Nhân duyên cha mẹ con cái

Thảo luận trong 'Tâm sự về các vấn đề khác' bởi bebuti, 20/12/2013.

  1. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH - Chương XIX

    11. Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng
    Nghĩ muốn tiêu trừ nghiệp chướng phải cần nội công và ngoại công song hành, hạnh chánh và hạnh phụ gồm tu. Nội công là hạnh chánh, đó là niệm Phật lễ Phật . Niệm Phật trong sinh hoạt phải luôn nhớ thầm niệm một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật. Dùng nhất niệm vạn đức hồng danh chí tôn vô thượng để trung hoà tất cả vọng niệm và thói xấu tham, sân, si từ vô thuỷ kiếp đến nay. Những nghiệp chướng nặng nề này sẽ dung hoà vào một câu thánh hiệu Nam mô A-di-đà Phật, và được đức Phật A-di-đà đại từ đại bi và tất cả chư Phật trong mười phương hộ niệm, che chở và bao bọc, giúp tiêu trừ nghiệp chướng của chính mình. Lạy Phật chính là kính lễ chư Phật để sám hối nghiệp chướng của chúng ta. Mỗi ngày lễ 88 vị Phật hoặc chuyên lạy Phật A-di-đà để sám hối. Trong quá trình lễ lạy, ba nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh nương vào sức bổn thệ nguyện của chư Phật, dùng sức mạnh sám hối để diệt trừ tội lỗi và tiêu trừ nghiệp chướng. Ngoại công là hạnh phụ có thể giúp thành tựu đạo nghiệp của chúng ta. Ngoại công chính là ăn chay và phóng sinh. Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày không nên làm điều ác, nhớ phải tu nghiệp lành.

    Việc cực ác chính là ăn thịt và giết hại. Vì thế, muốn dứt điều ác trước hết phải ăn chay. Việc thiện lớn nhất là chuộc mạng phóng sinh. Vì thế, muốn tu điều thiện, trước phải lo chuộc mạng phóng sinh.

    Ăn chay và phóng sinh là hai bài tập quan trọng nhất của người tu Phật
    Nếu như có thể nội công và ngoại công cùng tu, thì dùng nội công niệm Phật, lạy Phật làm chính;lấy hạnh ăn chay và phóng sinh làm phụ. Cần phải hết lòng chí kính nỗ lực tinh tấn thì sẽ thành tựu nhanh chóng.
     
    Đang tải...


  2. ngocty

    ngocty Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    25/12/2013
    Bài viết:
    1,096
    Đã được thích:
    139
    Điểm thành tích:
    103
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Em cũng thích chuyện nhân quả, đọc rồi thấy người nhẹ ra, ko còn cảm thấy buồn hận nữa, nhưng cuộc sống lắm sân hận, chẳng mấy chốc nhưng mưu toan cuộc sống lại quay lại , đánh dấu khi nào cảm thấy mệt mỏi lại vào đọc .
     
  3. mamachip

    mamachip Thành viên kỳ cựu

    Tham gia:
    26/2/2010
    Bài viết:
    8,043
    Đã được thích:
    1,528
    Điểm thành tích:
    863
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Mình mới chỉ đọc lướt nhưng thấy rất sâu sắc!
    Đánh dấu để lúc nào thật rảnh rang, tâm thật tĩnh sẽ quay lại và đọc thật kỹ!
     
  4. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    PS Tịnh Không giảng tại Niệm Phật đường Cư Sỹ Lâm - Singapore
    Cư sĩ Lý Mộc Nguyên, mười hai năm trước bị bệnh ung thư nghiêm trọng. Tế bào ung thư của ông gần như phát tán khắp cơ thể. Hiện ông còn giữ lại hơn 30 tấm phim chụp X quang. Lúc đó, bác sĩ chẩn đoán ông thọ mạng chỉ còn ba tháng. Bắt đầu từ đó ông thực sự hồi đầu. Ông đem sự nghiệp của gia đình, mọi thứ thảy đều giao phó hết. Ông liền buông bỏ vạn duyên, việc hậu sự đều dặn bảo xong, một lòng niệm Phật, cũng không khám bác sĩ, cũng không thèm uống thuốc, chỉ đợi vãng sanh. Việc này là gì vậy? Tâm của ông khỏe mạnh, tâm tư ổn định, dùng cái sức mạnh này làm cho tế bào ung thư bị tiêu mất, dùng loại sức mạnh này hồi phục lại thân thể bình thường. Việc này bác sĩ gọi là kỳ tích, chúng ta thấy thì không phải kỳ tích, việc rất bình thường. Ý niệm có thể chuyển đổi được sinh lý của một con người.Ông đến cư sĩ Lâm làm công quả và đợi chết. Chờ đợi đến nay là mười hai năm, thân thể của ông ngày càng khỏe mạnh. Như vậy, từ nơi nguyện lực của thân đã làm cho nghiệp lực được thay đổi.


    Cho nên thành thật mà nói, ung thư không thể chết người. Ung thư vì sao mà chết vậy? Sợ mà chết! Tôi nói đều có căn cứ trên đạo lý, không phải là lời giả dối. Tất cả bệnh nhân ung thư đều là bị hù chết, bạn nói xem có oan uổng lắm hay không? Cho nên bệnh không thể giết được người, mà đều là do lo sợ mà chết. Chính mình cảm thấy rất là khiếp sợ, ngày ngày lo lắng, ngày ngày sợ chết, ngày ngày nghĩ đến cái chết thì họ làm sao mà không chết chứ? Họ đương nhiên sẽ chết. Cho nên chúng ta nhất định phải hiểu rõ việc này, biết được làm thế nào có thể khắc phục bệnh khổ. Bệnh nhất định là do nghiệp chướng, khi nghiệp chướng hiện tiền thì phải biết làm thế nào tiêu trừ nghiệp chướng. Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.

    Thọ mạng bệnh khổ của con người chúng ta là nghiệp báo, cư sĩ Lý phát thệ nguyện quá lớn, nguyện lực siêu vượt qua nghiệp lực, ông toàn tâm toàn lực làm việc vì Phật pháp, xả mình vì người. Đạo tràng cư sĩ Lâm này từ tay ông mà hưng vượng, cống hiến rất lớn đối với Phật giáo. Mỗi ngày đều giảng kinh, từ đầu năm đến cuối năm không hề gián đoạn. Niệm Phật đường 24 giờ cũng không hề gián đoạn. Thời gian gần đây, đạo tràng lại phát tâm mở lớp bồi huấn nhân tài hoằng pháp, đoàn kết chín tôn giáo của Singapore. Chủ nhật hàng tuần, giảng đường chật ních đại biểu các tôn giáo khác tụ về giảng đạo. Đại đoàn kết tôn giáo trong lịch sử trước đây chưa từng có. Những công đức này có thể chuyển được nghiệp báo
    Chuyển nghiệp báo nhất định phải dựa vào chính mình, không thể dựa vào người khác. Nếu người khác có thể thay chúng ta chuyển nghiệp báo thì cha có thể chuyển nghiệp báo thay cho con. Hay nói cách khác, Phật Bồ Tát liền có năng lực chuyển nghiệp báo của chúng ta, chúng ta cần gì phải tu hành? Cho nên nhất định phải hiểu lý, nghiệp báo là do chính mình tạo, thì chính mình phải quay đầu tiêu trừ nghiệp chướng.
     
  5. lananh176

    lananh176 Thành viên tập sự

    Tham gia:
    26/12/2013
    Bài viết:
    4
    Đã được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    3
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    :(( không đọc hét được toàn bộ. đánh dấu lúc rảnh đọc tiếp.
    Mùng 1 lên chùa tảo sách hay có sư thày và các già niệm kinh phật. các mẹ đi lễ rồi ngồi nghe 1 lúc, thấy thoải mái lắm
     
  6. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Những điều cần biết khi muốn hóa giải oan gia
    (Tranh chấp trong gia đình, nhà cửa lục đục, thân thuộc phân ly, oan gia gặp nhau v.v.. đều thuộc dạng oan gia đến đòi nợ)
    Rất nhiều người cảm thấy mình là người tốt, tâm địa hiền lành, chưa từng có ý muốn hại người thì làm gì có việc oan gia đến đòi nợ? Kỳ thật trong vô số kiếp đến nay thân, khẩu, ý của chúng ta đã tạo ra quá nhiều ác nghiệp tham, sân, si, sát sanh, trộm cướp, tà dâm v.v.. đã kết không ít oán thù với vô số chúng sanh. Những nghiệp ác khác tạm thời chưa bàn, chỉ nói đến việc sát sanh ăn thịt là đã kết oán thù thâm sâu với chúng sanh rồi. Đại sư Ấn Quang nói: “Phàm gặp phải những bệnh nguy hiểm đa số đều là do nghiệp của đời trước và kiếp này tạo nên.” Trong một bát thịt, oan hồn lẩn quẩn; một niệm sát sanh, tội nợ khó tránh. Khi chúng bị con người giết hại, đau đớn vô ngần, sự oán hận này giống như chiếc cùm vô hình khóa chặt sự thống khổ của chúng, khiến cho chúng lúc nào cũng bị dày vò trong niềm thống hận mà không có cách nào giải mở được. Niềm đau của chúng lớn như vậy, chả trách kiếp này gặp lại người đã từng giết hại mình, chúng lập tức muốn đòi nợ ngay – đòi lại một sự công bằng. Chúng ta thường không chịu nổi khi phải chứng kiến cảnh tượng thống khổ của một người lúc lâm chung và tự hỏi tại sao họ lại bị vằn vặt đến thế? Đó đều là do oan gia của họ đến đòi nợ. Chúng ta do không hiểu rõ đạo lý này nên chỉ biết gây tạo nghiệp duyên chẳng lành với chúng sanh, không biết rằng oan gia trái chủ từ nhiều kiếp của mình đến nay đa số đều là những chúng sanh đã từng bị mình ăn nuốt. Không chỉ là thống khổ, mà ngay cả vô số việc trái ý nghịch lòng trong cuộc sống hằng ngày cũng thường do oán thân trái chủ quấy nhiễu mà thành. Trong “Kinh Địa Tạng” nói: “Người làm thiện ở cõi Ta bà, khi lâm chung cũng có trăm ngàn hung thần ác quỷ biến thành hình cha mẹ hoặc quyến thuộc đến gạt gẫm dẫn họ vào đường ác, huống chi người vốn sẵn tạo nghiệp bất thiện.” Những hung thần ác qủy giả dạng khi chúng ta lâm chung cũng đều là những oan gia trái chủ biến hiện ra lừa dẫn chúng ta vào ba đường ác chịu cảnh thống khổ. Do đây, khi chúng ta mắc phải những bệnh nghiêm trọng, hoặc gặp phải nghịch cảnh thì nên y theo pháp Phật dạy, dũng cảm đối mặt, không nên chạy vạy khắp nơi cầu thần xem bói hầu mong hóa giải nạn kiếp, cách làm này không những tiêu tốn rất nhiều tiền của mà kết cục vẫn uổng công vô ích. Đại sư Ấn Quang nói: “Người đời gặp phải bệnh tật hay tai nạn nguy hiểm v.v.. đã không biết niệm Phật tu thiện, lại còn vọng tưởng cầu khấn quỷ thần, thậm chí giết hại sanh mệnh chúng sanh để cúng tế, như vậy nghiệp ác chồng thêm nghiệp ác, thật đáng thương xót! Con người sanh ra trên đời, mỗi người đều có một cảnh ngộ riêng, đó đều do túc nghiệp chiêu cảm. Đã đau khổ thì nên niệm Phật hành thiện, sám hối tội căn, nhờ đó nghiệp tiêu bệnh giảm. Bản thân của những quỷ thần kia vẫn còn ở trong biển nghiệp thì làm sao có thể giúp người tiêu trừ nghiệp chướng được chứ? Cho dù là những vị đại tiên có uy lực lớn thì uy lực ấy so với Phật và Bồ tát cũng giống như đom đóm sánh với ánh mặt trời. Là đệ tử Phật, sao chúng ta không cầu nguyện Phật và Bồ tát mà lại đi cầu khấn quỷ thần? Đó là tà kiến, trái lại lời Phật dạy.”
    Bịnh tật có 3 loại:
    1. Bệnh về sinh lý:

    Do ăn uống không phù hợp hoặc không để ý đến sự nóng lạnh của thân mà sinh bệnh. Ví như bị cảm hoặc nóng sốt thì phải làm sao đây? Phải nhanh chóng đến bệnh viện khám bệnh, mua thuốc hay chích thuốc, không nên chậm trễ. Vì cơ thể sau khi lên cơn sốt sẽ phát bệnh, hoặc dẫn đến sự biến chứng của các bệnh khác, không nên kéo dài, phải nhanh chóng đi khám bệnh, chích thuốc, vài ngày sau bệnh sẽ khỏi ngay.
    2. Bệnh nghiệp:
    Phàm những bệnh đến bệnh viện kiểm tra được, gọi là bệnh nghiệp. Nếu bạn thành tâm niệm Phật sẽ tiêu trừ được bệnh nghiệp này. Ở Trung Quốc có một vị cư sĩ, trong phổi nổi lên một khối u to hơn cả trứng gà, trong thời gian phát bệnh, ông luôn ối ra máu. Bác sĩ thấy không thể chạy chữa được nữa, liền phát thông báo cho mọi người biết. Mẹ của vị cư sĩ là người tin Phật, bà bảo với ông: “Con trai, chúng ta không trị ở đây nữa, mẹ sẽ đi tìm cho con một vị bác sĩ tài giỏi khác.” Tìm ai hở Mẹ? Tìm một vị Đại y vương. “Con trai, con cứ chuyên tâm nệm Phật, nếu có chết, con cũng sẽ đến được thế giới Cực lạc của đức Phật A Di Đà!” Nghe lời mẹ, vị cư sĩ một lòng niệm Phật cầu vãng sanh. Niệm Phật suốt hai tháng, sau khi về đến nhà, ông ối ra máu, ối ra thịt thối, ối cả thảy bốn lần và thôi không ối nữa. Sau đó, ông đến bệnh viện kiểm tra thì phát hiện khối u đã không còn nữa. Đây là do nghiệp lực của mình chiêu cảm thành bệnh nghiệp (các chứng bệnh ngặt nghèo, làm người bệnh đau khổ, khó trị khỏi như ung thư, tiểu đường, cao huyết áp, tim mạch v.v.. đều có thể quy về bệnh nghiệp, đặc biệt là chúng ta sau khi tu học theo Phật, rất nhiều người do nghiệp chướng hiện tiền chiêu cảm mà mắc phải các chứng bệnh hiểm nghèo, đây đều là bệnh nghiệp đến để ngăn trở việc tu học của chúng ta). Làm thế nào để tiêu trừ bệnh nghiệp đây? Nghiệp của mình tạo thì phải do chính mình diệt. Như vị cư sĩ đề cập trên, không cần phải tiêu tốn tiền bạc, chỉ cần chuyên tâm niệm Phật, rốt cuộc ung thư cũng không còn. Trong 10 đại nguyện, Bồ tát Phổ Hiền dạy chúng ta phải “sám hối nghiệp chướng”, trên lộ trình tu học chúng ta thành tâm sám hối, đó mới là phương pháp chủ yếu tiêu trừ nghiệp chướng. Bệnh nghiệp có cần phải uống thuốc không? Cũng cần phải uống thuốc, nhưng phải hiểu rõ uống thuốc chỉ là trợ duyên, giúp bạn chóng khỏi, nguyên nhân chủ yếu để trị lành bệnh nghiệp đó là dùng tâm thành kính thanh tịnh tụng kinh niệm Phật, sám hối nghiệp chướng, cầu Phật Bồ tát gia hộ cho mình. Trong tâm không còn ba độc tham sân si, thì các chất độc bên ngoài không thể xâm nhập được, lại dùng các nhân tố khách quan như uống thuốc để trợ duyên thì bệnh căn sẽ càng chóng khỏi.
    3. Bệnh khó trị lành.
    Là những bệnh gì? Là những bệnh do oan gia đến đòi nợ? Thế nào là những bệnh do oan gia đến đòi nợ? Tức những bệnh cho dù đến bệnh viện bác sĩ cũng không tìm ra, nhưng mình lại cảm thấy bản thân thật sự có bệnh. Duyên do của bệnh là gì? Là do oan gia trái chủ đến quấy rối, như quỷ nhập xác. Bác sĩ bó tay, uống thuốc cũng không hề có tác dụng. Đối với loại bệnh này thì phải trị như thế nào đây? Tụng kinh siêu độ, hóa giải oan kết trong Phật giáo rất có công hiệu đối với loại bệnh này. Siêu độ, dùng từ ngữ hiện đại để nói là một cách khuyên giải, dẫn dắt. Vì quá khứ bản thân người bệnh đã phạm phải lỗi lầm, nên giờ cầu xin tha thứ. Mục đích của việc tụng kinh, sám hối là để khuyên giải, nếu chủ nợ tiếp nhận thì họ sẽ rời khỏi xác, khiến người bệnh được lành mạnh trở lại. Người thời nay bị oan gia trái chủ nhập xác rất nhiều, thần trí thất thường, nói năng lộn xộn, người bị nặng phải đưa vào bệnh viện tâm thần để trị liệu, kết quả là càng trị bệnh càng nặng thêm Bệnh do oan gia đến đòi, tốt nhất nên đi tìm một vị Cao tăng đại đức để hóa giải oan kết. Vậy phải đi đâu tìm Cao tăng đại đức? Cao tăng đại đức có thể gặp nhưng không thể cầu. Nếu tìm không gặp thì phải làm sao? Phải đối trước Phật sám hối nghiệp chướng, tự mình hóa giải, hằng ngày đều phải sám hối, nên tụng “Kinh Địa Tạng”, niệm danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng Vương, sau đó hồi hướng công đức cho oan gia trái chủ. Hôm nay họ không quấy nhiễu bạn, nhưng ngày mai, ngày mốt họ lại đến làm phiền bạn, cho đến khi nào bạn có thể làm cho họ cảm động mới thôi. Vì sao phải niệm danh hiệu Phật “A Di Đà”? Vì công đức của mỗi một câu Phật hiệu không thể nghĩ bàn, Bồ tát đăng địa còn chưa thể biết được công đức của mỗi một câu Phật hiệu là bao nhiêu, nói chi đến chúng quỷ thần còn ở trong sáu nẻo luân hồi! Đại sư Ngẫu Ích trong “Di Đà Yếu Giải” có nói: “Một tiếng Phật hiệu A Di Đà là pháp khiến cho Đức Bổn Sư Thích Ca đạt được quả vị Vô thượng chánh đẳng chánh giác ngay trong cõi ác năm trược này. Nay trao toàn bộ quả giác này cho chúng sanh trong đời trược ác, đó là cảnh giới tu hành của chư Phật. Chỉ có Phật và Phật mới thấu suốt, chẳng phải là điều mà chúng sanh trong ngũ giới tự mình có thể tin hiểu được.” Đại sư Ấn Quang cũng đề cập: “Pháp môn Tịnh Độ là pháp chỉ có chư Phật với nhau mới hiểu cùng tận, Bồ tát đăng địa vẫn chưa thấu tỏ.” Pháp không phân cao thấp, ứng hợp căn cơ đó là pháp hay; thuốc không quý hèn, trị lành bệnh đều là lương dược.” Trong “Kinh Địa Tạng”, Đức Phật Thích Ca giao phó chúng sanh trong cõi Ta bà sau khi Ngài diệt độ trước khi Phật Di Lặc ra đời cho Bồ tát Địa Tạng, nhờ Ngài trông nom và cứu độ. Nói cách khác, Phật không còn tại thế thì Bồ tát Địa Tạng sẽ thay thế Ngài. Người không hiểu rõ lý này, không biết hóa giải oan kết phải hóa giải từ hận thù trong tâm của chủ nợ, trái lại dùng phương thức “quỷ lớn đuổi quỷ nhỏ” áp đảo, nhờ vào những quỷ thần mà họ sùng bái hoặc bùa chú để tống cổ oan gia trái chủ, cưỡng bức chúng tránh xa. Cách làm này không những hiệu quả không cao mà lại còn kết thêm oán thù với chúng nữa. Tuy chúng tạm thời bị thế lực của quỷ lớn khuất phục, tạm thời bỏ đi không đến đòi nợ, nhưng đợi đến khi nhân duyên hội đủ, chúng trở lại thanh toán món nợ này càng ác liệt hơn. Giống như con nợ, không những không thành tâm trả nợ mà lại còn dùng thủ đoạn ngang tàng hung bạo đối với chủ nợ, dẫn đến thù chất thêm thù, oan oan tương báo, khổ không thể nói hết. Người sáng suốt, hiểu được mọi việc đều do nhân duyên, “muốn biết nhân đời trước, nên xem sự thọ nhận trong đời này; muốn biết quả đời sau, nên xem sự tạo tác trong hiện tại.” Vì hóa giải triệt để oan kết, giúp đỡ đối phương lìa khổ được vui, ta nên dùng tâm từ bi, chân thành niệm Phật tụng kinh và hồi hướng công đức ấy cho oan gia trái chủ. Nhờ vào tâm chân thành sám hối của mình và pháp lực đại từ đại bi của Phật Bồ tát sẽ hóa giải được hận thù trong tâm của oan gia trái chủ, giải trừ được nỗi thống khổ thân tâm của chúng, đồng thời giúp cho chúng được thác sanh vào đường lành hoặc vãng sanh về thế giới Cực Lạc, như thế mới thật sự cởi mở được những ác duyên ràng buộc từ xưa, thật sự giải trừ được oan oan tương báo.
     
  7. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    NGŨ PHƯỚC LÂM MÔN
    Tác giả Trần Bá Đạt , dịch giả Thích Thiện Phước,
    Biên tập: Thích Quang Phúc


    LỜI DẪN

    “Ngũ phước lâm môn” là cuốn sách hay. Sách đề cập đến những ước vọng cháy bỏng nhất trong cuộc sống của mỗi con người chúng ta. Tác giả dẫn chúng ta đến tận đầu nguồn nguyên nhân phát sanh năm phước. Với rất nhiều tích truyện lịch sử cũng như điển tịch Phật Giáo, là những minh chứng sống động, thuyết minh về một chân lý trong hiện tượng giới, đó là lý nhân quả.

    “ TỪ NHÂN NÀO DẪN ĐẾN QUẢ NÀO ? ”, đó ắt hẳn là nội dung phần lớn cuốn sách này. Và với một văn phong hấp dẫn, lý lẽ rạch ròi, tác giả đã dẫn chúng ta đến tham quan vườn hoa ngũ phước lung linh những sắc màu hương thơm tươi thắm.

    Trong khuôn khổ của tập sách nhỏ này, chúng tôi chỉ khái quát những nét chính yếu của tập sách nêu trên, nhằm giới thiệu đến quý vị một cuốn sách hay mà mọi người chúng ta không nên bỏ qua.

    Sau khi xem xong tập sách này, nếu quý vị còn chút hứng thú, xin tìm ngay cuốn:


    Hy vọng đây là một món quà có ý nghĩa gởi đến quý vị trong nắng ấm mùa xuân đang chan hoà.

    Thích Quang Phúc cẩn chí

    Hoa nở rồi tàn, tóc xanh lại bạc. Đời người như một dòng nước cứ xuôi chiều trôi đi mãi mãi. Năm tháng chất chồng, mạng người dần dần ngắn. Trong cuộc sống, dường như ai cũng muốn cho mình được giàu sang may mắn và không ai muốn mình lâm vào cảnh bất hạnh khó khăn. Và vì vậy, mỗi năm khi hoa đào, hoa mai nở rộ, báo hiệu một năm, hay một mùa Xuân mới trở về, lòng người lại hân hoan, rạo rực những ước ao và hy vọng. Thỉnh thoảng đó đây ta thường thấy bốn chữ “ngũ phước lâm môn” viết bằng mực tàu giấy đỏ dán trước cửa nhà, trông có vẻ rất nhân gian, như đang ẩn chứa một điều gì mà con người đang gởi gấm chờ mong.

    “Ngũ phước lâm môn” dường như ai cũng từng nghe biết đến, nhưng về ý nghĩa của nó thì ai cũng mơ hồ không rõ ràng nghĩa lý cho lắm. Trong kinh Thư chép 5 phước ấy là : Thọ, Phú, Khương ninh, Du hiếu đức, Khảo chung mạng.

    *Trường thọ là số mạng không chết yểu, lại có phước thọ lâu dài .
    *Phú quý là tiền bạc sung túc, lại có được địa vị tôn quý .
    *Khương ninh là thân thể khoẻ mạnh và tâm linh được an ổn.
    *Hiếu đức là thường làm việc lành, lại còn rộng chứa âm đức.
    *Thiện chung là biết trước được thời gian mình qua đời, đến lúc mạng chung không gặp những tai hoạ ngang trái, thân thể không đau bệnh, trong lòng không còn vướng mắc và sầu lo về nhân thế, an lành và tự tại lìa bỏ cõi nhân gian.

    CÓ PHƯỚC NÀO TRỌN VẸN KHÔNG ?

    Cuộc sống con người do năm thứ phước này tụ họp lại mà được an vui hạnh phúc. Nếu thiếu một thì không thể đạt được lẽ mầu ấy. Ví như có người tuy sống lâu mà không có phước đức ; Có người tuy giàu có, của cải đầy dẫy nhưng số mạng lại ngắn ngủi, phiền não bức ngặt tâm linh ; Có người nghèo khổ nhưng lại thiện chung v.v… những cảnh ngộ về cuộc sống thì muôn mầu muôn vẻ. Nhưng rốt cuộc thì, chỉ có năm phước cùng đến nhà, cuộc sống nhân sinh mới được vẹn toàn đầy đủ .

    Xét ra trong năm thứ phước nói trên, phần trọng yếu nhất vẫn là phước thứ tư, tức “Hiếu đức”. Nhân và đức là nguyên nhân và nguồn cội của phước. Phước là kết quả và biểu hiện của đức. Nếu chỉ lo cầu phước mà không lo tu sửa đức hạnh thì há chẳng phải là bỏ gốc mà đi tìm ngọn ư ?
    VÌ SAO CÓ HIỆN TƯỢNG KÉM VÀ HẾT PHƯỚC ?

    Hoàn cảnh và cuộc sống của chúng ta ở đời này sở dĩ gặp nhiều điều không tốt là bởi do những ác nghiệp mà mình đã gây nên từ kiếp quá khứ chiêu cảm đến kết quả xấu xa như thế. Ví như người ở đời quá khứ hoặc nhiều kiếp trước ngược đãi động vật thì đời này sẽ bị nhiều bệnh tật. Người đời quá khứ giết hại loài vật thì đời nay bị quả khổ, mạng sống ngắn ngủi. Người đời quá khứ hoặc kiếp trước trộm cắp, keo kiệt thì đời nay sẽ bị nghèo nàn và khốn khổ. Người đời quá khứ hoặc kiếp trước ngạo mạn thì đời nay làm kẻ đê tiện. Người đời quá khứ hoặc kiếp trước gây nhiều sự kinh động, ưa nóng giận hờn mát, thì đời nay có thân hình xấu xí. Người đời quá khứ hoặc kiếp trước dùng những phương cách để giết hại người hoặc loài vật thì đời nay chiêu cảm lấy ác báo, khi chết không được yên ổn. Người được trường thọ lại nghèo nàn, hèn hạ là do họ ở đời trước có lòng thương yêu động vật, nhưng keo kiệt không chịu bố thí. Người giàu có mà lại chết yểu là vì họ ở đời quá khứ ưa thí xả những tài vật, nhưng hay giết hại loài vật. Người có diện mạo xấu xa mà lại giàu có là vì họ ở đời quá khứ rộng rải bố thí, nhưng hay nổi sân. Người có dung mạo đoan trang, lại ở địa vị thấp hèn là vì ở đời trước họ có lòng nhẫn nhục, gìn giữ giới luật nhưng lại xem thường người khác mà dẫn đến kết quả như vậy. Nói tóm lại, năm phước sở dĩ có kém khuyết là do ở đời quá khứ hoặc hiện tại làm việc thiện và gom chứa đức hạnh không đồng nhau mà thôi.

    SỰ TƯƠNG QUAN KỲ DIỆU CỦA NĂM THỨ PHƯỚC

    Trường thọ, phú quý, khương ninh, hiếu đức và thiện chung, cả năm phước này đều có mối liên hệ rất mầu nhiệm :

    Trường thọ, phú quý, khương ninh, và thiện chung, bốn phước này là kết quả, còn loại phước thứ ba tức hiếu đức là nguyên nhân. Đời nay sở dĩ được trường thọ, phú quý và khương ninh, đó chính là kết quả của đời quá khứ đã rộng chứa những âm đức. Còn thiện chung chủ yếu là do kết quả của đời nay đã vun trồng những đức tốt. Hay nói cách khác, trường thọ, phú quý, và khương ninh là quả báo ở đời hiện tại, còn thiện chung là quả báo ở đời vị lai vậy .

    Trong năm phước này, thiện chung rất khó được. Nhân vì, chỉ có đời nay rộng chứa âm đức thì mới được thiện chung, còn trường thọ và phú quý thì không hẳn phải như vậy ! Có một số người đời nay tuy giàu sang và sống lâu, nhưng họ không thích làm những việc công đức. Đây là do đời quá khứ, họ có tu đức mà được quả báo như thế. Còn hạng người đời nay tuy giàu có mà không ham thích làm việc công đức thì chẳng những hiện đời thân tâm họ không được mạnh khoẻ, bình yên và nhất định trong tương lai cũng rất khó an lành mà xuôi tay nhắm mắt vậy.


    NÓI VỀ NĂM THỨ PHƯỚC

    TRƯỜNG THỌ:

    Từ xưa đến nay, mạng sống chính là một vấn đề vô cùng thần bí. Trừ những người dốc hết tâm trí tu hành có được sở đắc, nếu không thì ai ai cũng đều không biết giây phút nào chúng ta đối mặt với tử thần. Vì thế câu thành ngữ “Triêu bất bảo tịch” (buổi sớm không bảo đảm tới chiều) để cảnh tỉnh chính mình trong mọi thời khắc, thật là vô cùng xác đáng !

    Biết rõ được sự thật của mạng người là vô thường thì có lợi ích rất lớn đối với chúng ta. Nhân vì thể hội được mạng người là vô thường, là không thật có nên những sự buông lung và tham ái không còn cơ hội để khởi lên nữa. Vì vậy, việc tỉnh giác về mạng sống con người là vô thường, đó là đầu mối của trí tuệ và cũng chính là bước chân đầu tiên để vượt khỏi biển khổ sanh tử vậy.

    Sách có câu “Nhân giả thọ” (người có lòng nhân ái thì được sống lâu). Thật thế, đem tâm nhân hậu và khoan dung để đối đãi với người thì nhất định sẽ được quả lành. Người đời nay trường thọ chắc hẳn là do kết quả ở đời quá khứ hoặc đời hiện tại có tâm từ ái đối với động vật. Người đời nay mạng sống ngắn ngủi tất nhiên là do kết quả của đời trước hoặc đời này giết hại loài vật.

    Người đời nay làm việc thiện như đi chùa, lễ Phật, nghe kinh, bố thí, phóng sanh … mà mạng sống ngắn ngủi thì đó là do quả báo của những nghiệp ác mà họ đã gây từ thuở quá khứ nên họ phải cam chịu quả báo xấu ác. Còn những nghiệp thiện của đời nay chính là hạt giống mới gieo xuống thửa ruộng công đức chưa ra hoa kết trái .

    NHÂN TRƯỜNG THỌ: Nguồn gốc của trường thọ được hình thành từ lòng nhân ái, tâm từ bi cứu hộ những động vật. Tự mình phóng sanh, khen ngợi khuyên bảo người làm việc phóng sanh và thí xả những thực phẩm mình ăn cho loài vật.

    DUYÊN TRƯỜNG THỌ: Hình thành từ tâm bình lặng, chí khí hoà mục với mọi người, không nóng nảy giận hờn, sống có khuôn phép, biết điều tiết được việc ăn uống, sinh hoạt có giờ giấc, không lao nhọc quá độ …

    NHÂN CHẾT YỂU: Giết hại động vật, ngược đãi, hành hạ động vật hay con người …

    DUYÊN CHẾT YỂU: Luôn luôn hờn giận, suốt ngày chỉ lo ăn uống, làm việc lao nhọc quá sức, kết bạn với kẻ ác . . .


    NUÔI DƯỠNG TÂM TỪ BI:

    Tâm từ bi là nền tảng căn bản của các hạt giống lành.
    Nói đến lòng từ bi, đại khái có thể chia làm 2 phương diện :


    1_ Cứu giúp người sống trong cảnh nghèo khổ khó khăn.

    2_Phải giữ gìn chu đáo giới sát và thường phóng sanh.


    Loại tâm từ bi thứ nhất là đối với loài người, còn loại thứ hai là đối với động vật.

    Một người nếu muốn trường thọ thì không những cứu giúp người bần cùng khốn khổ, mà còn phải có tâm từ bi thương yêu bảo hộ các loài động vật nữa. Ví như nhìn thấy đứa bé vì không hiểu biết nên bắt giết hoặc ngược đãi các loài động vật để vui đùa, ta phải khuyên răn dạy bảo chúng, không để những tập tính giết hại sinh vật của chúng ngày càng lớn lên, làm cho chúng mất hết lòng nhân ái, thậm chí dẫn đến giết người.

    Ngoài ra không được tuỳ tiện đem nước sôi đổ trên đất, hạn chế việc đốt rừng, nương rẫy, lá cây, rác rưởi , gỗ mục, v.v… vì trong đó có vô số loài sinh, động vật đang sinh sống.

    Tương tự với đạo lý này là khi đi đứng nên để ý không dẫm đạp loài trùng kiến, không dùng nước dơ có trùng mà tưới hoa hoặc rau cỏ, không để bình, chậu ngữa ở ngoài vườn, nhà để nước mưa ứ đọng sanh trùng, rồi chúng ta đem nước ấy đổ đi thì những ấu trùng ấy sẽ bị chết khô. Đây cũng là một phương thức sát sanh vậy.

    THÍ THỰC ĐƯỢC NĂM LOẠI PHƯỚC BÁO:

    Kinh “Thí thực” hoặc “Ngũ phước báo” chép : “Người bố thí đồ ăn thức uống đời này hoặc đời sau sẽ được năm loại phước báo, đó là : Thọ, An, Sắc, Lực và Biện”
    Thọ là được sống lâu dài. An là thân tâm được bình an. Sắc là dung mạo và vóc người đẹp đẽ. Lực là thân thể có khí lực. Biện là được biện tài, nói năng hay khéo.

    Ngoài ra, người bố thí thức ăn lại được quả báo giàu có, vì bố thí thức ăn cũng là bố thí tài vật, nếu có tâm cung kính thành khẩn trong khi bố thí thì lại được quả báo trong đời này hoặc đời sau sanh vào nhà tôn quý, được nhiều người tôn kính, quý trọng.

    Chúng ta lại càng nên chú ý khi cúng dường hoặc mời khách thì không nên giết hại động vật. Vì như thế chúng ta không được quả trường thọ, phú quý mà còn bị tổn thọ, bệnh tật …

    Ngoài ra nếu chúng ta là người tu theo Phật, những thời công khoá như tụng kinh, lễ Phật, niệm Phật, sám hối, toạ thiền … cũng đều là những nguyên nhân giúp kéo dài thọ mạng .

    PHÚ QUÝ:

    Ta không nên hiểu rằng : sự giàu sang của con người là do trời ban cho. Thật ra, sự giàu sang của chúng ta hiện đời nay có được là do tâm cung kính và việc làm bố thí ở đời hiện tại hoặc quá khứ mà cảm vời ra.

    Thế nên, nếu chúng ta muốn được giàu sang thì ngay từ bây giờ phải gieo hạt giống cung kính, khiêm nhường và bố thí. Đã rõ được nhân, lại cộng thêm sự nổ lực của chính mình tức là trợ duyên thì nhất định sẽ được quả giàu sang.

    HAI TRẠNG THÁI PHÚ QUÝ

    Giàu sang có hai loại : Giàu sang tương đối và giàu sang tuyệt đối. Người có của cải nhiều nhất ở trong thiên hạ, địa vị sánh với bậc vương hầu, đó là hạng giàu sang tương đối. Còn người được thân tâm tự tại thanh tịnh là hạng giàu sang tuyệt đối. Loại thứ nhất là cái vui có sở đắc, loại thứ hai là cái vui không có sở đắc. Loại thứ nhất là cái vui hỗn tạp và ngắn ngủi, loại thứ hai là cái vui thuần tuý và lâu dài.

    Phật dạy : “Giá trị ở cõi trời hơn cõi Diêm phù đề này. Sự đẹp đẽ vi diệu ở cõi trời lại càng vượt hơn trăm ngàn món vui của những bậc đế vương tại nhân gian”.

    Thế nên, sự mong cầu giàu sang chỉ là việc tốn công nhọc sức. Chi bằng ta vui lòng chấp nhận những gì mình sẵn có, tuỳ theo cảnh ngộ mà vẫn an vui, biết đủ và thường tự tại trong mọi hoàn cảnh. Chúng ta bàn luận về phú quý cốt là để nói rõ phần trợ duyên và nguyên nhân, nhưng điều căn bản nhất của phú quý là dạy mọi người phải gieo trồng nhiều chánh nhân bố thí mà không cần phải tham cầu quả báo hay sự hưởng thụ cảnh phú quý. Thật ra, chỉ cần biết được lẽ thật của nó thì liền được khoái lạc, đến như việc tiêu dùng những tài vật đều không phải là việc trọng yếu. Chúng ta hy vọng chúng sanh khắp nơi đều không vì hưởng thụ những tài vật không giống nhau mà sanh lòng phiền muộn. Đồng thời cùng mong mỏi rằng chúng sanh không vì hưởng thụ tài vật không được thoải mái mà ảnh hưởng đến tâm hồn cao thượng. Hoặc nhân vì kém thiếu vật chất mà trong tâm bấn loạn đôn đáo chạy chọt tìm tòi, không giây phút nào an ổn để tu hành đạo nghiệp. Lại cũng không vì cảnh nghèo khó mà làm cản trở việc rèn luyện tâm trí mình và làm trở ngại lòng bi nguyện cứu độ chúng sanh.

    CHÁNH NHÂN VÀ SỰ TRỢ DUYÊN CỦA GIÀU SANG

    Nguyên nhân chính để được giàu sang là thí xả tiền tài vật chất cho những người nghèo đói khổ sở. Nếu đem sức lực tự thân ra để làm giàu thì chẳng qua là một loại trợ duyên để được giàu sang mà thôi ! Giả như có người ở đời quá khứ không làm việc nhân từ bố thí mà đời nay cố nổ lực làm việc để kiếm tiền thì kiếm cách mấy cũng không ra, hoặc dù có tiền nhưng không có phương thế nào giữ được, sớm muộn gì cũng thất thoát.

    Như vậy, nguyên nhân căn bản của sự giàu sang chính là sự bố thí. Còn nguyên nhân để được ngôi vị tôn quý là do ta lễ bái mười phương thánh hiền, cung kính tất cả chúng sanh, cam chịu những cảnh thuận nghịch và có tâm khiêm hạ, chứ không phải do thủ đoạn, đút lót hoặc chạy chọt tìm tòi mà có được. Người gặp được nhân duyên tốt, hoàn cảnh thuận lợi cộng thêm sự năng nổ trong công việc, hoặc được người khác đề bạt đều là dấu hiệu và phần trợ duyên của sự tôn quý, chứ không phải là nguyên nhân chính yếu.

    Có người nói : nếu tôi không giàu có làm sao tôi có thể bố thí ? Thật ra, ai ai cũng có thể bố thí, ngay cả người rất bần cùng túng thiếu cũng có cơ hội và năng lực để bố thí. Ví dụ mỗi lần trước khi ăn cơm, ta có thể đem một vài hạt bố thí cho các loài động vật nhỏ, hoặc mời người uống một bát nước mát. Chỉ một việc nhỏ nhoi như vậy thôi thì đâu cần phải tốn tiền. Thế nên, bố thí là điều mà ai ai cũng cần phải có. Người vượt lên trên mọi sự nghèo khó của chính mình để phát tâm bố thí thì một ngày nào đó chính họ sẽ thoát ly ra khỏi biển khổ nghèo nàn. Nếu ta tự ti cho rằng mình bần cùng không có gì để bố thí thì đời đời kiếp kiếp ta sẽ không thoát ra được chiếc áo giáp khốn quẩn bao bọc quanh ta và cũng rất khó có cơ hội để thay đổi thân phận được.

    Đời nay, sở dĩ chúng ta nghèo khốn khổ sở là do những hành động keo kiệt, tham lam và ích kỷ đã gây tạo từ đời trước mà chiêu cảm đến. Nếu muốn cải thiện vận mệnh bần cùng hay xấu ác ấy thì nhất định trước phải trừ bỏ tâm, hành vi và tập khí keo kiệt.

    Ngoài ra chúng ta còn phải biết tuỳ hỷ công đức, nghĩa là thấy người khác được điều gì tốt đẹp thì ta cũng vui theo cái vui của họ, chứ không có tâm ghen tỵ …

    Tu tập theo 4 tâm vô lượng của Phật, là từ, bi, hỷ, xã, để có thể thông cảm nổi khổ, niềm vui của muôn loài, hồi hướng cho khắp chúng sanh đều lợi lạc.

    HIẾU ĐỨC:

    Trường thọ, phú quý, khương ninh và thiện chung đều là kết quả của hiếu đức (thích làm việc đạo đức). Nếu như đời quá khứ của chúng ta không có hiếu đức thì hiện đời nhất định không có trường thọ, phú quý và khương ninh. Nếu như chúng ta hiện tại không có hiếu đức thì e rằng trong tương lai rất khó được thiện chung.

    Chúng ta nên biết rằng hiếu đức là nguồn cội của mọi sự an vui và hạnh phúc, cũng là nền tảng của phước đức và mọi sự may mắn. Giả sử hiện tại chúng ta không trồng nhân hiếu đức như thế thì mọi sự hưởng thụ và tiêu dùng đều sẽ biến thành xa xỉ, nhân vì không có gieo trồng nhân lành, khi hưởng hết phước báo rồi thì tất nhiên sẽ trở thành kẻ nghèo cùng khốn khổ.

    Người xưa nói : “Cất giữ của cải không hẳn thuộc về mình, thọ dụng của cải lại không hẳn thuộc về mình, chỉ có đem của cải ra thí xả mới thật là của mình”.

    Hưởng thọ nhiều vật chất sẽ làm hao mòn phước báo, còn hưởng thọ về năm thứ dục thì thời gian an vui có là bao, nhưng chịu khổ kiếp kiếp. Khi ta thọ dụng những tài vật thì chúng sẽ vĩnh viễn chẳng thể thuộc về ta nữa, chỉ có đem những tài vật ấy bố thí vào nơi thích đáng (nhà Phật gọi là gieo trồng ruộng phước), lấy của xã hội dùng vào xã hội thì những tài vật ấy mới có ý nghĩa vĩnh viễn ; lại cũng không bị thiên tai, nhân hoạ, giặc cướp, vua quan và con cái phá sản đoạt mất. Cho nên, cổ nhân khuyên chúng ta cần phải bố thí để tích luỹ âm đức.

    Nếu chúng ta không bố thí tu đức thì sau này sẽ chịu những cảnh vô cùng bi đát, nhất là lúc chúng ta mạng chung thì tất cả tiền tài, vật chất, bạn bè, quyến thuộc, uy quyền, thế lực … ràng buộc con đường giải thoát của mình. Thật ra, những thứ ấy “lúc sanh không mang đến , lúc chết không mang đi”, chỉ có nghiệp lực thiện hay ác đã gây tạo lúc bình sanh mới thật sự đeo đuổi ta như bóng với hình. Đây là ý nói tu dưỡng đạo đức mới đúng là điều thực dụng. Hơn thế nữa, tất cả chúng ta đều không biết tử thần đến lúc nào mà chuẩn bị. Thật ra, thần chết đang chực chờ, mọi lúc đều có thể xông vào bất ngờ để bắt ta. Thế nên, ngay từ bây giờ, chúng ta còn chần chờ gì nữa mà không chịu nổ lực tu tập.
     
  8. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Sau đây là những bài khai thị của Hòa Thượng Tuyên Hóa về vấn đề quả báo không lành của việc phá thai nhằm cảnh tỉnh mọi người trước sự việc rất phổ biến trong xã hội hiện đại.

    Những lời dạy sau đây được trích dẫn trong quyển sách "Những Vong linh thai nhi vô tội" do Vạn Phật Thánh thành lưu thông.

    Tại sao ngày nay có những bệnh lạ ? Những bệnh này là do cái nhân sát sinh.

    Mối căm hận sâu thẵm trên thế giới do sự sát sinh. Có câu "Nợ sanh mạng trả sanh mạng, nợ tiền bạc trả tiền bạc.". Nếu quý vị giết cha, anh người khác; cha, anh của quý vị sẽ bị giết bởi người khác. Như thế con người cứ luân phiên tàn sát lẫn nhau không bao giờ chấm dứt. Vì giết hại quá nhiều mà quả báo chín mùi trong thời gian ngắn, và vì thế có câu "Người ta trả quả ngay trong chính đời này.".

    Lấy ví dụ việc phá thai, là việc nghiêm trọng hơn việc cướp bóc ngoài xa lộ 1] Quý vị hãy suy nghĩ, bằng hành vi phá thai, quý vị đã chấm dứt một sanh mạng trước khi cơ thể đứa bé được thành hình đầy đủ! Với lòng thù hận thâm sâu nhất, những vong linh thai nhi bị hủy phá này "than trời trách người". Lòng sân hận của chúng mãnh liệt và độc hại hơn bom nguyên tử và bom khinh khí, chúng nhất định báo thù! Với tình trạng phá thai phổ biến như hiện nay, những vong linh thai nhi này hiện diện khắp nơi, nhiều hơn nhiều so với vong linh người lớn trên thế gian. Có những người không biết tại sao họ bị bệnh. Thật ra họ bị bệnh vì đã gây ra quá nhiều oán thù cừu hận. Ví dụ trong hầu hết các trường hợp, người ta bị bệnh ung thư vì đã giết hại nhiều sanh mạng. Do không thể giải được oán cừu với các chúng sanh đã bị họ giết, những người này phải mang lấy bệnh ung thư.

    Hòa Thượng Tuyên Hóa trả lời

    Tốt hơn hết là đề phòng vấn đề để không xảy ra hơn là tiếc nuối sau này.

    Câu hỏi: Nếu có cặp vợ chồng không còn biện pháp nào khác ngòai phá thai vì những khó khăn kinh tế hay vì những lý do khác, hậu quả có nặng nề lắm không?

    Hòa Thượng: Vì điều kiện kinh tế không cho phép có con thì, không nên để lỡ mang thai ngay từ đầu; như vậy, sẽ tránh được rắc rối về sau. Cho là hiện thời có những khó khăn về tài chánh, tại sao họ phải đợi cho đến khi vấn đề xảy ra rồi mới đi tìm giải pháp? Họ phải tự cảnh giác về vấn đề này trước khi để nó xảy ra; tại sao không tìm những giải pháp tốt đẹp khác. Có câu nói, "Tại sao để ván đã đóng thuyền rồi mới mới nghĩ đến việc quan trọng là cần củi để nấu cơm.". Tại sao phải đợi đến muộn màng rồi mới tính. Họ cần phải nghĩ đến việc có thể có mang thai khi chiết tinh những chi tiêu hàng năm.

    Câu hỏi: Bạch Hòa Thượng, có một số những người mẹ không hôn thú đang gây ra nhiều vấn nạn xã hội, rồi sau đó là có việc phá thai ... Con tự hỏi Hòa Thượng có ý kiến hay đề nghị gì về vấn đề này.

    Hòa Thượng: Quý vị đang đề cập về những bà mẹ độc thân. Khổ thay, những người này đã đánh mất nhân phẩm, vì thế họ không tôn trọng những luật lệ trước khi lập gia đình. Ngày nay, những người trẻ thích khiêu vũ, xem phim ảnh, và ca hát. Họ hưởng thụ ăn uống, vui chơi và tìm khóai lạc. Những đam mê và hành vi dẫn đến sự mất nhân phẩm, đến độ họ không còn ý thức việc họ là con người. Là người, phải có hành vi của người, nhưng họ lại giống như ma quỉ -- lén lút không tôn trọng luật lệ, muốn thử hết trước khi lập gia đình ... và vì thế, họ có thai. Những chuyện như thế này có thể không có gì quan trọng ở phương Tây, nhưng ở Trung Hoa thì thật xấu hổ.

    Vấn đề này xảy ra do chỉ do một niệm vô minh: Nam theo đuổi nữ, nữ tìm kiếm nam ... Bởi vì vô minh, nên hành nghiệp theo sau, sau khi hành nghiệp tạo tác thì có danh sắc, lục nhập, xúc, và thọ hiện hữu …, tất cả nhựng thứ này đều tạo tác bởi vô minh.. Do mê mờ, tình ái khởi sanh, tiếp theo là dục vọng muốn nắm bắt (thủ và hữu), và sau đó là nhiều vấn đề khác xuất hiện … cho đến khi già chết (lão, tử) đến. Toàn bộ chuỗi biến cố này được gọi là Pháp Mười Hai Nhân Duyên.

    Vì người đời không hiểu Mười Hai Nhân Duyên nên, họ làm những việc trái với đạo lý. Vì vậy vấn nạn của họ càng ngày càng lớn. Cho đến lúc họ mang thai, sự việc càng trở nên rắc rối hơn khi thay vì dưỡng thai bào để sinh nở, họ lại phá hủy bào thai lúc thai từ một đến bốn tháng tuổi.

    Tội phá thai rất nặng. Quý vị có thể nghĩ chúng chỉ là con ma bé nhỏ, nhưng những con ma này có những năng lực tâm linh to lớn có thể làm quý vị chết hay mang những tật bệnh kỳ lạ, làm cho quý vị nói năng lảm nhảm và lẫn lộn đầu óc đến khi điên dại ... Tội phá thai còn nặng hơn tội giết người lớn. Nếu quý vị không muốn có con, tại sao lại gây ra việc thụ thai? Tại sao rắc rối như thế? Khổ thay, đàn ông và đàn bà không hiểu đạo lý làm người nên những vấn đề này mới xảy ra.

    Để giải quyết những vấn đề này, chúng ta cần cung cấp giáo dục về tình dục cho những người trẻ, và dạy họ đừng dính mắc vào tình ái cho đến khi khôn lớn trưởng thành; nếu không, họ sẽ gặp những vấn nạn khó khăn. Chúng ta phải thúc đẩy mạnh mẽ để họ tuân theo những quy tắc này .

    Câu hỏi: Bạch Hòa Thượng, nhân dịp Ngài trở lại Đài Loan, xin Ngài ban lời khuyên cho những đệ tử tại Đài Loan.

    Hòa Thượng: Đàn ông và đàn bà cư xử đứng đắn với nhau là nền tảng cho hòa bình quốc gia và thế giới. Nếu người chồng không cư xử như người chồng; người vợ không cư xử như người vợ; và con cái hành xử không ra con cái, thì làm sao thế giới có thể tránh được hỗn lọan? Tôi đề nghị mỗi người phải làm tròn vai trò của mình là vợ hay chồng của mình, không ly dị , và chăm sóc con cái tốt đẹp. Khi mỗi gia đình hạnh phúc và hài hòa thì quốc gia sẽ tự nhiên có hòa bình.

    Ngòai ra, tôi khẩn cầu mọi người hãy ngưng lại việc phá thai! Hãy suy nghĩ xem, nếu những chúng sinh trong bào thai chưa kịp chào đời đã trở thành những oan hồn ; khắp nơi nhan nhản những hồn ma nhỏ bé phiêu bạt đòi mạngi thì làm sao xã hội an lành được? Những hồn ma nhỏ bé này cần phải gặp được người có Đạo hạnh và không tham tiền thì mới được siêu độ. Rất khó đốiI phó vớiI những hồn ma nhỏ bé này! Rất khó giải quyết những vấn đề này, vì vậy, với nghiệp chướng khắp nơi thì làm sao có hòa bình?

    Câu hỏi: Làm sao cứu Đài Loan?

    Hòa Thượng: Bằng cách không phá thai, bằng cách không giết hại chúng sinh.

    Câu hỏi: Phá thai tạo nghiệp sát sanh. Vì con không được học giáo lý Phật trước đây, con đã phạm tội sát sanh mà không biết. Con có thể làm gì để đền bù lại nghiệp chướng của con?

    Hòa Thượng: Bằng cách làm thêm nhiều việc phước thiện, bằng cách sám hối sửa đổi nhiều thêm, , và bằng cách niệm danh hiệu Phật thường xuyên hơn.

    Câu hỏi: Con được nghe rằng phá thai là sai trái trong giáo lý Phật giáo, nhưng con đã phạm tôi này trong quá khứ mà không biết đó là sai trái. Con có thể làm cái gì bây giờ để đền bù lại những điều tai hại mà con đã làm trong quá khứ?

    Hòa Thượng: Không có điều tốt đẹp nào hơn là tự sửa đổi lỗi lầm của mình. Dầu cho tội của quý vị rất to lớn , đầy ngập trời, nếu quý vị thành tâm ăn năn và sửa đổi, thì các tội sẽ tiêu sạch.

    Câu hỏi: Ngày nay có nhiều quảng cáo "Cúng Dường Vong Linh Thai Nhi" trên báo hàng ngày và tạp chí. Chúng con có thể cúng dường những vong linh thai nhi này hay không, hay các vong linh thai nhi này nên được siêu độ ?

    Hòa Thượng: Chữ "cúng dường" không thể dùng trong ý nghĩa này được, vì vong linh thai nhi không phải là Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Nếu quý vị xem đó là cúng dường vong linh thai nhi tức là đã rơi vào tà kiến vậy. Đó phải gọi là 'siêu độ'. Siêu độ chúng sanh không giống cúng dường cho chúng sanh, bởi vì việc siêu độ giúp chúng lìa khổ được vui. Tuy nhiên, vong linh thai nhi mang mối oán hận rất lớn khó làm vơi đi được. bởi vì đó là món nợ tước đoạt sanh mạng thì phải được trả bằng cách đền lại sanh mạng. Thế nhưng, nếu các vong linh thai nhi đó gặp được những vị chân tu không tham tiền thì chúng có cơ hội được siêu độ..

    Câu hỏi: Nhiều người bỏ tiền ra cúng những vong linh thai nhi, có thể nào những căm hận của các vong linh thai nhi này được đền bù hay không?

    Hòa Thượng: Không.

    Câu hỏi: Ngày nay có nhiều người lợi dụng để làm tiền người khác bằng cách nói rằng có thể khuyên giải những vong linh thai nhi. Có những phật tử không tán thành những việc làm như vậy. Thưa Hòa Thượng, ý của Hòa Thượng như thế nào? Những vong linh thai nhi sẽ làm cho những kẻ thiếu nơ chúng bị bênh hay bị những vấn đề khác không? Có những người đã từng phá thai nhưng lại ngại ngùng sợ tốn tiền không mua bài vị để cầu nguyện cho vong linh thai nhi. Bạch Hòa Thượng, Ngài nghĩ như thế nào về việc này? Có thực là những vong linh này có thể gây rắc rối không? Nếu như thế, làm sao để điều phục những vong linh thai nhi này? Làm sao chúng ta có thể an ủi và làm chúng an lạc ?


    Hòa Thượng: Tốt hơn hết là không nên có bài vị hơn là lập một bài vị. Tôi nói thế có nghĩa là gì? Người ta không nên phá thai ngay từ đầu; bằng cách ngăn ngừa phá thai thì không sát sinh. Vì không sát sinh, nên cần bài vị. Thỉnh một bài vị cho một vong linh thai nhi là "lo cái ngọn mà quên cái gốc.", và giống như "bịt tai để đánh chuông", vì đó là tự lừa dối mình. Những vong linh này có thể được siêu độ chăng? Món nợ này có thể giải quyết được chăng? Vâu trả lời là không chắc. Vì thế, nên ngăn ngừa việc xảy ra hơn là hối hận về sau này. Trước khi kết hôn, không nên uống thuốc ngừa thai hay giao hợp tình dục. Tại sao không thể đợi đến khi kết hôn? Tại sao lại vội vàng như thế?

    Câu hỏi: Bạch Hòa Thượng, có những hiện tượng lạ trên thế giới ngày nay như nhiều thiếu nữ chưa kết hôn đi phá thai, bị cưỡng hiếp, và đồng tình luyến ái. Là cha mẹ, chúng con ngày nay phải giáo dục con cái như thế nào để thanh thiếu niên có thể phát triển tâm hồn và thể xác trở thành những cá nhân tốt đẹp?

    Hòa Thượng: Câu hỏi này xuất sắc vì nó liên quan đến giải pháp đúng đắn cho những vấn nạn trong xã hội chúng ta. Các vấn nạn mà quý vị vừa nói đó đều rất đơn giản, dễ giải quyết. Những thanh thiếu niên này từ đâu đến? Những thanh thiếu niên có vấn đề này đều có cha mẹ, có phải không? Tuy nhiên, những bậc cha mẹ này không biết cách làm cha mẹ đúng đắn, làm cha mà không hành xử như một người cha; làm mẹ không hành xử như một người mẹ. Mặc dù, họ sinh ra con cái, nhưng trọng tâm của họ không ở con cái, họ chỉ tham lam khoái lạc và thỏa mãn ham muốn tình dục. Họ hành động chỉ để thỏa mãn chính họ, họ chỉ biết sinh đẻ mà không biết gì về cách giáo dục con cái. Đàn ông và đàn bà ở đất nước chúng ta đang bắt chước các trào lưu ở Âu Châu và Mỹ Châu, đam mê tình ái và đắm say tình dục, hẹn hò bừa bãi và theo đuổi người khác phái; họ nghĩ họ rất thời thượng khi làm như vậy! Nhiều người cho rằng nếu một người đàn ông mà không có bạn gái thì đó là một kẻ khờ. Tương tự như vậy, nếu một cô gái không có bạn trai trước khi kết hôn thì bị cho là bị bệnh tâm thần và không ai muốn kết hôn với cô ta! Vì những người này điên cuồng đắm mình vào tình ái và tình dục, họ chẳng quan tâm về con cái sau khi sinh ra chúng; họ chỉ quan tâm đến chính họ. Như thế, chỉ cần hai ngày rưỡi sau hôn lễ là họ bắt đầu chán nhau, và cuối cùng là ly dị.

    Sau khi ly dị, con cái họ hoặc không có cha hoặc không có mẹ. Rồi sau đó, quan tòa quyết định đứa bé sẽ ở ba ngày ở với cha , và bốn ngày ở với mẹ. Vì họ không còn sống chung với nhau, con cái họ không cần biết trai hay gái sẽ đến ở với người cha một thời gian. Người cha sẽ nói: "Mẹ con không làm tròn bổn phận một người mẹ. Mẹ con không tốt, vì thế ba đã ly dị mẹ con và gặp người đàn bà khác. Người bạn gái này của ba thật tuyệt vời, còn mẹ con là người tồi tệ nhất.". Đứa bé sẽ suy nghĩ: "Ô, mẹ mình thật tệ quá!". Khi đứa bé trở về nhà với mẹ, nó lơ là với mẹ nó và nói rằng: "Mẹ tồi tệ lắm! Mẹ không xứng đáng làm mẹ con!". Đứa bé chỉ nghe câu chuyện một chiều từ cha nó.

    Người mẹ bèn nghĩ: "Con mình thay đổi quá rồi! Tốt hơn là phải có một biện pháp.". Bà nói với con mình: "Ba con là một người đàn ông tồi tệ nhất. Mẹ không thể chịu đựng ba con, vì thế mẹ đã phải ly dị với ba con.". Người mẹ còn nêu thật nhiều lý do khác về việc ly dị người chồng và làm cho đứa bé suy nghĩ rằng: "Ô, ba tôi là nguời đàn ông ông tồi tệ nhất; và mẹ tôi là người đàn bà tồi tệ nhất! Tôi nên làm gì đây? A! với cha mẹ như vậy, tôi cũng phải học cách để thành đứa bé tồi tệ nhất..". Đứa bé bắt đầu dùng ma túy và gây đủ thứ rắc rối. Đứa bé không quan tâm bất cứ chuyện gì, kể cả tổ quốc, gia đình và cơ thể nó. Nó nghĩ,: "Tôi là một hạt giống xấu; cả ba và mẹ tôi đều xấu; do đó tôi phải là người xấu.". Với thái độ này, đứa bé buông thả không còn biết phân biệt cái đúng, cái sai và làm bất cứ những gì nó thích.

    Vì có những người đàn ông bị đàn bà bỏ, và có những người đàn bà bị đàn ông sao nhãng, họ đi quá trớn. Họ trở thành người “đồng tình luyến ái”; và học những hành vi ngược lại nhân tính. Bởi vì vợ chồng không biết cách cư xử với nhau như vợ chồng, cuối cùng họ tạo ra những vấn nạn khổng lồ mà chúng ta phải đương đầu ngày nay. Khi gia đình đổ vỡ, quốc gia cũng đổ vỡ. Nếu mọi người có thể như bà mẹ của Mạnh Tử hay bà mẹ của Nhạc Phi, cả hai đều biết dạy con trở thành vĩ nhân thánh thiện, thì sẽ không còn nhiều trẻ con gây rối lọan. Tôi đã trả lời câu hỏi của quý vị, và tôi không biết là tôi nói đúng hay sai. Nếu quý vị không thỏa mãn với câu trả lời của tôi, xin tìm hỏi những vị khác có khả năng hơn.

    Về vấn đề phá thai, đó là một hành động vô nhân đạo! Quý vị hãy suy nghĩ đi, nếu quý vị giết một bào thai chưa chào đời, quý vị sẽ nói rằng quả báo của hành vi này có nghiêm trọng hay không? Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị điều này dù quý vị có tin hay không: mặc dù thai nhi bị hủy phá chỉ là một thai nhi nhỏ bé, nhưng vong linh thai nhi này còn dữ dằn hơn cả vong linh người lớn! Ngày nay bệnh ung thư trở nên khá thông thường trong xã hội chúng ta, và căn bệnh này một phần là do sự phá thai. Vì càng có nhiều trường hợp phá thai, số vong linh thai nhi càng gia tăng, và những vong linh thai nhi này rãi độc tố khắp nơi làm người ta bất an. Chúng nghĩ rằng: "Quý vị đã giết tôi sớm như vậy, tôi không để quý vị tránh thoát tội này đâu. Tôi cũng sẽ giết quý vị !". Vì thế, chúng ta có nhiều bệnh lạ lùng và không thuốc chữa.
     
  9. Lananh161108

    Lananh161108 Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    15/7/2013
    Bài viết:
    5,572
    Đã được thích:
    1,030
    Điểm thành tích:
    823
    Ðề: Cách để đạt được giàu sang, thông minh, khỏe mạnh sống lâu :

    bài dài quá em mới đọc được nửa nhưng ham hố quá vì thấy như kiểu mở được lòng ý. em oánh dấu tí rảnh đọc tiếp
     
  10. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    "VÔ LƯỢNG CHƯ PHẬT HÀM CỘNG HỘ NIỆM".
    Trích Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm- Thanh Tịnh- Bình Đẳng- Giác Kinh- Phần 35 (Đĩa 38).
    Pháp Sư: HT. Tịnh Không.

    Câu nói này cảm xúc rất sâu sắc đặc biệt, gần như chính mắt chúng ta thấy, chính tai chúng ta nghe, chính thân tiếp xúc, chân thật chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ. Cho nên, thế nhân cầu Phật Bồ tát bảo hộ rất đông, nhưng họ dùng phương pháp gì để cầu? Hối lộ. Họ đến miếu bái bái lạy lạy, cầu khẩn với Phật Bồ tát “Tôi cúng dường ngài từng này, ngài bảo hộ tôi phát tài, sau đó tôi trở lại hoàn nguyện, sẽ cúng dường ngài từng này”. Họ mặc cả với Phật Bồ tát rồi đưa ra điều kiện. Làm gì có loại đạo lý ấy? Nên không có cảm ứng. Để được Phật Bồ tát hộ niệm, bạn không cần điều kiện. Các ngài chỉ xem bạn có thật chịu làm hay không. Làm như thế nào? Y giáo phụng hành. Phật dạy bảo bạn, bạn chân thật phát tâm, không màng đến hậu quả thì bạn được vạn chư Phật hộ niệm. Nếu bạn chịu làm, phát tâm nhưng còn lo lắng, nghi hoặc, chẳng hạn nghĩ xây lầu to tốn rất nhiều tiền nhưng nếu lỡ tín đồ cúng dường không đủ thì phải làm sao, như vậy Phật Bồ tát sẽ không quản việc của bạn. Vì bạn không thật lòng, bạn còn xen tạp vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thì làm sao có cảm ứng.

    Cảm ứng có được duy nhất ở tâm chân thành. Đến lúc đó nếu thật không ai góp tiền, Phật Bồ tát sẽ cho người mang tiền đến. Không thể nghĩ bàn. Đó là thật, nhất định không phải giả. Loại thí dụ cảm ứng này, từ xưa đến nay, chúng ta xem thấy trong truyện ký cảm ứng lục rất nhiều. Chỉ có chí thành tột đỉnh mới được cảm thông. Còn hơi một chút xen tạp, một chút riêng tư thì liền phá hoại hết thảy pháp. Người trụ trì lãnh đạo không mang lòng riêng tư, chỉ có chân thành, thì tôi tin chắc tương lai, người ở trong niệm Phật đường, đồng tu nghe kinh ở giảng đường chỉ có tâm chân thành. Mọi người đồng một mảng chân thành thì sức cảm ứng đó sẽ rất to lớn.
     
  11. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    LIÊN TRÌ CẢNH SÁCH - Chương XXII

    11. Ăn thịt là đại ác
    Riêng bạn, mỗi ngày đều bố thí làm việc thiện, làm được nhiều việc thiện liền có nhiều công đức. Bạn cần phải biết mỗi ngày ăn thịt giết hại là làm việc cực ác. Tất cả công đức tích luỹ được đều bù lại hết. Vì thế, khi sửa đổi thói quen xấu và lỗi lầm, trước hết phải từ nơi ăn chay phóng sinh mà làm trước.

    12. Phóng sinh là việc thiện lớn
    Những việc thiện trên đời có hàng ngàn thứ, nhưng có việc phải cần thời gian và đủ nhân duyên mới có cơ hội làm. Chúng ta không thể với tất cả mọi việc đều quan tâm và làm hết được. Nhưng có một việc thiện công đức rất lớn mà không hạn cuộc thời gian và địa điểm hoặc tiền nhiều hay ít, chỉ cần bạn phát tâm thì tuỳ thời gian nào đó bạn có thể làm được thì nên làm. Việc làm này chư Phật rất hoan hỷ, Long Thiên hết sức hộ trì. Đó chính là hạnh phóng sinh. Phóng sinh đầy đủ công đức không thể nghĩ bàn, là chánh hạnh niệm Phật, cũng là hạnh đẹp nhất của người học Phật. Chúng ta bỏ tiền mua chuộc mạng sinh vật để phóng sinh là chúng ta đã bố thí tiền tài, cứu sinh mạng chúng sinh trong khổ nạn nguy cấp và lo sợ là chúng ta bố thí sự vô uý. Vì sinh mạng chúng sinh Quy y và niệm Phật cho chúng là bố thí pháp. Trong hạnh phóng sinh gồm bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô uý đều đầy đủ, nên công đức phóng sinh là trên hết.
     
  12. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Lợi Ích Của Sự Niệm Phật(Phần 1)

    Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội, Australia 23-06-2003


    .............
    Bây giờ đức Thế tôn dạy chúng ta niệm A Di Ðà Phật, tất cả chư Phật dạy chúng ta niệm A Di Ðà Phật, đây là ý nghĩa gì? Là dạy cho chúng ta dùng phương pháp này để khôi phục lại tự tánh! Cũng như chúng ta đang ngủ, đang mê hoặc điên đảo, câu A Di Ðà Phật này đánh thức chúng ta tỉnh dậy. Sau khi tỉnh dậy mới biết mình vốn là A Di Ðà, mình vốn là Tỳ Lô Giá Na. Nhưng chúng ta đã mê quá lâu, mê quá sâu đậm rồi, mỗi ngày đều niệm nhưng kêu hoài không tỉnh. Phải làm sao đây? Chư Phật Như Lai đã giác ngộ và thức tỉnh rồi sẽ giúp đỡ chúng ta. Pháp Tạng tỳ kheo ở Tây phương Cực Lạc thế giới đã thành A Di Ðà Phật, ngài phát tâm giúp đỡ chúng ta. Ngài nói chỉ cần chúng ta có đầy đủ chân tín và thiết nguyện (niềm tin chân thật và lời nguyện thiết tha). Chân tín và thiết nguyện tức là ‘Bồ Ðề Tâm’, cộng thêm ‘nhất hướng chuyên niệm’ tức là một phương hướng nhất định, một mục tiêu duy nhất là chuyên niệm A Di Ðà Phật, thì sự giúp đỡ này [của A Di Ðà Phật] sẽ thành công ngay. Cho nên câu Phật hiệu này từ tâm chúng ta sanh ra rồi từ miệng niệm ra tiếng. Dùng danh từ của khoa học ngày nay thì gọi là ‘ba động’ (làn sóng).
    Quý vị xem, viện nghiên cứu của tiến sĩ Giang Bổn Thắng ở Nhật Bản là viện nghiên cứu về các làn sóng. Tâm chúng ta khởi lên một niệm, đây là làn sóng của tâm. Làn sóng của tâm này có vận tốc nhanh nhất so với tất cả mọi vật khác. Tâm vừa mới khởi lên một niệm thì làn sóng này tức khắc truyền ra khắp hư không pháp giới, lập tức lan khắp, còn nhanh hơn vận tốc ánh sáng. Vận tốc ánh sáng là 300.000 km trong một giây đồng hồ. Ánh sáng từ trái đất đi đến mặt trời phải mất hơn 8 phút; khoảng cách này [như vậy cũng] không xa lắm. Nhưng khi tâm niệm của chúng ta vừa khởi lên, làn sóng này liền tức khắc lan rộng ra khắp hư không pháp giới, không gì có vận tốc này nhanh hơn vận tốc này. Chư Phật dạy rằng khi chúng ta khởi tâm để niệm A Di Ðà Phật, đức Phật A Di Ðà ở Tây phương Cực Lạc thế giới lập tức liền nhận được làn sóng này; chúng ta có thể ‘liên lạc và nói chuyện’ với đức Phật nhanh như vậy!
    Khi đức Phật A Di Ðà nhận được làn sóng này, ngài cũng có hồi âm nhưng chúng ta không nhận biết được. Tại sao chúng ta không biết được? Bộ máy của chúng ta hiện nay quá cũ, quá tệ, không còn linh hoạt và mẫn tiệp như ngài nữa; làn sóng cực kỳ nhỏ ngài cũng có thể thâu nhận được. Bộ máy của chúng ta tại sao không còn linh hoạt được nữa? Phật nói tại vì chúng ta có vọng tưởng, có phân biệt, có chấp trước. Vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước làm cho căn tánh của chúng ta bị chướng ngại mất, căn tánh của lục căn có ba thứ chướng ngại to lớn này, vì thế cho nên chúng ta không thể nhận được hồi âm của chư Phật.
    Ðến khi nào thì chúng ta mới có thể thâu nhận được? Phải tu định. Khi bạn có định công (khả năng định tâm) thâm sâu. Ðịnh công ở đây nghĩa là bạn có thể buông xả tất cả vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước. Khi vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước giảm đi thì tác dụng của sáu căn sẽ dần dần linh hoạt trở lại. Khi đó bạn sẽ nhận được hồi âm của A Di Ðà Phật, bạn có thể thấy Phật, bạn có thể nghe thấy tiếng Phật thuyết pháp, bạn có thể ngửi được hương thơm của Cực Lạc thế giới, bạn có thể cảm được gió mát hoà nhã của Cực Lạc thế giới. Cực Lạc thế giới cách chúng ta rất xa.
    ...........................
    Trước hết chúng ta phải hiểu rõ cái ‘tánh’ này, Phật tánh, Pháp tánh là không sanh không diệt. Chúng ta phải hiểu rõ đạo lý này. Tánh không sanh không diệt; nếu ‘tánh’ mê rồi thì biến thành ‘thức’. Chúng ta thường kêu bằng linh hồn. Linh hồn là gì? Ðó là tự tánh mê rồi thì biến thành ra hình trạng này, biến ra linh hồn; linh hồn đi đầu thai trong lục đạo. Không kể là đầu thai bằng phương cách nào thì nó cũng không sanh không diệt. Ðến khi nào giác ngộ rồi thì thành Bồ Tát, thành Phật. Giác ngộ thì được đại tự tại, không giác ngộ thì bị nghiệp lực chuyển. Thí dụ như lúc còn sống [chúng sanh] tạo thiện nghiệp, tâm thiện, niệm thiện, hành động thiện, hoàn cảnh sanh sống của họ là cõi người hay là cõi trời (cõi trời có 28 tầng). Nếu như tâm của họ không thiện, tư tưởng không thiện, hành vi không thiện, tương lai họ sẽ sanh vào cõi ngạ quỷ, súc sanh, hoặc là địa ngục.
    Cho nên thần thức, chúng ta gọi là linh hồn, đi đầu thai chứ không bị mất đi; nó sẽ chuyển biến chứ không tiêu diệt. Nếu nó giác ngộ thì sẽ chuyển thành Phật tánh, nếu mê thì chuyển thành thần thức; Nó sẽ chuyển biến tuỳ theo mê hay ngộ và vĩnh viễn không tiêu diệt. Cho nên nếu bạn hiểu thật rõ cái chân tướng sự thật này, bạn sẽ không sợ chết nữa. Tại sao vậy? Vốn là không có sanh tử. Sanh tử là cái gì? Chỉ là thay đổi thân thể, thay đổi hoàn cảnh sinh sống thôi. Cũng giống như chúng ta di dân, hiện nay nói ‘di dân’ mọi người đều dễ hiểu. Chúng ta từ Trung quốc di dân đến Mỹ quốc, đây là thay đổi thân thể và thay đổi thân phận; chúng ta không dùng quốc tịch Trung quốc nữa mà đổi thành quốc tịch Mỹ. Cũng như bạn thay đổi một cái thân thể và thay đổi hoàn cảnh sinh hoạt mà thôi. Gần đây chúng ta lại từ Mỹ di dân đến Úc châu, và lại biến thành công dân Úc, lại đổi thân phận nữa. Người thì không chết, chỉ thay đổi thân phận ba lần, thay đổi hoàn cảnh sinh sống ba lần. Sự việc là như thế đó, cho nên bạn phải hiểu như vậy.
    Hiện nay chúng ta ở trong thế gian này vẫn thường liên lạc với bà con và bạn đồng tu ở Trung quốc, Mỹ quốc. Nếu bạn sanh lên cõi trời hoặc là sanh lên cõi Cực Lạc, đạo lý cũng giống như vậy, bạn cũng sẽ giữ liên lạc với những bà con bạn bè ở trái đất này; bạn sẽ thường thường giúp đỡ và thăm viếng họ. Nhưng cảnh giới không giống nhau, không gian duy thứ không đồng (duy có nghĩa là chiều, là phương vị). Họ đến đây để thăm viếng chúng ta, họ thấy rất rõ ràng, nhưng chúng ta không thấy họ, đây là vì không gian duy thứ không giống nhau. Tuy là chúng ta không thấy họ nhưng chúng ta thường thường kỷ niệm họ. Thí dụ như lúc chúng ta tụng kinh lạy Phật đem công đức hồi hướng [cho họ], đó là kỷ niệm họ. Họ cũng thường lại thăm viếng chúng ta, âm thầm giúp đỡ và vẫn duy trì liên lạc với chúng ta.
    Khi chúng ta tu hành có đầy đủ công phu và trình độ, đủ trình độ nghĩa là sao? Nghĩa là đủ định công (khả năng định tâm). Có đủ định công thì có thể giảm bớt vọng tưởng, phân biệt, và chấp trước của chúng ta; giảm đến một mức nào đó thì cái cảm ứng này sẽ trở nên hiện thực (rất rõ ràng). Họ đến thăm chúng ta hoặc là chúng ta đi thăm họ; cho nên đây là cảnh giới trong [trạng thái] định, không gian và thời gian đều không còn tồn tại nữa, là trong khi nhập định không tồn tại. Cho nên trong định có thể qua lại, liên lạc, có thể đi về quá khứ và có thể đi đến tương lai. Hiện nay nhà khoa học biết được rằng không gian thực sự có nhiều duy thứ tồn tại, nhưng không biết dùng phương pháp gì để đột phá nó (vượt qua ranh giới giữa những duy thứ này).
    Giống như những khoa học gia nói đến, trên lý luận họ dùng ‘gia tốc độ’. Nếu tốc độ này nhanh hơn vận tốc ánh sáng trên lý luận thì có thể đi ngược về quá khứ, có thể đột phá không gian. Cho nên trong khi nhập định những người học Phật chúng ta biết được. Trong nhà Phật nói ‘pháp giới’ là danh từ mà khoa học gia gọi là ‘không gian duy thứ’. Tại sao có nhiều pháp giới như vậy? Từ đâu đến? Ðều là từ vọng tưởng, phân biệt, chấp trước biến hiện ra. Nếu vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn đã dứt hết, thì không gian duy thứ sẽ không còn nữa, hoàn toàn phá tan. Cho nên không cần biết người thân bạn bè của chúng ta ở trong không gian duy thứ nào chúng ta đều có thể nhìn thấy được, chúng ta đều có thể trực tiếp liên lạc.
    Cho nên có câu nói ‘Phật không độ người không có duyên’. Có cơ hội gặp được thì gọi là có duyên. Không có duyên thì không gặp được, đức Phật sẽ không đốt đèn đi khắp nơi để tìm, không có đạo lý này! Ai gặp được thì người đó có duyên. Ðức Phật diệt độ cho đến ngày nay, tuy là ngài không còn tại thế, kinh điển còn được lưu lại trong thế gian này, chúng ta có thể gặp được kinh điển thì là có duyên. Không gặp được kinh điển thì không có duyên. Nếu gặp được kinh điển mà bạn còn có thể đọc tụng, có thể hiểu rõ, có thể tin tưởng, có thể noi theo đạo lý và phương pháp trong kinh điển mà tu hành, thì bạn sẽ thành công!
    Hiện nay những thứ mà người trong thế gian này mong cầu không ngoài ba thứ: tiền tài, trí huệ, và sức khỏe sống lâu (hôm qua tôi ở ‘Tuyết Lê’ (New South Wales) cũng có đề cập đến vấn đề này). Ở Cực Lạc thế giới ba thứ này đều có đầy đủ. Tây phương Cực Lạc thế giới có vô lượng tiền tài (tài phú). Bạn hãy xem, trong kinh đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu cho chúng ta hoàn cảnh tình huống ở Cực Lạc thế giới. Ở bên đó mặt đất không phải là bằng đất đá mà là lưu ly. Lưu ly là cái gì? Chúng ta ở thế giới này gọi là cẩm thạch, ngọc màu xanh, phần đông giá trị của cẩm thạch là rất cao. Mặt đất ở cõi Cực Lạc toàn làm bằng cẩm thạch, cho nên ở bên đó cẩm thạch không đáng giá chút nào. Tại sao vậy? Thì cũng như đá sỏi của chúng ta vậy. Chúng ta ở đây đeo một chiếc vòng bằng cẩm thạch thì rất quý, nếu qua bên đó còn đem ‘đất đá’ đeo trên tay thì không phải làm trò cười cho người sao? Chúng ta ở đây xem vàng rất là quý báu, còn ở cõi Cực Lạc thì vàng được dùng để làm gì? Cũng giống như xi măng là để lót dưới đất để đắp đường đi. Bạn hãy xem trên mặt đất lưu ly có đường đi làm bằng vàng, đừng nói đến những thứ khác chỉ nói như vậy thì bạn biết ở bên đó ‘giàu sang’ đến bực nào! Khi người tỷ phú ở thế gian chúng ta đến cõi Cực Lạc thì biến thành một kẻ bần cùng nghèo mạt! Không tiền!
    Nhà cửa ở cõi Cực Lạc đều làm bằng bảy thứ báu: vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, không phải như gạch và xi măng của chúng ta ở đây. Bạn nghĩ coi họ ‘giàu sang’ như thế nào. Quần áo thức ăn uống đều là tự nhiên có; bạn muốn ăn thứ gì, vừa nghĩ tưởng muốn ăn thì trên mặt bàn đã hiện đầy ra. Ngày xưa ở Trung Quốc mỗi bữa ăn của những vị vua phải có đủ 100 món ăn trên bàn, không cần biết là ông vua ăn được mấy món, nhưng mỗi bữa ăn nhất định phải dọn đủ 100 món ăn. Cho nên vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế giới thì còn sang trọng hơn ông vua thời xưa. Bữa ăn của ông vua chỉ có 100 món ăn, còn bên đó nếu muốn một ngàn món, một vạn món, khi niệm vừa khởi ý muốn thì tất cả đều hiện ra trước mặt. Ông vua làm sao có thể so sánh với bạn được! Sau khi ăn xong không muốn ăn nữa thì lập tức biến mất, không cần phải rửa chén, không cần phải dọn dẹp, tất cả đều biến mất.
    Cho nên thế giới bên đó là nơi mà ngày nay khoa học gia thường nói vật chất có thể biến thành năng lượng [và ngược lại]. Ngày nay khoa học gia biết được lý luận này nhưng làm không được, ở Cực Lạc thế giới đã làm được. Khi muốn thì đem năng lượng biến thành vật chất, tha hồ hưởng thụ. Khi không muốn những vật chất này lại được biến thành năng lượng trở lại, không còn gì hết, được đại tự tại. Nhà cửa nơi cư trú của bạn muốn ở trên mặt đất thì căn nhà này liền ở trên mặt đất; muốn ở trên không trung thì nó sẽ bay lên lơ lửng ở trên không trung. Khi đi đến những thế giới khác ở tha phương, không cần phải ngồi máy bay, căn nhà của bạn có thể bay, có thể làm công cụ phi hành của bạn. Tùy tâm mình muốn gì được nấy!
    Tướng hảo quang minh không chỉ có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp mà thôi. Tướng tốt của người ở thế gian chúng ta (quý vị nào xem tướng rồi, tướng nào là tướng tốt) tướng tốt là như thế nào, ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Ðức Phật trong kinh nói với chúng ta, người ở tây phương Cực Lạc thế giới có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Quý vị xem trong kinh đức Phật Thích Ca đặt ra thí dụ, không những là người ở thế giới chúng ta không thể sánh bằng được, cho đến Ðại Phạm Thiên Vương, tướng phú quý của ‘Ma Hê Thủ La Thiên Vương’ khi so sánh với người vãng sanh hạ hạ phẩm ở Cực Lạc thế giới thì cũng giống như một người ăn xin, không thể nào bì được! Không có một thứ nào không xứng tâm vừa ý. Ðó là lợi ích của sự niệm Phật, lợi ích của sự vãng sanh.
    Nếu bạn muốn hỏi vãng sanh có thật không? Thật đó, một tí gì cũng không phải giả. Trong đời tôi thấy tận mắt mười mấy người đứng vãng sanh, ngồi vãng sanh. Còn những người nghe nói vãng sanh thì không biết là bao nhiêu mà kể. Gần đây nhất, khoảng hai năm nay, không đến hai năm, lão cư sĩ Trần Quang Biệt là vị Lâm trưởng nhiệm kỳ trước của Cư Sĩ Lâm Tân Gia Ba. Bạn hãy xem ông ta vãng sanh, đây là người chúng ta đã nhìn thấy tận mắt, các bạn đồng học trong chúng ta đều có đi hộ niệm cho ông. Lúc lão cư sĩ hơn tám mươi tuổi thì thân thể yếu dần rồi sanh bịnh. Nói thật ra, khi sanh bịnh thì ông mới hết lòng học Phật, khi ông chưa bịnh thì không có học Phật. Ông là một nhà kinh doanh ngân hàng, ngày ngày đều bận rộn công việc làm ăn, không có thì giờ đọc kinh và cũng không có thì giờ nghe kinh.
    Sau khi mang bịnh thì không có cách nào khác phải ở nhà dưỡng bịnh, mỗi ngày nằm trên giường nhàn rỗi. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên gởi những băng video giảng kinh của chúng ta đến tận nhà cho ông. Mỗi ngày ông đều xem, càng xem càng thích thú. Ông mỗi ngày xem tám giờ đồng hồ, thời giờ còn lại thì niệm A Di Ðà Phật. Trải qua thời gian 2 năm, không dài lắm, thì ông đã thành công. Một ngày nọ ông nói với cư sĩ Lý Mộc Nguyên rằng ông sẽ vãng sanh về Cực Lạc. Lý cư sĩ nói với ông rằng lúc bấy giờ ông không thể vãng sanh được. Lúc bấy giờ công việc ở Cư Sĩ Lâm còn chưa ổn định, chỉ cần ông còn sống thì sức ảnh hưởng của ông vẫn còn, cho nên hy vọng là ông ở lại để tiếp tục giúp đỡ. Ông Trần đồng ý và nói vậy thì ông sẽ đợi thêm hai năm nữa.
    Hai năm sau đó, trong kỳ họp sau cùng, Cư Sĩ Lâm tổ chức bầu cử cho [ban chấp hành] nhiệm kỳ mới. Hôm đó ông ngồi xe lăn đến tham dự, tôi cũng có mặt trong buổi họp. Ðây là lần cuối cùng ông đến Cư Sĩ Lâm. Sau khi ra về, tôi nghe người nhà của ông kể lại, có một hôm ông viết ‘mồng bảy tháng tám’ trên khoảng trống viền quanh tờ báo, ông viết hết mười mấy lần ‘mồng bảy tháng tám’. Người nhà ông không ai dám hỏi, cũng không ai biết là việc gì; đúng ngay ngày mồng bảy tháng tám hôm đó ông vãng sanh. Cách ba tháng trước, ba tháng trước ngày ông vãng sanh thì ông đã biết ngày giờ ra đi rõ rõ ràng ràng. Mồng bảy tháng tám, ba tháng trước đã viết ra hết mười mấy lần; Ðây là ‘dự tri thời chí’ (biết trước ngày giờ vãng sanh)!
    Từ lúc ông sanh bịnh bắt đầu nghe kinh niệm Phật cho đến khi ông vãng sanh là khoảng bốn năm. Sau khi ông vãng sanh, Cư Sĩ Lâm ở Tân Gia Ba xuất hiện ra một việc rất kỳ lạ. Sau khi việc này xảy ra có một hôm, cư sĩ Ðỗ Mỹ Tuyền lại Niệm Phật Ðường kiếm tôi; trước đó tôi không quen biết bà. Việc gì đã xảy ra? Rất nhiều oan gia chủ nợ của lão cư sĩ Trần Quang Biệt đến Cư Sĩ Lâm. Những người này không phải người còn sống, đều là quỷ, rất là nhiều. Số oan gia chủ nợ này trước đó vốn là ở nhà ông Trần, nhưng ông Trần mỗi ngày nghe kinh niệm Phật nên họ không dám phá khuấy ông. Nghe kinh niệm Phật có thần hộ pháp cho nên tuy là số oan gia chủ nợ này vây quanh kế bên nhưng không dám làm hại ông. Sau khi nhìn thấy ông Trần vãng sanh họ đều cảm động.
    Cho nên họ đi theo pháp sư, chúng tôi phái pháp sư mỗi ngày lại trợ niệm cho ông, một nhóm bốn vị pháp sư luân phiên nhau. Số oan gia chủ nợ này đi theo mấy vị pháp sư này về đến Cư Sĩ Lâm. Họ nói thần hộ pháp ở Cư Sĩ Lâm không ngăn cản và nói rằng họ đến không có ý phá rối mà đến để xin quy y. Họ nói sau khi thấy ông Trần vãng sanh họ rất hoan hỷ nên đến để xin quy y. Lúc đó tôi đang ở Hương Cảng, hình như là thầy Toàn gọi điện thoại cho tôi và nói nhóm quỷ này xin quy y, tôi nói với thầy mau mau cho họ quy y.
    Sau khi quy y họ muốn nghe kinh. Các pháp sư ở Cư Sĩ Lâm mới nói với họ rằng lầu bốn là Niệm Phật Ðường, lầu năm là Giảng đường, mỗi ngày đều có pháp sư ở đó giảng kinh. Họ nói ‘ánh sáng’ ở lầu năm quá mạnh họ chịu không nổi. Sau khi thương lượng thì chúng tôi mở truyền hình ở lầu một và lầu hai. Họ yêu cầu nghe kinh Ðịa Tạng, cho nên chúng tôi vặn máy truyền hình suốt ngày 24 giờ để băng video cho họ nghe. Họ thích nghe kinh Ðịa Tạng và kinh Thập Thiện Nghiệp Ðạo. Họ thích nghe hai bộ kinh này nhất, sau khi nghe xong thì họ ra về. Ðây là chuyện kỳ lạ đã xảy ra.
    Sau đó mấy ngày, hình như là một tuần, thì cư sĩ Ðỗ Mỹ Tuyền đến kiếm tôi để thuật lại chuyện quỷ nhập vào thân bà. Bà nói lúc đó bà mê ngất đi, sau khi hôn mê thì cái gì cũng không biết. Lúc tỉnh dậy người khác nói lại cho bà biết rằng bà đã bị ‘nhập’ hết hơn một giờ, một câu bà cũng không biết bà đã nói cái gì. Nhưng người nhà của bà không tin, nhất là em trai của bà, hắn nói chuyện này không đáng tin tí nào. Sau đó nghe nói hắn bị tám con quỷ đánh hết một trận, đánh xong còn xô hắn ta vô ống thoát nước ở bên đường. Hắn bị thương nặng phải nằm xe cứu thương vô bịnh viện cứu cấp. Hắn báo cảnh sát và nói là hắn bị bảy hoặc là tám người đánh bị thương. Kết cục khi cảnh sát đến để điều tra, hỏi thăm những người chung quanh, những người chung quanh này nói không phải, tự mình hắn đi lảo đảo rồi té xuống ống thoát nước, không có ai đánh hắn hết. Bảy tám con quỷ đánh hắn, kể từ đó hắn mới tin, cả nhà đều tin hết. Ðỗ Mỹ Tuyền bị quỷ nhập, nhờ đó mà cả nhà được độ. Cho nên chuyện này là thiệt không phải giả.
    Tôi cũng gặp và nghe qua nhiều chuyện linh quỷ nhập vào người, trong đó phần đông là thiệt, nhưng cũng có giả nữa, nhưng giả thì rất ít. Những người giả mạo đều có âm mưu hoặc mục đích rõ ràng, khi nghe qua thì biết liền. Cho nên phải có khả năng phân biệt [chánh tà] để khỏi bị những người này gạt. Khi chúng ta giao thiệp với quỷ thần nhất định phải cẩn thận, quyết đừng để bị hại. Bạn để ý lắng nghe họ nói, cái tướng mà họ hiện ra rất đáng để chúng ta tham khảo.
    Khoá lễ ‘Ba Thời Hệ Niệm’ là do Trung Phong Thiền sư lập ra, ngài là người đời nhà Nguyên. Ngài y theo kinh Di Ðà rồi thiết lập ra nghi thức này để siêu độ người mất. Chúng ta tu học Tịnh Ðộ dùng nghi thức này thì vô cùng thích hợp. Nếu bạn xem xét kỹ lưỡng, nghi thức của khoá lễ này có tán Phật, tụng kinh, niệm chú (chú Vãng sanh), sám hối, phát nguyện, hồi hướng, và quy y. Tất cả có tám phương pháp tu học, vô cùng đầy đủ. Quý nhất là các bài giảng khai thị, rất nhiều khai thị vô cùng hấp dẫn, đối với sự tu học của chúng ta có rất nhiều ích lợi. Cho nên nếu các bạn thường xem và thường đọc những bài khai thị này, tôi tin là xem lâu thì bạn có thể ngộ nhập vô cảnh giới này, khế nhập vào cảnh giới thì có ích lợi lớn.
    Hiện nay chúng ta lấy nghi thức này làm công khoá, chúng ta mỗi tuần làm một lần, làm công khóa nhất định thì hai cõi âm dương đều có lợi ích. Ngày nay trên thế giới này, người ta khổ, quỷ thần cũng khổ. Loài người chúng ta có tai họa, thế gian này có tai họa, người ta không biết, nhưng quỷ thần biết; những năm gần đây những dấu hiệu tin tức từ cõi âm truyền đến đều nói đến những tai họa trên thế gian này, rất là kinh khủng! Những gì họ nói tôi đều tin, tôi không phải tin những tin tức mà linh quỷ truyền đến, tôi tin những đạo lý về nhân quả báo ứng mà đức Phật nói trong kinh điển, tất cả tai họa đều do ác nghiệp chiêu cảm! Bạn xem thử những người trong thế gian này suy nghĩ những gì? Họ niệm cái gì? Họ nói cái gì? Họ làm cái gì? Bạn quan sát kỹ lưỡng thì bạn sẽ biết liền.
    Người xưa nói: ‘Tích thiện chi gia, tất hữu dư khánh, tích bất thiện chi gia, tất hữu dư ương’ (Nhà tích thiện nhất định phải có nhiều niềm vui, nhà tích chuyện không thiện thì nhất định phải có nhiều ương họa). Trong xã hội hiện nay, tất cả chúng sanh tích lũy những gì? Tâm niệm ác, tư tưởng ác, ngôn ngữ ác, hành vi ác, thì làm sao không có tai họa! Ngày xưa nền giáo dục cổ truyền đã dạy người ta phương thức làm người từ lúc tuổi còn nhỏ. Sự giáo dục của Trung quốc từ đời Nghiêu Thuấn đều có ghi chép trong lịch sử. Từ thời Nghiêu Thuấn đến nay có khoảng 4500 năm. Từ xưa đến khoảng cuối đời nhà Thanh, nền giáo dục ở Trung quốc dạy những gì? Ðó là dạy luân lý đạo đức. Nền luân lý đạo đức này đã [có công] duy trì đất nước dân tộc Trung quốc được 5000 năm. Sau thời Dân Quốc cho đến nay mọi người đều coi trọng khoa học Tây phương, đem luân lý đạo đức cổ truyền vứt bỏ. Sanh hoạt vật chất hình như được nâng cao, mức sống nâng cao, nhưng luân lý đạo đức mất đi rồi. Xã hội động loạn, nhân tâm bàng hoàng, thử hỏi có ai trong thế giới hiện nay có cảm giác an toàn? Kể cả bản thân chúng ta, bạn thử đi nghe ngóng và hỏi người ta xem, hỏi họ có cảm giác an toàn không? Không ai cảm thấy an toàn! Thật đáng thương!
    Hiện nay những người học Phật thì có lẽ tốt hơn một chút. Người học Phật chân chánh, thật là có được những lợi ích từ Phật pháp, tâm họ tương đối thanh tịnh thì có thể có cảm giác an toàn. Tại sao vậy? Biết được thật tướng của các pháp cũng là biết được chân tướng của vũ trụ nhân sanh, biết được tất cả chúng sanh không sanh không diệt, chỉ là chuyển biến mà thôi, cho nên mới kêu là tâm an lý đắc. Hiểu rõ đạo lý này thì tâm sẽ an; không hiểu rõ đạo lý thì tâm làm sao an được! Trong xã hội ngày nay, nếu như cầu thân tâm an ổn, thì phải tìm hiểu cho rõ đại đạo lý của vũ trụ nhân sanh. Sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật, tâm của bạn sẽ an và tâm sẽ định. Từ đó bạn sẽ biết sanh hoạt cách nào, làm việc cách nào, giao tiếp người và sự việc cách nào. Bài giảng khai thị trong nghi thức ‘Ba thời hệ niệm’ quá hấp dẫn đi thôi!
     
  13. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Lợi Ích Của Sự Niệm Phật(Phần 2)

    Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội, Australia 23-06-2003


    Như vậy thì khi người ta qua đời tại sao lại phải cúng thất? Rất nhiều người hỏi vấn đề này. Nếu người ta niệm Phật đã vãng sanh được thì thật ra không cần phải cúng thất nữa. Người vãng sanh và người sanh lên trời (những người khi còn sống làm nhiều chuyện thiện thì sau khi qua đời có thể sanh lên trời), đều không có thân trung ấm, không cần phải cúng thất. Nhưng phần đông nghiệp chướng và tập khí của người ta quá nặng, nếu họ đọa vào tam ác đạo hoặc là sanh làm người, những người này chỉ là người rất bình thường, không phú quý, tất cả đều có thân trung ấm. Thân trung ấm phần đông kéo dài 49 ngày, tức là 7 tuần. Thân trung ấm cách 7 ngày lại có một lần biến dị sanh tử, cũng có nghĩa là mỗi 7 ngày có một lần rất đau khổ.

    Ngay lúc này tụng kinh niệm Phật cho họ, hoặc sám hối rồi hồi hướng cho họ thì có thể giảm bớt sự đau đớn của họ, trong kinh Ðịa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện Kinh có nói đến việc này. Cho nên việc cúng thất là từ Kinh Ðịa Tạng mà ra, bạn xem kinh này thì sẽ hiểu rõ. Vì thế tuyệt đối không nên tự tử, tự tử thì rất là đau khổ. Tại sao vậy? Phàm những người chết vì tự tử, thân trung ấm của họ cứ mỗi 7 ngày lại phải tự sát một lần. Không phải chỉ chết một lần mà mỗi 7 ngày lại tự sát thêm một lần, rất là đau khổ. Thí dụ như người treo cổ chết, mỗi 7 ngày hắn phải treo cổ thêm lần nữa; uống thuốc độc tự tử thì cứ cách 7 ngày lại phải uống thuốc độc để chết trở lại. Nếu người nhà tu phước dùm họ có thể giảm bớt sự đau đớn này. Nếu không có gia quyến tu phước cho họ như vậy thì không cách nào tránh khỏi. Ðây là việc mà đức Phật nói cho chúng ta biết. Nếu như bạn hiểu được thì bảy cái thất này đều phải cúng; không thể chỉ lựa chọn vài cái, còn những cái còn lại thì không cần cúng, không thể như vậy được. Tại sao vậy? Cách 7 ngày họ có một lần biến dị sanh tử thì rất đau đớn. Chúng ta từ kinh điển hiểu được những đạo lý này. Cho nên lợi ích của sự [đọc kinh] niệm Phật quá nhiều đi thôi.

    Trong kinh có nói về việc cúng thất rất rõ, trong 7 phần công đức người cúng thất hưởng được 6 phần, người mất chỉ hưởng được một phần. Cho nên lúc cúng thất tốt nhất là nên mời 7 vị pháp sư, trong 7 phần công đức của 7 vị pháp sư người mất chỉ hưởng được một phần. Nếu muốn đạt được lợi ích của sự cúng thất, những người cúng thất này không kể là tại gia hay xuất gia phải dùng tâm chân thành để cúng thì mới có lợi ích chân thật. Nếu mà chỉ làm theo nghi thức để tụng kinh bái sám, tâm địa không chân thành thì lợi ích rất nhỏ. Thế nào là tâm không chân thành? Ðó là vừa niệm kinh vừa khởi vọng tưởng, tâm không tập trung thì không đạt được lợi ích. Nếu người qua đời này lúc còn sống rất nóng nảy, rất dễ giận mà người cúng thất lại không thành tâm cúng thất, vong linh người mất sẽ kiếm chuyện phá rối [người cúng thất]. Quỷ và người giống nhau, nếu bạn có lỗi với họ, họ sẽ kiếm chuyện gây rắc rối và sẽ trả thù. Nếu người nào tâm địa hòa nhã thì thôi, họ không gây rắc rối.

    Cho nên tất cả mọi chuyện đều có nhân quả! Nghiệp nhân quả báo tơ hào chẳng sai, đó là chân lý. Trong Phật pháp có câu: ‘Vạn pháp giai không, nhân quả bất không’ (vạn pháp đều không, nhân quả không có không). Tại sao nhân quả không có không? Nhân quả có sự ‘chuyển biến bất không’. Nhân sẽ biến thành quả. Giống như chúng ta trồng một cây ăn trái, thí dụ này ai cũng biết hết; nếu bạn trồng một cây đào, hột trái đào là hột giống, hột giống là nhân! Hột trồng xuống đất thì lớn thành cây đào, cây đào sẽ có trái đào, nhân sẽ biến thành quả; quả đào lại chứa đựng hột đào, đây là ‘chuyển biến bất không’. Kế đó là ‘tuần hoàn bất không’, nhân quả tuần hoàn xoay chuyển không có không. Kế đó là ‘tương tục bất không’ (liên tục nối liền không có không). Cho nên nói tóm lại là có ba hiện tượng: chuyển biến, tương tục, và tuần hoàn; đây là nói tất cả sự việc trong thế gian và xuất thế gian đều không vượt ra khỏi nhân quả.

    Chúng ta đọc kinh điển Ðại thừa, bạn xem những thứ [nhân quả] nói trong kinh. Kinh Hoa Nghiêm nói về ‘ngũ châu nhân quả’, không lìa nhân quả. Kinh Pháp Hoa nói ‘nhất thừa nhân quả’. Phật pháp xuất thế gian cũng không lìa nhân quả, nhân quả là chân lý trong vũ trụ! Thiện có quả báo thiện, ác có quả báo ác, người xưa nói rất hay, không phải là không báo, mà là thời giờ chưa đến. Khi nhân gặp duyên, thì đây là thời giờ đã đến; nếu nhân chưa gặp duyên thì đây là thời giờ chưa đến; khi gặp duyên thì quả báo nhất định sẽ hiện ra. Cho nên nếu chúng ta hiểu được đạo lý này, đặc biệt là trong sự giao thiệp và qua lại giữa người và người với nhau, người xưa nói rất hay: ‘Oan gia nên giải chớ đừng nên kết’. Hãy ghi nhớ, tuyệt đối đừng bao giờ kết oán thù với người khác, kết oán thù thì rắc rối rất lớn; oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp không bao giờ dứt được, cả hai bên đều đau khổ.

    Mỗi người chúng ta trong thế giới này không phải chỉ có một đời này thôi, bạn còn có đời trước. Trong nhiều đời kiếp trước, bạn đã kết oán thù với bao nhiêu người, cho nên trong đời này sự sanh hoạt thường ngày không qua được một cách suông sẻ! Khi bạn gặp một người lạ ngoài đường, từ trước đến giờ chưa gặp qua lần nào, nhưng vừa mới gặp thì người đó lại ‘kên’ bạn, (nhìn bạn bằng cặp mắt rất hằn học), đó là nghiệp mà bạn đã tạo trong đời quá khứ. Chúng ta là người học Phật nên chúng ta hiểu được. Người đó nhìn mình một cách hằn học, A Di Ðà Phật, bạn cũng đừng nhìn họ, cúi đầu niệm một câu Phật hiệu trả lời cho người đó, như vậy thì hóa giải rồi! Nếu khi người đó ‘kên’ bạn một cái mà bạn ‘kên’ lại họ thì sẽ có chuyện rắc rối. Cho nên nếu người đó nhìn bạn gật đầu mỉm cười thì đó là nhờ thiện duyên đời quá khứ.

    Cho nên nghiệp duyên phải hoá giải từ nội tâm, đây là điều mà chúng ta thường nói đến, nhất định đừng chống đối gây mâu thuẫn với tất cả người và sự việc, đừng nên đối lập. Phải đem cái tâm niệm chống đối này hóa giải đi, đối xử bình đẳng và tương thân tương ái với nhau thì mới tốt. Hy vọng mọi người lưu ý điểm này, nếu chúng ta gặp oan gia chủ nợ, chuyện này rất thường xảy ra, nếu họ vô tình hay cố ý hủy báng hoặc sỉ nhục chúng ta, thậm chí mưu hại chúng ta, chúng ta phải hiểu rõ nhất định đừng sanh tâm sân hận, nhất định đừng khởi tâm muốn trả thù.

    Phải học theo Phật! Quý vị có rất nhiều người niệm kinh Kim Cang, trong kinh có nói đến chuyện Nhẫn Nhục Tiên Nhân bị vua Ca Lợi cắt thịt trên mình, đây là việc sỉ nhục và làm tổn thương vô cùng lớn lao. Nhưng Nhẫn Nhục Tiên Nhân có thái độ như thế nào? Không có một chút tâm niệm sân hận gì hết, nhẫn nhục ba la mật được thành tựu viên mãn. Không có một chút tâm niệm muốn trả thù nào hết, thì trì giới ba la mật được thành tựu viên mãn; vả lại ngài còn phát tâm trong tương lai khi thành Phật người đầu tiên phải độ là vua Ca Lợi thì bố thí ba la mật được thành tựu viên mãn. Chúng ta phải học những đức tánh này! Phần đông người ta không làm nổi những chuyện này; phần đông ai cũng sẽ sanh tâm sân hận và báo thù, như vậy thì sẽ có rắc rối lớn. Chuyện trả thù thì đời đời kiếp kiếp sẽ không bao giờ chấm dứt. Vì vậy không nên kết oán thù với người, nhất định phải hóa giải, không được kết oán thù với người.

    Tuyệt đối đừng nên thiếu nợ người khác, phải nên thận trọng. Trong một đời này, nếu gặp người đến để đòi nợ thì nhất định phải trả! Khi kẻ ăn cướp đến giựt đồ, đến ăn cắp đồ của bạn, bạn bị tổn hại, tất cả phải nghĩ là mình trả nợ thì sẽ êm chuyện. Họ ăn cắp đồ của mình thì có lẽ là đời quá khứ mình đã ăn cắp đồ của họ cho nên đời này họ lấy lại, lấy một trả một, chấm dứt nợ nần một cách vui vẻ. Cũng tuyệt đối đừng có tâm niệm muốn lợi dụng người khác. Tâm niệm lợi dụng là trộm cắp, tương lai cũng phải trả lại. Cho nên nếu bạn hiểu rõ sự lý của nhân quả báo ứng thì tâm bạn sẽ rất an lạc. Mỗi người trong đời này báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ đều có nhân lúc trước hết, [hiểu như vậy thì] bạn sẽ rất tự tại. Nếu như có nhiều oan gia chủ nợ thì bạn cũng rất tự tại. Tại sao vậy? Ðời này từng món nợ, từng món nợ bạn đều trả sạch trơn, đời sau khi gặp lại đều là bạn bè. Oán thù đã giải quyết xong, nợ nần cũng trả hết; người khác thiếu mình thì không cần đòi, đó là bố thí, càng thí thì phước báo càng lớn!

    Hôm qua tôi ở ‘Tuyết Lê’ đã nói với các bạn đồng học rằng người đời nay tham tiền và đều muốn phát tài. Tại vì mấy hôm trước tôi thấy một quảng cáo ở trên truyền hình đài Phụng Hoàng nói rằng ‘Có trí thì sẽ có tài’. Câu nói này không đúng. Lúc tôi còn trẻ gặp nhiều giáo sư rất nổi tiếng và rất thông minh tài giỏi nhưng lại rất nghèo! Nghèo đến mức tiền mua sách cũng không có, họ là giáo sư nghèo. Cho nên lời Phật dạy mới đúng: ‘Có [bố] thí thì mới có tài’; bố thí tài thì được giàu sang, càng bố thì thì càng giàu; bố thí pháp thì được thông minh trí huệ; bố thí vô úy (làm cho không lo sợ) thì được khoẻ mạnh sống lâu. Cho nên giàu sang, thông minh trí huệ, và khoẻ mạnh sống lâu đều có được nhờ bố thí.

    Bố thí là nhân! Bố thí tài vật là nhân, giàu sang là quả báo; bố thí pháp là nhân, thông minh trí huệ là quả báo; bố thí vô úy là nhân, khỏe mạnh sống lâu là quả báo. Cho nên một số đồng tu ở ‘Tuyết Lê’, có một số không phải là Phật tử, nhưng họ làm một việc tốt, đó là tổ chức một đoàn y tế [lưu động] đi Tây Tạng trị bịnh cườm mắt cho dân chúng. Họ nói bịnh cườm mắt (bạch nội chướng, tức là chứng cataract) ở Tây Tạng rất nghiêm trọng, người bị bịnh rất nhiều, tại vì người Tây Tạng cư trú ở trên núi cao, tia tử ngoại tuyến rất mạnh, cho nên người bịnh này rất nhiều, rất phổ biến, nhiều người bị bịnh đến nỗi bị mù luôn. Họ tổ chức đoàn y tế này và đem theo máy móc tân tiến, nghe nói có hiệu quả rất cao mà lại tốn ít thời giờ, chữa trị cho một người đại khái là mười mấy phút thì có thể giải phẫu xong, mà xác suất thành công cao khoảng 90%.

    Thời gian đoàn y tế này đến Tây Tạng chuẩn bị một tuần, chữa trị một tuần, tất cả gồm có 10 bác sĩ trong đó có 5 người là bác sĩ về mắt và 5 người là bác sĩ tổng quát; ngoài ra còn có nhân viên y tá, tổng cộng 15 người, chúng tôi có dịp gặp mặt họ. Ðây thuộc về bố thí vô úy, quả báo của bố thí vô úy là khỏe mạnh sống lâu. Hôm qua đại chúng mời tôi nói chuyện, nói chuyện xong cũng nhận được không ít tiền cúng dường trong những phong bao đỏ. Tôi đem hết số tiền này cho đoàn y tế đi Tây Tạng. Thế thì mọi người đều tu bố thí vô úy, hy vọng là mọi người đều khỏe mạnh sống lâu, như vậy thì rất viên mãn. Ðược rồi, chúng ta nói chuyện đến đây cũng đã viên mãn.





    Trong quá trình chuyển ngữ chắc không tránh khỏi thiếu sót, xin các bậc thức giả hoan hỷ phủ chính cho.

    Xin thành thật cám ơn.
    Một nhóm Diệu Âm cư sĩ, 12-2003
     
  14. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    PS Tịnh Không - Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh giảng giải (tập 126)

    Vào giai đoạn trước, cư sĩ Tề của Đông Thiên Mục Sơn - Hàng Châu đến nơi đây để tham học, hồi báo với chúng ta, bà đã trải qua hộ trì đạo tràng Đông Thiên Mục Sơn, bà cũng là người không tiếc sinh mạng, cho nên cảm động chư Phật Bồ Tát, long thiên hộ pháp đến giúp đỡ bà. Bà chân thật là tay trắng làm nên, một phân tiền cũng không có. Tuy chỉ trong thời gian bốn năm ngắn ngủi, nhưng bà làm cho đạo tràng được hồi phục trở lại. Nếu không phải chư Phật Bồ Tát hộ trì thì quyết định không làm được. Bà có một báo cáo rất tường tận, chúng ta đem nó làm thành đĩa ghi hình, khi nào tôi tìm một cơ hội đem băng ghi hình này chiếu cho các vị xem. Sau khi xem rồi, các vị sẽ thấy gần giống như là thần thoại vậy. Đạo tràng này là ở vào thời đại Lương Võ Đế, do Bảo Chí Công khai sơn kiến lập. Mọi người đều biết, Bảo Chí Công là Quán Thế Âm Bồ Tát hóa thân đến, cho nên đạo tràng này được gọi là đạo tràng Quán Âm Bồ Tát, nhiều đời đã cho ra không ít tổ sư cao tăng đại đức. Nghe nói, hiện tại ở trên núi này có Phật Bồ Tát, có La Hán, có quỷ thần, cũng có súc sanh đang ở trên núi này tu hành. Bà có duyên với núi này nên đến hộ trì. Đạo tràng này đã hơn 40 năm không có người ở, điện đường đều ngã đổ, đều thành hoang phế. Bà nói, sau khi bà lên núi, xem thấy cảnh tưởng như vậy nên khóc một trận thật lớn, phát tâm dù có phải liều mạng cũng phải đem đạo tràng xây dựng lại. Xây đạo tràng thì phải có tiền, thế nhưng cũng không tệ, có một số người bỏ ra một ít tiền, mặc dù không nhiều, có bao nhiêu thì xây bấy nhiêu, từ từ mà xây. Khi bà cần cây, người quản lý khu vực sơn lâm đó không chịu cho bà, một cây cũng không chịu cho bà. Bà không có cách nào, đành phải quay về, đến trước mặt Bồ Tát Quán Âm, Bồ Tát Vi Đà mà khóc, một gốc cây con cũng không thể tìm được, hiện tại đạo tràng này bà phải làm sao? Bà nói, buổi tối hôm đó mưa to gió lớn, nghe bên ngoài âm thanh rất to, rất vang, cả đêm không ngớt. Đến sáng sớm ngày hôm sau, khi vừa mở cửa, bà thấy có rất nhiều cây to, không biết từ nơi nào thổi đến, nằm ở trước cửa của bà. Những cây cối bên cạnh phòng ở không hề bị tổn hại một cây nào. Cây to ở các nơi khác bạt ngay đến gốc, thổi đến nơi đó tặng cho bà. Bà đem số cây cối này hồi phục, dựng lại những đại điện đó. Bà còn lợi hại hơn Tế Công! Đây đều là thật, không phải giả. Cho nên, tôi hoan nghênh các vị đồng tu đến Thiên Mục Sơn để tham học. Băng ghi hình này, tôi phải tìm thời gian để chiếu cho các vị xem. Việc này không thể nghĩ bàn.

    Những việc cảm ứng ở nơi đó của bà thật là quá nhiều, nói không hết. Tại vì sao bà có cảm ứng, người khác không có cảm ứng? Bà hộ pháp không tiếc thân mạng, không có chút tâm tư riêng, không vì chính mình, hoàn toàn vì Phật pháp, vì chúng sanh, cho nên mới cảm ứng được thần hộ pháp. Đạo lý chính ngay chỗ này. Nếu như chúng ta hộ pháp, trong đó còn có ý niệm vì chính mình thì không có được cảm ứng, thần hộ pháp sẽ không đối đãi với bạn giống như vậy. Cho nên chúng ta phải chân thật phát tâm, không tiếc thân mạng, thì pháp mạng, huệ mạng của chúng ta mới có thể đến được. Sinh mạng không quan trọng, huệ mạng mới quan trọng. Đạo tràng hiện tại được hồi phục rồi, một thôn Di Đà đệ nhất được thực hiện ở nơi đó của bà. Hiện tại trên núi của bà có hơn 200 người ở, ngày đêm niệm Phật không gián đoạn. Không có người đến giảng kinh, thế nhưng đại khái họ cũng tìm được một số băng đĩa của chúng ta, mỗi ngày họ định thời gian để phát chiếu băng đĩa, mọi người cùng nhau nghe kinh. Họ có một máy truyền hình, trên núi không có điện, không có mở đường, lần này bà đến nói với tôi. Tôi nói với bà: "Rất tốt! Không nên mở đường, không nên kéo điện lên, không cần phải tìm lấy phiền phức". Muốn xem truyền hình thì phải làm sao? Nơi đó của họ có một cái máy phát điện loại nhỏ, đây là loại máy phát điện ở trên xe hơi, khi mở máy truyền hình thì mở máy phát điện đó, phát điện xem truyền hình nghe giảng kinh, sau khi nghe xong thì tắt máy phát điện đi. Dùng phương pháp như vậy rất diệu. Đây là đạo tràng tu học chân thật. Sau khi chúng ta nghe rồi rất cảm động, rất là tán thán, khích lệ bà, giúp đỡ bà. Đạo tràng của bà chân thật là một đạo tràng niệm Phật. Nếu như người tâm địa không thành khẩn thì sẽ bị thần hộ pháp đuổi xuống núi.
     
  15. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    "LỘC TẬN NHÂN VONG"
    Chúng ta hưởng một chút phước báo, đương nhiên là trong đời quá khứ tu được, thế nhưng phước báo này hưởng sẽ hết, không phải vĩnh viễn hưởng không hết, mà rất dễ dàng hưởng hết, nhất là sanh ra ở trong phước không biết phước, không biết được tu phước, không biết được tích phước, cho nên phước báo này rất nhanh sẽ hưởng hết. Sau khi hưởng hết rồi thì làm thế nào? Cho dù có tuổi thọ mà phước không còn, tuổi thọ rất dài nhưng không có cơm ăn, đói chết, bạn nói xem có oan uổng hay không? Đói chết, lạnh chết, tuy có tuổi thọ vẫn là phải chết. Đây là người xưa nói: "Lộc tận nhân vong". Lộc chính là bạn hưởng thụ, bạn đã hưởng tận hết rồi, tuổi thọ tuy là rất dài, thế nhưng vẫn là phải chết. Trái ngược lại, người tuổi thọ ngắn, nhưng cả đời họ chịu tích phước, chịu tu phước, thọ mạng đến rồi mà phước lộc của họ vẫn chưa hết, vẫn còn rất nhiều, loại người này luôn luôn kéo dài tuổi thọ, họ chưa hưởng hết. Thí dụ nói họ có phước báo 60 năm, nhưng họ rất là tích phước, rất là tiết kiệm, thời gian 60 tuổi thọ mạng đến rồi, nhưng phước dư của họ rất nhiều, thì tuổi thọ tự nhiên kéo dài thêm mười năm, kéo dài hai mươi năm, kéo dài ba mươi năm. Đây là định luật của nhân duyên quả báo, là chân lý, là chân tướng sự thật.
    (Trích trong Kinh Vô Lượng Thọ giảng giải lần 10 - đĩa 116)
     
  16. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    CHÚNG TA NGÀY NAY TẨM BỔ DINH DƯỠNG, THUỐC THANG CÓ THỂ ĐƯỢC KHỎE MẠNH TRƯỜNG THỌ HAY KHÔNG ?

    Tuổi thọ dài hay ngắn là thuộc về nghiệp báo. Trên kinh Phật nói rất tường tận, nghiệp nhân như thế nào thì được trường thọ? Bố thí vô úy. Cái gì là bố thí vô úy? Các vị đều niệm qua Bồ Tát Quán Thế Âm, Ngài là bậc đại thí vô úy, chúng ta liền thấu hiểu rồi. Bố thí vô úy chính là cứu khổ cứu nạn. Khi xem thấy chúng sanh có khổ nạn, chúng ta lập tức liền phải đưa tay ra giúp cho họ sớm ngày thoát khỏi khổ nạn. Đây chính là bố thí vô úy, quả báo được trường thọ, khỏe mạnh, sống lâu. Đây là chánh nhân duyên của khỏe mạnh, sống lâu, quyết định không phải là dùng những dược phẩm bổ dưỡng nào để giúp chúng ta có thể có được khỏe mạnh, sống lâu. Lời nói đó là giả. Chúng ta xem thấy trong lịch sử, rất nhiều triều đại đế vương, loại bảo kiện tẩm bổ của họ, thế gian chúng ta không có người nào có thể so sánh được, thế nhưng hai mươi mấy tuổi, ba mươi mấy tuổi chết rất nhiều. Chỗ này chẳng phải nói rõ, bảo khang tẩm bổ thuốc thang không phải là đạo để trường thọ. Trong lịch sử chúng ta xem thấy, chúng ta lại xem qua hiện tại, những người giàu có chung quanh chúng ta, nhà người nghèo khó không có năng lực nói đến bảo kiện, ba bữa cơm còn không đủ no, còn nói gì đến bảo kiện? Bụng được no chính là rất vạn hạnh rồi, làm gì có tư cách nói đến dinh dưỡng, nói đến tẩm bổ, nói đến bảo kiện? Nhà người giàu sang mới xem trọng những thứ này. Chúng ta xem thấy những người giàu có, sức khỏe của họ như thế nào? Tuổi thọ dài, ngắn, đương nhiên cũng có người 80-90 tuổi, nhưng không nhiều, 40-50 tuổi, hơn phân nửa trở lên thì đi. Việc này nghĩ lại xem, vẫn là lời của Phật nói có đạo lý.

    (Trích trong Kinh Vô Lượng Thọ giảng giải lần 10 - đĩa 115- Pháp sư Tịnh Không giảng)
     
  17. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    CHỮA TRỊ UNG THƯ - THƯỢNG TỌA THÍCH CHÂN QUANG

    (Xin lưu truyền, phổ biến bài viết này thật rộng rãi)
    Xin cầu nguyện cho pháp giới chúng sinh tiêu tai kiết tường và Giác Ngộ.

    Ung thư được định nghĩa như là sự tăng sinh tế bào vô tổ chức, tiết ra chất làm đau, lấn ép sự sống của chủ thể, cuối cùng khiến cho chủ thể chết trong đau đớn. Thật ra ung thư có nhiều loại, ung thư máu, ung thư các tạng phủ, ung thư xương, ung thư mô… Các loại ung thư có thể di chuyển qua lại, biến thể lẫn lộn, loại này biến thành loại kia, làm phát sinh loại kia. Ung thư phổi có thể thành ung thư gan, ung thư máu có thể thành ung thư xương vân vân…

    Ung thư là một trong tứ chứng nan y đời xưa, Phong Lao Cổ Lại, và tiếp tục là bệnh nan y của đời nay mặc dù y học rất tiến bộ. Ngày nay tốc độc phát bệnh ung thư lên đến chóng mặt. Bệnh viện ung bướu tiếp nhận bệnh tràn ngập. Bệnh nhân nằm khắp nơi la liệt vật vã.

    Một người vợ bị ung thư, người chồng bán sạch các thứ để chữa trị. Đứa con gái thương mẹ lén lấy giấy chủ quyền nhà chồng cầm cố, đến khi nhà bị phát mãi chồng mới biết và lập tức li dị. Cả nhà nằm vật vờ đói khổ trong bệnh viện, vừa mong được chữa trị, vừa ăn xin.

    Một bác sĩ có kinh nghiệm chữa trị ung thư suốt 25 năm đã nói rằng, nếu vướng bệnh ung thư, ông sẽ về nhà nằm chờ chết chứ không uống thuốc của bệnh viện, mặc dù ông là người kê đơn thuốc cho bệnh nhân ung thư hằng ngày. Lý do ông đưa ra là hầu hết bệnh viện chỉ cấp thuốc giảm đau, mà thuốc giảm đau thì khiến cho bệnh phát triển mạnh hơn. Còn thuốc trị ung thư thì làm hư xương khiến cho ung thư lập tức tràn vào xương thành ung thư xương liền. Ông cũng bảo rất nhiều người xin ra nước ngoài chữa bệnh, nhưng chẳng nơi nào giỏi hơn nơi nào trong việc chữa bệnh ung thư. Thuốc nào bên Mỹ có thì VN cũng có cả. Bệnh nhân sang Quảng đông TQ, hoặc sang Singapore rồi cũng chết y hệt như bệnh nhân ở VN.

    Ông cũng nói bệnh ung thư là bệnh cực kỳ khó hiểu. Có khi người bệnh đang đi đứng bình thường, bỗng lăn đùng ra chết. Có khi bệnh bỗng nhiên khỏi. Có khi nằm bao nhiêu năm vẫn chưa chết.

    Thường thì một người bệnh sẽ kéo theo cả nhà rơi vào nguy khốn đói khổ vì bao nhiêu tiền đổ vào chữa bệnh cũng chẳng ăn thua. Người bệnh càng ham sống thì càng giết chết cả nhà.

    Thời đại hôm nay được cho là môi trường bị nhiễm độc nặng nên bệnh ung thư phát sinh rất mạnh. Những thức ăn uống đầy hóa chất (được cho phép trong định mức) đều là thủ phạm gây ung thư. Nguồn không khí bẩn thỉu cũng là nguyên nhân ung thư. Dòng sông nhiễm đầy thuốc bảo vệ thực vật cũng gây ung thư. Thực phẩm có nguồn gốc động vật nhiễm đầy độc tố cũng gây ung thư. Thực phẩm lấy từ thực vật cũng thấm đầy độc tố, và cũng gây ung thư. Phóng xạ cường độ cao cũng gây ung thư…

    Bây giờ ta nhìn bệnh ung thư qua nhãn quan tâm linh một chút để thấy thêm một khía cạnh thú vị của loại bệnh hiểm ác này. Không riêng gì bệnh ung thư, rất nhiều bệnh có nguồn gốc tâm linh, mà tâm linh thì bị gán cho là phản khoa học, là mê tín, không được quan tâm xử lý.

    Ví dụ bệnh tự kỷ Autism của trẻ em. Trẻ bị bệnh tự kỷ không nói, hoặc nói rất ít. Trẻ khép mình trong thế giới riêng của mình, không để ý mọi người bên ngoài. Đôi khi trẻ được gán cho là thiên tài vì có thể làm những bài toán khó hoặc biết nhiều chuyện lạ lùng.

    Nguyên nhân bệnh tự kỷ là do khi trẻ còn nằm nôi, chưa biết nói, vùng não ngôn ngữ chưa kịp phát triển do chưa đủ thời gian tiếp xúc với con người, trẻ đã bị vài vong tiếp cận trước. Các vong này xâm nhập rất sâu vào nội tâm của trẻ, chơi đùa với trẻ, tiếp xúc với trẻ bằng ngôn ngữ tâm linh trực tiếp, không qua ngôn từ. Trẻ bị dẫn dụ bởi sự tiếp xúc này, tiếp nhận loại ngôn ngữ này, não chỉ đón nhận loại ngôn ngữ tâm linh này, rồi bộ não của trẻ không còn phát triển vùng ngôn ngữ của con người được nữa. Đến khi tuổi lớn lên một chút, não hết thời gian để phát triển, và vĩnh viễn vùng ngôn ngữ bị tê liệt luôn. Trẻ sẽ tiếp tục sống mà không nói gì vì không hiểu người chung quanh nói gì, vì có muốn nói cũng không biết nói. Trẻ có thể tiếp tục bị các vong bao vây chơi đùa, nên trẻ nhìn vào ta thấy trẻ cứ như chơi đùa một mình, nhưng thật ra là đang chơi với vong.

    Nếu đó là các vong giỏi, vong sẽ cho trẻ biết nhiều chuyện mà trẻ không thể biết, người chung quanh khó thể biết. Trẻ đưa ra kết quả do vong mách, mọi người hết sức khâm phục và gán cho trẻ là thiên tài. Nếu vong rời bỏ ra đi, đứa trẻ ở lại sẽ ngớ ngẩn cả đời vì không còn ai để tiếp xúc, và cũng không hiểu những người đang sống bên cạnh mình.

    Nếu vong bỏ đi sớm, trẻ còn thời gian để phát triển vùng não ngôn ngữ thì trẻ sẽ nói được bập bẹ sau một thời gian bắt đầu quay sang tiếp xúc với người sống. Nếu vong bám theo riết thì trẻ hoàn toàn im lặng cách biệt với thế giới loài người.

    Vì vậy, khi trẻ vừa chào đời, cha mẹ phải hết sức bảo vệ không cho các vong đến gần trẻ, xâm nhập vào nội tâm của trẻ. Cha mẹ mà buông lỏng, ít kề cận bảo vệ, không cầu nguyện thần thánh gia hộ, trẻ sẽ dễ bị vong quấy phá hoặc xâm nhập nội tâm gây bệnh tự kỷ. Khi con trẻ vừa sinh ra, cha mẹ phải đem đến chùa xin cầu phúc cho trẻ, nhờ Bồ Tát thủ hộ giữ gìn cho trẻ để các vong đừng gây tác hại cho trẻ. Lâu lâu lại phải mang trẻ đến cầu nguyện trở lại. Nếu tại nhà có bàn thờ Phật thì mỗi ngày phải lễ Phật tụng kinh cầu nguyện bình an cho trẻ.

    Bệnh tự kỷ Autism có yếu tố tâm linh khó hiểu là thế.

    Bệnh ung thư cũng vậy, cũng có yêu tố tâm linh.

    Chung quanh ta có rất nhiều vong của chúng sinh, có vong của loài người, có vong của loài thú, thậm chí có vong của các loài động vật nhỏ bé. Các vong đó luôn khát khao tìm sự sống, tìm miếng ăn, tìm sự tồn tại.

    Để có được sự sống, các vong đó hay tìm cách sống ký sinh vào chủ thể còn sống như con người và một số cầm thú khác. Không phải lúc nào các vong đó cũng ký sinh được, gắn vong của mình vào người sống được. Chỉ một số người bị Nghiệp phải trả, xuất hiện một vùng yếu ớt thiếu sức bảo vệ, lập tức các vong bám vào sống ký sinh.

    Kể từ khi bám vào sống ký sinh được rồi, các vong bây giờ giống như có một phần thân thể của người bệnh, lấy một phần thân thể của người bệnh làm thân thể của mình. Nếu các vong đó yếu ớt thì bám vật vờ rồi bị thân thể của con người gạt ra. Nếu các vong đó là loại mạnh thì chúng cạnh tranh sự sống với chủ thể, chúng khiến mô tế bào phát sinh hỗn loạn.

    Thông thường thì không phải một u bướu ung thư chỉ có một vong, mà thật sự là nhiều vong bám theo nhung nhúc như đám giòi bọ vậy, trông rất khiếp.

    Ta dùng hóa trị hoặc xạ tri để diệt tế bào ung thư nhưng không đuổi được các vong đó ra khỏi cơ thể, chúng lập tức chuyển qua mô khác để chiếm lấy sự sống của con người tiếp tục, và ta gọi là Di Căn. Một số nhà ngoại cảm có khả năng nhìn thấy hình thù các vong của các loài chúng sinh đó bám vào khối u, dính trong khối u, nhầy nhụa lúc nhúc ghê gớm.

    Trong truyện tích đạo Phật có ghi chép một sự kiện u bướu kỳ lạ. Ngài Ngộ Đạt bị u hình mặt người, đút thịt vào biết ăn luôn. Sau này mới vỡ ra rằng đó là vong của một người thù oán ngày xưa nhập vào đầu gối sống ký sinh để trả thù, tạo thành khối u kỳ quái khủng khiếp. Đó là trường hợp ung thư do vong một con người bám vào. Những trường hợp khác là do vong của nhiều chúng sinh bé bé bám vào xâu xé giành giật.

    Vì ung thư là bệnh có tính tâm linh rất cao nên thuốc thang không hết, mà phải do sám hối tu hành làm thiện mới hóa giải được. Ai ỷ giàu đổ tiền ra chữa bệnh khắp thế giới cũng chết. Chỉ có sám hối thiết tha những nghiệp chướng ngày xưa, cộng với đem tiền cúng chùa, bố thí người nghèo, làm các việc nghĩa, thì mới hóa giải được nghiệp mà hết bệnh ung thư. Khi người bệnh đã sám hối đủ, cơ thể toát ra một kháng lực xua đuổi các vong ký sinh ra khỏi cơ thể khiến cho khối u ngưng phát triển, trở lại ổn định theo gene của con người sắp xếp.

    Đã đó rất nhiều người đau khổ vì ung thư, nhưng khi nghe lời khuyên của Tăng Ni, về nhà chuyên cần lạy Phật sám hối, vậy mà bệnh tình thuyên giảm rõ rệt, sống vui khỏe trở lại.

    Ta nên đặt tay vào khối u mà tụng kinh hoặc trì chú của PHật, nói chuyện với khối u, khuyên khối u quy y Phật PHáp Tăng, rải lòng từ bi với khối u, cầu cho khối u siêu thoát. Vậy mà khối u sẽ dần dần biến mất. Nếu là ung thu máu, ung thư xương, ung thư phổi, ung thư gan… thì ta cứ lạy Phật sám hối mãi, cũng sẽ hết. Ta chỉ nên hỗ trợ bằng thuốc thảo mộc mà thôi, đừng dùng hóa dược phản ứng phụ nguy hiểm hơn.

    Người bệnh ung thư nên ăn chay để không chiêu oán thù với chúng sinh thêm nữa. Người này cũng nên đem cả cuộc đời còn lại của mình mà phụng sự cho mọi người, cho đất nước, cho thế giới, vì xem như mình đã chết rồi, bây giờ cuộc sống thêm này là của trời đất, không phải của mình nữa.

    Xin cầu nguyện cho pháp giới chúng sinh tiêu tai kiết tường và giác ngộ.
    Rất mong bạn cùng chung tay chia sẻ tài liệu bổ ích, quý giá này đến mọi người!
     
  18. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Bắt người thân chịu thêm nghiệp!!!

    Hỏi:
    Người Việt Nam của ta có phong tục là khi đến ngày chết của thân quyến và tổ tiên thì làm giỗ để tưởng niệm, nhưng họ lại tổ chức ăn uống, nhậu nhẹt, có khi lại sát sanh nữa, cúng toàn đồ mặn cho người đã chết, lúc người chết còn sinh tiền thích ăn gì là họ lại làm những món đó để cúng, theo Chú thì họ làm như vậy có ích lợi gì chăng? Người đã chết có hưởng được không? Có phải vô tình đã gây thêm tội nghiệp cho người đã chết, mà có khi người chết đã đi đầu thai trong lục đạo rồi mà cúng giổ có còn liên quan gì đến họ nữa không Chú (Vì họ đã đi đầu thai rồi mà)?
    Gia đình Cháu cũng không ngoại lệ, đó là thói quen lâu đời, vài ngày nữa là đến đám giỗ bà Nội của Cháu, lúc còn sinh tiền bà Nội ăn chay trường và cũng tu hành, bà Nội Cháu mất khoảng 3 năm rồi, ba mẹ cháu định cúng đám giỗ: cúng cho bà nội cháu thì cúng đồ chay, còn làm đồ mặn cho con cháu ăn và có mời vài người lại nhậu nữa! Theo Chú thì sao? Ba mẹ Cháu làm như vậy có đúng không? Có ảnh hưởng gì đến vong linh bà Nội Cháu không?
    Nhờ Chú cho cháu lời khuyên, để không làm ảnh hưởng đến người đã chết.
    Theo Chú ngày giỗ nên làm gì để vừa có lợi ích cho người chết và người đang sống? Mong Chú vì mọi người và cũng như người thân của Cháu mà giải bày chi tiết để mọi người thấu hiểu !
    A DI ĐÀ PHẬT...
    Thành thật cảm ơn Chú nhiều !!!

    Trả lời:

    Thế gian thì việc này là chuyện thường. Nhưng người hiểu Phật pháp thì nên cẩn thận làm đúng theo pháp mới tốt.
    Trong Khuyên Người Niệm Phật (tập 1) cò bàn về vấn đề cúng giỗ. Xin xem qua để biết thêm.
    Việc cúng giỗ có ảnh hưởng khá lớn đến vong linh người chết. Nếu lợi dụng ngày giỗ kỵ của người quá cố mà làm tiệc linh đình, giết hại sanh vật để thiết đãi sẽ tạo thêm tội cho vong linh.
    Trong tội sát sanh, kinh Phật có nói, tự mình giết, vì mình mà con vật bị chết, thấy người ta giết mà mình vui mừng, đều có liên quan đến tội này. Chọn những ngày giỗ kỵ mà sát sanh hại vật thì vong linh ấy cũng liên can chịu tội.
    Nếu người chết còn bị kẹt vào chỗ nào đó chưa được đầu thai, thì mỗi lần con cháu giết hại sanh vật để cúng tế, thì họ bị thêm tội. Vì nghiệp mà đang chịu trả nghiệp, nay bị con cháu gởi thêm nghiệp nữa, nghiệp sau chồng nghiệp trước, biết chừng nào trả cho xong. Thật tội nghiệp cho họ!
    Người chết lúc sanh tiền thích sát sanh hại vật để ăn. Đây là vì tham ăn mà tạo nghiệp ác. Chính vì tội sát sanh hại vật mà họ đang chịu nạn. Khi bị nạn rồi, họ đã biết nguyên nhân tại sao, họ rất ân hận. Nhưng đã quá muộn màng! Họ đang rất tha thiết và âm thầm cầu xin con cháu thương họ mà tìm phương giải nạn cho họ. Nếu con cháu biết được đạo lý này thì nên làm lành làm thiện, những ngày cúng giỗ đều tổ chức niệm Phật tụng kinh, phóng sanh lợi vật để hồi hướng công đức. Ơn nghĩa này đối với họ lớn lao và quý hóa biết chừng nào!
    Nếu họ đã đầu thai rồi, mà con cháu vẫn cứ giết hại chúng sanh để hồi hướng cho họ thì họ vẫn bị ảnh hưởng chứ làm sao tránh khỏi.
    Ví dụ, như một người chết đầu thai làm chó chẳng hạn. Đây là vì ngu muội mà sanh vào loài súc sanh.
    Con chó vì thương con cháu trong gia đình nên sẽ trở lại trong nhà để phục vụ cho con cháu. Nếu người thân nhân biết làm thiện làm lành hồi hướng cho người đó, cầu cho họ dù đang ở trong cảnh giới nào, cũng nương theo công đức này, sớm tỉnh ngộ tu hành, niệm Phật, cầu sanh Tịnh độ. Nhờ lòng thành mà được cảm ứng, thì con chó đó có thể được hoá kiếp, hay siêu thoát.
    Chứ con cháu không chịu làm thiện lành, mà còn sát hại sanh vật đem cúng cho tấm hình đời trước của nó, rồi liệng xương cho nó ăn nữa. Trớ trêu không? Thậm chí, nhân ngày giỗ của chính nó trong đời trước, con cái lại bắt con chó đó làm thịt để nhậu nhẹt. Hãy nghĩ thử, oán nạn này sẽ dẫn tới đâu? Thân nhân đã biến thành oan gia trái chủ, tình thương đã biến thành hận thù, hận thù đời đời kiếp kiếp biết bao giờ mới giải tỏa đây?!...
    Vấn đề giỗ chay, đãi mặn thì chẳng khác gì. Vì thật sự, tiếng là giổ chay, chứ vài đĩa xào để trên bàn thờ, so với tràn ngập thịt cá trong bàn tiệc, thì mấy món xào trên bàn thờ chỉ là hình thức giả tạm, làm sao che lấp được r*** thịt ê hề, say sưa túy lúy? Hình thức trống rổng, tâm ý giả tạo, có cảm thông được gì! Bắt người ta cắt cổ mổ ruột để nhậu trong ngày giỗ mà gọi là giỗ chay. Thật là trớ trêu, ngang ngạnh!
    Càng giả tạo càng làm cho các oan hồn của những chúng sanh bị giết hại càng thêm hung hãn, càng thêm căm thù. Thù chất thêm thù. Oán thù càng ngày càng khốc liệt!

    Trong KNNP, Diệu Âm cho đây là hành động trả hiếu quá kỳ quái của người thế gian!
    Ông bà đã vụng tu bị quả báo quá đau khổ, vì sát sanh hại vật nên họ chịu đủ mọi cực hình đau khổ trong tam đồ ác đạo để trả nghiệp, con cháu không tìm cách gỡ nạn cho ông bà, mà cứ chờ đến những ngày giỗ kỵ đem máu thịt nhét vào mồm của ông bà để ông bà bị kết thêm tội sát sanh mới. Làm như vậy có khác gì, ông bà bị nạn, đang tìm cách ngoi lên thoát nạn, vừa mới ngóc lên một chút thì bị con cháu nện lên đầu một đạp cho chìm xuống lại trong cảnh đọa lạc. Trả hiếu gì mà kỳ vậy!?...
    Vậy thì, người biết tu hành, thì những ngày giỗ kỵ ông bà nên làm chay thanh tịnh mới tốt. Tụng kinh niệm Phật hồi hướng công đức cho vong linh, cầu xin vong linh sớm siêu sanh Tịnh độ. Nên giảm chế các hình thức ăn nhậu say sưa, tuyệt đối đừng sát hại sanh vật. Đừng nên lợi dụng ngày chết của ông bà, cha mẹ, mà giết hại sanh vật làm đám tiệc linh đình để trả ơn nghĩa thế gian. Nếu sơ ý, vừa tội nghiệp cho ông bà, vừa kết thêm nghiệp chướng cho chính mình. Nhân quả này không dễ gì trả được đâu.
    Nhân ngày giỗ kỵ này, con cháu nên ăn chay, phóng sanh, làm các việc thiện lành để hồi hướng công đức, cầu cho vong linh được tiêu nghiệp tăng phước. Chỉ cần nhang đèn, hoa quả với vài món tinh khiết để tỏ lòng thành kính. Nếu nhà nghèo quá, thì chén nước lạnh tinh khiết với hoa quả, một nén hương là đủ để thiết lễ tưởng niệm rồi. Cần chi đến hình thức linh đình mà bị khó khăn.
    Mời đồng tu đến tụng kinh, niệm Phật, hồi hướng công đức là tốt nhất, tiện nhất, đúng pháp nhất. Nên thành tâm khai thị, khẩn cầu vong linh sớm hồi đầu quy y Tam bảo, niệm Phật cầu sanh Cực lạc thì càng hay, càng chánh pháp.
    Ngày giỗ kỵ mà làm được các điều thiện lành này thì được nhiều chư thiện thần ủng hộ, gia trì. Nếu cứ sát sanh hại vật, làm việc sai với đạo pháp thì các vị thiện thần sẽ lánh xa, đây là điều không tốt cho gia đình trong tương lai vậy.
    A-di-đà Phật
    Diệu Âm
    (05/06/2009)
     
  19. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    Ý NGHĨA VÀ CÔNG NĂNG, OAI LỰC CỦA CHÚ ĐẠI BI

    1. Lý Do Ra Đời Của Thần Chú và Phát Nguyện Của Bồ Tát Quán Thế Âm:

    Thần Chú Đại Bi được rút ra từ Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Thế Âm Bồ Tát Quảng Đại Viên Mãn Vô Ngại Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, do chính Đức Phật Thích Ca diễn nói trong một pháp hội trước mặt đông đủ các vị Bồ Tát, Thinh văn, Thánh chúng, Trời, Thần, Thiên, Long, các Đại thánh tăng như Ma-Ha Ca-Diếp, A-Nan... cùng câu hội, tại núi Bồ Đà Lạc Ca (Potalaka), một hải đảo ở về phía Nam xứ Ấn Độ, được coi như là nơi mà Đức Bồ Tát Quán Thế Âm thường trụ tích. Ta có thể tin chắc điều đó bởi vì Kinh Thiên Thủ Thiên Nhãn được mở đầu bằng câu nói quen thuộc của Ngài A Nan "Như thế tôi nghe" cũng như xuyên qua nội dung hỏi đáp giữa ngài A Nan và Đức Thế Tôn đã được ghi lại ở trong kinh.
    Ngài cho biết lý do ra đời của Thần Chú như sau: Vào vô lượng ức kiếp về trước, Phật Thiên Quang Vương Tịnh Trụ Như Lai, vì tâm thương tưởng đến chúng sanh nên đã nói ra thần chú Đại Bi và khuyến khích Bồ Tát Quán Thế Âm nên thọ trì tâm chú này để mang đến lợi ích an vui lớn cho chúng sanh trong đời vị lai. Bồ Tát Quán Thế Âm lúc bấy giờ mới ở ngôi sơ địa khi nghe xong thần chú này liền chứng vượt lên đệ bát địa. Vui mừng trước oai lực của thần chú, Ngài bèn phát đại nguyện: "Nếu trong đời vị lai, con có thể làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sanh với thần chú này, thì xin khiến cho thân con liền sanh ra ngàn mắt ngàn tay". Lập tức, Ngài thành tựu ý nguyện.

    2. Công Năng, Oai Lực của Thần Chú Đại Bi.

    Muốn biết công năng, oai lực của Thần Chú Đại Bi, ta nên tìm hiểu xem mục đích, hạnh nguyện của Bồ Tát Quan Thế Âm khi Ngài ban phát thần chú này. Bồ Tát Quán Thế Âm đã phát nguyện rằng: Nếu chúng sanh nào tụng trì thần chú Đại Bi mà còn bị đọa vào ba đường ác, không được sanh về các cõi Phật, không được vô lượng tam muội biện tài, Ngài thề sẽ không thành chánh giác. Ngài còn nhấn mạnh: Nếu trì tụng thần chú Đại Bi, mà tất cả những mong cầu trong đời hiện tại nếu không được vừa ý, thì thần chú này sẽ không được gọi là Đại Bi Tâm Đà Ra Ni, ngoại trừ những kẻ mong cầu những điều bất thiện hoặc tâm không được chí thành. Hơn thế nữa, Bồ Tát còn cho ta biết ngay cả đối với những kẻ phạm những tội ác nghiệp nặng nề như thập ác ngũ nghịch, báng pháp, báng người, phá giới, phạm trai, hủy hoại chùa tháp, trộm của tăng kỳ, làm nhơ phạm hạnh nếu trì tụng thần chú Đại Bi thảy đều được tiêu trừ. Vì sao thế? Kinh Đại Bi cho biết mỗi lần hành giả trì tụng thần chú này, tất cả mười phương chư Phật đều đến chứng minh, cho nên tất cả các tội chướng nhờ ân đức của chư Phật độ trì, thảy đều tiêu diệt.
    Oai lực lớn lao của Thần Chú đã được chính Đức Thế Tôn giảng rõ trong Kinh Đại Bi Tâm Đà-Ra-Ni.
    Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên, không có gì có khả năng ngăn ngại nỗi. Trong cõi dục giới này, con người đâu có mong cầu điều gì hơn ngoài an lạc, hạnh phúc và sống lâu.Thần chú Đại Bi sẽ giúp mọi người đạt được những ước muốn này như Bồ Tát Quán Thế Âm đã khả hứa.
    Một công năng khác của Thần chú là cứu khổ. Những lúc ta lâm cảnh hoạn nạn, đau thương, cùng khổ, tuyệt vọng, bi đát nhất; những lúc mà ta thấy mình rơi vào con đường cùng, bế tắc, không còn lối thoát; hãy vững niềm tin vào Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, nhất tâm trì tụng Thần chú Đại Bi, chắc chắn Ngài sẽ giúp ta những phương tiện thiện xảo, đưa ta vượt qua cảnh khổ đến nơi an lạc, hạnh phúc. Tuy nhiên, để Thần chú phát huy được oai lực của nó, khi trì tụng ta phải tự mình quán chiếu tại sao ta lại rơi vào cảnh khổ mà người khác lại không, và tại sao Thần chú lại có công năng cứu khổ?Giáo lý của nhà Phật cho chúng ta biết rằng tất cả mọi việc trên cỏi đời này không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên. Tất cả những đau thương bất hạnh mà ta phải gánh chịu trong kiếp sống hiện tại: gông cùm tù tội, bệnh hoạn, nghèo hèn,... là kết quả của những ác nghiệp mà ta đã gây nên từ bao kiếp trước hoặc trong kiếp này, nay đến lúc ta phải trả. Sở dĩ Thần chú Đại Bi có khả năng đưa ta vượt qua khỏi cơn khổ nạn vì công năng siêu tuyệt của nó là Phá Ác Nghiệp Chướng như đã nói ở trên.
    Thần chú này còn có tên gọi là Diệt Ác Thú.Nghe đến công năng này, một người sẵn mang tâm từ bi tất sẽ không khỏi sinh lòng nghi ngại. Không phải từ thời Đức Phật còn tại thế mà ngay cả đến bây giờ, hàng năm đã có một số lượng lớn người bị mất mạng vì ác thú, vì thế để cho ác thú khỏi xâm phạm ta, Bồ Tát đã cho ta thần chú Đại Bi, không có nghĩa là mỗi khi gặp chúng, hành giả đọc thần chú này lên thì tất cả ác thú đều ngả lăn ra chết, mà phải nên hiểu rằng, đối với một người hành trì thần chú Đại Bi hằng ngày một cách nghiêm túc, bên cạnh oai lực che chở hộ trì của chư thần, long, thiên, hộ pháp, ở người trì chú cũng tự động phát ra một nguồn năng lực mà không phải chỉ riêng đối với ác thú, ngay cả các loài độc trùng khác cũng đều phải lánh xa.
    Tuy nhiên, đối với người quyết chí dấn bước trên con đường tu học, hai công năng quan trọng nhất của Thần chú Đại Bi là tùy tâm tự tại và tốc siêu thượng địa. Ta đang gặp khó khăn trong Thiền định, tâm ta loạn động không an trụ, thần trí ta hoang mang hoảng hốt không thể nào tập trung được vào việc hành thiền, từ trước đến nay ta đã tìm thử đủ mọi phương pháp mà vẫn không kết quả, thì nay Thần chú Đại Bi sẽ là một phương tiện hiệu quả giúp ta an tâm, giải phóng tâm thức ta ra khỏi những vọng động, âu lo của cuộc sống thường nhật, chắc chắn đưa ta bước vào cảnh giới thiền một cách mau chóng và rốt ráo, rồi từ đó Thần chú sẽ giúp ta thăng tiến mau chóng vào những nấc thang thiền kế tiếp, vấn đề nhanh hay chậm là do duyên nghiệp của mỗi cá nhân, tuy nhiên kết quả là chắc chắn, vì trong Kinh Bồ Tát Quán Thế Âm đã từng cho chúng ta biết rằng Ngài chỉ mới nghe qua Thần chú này một lần, đã nhanh chóng chứng quả từ ngôi sơ địa lên ngôi bát địa.
    Vì những lý do trên mà thần chú này có tên gọi là Quảng-Đại Viên-Mãn Vô-Ngại Đại-Bi-Tâm Đà-Ra-Ni. Bởi vậy, Phật tử không nên khinh xuất khi trì tụng chú Đại Bi mà phải tinh tấn và chí thành, cung kính, giữ đúng lễ nghi. Tin tưởng vào lòng thương yêu chúng sanh và khả năng hộ trì của Bồ Tát Quán Thế Âm, hành giả có thể hành trì Thần chú Đại Bi như là phương tiện chính của Thiền định trong khả năng tập trung năng lực cũng như thiền quán hầu đạt đến an lạc hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày và từng bước tiến đến cứu cánh giải thoát, giác ngộ.
     
  20. bebuti

    bebuti Thành viên chính thức

    Tham gia:
    20/12/2013
    Bài viết:
    178
    Đã được thích:
    80
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Nhân duyên cha mẹ con cái

    CÁC LOẠI QUẢ BÁO ( VÔ NHẤT ĐẠI SƯ THÍCH THIỀN TÂM)

    1. Hiện báo:
    Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại; có nghĩa hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo này có tánh cách mau, ví như trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa, chỉ trong vòng một mùa, một năm đã thu được kết quả. Hiện báo còn gọi là Hoa báo, danh từ này hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông. Tục ngữ có câu: "Ðời xưa trả báo thì chầy. Ðời nay trả báo một giây nhãn tiền". Hai câu này chỉ cho tánh cách của Hiện báo hay Hoa báo.

    2. Sanh báo:

    Sanh báo là gây nhân kiếp này, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo này có tánh cách hơi lâu, ví như trồng mụn chuối con, hạ thổ năm nay, sang năm mới có trái. Trong kinh có câu: "Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ hưởng đời nay. Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại". Hai câu này có thể chỉ cho ảnh hưởng của sanh báo.

    3. Hậu báo:
    Ðây là nói sự gây nhân trong đời này, đến ba, bốn, trăm, ngàn hay vô lượng kiếp sau mới thọ quả báo. Hậu báo có tánh cách lâu hơn, ví như trồng những loại cây trong năm nay, đến năm, mười hay đôi ba mươi năm sau mới kết quả. Thuở xưa, khi Phật còn ở đời, có ông Thi Lợi Bật Ðề đến một trăm tuổi mới cầu xin xuất gia. Các vị Trưởng lão như Ca Diếp, Xá Lợi Phất, nhập định quán sát trong vòng 84.000 kiếp về trước thấy ông thiếu căn lành nên không cho. Ðến khi Như Lai đi khất thực trở về, thấy ông khóc lóc cầu xin, liền chấp thuận. Các vị Trưởng lão hỏi duyên cớ. Ðức Thế Tôn đáp: "Thi Lợi Bật Ðề trước 84000 kiếp, tiền thân là lão tiều phu, bị cọp đuổi gấp leo lên cây niệm một câu "Mô Phật". Do thiện căn ấy đến nay mới gặp ta, và sẽ được đắc độ. Vì nhân lành kiếp trước của người này quá lâu xa, nên sức đạo nhãn của các ông không thể thấy biết được". Trong kinh có bài kệ: "Giả sử trăm ngàn kiếp. Nghiệp đã tạo không mất. Khi nhân duyên gặp nhau, lại tự chịu quả báo". Ðại ý bài kệ này chỉ cho trường hợp Hậu báo.

    4. Ðịnh báo:
    Ðịnh báo là quả báo nhứt định phải chịu, không thể chuyển biến được, bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười. Ví như cái nhà hư hao chút ít hay nửa phần, còn có thể sửa chữa được; nếu kèo cột tường nóc đều hư mục, tất phải chờ cho nó hư hoại để làm ngôi khác. Và như bịnh ung thư trong thời kỳ nhẹ còn có thể chữa được, sang lúc quá nặng duy có phương chờ đến mãn phần. Cổ ngữ có câu: "Dược y bất tử bịnh. Tửu bất giải chân sầu". (Thuốc chỉ trị những bịnh không chết. R*** không thể giải mối buồn hiện thật). Mấy câu này có thể tượng trưng phần nào cho sự việc trên.
    Thuở xưa vua Lưu Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích, đức Thế Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn giả Mục Kiền Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc, thì ngài bảo đó là định nghiệp. Tôn giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu Ly vương dẹp xong hàng Thích Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ. Cho nên chư Phật có ba việc làm được, ba việc làm không được, gọi là "Tam năng tam bất năng". Các điều ấy là: chư Phật có thể thông tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể diệt được định nghiệp; có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ những chúng sanh vô duyên; có thể độ vô lượng chúng sanh, song không thể độ hết chúng sanh giới. Bởi thế, sức người cố nhiên là hữu hạn, nhưng sức Phật vẫn chưa phải toàn năng. Nếu chúng sanh không tín hướng đức Như Lai, không thật hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ Tát cũng không thể hóa độ được.

    5. Bất định báo:
    Ðây là nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi được. Như có người trước đã tạo nghiệp lành, đáng lẽ phải hưởng phú quý trọn đời. Nhưng trong lúc làm quan, nếu kẻ ấy tham mê tài sắc, ăn của lót, cưỡng hiếp, hãm hại người, thì phước lộc lần lần tiêu giảm, có thể bị tù ngục, ô danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử. Và như kẻ kiếp trước kém nhân lành, nên đời này thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu người ấy biết xét lẽ nhân quả tội phước, gắng sửa đổi tâm tánh, hết sức làm việc phước thiện, thì tội chướng lần tiêu giảm, phước đức lần tăng thêm, có thể trong hiện tại chính mình hay con cháu sẽ tiến đến cảnh vinh quang. Ví như trong đời, người tước vị cao mà ỷ thế làm quấy, thì có thể bị cách chức; kẻ có tội nhưng gắng lập công, có thể đem công chuộc tội, và nếu lập công thêm mãi tất sẽ được tấn chức thăng quan.
    Nghiệp quả của chúng sanh phần nhiều đều có tánh cách bất định. Nếu chúng ta biết gắng sức dùng tâm lực để chuyển nghiệp lực, thì cảnh thiên cung, Phật quốc nào phải không nẻo tiến lên. "Bụi hồng có lối về hương quốc. Cửa tội không tâm mở dạ đài", chính là ý này vậy.

    6. Cộng báo:
    Cộng báo là quả báo chung. Như thuở đức Thế Tôn còn ở đời, ba mươi hai người con của bà Tỳ Xá Ly đều bị vua Ba Tư Nặc nghi lầm mà giết. Xét theo hiện thời thì dường như đó là hàm oan. Song thật ra trong tiền kiếp vua Ba Tư Nặc là con trâu, ba mươi hai người kia đều là kẻ trộm. Trong khi con trâu biết mình sắp bị giết, quỳ xuống rơi nước mắt tỏ ý van xin, nhưng ba mươi hai kẻ trộm quyết tâm sát hại để ăn thịt. Lúc ấy lại có một bà lão tán thành giúp cho phương tiện nấu nướng. Bà lão ấy chính là tiền thân của cận sự nữ Tỳ Xá Ly. Bà Tỳ Xá Ly và ba mươi hai người con vì đồng gây cộng nghiệp, nên ba mươi hai đứa con bị giết; còn bà mẹ bởi kiếp trước tùy hỉ việc ấy, nên hiện tại cũng vương nỗi buồn lây. Ðiều này do đức Phật thuật lại tiền nhân, nên mối oan kết đôi bên mới được giải thích.
    Lại nữa, trong thời kỳ chiến tranh này, có nhiều người tuy không ra trận tuyến, nhưng cũng bị bom đạn, sự kinh khủng, cảnh nghèo đói, hoặc nỗi buồn khổ về tử biệt sanh ly. Ðó đều là ảnh hưởng nặng nhẹ thuộc Cộng báo, do việc tự mình giết, bảo người giết, hoặc tùy hỷ sự giết của nghiệp sát sanh từ nhiều kiếp về trước.

    7. Biệt báo:
    Ðây cũng gọi Bất cộng báo, là quả báo riêng của mỗi cá loại trong loài người hay loài vật. Chẳng hạn như đồng là chim, nhưng có loại chim quý đẹp như bạch hạt, anh võ, trỉ, thanh tước, phượng hoàng; có loại chim thường như quốc, cò, sẻ, én; và loại xấu như chim heo, chim ụt. Lại cũng đồng là loài người, mà có kẻ xấu, người đẹp, kẻ giàu sang, người nghèo khổ, kẻ ngu tối, người thông minh. Hoặc như trong cảnh khói lửa tang tóc lan tràn, mà có người vẫn sống đoàn tụ an vui, hầu như không biết chiến tranh là gì cả. Ðó là những trường hợp thuộc về Biệt báo.

    8. Cận tử báo:
    Cận tử báo là quả báo lúc sắp chết. Con người khi già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ kiếp này hoặc kiếp trước dồn lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc bình thường. Nếu là nghiệp thiện thì khiến cho người ấy vui vẻ hòa nhã hiền lương, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo an lành. Như thuộc về nghiệp ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc sắp chết đau yếu mê man. Trong đời kẻ tu thiện thì ít, làm ác lại nhiều, nên đa số người đến lúc lớn tuổi thường đổi tánh; những vị không hiểu lý này cho là "già hay sanh tật".
    Thuở bút giả còn ở chùa Linh Thứu, tại xã Thạnh Phú, tỉnh Ðịnh Tường, có biết ông hương ấp Nghé. Ông này ưa ăn thịt chó, mỗi tháng trung bình độ sáu con, nên khi ông đi đâu thì chó sủa dồn đến đó, ai cũng đều biết. Khi ông đau sắp chết, thì tự chui xuống gầm giường nằm khoanh một góc, lâu lâu lại tru lên như chó. Lúc ấy có người đồng bạn là chú năm Thiện đến thăm, hỏi: "Anh hương ấp làm chi lạ vậy? Thôi anh lên giường nằm, đừng để cho bà con chê cười!" Nói chưa xong, thì ông thình lình nhảy ra táp chú, hình trạng như con chó giận dữ cắn người, may nhờ chú năm lẹ làng tránh khỏi. Ðây là một việc tượng trưng cho Cận tử báo thuộc về nghiệp ác.
    9. Thục vị thục báo:
    Ðiều này là trạng thái của nghiệp báo lúc chưa thuần thục và đã thuần thục. Tiên đức nói: "Người mang nghiệp ví như người mắc nợ, mối nào mạnh thì nó kéo lôi trước". Khi xưa, một hôm đức Phật bảo ngài A Nan: "Có người trọn đời làm lành mà khi chết bị đọa vào ác đạo, bởi nghiệp lành đời này chưa chín muồi, song nghiệp dữ kiếp trước đã đến lúc thuần thục. Có kẻ trọn đời làm ác nhưng khi chết sanh lên thiên cung, bởi nghiệp ác đời này chưa thuần thục mà nghiệp lành kiếp trước đã đến thời kỳ chín muồi. Việc nhân quả rất phức tạp, tùy theo thế lực mạnh yếu mà đến trước hoặc sau. Cho nên các đệ tử của ta chớ nên thờ ơ, phải gắng chuyên tu cho đạo nghiệp được tinh thuần. Vì biết đâu, có kẻ tuy đời nay yên ổn hưởng lạc làm lành, nhưng nghiệp ác những kiếp về trước đã sắp đến thời kỳ thuần thục!"
    Bởi chưa hiểu rõ lý trên, nhiều vị thấy người làm lành mà chết xấu, kẻ hung dữ lại chết tốt, vội phê bình cho rằng không có việc nhân quả tội phước, chẳng cũng là sai lầm lắm ư?

    10. Chuyển báo:
    Chuyển báo là những biến trạng khổ vui, do sức tu thiện hay làm ác của đương nhơn. Biến trạng này là sự dồn dập để chuyển đổi những quả báo sắp đến. Như có người làm đủ những điều ác, song đời sống hiện tại càng thêm an ổn vinh quang. Trong đây có hai nguyên nhân: Một là do túc phước của họ quá nhiều, tuy có phần tổn giảm bởi làm ác, nhưng dư phước hãy còn. Hai là do thế lực của nghiệp ác quá mạnh, khiến cho bao nhiêu phước đời này và đời trước đều phát hiện cho kẻ ấy hưởng, để rồi sẽ chịu quả báo ác đạo ở kiếp sau. Sự kiện Chuyển báo nơi đây, chính thuộc về trường hợp thứ hai này. Nói theo các cụ bình dân ta, đây gọi là trạng thái "dồn phước". Lại có những vị chí tâm tu hành, nhưng lại thường gặp những việc thất bại, đau yếu, tai nạn, mang tiếng thị phi. Theo tiên đức, đó là do sức tu thiện, khiến cho chuyển quả báo nặng ác đạo ở đời sau, thành ra quả báo nhẹ trong hiện tại, để kẻ ấy khi mạng chung sẽ hưởng phước nhơn thiên, hay sanh về Phật quốc. Và đây gọi là trạng thái dồn nghiệp.
    Nhiều Phật tử không hiểu lẽ này, khi gắng tu mà gặp việc không may, vội sanh tâm sợ sự niệm Phật tụng kinh, hoặc thối chí bảo: càng tu nhiều càng có lắm việc phiền phức, rồi lần lần đi đến sự giải đải, xin đem một thí dụ để trần thích: như người có bịnh phong hay ban, uống thuốc vào chất độc bị giải tán, làm cho nước tiểu vàng hoặc cả mình nổi mận đỏ, đó là trạng thái bịnh sắp lành. Việc ấy nên đáng mừng hay là lo sợ? Kẻ tu hành cũng thế, do công đức tụng kinh niệm Phật, khiến cho nghiệp chướng phát hiện để tiêu trừ. Nếu có chút ảnh hưởng khổ báo, trong mười phần ta chỉ còn chịu đôi ba phần, cho nên hành giả đừng lấy việc đó làm nản chí. Và điều này, trong kinh Kim Cang, đức Phật cũng đã bảo: "Tu Bồ Ðề! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì đọc tụng kinh này mà bị người khinh rẻ, nên biết kẻ ấy đời trước tội chướng rất nhiều, đáng lẽ phải đọa vào ác đạo. Do sức tụng kinh, khiến đời nay bị người chê bai, nên tội chướng đời trước được tiêu diệt, kẻ đó sẽ đắc quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề".
    Trong Tịnh Ðộ Thánh Hiền Lục có thuật chuyện ông Ngô Mao tu hành chân chánh, lúc sắp chết bị giặc đâm bảy thương. Khi người anh đến, ông bỗng tỉnh lại bảo: "Ðời trước tôi tạo nhiều nghiệp ác, đáng lẽ phải còn đầu thai làm heo bảy kiếp nữa. Nhưng nhờ đời này tôi biết ăn chay niệm Phật, nên phải chịu bảy vết thương để trả bảy kiếp làm heo ấy. Hiện thời tôi sắp sanh về Tịnh độ". Cứ theo việc ông Ngô Mao, kẻ không biết cho là tu hành mang họa. Nhưng chỉ chịu bảy vết thương trả xong bảy kiếp làm heo, để rồi được sanh về Cực Lạc; nếu so lại thì việc tu hành đâu phải luống uổng, và công đức niệm Phật chính thật không thể nghĩ bàn! Nhưng tu hành không phải mỗi người đều bị chuyển báo, nếu kẻ có căn lành từ kiếp trước thì càng tu càng được an vui. Hành giả đừng in trí theo một phương diện trên mà sanh lòng e ngại.

    11. Thế gian báo:
    Ðây là những quả báo khổ vui trong ba cõi: Dục, Sắc và Vô sắc. Nguyên nhân chánh của sự lưu trệ trong tam giới, là vì khi gây nhân chúng sanh còn chấp ngã. Chẳng những thế gian và ngoại đạo mà các vị tu theo chánh giáo, nếu chưa dứt hết tâm chấp ngã, còn tham nhiễm lục trần, cũng vẫn còn ở trong vòng luân hồi sáu nẻo. Tuy nhiên, những sở hành theo Phật pháp đều gây nhân duyên đắc độ về sau, nhưng kiếp tương lai trong khi tu, điểm chánh yếu của sự giải thoát vẫn là điều kiện dứt ngã chấp. Trong truyện ký nhà Phật có chép việc một ni cô tụng kinh Pháp Hoa ba mươi năm, nhưng tâm còn nhiễm thanh sắc, nên kiếp sau chuyển làm nàng kỷ nữ thanh sắc vẹn toàn; nơi miệng thường bay ra mùi thơm hoa sen. Tại Việt Nam, đời nhà Lê, một vị sư tu Tịnh độ ở chùa Quang Minh, bởi tâm lợi danh chưa sạch, nên kiếp sau chuyển sanh làm vua Khang Hy bên Trung Hoa. Khi được biết tiền nhân, nhà vua viết mấy bài thi hoài cảm, trong ấy có hai câu: "Ngã bản Tây phương nhất Phật tử. Vân hà lạc tại đế vương gia?" (Ta vẫn là con của Phật A Di Ðà ở Tây phương. Tại sao nay lại lạc vào giòng vương thất?)
    Ðời Tống bên Trung Hoa, Giới Diễn và Quang Huệ đại sư đồng tu thiền, song Giới Diễn vì còn chút tâm niệm luyến sắc, nên kiếp sau đầu thai làm nhà văn hào lỗi lạc, đa tài mà cũng đa tình, là Tô Ðông Pha. Sau khi được ngài Quang Huệ chuyển kiếp làm Phật Ấn thiền sư để hóa độ Tô Ðông Pha trở lại đường tu. Có lẽ nhớ biết những kiếp về trước, nên lúc lớn tuổi, trong cuộc tái du thăm viếng chùa Kim Sơn, ông đã viết mấy câu thi:
    Kim Sơn chùa núi gần mây nước
    Tóc bạc Ðông Pha lại đến đây.
    Tiền kiếp Ðức Vân, nay chính tớ
    Mơ màng còn nhớ Diệu Cao đài!

    12. Xuất thế gian báo:

    Thế gian báo là quả báo thuộc lục phàm. Trái lại, xuất thế gian báo là quả báo của tứ thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát và Phật. Quả báo tứ thánh do bởi khi tu lìa ngã chấp mà được thành tựu. Trong hạnh vô ngã này, hàng nhị thừa hãy còn hẹp, song Bồ Tát thừa thì rất rộng rãi nhiệm mầu. Bồ Tát chẳng những tu tam vô lậu học của pháp xuất thế gian, mà còn làm tất cả việc từ thiện của thế gian. Tâm của Bồ Tát không thấy có sở đắc sở chứng; không có tướng ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả; tuy độ vô lượng hữu tình nhưng không thấy mình là người hóa độ, chúng sanh là kẻ được độ; tuy quanh mình thị hiện vô biên quyến thuộc, nhưng lòng hằng vắng lặng không thấy có quyến thuộc; tuy tu vô lượng phước đức, nhưng không thấy mình có phước đức. Ðây là hạnh vô tướng. Người biết thật hành hạnh vô tướng, dù là làm việc thiện thế gian, song đều thành kết quả giải thoát. Bằng trái lại, tuy tu thánh đạo, cũng hóa ra phước báo thế gian. Về hạnh vô tướng này, trong kinh Kim Cang, có đoạn đức Phật dạy: "Này Tu Bồ Ðề! Như có vị Bồ Tát dùng số lượng thất bảo đầy cả hằng hà sa thế giới để bố thí. Nếu lại có người biết tất cả pháp đều vô ngã, được thành vô sanh nhẫn, thì công đức của vị Bồ Tát sau này hơn bậc Bồ Tát trước kia. Tại sao thế, Tu Bồ Ðề? Bởi thật ra, chư Bồ Tát đều không thọ phước đức". Tu Bồ Ðề thưa: "Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Bồ Tát không thọ phước đức?" - Này Tu Bồ Ðề! Vì Bồ Tát tuy làm những việc phước đức, song chẳng tham trước, nên ta nói không thọ phước đức!"
    Thông thường hàng Phật tử tại gia khi mới quy y, duy thích cúng dường chùa mình, phụng sự thầy của mình, hay chỉ làm những Phật sự mà họ cho là có công đức hơn việc thế gian. Nhưng nếu họ hiểu rộng hơn, vừa dùng tâm bình đẳng phụng sự Tam Bảo, vừa làm các việc từ thiện ở đời, như giúp đỡ kẻ nghèo khổ đau yếu, chu cấp cho hàng quả phụ cô nhi, rồi đem công đức ấy hồi hướng về Tịnh độ cùng đạo Vô thượng bồ đề, thì tất cả việc làm lành đều đi đến kết quả giải thoát cả.
    Tóm lại, sự lý nhân quả thật vô lượng, chuyển biến chập chồng, có thể gọi là khó bàn khó nghĩ. Nhưng về Nhân không ngoài sự hơn kém của nghiệp thân, ngữ, ý qua ba hạnh Phước, Phi phước và Bất động. Về Quả lại tổng quát trong mười hai điều trên. Nếu nắm được mấy điểm chánh yếu như đã kể mà suy rộng ra, về vấn đề này, người học Phật có thể hiểu quán xuyến tất cả.
    Những Tương Quan Giữa Nhân Và Quả
    Trạng thái nhân quả thật vô cùng, gây nhân nào tất cảm quả ấy, duy sự báo ứng hoặc đến sớm hay muộn mà thôi. Trong đây, nếu có sự chuyển biến, là do những ảnh hưởng xấu hoặc tốt khác xen vào. Thí dụ, một ly nước trong, như ta chỉ bỏ muối vào, tất nước phải mặn; nhưng nếu lại để xen thêm đường, vị nước sẽ đổi khác. Sự chuyển biến của nhân quả thiện ác cũng như thế. Nay ở đây chỉ luận bàn về những tương quan trực tiếp giữa nhân và quả. Với mục đích thủ tín cùng duyệt giả, xin dẫn toàn những thánh giáo để chứng minh:
    Trong kinh Luân Chuyển Ngũ Ðạo, đức Phật bảo:
    - Này A Nan! Muôn vật giữa đời đều có túc duyên. Người được quả báo hào quý làm bậc quốc vương, trưởng giả, từ nơi nhân lễ kính, phụng sự Tam Bảo mà đến. Người được quả báo giàu có, của cải vô hạn, từ nơi nhân bố thí mà đến. Người được quả báo sống lâu, không đau bịnh, thân thể mạnh khoẻ cao lớn, từ nơi nhân giữ giới mà đến. Người được quả báo đoan trang xinh đẹp, nước da trắng tươi sáng rỡ, ai thấy cũng đều ưa thích mến chuộng, từ nơi nhân nhẫn nhục mà đến. Người tánh nết siêng năng mau mắn, ưa làm việc phước thiện, từ nơi nhân tinh tấn mà đến. Người dáng điệu an nhàn, lời và hạnh đều có suy nghĩ, chừng mực, chắc chắn, từ nơi nhân thiền định mà đến. Người thông minh tài trí, hiểu suốt thâm pháp, từ nơi nhân tu huệ mà đến. Người được tiếng nói thanh thao rõ suốt, ai cũng ưa nghe, từ nơi nhân tụng kinh, ca ngợi Tam Bảo mà đến. Người dáng vẻ sáng sạch hiền hòa, không đau yếu, ai thấy cũng mến, từ nơi nhân từ tâm mà đến.
    Ngài A Nan thưa:
    - Bạch Thế Tôn! Sao gọi là "từ tâm"?
    Ðức Phật bảo:
    "- Từ tâm có bốn điều: 1- Thương tất cả chúng sanh như mẹ thương con. 2- Thấy chúng sanh khổ, xót xa muốn cứu độ. 3- Thấy chúng sanh hiểu đạo, biết làm lành, hướng về nẻo giải thoát, sanh lòng vui mừng. 4- Thường ái hộ chúng sanh, chẳng những săn sóc giữ gìn thân mạng, mà còn không có lời vô ý làm cho người bất mãn, buồn rầu. Ấy là những tướng trạng của từ tâm.
    - Lại này A Nan! Kẻ nào thân thể cao lớn, là do nhân ưa lễ bái, khiêm nhường, cung kính tất cả mọi người. Kẻ nào lùn thấp, là do nhân khinh mạn, tự cao. Kẻ nào dung mạo thô xấu, là do nhân giận hờn, nóng nảy. Kẻ nào sanh ra ngây ngô kém hiểu biết, là do nhân không thích học hỏi. Kẻ nào ngu si, là do nhân không chịu dạy dỗ người. Kẻ nào câm ngọng, là do nhân khinh ngạo, chê bai người. Kẻ nào đui điếc là do nhân hủy báng Tam Bảo, không chịu nghe chánh pháp. Kẻ nào làm thân tôi đòi là do nhân mắc nợ không trả, hoặc không kính lễ Tam Bảo. Kẻ nào thân hình đen xấu, là do nhân che ánh sáng của Phật. Kẻ nào sanh ra ở nước Lỏa hình, là do nhân ăn mặc hở hang vào tinh xá, hay đến trước chỗ Phật. Kẻ nào sanh vào nước Mã đề (thân người, bàn chân ngựa), là do nhân mang giày dép đi trước chỗ Phật. Kẻ nào sanh ở nước Xuyên hung (mọi người đều xoi hông), là do nhân bố thí làm phước mà sanh lòng hối tiếc.
    - A Nan! Chúng sanh nào làm loài hưu nai, là do kiếp trước ưa làm cho người sợ hãi. Chúng sanh nào sanh làm loài rồng, là do kiếp trước ưa bởn cợt và giận hờn, làm cho người phiền muộn. Kẻ nào nơi thân bị bịnh lát, ghẻ độc làm cho đau nhức khó chịu, chữa trị không lành, là do kiếp trước ưa đánh đập chúng sanh. Kẻ nào mọi người trông thấy đều vui mừng cảm mến, là do kiếp trước khi thấy người, niềm nở vui mừng cảm mến. Kẻ nào mọi người trông thấy đều chán ghét, là do kiếp trước khi thấy người, rẻ rúng chán ghét. Kẻ nào thường bị gông cùm tù ngục, là do kiếp trước hay trói buột hoặc giam nhốt chúng sanh trong lồng chậu, khiến cho nó không được tự do. Kẻ nào bị rách miệng sứt môi, là do kiếp trước ưa câu cá.
    - A Nan! Kẻ nào trong hội thuyết pháp không để ý lắng nghe, lại nói trái ngược làm loạn ý người khác, kiếp sau sanh làm con lừa tai dài, hoặc loài chó xụ tai. Kẻ nào kiêu căng bỏn sẻn tham lam, thích lén ăn uống, chỉ hưởng thụ riêng một mình không đoái hoài đến người thân sơ, hạng nghèo khổ; lúc chết rồi bị đọa vào địa ngục, kế làm loại ngạ quỉ, khi được sanh làm người thì nghèo hèn đói khát, mặc chẳng kín thân, ăn không no bụng. Kẻ nào thường ăn riêng thức ngon, cho người món dở, kiếp sau bị đọa làm loài chó, lợn, bọ hung. Kẻ nào thường tách mai, đánh vảy, lột da loài vật, đời sau làm sanh vật bị quả báo y như hành động của mình kiếp trước. Kẻ nào ưa giết hại, kiếp sau sẽ bị đọa vào tam đồ, cho đến làm con phù du trên mặt nước, sớm sanh chiều chết. Kẻ nào trộm cướp, kiếp sau sẽ làm thân tôi tớ, hoặc trâu bò, lừa, ngựa để trả nợ người. Kẻ nào hay nói dối, nói đâm thọc, mắng chưởi, nói lời cay độc, bêu rêu việc xấu của người, khi chết sẽ sa xuống địa ngục, bị rót nước đồng sôi vào miệng, hoặc bị cắt lưỡi, cày lưỡi, sau lại làm thân ác điểu, người nghe tiếng kêu đều kinh sợ bảo là điềm quái gở, nguyền rủa muốn cho nó chết. Kẻ nào quyến rũ dâm loạn vợ chồng con cái người, khi chết đọa vào địa ngục, nam ôm cột đồng lửa, nữ nằm giường sắt nóng, sau lại làm loài thú đa dâm, hoặc làm loài ngỗng, vịt. Kẻ nào ưa uống r***, phạm nhiều tội ác, lúc chết bị đọa vào địa ngục, sau sanh làm loài dã nhơn, khi được thân người lại ngu si khờ dại. Kẻ nào vợ chồng không biết nhường nhịn hòa thuận, thường hay tranh cãi, nặng lời xua đuổi nhau, kiếp sau đọa làm thân chim cưu (tu hú), chim bồ câu. Kẻ nào ưa lạm dụng sức người, kiếp sau sanh làm loài voi, bị người dùng sức lại.
    - Này A Nan! Trừ những vị làm quan, y theo pháp luật, hạch hỏi xử phạt một cách công minh, thì không tội. Nếu hạng quan liêu ỷ quyền thế xâm đoạt tài sản của dân, hoặc ăn hối lộ dung túng kẻ ác, tra tấn, gông cùm, xử hiếp người vô tội hay không đáng tội, thì khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục chịu thống khổ ngàn muôn kiếp, sau lại sanh vào loài trâu bò bị xỏ mũi, đánh đập, mang kéo nặng nề để đền tội trước.
    - Lại nữa, A Nan! Người nào từ thân thể đến cách ăn ở, lôi thôi không sạch sẽ, do từ loài lợn mà đến. Người nào tham lam bỏn sẻn không ưa bố thí, do từ loài chó mà đến. Người nào ngược ngạo, tự tung tự tác không chịu nghe lời ai, do từ loài dê mà đến. Người nào tánh lao chao, gặp việc không nhẫn nại, do từ loài khỉ vượn mà đến. Người nào có tâm độc ác ngầm, do từ loài rắn rết mà đến. Người nào thích ăn ngon, hung dữ, ưa khủng hại chúng sanh, không có tâm lành, do từ loài cọp, sói, mèo, chồn mà đến..."
    Trong kinh Ðịa Tạng Bản Nguyện, đức Phật bảo:
    "- Này Tứ thiên vương! Ðịa Tạng Bồ Tát nếu gặp kẻ sát sanh, thì nói về quả báo do túc ương mà chết yểu. Nếu gặp kẻ trộm cắp, nói về quả báo nghèo hèn khổ sở. Nếu gặp kẻ tà dâm, nói về quả báo làm chim se sẻ, bồ câu, uyên ương. Nếu gặp kẻ thốt lời thô ác, nói về quả báo quyến thuộc chống đối nhau. Nếu gặp kẻ hay khinh chê, nói về quả báo lở miệng, không lưỡi.
    - Nếu gặp kẻ ưa nóng giận, ngài nói về quả báo thọ thân hình thô xấu, tàn tật. Nếu gặp kẻ tham lam bỏn sẻn, nói về quả báo sự mong cầu không toại ý. Nếu gặp kẻ uống ăn vô độ, nói về quả báo đói khát, đau cuống họng. Nếu gặp kẻ buông lung săn bắn, nói về quả báo kinh hãi điên cuồng mất mạng. Nếu gặp kẻ phản nghịch cha mẹ, nói về quả báo bị tai nạn đất trời tru lục. Nếu gặp kẻ đốt núi rừng cây cỏ, nói về quả báo mê cuồng đến chết. Nếu gặp cha mẹ ghẻ ăn ở độc ác, nói về quả báo thác sanh trở lại bị sự roi vọt đánh đập. Nếu gặp kẻ ưa lưới bắt chim non, nói về quả báo cốt nhục chia lìa.
    - Nếu gặp kẻ hủy báng Tam Bảo, ngài nói về quả báo đui, điếc, câm ngọng. Nếu gặp kẻ khinh chê chánh pháp, nói về quả báo hằng ở trong ác đạo. Nếu gặp kẻ lạm phá của thường trụ (của chùa chiền tăng chúng), nói về quả báo ức kiếp bị luân hồi nơi địa ngục. Nếu gặp kẻ làm ô nhục người tu hạnh thanh tịnh, cùng vu báng tăng ni, nói về quả báo thường ở trong loài súc sanh. Nếu gặp kẻ dùng nước sôi, dao gậy, hay lửa, giết hại chúng sanh, nói về quả báo luân hồi thay nhau để thường mạng. Nếu gặp kẻ phá giới phạm trai, nói về quả báo làm cầm thú bị đói khát. Nếu gặp kẻ phung phí tiền của một cách vô lý, nói về quả báo sự mong muốn tiêu dùng thường thiếu hụt. Nếu gặp kẻ kiêu mạn tự cao, nói về quả báo làm thân hèn hạ bị người sai khiến. Nếu gặp kẻ nói đâm thọc cho người sanh sự gây gổ, nói về quả báo thọ thân không lưỡi hoặc trăm lưỡi. Nếu gặp kẻ tà kiến mê tín, nói về quả báo sanh nơi chỗ hẻo lánh không được nghe chánh pháp.
    - Này Tứ thiên vương! Như thế, chúng sanh trong cõi Diêm phù đề, từ nơi thân, ngữ, ý tạo nghiệp, kết quả bị trăm ngàn sự báo ứng. Và tùy theo những nghiệp cảm sai biệt ấy, Ðịa Tạng Bồ Tát cũng dùng trăm ngàn phương tiện để hóa độ. Nay ta chỉ kể đôi phần sơ lược thế thôi!"
    Như trên, việc luân hồi nhân quả thật vô cùng, như bánh xe quay tròn, vay trả trả vay, không biết khi nào là kết cuộc! Trong luân hồi đã hàm nhân quả bởi nhân quả nên mới có luân hồi. Cho đến chư Phật muốn thành đạo chánh đẳng bồ đề, trong nhân hạnh cũng phải tu vô biên phước huệ. Nhưng đối với các bậc thánh giả, bởi đã dứt sạch ngã chấp, nên tùy ý đến hóa độ các cõi, hay muốn sống chết lúc nào cũng phải được tự tại. Và bởi chư thánh lấy pháp giới làm thân, đã thoát ly ngũ uẩn, nên tuy thị hiện ở cõi trời, người, hay nơi ác đạo, cũng không bị sự khổ vui chi phối. Nên một vị thiền sư đã bảo: "Lão tăng tự có phương nhàn tịnh. Nào ngại trăm phiền tám khổ vây!"
    Về sự luân hồi, duy có hai nghiệp ái dục và sát sanh là nặng nhất. Do sát sanh mới thành cảnh oan cừu hờn giận, chém giết lẫn nhau. Do ái dục mới thành mối ân tình của vợ chồng quyến thuộc. Sát sanh phần lớn là do vì tham món ăn ngon. Ái dục lại bởi say đắm việc tình nhiễm giữa nam nữ. Nhưng so lại trong các thứ nhiễm lạc đời, thì nghiệp ái dục sâu nặng và mạnh mẽ hơn cả. Từ xưa đến nay, biết bao bậc vương hầu khanh tướng, vì thanh sắc mà mất nước, lụy thân. Cho đến đức Phật cũng công nhận, nếu có cái thứ hai mạnh hơn ái dục, thì đệ tử của Ngài cũng không phương giải thoát. Lấy một việc để nêu gương: như Ðường Minh Hoàng nếu không say đắm trong vòng thanh sắc, thì cũng có thể thành anh quân, đâu để An Lộc Sơn gây thành cảnh đào vong bỏ nước. Và nếu Ðường Vương có duyên với Phật pháp, xét biết ba ngàn thế giới, sắc tức là không, thì chi đến nỗi: Xiêm nghê tiếng ngọc, hồn tiêu Kim cốc vườn xuân. Trăng khuyết hoa tàn, lòng nát Mã ngôi trạm lạnh!
     

Chia sẻ trang này