Cây thuốc quanh ta

Thảo luận trong 'Nội trợ, Mẹo vặt' bởi EnCon, 31/7/2008.

Tags:
  1. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    13 bài thuốc dân gian phòng chống bệnh tả
    Cập nhật lúc 09h12" , ngày 22/11/2007


    Mộc qua


    Trong y học cổ truyền, bệnh tả thuộc phạm vi chứng hoắc loạn, được chẩn trị bằng nhiều phương pháp khác nhau, trong đó có việc vận dụng những kinh nghiệm dân gian hết sức phong phú.

    Phương pháp dùng thuốc

    Bài 1: Cát căn 15g, hoàng cầm 12g, hoàng liên 6g, cam thảo 5g, ngô thù du 3g, ý dĩ 30g, sắc uống. Dùng cho bệnh thuộc thể nhiệt biểu hiện bằng các triệu chứng thông thường có kèm theo phát sốt, họng khô miệng khát, tâm phiền, trong ngực rạo rực không yên, đau bụng, chất thải nặng mùi, tiểu tiện sẻn đỏ, rêu lưỡi vàng bẩn... Nếu bị chuột rút gia thêm mộc qua 12g, bạch thược 15g, nôn nhiều gia trúc nhự 10g, bán hạ chế 10g.

    Bài 2: Thái tử sâm 30g, mạch môn 15g, bạch thược 15g, ngũ vị tử 15g, hoàng liên 6g, biển đậu 10g, chích thảo 10g, ý dĩ 30g, sắc uống. Dùng cho trường hợp mất nước nhiều, nếu khí hư nhiều (mệt lả, huyết áp tụt) gia hoàng kỳ 30g, chuột rút gia mộc qua 10g, khát nhiều gia cát căn 15g, ô mai 15g; đi ngoài quá nhiều gia thạch lựu bì 15g.

    Bài 3: Thái tử sâm 25g, mạch môn 12g, thạch hộc 12g, ô mai 15g, trúc diệp 10g, lá sen 10g. Dùng cho thời kỳ hồi phục, nếu có sốt gia thạch cao 30g, tiểu tiện bất lợi gia phục linh 10g, ăn kém gia mạch nha, cốc nha và sơn tra sao đen 30g.

    Bài 4: Gừng tươi nướng cháy vỏ 8g, riềng sao 12g, củ sả sao 12g, nụ sim 8g (hoặc búp ổi sao 12g), sắc với 500ml nước còn 200ml chia uống 2 lần trong ngày. Hoặc nụ sim 8g, búp ổi 60g, riềng 20g, tất cả sao vàng tán bột, uống mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 5g với nước ấm. Dùng cho bệnh thuộc thể hàn biểu hiện bằng các triệu chứng thông thường có kèm theo tay chân lạnh, vã mồ hôi lạnh, sợ lạnh, bụng không đau, phân toàn nước màu hơi trắng đục như nước vo gạo, tiểu tiện trong, rêu lưỡi trắng mỏng...

    Bài 5: Hoạt thạch và cam thảo lượng bằng nhau, tán bột, uống mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 3-6g. Hoặc búp chè xanh 16g, rau má 16g, lá mơ lông 16g, bông mã đề 16g, nụ sim 18g, sắc uống. Dùng cho bệnh thuộc thể nhiệt.

    Bài 6: Dùng một trong các bài thuốc độc vị: (1) Biển đậu 1 thăng (còn gọi là thưng, có dung tích khoảng 200ml, dùng để đong lương thực) sắc với 1.200ml nước lấy 400ml uống. (2) Sinh khương 90g, rửa sạch, giã nát, sắc với rượu 200ml, chia uống nhiều lần. (3) Ngải cứu một nắm sắc với 3 bát nước lấy một bát uống. (4) Riềng 30g giã nát sắc với 3 bát nước lấy 2,5 bát rồi bỏ bã đem nấu với gạo thành cháo, chia ăn vài lần. (5) Chi tử 14g sao vàng tán bột, uống với rượu ấm. (6) Ngô thù du sao 60g sắc với hai chén rượu to lấy một chén uống ấm.

    Các bài thuốc nói trên sắc uống ngày 1 thang cho đến khi khỏi.

    Phương pháp không dùng thuốc

    Bài 1: Dấm gạo để lâu đun nóng, dùng gạc cũ thấm ướt rồi chườm tứ chi nhiều lần. Dùng để chữa cơn chuột rút (y học cổ truyền gọi là chuyển cân) trong bệnh tả.

    Bài 2: Cứu huyệt trửu chùy, mỗi huyệt 10 tráng. Vị trí huyệt trửu chùy: ở vùng lưng, nằm sấp xuôi tay, lấy dây đo khoảng cách hai đầu nhọn khớp khuỷu, dây đi ngang qua chỗ hõm dưới cột sống lưng là một huyệt, từ huyệt này đo ngang ra hai bên một thốn, mỗi bên một huyệt, như vậy là có 3 huyệt. Đây là huyệt vị do Hoa Đà tìm ra, được ghi trong sách Hoa Đà thần y bí truyền.

    Bài 3: Lấy muối ăn đổ đầy rốn rồi dùng mồi ngải cứu bên trên, dùng để chữa chứng trướng bụng và hồi sinh trong bệnh tả. Cũng có thể thay muối bằng gừng tươi thái lát (cứu cách gừng).

    Bài 4: Châm tả huyệt chi câu (từ điểm giữa cổ tay phía mu đo lên trên 3 thốn, ở khe giữa xương quay và xương trụ), dùng để chữa chứng nôn nhiều trong bệnh tả.

    Bài 5: Dùng một cái bát sứ dấp dầu hạt cải cạo gió vùng cổ vai, cột sống, hai bên sườn, hai mặt trong khớp khuỷu và khớp gối. Cạo từ trên xuống dưới cho đến khi xuất hiện những chấm đỏ tím thì thôi.

    Bài 6: Lấy tỏi giã nát xát vào hai lòng bàn chân cho đến khi nóng rực thì thôi, dùng để chữa chứng chuột rút trong bệnh tả.

    Bài 7: Dùng muối ăn sao nóng chườm vùng ngực, bụng và lưng nhiều lần để cầm nôn và đi ngoài.

    Nói chung, những kinh nghiệm nêu trên đều đơn giản, dễ kiếm, dễ làm và rất tiện lợi. Nhưng vì tả là một bệnh nguy hiểm nên người bệnh nhất thiết vẫn phải được khám và điều trị theo biện pháp của y học hiện đại. Tuy nhiên, trong một hoàn cảnh cụ thể nào đó, việc chọn lựa và vận dụng những kinh nghiệm dân gian vẫn có giá trị phòng bệnh tích cực, điều trị hỗ trợ và dự phòng tái phát ở một mức độ nhất định

    Nguồn :vnmedia.vn
     
    Đang tải...


  2. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chữa viêm khí phế quản mạn tính bằng hoa quả
    Cập nhật lúc 08h49" , ngày 08/11/2007





    Bệnh viêm khí phế quản mạn tính là do ho kéo dài gây ra, ho có đờm, bệnh biểu hiện chủ yếu ở hệ thống hô hấp, hay gặp ở người có tuổi. Bệnh gây nhiều trở ngại khó khăn trong sinh hoạt cũng như làm mất sức lao động của bệnh nhân.



    Xin giới thiệu một số bài thuốc chữa bệnh khí phế quản mạn tính bằng các loại hoa quả sẵn có, dễ thực hiện.



    Bài 1: Bột quýt hồng (quýt tàu khô) 10g, bột gạo 500g, đường trắng 200g. Lấy bột quýt hồng và đường trắng cho vào trong hộp đảo đều. Trải một lớp vải sạch lên lồng hấp, cho bột gạo lên, để lửa to hấp nửa tiếng, lấy ra để nguội dùng dao ép bột gạo chín, rắc bột quýt hồng, đường lên, lại cho một lớp bánh bột gạo, ép xuống, lấy dao cắt thành miếng nhỏ là có thể ăn được.

    Tác dụng: Kiện vị tiêu thức ăn, trị ho đờm, có thể phụ trợ trị ăn không ngon miệng, tiêu hóa không tốt, ho nhiều đờm.

    Bài 2: Gà mái non 1 con, quýt hồng (khô) 25g, nõn rau cải dầu 100g, gia vị hành gừng vừa đủ. Quýt hồng ngâm nước ấm, rửa sạch đất cát, rau cải dầu cắt nõn rửa sạch, sau khi luộc để nguội. Hành thái đoạn, gừng thái miếng mỏng. Gà mái vặt lông, bỏ ngũ tạng, rửa sạch, cho gà vào nồi ngập nước, đun sôi bỏ bọt, cho quýt hồng, hành, gừng, để lửa nhỏ ninh 3 - 4 tiếng, khi thấy gà nhừ, cho gia vị và rau đã luộc qua vào, bỏ hành gừng ra, đợi sôi thêm 2 lần thì có thể ăn được.

    Tác dụng: Trị ho hóa đờm, thanh phổi ức hỏa, thích hợp dùng cho những người già khí đoản, phổi nhiệt ho...

    Bài 3: Quất vàng 300g, đường cát 300g. Quất vàng rửa sạch, bỏ hạt, ép bẹp, lấy đường trắng ướp 1 ngày, sau đó cho vào nồi nấu đến khi khô nước, cho ra đĩa để nguội, lại cho đường trắng vào phơi khô, ăn mấy quả trước và sau khi ăn cơm.

    Tác dụng: Khai vị tiêu thức ăn, nhuận phổi hóa đờm. Vỏ quất vàng khai vị nhuận khí, tiêu thức ăn hóa đờm, trong chứa dầu, có tác dụng kích thích đường tiêu hóa, có lợi cho vị trưởngvà bài ra khí, có thể thúc đẩy dịch vị bài tiết, trợ tiêu hóa, có thể kích thích đường hô hấp, khiến bài tiết dịch tăng, làm loãng dịch đờm. Ruột quả khai vị lý khí, trị ho nhuận phế.

    Bài 4: Quả trám tươi 50g, quả mơ 10g, đường trắng vừa đủ. Quả trám, quả mơ bổ ra, cho nước vào đun 20 phút, bỏ bã lấy nước, lấy đường trắng làm gia vị, có thể dùng trám khô 10g, uống thay trà.

    Tác dụng: Thanh nhiệt giải độc, bồi bổ sức khỏe, nhuận táo, lợi yết hầu. Quả mơ có vị chua chát, tính bình, tác dụng hóa đờm trị ho, bồi bổ sức khỏe, nhuận táo, có thể tiêu đờm. Quả mơ kết hợp với quả trám có tác dụng thanh nhiệt giải độc, bồi bổ sức khỏe, nhuận táo, thường xuyên uống có thể lợi yết hầu nhuận họng, những người họng đau sưng, ho đờm, giọng không trong uống rất tốt.

    Bài 5: Đơn bì (mẫu đơn bì) 50g, hạnh nhân 50g, đường phèn vừa đủ. Lấy 2 vị trên nghiền nhỏ, cho đường vừa đủ, uống vàobuổi sáng, buổi tối mỗi lần 9g, một liệu trình là 10 ngày.

    Tác dụng: Khử đờm trị ho, thích hợp dùng trị bệnh viêm phế quản mạn tính.

    Bài 6: Quả la hán 20g, nước 500ml. Cho quả la hán vào cốc, cho nước sôi đậy lại, ngâm 30 phút, uống ấm.

    Tác dụng: Trị ho hóa đờm, thanh nhiệt nhuận phế.

    Bài 7: Phổi lợn 250g, bắc hạnh 10g, nước gừng 1-2 thìa canh. Phổi lợn thái miếng, rửa sạch, cho bắc hạnh và nước vào nấu canh, khi canh được cho nước gừng vào, gia vị vừa đủ, uống canh ăn phổi lợn.

    Tác dụng: Hóa đờm trị ho, bổ phế nhuận táo.

    Bài 8: Hạnh nhân 20 hạt, thạch vĩ 30g, đường phèn 15g. Hạnh nhân bỏ vỏ, áo, nghiền nhỏ và cho cùng thạch vĩ vào nồi, cho 2 bát nước nấu đến khi còn 1 bát, bỏ bã thuốc cho đường phèn vào, đợi đường tan thì uống.

    Tác dụng: Hóa đờm định suyễn.

    Bài 9: Quả la hán nửa quả, hồng khô 2-3 quả, một chút đường phèn. Lấy quả la hán rửa sạch và quả hồng khô, cho 2 bátnước sắc còn 1 bát, cho ít đường phèn, bỏ bã, một ngày chia 3 lần uống.

    Tác dụng: Thanh nhiệt khử hóa đờm, trị ho suyễn.

    Bài 10: Ý dĩ nhân 30g, hạnh nhân 10g, đường phèn một chút. Lấy ý dĩ nhân nấu cháo, đợi khi gần chín cho hạnh nhân vào, để lửa nhỏ nấu đến khi chín, cho đường phèn, ăn vào buổi tối, sáng.

    Tác dụng: Hóa đờm bình suyễn
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  3. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Cá quả: Vị thuốc chữa mồ hôi trộm và lở ngứa kinh niên
    Cập nhật lúc 08h36" , ngày 27/09/2007





    Món cá quả có thể giúp em bé của bạn cải thiện chứng ra nhiều mồ hôi khi ngủ. Ngoài ra, thực phẩm này cũng giúp chữa phù thũng, lở ngứa kinh niên.

    Cá quả (còn gọi lá cá chuối, cá lóc) vị ngọt, tính bình, không độc, có tác dụng tiêu thũng, hạ hỏa, chống viêm. Dân gian thường dùng nó dưới dạng thức ăn - vị thuốc trong những trường hợp sau:

    Chữa mồ hôi trộm: Cá quả 100 g, rửa sạch nhớt bằng nước sôi, lóc lấy thịt, thái nhỏ, rán cho vàng thơm, nấu với 400 ml nước còn 100 ml, thêm muối cho đủ đậm, cho trẻ ăn cả cái lẫn nước trong ngày. Dùng 3 ngày.

    Chữa phù thũng ở trẻ nhỏ: Cá quả 1 con làm sạch, chỉ lấy thịt, nấu nhừ với lá bìm bìm non hoặc lá dâu non, bí đao hoặc hành trắng 50 g. Ăn trong ngày đến khi đi tiểu được và nhẹ mặt.

    Chữa lở ngứa kinh niên, lâu ngày không khỏi: Cá quả 1 con, làm sạch, mổ bụng, bỏ hết ruột, nhồi đầy lá ké đầu ngựa vào, buộc chặt, rồi lại lấy lá ké đầu ngựa bọc xung quanh. Đốt lửa cho đến khi lớp lá ké cháy hết thì gỡ bỏ lá. Thái nhỏ, ướp gia vị và muối đủ đậm, ăn hết trong ngày. Dùng 2-3 ngày.

    Ở Trung Quốc, người ta cũng chế biến cá quả thành những món ăn - vị thuốc phổ biến như:

    - Cá quả 250 g phối hợp cá mực 200 g, đậu phụ 50 g, trám muối 4.
    - Cá quả 1 con, làm sạch, thái nhỏ, nấu chín với đậu phụ 250 g. Ăn vào hai bữa cơm, chữa sốt cao, háo khát, bí tiểu do thận hư.
    - Cá quả 1 con làm sạch, bỏ ruột, sấy khô giòn, tán bột mịn, uống ngày 3 lần, mỗi lần 10 g, giúp chữa viêm gan, vàng da
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  4. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    SỨC KHOẺ -> Y HỌC CỔ TRUYỀN

    Chữa hạ đường huyết theo phương pháp đông y
    Cập nhật lúc 14h12" , ngày 30/08/2007


    Đẳng sâm


    “Chứng bệnh hạ đường huyết” (hypoglycemosis) chỉ hiện tượng nồng độ đường trong máu hạ xuống quá thấp, từ đó dẫn tới hàng loạt những chứng trạng bệnh lý - chủ yếu là mất cân bằng thần kinh thực vật (thần kinh giao cảm quá hưng phấn) và rối loạn hoạt động của não.



    Trường hợp bệnh nhẹ, người bệnh chỉ không chịu được đói, chân tay hơi bủn rủn, cảm thấy đầu choáng váng, trống ngực, tim đập nhanh, buồn ngủ, tinh thần khó tập trung...



    Trường hợp bệnh phát nặng, có thể xuất hiện những biểu hiện rối loạn tinh thần, bồn chồn, lo hãi, mất phương hướng trong không gian, nhìn không rõ hoặc nhìn một vật hóa thành hai vật, vã mô hôi lạnh, chân tay tê dại hoặc co giật như lên cơn động kinh, thậm chí có thể liệt nửa người hoặc hôn mê sâu.



    Với những trường hợp bệnh phát nhẹ, điều trị triệu chứng rất đơn giản, chỉ cần cho bệnh nhân uống nước đường, ăn kẹo bánh ngọt, hoặc tiêm glucoza là mọi triệu chứng sẽ tự hết dần. Nhưng đối với những trường hợp bệnh nặng, cần kịp thời đưa ngay bệnh nhân tới bệnh viện để cấp cứu bằng các phương tiện của y học hiện đại.



    Theo y học cổ truyền, bệnh hạ đường huyết thuộc phạm vi các chứng bệnh “hôn quyết” và “hư phong”. Nguyên nhân dẫn tới hạ đường huyết phần lớn do bẩm sinh cơ thể vốn yếu ớt - âm dương khí huyết không đầy đủ; cũng có thể do cơ thể bị suy yếu nặng sau khi mắc bệnh, khiến cho chức năng của tỳ vị bị tổn thương, hoặc do đàm hỏa ứ đọng ở hai kinh can, tỳ gây nên. Sau đây là các bài thuốc, món ăn cụ thể tương ứng với thể bệnh.



    Thể tâm tỳ lưỡng hư



    Triệu chứng: Bệnh phát tác từ từ, người hay mệt lả, đầu choáng váng, chân tay bủn rủn, vã mồ hôi, mặt trắng nhợt, trống ngực, tim đập dồn loạn nhịp từng cơn, tinh thần khó tập trung, hay quên, bồn chồn, lo hãi vô cớ, nặng hơn thì có những biểu hiện dị thường về mặt tâm thần. Chất lưỡi nhợt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế (nhỏ).



    Phép chữa: Bổ ích tâm tỳ.



    Bài thuốc: hoàng kỳ 15g, đẳng sâm 12g, đương quy 9g, toan táo nhân 12g, viễn chí 3g, mạch môn đông 9g, ngũ vị tử 6g, bá tử nhân 9g, long nhãn 15g, cam thảo (nướng) 3g. Nấu với 800ml nước, sắc còn 300ml; sắc 2 lần như vậy, hợp hai nước với nhau, chia ra 3 lần uống trong ngày. Liên tục 10 ngày (1 liệu trình), nghỉ 3 ngày, lại tiếp tục uống liệu trình khác tới khi bệnh ổn định.



    - Trường hợp nhẹ, có thể dùng món ăn - bài thuốc sau: Long nhãn 15g, hạt sen (để cả tâm) 12g, đại táo 9-10 quả, gạo tẻ 50-60g, nấu cháo ăn trong ngày.



    Can hư phong động



    Thể bệnh này hay gặp ở những người lao động trí óc quá tải, hoặc sinh hoạt tình dục không tiết chế, khiến cho thận âm bị hư tổn, không hàm dưỡng được tạng can, khiến cho tạng can bị suy yếu, dẫn đến tình trạng “can phong nội động” mà sinh ra bệnh.



    Triệu chứng: đầu choáng váng, mắt nhìn không rõ, chân tay tê dại hoặc run giật, nặng thì cứng hàm và toàn thân co giật, hai mắt trợn ngược, miệng sùi bọt mép, hôn mê ngã lăn quay. Chất lưỡi hồng nhạt, rêu lưỡi mỏng, mạch tế huyền (nhỏ, căng).



    Phép chữa: Dưỡng can tức phong.



    Bài thuốc: đương quy 9g, sơn thù du 12g, ngũ vị tử 6g, bạch thược 15g, hoàng kỳ 20g, xuyên khung 6g, mộc qua 6g, thục địa 12g, sơn dược 15g, câu kỷ tử 12g, cam thảo 6g, đại táo 6 trái. Gia giảm theo chứng: Nếu bệnh phát tác kiểu động kinh: thêm bán hạ (tẩm gừng sao), câu đằng 12g. Nếu tinh thần u uất, ngực đầy tức, hay thở dài: thêm sài hồ 10g, uất kim 8g.



    Sắc uống và sử dụng như trong thể “Tâm tỳ lưỡng hư”.



    - Trường hợp nhẹ có thể dùng trà thuốc: Câu đằng 12g, kim ngân 10g, câu kỷ tử 10g, ngũ vị tử 6g, đại táo 6 trái, sắc nước uống thay trà trong ngày.



    Đàm nhiệt ứ đọng



    Triệu chứng: thường sau khi tỉnh dậy, thấy trời đất bỗng nhiên tối sầm, người quay cuồng, vã mồ hôi, chân tay bủn rủn, ngã lăn quay, hôn mê. Ngoài ra, thường ngày còn có những biểu hiện như mồ hôi nhiều, ngủ nhiều, tinh thần kém tỉnh táo, nói sàm. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác (trơn, nhanh).



    Phép chữa: Thanh nhiệt hóa đàm, khai khiếu tỉnh thần.



    Bài thuốc: xương bồ 9g, uất kim 12g, trúc lịch 20g, sơn chi tử 9g, liên kiều 12g, trúc diệp 9g, mộc thông 6g, đan bì 9g, cam thảo 6g. Gia giảm: Nếu có những biểu hiện như phiền táo, miệng khát, đau đầu, thêm sinh địa 12g, tri mẫu 12g, cát căn 12g; Nếu nôn mửa không ngừng: thêm hoàng liên 3g, bán hạ (tẩm gừng sao) 9g, trúc nhự (tẩm gừng sao) 9g. Sắc uống ngày 1 thang.



    - Trường hợp nhẹ, có thể dùng trà thuốc: Trúc diệp (lá tre) 20g, cốt khí củ 10g, thổ phục linh 10g, gừng tươi 8g, cam thảo 6g, sắc nước uống thay trà trong ngày
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  5. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Cua biển: Thức ăn ngon - vị thuốc tốt
    Cập nhật lúc 11h29" , ngày 05/07/2007


    Cua biển còn gọi là cua bể, cua xanh, cua bùn, cua lửa, cua chuối, cua sú, là một trong những hải sản có giá trị cao trong thực phẩm và y học.

    Thịt cua biển chứa 17,5% protein, 0,6% lipid, 141mg%Ca, 191mg% P, 3,8mg% Fe, 0,05mg% vitamin B1, 0,08 mg% vitamin B2, 3mg% vitamin PP.

    Thịt cua biển có vị ngọt, mặn, tính bình, không độc, có tác dụng thanh nhiệt, sinh huyết, tán ứ, giảm đau, thông kinh lạc, bổ xương tủy, rất tốt cho cơ thể đang phát triển ở trẻ nhỏ và tình trạng suy yếu ở người cao tuổi. Dạng dùng thông thường là luộc hoặc nướng chín mà ăn.

    Thịt cua biển nấu với hoài sơn, ý dĩ, sâm bố chính, hạt sen là món ăn - vị thuốc rất thích hợp với cơ thể nóng trong, kém ăn, đái rắt. Cua biển làm sạch, ngâm vào rượu khoảng 5-10 phút, rồi vớt ra, luộc ăn hàng ngày là thuốc tăng cường khí huyết, sinh lực chữa chứng liệt dương.

    Chú ý: Cua biển phải được chế biến ngay khi còn tươi, nếu để cua chết, chất đạm trong cua dễ bị thối nát làm giảm hẳn hương vị và có thể gây độc hại cho cơ thể. Những người hay bị dị ứng cua, nổi mẩn ngứa ngáy không nên dùng.

    Theo kinh nghiệm dân gian, mang cua biển (lớp xốp hình vảy dài phủ lên mình cua, nằm dưới mai) gỡ khỏi mình cua, rửa sạch, lấy 20 - 30g, luộc chín cho trẻ ăn đều đặn hàng ngày chữa chứng đái dầm. Dùng liền 15 - 30 ngày.

    Mai cua biển 1 cái, đập vỡ vụn, sao tồn tính, tán bột, uống với rượu hâm nóng làm 2 - 3 lần trong ngày chữa chứng đau bụng ở phụ nữ sau khi đẻ. Để chữa sưng tấy, lấy mai cua biển 5 cái phối hợp với xuyên sơn giáp 10g, gai bồ kết 7 cái. Tất cả sao vàng, tán nhỏ, rây bột mịn, uống trong ngày với rượu hâm nóng.

    Vỏ cua biển chứa chất cyanocristalin có màu xanh ở cua sống, khi bị đun nóng, chất này sẽ chuyển thành hỗn hợp caroten là zooerythrin có màu đỏ gạch. Ngoài ra, vỏ cua còn chứa polysaccharid là chitin mà khi chiết tách đem diacetyl hóa thành chitosan được dùng làm thuốc chữa bỏng và kích thích miễn dịch
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  6. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chữa mụn nhọt bằng mít
    Cập nhật lúc 08h47" , ngày 27/06/2007





    Lá mít, nhựa mít được dân gian dùng làm thuốc chữa mụn nhọt, lở loét. Ngoài ra, các bộ phận khác của cây này cũng được dùng làm thuốc an thần, chữa sỏi thận...



    Một số bài thuốc theo kinh nghiệm dân gian:

    Vỏ thân mít 20g, chẻ nhỏ, phơi khô, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống một lần trong ngày có tác dụng an thần, gây ngủ. Phụ nữ có thai không được dùng vì dễ bị sẩy thai.

    Nhựa trích từ thân cây mít, dùng ngay trộn với ít giấm, bôi hằng ngày chữa mụn nhọt, sưng tấy.

    Lá mít già 20-30g (lá mít mật tốt hơn) thái nhỏ, sao vàng, nấu nước uống, chữa đái ra cặn trắng ở trẻ em.

    Dùng ngoài, lá mít tươi giã đắp mụn nhọt, làm giảm sưng đau; hoặc lá phơi khô, nấu thành cao mềm bôi chữa lở loét.

    Cụm hoa đực (dái mít) hoặc quả mít non 30-50g sắc uống giúp làm tăng tiết sữa. Có thể dùng riêng hoặc phối hợp với chân giò lợn 1 cái hoặc móng chân lợn 3-5 cái; lá sung có tật 100g, quả đu đủ non 50g, lõi thông thảo 10g, hạt mùi 5g, để sống, gạo nếp 100g. Tất cả thái nhỏ, nấu thật nhừ thành cháo ăn làm 1-2 lần trong ngày. Dùng 2-3 ngày.

    Múi mít được coi như một loại thức ăn - vị thuốc có tính bồi dưỡng và long đờm. Có thể chế siro mít bằng cách nấu múi mít chín (mít mật càng tốt) với nước với tỷ lệ 1 mít và 1/2 nước, đánh thật nhuyễn, lọc để được dịch quả, rồi trộn với đường để nấu thành siro với tỷ lệ 1/2. Khi dùng, pha loãng siro mít với nước sôi để nguội sẽ được một thứ nước giải khát thơm ngon, chống khô cổ, háo khát.

    Theo kinh nghiệm dân gian, hạt mít có tác dụng thông tiểu, gây trung tiện làm cho dễ tiêu.

    Tầm gửi sống bám ở cây mít cũng được dùng với tác dụng lợi sữa dưới dạng thuốc sắc. Dùng riêng hoặc phối hợp với cỏ sữa lá nhỏ.

    Gần đây, các nhà khoa học Pháp đã chiết được từ quả mít chất jacalin, bước đầu được thử nghiệm trong phòng thí nghiệm thấy có khả năng bảo vệ các bạch huyết bào (tế bào của hệ thống miễn dịch) chống lại bệnh AIDS

    Nguồn :vnmedia.vn
     
  7. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Rau má, cây rau vị thuốc
    Cập nhật lúc 15h29" , ngày 24/05/2007





    Rau má là một loại rau thông dụng có tác dụng sát trùng giải độc, thanh nhiệt lương huyết. Ngoài ra, rau má cũng là loại dược thảo có tính bổ dưỡng rất cao, có nhiều sinh tố, khoáng chất, những chất chống oxy hóa, có thể dùng để dưỡng âm, cải thiện trí nhớ, làm chậm sự lão hóa, cải thiện vi tuần hoàn và chữa nhiều chứng bệnh về da.

    Mô tả

    Rau má còn có tên là Tích tuyết thảo. Loại thực vật nầy mọc lan trên mặt đất có lá trông giống như những đồng tiền tròn được xếp nối tiếp nhau nên còn gọi là Liên tiền thảo. Rau má có tên khoa học là Centella asiatica (L.) thuộc họ Hoa tán Umbelliferae, là một thứ rau dại ăn được thường mọc ở những nơi ẩm ướt như thung lủng, bờ mương thuộc những vùng nhiệt đới như Việt nam, Lào, Cambuchia, Indonesia, Malasia, Srilanka, Ấn độ, Pakistan, Madagascar . . Cây rau má có thân nhẳn , mọc lan trên mặt đất, có rể ở các mấu. Lá có cuống dài mọc ra từ gốc hoặc từ các mấu. Lá hơi tròn, có mép khía tai bèo. Phiến lá có gân dạng lưới hình chân vịt. Hoa mọc ở kẻ lá. Cánh hoa màu đỏ hoặc tía.

    Thành phần

    Tuỳ theo khu vực trồng hoặc mùa thu hoạch tý lệ các các hoạt chất có thể sai biệt. Thành phần của rau má bao gồm những chất sau: beta caroten, sterols, saponins, alkaloids, flavonols, saccharids, calcium, iron, magnesium, manganese, phosphorus, potassium, zinc, các loại vitamins B1, B2, B3, C và K.

    Dược tính, công dụng

    Theo y học cổ truyền, rau má có vị đắng, hơi ngọt, tính bình, vào Can, Tỳ Vị có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt, nhuận gan, giải độc, lợi tiểu. Rau má thường dùng để làm thuốc bổ dưỡng, sát trùng, chữa thổ huyết, tả lỵ, khí hư, bạch đới, mụn nhọt, rôm sẩy. Từ những năm 1940, y học hiện đại bắt đầu nghiên cứu những tác dụng của rau má. Rau má có những hoạt chất thuộc nhóm saponins (còn được gọi là tripernoids) bao gồm asiaticoside, madecassoside, madecassic acid và asiatic acid. Hoạt chất asiaticoside đã được ứng dụng trong điều trị bệnh phong và bệnh lao. Người ta cho rằng trong những bệnh nầy, vi khuẩn dược bao phủ bởi một màng ngoài giống như sáp khiến cho hệ kháng nhiểm của cơ thể không thể tiếp cận. Chất asiaticoside trong dịch chiết rau má có thể làm tan lớp màng bao nầy để hệ thống miển dịch của cơ thể tiêu diệt chúng.

    Đối với da, nhiều công trình nghiên cứu và kết quả lâm sàng đều cho thấy dịch chiết rau má có khả năng kích hoạt các tiến trình sinh học trong việc phân chia tế bào và tái tạo mô liên kết giúp vết thương chóng lành và mau lên da non. Hiên nay rau má đã được sử dụng rất đa dạng dưới hình thức thuốc tiêm, thuốc bột, thuốc mở để điều trị tất cả các chứng bệnh về da như vết bỏng, vết thương do chấn thương, do giải phẩu, cấy ghép da, những vết lở lâu lành , vết lở do ung thư, bệnh phong, vẩy nến…

    Đối với tuần hoàn huyết, những hoạt chất của rau má có tác dụng cải thiện vi tuần hoàn ở các tĩnh mạch, mao mạch, bảo vệ lớp áo trong của thành mạch và làm gia tăng tính đàn hồi của mạch máu. Do đó rau má cũng hửu ích trong các chứng tăng áp lực tĩnh mạch ở các chi dưới.

    Một vài toa thuốc có sử dụng rau má

    Toa căn bản:

    Toa căn bản ra đời vào khoảng năm 1950 do cụ Võ văn Hưng , một lương y giàu kinh nghiêm ở miền đông nam bộ soạn. Sau đó toa căn bản được Bác sĩ Nguyển văn Hưởng, Bộ trưởng Bộ Y tế thời bấy giờ hưởng ứng và khuyến khích sử dụng. Toa căn bản gồm 10 vị là toa thuốc rất quen thuộc ở các Bệnh viện, trạm y tế từ bộ đội đến nhân dân, đã góp phần rất lớn trong việc bảo vệ sức khoẻ nhân dân trong suốt 2 thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỷ. Toa căn bản có đặc điểm là không có độc tính, dễ sử dụng, có tác dụng kích thích tiêu hoá, nhuận gan, nhuận trường, lợi tiểu, giải độc và tăng cường sức đề kháng của cơ thể. Tuỳ theo tình trạng của người bệnh và điều kiện của địa phương mà linh động gia giảm vị thuốc hoặc liều thuốc.

    Toa thuốc gồm: Rau má 8g, Rể tranh 8g, Lá muồng trâu 4g, Cỏ mần chầu 8g Cỏ mực 8g, Cam thảo nam 8g.Ké đầu ngựa 8g, Củ sả 4g, Gừng tươi 4g, Vỏ quít 4g.

    Đổ 3 chén nước sắc còn non một chén, uống lúc thuốc còn ấm.

    Hoàn ích khí, dưỡng âm, trợ cơ, cứu đói.

    Có thể làm thuốc bổ dưỡng cho trẻ em, người già hoặc ngưòi ốm mới khỏi hoặc dùng làm lương khô mang theo khi đi xa phòng khi thiếu thốn thực phẩm.

    Toa thuốc gồm 4 vị : Lá dâu tầm, Mè đen, Bột củ mài và Rau má.

    Mỗi vị ngang nhau, tán bột làm hoàn, mỗi hoàn khoảng 5g. Mỗi ngày dùng 2 lần, mỗi lần 1 hoặc 2 hoàn.

    Thoái nhiệt đơn.

    Có công dụng giảm nhiệt, hạ sốt, trừ khát, trấn kinh.

    Rau má 15%, Hoạt thạch 30%, Sắn dây 20%, Sài hồ 15%, Thạch cao 10%, Cam thảo 10%.

    Tán bột, ngày uống 3 lần, mỗi lần 4g.

    Thuốc hạ huyết áp.

    Rể nhàu 16g, Rể kiến cò 12g, Lá tre l2g, Rể tranh 12g,Rể cỏ xước 12g, Rau má 16g, Lá dâu 12g

    Sắc uống hoặc đóng viên làm trà uống thay nước hàng ngày.

    Sốt xuất huyết.

    Rau má 20g, Cỏ mực 16g, Rau sam 16g, Đậu đen 16g. Sắc uống.

    Nước ép rau má.

    Nước ép rau má là một cách sử dụng rau má đơn giản và thông dụng nhất. Nước ép rau má tươi có đầy đủ các hoạt chất và tác dụng đã đề cập. Mỗi người, mỗi ngày có thể dùng từ 30 đến 40g rau má tươi. Lá rau má mua về rửa sạch, giả hoặc xay nát. Cho thêm một ít nước vào. Vắt và lọc bỏ xác. Thêm vào một ít đường cho dễ uống.

    Lưu ý:

    Rau má có tính lạnh nên những người có Tỳ Vị hư hàn, hay đầy bụng hoặc đi tiêu lỏng cần cẩn thận khi dùng. Những trường hợp nầy chỉ nên dùng vài lá mỗi lần hoặc khi dùng kèm theo một vài lát gừng sống. Dùng ngoài da không giới hạn
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  8. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chữa rôm sảy bằng dưa hấu
    Cập nhật lúc 15h04" , ngày 27/04/2007





    Để chữa rôm sảy cho trẻ em, lấy dưa hấu 1 quả ngâm nước lạnh, sau 1 giờ giã nát vỏ để xoa, tắm cho trẻ.

    Ngoài ra, dưa hấu còn có các tác dụng sau:

    Nước giải khát mùa hè: Nước dưa hấu tươi phòng chữa được tất cả các chứng có hỏa - nhiệt - thấp, sốt cao, khát nước, miệng khô đắng, chán ăn, táo bón, tiểu đỏ sẻn. Nếu bị cảm nắng (trúng thử) và các triệu chứng đó nặng hơn gây chóng mặt, buồn nôn, tiêu chảy (do thấp nhiệt), vẫn cho uống nước dưa hấu và phối hợp thêm đạm đậu sị 2g, hương nhu 8g, sắc uống.

    Thức ăn tráng miệng mùa hè: Có tác dụng tốt sau khi uống rượu và ăn các thức ăn sinh nhiều nhiệt như thịt dê, thịt chó…

    Cháo thanh nhiệt: Dưa hấu 1 kg, cát cánh 25 g (thái nhỏ), đường phèn 100 g, gạo tẻ 100 g. Hoặc dùng vỏ dưa hấu và lạc mỗi thứ 200 g, mạch nha 100 g, ý dĩ 100 g. Có thể ăn liền một tuần khi mệt mỏi, chán ăn.

    Trẻ em cảm sốt: Vỏ dưa hấu 1 kg, chè xanh 10 g, bạc hà 15 g, nấu nước uống. Hoặc dưa hấu 1.500 g, cà chua 250 g (bỏ vỏ, hạt), vắt lấy nước uống.

    Phụ nữ có thai và người cao tuổi bí tiểu: Nhân hạt dưa hấu 15 g, giã nát trộn với 15 g đường, nấu nước uống ngày một lần.

    Say rượu: Uống nhiều nước dưa hấu.

    Không nên để dưa hấu đã cắt trong tủ lạnh, vì dưa hấu bản chất nhiều nước nên sẽ bị đông lại, khi ăn có thể gây viêm họng lợi, buốt răng và rối loạn tiêu hóa
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  9. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Trị cảm cúm bằng xông và tắm hơi thuốc
    Cập nhật lúc 10h42" , ngày 06/04/2007





    Các dược liệu thường dùng để xông, tắm hơi chữa cảm cúm thường là tía tô, kinh giới, cây cứt lợn, hoắc hương... Đây thường là những loại cây chứa tinh dầu, có tác dụng giải cảm rất tốt.

    Chuẩn bị dược: Lá tre khoảng 40-50g; kinh giới 40-50g (nếu là hoa thì dùng 10-15g); hoắc hương, tía tô, lá chanh, lá long não, cây cứt lợn mỗi loại 30-40g, tỏi 2-3 củ, địa liền tươi 20-30g. Cho dược liệu vào nồi, đổ nước, đun sôi kỹ đến khi có mùi thơm.

    Xông ở hiệu xông hơi: Bệnh nhân ngồi thoải mái rồi xả hơi thuốc trong 5-20 phút. Nhiệt độ là 25-30 độ C trong 5-10 phút đầu, sau đó tăng dần để mồ hôi ra đều từ từ, tạo điều kiện để thuốc ngấm vào cơ thể. Đến khi có đèn xanh là đã đến nhiệt độ theo chỉ định, duy trì nhiệt độ này. Sau xông hơi thì lau khô bằng khăn ấm, ẩm, rồi lau bằng khăn khô, thay quần áo sạch; sau đó nên ăn 1 bát cháo hành hoặc uống nước ấm hoặc thuốc, nghỉ ngơi, đảm bảo thoáng về mùa hè, ấm về mùa đông… Tùy theo điều kiện cụ thể và chỉ định của thầy thuốc.

    Ở các gia đình, khi đã nấu dược liệu sôi có mùi thơm thì mang vào nhà tắm, dùng vải trùm kín người hoặc đầu, mở vung nồi dược liệu để bay hơi vào người. Thời gian xông 5-15 phút, khi nào mồ hôi ra đều toàn thân thì dừng xông.

    Công dụng của các dược liệu dùng xông hơi

    Lá tre: Tính hàn, vị cay, nhạt, ngọt, vào kinh tâm và kinh phế, giúp giải nhiệt, thanh tâm, tiêu đờm. Chỉ định: Làm thuốc ra mồ hôi, sát khuẩn, chữa viêm nhiễm, phù thũng, cảm sốt. Liều dùng ngày dùng 20-30g dưới dạng thuốc sắc (uống hoặc xông).

    Sả: Chữa cảm cúm, sốt: 10-20g cả cây, nấu nước xông. Nó còn được dùng chữa chàm mặt (rễ giã nát, vắt lấy nước chấm vào vùng bị chàm), đầy bụng, nôn mửa, trung tiện kém.

    Tía tô: Tính ôn, vị cay, mùi thơm, vào kinh phế và kinh tỳ. Lá tía tô làm ra mồ hôi, chữa cảm mạo giảm đau, chữa ho, đầy hơi, kém tiêu hóa, nôn mửa, đau bụng do thực tích. Ngày dùng 3-6g hay 3-10g dưới dạng thuốc sắc.

    Hương nhu: Dùng toàn cây trừ rễ, hái về phơi hay sấy khô. Hái cây lúc ra hoa hoặc 1 số hoa đã kết quả. Tính hơi ôn, vào kinh phế và kinh vị. Tác dụng: Thanh nhiệt giải biểu, hành khí, chỉ thống trường, trừ thấp; chữa cảm mạo, nhức đầu, ra mồ hôi. Thường dùng chữa cảm nắng, sốt, nhức đầu, đau bụng đi ngoài. Dùng khô hay tươi tùy theo bệnh. Dùng tươi thì vò, vắt lấy nước, khô thì sắc hay tán bột. Ngày 3-8g hay 4-12g dưới dạng thuốc sắc hay hãm.

    Long não: Tính nóng, vị the, có độc, vào kinh tâm và kinh phế. Tác dụng: thông khiếu, sát khuẩn, tiêu viêm, chỉ thống, cầm máu; chữa trúng phong, cấm khẩu, kinh giản, hôn mê, sốt; họng sưng đau, ung nhọt, sang lở. Ngày dùng 0,05-0,2g dưới dạng bột long não (uống). Dùng ngoài tùy từng bệnh và công thức thuốc cụ thể.
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  10. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chế biến nước rau quả giải nhiệt mùa nóng
    Cập nhật lúc 09h32" , ngày 02/04/2007





    Thời tiết mùa nóng thường xuất hiện triệu chứng như khát nước, miệng khô, ra mồ hôi trộm... thậm chí nghiêm trọng hơn có thể bị say nắng. Bài viết này xin giới thiệu vài món nước mát, với vật liệu chính là những thức ăn dinh dưỡng, hỗ trợ để điều chỉnh chức năng tiêu hóa, thanh nhiệt, giải độc...

    * Khổ qua (mướp đắng): Vị đắng tính mát, không độc, chứa nhiều protid, lipid, glucid, nhiều vitamin, bêta-caroten, xơ và calci, phosphor, sắt và muối vô cơ. Tác dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu viêm, giải khát, chống say nắng, mát tim, sáng mắt. Dùng khổ qua tươi 1 quả, đường 60g. Khổ qua móc bỏ ruột, thêm đường trộn đều, sau 2 giờ ép lấy nước uống, một lần uống sạch, giúp giải nhiệt, nhất là bị kiết lỵ do nóng. Cũng có thể chỉ dùng khổ qua nấu ra “nước sâm” để uống.

    * Bí đao: Vị ngọt, tính hơi mát, không độc, là loại rau củ chống say nắng tốt nhất vào mùa hè, giúp thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tiêu viêm. Ngoài ra, thường ăn bí đao có tác dụng giảm cân thấy rõ, có tác dụng chống phù cho người bệnh viêm thận. Dùng bí đao 0,5kg nấu với 1 lít nước, uống 3 lần trong ngày. Thức uống này giúp làm mát, thích hợp cho người bị phù do viêm thận, hỗ trợ trẻ em bị nổi ban sởi.

    * Dưa leo (dưa chuột): Vị ngọt tính mát, không những tạo cảm giác thanh ngọt, giòn mà còn có thể vừa ăn sống hoặc nấu chín, hơn nữa còn có hiệu quả làm đẹp rất tốt, có tác dụng thanh nhiệt chống say nắng, giải khát tạo thể dịch, lợi tiểu, tiêu thũng, là rau củ tốt vào mùa nóng. Dùng vài quả dưa leo bỏ ruột, rửa sạch, thái lát, mật ong 100 g, thêm nước nấu sôi, múc ra, nêm vào mật ong khi còn nóng. Thức uống này hỗ trợ cho các chứng phát sốt của trẻ em vào mùa nóng. Ngoài ra, dùng dưa leo thái mỏng đắp lên mặt không những giúp làm mờ nếp nhăn, mà còn giúp điều trị da bị rám nắng và viêm da.

    * Mướp: Vị ngọt, tính mát, không độc. Các chất protid, tinh bột, calci, phosphor, sắt và vitamin A, C đều có hàm lượng cao hơn so với các rau củ khác, mùa nóng viêm nhiệt dùng mướp nấu nước (hay canh) vừa bổ sung dinh dưỡng vừa có tác dụng làm mát chống say nắng. Dùng mướp 2 quả cho vào 1 lít nước nấu uống. Giúp ích cho việc phòng ngừa nổi ban sởi, ho gà, hen và ung nhọt.

    * Chanh tươi: Vị rất chua, tính bình. Chứa nhiều nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể, tinh dầu và acid citric đặc trưng. Những chất dinh dưỡng này trợ giúp rất nhiều đối với việc xúc tiến chuyển hóa các chất; hiện tượng trì hoãn lão hóa cũng như tăng cường sức đề kháng cơ thể. Chanh tươi có tác dụng thanh nhiệt; sát trùng; điều chỉnh chức năng tiêu hóa (kiện tỳ), tạo thèm ăn (khai vị) và trị ho, tan đàm. Ngoài ra, chanh tươi là vật liệu thiên nhiên làm đẹp tốt nhất, giúp phòng ngừa và tẩy trừ da thâm đen, có tác dụng tẩy trắng, do vậy rất thích hợp cho các bạn gái. Dùng chanh tươi vắt lấy nước, thêm đường trắng vừa đủ khuấy thành ly nước mát lý tưởng vào dịp nắng nóng.

    * Cải bẹ xanh: Vị đắng, cay, tính bình. Có tác dụng thanh nhiệt, giải bứt rứt, lợi tiểu, tiêu thũng, cầm máu. Các chứng kiết lỵ ra máu; nôn ra máu; đại tiện ra máu; tiểu ra máu; rong kinh; đau mắt đỏ... do nhiệt uống nước cải bẹ xanh đạt hiệu quả. Cải bẹ xanh tươi 0,5 kg vắt lấy nước cốt hay dùng cải bẹ xanh 0,5 kg nấu với 1 lít nước làm ra món “nước sâm”.

    * Đậu xanh: Vị ngọt, tính mát, không độc. Có tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng, chống say nắng. Là loại đậu vừa có giá trị dinh dưỡng vừa làm thuốc, thường được dùng làm món chè khoái khẩu của nhiều người mỗi dịp vào hè. Dùng đậu xanh 200 g, phổ tai (bán tại chợ Thiếc, An Đông, Bình Tây...) 50g, đường 200g, nước 1,5 lít nấu ra nước mát đậu xanh (uống nước ăn cái) giúp giải nhiệt.
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  11. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Thuốc từ cây dâm bụt
    Cập nhật lúc 10h49" , ngày 30/03/2007





    Cả 2 loại dâm bụt thường và dâm bụt kép đều được sử dụng làm thuốc để chữa trị nhiều bệnh. Hầu như các bộ phận của cây như lá, hoa, rễ và thân đều có tác dụng trong trị liệu.

    Dâm bụt thường

    Là loại cây thân gỗ nhỏ, mọc thẳng đứng, có độ cao 1-3m. Mép lá có khía răng, hoa màu đỏ hồng, cũng có loại hoa màu trắng hồng, hình phễu mọc ở nách lá hay đầu cành, nhị nhiều ở trên một trụ dài hơn phễu hoa. Quả nang hình trứng hơi tròn, chứa nhiều hạt.

    Đông y cho rằng với dâm bụt loại này vỏ rễ vị ngọt, tính bình, có tác dụng điều kinh, tiêu viêm, chống ho và chữa nhiều bệnh như viêm tuyến mang tai, viêm kết mạc cấp, viêm khí quản, viêm đường tiết niệu, viêm cổ tử cung, bạch đới, kinh nguyệt không đều, mất kinh…

    Hoa vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi tiểu, tiêu thũng khế huyết, cố tinh, sát trùng, chữa kinh nguyệt không đều, khó ngủ, hồi hộp, đái đỏ... Lá vị nhạt, nhớt, tính bình, tác dụng an thần, tẩy nhẹ, nhuận tràng, chữa viêm niêm mạc dạ dày, ruột, đại tiện ra máu, kiết lỵ, mụn nhọt, ghẻ lở, mộng tinh, đới hạ…

    Dâm bụt kép

    Đây cũng là loại thân gỗ nhỏ, cao từ 2-3m, nhiều cành tạo thành bụi lớn, lá hình thoi, răng cưa, mép lá lớn và phân làm 3 thùy, gốc lá tù, đầu hơi nhọn, có cuống rất ngắn phủ lông mịn, kín. Hoa mọc đơn, màu trắng, hồng hay tía tím. Đài hoa nhỏ và 5 cánh rời, nhiều nhị. Quả nang hình trứng, hạt hình thận có lông tơ, mùa ra hoa, quả từ tháng 7-10.

    Theo Đông y, hoa dâm bụt kép vị ngọt, tính bình, tác dụng thanh nhiệt lương huyết, giải độc, tiêu thũng, chữa kiết lỵ, tiêu chảy, bạch đới, xuất huyết. Liều trung bình mỗi ngày sắc uống 10-30g. Ngoài ra, nó còn dùng chữa mụn nhọt, viêm mủ da, bỏng…

    Vỏ thân và vỏ rễ vị ngọt, hơi hàn, tác dụng thanh nhiệt, sát khuẩn chống ngứa, chữa kiết lỵ, tiêu chảy, bạch đới, thống kinh. Thuốc sắc với liều thường 3-10g. Ngoài ra còn dùng chữa bệnh ngoài da và Eczema…

    Lá dâm bụt kép được dùng làm trà uống, lợi tiêu hóa, trị ngứa và thuốc lợi tiểu. Quả dâm bụt kép vị ngọt, tính bình, tác dụng tiêu viêm đường hô hấp, tiêu đờm, dãi giảm đau, chữa cảm, ho, thở khò khè, đau đầu do thần kinh, chứng thiên đầu thống... Sắc với liều 10-15g mỗi ngày, có thể dùng trị rôm sảy.

    Các bài thuốc có dâm bụt

    Chữa viêm tuyến mang tai: Lá dâm bụt 30g, sắc uống ngày 1 thang, chữa 3 lần. Nơi mang tai đau, dùng hoa dâm bụt 20g giã nát đắp ngoài.

    Chữa viêm kết mạc: Rễ dâm bụt 30g, sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần, dùng 2-3 tháng.

    Chữa kinh nguyệt không đều: Vỏ rễ dâm bụt 30g, lá huyết dụ 25g, ngãi cứu 10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần/ngày. Uống 3 ngày, uống trước hành kinh 7 ngày.

    Chữa di tinh: Hoa dâm bụt 10g, hạt sen 30g. Sắc uống ngày 1 thang trong 10 ngày liền.

    Chữa mất ngủ: Lá dâm bụt 15g, hoa nhài 12g. Sắc uống vào buổi chiều trong 5 ngày liền (dùng dâm bụt kép).

    Chữa thống kinh: Hoa dâm bụt kép 5g, ngãi cứu 5g, bồ kết 3g. Sắc uống ngày 1 thang chia 3 lần trong 15 ngày liền trước kỳ kinh 20 ngày.

    Chữa ho: Quả dâm bụt kép 5g, gừng 3g, nghệ 8g, ngải cứu 8g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 3 lần trong ngày.

    Chữa kiết lỵ: Hoa dâm bụt kép 10g, lá mơ lông 8g, trứng gà một quả. Đập trứng vào thuốc đã thái nhỏ, trộn đều, cho vào bát hấp cách thủy hoặc hấp cơm cũng được, ăn hết một lần, dùng 2-3 ngày sẽ hiệu quả
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  12. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Món ăn dành cho người bị ung thư da
    Cập nhật lúc 10h45" , ngày 19/03/2007


    Ảnh minh họa


    Các món ăn sau đây có thể thực hiện dành cho những bệnh nhân bị ung thư da: Canh ruột lợn đậu xanh, chè đậu xanh côn bố, chè đậu xanh bo bo, canh rùa hầm phục linh...

    Canh ruột lợn đậu xanh: Ruột lợn, đậu xanh, bại tương thảo lượng thích hợp. Ruột lợn rửa sạch để sẵn.

    Đậu xanh đãi sạch ngâm nước sôi 20 phút rồi vớt ra đổ vào ruột lợn, hai đầu buộc chặt, để vào nước sạch nấu chung với bại tương thảo cho chín rục, nêm chút muối ăn.

    Chia ra nhiều lần ăn. Cách ngày ăn một lần. Có thể căn cứ vào bệnh tình mà quyết định số lần nên ăn.

    Chè đậu xanh côn bố: Gồm côn bố (20g), đậu xanh (10g), và đường vừa phải. Côn bố rửa sạch xắt nhỏ, đổ chung với đậu xanh hầm cho nhừ ra, nêm đường trắng vào quấy đều, chia ra nhiều lần, ăn cách ngày một lần, ăn liên tiếp bảy lần.

    Chè đậu xanh bo bo: Gồm đậu xanh (100g), bo bo (ý dĩ 50g), và đường trắng vừa phải. Hầm bo bo và đậu xanh, thêm đường trắng vào, trộn đều. Chia nhiều lần ăn. Cách ngày ăn một lần; ăn liên tiếp bảy lần.

    Canh rùa hầm phục linh: Gồm thổ phục linh 50g (đã mổ, làm sạch), rùa đen một con (có thể dùng thảo quy thay thế).

    Bỏ rùa vào nồi nước dùng lửa riu riu nấu, cho nó tiêu tiểu sạch rồi vớt ra để chung với thổ phục linh mà hầm cho đến khi rùa đen chín nục, thêm muối vào. Ăn rùa, uống nước.

    Cháo tê tê: Gồm xuyên sơn giáp (100g), gạo (100g), và chút ít muối ăn. Xắt nhỏ thịt tê tê đổ vào gạo nấu cháo, nêm muối, ăn một lần. Cách 3 - 5 ngày ăn một lần.

    Cháo ngưu bàng tử: Gồm ngưu bàng tử (10g), thuyến thoái (15g), đan bì (15g), và gạo vừa phải. Ba vị trên sắc lấy nước thuốc đổ chung vào gạo nấu thành cháo. Rau kim châm, dây mướp nấu lấy nước thuốc. Thịt nghêu rửa sạch, xắt nhỏ đổ chung với gạo nấu thành cháo
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  13. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chữa nhiều bệnh bằng giấm táo mật ong
    Cập nhật lúc 09h29" , ngày 14/03/2007





    Nếu bị nhức đầu kinh niên, mất ngủ, dùng giấm táo hằng ngày với liều lượng cần thiết. Lúc 20h, uống một tách mật ong hòa với nước và mỗi bữa ăn dùng 2 thìa cà phê mật ong.

    Giấm táo và mật ong rừng là món ăn, vị thuốc có giá trị dinh dưỡng cao, phòng và chữa được nhiều bệnh. Giấm táo chứa nhiều muối khoáng của trái cây. Mật ong có nhiều loại axit, muối khoáng, có tác dụng diệt vi khuẩn cao như diệt vi khuẩn thương hàn trong 48 giờ; vi khuẩn phó thương hàn A và B trong 24 giờ... Ngoài ra, trong giấm táo, mật ong có nhiều kali (potassium), nó hút nước mạnh giúp làm giảm huyết áp, chữa khỏi chứng chảy nước mắt nước mũi ở người già, thấp khớp, thần kinh không ổn định, căng thẳng.

    Sau đây là một số bệnh đã được điều trị bằng giấm táo - mật ong:

    Suy nhược mạn tính: Dùng 3 thìa cà phê giấm táo và một tách mật ong, đổ tất cả vào chai cổ rộng, để ở đầu giường. Trước khi ngủ uống 2 thìa cà phê, nửa giờ sau sẽ ngủ được. Nếu chưa ngủ được, uống 2 thìa nữa. Cứ mỗi lần thức dậy, uống tiếp 2 thìa cà phê. Hiệu nghiệm hơn bất cứ loại thuốc ngủ nào.

    Tăng huyết áp: Trong bữa ăn, uống một cốc giấm táo hòa với mật ong và nước đun sôi để nguội.

    Viêm xoang chảy nước mũi, nước mắt: Người già hay chảy nước mắt, viêm xoang chảy nước mũi: dùng 2 thìa cà phê giấm táo với một giọt dung dịch iốt lugol trong một cốc nước, uống trong bữa ăn. Uống đều từ 1-3 tuần. Sau đó chỉ uống một tuần 2 lần để phòng tái phát. Potassium có tính hút nước như bọt biển, còn nước chanh làm chảy nước mũi. Vì vậy khi chảy nước mắt, nước mũi không được uống nước chanh.

    Bệnh zona: Dùng giấm táo nguyên chất bôi ngày 4 lần, ban đêm 3 lần. Hết đau nhanh và chóng thành sẹo.

    Phồng, giãn tĩnh mạch: Xát giấm táo vào nơi giãn, sáng và tối. Uống 2 thìa giấm táo với nước, ngày 2 lần.

    Chốc lở, nấm tóc: Bôi giấm táo ngày 6 lần, cách đều nhau ở nơi chốc lở, nơi có nấm. Giấm táo có tác dụng sát khuẩn mạnh.

    Đái dầm: Cho trẻ uống một thìa mật ong rừng trước khi đi ngủ có tác dụng an thần và giữ lại nước ở tế bào, giúp thận đỡ làm việc nhiều.

    Bệnh ho ở người lớn và trẻ em: 2 thìa giấm táo + 2 thìa mật ong + 2 thìa glycerin. Liều lượng nhiều ít tùy tình hình bệnh. Ho ban ngày thì uống ngày 2 lần vào sáng và chiều, mỗi lần 1-2 thìa cà phê. Ho ban đêm thì uống trước khi đi ngủ và một lần nữa vào lúc nửa đêm. Nếu ho nhiều, uống 6 lần một ngày, chia đều từ sáng đến tối.

    Bệnh chuột rút: Dùng 2 thìa cà phê mật ong trong mỗi bữa ăn. Sau một tuần thì khỏi.

    Đau họng, viêm amidan: Pha một thìa cà phê giấm táo vào một cốc nước ấm, súc miệng. Còn một ít thì ngậm nuốt từ từ. Mỗi giờ súc miệng và ngậm nuốt một lần. Bắt đầu đỡ thì 2 giờ làm một lần. Sau 24 giờ, bệnh sưng họng do vi khuẩn streptocoques sẽ khỏi. Nếu bị sưng amidan, sau 12 giờ cũng khỏi.

    Viêm thận, bàng quang, đái rắt, đái buốt, nước tiểu có mủ: Cho 2 thìa cà phê giấm táo trong cốc nước, uống trong mỗi bữa ăn, dùng đều dặn hằng ngày. Những bệnh khác như suy nhược cơ thể, đau đầu mạn tính, chóng mặt, huyết áp cao hoặc thấp; béo bệu, tim đập nhanh, rối loạn nhịp tim, tim ngoại tâm thu... đều dùng giấm táo rất tốt.

    Mật ong - thức ăn của vận động viên thể thao: Dùng mật ong vào bữa điểm tâm, cơ thể có ngay được một lượng dự trữ năng lượng từ sáng. Dùng 2 thìa canh mật ong trước thi đấu sẽ đạt thành tích cao hơn. Giữa các hiệp đấu bóng (bóng đá, bóng rổ, bóng chuyền), vận động viên dùng mật ong vào giờ giải lao thì khi vào hiệp 2 họ thi đấu dễ dàng hơn vì chóng lại sức.

    Cách làm giấm táo: Một cân táo ngâm nước muối hơi mặn khoảng 15 phút để diệt khuẩn rồi vớt ra để ráo. Bổ nhỏ táo, để cả hột, cho 3 lít nước sôi để nguội còn âm ấm với 2 quả chuối tây, đựng trong lọ thủy tinh, bịt lọ bằng vải màn. Sau một tháng lọc lấy nước giấm táo dùng dần. Giấm có màng là tốt. Thấy có muỗi bay ra là giấm hỏng, phải làm lại

    Nguồn :vnmedia.vn
     
  14. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Rau cần - Loại rau quý mùa đông
    Cập nhật lúc 13h40" , ngày 12/03/2007





    Rau cần là loại rau của mùa lạnh, nhưng ngay từ những ngày cuối thu bạn đã bắt gặp những gánh rau cần được bày bán ở chợ. Rau cần có hai loại, một loại là cần cạn trồng ở ruộng, một loại là cần nước được trồng ở các ao nông.

    Những mớ rau cần nước cây cao, thân trắng, còn cần cạn cây ngắn có màu tía. Cả hai loại cần này đều có vị ngọt, tính mát và tất cả các bộ phận của cây đều có tác dụng trong y học.

    Thành phần dinh dưỡng và công dụng

    Rau cần có các thành phần dinh dưỡng bao gồm Vitamin P, C, Abumin, đường, Canxi, Phốt pho, Sắt, Carôtin, Axit hữu cơ.

    Rau cần có tác dụng thanh nhiệt, trừ phong lợi thấp, nhuận phế, ngưng ho, giảm áp suất máu, cao huyết áp. Với đặc tính là cung cấp nhiều chất xơ nên rau cần có tác dụng loại trừ các chất thải có độc trong hệ tiêu hoá. Ngoài ra, hương thơm của rau cần còn kích thích và lưu thông các tuyến mồ hôi và giảm huyết áp.

    Chữa bệnh với rau cần

    - Huyết áp lên cao, thần kinh căng thẳng, đau đầu: chần qua nước sôi 250 gr rau cần (cả thân và lá), xắt nhỏ, giã nát (xay nhuyễn), vắt nước uống, ngày uống hai lần, mỗi lần một chén con, sẽ có tác dụng giảm huyết áp và giải trừ cảm giác căng thẳng, khó chịu.

    - Tiểu đường: Nấu cháo rau cần với gạo tẻ, ngày ăn 2 bữa vào buổi sáng và tối, ăn nóng. Món cháo này không những làm hạ trong máu mà còn bổ thận, thanh nhiệt, lợi tiểu, ăn trong một thời gian dài.

    - Ho gà: Rau cần để nguyên rẻ, gốc, lá, giã nát, vắt lấy nước cốt, nêm vài hạt muối, hấp cách thuỷ, ngày uống hai lần vào sáng và tối, làm trong nhiều ngày sẽ đạt hiệu quả.

    - Máu nhiễm mỡ: lấy 10 cây rau cần giã nát với 10 trái táo tàu, vắt lấy nước, đun sôi, chia uống hai lần trong ngày, uống khoảng từ 15 - 20 ngày cho một đợt điều trị.

    - Viêm gan mãn tính: lấy 200 gr rau cần, giã nát, vắt lấy nước cốt, pha thêm với 50 gr mật ong, ngày uống hai lần liên tục trong một thời gian dài
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  15. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Vị thuốc hữu ích từ rau muống
    Cập nhật lúc 10h39" , ngày 27/02/2007


    Rau muống


    Rau muống là món ăn dân dã, đi vào lời thơ, câu ca dao quen thuộc "Ta đi ta nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương". Ngoài hương vị ẩm thực, rau muống còn là vị thuốc được sử dụng từ lâu đời.


    Món ăn giải nhiệt mùa hè: Thời tiết nắng nóng, làm việc mất nhiều mồ hôi, thì dùng rau muống và chanh để làm thuốc giải nhiệt rất hay, bằng cách đơn giản: rau muống một bó đem rửa sạch, rồi luộc với nước thật sôi. Dùng nước luộc rau muống, vắt vào mấy lát chanh, nêm ít gia vị để dùng.

    Ngoài ra, dùng món này còn bổ sung chất khoáng và vitamin C cho cơ thể.

    Giải độc khi bị say nắng: Lấy rau muống giã lấy nước uống; hoặc dùng nước rau muống luộc cho vào tí muối để uống.

    Giúp vết thương mau lành: Rau muống có tác dụng kích thích sinh tạo máu và tế bào mới, vì trong rau muống có chứa nhiều chất sắt (Fe++) và chất khoáng. Ngoài ra, phụ nữ trong thời gian nuôi con nhỏ, có thể lấy rau muống luộc, nghiền lấy nước cho trẻ uống để bổ sung khoáng chất. Người bị ốm mới dậy, trong thực đơn nên kèm rau muống sẽ chóng lại sức.

    Khi thời tiết lạnh, nhất là mùa đông, dùng rau muống xào tỏi, giúp cơ thể ấm áp, đồng thời còn phòng chống được mắc cảm cúm và nhiễm lạnh
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  16. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Bài thuốc, món ăn chữa viêm tuyến tiền liệt
    Cập nhật lúc 14h19" , ngày 14/02/2007


    Cây Nga truật


    Viêm tuyến tiền liệt mãn (VTTLM) là một bệnh thường gặp ở nam giới độ tuổi trưởng thành. Theo một số liệu thống kê gần đây ở Trung Quốc, có tới 30%- 40% nam giới ở tuổi trên 30 bị mắc căn bệnh này.

    Nguyên nhân:


    - Tuyến tiền liệt (TTL) sung huyết là một trong số những nguyên nhân dễ dẫn đến VTTLM nhất. Vì vậy, trong sinh hoạt thường ngày, cần đặc biệt lưu ý tới những tình huống dễ dẫn đến sung huyết TTL, như sau: Ham muốn tình dục quá độ, thủ dâm quá nhiều, hoặc giao hợp bị gián đoạn, vì một số nguyên nhân nào đó...; Huyệt “hội âm” (ở giữa hậu môn và tinh hoàn) bị chèn ép trực tiếp, do đi xe đạp, xe máy, cưỡi ngựa, ngồi quá lâu...
    - Rượu có thể khiến cho TTL bị sung huyết và dẫn đến trạng thái hưng phấn tình dục tạm thời.
    - Bị cảm lạnh: Khi bị lạnh, thần kinh giao cảm trong TTL bị kích thích, khiến áp lực niệu đạo gia tăng, kích thích TTL gây nên sung huyết.

    Các triệu chứng thường gặp trong VTTLM có thể phân loại theo những nhóm như sau:

    - Cảm giác dị thường ở đường tiểu: Tiểu tiện nhiều lần, nhất là về đêm; triệu chứng này thường xuất hiện sớm nhất và kéo dài lâu ngày. Tiểu tiện gấp (niệu cấp), cảm giác mót tiểu xuất hiện đột ngột, phải tiểu tiện ngay. Tiểu tiện đau hoặc buốt, nhất là khi bắt đầu đi tiểu hoặc tiểu tiện gần xong.
    - Nước tiểu biến đổi: Thẫm màu hoặc vẩn đục. Một số bệnh nhân, nước tiểu có màu trắng như sữa. Có người sáng dậy thấy có chất dịch dính ở đầu niệu đạo. Một số người khi đi xa về, sau khi làm việc nặng, hoặc khi đi đại tiện, thấy có chất dịch rỉ ra ở niệu đạo.
    - Đau cục bộ: Đau tức ở vị trí “hội âm”, giang môn, sau niệu đạo; có thể đau tinh hoàn hoặc dương vật, đau lan lên vùng xương mu, thắt lưng, bẹn, phía trong đùi...
    - Chức năng tình dục dị thường: Dương vật bột khởi thất thường, xuất tinh sớm, rối loạn cương...

    Phương pháp chữa trị:

    1. Thể thấp nhiệt:

    Triệu chứng: Đái gấp, đái nhiều lần, niệu đạo nóng rát, khi nước tiểu ra hết hoặc khi đại tiện ở đầu niệu đạo có những giọt dịch trắng tiết ra; vùng bụng dưới, vùng xương sống dưới thắt lưng, huyệt hội âm, tinh hoàn có cảm giác đau tức khó chịu; miệng khô đắng, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hoạt sác (trơn, nhanh).

    Phép chữa: Thanh nhiệt lợi thấp.

    Bài thuốc tiêu biểu (Tỳ giải phân thanh ẩm gia giảm): Tỳ giải 10g, xa tiền thảo 10g, phục linh 10g, đan sâm 10g, hoàng bá 6g, ý dĩ nhân 10g, hậu phác 10g, liên tâm 10g, xương bồ 10g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 phần uống trong ngày.

    Món ăn hỗ trợ (Cháo hoạt thạch): Hoạt thạch 30g, cù mạch 50g, gạo tẻ 50g, hành trắng 4 củ, mắm muối lượng thích hợp. Trước hết sắc cù mạch lấy nước, bỏ bã; cho gạo vào nấu đến khi cháo chín, thêm hành, bột hoạt thạch, mắm muối vào trộn đều, chia 3 lần ăn trong ngày.

    2. Âm hư hỏa động:

    Triệu chứng: Lưng gối mỏi yếu, đầu choáng mắt hoa, đêm ngủ hay di tinh. Khi đại tiểu tiện thường có chất dịch trắng tiết ra ở đầu niệu đạo. Dương vật dễ bột khởi. Một số trường hợp, hơi có chút xung động tình dục, dịch trắng đã rỉ ra ở đầu niệu đạo; tinh dịch có thể lẫn máu. Chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi ít, mạch huyền tế sác (căng nhỏ nhanh).

    Phép chữa: Thanh hỏa, dưỡng âm, bổ thận.

    Bài thuốc tiêu biểu (Tri bá địa hoàng thang gia giảm): Tri mẫu 15g, hoàng bá 6g, sinh địa 12g, ngô thù du 10g, sơn dược 20g, đan bì 10g, phục linh 10g, trạch tả 10g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 phần uống trong ngày.

    Món ăn hỗ trợ (Cháo sơn dược địa hoàng): Sơn dược 20g, sinh địa 30g, nhục thung dung 15g, gạo tẻ 100g. Sắc 3 vị thuốc lấy nước (bỏ bã), cho gạo vào nấu cháo, thêm mắm muối cho vừa miệng. Chia thành 2-3 lần ăn trong ngày, liên tục 7 ngày (một liệu trình).

    3. Thận dương hư suy:

    Triệu chứng: Lưng mỏi, gối lạnh yếu, rối loạn cương, xuất tinh sớm, di tinh. Tinh thần uể oải, đầu chi lạnh. Làm việc hơi nặng nhọc một chút là dịch trắng rỉ ra ở đầu niệu đạo. Chất lưỡi nhạt, bệu, rêu lưỡi trắng, mạch trầm nhược (chìm yếu).

    Phép chữa: Bổ thận trợ dương.

    Bài thuốc tiêu biểu (Hữu quy hoàn hợp kim tỏa cố tinh gia giảm): Sinh địa 10g, thục địa 10g, sơn dược 10g, phục linh 10g, tục đoạn 10g, kim anh tử 15g, ngũ bội tử 12g, ích trí nhân 10g, thỏ ty tử 15g, đỗ trọng 10g, câu kỷ tử 10g, đương quy 10g, nhục quế 4g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 phần uống trong ngày.

    Món ăn hỗ trợ (Cháo lộc giác giao): Lộc giác giao 15-20g, gạo tẻ 100g, gừng tươi 3g. Gạo vo sạch, nấu cháo, khi cháo chín cho gừng, lộc giác giao vào trộn đều, thêm mắm muối cho vừa miệng, ăn khi cháo còn ấm.

    4. Khí huyết ứ trệ:

    Triệu chứng: Bệnh kéo dài lâu ngày không khỏi, đau ở vùng bụng dưới, xương sống phía dưới thắt lưng, hoặc tinh hoàn; hội âm trướng đau; hoặc có niệu huyết (nước tiểu lẫn máu), huyết tinh (tinh dịch lẫn máu). Chất lưỡi tím có điểm ứ huyết. Mạch trầm sáp (chìm, rít).

    Phép chữa: Hoạt huyết hóa ứ.

    Bài thuốc tiêu biểu (Bài thuốc của Khoa tiết niệu, Quảng An Môn y viện): Đào nhân 10g, hồng hoa 10g, xích thược 10g, đan sâm 20g, trạch lan 10g, vương bất lưu hành 10g, nguyên hồ 10g, xuyên sơn giáp 5g, ngưu tất 10g, đương quy 10g. Nếu tuyến tiền liệt bị xơ cứng, cần thêm tam lăng 6g, nga truật 6g, tạo giác thích 6g. Sắc hai nước, hợp hai nước lại, chia thành 3 phần uống trong ngày.

    Món ăn hỗ trợ (Cháo đan sâm vương bất lưu hành): Vương bất lưu hành 20g, đan sâm 15g, đào nhân 15g, gạo tẻ 100g. Sắc các vị thuốc lấy nước nấu cháo, chia thành 3 phần ăn trong ngày
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  17. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Tác dụng của các loại trà
    Cập nhật lúc 14h13" , ngày 13/02/2007





    Cách đây gần 2000 năm, trà đã được các thầy thuốc Trung Quốc sử dụng như một vị thuốc giúp con người khoẻ và trẻ hơn. Ngày Tết hãy cùng bạn bè nhâm nhi bên tách trà nóng, vừa có ý nghĩa gắn chặt tình cảm, thư giãn vừa có thể phòng ngừa và chữa bệnh.

    Trà có thể giải độc cho 72 loại ngộ độc khác nhau. Các nghiên cứu y khoa hiện đại cũng phát hiện ngày càng nhiều giá trị của trà. Trà vừa là nước giải khát, giải nhiệt giúp ra mồ hôi lại vừa bổ sung nước cho cơ thể. Không những thế, nếu kết hợp uống trà với các vị thuốc (gọi là trà thuốc) còn có tác dụng phòng và chữa bệnh rất hiệu quả.

    Trà gừng

    Lấy ít lá chè, vài lát gừng tươi bỏ vỏ, đun sôi uống sau bữa ăn để giải cảm, ra mồ hôi, cảm cúm, ho kéo dài và tăng huyết áp. Ngoài ra, trà gừng còn có tác dụng chữa viêm họng, lợi phế, dễ uống, thơm và ngọt giọng. Theo Đông y, gừng tươi có vị cay, tình ôn đi vào 3 kinh: phế, tỳ và vị.

    Trà lá sen

    Lá sen khô 60g, lá chè 60g tán thành bột, pha nước sôi lấy nước uống hằng ngày. Tác dụng giả nhiệt, làm mát lá lách, tiêu thấp, giảm mỡ, giảm béo, hay chóng mặt, nhức đầu, mạch căng, hay gặp ở người bị mỡ máu cao.

    Trà muối

    Lấy 3g lá chè, 1g muối ăn hãm trong nước sôi uống nóng, tác dụng làm sáng mắt, thanh nhiệt, tiêu viêm... Về mùa hè, chúng ta nên uống thường xuyên để phòng chứng rối loạn điện giải vì ra nhiều mồ hôi. Muối có vị mặn, tính hàn, không độc đi vào kinh: thận, tâm và tỳ. Những người làm việc trong văn phòng, ít mất mồ hôi thì chỉ dùng lượng muối bằng nửa (0,5g), người tăng huyết áp không nên dùng.

    Trà hoa cúc

    Tuỳ lượng, tuỳ thích, chúng ta có thể lấy lá chè xanh với hoa cúc trắng hãm nước sôi uống nguội. Tác dụng của trà hoa cúc bổ gan, sáng mắt, chữa đau đầu, đau mắt đỏ, tăng huyết áp.

    Trà mật ong

    Cho lá chè vào túi vải hãm cho chè ngấm, hòa một thìa mật ong vào một cốc nước chè mỗi lần ngậm 3 phút rồi mới nuốt. Trà có tác dụng chữa viêm họng, tưa lưỡi, viêm lợi, viêm chân răng.

    Trà vỏ chanh

    Uống trà nóng với vài lát vỏ chanh có tác dụng giảm nguy cơ bị ung thư da.

    Trà vỏ quýt

    Lấy vỏ quýt đem sấy khô, khi muốn uống thì hãm cùng với trà. Do vỏ quýt có chứa nhiều Vitamin C nên loại trà này có tác dụng chữa ho đờm, giả độc do ăn tôm cá
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  18. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Dùng thuốc Đông y, không cần kiêng nhiều
    Cập nhật lúc 11h18" , ngày 08/02/2007





    Anh Vương (Dịch Vọng, Hà Nội) bị bệnh gan, khi đi cắt thuốc Nam, lương y dặn kiêng thịt gà, cá chép và nội tạng động vật. Anh ghét thịt bò, thịt lợn thì phải bỏ hết mỡ để bớt gánh nặng cho gan nên ăn mãi cũng chán. Rốt cục, Vương chẳng biết ăn gì để bồi dưỡng.

    Khi đi cắt thuốc Đông y, hầu hết mọi người đều được thầy thuốc dặn kiêng một số thức ăn gì đó. Các lương y chủ yếu tùy vào thể trạng của người bệnh để xác định thứ cần kiêng. Nhưng cũng có người áp dụng "danh sách" thực phẩm cấm kỵ cho mọi bệnh nhân. Có ông lang dặn đã uống thuốc là phải kiêng thịt gà, có người yêu cầu kiêng cá và các loại thủy sản, các vị chua cay, măng, rau muống...

    Theo thạc sĩ Tạ Văn Sang, Trung tâm Y dược Tinh Hoa (14 Nguyễn Như Đổ, Hà Nội), việc kiêng kỵ khi dùng thuốc Đông y là cần thiết, nhưng cần theo thể tạng và cơ địa của bệnh nhân chứ không áp dụng chung cho mọi người. Chẳng hạn, người tạng nhiệt hay đang bị các bệnh do nhiệt (mụn nhọt...) thì nên kiêng những thực phẩm có tính nóng như cơm nếp, thịt gà, thịt chó, ớt, dứa, mít..., những người tạng hàn hoặc mắc các bệnh do hàn (như rối loạn tiêu hóa gây tiêu chảy) nên kiêng các thức ăn có tính lạnh như cua ốc...

    Ngoài ra, những người có cơ địa mẫn cảm thì được thày thuốc khuyên nên tránh các thức ăn dễ gây dị ứng. "Danh sách" này khác nhau giữa các bệnh nhân. Trong đó, các loại thủy hải sản hay được bác sĩ dặn kiêng vì trong thực tế, đó là loại những thực phẩm dễ gây dị ứng nhất.

    Kiêng không có nghĩa là nhịn

    Theo thạc sĩ Sang, đến nay, sự tương tác giữa các thức ăn cụ thể đối với Đông dược chưa được khẳng định trong nghiên cứu khoa học nào. Việc dặn bệnh nhân kiêng gì là do quan điểm riêng của từng thày thuốc, do đó không có sự thống nhất, mỗi thày dặn kiêng vài thứ khác nhau.

    "Nếu như người bệnh đến khám ở nhiều thày thuốc và áp dụng chính sách kiêng cữ của tất cả họ thì đôi khi chẳng có gì mà ăn nữa. Trong khi đó, người bệnh lại đang yếu và rất cần bồi dưỡng" - thạc sĩ Sang nói. Ngoài chất bột đường, đạm và chất béo là những thứ sinh năng lượng, con người còn cần vô số vi chất khác, mà phải ăn uống thật đa dạng mới tập hợp đủ.

    Vì vậy, trong khi các tương tác của thực phẩm thông thường đối với thuốc (nếu có) còn chưa được khẳng định rõ ràng, những người phải dùng thuốc dài ngày nên nghĩ đến một nguy cơ rất hiển nhiên: Thiếu chất do kiêng quá nhiều thứ.

    Tuy nhiên, ông Sang cho biết, bệnh nhân đến điều trị bằng Đông y ở Trung tâm Y dược Tinh Hoa thường được khuyên kiêng ăn đậu xanh khi dùng thuốc. Cơ sở của khuyến cáo này là: Nhiều nghiên cứu đã khẳng định, vỏ đậu xanh có tác dụng giải độc rất cao nhờ khả năng làm giảm tác dụng của hóa chất. Do đó, nó cũng có thể làm các hoạt chất trong Đông dược giảm hiệu quả
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  19. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Hoa ngâu chữa cao huyết áp
    Cập nhật lúc 11h00" , ngày 23/11/2006





    Không chỉ dùng để ướp trà, hoa ngâu còn là một vị thuốc. Ngoài tác dụng nổi bật là chữa cao huyết áp, hoa ngâu còn giúp làm tỉnh rượu, chữa bế kinh, giúp tỉnh táo đầu óc... Không dùng cho phụ nữ có thai.

    Hoa ngâu nhỏ, màu vàng, mọc thành chùm ở kẽ lá, rất thơm, thường được dùng để ướp trà và làm vị thuốc, mùa hoa vào tháng 7, tháng 8. Hoa ngâu có vị cay ngọt, giúp giải uất kết, làm thư giãn bên trong người, giúp tỉnh rượu, sạch phổi, tỉnh táo đầu óc, sáng mắt, ngưng phiền khát. Nó được dùng chữa chứng đầy trướng khó chịu ở ngực, chứng nghẹn hơi mới phát, chữa ho hen và váng đầu, nhọt độc.

    Chữa tăng huyết áp: Hoa ngâu 10 g, hoa cúc 30 g. Hai thứ gộp chung, chia làm 3 phần bằng nhau. Khi dùng cho một phần vào tách, rót nước sôi già ngâm, để nguội uống. Uống hết 3 phần thuốc đó trong một ngày.

    Chữa chứng bế kinh: Hoa ngâu 10 g, rượu 50 g. Cho hoa vào rượu, thêm vào chút nước, nấu cách thủy đến khi hoa chín nhừ, để nguội uống. Uống trước ngày có kinh 3 ngày, uống liền trong 5 ngày, ngày uống 1 lần.

    Chữa chứng thương tích do vấp ngã, bị đòn: Hoa ngâu, lá ngâu mỗi thứ 50 g. Gộp chung cả hai thứ, cho vào một lượng nước vừa phải nấu chín, chắt lấy nước, đổ nước vào nấu tiếp, nấu đủ 3 lần, gộp chung nước thuốc chắt 3 lần, trước tiên nấu bằng lửa mạnh (vũ hỏa), sau nấu bằng lửa yếu (văn hỏa) thành cao. Mỗi lần dùng, quết một ít cao này lên vải lụa mỏng đắp vào chỗ vết thương sưng đau, ngày đắp thuốc cao này một lần.

    Chữa chứng say rượu: Hoa ngâu, hoa sắn dây (cát hoa) mỗi thứ 10 g. Gộp chung cả hai thứ vào ly, rót nước sôi già vào ngâm uống.

    Ngoài ra nhân dân còn dùng hoa ngâu để ướp trà, uống rất thơm và mát.
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  20. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Bạc hà chữa bệnh
    Cập nhật lúc 09h46" , ngày 31/10/2006





    Theo lương y Trần Khiết, bạc hà có tính bình, vị hơi đắng, đi vào tinh kỳ, thận, công dụng giải thử khí, thấp khí, cầm máu... Nếu biết kết hợp bạc hà với những vị thuốc hay thực phẩm khác trong chế biến món ăn sẽ giúp chữa được nhiều bệnh.

    1. Bạc hà nấu gạo tẻ

    Thành phần: 1 kg vị thuốc bạc hà tươi và 150 gr gạo tẻ.

    Chế biến: Bạc hà rửa sạch, cắt khúc, gạo tẻ vo sạch.

    Cho bạc hà vào nồi cùng một lít nước, nấu trong 1 giờ, lọc bỏ bã, lấy nước và cho nước này lại vào nồi cùng gạo tẻ nấu cháo (nấu lỏng).

    Món cháo bạc hà là chữa trị chứng đau nhức đầu, bụng đầy trướng, da nóng ra mồ, tai ù, chứng phiền táo.

    Lưu ý, người thân nhiệt nóng nhiều vào ban đêm không nên dùng món này.

    2. Bạc hà nấu kim ngân hoa

    Thành phần: 10 gr vị thuốc bạc hà tươi, 100 gr vị thuốc kim ngân hoa, 30 gr đậu xanh, 10 gr lá tre, một ít gạo và đương cát.

    Chế biến: Rửa sạch các nguyên liệu, rồi cho bạc hà, kim ngân hoa và lá tre vào nồi cùng hai lít nước, nấu trong 1giờ, lọc lấy nước, bỏ xác. Cho đậu xanh vào nước này cùng một ít gạo vào nấu đến khi chín, cho vào ít đường.

    Chia làm 2-3 lần dùng trong ngày để chữa chứng nhức đầu mỏi toàn thân; đau đầu, phát sốt, ớn lạnh...

    3. Bạc hà nấu kinh giới

    Thành phần: 3-5 gr bạc hà (vị thuốc bạc hà), 5-10 gr kinh giới, 5-10 gr đậu xị (loại đậu làm tương Tàu) và 50-100 gr gạo tẻ.

    Cách làm: Cho bạc hà, kinh giới, đậu xị vào nồi cùng 3 chén nước, nấu còn một chén, lọc bỏ xác, lấy nước để đó.

    Sau khi nấu cháo bằng gạo tẻ chín thì cho nước này vào, giảm lửa nhỏ nấu tiếp để cho nước thuốc vào cháo hòa lẫn đều vào nhau.

    Chia làm 2 lần dùng trong ngày. Món này có công dụng trị phong hàn cảm mạo, tay chân đau nhức, đau đầu, hắt xì, chảy nước mũi, nghẹt mũi...

    Lưu ý, người phát nhiệt không nên dùng

    Nguồn :vnmedia.vn
     

Chia sẻ trang này