật là hiếm thấy.

    Phi Hổ nghe Bà Liễu Huệ khen thì không khỏi nổi lên sự tự hào nói:

    Vãn Bối sanh ra vốn có tài chạy nhanh gọi là Phi lại mạnh hơn người nên gọi là Hổ, nên cha Vãn Bối mới đặt tên cho Vãn Bối là Phi Hổ.

    Phi Hổ nói xong một tay xách con hổ bỏ lên vai nhẹ như cầm một con gà, ai nhìn thấy cũng phải khiếp đảm Phi Hổ đi trước mở đường bốn người đi theo sau đi đến trưa thì ra khỏi rừng xa xa là thôn quê có người ở.

    Phi Hổ nói:

    Vãn Bối chờ các vị ở thị trấn Đồng Xuân.

    Nói xong thời huýt sáo một cái vang dội núi rừng tức thời nghe tiếng ngựa, xa xa từ mé rừng một con ngựa bạch phi tới Phi Hổ vát con hổ nặng hơn trăm câm nhảy lên lưng ngựa nhẹ nhàng, nếu không tận mắt chứng kiến thì không thể tin được có người tài giỏi như vậy. Nhìn cảnh quê hương non xanh nước biếc, xa xa thưa thớt vài túp lều tranh, trời đất bao la để lại trong lòng người một cảm xúc thương yêu, xen lẫn một nỗi buồn khi nhìn những đám mây trôi lững lờ trên bầu trời mênh mang vô định.

    Lơ thơ làng xóm gió đìu hiu

    Thấp thoáng người đi nắng ốm chiều

    Mênh mông buồn tẻ trời hun hút

    Vời vợi chân trời nhóm cô liêu.

    Thanh Vân vừa đi, vừa thả hồn theo cuộc sống ở hai bên dọc đường, sao mà vắng vẻ sao mà cô liêu xa xa mới có một xóm làng nhưng thưa thớt, ít thấy bóng người qua lại, trời đã về chiều càng thêm cô liêu của vùng quê thôn dã. Nhóm bốn người của Thanh Vân như vội vã vì mặt trời cũng ốm buồn sắp đi xa trả lại bóng đêm cho trần thế. Sự vội vã im lặng cặm cụi bước đi của bốn người.

    Bỗng có người lên tiếng:

    Tỷ Tỷ trước mặt chúng ta nhà càng đông đúc người ta đi đi lại lại có vẻ bề bộn đông vui.

    Thanh Vân nói:

    Có lẽ chúng ta sắp đến thị trấn Đồng Xuân rồi.

    Thanh Vân liền nghĩ đến người Cha thân yêu cô đơn gần ba năm xa cách không cầm được gọi nước mắt. Đây nói về Thịnh Lão Gia, sau khi nghe tin Thanh Vân bị nước nhấn chìm thì bất tỉnh không biết gì nữa, sau khi tỉnh dậy, được biết là mình bất tỉnh năm ngày năm đêm rồi tuy ngoài trời không còn mưa bão, nhưng nước vẫn còn tràn ngập mênh mông. Chú Ba Chú Tư nhìn đại huynh anh cả mà lòng đau xót vô cùng, nhìn nỗi thương nỗi nhớ nỗi sầu thảm, thì biết anh cả đau khổ biết là nhường nào. Tâm trạng của Thịnh Lão Gia trở thành nỗi buồn mênh mang cùng khắp, Lão nhìn đâu cũng thấy buồn vì vắng bóng âm thanh, một thứ âm thanh ngọt ngào tiếng Cha mà 18 năm Lão thường nghe hằng ngày. Giờ đây Lão không còn nghe nữa. Cũng như vắng bóng một bóng Hồng vừa khôn ngoan vừa nhí nhảnh luôn đem lại niềm vui hằng ngày cho Lão an ủi Lão nên Lão thương yêu hơn cả sanh mạng của mình. Từ khi Thanh Vân ra đi một chuyến đi vĩnh viễn, ông càng nhớ Thanh Vân qua những gì Thanh Vân thường gắn bó hằng ngày. Ông đi qua đi lại nhìn căn phòng rộng lớn của Thanh Vân thấy lòng mình đau thắt tất cả những gì của nó vẫn còn đây, nhưng con bé đã bỏ lại tất cả, càng nghĩ đôi dòng lệ cứ chảy dài theo đôi má.

    Đi rồi trống vắng biết bao

    Căn phòng còn đó mà sao lạnh lùng

    Đêm ngày sầu mãi theo buồn

    Quạnh hiu, hiu quạnh ngậm ngùi cô liêu.
     
  20. ogashop

    ogashop Thành viên tích cực

    Tham gia:
    13/5/2012
    Bài viết:
    786
    Đã được thích:
    50
    Điểm thành tích:
    28
    Nhìn sự nghiệp giàu có, Thịnh Gia Trang rộng lớn, người buôn bán ra vào tấp nập, nhưng ông Thịnh vẫn thấy cô đơn vợ con ông đã bỏ ông ra đi, sự ra đi vĩnh viễn. Ông cho người tìm kiếm xác Thanh Vân ròng rã mấy tháng nhưng không tìm thấy, ông từng nghĩ Thanh Vân bị nước cuốn trôi ra biển cá nuốt rồi, nghĩ tới đó ông không khỏi đau lòng xót dạ. Từ khi Thanh Vân ra đi không bao giờ trở lại Thịnh Lão Gia không còn thiết tha, gắn bó gì đến việc làm giàu. Ông thường nghĩ giàu để mà làm gì, vàng bạc, trân châu, ngọc ngà những thứ ấy làm sao sánh được vợ con yêu quý của ông. Những thứ quý nhất của đời ông, đã bỏ ông mà đi còn vàng bạc ngọc ngà châu báu, là những thứ vô tri vô giác. Ông là người trọng nghĩa trọng tình, không giống như bao người tầm thường chưa mất vợ nầy đã kiếm vợ khác, con cái chỉ là sản phẩm của dục vọng, bỏ rơi bỏ rớt khắp nơi chỉ biết chạy theo sự ham muốn của mình thay lòng đổi dạ nhanh chóng. Sự cao quý nhất của con người chính là lòng Nhân, Hiếu, Chung Thủy. Ông không bao giờ đánh mất nó, vì đánh mất nó ông tự thấy hổ thẹn không còn xứng đáng là Con Rồng Cháu Tiên nữa, vì thế Nhân Hiếu, Chung Thủy mãi theo ông. Để quên đi nỗi buồn cô đơn, Ông sẽ tìm một nguồn vui khác, nguồn vui tu luyện khám phá chân lý, khám phá võ học, Đạo Học.

    Thịnh Lão Gia kêu hai người em tới nói:

    Kẻ từ hôm nay hai chú thay cho anh điều khiển sự buôn bán giao dịch khắp các tiêu cục, duy trì cuộc sống Dòng Họ Thịnh chúng Ta. Tài sản kiếm được trả công cho những người ăn kẻ ở còn lại cứ chia làm ba, mỗi người một phần. Kẻ có của người có công đều hưởng quyền lợi công bằng bình đẳng như nhau.

    Từ đó phần của Ông, Ông cấp phát cho người nghèo, cũng như xây đền miếu thờ phụng các Thần Linh, cầu mong cho vợ con siêu thoát về Trời. Danh tiếng của Ông nhờ đó bay xa khắp nơi khắp chốn chỉ cần nghe đến ba tiếng Thịnh Lão Gia là không ai là không kính mến nể phục. Có một hôm người ta nhìn thấy ba người khách rất lạ, trạc độ hơn ngũ tuần không phải những người buôn, cũng không phải những tiêu cục họ là những dị sĩ giang hồ.

    Người bận áo xanh vai mang kiếm nói:

    Đại ca ẩn danh dưới hình thức buôn bán phải nói là tuyệt vời, không ai nhìn ra chân tướng đại ca nữa.

    Người áo trắng nói:

    Nghe đồn đại ca giàu có nhất Phúc Châu quả không sai.

    Người áo đỏ nói:

    Nếu năm anh em chúng ta không bại dưới tay Chí Công, thì Ngũ Tuyệt chúng ta đâu đến nổi mai danh ẩn tích, suốt hơn 30 năm nghiên cứu võ công để có ngày trả lại nhục bại dưới tay Lão. Nhưng nghe nói Lão đã chết, con Lão cũng chết, chỉ còn lại đứa cháu là Chí Trung. Nhưng nghe nói cũng đã chết sau trận giao tranh với Mãng Xà. Thật tiếc quá uổng công hơn ba mươi năm tu luyện của bốn anh em ta.

    Người bận áo xanh nói:

    Thắng bại là sự thường nhục cái gì. Nếu Chí Trung không bị Mãng Xà hai chết thì chúng ta không thể đấu với hàng hậu bối như thế được, mà phải tìm một người đệ tử chân truyền đấu với Chí Trung như thế mới là công bằng.

    Người áo xanh lại nói:

    Đại Ca vì thua trận đó, nên sanh tâm chán nản chia tay với anh em chúng ta có vợ sanh con, có lẽ Đại Ca hạnh phúc lắm.

    Ba người vừa đi vừa nói đi vào Thịnh Gia Trang. Thì ra ba người nầy không phải là ai khác trong Ngũ Tuyệt Thần Quân, võ công cái thế, nổi danh như sấm không hiểu vì sao lại vắng bóng giang hồ hơn ba mươi năm. Nói về Chú Ba, Chú Tư là đệ đệ của Thịnh Lão Gia từ ngày tiếp nhận sự phó thác của anh cả, buôn bán giao dịch mỗi ngày một thêm hưng thịnh phát đạt, thuận buồm xuôi gió làm nên ăn ra không thua kém gì Thịnh Lão Gia.

    Một hôm đang tính toán sự xuất nhập, lời lãi thì có người vào báo:

    Có ba người khách lạ tuổi độ hơn năm mươi đòi gặp Thịnh Lão Gia.

    Chú Ba, Chú Tư cho người mời vào đến khi nhìn thấy ba người khách lạ, người nào người nấy trông có vẻ khác thường, nhất là chân đi không hề nghe tiếng động, thì đã nhìn ra là ba đại cao thủ võ lâm, nên không dám xem thường, mời ngồi rồi chắp tay lễ phép nói:

    Chẳng hay ba vị tìm Đại Huynh tôi có chuyện gì?

    Người áo xanh nói:

    Ba chúng tôi là bạn thân thiết nhất của Thịnh Lão Gia, cứ thông báo như thế là được.

    Chú Ba, Chú Tư không hỏi gì thêm, chỉ nói:

    Ba vị ngồi đây chờ đợi, tôi thông qua ý kiến Đại Huynh tôi, nếu Huynh tôi cho phép thì tôi sẽ mời các vị đến gặp.

    Người áo đỏ nói:

    Đại Ca thường là tính tình hào phóng dễ dãi, rắc rối bao giờ thế.

    Thịnh Gia Trang không những giàu có bề thế về giao dịch trung gian xuất nhập buôn bán, mà con bề thế về nhà cao cửa rộng, nguy nga tráng lệ. Thịnh Gia Trang không những thể hiện sự uy quyền, giàu có mà Gia Trang còn rộng lớn vô cùng, nổi tiếng Thịnh Gia Trang là khu vườn mai và hồ sen. Thịnh Lão Gia từ ngày giao lại quyền giao dịch buôn bán kinh doanh lại cho hai người em Chú Ba, Chú Tư, thì thường ở ngôi nhà nghỉ giữa hồ sen rộng lớn hơn 20 mẫu phải có thuyền mới đến ngôi nhà ấy được. Hơn hai năm người trong Gia Trang ít khi gặp được Thịnh Lão Gia, họ nghĩ Thịnh Lão Gia quá buồn nên không muốn gặp ai nữa. Thanh Vân vốn ưa thanh tịnh nên thường đến ngôi nhà giữa hồ trầm tư suy nghĩ, ngắm sen thổi sáo đánh đàn, cũng như nhìn khu rừng mai khi xuân về, nhìn hồ sen khi hạ đến. Từ ngày Thanh Vân bị nước cuốn trôi, thời Thịnh Lão Gia cấm không cho ai đến khu rừng mai, hồ sen nữa. Những người trong gia trang muốn đến khu vườn mai hồ sen, phải được sự cho phép của Thịnh Lão Gia. Hơn một năm qua không ai hiểu Thịnh Lão Gia làm gì, có một lần Chú Ba, Chú Tư phi thân xuống hồ sen dẫm lên những cây cọc cách xa nhau hàng chục mét vượt qua hồ sen đến ngôi nhà.

    Từ trong ngôi nhà giữa hồ sen Thịnh Lão Gia nói:

    Chú Ba, Chú Tư cứ mỗi lần đến đây, là mỗi lần tiến bộ về kinh công, với thân pháp nầy thì giang hồ cũng ít người sánh kịp.

    Sau lần gặp đó ít thấy Chú Ba Chú Tư đến đây nữa. Nắng đã xế trời đã chiều, trong không gian im lắng tĩnh mịch bỗng nơi vườn Mai hai bóng người xuất hiện, thân Pháp lướt nhanh như tên bắn, ai thế ai mà kinh công cao như vậy. Thoáng cái hai người đã đứng trên bờ hồ sen:

    Anh cả hai em có chuyện cần báo.

    Thì ra hai người ấy không ai khác hơn chính là Chú Ba, Chú Tư từ nơi ngôi nhà giữa hồ sen. Thịnh Lão Gia nói vọng ra:

    Hai em hãy ra đây ta cũng cần có chuyện muốn nói.

    Chú Ba, Chú Tư nghĩ: Không lẽ anh cả đã biết chuyện bốn ông khách lạ. Với thân pháp vô cùng kỳ ảo Chú Ba, Chú tư phi thân trên những lá sen, không phải phi thân trên những cây cọc như trước đây, mà là phi thân trên những lá sen đến ngôi nhà giữa hồ, nếu ai nhìn thấy thời không khỏi kinh hãi, với thân pháp nầy thời phải nói đã luyện kinh công tới cảnh giới thượng thượng. Đến lúc nầy người ta mới khám phá ra bí mật, ba anh em nhà Họ Thịnh không phải là nhà kinh doanh thương buôn bình thường mà là ba đại cao thủ võ công tuyệt thế.

    Từ trong ngôi nhà giữa hồ sen, Thịnh Lão Gia khen:

    Kinh công của hai em đã đạt đến cảnh giới thượng thừa, điều đó chứng tỏ là hai chú vẫn thường xuyên luyện tập võ công.

    Chú Ba, Chú Tư nói:

    Hai em so với anh cả thì còn kém xa.

    Chú Ba, Chú tư bước vào nhà nhìn thấy Thịnh Lão Gia có vẻ gầy đi nhưng hai con mắt như hiển lộ Thần quang thì kinh hãi:

    Anh đã luyện đến cảnh giới tam hoa tụ đỉnh, ngũ khí hợp nhất rồi sao?

    Chú Ba Chú Tư nói:

    Như vậy anh cả cũng luyện được ba chiêu cuối cùng của Vô Hư Kiếm Pháp rồi, hai em chúc mừng anh cả.

    Chú Ba Chú Tư chưa kịp nói có ba người khách lạ muốn tìm anh cả. Thời Thịnh Lão Gia phất tay một cái thanh kiếm đang treo trên tường liền bay xuống tay, Thịnh Lão Gia liền rút kiếm phóng thanh kiếm bay xuống hồ sen bay lượn mấy vòng rồi bay trở lại tay Thịnh Lão Gia. Thịnh Lão Gia cầm kiếm chém vào không gian một cái một khúc cây cách đó hơn mười thước bị xẻ làm đôi.

    Chú Ba Chú tư thấy thế thời không khỏi kinh hồn bạt vía la lên:

    Anh cả là đệ nhất võ lâm cao thủ rồi, trên đời nầy không còn ai là đối thủ nữa.

    Bỗng có người lên tiếng:

    Chưa chắc đâu.

    Sau lời nói ba người xuất hiện, phi thân lướt trên những lá sen nhẹ như lông hồng không làm rung động đến nước. Nhìn thấy thân thủ của ba vị khách như thế Chú Ba, Chú Tư không khỏi kính nể thầm phục: Với thân thủ nầy thì không kém gì anh cả Đại Huynh của mình.

    Thịnh Lão Gia vừa thấy ba người đó xuất hiện liền vui mừng reo lên nói:

    Ngọn gió nào đưa tam đại Thần Quân tới đây Nhất Tuyệt Thần Quân tôi tiếp đón chậm trễ thật là thất kính.

    Chú Ba, Chú Tư, nghe Đại Huynh anh cả nói liền giật mình thì ra Ngũ Tuyệt Thần Quân chấn động giang hồ hơn 30 năm về trước. Thịnh Lão Gia nói với Chú Ba Chú Tư:

    Hai đệ về cho người làm những món đặc sản hảo hạng bậc nhất Phúc Châu tiếp đãi ba vị anh em sau 30 năm xa cách mới gặp nhau.

    Chú Ba Chú Tư vâng dạ phi thân qua hồ sen mất dạng. Đây nói về Thanh Vân nhìn thấy thị trấn Đồng Xuân phải nói là thị trấn phồn thịnh nhất trong những thị trấn Thanh Vân đi qua, tuy không bằng đô phố Phúc Châu nhưng cũng kể là phồn thịnh. Người đi tấp nập nhà nhà san sát, nhưng cũng không mất đi vẻ mùa thu, lá vàng rơi rụng, những chiếc lá lìa cành trở về lòng đất mẹ, làm cho con người không khỏi bồi hồi xao xuyến nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn nơi mình sanh ra.

    Thu buồn lá cũng buồn theo

    Lá lìa lá rụng lá rơi lá sầu

    Lá nghe man mác ngậm ngùi

    Lá trôi theo gió cảnh đời mùa thu.

    Tiếng Kiều My kêu lên:

    Tỷ Tỷ, Hình như có người đến đón chúng ta kìa.

    Bà Liễu Huệ cũng thấy như vậy hình như là tráng sĩ diệt hổ. Phi Hổ dẫn theo một số người vừa nhìn thấy bốn người nói:

    Họ kia rồi.

    Phi Hổ đi nhanh đến lễ phép chào nói:

    Vãn Bối chờ các vị ở đây cũng lâu. Kiều My nói với Thạch An:

    Đưa con đây cho em.

    Thạch An nói:

    Hào lại Mẹ đi con.

    Phi Hổ như nuối tiếc nàng đã có chồng, Thanh Vân là người con gái thông minh, nhất là nhạy cảm, thấy Phi Hổ cứ nhìn Kiều My trên đoạn đường rừng, thì biết Phi Hổ đã bị tiếng sét ái tình Kiều My đánh trúng. Nhìn vẻ buồn chán trên mặt Phi Hổ, không được săn giòn như hồi mới gặp nhau.

    Thanh Vân nói:

    Cảm ơn lòng tốt tráng sĩ, chúng tôi không những được tráng sĩ cứu mạng, mà còn đón tiếp như thế nầy không biết nói thế nào chỉ biết cảm ơn.

    Phi Hổ là vị anh hùng, tuy thất vọng biết Kiều My không những có chồng mà còn có con, thì không thể nào tán tỉnh được nữa. Nhưng không vì đó mà lạnh nhạt liền tươi nét mặt trở lại tươi cười nói:

    Mời các vị ghé nhà Vãn Bối cho biết.

    Bốn người đi theo Phi Hổ đến một khu nhà sang trọng kẻ ra người vào tấp nập thuộc hàng bậc nhất nhì ở đây kẻ ăn người ở hơn mấy mươi người. Bà Liễu Huệ luôn khen những ngôi nhà đẹp, không hiểu vì khen để làm vừa lòng chủ nhân, hay vì khen hâm mộ sự giàu có.

    Bà nói:

    Không ngờ nhà tráng sĩ bề thế giàu có như thế nầy, mà còn đi săn quả là hiếm thấy.

    Phi Hổ nhìn Kiều My như nói rằng:

    Tiếc quá nếu em chưa có chồng thì em là chủ nhân của cơ sở giàu có nầy.

    Phi Hổ nhìn Bà Liễu Huệ nói:

    Cha Vãn Bối là một thương gia tiêu cục uy thế nhất thị trấn nầy.

    Thấy Phi Hổ ra vẻ tự hào sự giàu có Kiều My định nói so với Thịnh Gia Trang chỉ là con chuột so với con voi nhưng Kiều My là người luôn tôn trọng người khác nên không nói. Phi Hổ dẫn bốn người vào một ngôi nhà sang trọng, vật dụng trong nhà hoa văn cầu kỳ, nhất là bàn ghế toàn là gỗ quý hiếm, trông bóng loáng mát mắt vô cùng. Thạch An bỗng thở dài, nhớ lại gia đình mình so với gia đình Phi Hổ thì kẻ năm lạng người nửa cân không ai kém hơn ai nhưng chỉ cần một phút không kìm chế được lòng bức xúc bất bình thì tiêu tan hết thảy, bán hết tài sản nộp cho quan bồi thường thiệt hại, còn giữ lại mạng sống đó là may lắm rồi. Thanh Vân từ khi bước vào ngôi nhà nầy cô không để ý những gì sang trọng ở đây. Mà suy nghĩ tính toán làm sao cho mẹ khỏi khổ trên những bước đường còn lại. Câu chuyện khách chủ mới vừa hâm nóng thì đồ ăn thức uống cũng được bưng lên, toàn là cao lương mỹ vị. Thanh Vân như nhận ra một vấn đề sắc đẹp quả là ghê gớm, Phi Hổ đã phải lòng Kiều My nên chuẩn bị những cao lương mỹ vị cao giá đắt tiền mục đích là làm vừa lòng Kiều My, nhưng Kiều My đã có chồng thật là uổng công cho sự chu đáo nầy quá.

    Phi Hổ nhìn bốn người của Thạch An nói:

    Ôi cũng là nhân duyên cho nên trời xui khiến cho chúng ta gặp nhau trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Thạch Huynh thì tôi biết rồi nhưng còn hai vị nầy.

    Phi Hổ nhìn Bà Liễu Huệ cũng như Thanh Vân. Thanh Vân đã hóa trang làm cho xấu xí đi, nên Phi Hổ không nhìn ra được chân tướng, Thanh Vân nhậy bén tự giới thiệu:

    Thanh Vân là tên của tôi, còn đây là Mẹ của tôi, Kiều My em tôi, Thạch An là phu quân Kiều My.

    Phi Hổ nghĩ thật là trời không công bằng, cô em thì đẹp như hoa mùa xuân, còn cô chị tuy thân hình rất đẹp, tiếng nói trong như ngọc nhưng lại xấu xí tiếc quá, phải chi cô chị đẹp như cô em Phi Hổ lắc đầu không nghĩ nữa.

    Câu chuyện đang khách sáo vui vẻ thì có người nhà đến nói:

    Thiếu Gia, Lão Gia mời Thiếu Gia đến bàn chuyện.

    Phi Hổ chắp tay nói với bốn người:

    Đã đến đây thì coi như người nhà cứ tự nhiên mà dùng bữa, Vãn Bối vì có công chuyện nên phải đi.

    Bốn người không khách sáo gì nữa ăn một bữa ngon miệng, ăn xong bốn người như muốn tìm nơi an nghĩ. Thời có người tới nói:

    Xin các vị tới nhà nghĩ.

    Bốn người liền đi theo đi qua nhiều nhà chất hàng thì tới khu nhà nghỉ, khu nhà dành riêng cho những người giàu có buôn bán qua lại với Tô Gia, đến lúc nầy Thạch An mới biết Phi Hổ Họ Tô. Bà Liễu Huệ tuy là Bà quan huyện nhưng bà chưa ở ngôi nhà sang trọng như thế nầy bao giờ. Trước khu nhà nghỉ không xa là bãi đất rộng, người ta tập trung nơi đó cũng khá đông.

    Thạch An hỏi người nhà của Phi Hổ:

    Người ta tụ hội làm gì đông thế?

    Người nhà Phi Hổ nói:

    Tối nay có cuộc biểu diễn võ thuật, các vị rảnh thì ra đó xem, Phi Hổ Thiếu Gia nhà tôi cũng có biểu diễn một vài môn, người nào giành giải nhất được một con ngựa chiến. Nghe nói con ngựa giải thưởng lần nầy là con ngựa quý cả trăm lượng bạc với mười lạng bạc. Người nào giành giải nhì một con ngựa thường. Người nào giành giải ba mười lạng bạc.

    Nghe giải thưởng lớn như thế Thạch An cũng muốn tham gia, nhưng vì thân thế của mình còn gặp nhiều rắc rối nên bỏ qua. Thanh Vân nhìn về hướng Đông thấy có ngọn núi xa xa ánh trăng nhú lên Thanh Vân như thả hồn vào nỗi buồn sâu lắng trong lòng.

    Gương nga gác núi đầu non

    Nghe lòng nằng nặng nhớ thương người tình

    Qua bao trăng khuyết trăng tròn

    Cuộc đời trôi nổi, những là chia ly

    Ra đi người mãi ra đi

    Lòng xây thương nhớ lửa yêu chất chồng.

    Lửa lòng càng cháy càng nồng

    Quê nhà nỗi nhớ, chân trời đợi mong.

    Kiều My nhìn Thanh Vân nói:

    Thanh Vân Tỷ Tỷ chỉ còn hơn hai ngày đường nữa chúng ta sẽ về đến nhà.

    Thanh Vân đang nghĩ đến Cha, nhớ nhà nhớ đến Chí Trung lòng buồn rười rượi, bỗng nghe tiếng nói Kiều My.

    Thanh Vân nhìn lại, không thấy Thạch Hào liền hỏi:

    Thạch Hào đâu?

    Thạch An nói:

    Thạch Hào chơi với Bá Mẫu.

    Nhìn ánh trăng sáng tỏ đèn đuốc sáng trưng Thạch An vốn bản tánh tò mò nhất là về môn võ thuật, đề nghị nói:

    Tỷ Tỷ chúng ta ra ngoài kia xem biểu diễn võ thuật đi.

    Thế là ba người đi xem hội biển diễn võ nghệ, người ta đông đến lên hàng nghìn người, những tay võ sĩ từ các nơi đổ về, trong đó không thiếu gì những tay võ sĩ trong các tiêu cục vận chuyển hàng hóa. Ban giám khảo là các nhà quyền thế giàu có, đương nhiên không thể thiếu lão gia nhà Họ Tô.

    Phi Hổ thấy Thanh Vân, Thạch An, Kiều My liền chạy tới nói:

    Mời ba người vào hàng ghế danh dự.

    Thấy tấm lòng tốt của Phi Hổ Thanh Vân thở dài. Chiêng trống cuộc thi nổi lên cảnh quan đang rộn rịp ồn ào liền trở nên im lặng tất cả đều nhìn về khán đài để xem biểu diễn võ thuật, người ta cũng thấy có một con ngựa ô to lớn thuộc dòng ngựa hiếm ai nấy đều muốn làm chủ con ngựa nầy nhưng không đủ tài năng. Người đại diện tổ chức cuộc hội thi võ thuật không ai khác hơn là Cha của Phi Hổ. Cha Phi Hổ là một Lão gia trạc tuổi 50 phong độ oai phong giống quan tướng hơn là giống thương gia.

    Lão dõng dạc tuyên bố:

    Thị trấn Đồng Xuân chúng ta làm nên ăn ra một phần lớn là nhờ nghề giao dịch, trao đổi, buôn bán, vận chuyển, phục vụ đủ các loại hàng hóa, cung, cầu, khắp tứ xứ, đương nhiên võ thuật lại là một nghề không thể thiếu vì nó giữ vững được cơ nghiệp của chúng ta làm ăn của chúng ta. Vì thế ba năm chúng ta tổ chức một lần. Không phân biệt người trong thị trấn, người ngoài thị trấn, nói chung ai có tài thì thi. Không phân biệt nam nữ, già trẻ, để khích lệ tinh thần võ học. Đề thi lần nầy có khác hơn những lần trước vì thêm mấy môn cơ bản nữa. Những môn chính trước đây như biểu diễn sức mạnh, biểu diễn võ thuật, kiếm thuật, đao thuật, nói chung là thập bát môn võ nghệ, ai luyện binh khí nào thì biểu diễn loại binh khí đó. Nhưng kỳ thi lần khác hơn những lần trước là thêm mấy môn nữa, kinh công, nội công, chưởng pháp.

    Với đề thi cao như vậy nên không mấy người đủ tiêu chuẩn vượt qua vòng chung khảo, trở thành những người đi xem coi mà thôi, cả Thạch An cũng không đủ tiêu chuẩn, Thạch An đến lúc nầy mới thở dài nghĩ lại mình chẳng ra làm sao như ếch ngồi đáy giếng. Rốt cuộc chỉ có ba người lọt vào vòng chung khảo dự thi mà thôi trong đó có Phi Hổ.

    Đây nói về ba người lọt vào vòng chung kết. Người thứ nhất là một trung niên phó đoàn tiêu cục Tây Châu, người thứ hai là một Hảo Hán con của trường đoàn tiêu cục Hạ Châu. Hai tiêu cục nầy ít khi đến thị trấn Đồng Xuân giao dịch buôn bán, mỗi đoàn cũng mấy chục xe hàng, số người mỗi đoàn lên đến cả trăm, thế lực hùng mạnh, toàn là những cao thủ ít ai dám động đến. Để biểu diễn môn sức mạnh tổ chức hội thi cho người khiêng đến ba tảng đá, tảng đá thứ nhất nặng 100 cân tảng đá thứ hai nặng 200 cân tảng đá thứ ba nặng 300 cân. Buộc người thi bê tảng đá lên ném xa 10 mét mới lọt vào chung kết, không mấy ai vượt nổi trăm cân nên bị loại hầu như gần hết chỉ có ba người. Hồi chiêng trống nổi lên thi chung kết, hàng nghìn người đang hồi hộp chờ đợi sự thắng thua của ba người bước vào giai đoạn chung kết.

    Trên khán đài người điều khiển trận đấu dõng dạc đọc:

    Người thi trước nhất là phó tiêu cục Tây Châu.

    Trước con mắt của hàng nghìn người phó tiêu cục Tây Châu vai mang kiếm bước tới tảng đá nặng 300 cân, không phải là một trăm cân như lúc thi vòng loại, khán giả vô cùng hồi hộp phó tiêu cục Tây Châu làm thế nào bê nổi tảng đá nặng 300 cân, chỉ thấy phó tiêu cục Tây Châu dùng sức mạnh bê tảng đá lên khỏi đầu hét lên một tiếng hai tay ném tảng đá ra xa tảng đá lao đi rớt xuống một cái ầm vượt qua gạch 10 mét. Những người chứng kiến đều kinh hãi sau đó là những tiếng cổ vũ hoan hô dậy cả một góc trời sức mạnh thần kỳ hiếm thấy hiếm thấy.

    Người thứ hai là một Hảo Hán con của trưởng đoàn Hạ Châu.

    Vai mang đao chờ đợi sáu người khiêng tảng đá để trở về chỗ cũ, với tư thế chậm rãi Hảo Hán từ từ bước đến tảng đá, cúi xuống bê tảng đá đưa lên khỏi đầu hét lên một tiếng hai tay ném tảng đá ra xa tảng đá lao đi rớt xuống một cái ầm vượt qua gạch 10 mét rớt y chỗ cũ người ném trước lại hàng loạt tiếng hoan hô cổ vũ nổi lên kỳ phùng địch thủ khó mà phân biệt ai hơn ai.

    Ban giám khảo xem xét chấm điểm xong tức thời tảng đá được khiêng trả về chỗ cũ trên khán đài người điều khiển trận thi dõng dạc đọc:

    Người thi thứ ba Phi Hổ.

    Hàng ngàn người vỗ tay cổ vũ Thiếu Gia cố lên, cố lên. Phi Hổ từ ghế ngồi danh dự chậm rãi đi đến tảng đá hít vào một luồng chân khí khom xuống bê tảng đá lên khỏi đầu hét lên một tiếng dùng một tay ném tảng đá bay đi ầm một tiếng tất cả đều im lặng, không phải Phi Hổ thua mà vì thấy tảng đá vượt xa hơn hai người trước tới mấy thước, trong khi Phi Hổ chỉ dùng có một tay.

    Trên khán đài người điều khiển trận thi đấu hô lớn:

    Phi Hổ Thiếu Gia thắng áp đảo chỉ cần dùng một tay đẩy tảng đá bay đi xa hơn hai người trước.

    Tức thời tiếng vỗ tay hoan hô rền cả thị trấn: Hoan hô thiếu gia. Thiếu Gia Phi Hổ thần dũng vô biên Thạch An kinh khiếp Phi Hổ đúng là thần dũng thảo nào bắt hổ như bắt con mèo, hai người thi trước thấy sức mạnh Phi Hổ như vậy cũng phải lắc đầu le lưỡi.

    Hồi chiêng trống thứ hai thi biểu diễn binh khí, người điều khiển thi đấu dõng dạc đọc tên:

    Phó đoàn tiêu cục Tây Châu lên khán đài biểu diễn võ thuật binh khí.

    Phó đoàn tiêu cục Tây Châu không để đọc tên lần thứ hai liền nhảy lên khán đài, chắp tay chào khán giả rút kiếm nhanh như chớp thi thố 36 chiêu tuyệt học Thiên Sơn Kiếm Pháp, kết hợp với bộ pháp ngũ hành, kiếm phong véo véo thân người uyển chuyển như Rồng bay Phụng múa kiếm pháp càng về sau càng nhanh trông đẹp mắt vô cùng ai nấy như muốn nín thở theo dõi mở rộng tầm mắt kiếm pháp biến hóa ảo diệu chưa từng thấy nầy. Đến lúc nầy người trong tiêu cục Hạ Châu ném lên không trên khán đài mười quả cam. Phó đoàn tiêu cục Tây Châu hét lên một tiếng phi thân lên không chém mười quả cam, quả nào cũng đứt làm đôi trước khi mười quả cam rơi xuống đất, điều đáng nói ở đây quả nào cũng bị chém đứt làm đôi giống hệt nhau. Thạch An không khỏi mến mộ khâm phục kêu lên hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp. Tiếng hoan hô nổi dậy một góc trời, sự tán tụng không dứt Phó đoàn tiêu cục Tây Châu không khỏi tự đắc về tài năng kiếm pháp của mình.

    Để cho sự tán tụng lắng dịu, người điều khiển trận thi dõng dạc đọc tên:

    Người thi thứ hai Hảo Hán Hạ Châu.

    Hảo Hán thương đoàn Hạ Châu nghe đọc tên mình liền nhảy lên khán đài chắp tay chào giáp vòng khán giả nhanh chóng rút đao ra, biểu diễn 36 chiêu ma đao cộng với Âm Ma Bộ Pháp, chiêu đao biến hóa kỳ ảo vô cùng, bộ pháp tiến lùi vô cùng đẹp mắt, những chiêu ma đao loang loáng khắp cùng khán đài ai nấy như muốn nín thở bị đao pháp cuốn hút, theo chiêu pháp kỳ lạ của ma đao. Dưới khán đài thương đoàn Hạ Châu ném lên mười quả cam vào làn đao pháp đang tràn ngập khắp khán đài chỉ nghe tráng sĩ Hảo Hán hét lên một tiếng làn đao chớp chớp mười quả cam bị đao pháp chém đứt làm đôi hết thảy, tiếng hoan hô rền trời rền đất. Thạch An không thể ngồi được nữa liền chạy lên khán đài để xem kết quả, Thạch An vô cùng tiếc rẻ vì có một quả cam chém đứt không giống chín quả kia.

    Thạch An trở lại chỗ ngồi nói:

    Hảo Hán kia đã luyện đao pháp đạt đến cảnh giới như vậy quả là hiếm thấy, nhưng độ chính xác tuyệt đối không bằng kiếm thuật phó đoàn tiêu Cục Tây Châu.

    Sự bàn tán cao thấp vang dậy một góc trời, người điều khiển trận thi thấy sự bàn tán đã lắng dịu tức thì đọc tên người thi tiếp theo:

    Người thi tiếp theo là Tô Thiếu Gia Phi Hổ.

    Phi Hổ từ chỗ ngồi đứng dậy cầm thanh đao đi tới khán đài chậm rãi bước lên khán đài trước sự cổ vũ dân thị trấn Đồng Xuân. Phi Hổ chắp tay chào vòng quanh khán giả, rút đao ra thi thố chiêu Bèo Dạt Hoa Trôi trong phong ba bão táp, chiêu đao cuồng nộ lúc dồn dập lúc rối xả, lúc xoáy tròn cuồng phong mỗi lúc một tuôn ra dữ dội, múa tới chiêu đao thứ mười chín trở lên, đao pháp trở nên gào thét phong ba bão táp ầm ầm, đao pháp đến lúc nầy kết hợp bộ pháp Thất Tung Mai Hoa tức thời đao pháp tràn ngập khắp khán đài, đao phong cuồn cuộn làm cho ai nấy đều ngạc thở.

    Có người la lớn:

    Khiếp quá! khiếp quá!
     

Chia sẻ trang này