Cây thuốc quanh ta

Thảo luận trong 'Nội trợ, Mẹo vặt' bởi EnCon, 31/7/2008.

Tags:
  1. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Tác dụng chữa bệnh của lá và hoa phù dung
    Cập nhật lúc 08h45" , ngày 03/04/2006





    Trong dân gian thường dùng lá và hoa phù dung để chữa trị các loại mụn nhọt. Lá tươi và hoa tươi được nhân dân giã đắp mụn nhọt đang mưng mủ, để hút mủ và làm cho đỡ đau.

    Phù dung là loài cây mọc hoang và được trồng khắp nơi để làm cảnh. Cây còn có rất nhiều tên khác, như "mộc phù dung", "mộc liên", "cự sương", "sương giáng", "túy tửu phù dung", "đại diệp phù dung", "địa phù dung", "thủy phù dung", "thất tinh"... Tên khoa học là Hibiscus mutabilis L., thuộc họ Bông (Malvaceae).

    Đông y thường dùng lá và hoa phù dung làm thuốc, trong một số trường hợp còn dùng cả vỏ rễ. Lá thường hái vào hai mùa hè, thu: cắt lấy phiến lá, phơi khô trong bóng râm (âm can), bảo quản ở nơi khô ráo và thoáng gió để dùng dần; cần thường xuyên phơi lại để chống ẩm mốc.

    Hoa thường hái vào khi hoa nở, đem phơi trong bóng râm hoặc sấy khô dùng dần. Rễ chỉ nên đào khi cần thiết.

    - Theo Đông y, lá phù dung có vị cay, khí bình. Có tác dụng lương huyết (mát máu), giải độc, tiêu thũng (chữa phù thũng), chỉ thống (giảm đau). Thường dùng chữa mụn nhọt sưng nóng đau nhức, đau mắt đỏ, zona (giời leo), bị đòn ngã chấn thương...

    Trên thực tế, trong dân gian thường dùng lá và hoa phù dung để chữa trị các loại mụn nhọt. Theo sách "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" của GS Đỗ Tất Lợi, lá tươi và hoa tươi được nhân dân giã đắp mụn nhọt đang mưng mủ, để hút mủ và làm cho đỡ đau. Có thể dùng lá hoặc hoa phơi khô tán nhỏ, khi dùng thêm nước chè đặc, trộn đều thành một thứ bột nhão, đắp lên chỗ sưng đau. Khi thuốc khô lại thay thuốc khác.

    Nếu mụn mới mưng mủ, có thể đỡ đau và mụn sẽ tiêu đi; nếu mụn đã chín sẽ chóng vỡ mủ.

    Các thầy lang chữa bệnh ngoài da, do muốn giữ bí mật, đặt tên thuốc là "thanh lương cao", thanh lộ tán", "thiết cô tán"... Thực ra, những loại thuốc đó đều được chế từ cây phù dung. Dùng lá, hoa hoặc vỏ rễ phù dung, có thể chữa khỏi tất cả các loại ung nhọt, như phát bối, nhũ ung (viêm tuyến vú), chín mé, xà đan (zona - "giời leo" theo cách gọi dân gian).

    Một số cách sử dụng cụ thể:

    - Chữa tất cả các loại ung nhọt: Lá phù dung phơi khô, nghiền mịn, quả ké đầu ngựa (thương nhĩ tử) - sao tồn tính (rang hoặc đốt to lửa cho đến khi mặt thuốc cháy đen như than, nhưng bên trong vẫn giữ nguyên màu thuốc), nghiền mịn; hai thứ lượng bằng nhau. Hoà với mật o­ng trộn đều. Dùng để chữa tất cả các loại mụn nhọt như hậu bối, mụn đầu đinh, nhọt bọc, chín mé, sưng vú (nhũ ung)...

    - Chữa zona (giời leo): Dùng lá hoặc hoa phù dung, phơi khô trong bóng râm, tán bột, trộn với giấm gạo, bôi vết thương, ngày bôi 3-4 lần.

    - Chữa bỏng: Dùng hoa phù dung tươi, ngâm với dầu ăn, khi hoa chìm xuống đáy thì lọc lấy dầu, đựng vào lọ nút kín dùng dần; dùng gạc hoặc bông vô trùng thấm dầu thuốc, bôi nhẹ lên viết bỏng, ngày 2-3 lần.

    - Chữa ho ra máu: Dùng hoa phù dung 9-10 bông, sắc nước uống; ngày 2-3 lần.

    - Chữa đau mắt đỏ: Dùng lá phù dung, phơi khô trong bóng râm (âm can), tán mịn, trộn với nước thành thứ bột nhão, đắp lên 2 thái dương, dùng băng dính cố định lại; ngày thay thuốc 2-3 lần.

    - Chữa kinh nguyệt kéo dài không dứt: Dùng hoa phù dung khô 10-15g (20-30g tươi), sắc nước uống trong ngày.

    - Viêm âm đạo: Dùng lá phù dung tươi khoảng 1kg, sắc lấy nước ngâm rửa, mỗi ngày một lần.

    - Viêm khớp: Dùng hoa hoặc lá phù dung 15g, xích tiểu đậu (đậu đỏ nhỏ hạt) 15g, hai thứ nghiền nhỏ, trộn với mật o­ng, đắp lên những chỗ khớp bị viêm. Cũng có thể chỉ dùng lá phù dung, phơi khô, tán bột, trộn mật o­ng đắp vào chỗ khớp xương
    Nguồn :vnmedia.vn
     
    Đang tải...


  2. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Đỗ quyên - hoa đẹp làm thuốc
    Cập nhật lúc 08h53" , ngày 23/03/2006





    Để chữa dị ứng, bạn có thể dùng lá đỗ quyên tươi nấu tắm đến khi khỏi bệnh mới thôi. Còn phụ nữ bị đau bụng hậu sản có thể lấy rễ đỗ quyên tươi 30-60 g, sắc uống 3-4 lần mỗi ngày.

    Y học cổ truyền cho rằng hoa đỗ quyên có tác dụng điều kinh, trừ đàm, khử phong thấp, làm hết ngứa; vì vậy được dùng để chữa các chứng rối loạn kinh nguyệt, bế kinh, băng lậu, tổn thương do ngã, phong thấp, thổ huyết…

    Lá đỗ quyên có tác dụng cầm máu, trừ phong thấp, giảm đau nên được dùng trong chữa trị các chứng xuất huyết, kinh nguyệt không đều, băng lậu, trĩ đang xuất huyết, kiết lỵ, viêm khớp, tổn thương do ngã…

    Các bài thuốc có đỗ quyên

    Chữa viêm phế quản mạn: Lá đỗ quyên 30 g, lá nhót 15 g, rau diếp cá 24 g. Sắc lấy nước uống ngày 3-4 lần trong vài ngày.

    Chữa nôn ra máu, chảy máu mũi: Hoa đỗ quyên 15 g, rễ đỗ quyên 15 g. Sắc lấy nước uống trong ngày.

    Chữa rong kinh: Rễ đỗ quyên 30-60 g, sắc uống cùng với chút rượu vang. Hoặc: Hoa đỗ quyên 60 g, sao với rượu rồi sắc uống.

    Chữa xuất huyết hậu sản: Lá đỗ quyên 1 nắm, sắc cùng với một chút rượu mà uống.

    Chữa lòi dom: Rễ đỗ quyên tươi 30-60 g, ruột già lợn 1 đoạn, sắc lấy nước uống 3-4 lần trong ngày.

    Chữa mụn nhọt và viêm loét vùng gáy: Lấy lá đỗ quyên và lá trắc bách diệp còn tươi giã nát, trộn với lòng trắng trứng gà, cùng mật o­ng rồi đắp lên vùng bị tổn thương.

    Chữa ung nhọt và viêm loét phần mềm: Lấy cành hoặc lá non đỗ quyên giã nát và đắp lên chỗ đau.

    Trị vết thương do ngã: Nếu đau nhức nhiều, dùng lá đỗ quyên tươi giã đắp vào nơi đau; hoặc lấy lá đỗ quyên khô tán bột rắc vào vết thương để cầm máu. Nếu bầm giập, sưng tấy nhiều, dùng lá tươi đỗ quyên cùng nghệ vàng lượng vừa đủ dùng, giã nát chế thêm chút rượu để đắp bó vào nơi thương tổn. Kết hợp lấy rễ đỗ quyên 20-30 g, sắc lấy nước uống ngày 3-4 lần.

    Chữa bất tỉnh do quá sợ hãi, hay bị chấn thương cơ học: Dùng rễ đỗ quyên, bỏ vỏ thô bên ngoài rễ, sấy khô, tán bột. Sau đó lấy một ít bột này thổi vào mũi người bệnh.
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  3. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Công dụng chữa bệnh của gạo nếp
    Cập nhật lúc 10h59" , ngày 08/03/2006





    Trong y học cổ truyền và kinh nghiệm dân gian, gạo nếp (tên thuốc là ngạnh mễ hay nhu mễ) có vị ngọt, thơm, mềm dẻo, tính ấm, có tác dụng bổ tỳ vị, chống hư tổn.

    Chữa nôn mửa không dứt: Gạo nếp 20g, sao vàng phối hợp với gừng tươi 3 lát giã nhỏ, sắc với 200ml nước còn 50ml, uống trong ngày. Hoặc gạo nếp, mạch môn, đẳng sâm mỗi thứ 12g, bán hạ 6g, cam thảo 4g, nấu nước uống.

    Chữa viêm loét dạ dày - tá tràng: Gạo nếp, mai mực, cam thảo, hàn the phi, mẫu lệ nung, hoàng bá, kê nội kim mỗi thứ 50g, làm khô, tán nhỏ, rây bột mịn, ngày uống 20-30g với nước ấm. Nước sắc đặc gạo nếp rang uống thay nước trong ngày để chống mất nước, háo khát trong trường hợp tiêu chảy.

    Gạo nếp thổi xôi là thức ăn - vị thuốc cần thiết cho người yếu dạ, nhất là người bị đau loét dạ dày không ăn được cơm tẻ. Xôi nếp giã nát là chất phụ gia cùng với nhiều vị thuốc khác dùng đắp bó gãy xương rất tốt. Để làm các loại thuốc viên, hoàn, người ta sử dụng bột gạo nếp như một chất kết dính dưới dạng hồ.

    Cơm nếp hoặc cháo gạo nếp trộn với bột mầm hạt lúa mạch theo tỷ lệ 10/1, giữ ở nhiệt độ 70oC trong 12 giờ, rồi ép lọc bỏ bã, cô ngay đến độ cao mềm sẽ được kẹo mạch nha; nếu trộn với bột mầm hạt thóc tẻ lại được kẹo mạ. Cả hai sản phẩm này đều được dùng làm thuốc bổ tỳ, mạnh dạ dày, giúp tiêu hóa, nhuận phổi, lợi sữa.

    Cháo gạo nếp nấu suông gọi là cháo hoa, có tác dụng “mát ruột” cho những trường hợp “nặng bụng”; nếu nấu nhừ với chân giò hoặc móng giò lợn, lõi thông thảo, đu đủ non và lá sung có tật là món ăn - vị thuốc cổ điển và phổ biến làm tăng tiết sữa. Nước cháo gạo nếp lại là thức ăn rất tốt để nuôi dưỡng trẻ nhỏ dưới 1 tuổi.

    Cám gạo nếp có chất phytin được dùng làm thuốc bổ chữa tê phù và chứng nghẹn dưới dạng chè (cám gạo nếp nấu với đậu đỏ và đường) hoặc dạng cháo (cám gạo với ý dĩ nấu ăn).

    Ngoài ra, nước vo gạo đặc cũng được dùng để chế biến các dược liệu, làm cho tính dược của thuốc được êm dịu, bớt háo nóng, giảm độc tính
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  4. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    SỨC KHOẺ -> Y HỌC CỔ TRUYỀN

    Phụ nữ mang thai có nên dùng thuốc bổ Đông y?
    Cập nhật lúc 10h44" , ngày 28/02/2006


    Ảnh: Sức Khỏe & Đời Sống


    Có người cho rằng, thuốc bổ Đông y rất “lành” nên có thể dùng cho bất kỳ ai, kể cả thai phụ. Nhưng lại có người nghĩ nếu dùng Đông dược dưỡng thai thì da dẻ đứa con sẽ bị đen đúa hoặc thai nhi phát triển quá to, gây khó khăn khi sinh nở.

    Ngoài việc ăn uống đủ về lượng và tốt về chất, tâm lý chung của các thai phụ là rất muốn được bồi bổ thêm bằng thuốc, trong đó có các thuốc bổ của y học cổ truyền. Xung quanh vấn đề này có hai quan điểm trái ngược nhau. Có người cho rằng, thuốc bổ Đông y không độc hại nên có thể yên tâm sử dụng. Lại có người cho rằng, các loại thuốc dưỡng thai Đông y chỉ là một mớ “hổ lốn”, chẳng biết có những chất gì độc hại bên trong, lại chỉ được dùng theo kinh nghiệm nên không thể tin cậy được. Thậm chí có người còn sợ dùng Đông dược dưỡng thai thì da trẻ sẽ đen, hoặc thai nhi phát triển quá lớn.

    Các quan điểm trên dẫn đến hai khuynh hướng: hoặc lạm dụng hoặc phủ định triệt để. Vậy, rốt cuộc phụ nữ mang thai có nên dùng thuốc bổ Đông y không?

    Trước hết, cần phải nói ngay rằng, quan niệm về thuốc bổ và liệu pháp bồi bổ của y học cổ truyền có nhiều điểm hoàn toàn khác biệt so với y học hiện đại. Theo cổ nhân, không có thứ thuốc nào không độc, thuốc nào cũng có vài ba phần độc hại, kể cả thuốc bổ. Vậy nên, việc dùng thuốc bổ nói chung phải được xem xét một cách thận trọng và tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định, đặc biệt đối với thai phụ, những người mà Đông y luôn đặt trong tình thế “gái chửa là cửa mả”. Cũng vì thế, các dược thư cổ luôn ghi rõ những vị thuốc cấm dùng cho phụ nữ có thai, trong đó có cả những vị thuốc thuộc nhóm bổ dưỡng.

    Tuy nhiên, không phải vì thế mà Đông y tuyệt đối không dùng thuốc bổ cho thai phụ, mà trái lại, trong một phạm vi nào đó, liệu pháp này còn được khuyến khích vì những lý do sau đây:

    Khi mang thai, trạng thái sinh lý của cơ thể thai phụ biến đổi rất lớn: Âm huyết hạ xuống để nuôi thai. Bình thường ở nữ, huyết đã không đủ nay nhu cầu về huyết lại lớn nên càng thiếu (thiếu máu sinh lý), huyết thiếu dễ thương âm khiến cho âm huyết đều hao tổn, rất cần được bổ sung. Thêm nữa, lượng dinh dưỡng cần thiết cho thai phụ là rất lớn, không chỉ để nuôi sống người mẹ mà còn để giúp cho một cái trứng nhỏ bé đã được thụ tinh phát triển thành thai nhi nặng khoảng 3 kg trong vòng 40 tuần; đồng thời còn cung cấp vật chất cho sự phát triển của tử cung, nhau thai và bầu vú, đáp ứng nhu cầu dự trữ các chất dinh dưỡng cho lúc đẻ và tiết sữa. Các cơ quan tạng phủ, đặc biệt là tỳ vị và tâm mạch phải làm việc cật lực nên dễ lâm vào tình trạng suy nhược, rất cần phải bồi bổ.

    Trong thai kỳ, người mẹ rất dễ mắc một số bệnh như ốm nghén, phù, đi tiểu khó, động thai, băng huyết, trụy thai (sảy thai, đẻ non), tử giản (sản giật)... Theo Đông y, nguyên nhân của các chứng bệnh này, ngoài yếu tố tà khí (tác nhân gây bệnh từ bên ngoài xâm nhập) còn có vai trò của chính khí (sức đề kháng suy giảm do công năng hoạt động của các tạng phủ bị rối loạn). Ví như, trong chứng ốm nghén, ngoài nguyên nhân do hàn tà xâm nhập, ăn uống không hợp lý... thì vấn đề tỳ vị hư yếu có vai trò rất quan trọng. Hay như, các chứng bệnh phù, thai động, trụy thai... phần lớn là do khí huyết hư nhược, công năng của các tạng tỳ, thận suy giảm. Bởi vậy, đối với thai phụ, ngoài việc bồi bổ ăn uống (thực dưỡng), vấn đề dùng Đông dược để dưỡng thai (dược dưỡng) có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc dự phòng tích cực và điều trị hiệu quả các chứng bệnh có thể phát sinh.

    Theo quan niệm của y học cổ truyền, “bổ” có nghĩa là bù đắp, bổ sung những gì mà cơ thể đang thiếu. Âm hư thì bổ âm, dương hư thì bổ dương, tâm huyết hư thì bổ tâm huyết, tỳ khí hư thì bổ tỳ khí... Nghĩa là phần nào, bộ phận nào của nhân thể hư thiếu, sút kém thì phải bằng mọi cách bồi phụ cho đầy đủ để lập lại và duy trì thế cân bằng động cho cơ thể. Xét cho cùng, theo Đông y, con người ta không khi nào không phải tiến hành bồi bổ. Mỗi ngày ăn cơm ba bữa cũng chính là phương thức bồi bổ cơ bản nhất. Bởi thế, việc dùng thuốc Đông y cho thai phụ là điều nên làm. Tuy nhiên, phải tuân thủ các nguyên tắc sau đây:

    Hư đâu bổ đó: Đây là nguyên tắc cơ bản nhất, tuy thuốc bổ nào cũng có tác dụng tốt đối với cơ thể nhưng khi dùng phải đúng chỉ định, âm hư thì bổ âm, khí hư thì bổ khí..., tuyệt đối không dùng lầm vì có thể làm mất cân bằng âm dương, khí huyết trong cơ thể. Bổ có chừng có mực, đủ mức thì dừng. Mọi dược liệu nói chung và thuốc bổ Đông y nói riêng đều có tính thiên lệch, người ta lợi dụng tính thiên lệch đó để điều chỉnh sự thiên lệch trong nhân thể, mà sự thiên lệch đó trong cơ thể thai phụ lại rất phức tạp. Nếu lạm dụng vô độ thì có khi lại làm xuất hiện sự thiên lệch mới, rất có hại cho cơ thể người mẹ và thai nhi.

    Cần biện chứng mà bồi bổ: Nghĩa là phải căn cứ vào đặc điểm sinh lý và bệnh lý cụ thể của từng thai phụ mà tiến hành lựa chọn các vị thuốc, bài thuốc và phương thức bổ dưỡng cho phù hợp. Nói như cổ nhân là phải tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy lúc mà dùng.

    Nên bồi bổ bằng thức ăn trước: Nếu không có hiệu quả mới dùng thuốc. Nếu có dùng thuốc thì trước hết nên trọng dụng các “món ăn - bài thuốc” vì đây là phương thức bồi bổ đơn giản, có hiệu quả, dễ dùng, dễ chế và dễ được thai phụ chấp nhận.

    Cuối cùng, để việc bồi bổ bằng Đông dược cho phụ nữ mang thai có hiệu quả cao nhất và tránh được các tác dụng không mong muốn, bảo đảm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đã nói ở trên, nhất thiết phải có sự thăm khám, chỉ định và hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ của các thầy thuốc có chuyên khoa

    Nguồn :vnmedia.vn
     
  5. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Dược thảo chữa thủy đậu
    Cập nhật lúc 14h03" , ngày 27/02/2006





    Bệnh thủy đậu có thể điều trị bằng nhiều loại cây cỏ quen thuộc dễ kiếm như bạc hà, đậu xanh, lá dâu tằm, kinh giới, lá tre... Căn bệnh này thường phát triển mạnh vào mùa đông xuân, hay gặp nhất ở trẻ em.

    Các loại thảo dược giúp chữa thủy đậu

    Bạc hà: Tinh dầu bạc hà và hoạt chất menthol có tác dụng sát khuẩn. Bạc hà trị ngoại cảm phong nhiệt, phát sốt, không ra mồ hôi, nhức đau, ngạt mũi, ho, viêm họng, sưng đau. Ngày dùng 4-8 g dưới dạng thuốc hãm, thường phối hợp với các vị khác.

    Cam thảo: Cam thảo được dùng chữa cảm, ho mất tiếng, viêm họng, ngộ độc. Ngày dùng 4-12 g dưới dạng bột, thuốc hãm, thuốc sắc.

    Lá dâu tằm: Chữa cảm mạo, phong nhiệt, sốt nóng, phát ban, nhức đầu, ho, viêm họng. Ngày dùng 4-12 g dạng thuốc sắc.

    Dành dành: Chữa sốt, bồn chồn, khó ngủ, vàng da, tiểu tiện khó. Ngày dùng 6-12 g dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán.

    Đậu xanh: Có tác dụng chữa sốt nóng, phiền khát, các trường hợp ngộ độc. Vỏ hạt đậu xanh cũng có tác dụng giải nhiệt, tiêu độc, làm cho mắt khỏi mờ. Ngày dùng 25-50 g hạt đậu xanh hoặc vỏ đậu xanh, sắc nước uống.

    Sinh địa (địa hoàng): Chữa âm hư, phát nóng về chiều, khát nước, viêm họng đau, ban chẩn, tân dịch khô. Ngày dùng 8-16 g dạng thuốc sắc.

    Hoàng cầm: Là thuốc an thần, hạ sốt, chống co giật, chữa sốt cao kéo dài, cảm mạo, phế nhiệt, ho, mất ngủ. Ngày uống 6-15 g dạng thuốc sắc hoặc thuốc bột.

    Kim ngân: Là thuốc kháng khuẩn, hạ sốt và chống dị ứng. Được dùng chữa mụn nhọt, mày đay, ban sởi, ho do phế nhiệt. Ngày dùng 4-6 g hoa hay 10-16 g cành lá.

    Kinh giới: Là thuốc kháng khuẩn và hạ sốt, dùng chữa cảm mạo, sốt, cúm, nhức đầu, hoa mắt, viêm họng, sởi. Ngày dùng 6-16 g dạng thuốc sắc, hãm hoặc bột.

    Liên kiều: Là thuốc kháng khuẩn, kháng virus cúm, kháng nấm, hạ sốt, chống viêm, lợi tiểu. Được dùng chữa phong nhiệt, cảm sốt, viêm đau họng, phát ban. Ngày dùng 10-30 g (dùng riêng) hoặc 6-12 g (phối hợp với các vị khác), dạng thuốc sắc.

    Phòng phong: Có tác dụng hạ sốt, chống dị ứng. Được dùng trị ngoại cảm, nhức đầu, choáng váng. Ngày dùng 6-12 g, dạng thuốc sắc hoặc hoàn tán. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.

    Sài hồ bắc: Có tác dụng hạ sốt, giảm đau, an thần, chống viêm, điều hòa miễn dịch, bảo vệ gan. Được dùng chữa sốt cao, chữa những bệnh nhiễm khuẩn có sốt, điều trị sốt, đau và viêm kết hợp với cúm và cảm lạnh. Ngày dùng 10-15 g, sắc uống.

    Rễ sậy: Được dùng làm thuốc chữa sốt, bí tiểu tiện. Ngày dùng 10-12 g, sắc uống.

    Lá tre: Có tác dụng hạ sốt, lợi tiểu. Được dùng chữa cảm sốt, khát nước, ra nhiều mồ hôi, ho, trẻ em kinh phong. Ngày dùng 20 g dạng thuốc sắc.

    Xích thược: Được dùng làm thuốc hạ sốt, giảm đau, sắc uống.

    Thủy đậu nhẹ

    Những nốt thủy đậu mọc rải rác, xung quanh màu hồng nhạt, sốt nhẹ, có khi không sốt, ho ít, nước mũi loãng trong, ăn uống bình thường.

    Bài 1: Kim ngân, sài đất, kinh giới, thổ phục linh mỗi vị 15-20 g. Sắc uống ngày một thang.

    Bài 2: Lá tre 16 g, lá dâu 12 g; kim ngân, rễ sậy mỗi vị 10 g; cam thảo đất, cúc hoa, kinh giới mỗi vị 8 g, bạc hà 6 g. Sắc uống ngày một thang.

    Bài 3: Liên kiều, lá tre mỗi vị 8 g; cát cánh, đạm đậu xị mỗi vị 4 g; bạc hà, chi tử (dành dành), cam thảo mỗi vị 2 g, hành tăm 2 củ. Sắc uống ngày một thang.

    Bài 4: Cam thảo dây, sinh địa, kim ngân, vỏ đậu xanh mỗi vị 12 g, lá tre 10 g; hoàng đằng, rễ sậy mỗi vị 8 g. Sắc uống ngày một thang.

    Bài 5: Mã đề 12 g; hoạt thạch, liên kiều, ngưu bàng tử mỗi vị 8 g; hoàng cầm, xích thược, sài hồ, chi tử, mộc thông mỗi vị 6 g; phòng phong, kinh giới, cam thảo, đương quy mỗi vị 4 g, thuyền thoái 2 g. Sắc uống ngày một thang.

    Thủy đậu nặng

    Nốt đậu mọc dày, sắc tím tối, màu nước đục, xung quanh nốt thủy đậu màu đỏ sẫm, sốt cao phiền khát, mặt đỏ môi hồng, niêm mạc miệng có những nốt phỏng. Nốt phỏng rất dễ vỡ, dễ loét và dễ gây bội nhiễm.

    Bài 1: Bồ công anh 16 g; kim ngân, sinh địa mỗi vị 12 g; liên kiều, xích thược, chi tử sao mỗi vị 8 g. Sắc uống ngày một thang. Họng đau, thêm xạ can 4 g, sơn đậu căn 8 g. Khát nước, miệng khô, thêm qua lâu, mạch môn, sa sâm mỗi thứ 8-12 g.

    Bài 2: Bôi nước lá chàm hay bột chàm (thanh đại), hoặc dùng rau sam, hay lá thuốc bỏng, hoặc xuyên tâm liên, giã nát rồi chấm lên nốt phỏng
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  6. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chữa tóc khô rụng bằng phương pháp cổ truyền
    Cập nhật lúc 10h59" , ngày 24/02/2006





    Trong việc làm đẹp tóc, có những cách chỉ dùng dược thảo rẻ tiền mà vẫn đem lại tác dụng rõ rệt. Chẳng hạn, để mái tóc đen bóng, mềm mại hơn, bạn chỉ cần gội đầu bằng nước trà, giấm, bia.

    Một vài phương cách rất đơn giản nhưng có hiệu quả cao:

    Trà: Pha 50 g trà với 1 lít nước sôi để âm ấm, sau khi gội đầu xong dùng nước trà gội lại một lần nữa.

    Bia: Gội đầu sạch, lau khô rồi thấm đều bia lên tóc kết hợp với massage da đầu để bia thấm vào chân tóc. 20 phút sau gội lại bằng nước sạch. Tóc sẽ óng mượt, phát triển tốt, không bị khô, rụng.

    Mật o­ng, trứng gà, dầu vừng: Dùng một muỗng canh mật o­ng hòa với 1 lòng đỏ trứng gà, cho thêm 1 muỗng canh nước cốt hành củ và 2 muỗng dầu mè. Tất cả trộn đều, đánh nhuyễn. Nếu tóc nhiều, dày thì tăng liều. Bôi hỗn hợp này lên tóc cho thấm đều chân tóc, lấy mũ ni lông đội lên, bên ngoài dùng khăn lông lớn thấm nước ấm vắt khô trùm lên. Sau 2 giờ thì gội sạch. Mỗi tuần thực hiện 2-3 lần. Tác dụng: Trị tóc rụng, thưa, vàng.

    Giấm: Trước khi đi làm đầu hay sấy tóc, lấy giấm bôi lên tóc, bạn sẽ làm cho tóc mềm và bền hơn. Hoặc: Hòa 500 ml giấm lâu năm với 1 lít nước rồi dùng gội đầu mỗi ngày để trị rụng tóc, ngứa đầu, nhiều gàu
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  7. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Món ăn - bài thuốc phòng trị viêm gan mạn tính
    Cập nhật lúc 11h20" , ngày 23/02/2006


    Cá diếc


    Trong điều trị viêm gan mạn (VGM), vấn đề ăn uống có ý nghĩa hết sức quan trọng, có khi còn quyết định hơn cả dùng thuốc. Người bệnh có thể căn cứ vào các chứng trạng biểu hiện cụ thể mà lựa chọn một vài món trong số sẽ giới thiệu dưới đây...

    Ba ba hấp gừng

    Nguyên liệu: Ba ba một con cỡ 200-300g; gừng tươi 5g; muối, rượu nếp mỗi thứ một chút.

    Cách chế biến: Dùng nước nóng rửa sạch bên ngoài, mổ bụng, bỏ ruột, giữ lại gan và trứng, rửa sạch, lau khô. Đặt ngửa con ba ba lên một cái đĩa, cho gừng đã thái lát, muối và một chút rượu nếp vào bụng. Đem hấp cách thủy 30-45 phút là được.

    Tác dụng: Dưỡng âm thanh nhiệt. Dùng cho những trường hợp viêm gan kèm theo sốt nhẹ, đêm ngủ ra mồ hôi trộm. Đây là món ăn có nhiều chất bổ, rất tốt đối với những bệnh nhân VGM, cơ thể suy nhược.

    Cách dùng: Có thể dùng làm món điểm tâm hoặc làm thức ăn trong bữa cơm, chú ý là cần ăn lúc nóng.

    Gan lợn xào củ cải

    Nguyên liệu: Gan lợn 250g, củ cải 250g, dầu thực vật, bột mì, muối, mì chính, gia vị vừa đủ.

    Cách chế biến: Gan lợn đem rửa sạch, thái lát mỏng, trộn đều với muối, tẩm chút bột mỳ. Củ cải cũng thái lát mỏng, Cho một thìa dầu thực vật vào chảo đun nóng già, cho củ cải vào xào khi gần chín thì xúc củ cải ra. Cho 2 thìa dầu vào đun nóng già, cho gan lợn vào xào độ 3 phút rồi đổ củ cải vào xào tiếp khoảng 3 phút, thêm mắm muối, gia vị rồi múc ra là được.

    Tác dụng: Bổ gan, sáng mắt, thanh nhiệt, tiêu thực; đối với bệnh VGM và viêm túi mật có tác dụng điều trị nhất định; còn có tác dụng phòng biến chứng từ viêm gan sang ung thư gan.

    Cách dùng: Dùng làm thức ăn trong bữa cơm hằng ngày.

    Cá trắm luộc

    Nguyên liệu: Cá trắm đen một con (cỡ 500-800g); đường trắng 50g, giấm một thìa, hành, gừng, muối, tương, dầu vừng, rượu nếp, bột mì, hồ tiêu mỗi thứ một ít.

    Cách chế biến: Cá trắm đem bóc mang, cạo vẩy, mổ bụng bỏ hết nội tạng rồi rửa sạch. Sau đó bổ dọc làm đôi, đầu cá cũng bổ đôi, lau khô. Đổ 3 bát nước vào nồi, đun lửa to cho đến khi sôi, cho cá vào, đậy vung, đun sôi tiếp trong 5 phút, cho rượu và chút muối vào, đun nhỏ lửa thêm khoảng 10 phút, khi thấy mắt cá lồi ra ngoài là cá đã chín, vớt cá ra để cho róc nước rồi bày lên đĩa.

    Nước trong nồi còn khoảng nửa bát, trước hết cho chút đường, giấm, tương, gừng, rượu nếp vào đun lại cho sôi, tiếp đó cho hành và bột mỳ vào trộn đều sẽ thành nước cốt đặc quánh, đem rưới lên cá trên đĩa, cuối cùng thêm vài giọt dầu vừng vào là được. Ngoài cách chế biến vừa giới thiệu, tùy theo sở thích có thể chế thành những món ăn khác.

    Tác dụng: Đây là một món ăn chữa bệnh rất nổi tiếng ở vùng Triết Giang (Trung Quốc). Cá trắm có nhiều chất dinh dưỡng cần thiết đối với người mắc bệnh VGM; theo Đông y, cá trắm có tính bình, vị ngọt, có tác dụng điều hòa và tăng cường chức năng tiêu hóa (hòa trung, bổ khí, dưỡng vị), dưỡng can, trừ phong, hóa thấp... Là món ăn bổ dưỡng rất tốt đối với người bị VGM.

    Cách dùng: Dùng làm món ăn trong bữa cơm.

    Cá diếc hầm

    Nguyên liệu: Cá diếc tươi 250g; hành 250g; dầu thực vật, tương, muối, đường, gừng mỗi thứ một chút.

    Cách chế biến: Cá diếc đem bóc mang, cạo vẩy, mổ bụng giữ lại bong bóng, trứng, bỏ hết các bộ phận nội tạng khác, rửa sạch, để cho róc nước. Cho 5 thìa dầu vào chảo đun nhỏ lửa tới khi nóng già, cho 3 lát gừng vào rồi lập tức cho cá vào. Khi thấy da cá chuyển sang màu vàng thì cho tương, muối, đường vào, đổ thêm nửa bát nước lạnh và om trong 10 phút cho ngấm. Thêm một bát to nước lạnh, đun sôi, đem hành đã bỏ rễ và lá úa nhúng vào nước canh sau đó phủ lên thân cá; đậy kín vung, đun nhỏ lửa khoảng nửa tiếng là được.

    Tác dụng: Đây là món ăn đặc sản vùng Giang Nam (Trung Quốc), lại cũng là món ăn chữa bệnh gan. Cá diếc phối hợp với hành có tác dụng bổ gan, chống trướng bụng, xúc tiến tiêu hóa, đối với bệnh VGM có tác dụng hỗ trợ tốt cho quá trình điều trị.

    Cách dùng: Dùng làm thức ăn trong bữa cơm.

    Ngó sen nhồi đỗ xanh táo nhân

    Nguyên liệu: Đỗ xanh 200g; táo nhân 50g; ngó sen to 4 cái.

    Cách chế biến: Đỗ xanh và táo nhân đem ngâm nước nửa giờ rồi vớt ra. Ngó sen rửa sạch, cắt ra một mẩu ngắn để riêng (sẽ dùng làm “nắp”). Nhồi đỗ xanh và táo nhân vào trong các lỗ rỗng của ngó sen, lấy mẩu đã cắt ra đậy kín dùng tăm tre ghim lại cho chắc, sau đó đặt ngang vào nồi. Đổ nước lạnh vào đun trong 2-3 giờ, nếu nước cạn thì đổ thêm, đun tới khi ngó sen chín nhừ là được.

    Tác dụng: Tăng cường chức năng tiêu hóa (kiện tỳ), bổ gan, an thần, thanh nhiệt giải độc, có giá trị dinh dưỡng cao. Sử dụng trong trường hợp VGM kèm theo kém ngủ hay ngủ mê.

    Cách dùng: Hằng ngày dùng món này điểm tâm buổi sáng, thêm chút đường vào cho ngon miệng, nước sắc có thể dùng như nước canh.

    Trà bổ gan

    Nguyên liệu: Táo tàu, lạc củ, đường mỗi vị 50g.

    Cách chế biến: Táo và lạc đem rửa sạch, lạc để nguyên cả vỏ lụa, sắc với nước như đun trà, trước khi bắc ra thêm đường cho đủ ngọt.

    Tác dụng: Bổ gan, tăng cường chức năng tiêu hóa.

    Cách dùng: Uống thay nước trà hằng ngày; có thể ăn cả táo và lạc; liên tục 30 ngày.

    Nhân trần mạch nha hồng táo thang

    Nguyên liệu: Nhân trần 15g, mạch nha (hoặc cốc nha - tức mầm thóc) 20g; hồng táo (táo tàu) 10 quả; đường trắng vừa đủ ngọt.

    Cách chế biến: Táo tàu đem ngâm nước ấm một lúc rồi rửa sạch. Cho nhân trần, mạch nha và táo vào nồi, đổ nước vào cho ngập thuốc, đun sôi, giữ nhỏ lửa khoảng 30 phút, sau đó cho thêm chút đường vào.

    Tác dụng: Xúc tiến chức năng gan, thông mật, thanh nhiệt, trừ thấp, tiêu thực, trừ trướng. Dùng cho trường hợp VGM với các triệu chứng: hai bên sườn trướng đau, bụng trướng, ngực khó chịu hoặc lợm giọng, nôn oẹ nước chua, kém ăn, đau bụng, tiêu chảy, khắp mình đau buốt, rêu lưỡi mỏng, mạch huyền. Một số nơi còn dùng để trị chứng viêm gan vàng da có hiệu quả tốt.

    Cách dùng: Chia làm 2 phần dùng 2 lần trong ngày; uống nước, ăn táo, bỏ bã
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  8. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Gừng - Vị thuốc quen mà lạ
    Cập nhật lúc 10h43" , ngày 15/02/2006






    Gừng được dùng nhiều trong ăn uống, chữa bệnh và cho đến tận bây giờ không phải chúng ta đã biết hết, giải thích được mọi công dụng quen thuộc và mới lạ của nó.



    Một vài tác dụng của gừng



    - Trong gừng tươi có enzym protease phân hủy rất mạnh các protein thành các amino acid làm cho thức ăn mềm, dễ tiêu hóa, loại được các chuỗi peptid lạ nên chống được dị ứng cho một số người không quen. Đây là một trong những lý do mà người ta dùng gừng làm gia vị khi chế biến cá, ốc.



    - Gừng có tác dụng kích thích nhu động ruột, nhưng lại không gây nên sự co thắt quá mức ở bộ máy tiêu hóa. Điều này giải thích được tác dụng làm dễ tiêu, chống tiêu chảy, đầy hơi và chống ói mửa.



    - Trên chuột thí nghiệm, gừng ức chế việc gây loét dạ dày, có thể do gừng ức chế sự hình thành histamin.



    - Những người có thai (dưới 20 tuần) bị nôn trầm trọng phải nhập viện được cho uống mỗi ngày 4 lần, mỗi lần 250mg gừng khô làm giảm được nôn rõ rệt. So sánh gừng với metoclopramid thấy tác dụng chống nôn của gừng không thua kém (1.000mg bột gừng khô có hiệu lực tương đương với 10mg metoclopramid) nhưng ưu điểm của gừng là không gây tác dụng phụ như khi dùng metoclopramid.



    - Trước khi lên tàu xe (khoảng 30 phút) nếu nhai một củ gừng bằng ngón tay cái với muối sẽ bảo đảm không bị say tàu xe suốt cuộc hành trình. Mowrey và Clayson (1982) đã làm thí nghiệm so sánh gừng và dramamin nhận thấy 940mg bột gừng khô có hiệu lực chống say hơn 100mg dramamin trong khi gừng không gây ra cảm giác buồn ngủ, khô miệng, táo bón và bí đái như dùng dramamin. Một nhóm các nhà nghiên cứu Anh cho rằng tác dụng chống say tàu xe của gừng là do làm êm dịu dạ dày và họ cho một số người bệnh uống trước gừng, thấy gừng làm giảm được đau dạ dày khi giải phẫu.



    - Các nhà nghiên cứu Đan Mạch cho người bệnh uống 5g gừng tươi mỗi ngày, kéo dài trong một tuần lễ thấy gừng ngăn chặn cơ thể sản xuất ra dramacin, một chất gây kết dính tiểu cầu tạo thành cục máu đông làm nghẽn mạch, vì thế có hy vọng dùng gừng chống nghẽn mạch như từng dùng aspirin mà chắc chắn là sẽ rẻ tiền và an toàn hơn.



    - Trong thí nghiệm trên mèo đã bị gây mê, gừng có tác dụng kích thích trung tâm vận mạch, đồng thời kích thích tim, làm cường tim. Vì thế khi bị lạnh dùng gừng làm ấm, hưng phấn. Mặt khác gừng lại làm giãn mạch, tăng tiết mồ hôi. Vì thế khi bị sốt dùng gừng hạ nhiệt.



    - Trong bệnh đau nửa đầu dùng 500- 600mg gừng khô hòa với nước, uống lúc lên cơn đau và lặp lại 4 giờ/lần trong 4 ngày liền thấy giảm rõ cơn đau sau 30 phút, không thấy có phản ứng phụ. Sau đó thay bằng ăn gừng tươi hằng ngày thấy cơn đau nửa đầu xảy ra thưa hơn, nhẹ hơn. Phát hiện này (được công bố trên tạp chí J.Ethnopharmacol, 1990) của một phụ nữ 42 tuổi từng bị cơn đau nửa đầu hành hạ và đã từng dùng nhiều loại thuốc trước đó. Nay người ta dùng kinh nghiệm này để chữa bệnh đau nửa đầu cấp tính (bằng cách dùng gừng tươi, hoặc gừng khô, hoặc chất trích ly từ gừng đã chuẩn hóa).



    - Trong gừng (theo F.Kluchi, Chem Pharm, 1992) có các chất chống ôxy hóa, ức chế hình thành các chất gây viêm (prostaglandin, thronboplaxan, leucotrien). Gừng còn được xem có tác dụng điều hòa miễn dịch, tăng lượng corticosteron tự nhiên trên động vật thí nghiệm nhưng không gây tác dụng phụ làm teo tuyến thượng thận. Trong gừng có nhiều tinh dầu trong đó có jamical có tính diệt nấm và mecin có tính diệt khuẩn. Vì những lý do khá đa dạng này mà gừng được dùng làm thuốc chữa các chứng viêm đường hô hấp trên (giã nát một ít gừng với muối ngậm hay vắt lấy nước nhỏ mũi), dùng giảm đau kháng viêm (giã nát gừng tươi với một ít muối, bó vào chỗ đau khi bị ngã, giã nát gừng tươi xoa bóp khi đau nhức). Trong một nghiên cứu (được công bố trên tạp chí Med. Hypotheis, 1989) các nhà nghiên cứu đã cho 18 người bị viêm xương khớp, 10 người bị đau cơ dùng gừng từ 3 tháng đến 30 tháng (với liều từ 500-1.000mg gừng khô) thì 75% người viêm khớp và 100% người đau cơ đã được giảm đau và giảm sưng. Ở một thí nghiệm khác, 7 người bị thấp khớp nặng không đáp ứng với nhiều loại thuốc khác nhưng khi dùng mỗi ngày 5g gừng tươi hoặc 100-1.000mg gừng khô thì bệnh biến chuyển rõ rệt: giảm đau, cải thiện độ hoạt động của khớp, giảm sưng, giảm cứng khớp vào buổi sáng.



    - Gừng còn có tác dụng tráng dương, giúp tăng cường hoạt động cho người yếu sinh lý do tuổi tác. Trong các thang thuốc dùng vào mục đích này các lương y thường cho thêm vào vị gừng tươi và thắt ngón chân cái thì sẽ dẻo dai hơn khi giao hợp. Một số phụ nữ tế nhị thường chiêu đãi các vị lang quân đi xa về bằng món ốc hương hấp lá gừng chấm với nước mắm gừng để có được niềm vui trọn vẹn.



    - Trên thị trường hiện có một số thuốc làm từ gừng như thuốc chống nôn (bd: nonon), thuốc chống say tàu xe (bd: zinziber), thuốc trị ho (bd: tragutan, phối hợp gừng với tràm). Tiếc rằng những sản phẩm trong nước làm từ gừng còn quá ít, trong khi phải nhập ngoại một lượng lớn thuốc hóa dược có tác dụng không hơn gừng (như các thuốc hóa dược chống nôn, chống say tàu xe đã có so sánh ở trên).



    - Theo nhiều nghiên cứu thì gừng tươi có tác dụng tốt hơn (do các hoạt chất từ gừng như tinh dầu, enzym, các chất chống nấm, diệt khuẩn... được bảo quản nguyên vẹn hơn) trong khi đó việc chế ra được sản phẩm dùng cho một số đông từ gừng khô sẽ thuận lợi hơn nhiều. Chuẩn hóa nguyên liệu như các nước đã làm là cách làm cho các chế phẩm chế từ gừng được ổn định, từ đó nâng cao chất lượng dược phẩm.



    - Gừng từ nhiều vùng khác nhau không hoàn toàn giống nhau (gừng nhà nhỏ, cay trong khi gừng núi lớn, ít cay hơn). Y học cổ truyền phân biệt gừng khô (can khương) và gừng tươi (sinh khương) với cách dùng có chỗ khác nhau. Bên cạnh việc nghiên cứu áp dụng các công dụng đã được phát hiện thì việc nghiên cứu những vấn đề trên cũng là điều nên làm
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  9. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Cây mua chữa bách bệnh
    Cập nhật lúc 08h53" , ngày 07/02/2006


    Mua bà


    Ở miền Trung có rất nhiều cây mua, đến mùa cây ra hoa, màu tím rất đẹp. Không chỉ đơn giản là một loài hoa, cây mua có nhiều loại, có nhiều công dụng chữa bệnh.

    Mua bà - Mua mái - Dã mẫu đơn Melastoma candidum D. Don. Họ Mua Melasstomaceae, hoa màu hồng tím, lá mặt trên có lông cứng ráp, mặt dưới lông mềm. Lá thu hái quanh năm, dùng tươi và khô. Vị chua, ngọt, chát, tính bình. Công năng sinh nhiệt giải độc, lợi thấp tiêu thũng, hoạt huyết, tán ứ, giảm đau, cầm máu, tiêu viêm ở ruột, gan, mạch máu, chữa tắc mạch máu, tắc tia sữa, chữa ung thư.

    Bong gân, trật khớp, gẫy xương: Bột đại hồi 10 g, bột quế chi 10 g, vỏ cây gạo tươi 200 g, lá dâu 50 g, lá mua bà 100 g. Lá tươi giã nhỏ, quyện với các loại bột cho dẻo để bó đắp.

    Chữa vàng da, băng huyết: Lá sao vàng sắc uống.

    Chữa mụn nhọt: Lá tươi, giã, hơ nóng đắp.

    Chữa tụ máu bầm tím: Lá tươi giã trộn nước vo gạo đắp.

    Chữa ung thư dạ dày: Rễ mua tươi 30 g, ngưu bì đồng 30 g, hạ khô thảo 15 g, dung thụ căn 15 g, kê nhãn thảo 15 g, hướng dương quỳ căn 15 g, bạch dương kim 10 g, xuyên phá thạch 10 g. Sắc uống ngày 1 thang.

    Chữa ung thư giáp trạng: Rễ mua 40 g, ngân hoa 30 g, thổ qua căn 40 g, tước sàng thảo 30 g, hạ khô thảo 40 g, bạch anh 30 g. Sắc uống ngày 1 thang.

    Chữa ung thư vú: Rễ mua 40 g, bạch anh 40 g, hoàng căn 30 g, nhất điểm hồng 30 g, giang bản quy 30 g, tước sàng thảo 30 g, hoàng tiêu 30 g. Sắc uống ngày 1 thang.

    Mua núi - Mua thấp - Mua lùn - Mua nước Melastoma dodencandrum Lour. Họ mua - cây nhỏ mọc bò thân xanh hay đỏ tím. Hoa màu hồng ở ngọn thân 2-3 cái. Lá nhẵn 2 mặt. Thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc khô.

    Chữa phụ nữ sau khi sinh bị phù nề: 50-100 g cả cây tươi, nấu nước tắm.

    Chữa mụn nhọt, ứ huyết, tê thấp: 8-16 g cả cây khô sắc uống. Cây tươi giã nhuyễn đắp tại chỗ.

    Gãy xương: Lá mua nước, lá si, lá bái, lá chuối tiêu, lá giỏ dẻ, lượng bằng nhau phơi khô tán bột. Khi dùng cho nước quyện cho dẻo để đắp bó.

    Chữa sai khớp: 30 g cây tươi, giã nhỏ cùng với 30 g lá náng hoa trắng, 20 g lá loét mồm. Hơ hoặc xao nóng đắp bó.

    Chữa ung thư tử cung, thực quản: Mua thấp 60 g, tứ diệp luật 60 g, cẩu cam thái 30 g. Sắc uống ngày một thang.

    Chữa ung thư dạ dày chảy máu: Mua thấp 30 g, sắc uống ngày 1 thang.

    Mua ông, mua đỏ, cẩm cang (Thái) Melastoma sanguineum Sims, họ mua. Cây cao 2m trở lên, cành có lông đỏ, lá có lông dày, mặt dưới màu đỏ máu, hoa to mọc thành xim 3-5 hoa, màu hồng thắm thu hái quanh năm, dùng tươi hoặc khô. Dùng cầm máu, sưng tấy, tê thấp. Lá tươi dán lên chỗ chảy máu. Lá tươi giã nhuyễn đắp chỗ sưng đau cơ, khớp.

    Mua leo - mua giây Medinilla spirei Guill giây leo 10 m trở lên, cụm hoa hình chùy thõng xuống, hoa màu hồng đỏ hoặc nâu đỏ. Thu hái quanh năm, chữa sưng tấy tụ máu, đau cột sống. Phối hợp với các vị khác chế dạng cao dán
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  10. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Búp lá mùa xuân - vị thuốc dân dã
    Cập nhật lúc 15h23" , ngày 06/02/2006





    Xuân về, cây cối đâm chồi, nảy lộc. Nhiều búp lá xanh là những vị thuốc mà dân gian tín nhiệm. Chẳng hạn, búp tre giảm sốt, búp ổi chữa tiêu chảy, búp bàng chữa viêm quanh răng...

    Búp tre

    Còn gọi là đọt tre, tên thuốc trong y học cổ truyền là trúc diệp quyển tâm, có vị ngọt nhạt, tính lạnh mát.

    Chữa tiểu buốt: Búp tre phối hợp với rau má mỗi thứ 20 g, để tươi, rửa sạch, giã nát với vài hạt muối, thêm nước gạn uống.

    Chữa kiết lỵ kinh niên: Búp tre 4 g; hạt cau già 2 g; chè tươi 10 g sao vàng, sắc với 200 ml nước còn 50 ml, uống trong ngày.

    Chữa sốt cao, háo khát: Búp tre 20 g; thạch cao nung 12 g, tán nhỏ, trộn đều, sắc uống trong ngày.

    Búp ổi

    Chứa nhiều tanin, có tác dụng làm săn, chữa đau bụng, đi ngoài. Mỗi lần dùng 5-7 búp rửa sạch, nhai với vài hạt muối, nuốt nước. Hoặc: Búp ổi 20 g, phối hợp với lá khổ sâm 12 g, gừng sống 8 g băm nhỏ, sắc uống hoặc búp ổi sao qua 20 g; vỏ quýt khô, gừng nướng chín mỗi thứ 10 g, sắc uống chữa tiêu chảy.

    Búp bàng

    Chữa sưng tụt lợi: Búp bàng 2 cái để tươi, rửa sạch, nhai nát, ngậm trong 10-15 phút, rồi nhổ cả bã lẫn nước.

    Chống nhiễm khuẩn: Búp bàng phối hợp với lá sòi tía, sắc nước đặc, rửa vết thương.

    Búp chè

    Chữa phù thũng: Búp chè 300 g để tươi, vò nát, nấu nước uống làm nhiều lần trong ngày.

    Chữa tiêu chảy, kiết lỵ: Lấy búp chè (loại để lâu ngày) dùng riêng nhai mỗi lần một dúm, nuốt nước dần dần, ngày nhiều lần. Hoặc phối hợp với búp ổi mỗi thứ 20 g, sao vàng; cam thảo 5 g, sắc đặc, uống làm hai lần trong ngày.

    Búp dứa dại

    Búp dứa dại 20 g giã nhỏ với lá ngải cứu 20 g, rau bộ nước 30 g, lá phèn đen 10 g, thêm nước, gạn uống, chữa sỏi thận. Hoặc sắc uống với mầm rễ cỏ gừng liều lượng bằng nhau, chữa đái dắt, đái buốt có máu.

    Dùng ngoài, búp dứa dại và lá đinh hương giã đắp, chữa đinh râu.

    Búp sim

    Búp sim 8-16 g thái nhỏ, sắc uống, chữa đau bụng, tiêu chảy. Có thể tán thành bột mà uống. Để chữa lỵ trực khuẩn, lấy búp sim và búp ổi mỗi thứ 16 g; rễ hoàng liên, lá phèn đen, liên kiều, cát căn mỗi thứ 10 g sắc uống trong ngày. Dùng 3-5 ngày.

    Dùng ngoài, búp sim nấu nước rồi cô đặc được dùng rửa làm thuốc sát khuẩn vết thương.

    Búp dâu

    Để chữa ho gà, lấy búp dâu 16 g; mè đất 30 g sao vàng, hạ thổ; búp cây chanh 12 g; hoa cây guốc nước mặn 20 g sao vàng. Tất cả thái nhỏ, sắc nước, rồi hòa với đường. Trẻ em 1-3 tuổi, uống mỗi lần 1 thìa cà phê; 4-6 tuổi mỗi lần 1,5 thìa; 7-9 tuổi mỗi lần 2 thìa; 10-12 tuổi mỗi lần 2,5 thìa; 13-15 tuổi mỗi lần 3 thìa. Ngày uống 2 lần, kiêng ăn chất tanh
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  11. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Giảm béo và hạ mỡ máu bằng Đông dược
    Cập nhật lúc 15h33" , ngày 17/01/2006





    Lá sen khô 60 g, sơn tra xanh, ý dĩ xanh mỗi loại đều 10 g, lạc lá 15 g, vỏ quýt 5 g, lá chè 60 g. Tất cả tán thành bột, pha với nước sôi uống thay trà hằng ngày. Thuốc có tác dụng giảm mỡ, giảm béo và các triệu chứng mỡ máu cao.

    Không chỉ y học hiện đại mà cả Đông y cũng có nhiều phương pháp loại trừ lượng mỡ xấu làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Sau đây là các phương pháp làm giảm mỡ máu dễ tìm, sẵn có, giá thành rẻ và ai cũng có thể thực hiện được:

    Làm giảm mỡ máu - giảm béo

    Dược liệu: Lá sen khô 60 g, sơn tra xanh, ý dĩ xanh mỗi loại đều 10 g, lạc lá 15 g, vỏ quýt 5 g, lá chè 60 g. Các vị trên tán thành bột, pha với nước sôi lấy nước uống thay trà hằng ngày.

    Tác dụng: Bổ lách, tiêu thấp, giảm mỡ, giảm béo, hay chóng mặt, nhức đầu, mạch căng hay gặp trong mỡ máu cao.

    Làm hạ mỡ máu cao, tăng tính đàn hồi huyết quản

    Dược liệu: Trà ô long (Trung Quốc) 3 g, hoa hòe 18 g, hà thủ ô 30 g, vỏ bí đao (đông qua) 18 g, ruột sơn trà 15 g. Cho các vị trên sắc lấy nước uống thay trà trong ngày.

    Tác dụng: Làm hạ mỡ trong máu cao, làm tăng tính đàn hồi của huyết quản, do vậy phòng ngừa được chứng mỡ máu cao và xơ hóa thành mạch.

    Chữa chứng mỡ trong máu cao

    Dược liệu: Lá sen tươi 20 g, xé vụn hãm nước sôi 15 phút lấy nước uống thay trà; Nếu không có lá tươi dùng khô 10 g, hãm lấy nước uống.

    Tác dụng: Làm hạ cholesterol máu cao.

    Chữa chứng mỡ máu cao

    Dược liệu: Vừng đen (mè) 60 g, quả dâu 60 g, đường trắng 10 g, gạo tẻ 30 g. Giã nát vừng đen, quả dâu, gạo tẻ, lấy nước đổ vào nồi đất đun sôi, cho đường trắng vào, chờ đường tan hết mới cho 3 vị trên đã được giã nát vào, nhớ cho vào từ từ, như vậy sẽ có thành phẩm thơm, dễ ăn, làm tiêu bệnh, khỏe người.

    Tác dụng: Bổ âm, thanh nhiệt, hạ mỡ trong máu, dùng chữa chứng mỡ máu cao là thích hợp.

    Làm hạ huyết áp - giảm mỡ máu

    Dược liệu: Mộc nhĩ trắng 20 g, sơn trà thái lát 40 g, đường trắng 1 thìa. Mộc nhĩ ngâm nước trong một ngày, khi nở ra giống như lúc còn tươi là được. Cắt thành miếng vuông nhỏ, cho vào nồi đất đun nhỏ lửa 1 giờ mới đổ sơn trà và đường trắng vào, hầm tiếp 30 phút nữa, mộc nhĩ nhừ thì bắc ra để dùng.

    Cách dùng: Ăn cả nước lẫn cái, ngày 1-2 lần, mỗi lần một bát nhỏ có thể ăn điểm tâm hoặc ăn trước lúc đi ngủ. Ăn hết trong 2 ngày với lượng trên. Các ngày khác ăn tiếp chỉ cần lượng là nửa của hai ngày ban đầu là được.

    Tác dụng: Bổ dưỡng huyết mạch, làm hạ huyết áp, giảm mỡ máu, mát phổi, có thể dùng làm món ăn tẩm bổ cho bệnh nhân tim mạch
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  12. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Bài thuốc trị chứng ra mồ hôi... trộm
    Cập nhật lúc 10h46" , ngày 10/07/2007


    Sơn thù.


    Gọi là mồ hôi... trộm khi không phải lúc vận động, hoạt động, hay khí trời nóng bức, mà mồ hôi vẫn cứ ra! Mồ hôi trộm thường ra... trộm trong lúc chúng ta ngủ, khi thức dậy thì lại hết. Theo lương y Như Tá (Hội Đông y Q.Bình Thạnh, TP.HCM), phần lớn nguyên nhân là do âm hư, cơ thể không giữ được tân dịch. Y học cổ truyền có một số bài thuốc sau giúp chữa chứng mồ hôi trộm:


    1. Lấy một quả tim của con heo đực (còn cả máu trong đó), cho nhân sâm, đương quy (mỗi thứ 10 gr) vào, đem luộc chín, rồi bỏ xác thuốc, chỉ ăn tim. Bài này chữa âm hư làm ra mồ hôi, mất ngủ.

    2. Lấy mỡ bò, mỡ dê hòa với rượu để uống; hoặc rang hai thứ là gạo nếp và tiểu mạch rồi tán thành bột. Mỗi lần dùng 10 gr với nước cơm hay chấm ăn với thịt heo.

    3. Lấy 49 gốc hẹ, nấu (sắc) cùng với 400 ml nước, nấu cạn còn 200 ml, uống dần dần trong ngày.


    Đơn bì.


    4. Lấy hạt của một quả đào khô còn trên cây, 2 trái mơ khô, 7 gốc hành, 3gr trần bì (vỏ quýt khô), mạch nha, rễ lúa (mỗi thứ 10 gr), vị thuốc bấc đèn 2 thẻ. Đem sắc uống.

    5. Lấy bột mì làm thành viên to, để dùng lúc đói.

    6. Dùng 30 gr vị thuốc tiểu mạch (loại lép) và 10 trái táo hồng, đem nấu nước uống thay trà.

    7. Bài thuốc gồm: 16gr thục địa, 8 gr trạch tả, cùng phục linh, sơn thù (mỗi thứ 12 gr), đơn bì, hoài sơn (mỗi thứ 10 gr). Cho tất cả cùng 600 ml nước, nấu còn lại 200 ml, chia làm 3 lần dùng trong ngày.

    8. Dùng tiểu mạch hạt lép đem rang bằng lửa nhỏ. Mỗi lần dùng độ 6 gr với nước cơm, hoặc nấu nước uống thay trà
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  13. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Những bài thuốc hay từ trái nhãn
    Cập nhật lúc 09h13" , ngày 05/06/2007





    Nhãn là một loại hoa quả không những tốt cho sức khỏe mà còn có thể chữa được nhiều loại bệnh. Sau đây là những bài thuốc có lợi cho sức khoẻ được chế biến từ nhãn.

    Chữa chứng mất ngủ, hồi hộp, hay quên

    Nguyên liệu gồm: 100gr cùi nhãn và 100gr gạo nếp loại ngon.
    Cách chế biến: nấu cháo, nêm nếm gia vị để ăn.

    Chữa suy nhược cơ thể, thiếu máu

    Nguyên liệu gồm: 15gr long nhãn, 20gr hạt sen, 15gr hồng táo, 15gr đậu phộng và 50gr gạo nếp loại ngon.
    Cách chế biến: dùng những nguyên liệu trên để nấu cháo, nêm nếm gia vị vừa ăn. Nên dùng vào mỗi buổi sáng và chiều tối.

    Chữa tâm thận hư nhược

    Nguyên liệu gồm: 250gr long nhãn và nửa lít rượu loại ngon.
    Cách chế biến: đem long nhãn ngâm vào rượu trong khoảng hai tuần là có thể dùng được. Mỗi tối trước khi đi ngủ, dùng một ly nhỏ.

    Trị tiêu chảy do tỳ hư

    Nguyên liệu gồm: 30 quả long nhãn (loại khô) cùng một lượng sinh khương (gừng tươi) vừa đủ.
    Cách chế biến: dùng hai thứ trên đem nấu nước để uống trong ngày.

    Chữa suy nhược thần kinh

    Nguyên liệu gồm: long nhãn và vị thuốc khiếm thiệt (mỗi thứ 20gr).
    Cách chế biến: cho hai loại trên vào nấu cùng một lượng nước vừa đủ để dùng trước khi đi ngủ.

    Chữa chứng phù sau khi sinh

    Nguyên liệu gồm: long nhãn, táo Tàu, gừng tươi và hai vị thuốc phục linh, mễ nhân (mỗi thứ 10gr).
    Cách chế biến: đem tất cả cho vào chung cùng một lượng nước vừa đủ để nấu lấy nước uống.

    Chữa chảy máu do chấn thương Dùng hạt long nhãn khô tán mịn rồi đắp lên vết thương.

    Chữa bỏng Lấy vỏ khô của trái nhãn tán thành bột rồi trộn với dầu vừng để bôi lên chỗ bỏng
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  14. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Mùa hè nên ăn nhiều hạt đậu
    Cập nhật lúc 14h05" , ngày 03/05/2007


    Đậu đen có tác dụng giải độc và giải nhiệt rất tốt trong mùa hè


    Thời tiết ở miền Bắc đang vào hè, ăn uống đã trở nên khó khăn cho các bà nội trợ. Làm thế nào để gia đình vừa có bữa ăn ngon, món ăn lại có tính chất mát và bổ? Xin giới thiệu một số món ăn, bài thuốc về các hạt đậu.


    Đậu xanh: Tiếng Hán gọi là lục đậu. Theo Đông y, hạt đậu xanh vị ngọt mát, hơi tanh có tác dụng giải nóng, tiêu khát, trừ bỏ phù thũng, lợi tiểu, chữa lở loét...

    Giá đỗ: Hạt đậu xanh ủ lên mầm được gọi là giá đỗ. Người ta thường ăn giá đậu sống, xào và muối chua. Giá đậu có vị hơi nhạt, hơi the, tính mát, tác dụng vào hai kinh bàng quang và tỳ. Giá đậu có tính thanh nhiệt, giải độc, chỉ khát. Ngoài ra, giá đậu còn cung cấp vitamin C và E.

    Cháo đậu xanh: Đậu xanh xay nấu cả vỏ cùng gạo. Đây là món ăn rất tốt cho mùa hè, có thể ăn cháo đậu xanh với đường hay muối (nước mắm). Cháo đậu xanh trị tiêu khát, uống nhiều nước, giải độc, nóng, lợi tiểu, thanh nhiệt, hạ khí.

    Kết hợp đậu xanh, đậu đen, đậu đỏ, mỗi thứ 300g nấu chung với cam thảo, ăn cả bã lẫn nước trong vòng 7 ngày có thể tránh được các chứng bệnh mùa hè.

    Đậu tương (đậu nành): Đậu tương chứa 40% protit, 20% lipit. Người ta cho rằng đậu tương là “thịt chay” vì thế nên chỉ dùng ở mức độ vừa phải. Ngoài ra, trong đậu tương có rất nhiều muối khoáng và các vitamin B1, B2, E...

    Đậu phụ: là chế phẩm được làm từ đậu tương, đậu phụ vị ngọt, tính mát, nhuận tràng, bổ trong, giải độc. Đậu phụ thích hợp với mọi lứa tuổi, là món ăn chủ đạo trong ăn chay.

    Giá đậu nành: Đối với phụ nữ, ăn giá đậu nành xào tái thêm một chút gừng có thể cải thiện được mái tóc, làm cho mái tóc óng mượt và còn có thể làm giảm béo vì trong giá đậu nành có rất nhiều vitamin C, caroten, chất khoáng.

    Cháo đậu tương: Đậu tương ngâm nước, đãi vỏ sạch, cùng với một ít gạo nấu nhừ thành cháo. Cháo đậu tương giúp nhuận phế, tiêu đầy trướng hơi, lợi tiểu.

    Đậu tương là thức ăn rất cần thiết cho trẻ nhỏ, đặc biệt là những trẻ chậm phát triển, người bệnh đái tháo đường, bệnh gút.

    Đậu đen: Còn gọi là hắc đậu, đại đậu, ô đậu. Theo “Nam dược thần hiệu” đậu đen vị ngọt, tính hàn, bổ thận, gan, máu. Đậu đen trị được nhiều bệnh như trừ phong nhiệt, giải độc, giải nhiệt và dùng làm thuốc bổ dưỡng. Đậu đen rất thích hợp với người thận yếu hư, suy nhược khi cảm nặng, là món ăn giải nhiệt rất tốt trong mùa hè.

    Cháo đậu đen: Đậu đen ngâm nước 2 giờ, cho thêm một ít gạo nấu nhừ thành cháo. Ăn nóng hay ăn nguội tùy thích. Khi ăn kết hợp với đậu phụ rán. Đây là món ăn giúp lợi tiểu, giải nhiệt rất tốt, thích hợp với mọi lứa tuổi.

    Một số bài thuốc từ hạt đậu đen:

    Chữa kiết lỵ: đậu đen, muối rang, nước rau má. Đậu đen rang cháy tán thành bột trộn với muối rang. Khi uống kết hợp với nước rau má tươi cô đặc. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 40g.

    Chữa đại tiện ra máu: đậu đen tươi nấu chín, không cho thêm đường hay muối, ăn cả bã lẫn nước, rất hiệu nghiệm. Hoặc: đậu đen, củ mài, quế chi, đại hồi rang chín tán nhuyễn thành bột mịn, ăn hằng ngày vào buổi sáng và tối, mỗi lần ăn một chén con, có thể cho thêm đường.

    Đậu đỏ: có tên là xích đậu. Theo y học cổ truyền, đậu đỏ có vị ngọt chua, tính bình, không độc. Đậu đỏ trị được các chứng mụn lở, thủy thũng, đi tả, đau buốt cơ thể, nôn mửa...

    Cháo đậu đỏ: Giúp tiêu phù nước tiểu, lợi tiểu tiện, tránh độc.

    Cháo đậu đỏ nấu như cháo đậu xanh, đậu đen.

    Đậu đỏ trị chứng quai bị: một vốc đậu đỏ tán thành bột mịn rồi trộn với lòng trắng trứng, thêm một ít giấm, xoa đều là khỏi.

    Đậu đỏ trị chứng u, nhọt mới phát: đậu đỏ tán bột trộn với nước bôi lên nhọt mới sưng sẽ khỏi.

    Đậu ván trắng: Còn gọi là bạch biển đậu, bạch đậu: đây là hạt của cây đậu ván trắng đã chín phơi khô. Đậu ván trắng có tác dụng chống ngộ độc thức ăn, nôn mửa, viêm dạ dày và ruột cấp. Bạch biển đậu có vị ngọt, hơi ôn, không độc vào hai kinh tỳ và vị chủ trị hòa trung, hạ khí. Dùng bạch biển đậu làm thuốc bổ tỳ vị, thuốc chữa các chứng đau bụng, giải độc, trúng độc.

    Chữa đau bụng: Lá hương nhu 80g, bạch biển đậu sao bỏ vỏ 40g. Tán nhỏ làm thành viên, mỗi lần dùng 1-2 viên.

    Chữa trúng độc: Dùng bạch biển đậu 20g giã sống, thêm nước vắt lấy nước uống.

    Chữa bạch đới: Hoa giấy 15g, vỏ quả lựu 10g, đậu ván trắng 30g, trắc bách diệp 15g sắc uống, ngày một thang chia 3 lần, uống liền trong vòng 5 ngày
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  15. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chữa bệnh bằng nước dừa
    Cập nhật lúc 13h07" , ngày 18/04/2007





    Để chữa khản tiếng, bạn có thể lấy nước dừa non 1 cốc, rau má 8 g; giã rau má, vắt lấy nước cốt pha với nước dừa uống.

    Nước dừa ngọt ấm, không độc, giúp tăng cường khí lực, tươi nhuận nhan sắc, trị cảm nắng, thủy thũng, thổ huyết, máu cam.

    Trái dừa được xem là loại quả “kỳ diệu”, có gần như toàn bộ chất dinh dưỡng cần thiết cho cơ thể. Protein dừa gồm các acid amin có chất lượng cao, nhiều vitamin trong nhóm B và các vitamin khác. Nước dừa cũng giàu chất khoáng; hàm lượng kali và magiê tương tự dịch tế bào của người nên thường được dùng cho bệnh nhân tiêu chảy. Tổ chức Y tế Thế giới khuyến khích cho trẻ em tiêu chảy uống nước dừa pha muối.

    Nước dừa làm đẹp da, đen mượt tóc. Nhân dừa non (mềm như thạch) chứa nhiều enzym tốt cho tiêu hóa, dùng chữa các bệnh viêm loét dạ dày, viêm gan, đái tháo đường, lỵ, trĩ, viêm đại tràng.

    Nước quả dừa xanh còn non được các nhà khoa học gọi là “nước khoáng thực vật” vì chứa nhiều vi lượng khoáng cần thiết cho cơ thể và đường ở dạng dễ tiêu hóa, lượng vitamin C đủ cho yêu cầu 1 ngày, cùng các loại vitamin B như axit folic. Nước dừa được dùng làm dịch truyền trong nhiều cuộc chiến tranh.

    Dừa được xem là món ăn trường xuân của người Philippines. Họ chế biến thứ đồ uống gọi là Nata dừa, gồm có nước dừa, đường, giấm, và “nước cái” (chứa vi khuẩn giúp lên men). Cựu tổng thống Philippin Fidel Romos cho rằng, nhờ ăn hằng ngày món này, ông thấy mình trẻ lại như ở tuổi 20. Nata dừa đã trở thành món tráng miệng cao cấp ở Nhật và được xem là có tác dụng ngừa ung thư.

    Lưu ý: Nước dừa lấy ra khỏi quả sẽ bị mất khí vị, cho nên cứ để nguyên quả mà uống. Tốt nhất là nên uống ngay tại gốc vừa chặt, tránh thả dừa xuống đất.

    Mới đi nắng về, đang đói mệt không nên uống nước dừa, nhất là người đang có bệnh vì dễ bị những tác dụng phụ như sốt, ớn lạnh… Trước khi thi đấu thể thao, không nên uống nước dừa. Bình thường, mỗi ngày chỉ nên uống một quả. Uống nhiều sẽ gây đầy bụng, nhất là khi có kèm cơm dừa nạo, đá lạnh và uống vào chiều tối.

    Một số cách dùng nước dừa bảo vệ sức khỏe

    Kiết lỵ cấp tính: Rau má 50 g, nước dừa tươi một quả. Rửa sạch rau má, giã nhỏ, vắt lấy nước, pha với nước dừa uống. Mỗi ngày một quả.

    Nôn mửa: Nước dừa 2 chén, rượu nho 1 chén, nước gừng 10 giọt, trộn đều uống.

    Lợi tiểu giải độc: Nước dừa non có tác dụng lợi tiểu trong các bệnh tim mạch, thận.

    Viêm thận phù nề: Nước dừa, nước rễ cỏ tranh, nước rễ cỏ lau. Mỗi thứ 30 g, trộn đều uống.

    Tẩy sán lá: Có tác dụng an toàn và hiệu lực hơn hạt cau. Không cần thuốc tẩy. Buổi sáng chưa ăn lấy 1/2 quả dừa, uống nước và ăn cho hết cùi dừa. Sau 3 giờ, ăn uống bình thường (thức ăn lỏng).

    Canh dừa khử độc rượu, bôi trơn khớp: Những người thường xuyên uống bia rượu hay cảm thấy đau nhức ở các khớp, hoạt động khó khăn hoặc khi hoạt động, các khớp có tiếng kêu. Để chữa khỏi, nên uống canh dừa. Lấy một quả dừa cắt ngang phần trên làm nắp: 20g đậu đen vo sạch cho vào trong quả dừa rồi đậy nắp lại, đặt lên 1 cái đĩa. Đặt cả dừa và đĩa vào nồi, chưng trong 4 giờ. Sau đó, có thể cho ít muối tùy ý để uống canh dừa. Mỗi tháng chỉ cần uống 1-2 lần thì chứng đau khớp sẽ hết, các khớp sẽ hoạt động mềm mại trở lại.

    Nước dừa non trị chứng cam (bụng ỏng, đít teo, suy dinh dưỡng ở trẻ): Nước dừa dùng nấu xôi, luộc gà… làm tăng vị thơm ngon và bổ dưỡng, thích hợp cho người gầy yếu. Người khỏe mạnh buổi sáng uống nước 1 quả dừa xiêm cũng rất tốt
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  16. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Nước giải khát chữa bệnh
    Cập nhật lúc 14h33" , ngày 12/04/2007


    Cây rau má


    Mùa hè đã đến, những cốc nước mát lạnh sẽ làm xua đi cơn nóng nực. Một số đồ uống không chỉ giải khát mà còn có tác dụng chữa trị những bệnh thông thường rất hiệu quả, và ngăn ngừa một vài bệnh.

    Nước mía

    Cây mía còn có tên khác là cam giá (cam: ngọt, giá: cái gậy). Nước mía có khoảng 20% đường, ngoài ra còn có một ít acid hữa cơ như citric, malic, tartric… và các chất vô cơ. Nước mía có tác dụng giải khát, sinh tân dịch, bổ dưỡng, nhất là bổ tỳ vị. Vào mùa hè dùng nước mía cùng với vắt thêm 1 chút cam hoặc chanh, quất thì ngon tuyệt. Nước mía pha gừng trị được bệnh nôn khan, giải nhiệt tốt. Đây là một loại nước giải khát tốt và rất phổ biến, nên dùng nước mía ép ngay để đảm bảo vệ sinh.
    Nước rau má

    Rau má có vị nhạt, hơi cay, tính mát, không độc, có tính thanh nhiệt, giải độc, nhuận gan lợi tiểu, tiêu viêm. Rau má rửa sạch cho vào máy say sinh tố với một ít nước và vài hạt muối tinh, chúng ta sẽ có một cốc nước giải khát đặc biệt. Để trị bệnh, mỗi cốc chỉ cần 30 - 40g lá tươi xay ra là được. Đôi khi, người ta dùng rau má làm rau ăn như các loại rau khác. Ngoài ra, lá rau má giã nát đem đắp lên các vết thương sẽ có tác dụng làm cho vết thương mau lành. Những người muốn làm lành vết loét bao tử chỉ cần uống nước ép rau má một cách thường xuyên sẽ thấy hiệu nghiệm.

    Nước sắn dây

    Bột sắn dây hòa với đường là một loại nước uống giải khát khá tốt trong mùa hè. Sắn dây có vị ngọt nhạt, tính bình, không độc, có tác dụng vào hai kinh tỳ vị. Sắn dây có tác dụng sinh tân, thanh nhiệt giải độc và làm ra mồ hôi. Sắn dây dùng để trị ngoại cảm, sốt, nôn, mửa, đái đường và giải độc rượu. Người bệnh đái đường nên uống nước nấu củ sắn dây. Sau khi lao động ngoài nắng, uống bột sắn dây vừa có tác dụng giải khát vừa phòng ngừa cảm nắng. Tinh bột có trong sắn dây làm tăng lượng máu lên não, lưu lượng máu ở động mạch tăng và giảm huyết áp. Bột sắn dây có thể dùng để trị đau quặn tim do thắt động mạch vành, hạ huyết áp.

    Trà hoa cúc

    Cúc vàng có vị ngọt, đắng và cay. Hoa cúc dùng để trị chứng nhiệt, có khả năng đối kháng với nhiều loại vi trùng. Người ta dùng hoa cúc để giải cảm, nhức đầu, đau mắt, giúp nhanh tỉnh rượu, trị cao huyết áp và bệnh đái đường.

    Nước Atiso

    Hiện nay, Atiso được bán rất nhiều trên thị trường Việt Nam. Trà Atiso có tác dụng giải nhiệt, trị mất ngủ, đặc biệt là trị bệnh đái đường.

    Trà kim ngân

    Hoa kim ngân là vị thuốc rất hay dùng trong đông y. Nó có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, làm dịu các kích thích, chống co thắt, chống dị ứng. Người ta thường dùng trà kim ngân để trị nóng sốt, dị ứng, rôm sảy. Dây kim ngân nấu trà uống có tác dụng kháng sinh thanh nhiệt, giải độc. Người bệnh đái đường không nên dùng cây này.

    Thổ phục linh (hay còn gọi là cây khúc khắc)

    Nó có vị ngọt nhạt, mùi đặc biệt, có tính khử phong thấp, lợi gân cốt, giải độc, lọc máu, kích thích tiêu hoá.

    Sương sâm

    Sương sâm lấy lá già rửa sạch, cho vào túi vải, vò, vắt trong khoảng 2 lít nước sạch rồi lọc. Khoảng nửa giờ sau, dịch lá sẽ đông như rau câu. Sương sâm ăn với đường có tính mát. Người bệnh đái đường nên ăn loại này. Người béo mập nên ăn sương sâm nhạt, vì nó ít khả năng sinh nhiệt mà lại làm giảm cơn đói
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  17. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Vị thuốc từ quả đào
    Cập nhật lúc 15h40" , ngày 13/01/2006





    Khi bị yếu phổi, hen suyễn, ra mồ hôi trộm, có thể dùng đào chín tươi một quả bỏ hạt, xay nhuyễn, thêm 50 gam gạo tẻ, nấu thành cháo hoặc thành cơm, ăn với đường kính. Ðào tươi ăn mỗi ngày 2-3 lần có thể chữa bệnh phù thũng.

    Ðào còn gọi là quả sơn đào, mao đào, bạch đào... là quả của cây đào.

    Quả thuộc họ hoa hồng. Tính ôn, vị ngọt, hơi chua. Thành phần chủ yếu có các loại protein, chất béo, các loại đường glucose, glucosa, đường saccarose. Quả đào được đánh giá tốt phải to, vị ngọt thơm ngon.

    Tác dụng: Sinh tân dịch, nhuận tràng, hoạt huyết, hạ huyết áp, chữa chứng khó thở, ho ra đờm, liễm phế, tiêu ứ. Chủ yếu dùng điều trị chứng táo bón, kinh nguyệt không đều, ho, khô mồm, khô lưỡi, cao huyết áp...

    Cách dùng: Ăn tươi hoặc chế biến thành đào khô, ngâm với mật để dùng.

    Kiêng kị: Ăn nhiều thì bị nóng, người mắc bệnh về nhiệt không nên ăn nhiều.

    Chữa trị:

    1. Kinh nguyệt không đều, ho do lao lực: Ðào tươi nhúng vào nước sôi, sau đó bóc vỏ, bỏ hạt, xay nhuyễn, thêm một chút mật (đường đỏ), chế thêm nước sôi vào ăn.

    2. Ðại tiện, táo bón, khô miệng, khô lưỡi, cao huyết áp: Ðào tươi rửa sạch, ăn sống, hoặc dùng đào khô sắc nước uống.

    3. Yếu phổi, thở gấp, hen xuyễn, ra mồ hôi trộm: Ðào chín tươi một quả. Rửa sạch, bỏ hạt, xay nhuyễn, thêm 50 gam gạo tẻ, nấu thành cháo hoặc thành cơm, ăn với đường kính. Mỗi ngày dùng vào buổi sáng và buổi tối.

    4. Phù thũng: Ðào tươi ăn mỗi ngày 2-3 lần, mỗi lần 1-2 quả
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  18. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Cây me - thuốc cho bà bầu
    Cập nhật lúc 22h11" , ngày 08/01/2006


    Phụ nữ có thai nên dự trữ quả me trong nhà vì nó không những thỏa mãn cơn thèm chua mà còn giải quyết nhiều triệu chứng khó chịu do thai nghén mang lại.

    Me có vị chua, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, giải nắng, tiêu hóa thức ăn, giải khát, chống nôn oẹ.

    Phụ nữ có thai chán cơm hay nôn do nghén có thể ăn mứt quả me hoặc sắc quả me lấy nước uống nhiều ngày.

    Táo bón cũng là chứng bệnh hay gặp ở thai phụ. Có thể giải quyết bằng cách dùng gỗ cây me 100 g, sắc uống hằng ngày thay nước chè (bài thuốc này cũng có thể dùng cho người già táo bón). Nước sắc gỗ cây me có tác dụng nhuận tràng, lợi tiểu.

    Vỏ cây me sắc uống, chữa lỵ, ngậm nước sắc này chữa viêm lợi, răng (chứng này cũng thường nặng lên khi mang thai).

    Lá me nấu nước tắm giúp chữa khỏi lở, ngứa. Các bà mẹ nên dự trữ để phòng bệnh ngoài da cho trẻ nhỏ

    Nguồn :vnmedia.vn
     
  19. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Ngải cứu - vị thuốc của chị em
    Cập nhật lúc 08h48" , ngày 03/01/2006





    Người đang có thai nếu thấy đau bụng, ra máu thì có thể dùng lá ngải cứu 16 g, tía tô 16 g, cho 600 ml nước sắc còn 100 ml, thêm chút đường, chia 3-4 lần uống trong ngày. Ngải cứu có tác dụng an thai.

    Ngải cứu còn gọi là ngải diệp, tên khoa học là Artemisia vulgaris L. thuộc họ cúc. Quanh năm đều có ngải cứu nhưng tốt nhất là hái cành và lá vào tháng 6 (gần tương ứng với mồng 5 tháng 5 âm lịch), phơi khô trong râm mát. Có khi hái về phơi khô, tán nhỏ, rây lấy phần lông trắng và tơi gọi là ngải nhung, dùng làm mồi cứu để kích thích huyệt trong phương pháp châm cứu.

    Ngải cứu có tính ôn, hơi cay, dùng điều trị đau bụng kinh, kinh nguyệt không đều, động thai, thổ huyết...

    Làm thuốc điều kinh: Một tuần trước ngày kinh dự kiến, lấy mỗi ngày 6-12 g (tối đa 20 g) sắc với nước hoặc hãm với nước sôi như trà, chia làm 3 lần uống trong ngày. Có thể uống dưới dạng bột (5-10 g) hay dạng cao đặc (1-4 g). Thuốc không có tác dụng kích thích với tử cung có thai nên không gây sảy thai.

    Kinh nguyệt không đều: Hằng tháng đến ngày bắt đầu kỳ kinh và cả những ngày đang có kinh, lấy ngải cứu khô 10 g, thêm 200 ml nước, sắc còn 100 ml, thêm chút đường chia uống 2 lần/ngày. Có thể uống liều gấp đôi, cũng 2 lần/ngày. Sau 1-2 ngày thấy hiệu quả, người đỡ mệt, máu kinh đỏ và ít hơn
    Nguồn :vnmedia.vn
     
  20. EnCon

    EnCon Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/8/2007
    Bài viết:
    1,320
    Đã được thích:
    358
    Điểm thành tích:
    123
    Chữa bệnh chàm bằng Đông y
    Cập nhật lúc 08h41" , ngày 03/01/2006





    Bệnh chàm (eczema) là rất khó chữa. Việc kết hợp một số loại thuốc y học cổ truyền có thể hạn chế phần nào căn bệnh gây ngứa dai dẳng này, chẳng hạn như ngải cứu, kinh giới, kim ngân hoa, phèn xanh...

    Chàm là một loại tổn thương mãn tính ngoài da, có tính dai dẳng. Đặc điểm của bệnh là có mụn nước, rất ngứa và thường thì vùng da bệnh bị sừng hóa dày lên. Việc dùng thuốc y học dân tộc (thuốc uống tiêu độc, nâng thể trạng và thuốc ngâm rửa, bôi ngoài chống nhiễm trùng, làm lành vết thương) kết hợp chiếu đèn hồng ngoại cho hiệu quả khá tốt. Tùy theo bệnh nặng nhẹ mà có thời gian điều trị thích hợp, thường trong khoảng 1-3 tháng.

    Thuốc uống giải độc, tiêu viêm, nâng thể trạng: Củ kim cang, huỳnh kỳ, sâm đại hành, đẳng sâm mỗi thứ 15 g; thổ phục linh, kim ngân hoa, vỏ núc nác (hay hoàng bá), phòng phong, bồ công anh mỗi thứ 10 g. Nước nhất đổ 600 ml, sắc còn 200 ml. Nước nhì cũng vậy. Nếu bị tiêu chảy gia thêm 1 củ gừng (xắt lát) vào thang thuốc. Uống liên tục đến khi vết chàm khô, hết ngứa và không còn tái phát nữa. Bệnh nặng có thể dùng 30-50 thang, chia làm nhiều đợt. Mỗi đợt khoảng 1 tuần lễ.

    Thuốc ngâm, rửa vết chàm: Ngải cứu 50 g, xà sàng tử 20 g, kinh giới 10 g, vỏ núc nác 50 g, phèn xanh 5 g. Cho các vị trên vào 3-4 lít nước, nấu sôi để nguội, ngâm vùng bị chàm chừng 10 phút, ngày ngâm vài lần. Mỗi đợt chừng 5-7 ngày. Liên tục đến khi vết chàm không còn tái phát. Có thể dùng thang thuốc trên đem ngâm 1 lít rượu 30 độ, dùng để thoa trên các vết chàm.

    Rọi đèn hồng ngoại: Dùng đèn hồng ngoại rọi trên vùng da bị vết chàm hằng ngày, mỗi lần chừng 10-15 phút. Bệnh chàm thường tái phát vài lần, nên việc điều trị phải kiên nhẫn.

    Bệnh nhân chàm da cần hạn chế ăn thức ăn cay nóng, nhiều chất kích thích như: Rượu, cà phê, ớt, tiêu, tôm, cua. Không nên thoa các loại thuốc mỡ có salicylic, corticoid, flucinar… vì khi mới dùng, các loại thuốc trên sẽ làm hết ngứa ngay, nhưng càng lâu thì bệnh sẽ phát nặng hơn.
    Nguồn :vnmedia.vn
     

Chia sẻ trang này