Thông tin: Y thuật Ấn Độ: Ayurveda Ðiều trị con người thay vì con bệnh

Thảo luận trong 'Sức khỏe gia đình' bởi thuong.kl, 17/12/2012.

  1. thuong.kl

    thuong.kl Em ĐẸP không cần son phấn

    Tham gia:
    14/12/2012
    Bài viết:
    1,620
    Đã được thích:
    386
    Điểm thành tích:
    123
    Trải qua hơn 4.000 năm lịch sử, đến nay y thuật Ấn Độ Ayurveda đã trở thành một trường phái y học có đầy đủ lý luận và thực hành, được WHO công nhận. Hiện, Ayurveda rất phát triển ở Ấn Độ cũng như một số nước phương Tây.


    Khôi phục từ “gốc”

    Ayurveda cho rằng: đặc tính bẩm sinh quan trọng nhất của cơ thể là khả năng tự chữa bệnh. Nhờ đó, cơ thể hồi phục lại các chức năng tự nhiên của nó. Muốn đặc tính này không bị lấn át, phát huy hiệu quả trong cả một đời người, Ayurveda khuyên con người cần phải biết cách sống hòa hợp với thiên nhiên.
    Theo Ayurveda, con người và thiên nhiên đều chứa 5 thành phần cơ bản là: khí, nước, lửa, đất và trời, tương tự như kim, mộc, thủy, hỏa, thổ trong Đông y. Trong cơ thể người, các yếu tố này hòa quyện hài hòa với nhau tạo thành 3 thể dịch hay còn gọi là doshas (vata, pitta và kapha).

    Ba dịch thể này ảnh hưởng đến tất cả các chức năng sinh học, tâm lý học và sinh lý bệnh học trong thể chất, tinh thần và ý thức con người. Chúng là cái “gốc” của cơ thể. Sự vận chuyển suôn sẻ của 3 dịch thể sẽ tạo thành những trụ cột cho một sức khỏe hoàn thiện và lành mạnh: âm dương hòa hợp, bài tiết đều đặn, giấc ngủ êm đềm, tiêu hóa tốt… Và một khi doshas mất đi sự cân bằng thì đau ốm, bệnh tật sẽ xuất hiện.
    Chính vì vậy, Ayurveda đã dùng nhiều cách khác nhau như ăn kiêng (hay nhịn ăn), tập thể dục, yoga, thiền định, dùng thảo dược, mát-xa, xông hơi, tiếp xúc ánh sáng mặt trời, khí công (kiểm soát hơi thở) và tẩy độc cơ thể để làm 3 thể dịch doshas hài hòa, cân bằng trở lại như trạng thái bẩm sinh, kích thích khả năng tự chữa bệnh của cơ thể hoạt động trở lại hoặc hoạt động hiệu quả hơn.
    Tuy vậy, Ayurveda không thể chữa khỏi những bệnh viêm nhiễm cấp tính - như viêm ruột thừa chẳng hạn, bởi bệnh này nhất thiết phải cần đến phẫu thuật. Điều quan trọng hơn, Ayurveda hướng dẫn mọi người phương pháp dưỡng sinh hiệu quả trong cuộc sống hằng ngày nhằm bảo vệ sức khỏe, tránh được bệnh tật như: nên ăn gì, cần thư giãn thế nào, phải tĩnh tâm ra sao. Chính vì thế, Ayurveda còn được coi là “môn khoa học giúp con người sống mạnh khỏe và trường thọ”.

    Các liệu pháp cơ bản

    Ayurveda sử dụng thảo dược được trồng trên núi Hymalya, sữa và các hợp chất tự nhiên khác. Ayurveda lưu giữ trong danh mục sưu tập gần 5.000 năm của mình hơn 10.000 dược thảo, cũng tức là hơn 10.000 hoạt chất khác nhau. Các hoạt chất này được dùng trong xông hơi, mát-xa, ăn uống… với nhiệm vụ kích thích hệ miễn nhiễm của cơ thể hoạt động có hiệu quả nhất, đẩy lùi sự xâm nhập của bệnh tật, hoặc trực tiếp khắc phục nguyên nhân gây bệnh.
    Bước khởi đầu của Ayurveda là thải độc ra khỏi cơ thể. Có thể thải độc bằng chế độ ăn uống, tức đào thải chất độc ra khỏi cơ thể qua đường tiêu hóa, làm tăng cường sức đề kháng của ruột. Cũng có thể thải độc bằng xông hơi, tắm nước nóng pha dược liệu, mát-xa với dầu mè… Độc tố được đẩy ra khỏi cơ thể qua hệ thống lỗ chân lông. Phương pháp xổ độc không chỉ làm thanh lọc cơ thể mà còn kích thích sức mạnh tự chữa bệnh của cơ thể.

    Một liệu pháp hết sức hiệu nghiệm của Ayurveda là “thiền tĩnh tâm”, tạo sự cân bằng cho tâm hồn, hệ thần kinh, giúp cơ thể có khả năng “chịu tải” cao hơn trước các áp lực của cuộc sống; tăng cường sức đề kháng cho cơ thể và tăng sự tự chủ.
    Y thuật Ayurveda có hẳn những hướng dẫn riêng về việc sử dụng nước và hơi nước để chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh. Thông qua các cách xông hơi, tắm hơi, ngâm mình trong nước có hòa các tinh dầu dược liệu có thể giải độc cơ thể, thư giãn cơ bắp, giúp tinh thần minh mẫn. Dưới tác động của nước và hơi nước, cơ thể sẽ dễ dàng giải phóng mọi áp lực và các độc tố gây hại cho sức khỏe ra ngoài, giúp phòng tránh được nhiều bệnh nguy hiểm.
    Phương pháp mát-xa bằng dầu mè của Ayurveda cũng được đánh giá là có hiệu quả cao. Phương pháp mát-xa này làm giảm thiểu stress trong cơ thể, kích thích cơ thể tiết hormon tình dục oxytocin và đặc biệt là hormon khoái cảm endorphin.

    Chế độ ẩm thực là một liệu pháp chủ đạo của y thuật Ayurveda. Ayurveda coi cơ thể người như một bộ phận hữu cơ của tự nhiên, sống cùng nhịp độ tự nhiên. Những “thức ăn” của Ayurveda không phải là ngẫu nhiên: có loại khi ăn vào thì tiêu độc cho cơ thể, loại khác giúp cho tế bào trẻ lại, loại nữa tăng cường sự trao đổi chất và như vậy là tăng cường sức đề kháng. Căn cứ vào môi trường sống tự nhiên và từng giai đoạn phát triển của cơ thể mà Ayurveda đưa ra các món ăn, thức uống thích hợp.

    Nhưng trên hết, đúng như thuyết lý khởi thủy mà Ayurveda đưa ra: dù có áp dụng liệu pháp nào thì điều quan trọng nhất vẫn là lý trí của con người. Một lý trí lạc quan, vững vàng sẽ giúp người ta có niềm tin vào tác dụng chữa bệnh của các liệu pháp cũng như tin vào người thực hành liệu pháp. Đây mới chính là “phương thuốc trời ban” để đẩy lùi bệnh tật!

    Theo Sức khỏe & Đời sống
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi thuong.kl
    Đang tải...


  2. thuong.kl

    thuong.kl Em ĐẸP không cần son phấn

    Tham gia:
    14/12/2012
    Bài viết:
    1,620
    Đã được thích:
    386
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Y thuật Ấn Độ: Ayurveda Ðiều trị con người thay vì con bệnh

    LIỆU PHÁP HƯƠNG THƠM AYUVERDA

    Ayurveda là phương pháp thư giãn có từ thời xa xưa của y học Ấn Độ. Nó sử dụng các loại tinh dầu thiên nhiên để xoa dịu hệ thần kinh, tác động đến các giác quan và toàn bộ cơ thể, làn da bạn.

    Theo ngôn ngữ Ấn Độ, Ayurveda có nghĩa là “khoa học sự sống”. Các tài liệu bằng văn tự về Ayureda đã có cách đây 4.000 năm. Và từ hơn 40.000 năm trước, người Ấn đã truyền miệng nhau liệu pháp hương thơm này.

    Ayurveda tác động đến sự cân bằng về thể chất, giác quan, tinh thần và cả tâm linh của bạn bằng nhiều thao tác khác nhau. Liệu pháp này sử dụng bột thảo mộc hòa tan với nước, các tinh dầu thiên nhiên, phổ biến nhất là tinh dầu hoa hồng, nước thuốc sắc từ thảo mộc hòa với nước sôi… Tất cả dựa trên 3 nguyên tắc được lưu truyền: sự kết hợp giữa trời và đất, lửa với nước, đất với nước.

    Massage toàn thân với tinh dầu

    Sức nóng được sản sinh ra từ các động tác đánh và ấn nhẹ giúp xoa dịu các cơ đang đau nhức, giải độc tố và lưu thông khí huyết.

    Nguồn thảo dược phổ biến dùng để thoa lên da khi massage gồm: hạt thì là, hạt tiêu đen, gừng, bột nghệ, hoa hồng, hạt rau mùi, bột gỗ giáng hương, chanh, lá trầu, lá cà ri.

    Massage đầu nhờ dòng chảy của tinh dầu

    Điểm đặc biệt của liệu pháp Ayureda là dùng dòng chảy của tinh dầu để xoa dịu các giác quan. Ngôn ngữ Ấn gọi massage đầu là Shiro abhyanga (”Shiro” có nghĩa là đầu và “abhyanga” được hiểu là massage).

    Khi bạn massage đầu cũng có nghĩa là bạn đang tác động lên toàn cơ thể. Vùng đầu là trung tâm của hệ thống thần kinh, do vậy toàn bộ hệ thống này sẽ được xoa dịu.

    Theo người Ấn, não là cơ quan đầu tiên dẫn đến sự phát triển của bào thai. Về sau, nó là điểm mềm trên đầu của đứa bé, y học gọi là thóp. Bạn có thể quan sát thấy thóp của đứa trẻ mới sinh nở ra và co lại đều đặn. Trong yoga, não được xem là cổng ra thứ 10 của cơ thể, nơi đứa trẻ có thể nhận được nguồn năng lượng từ môi trường xung quanh nó.

    Tinh dầu ngấm vào chân tóc, chân tóc kết nối với các sợi thần kinh truyền thực tiếp vào não và tế bào thần kinh.

    Liệu pháp Ayurveda ở thẩm mỹ viện

    Đến các mỹ viện, bạn sẽ được massage bằng phương pháp nhân điện, sau đó sẽ tận hưởng sự thư giãn từ dòng tinh dầu. Trong không gian thoáng mát, có ánh nến thơm và âm hưởng du dương của các bản hòa tấu, bạn như lạc vào thế giới không phiền muộn.

    Nguồn nguyên liệu Ayurveda

    Bạn có thể tìm thấy các nguyên liệu quen thuộc: hạt tiêu đen, gừng, chanh, dưa leo, bột nghệ,… trong tủ bếp nhà mình. Tinh dầu hạt cây rau mùi kết hợp với tinh dầu thư giãn là một bài thuốc tuyệt diệu dành cho những người đang bị đau đầu. Hỗn hợp này có đặc tính là làm mát.

    Tinh dầu vừng là một dưỡng chất giữ ẩm tuyệt vời. Khi nó kết hợp với cây húng quế, gỗ giáng hương sẽ cho tác dụng kích thích tóc mọc.

    Tinh dầu gừng giúp tăng cường sức khỏe, khích lệ sự tự tin.

    Tinh dầu chanh làm dịu sự căng thẳng, bồn chồn, cáu kỉnh, lo lắng.

    (theo TT&GĐ)
     
  3. thuong.kl

    thuong.kl Em ĐẸP không cần son phấn

    Tham gia:
    14/12/2012
    Bài viết:
    1,620
    Đã được thích:
    386
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Y thuật Ấn Độ: Ayurveda Ðiều trị con người thay vì con bệnh

    Dược thảo trị tiểu đường theo Ayurveda

    Bạn Hồ Thị Y. ở quận 8, TP.HCM hỏi: Tại sao một tờ báo giới thiệu “Hột Methi - vị cứu tinh của bệnh nhân tiểu đường”: tôi có dùng thử và mới đầu thấy giảm đường huyết rõ rệt, nhưng sau vài tháng thì không còn tác dụng nữa?

    Y học cổ truyển Ayurveda Ấn Độ là liệu pháp dùng dược thảo, có khi bổ sung thêm chất khoáng, kết hợp với vài liệu pháp khác của y học song song chứ không phải chỉ có “khứ y tồn dược” (chỉ dùng dược thảo) như người ta thường làm, thì việc dùng thuốc mới hiệu quả.

    Quan niệm Ayurveda về cá thể con người và sức khỏe

    Y học cổ truyền Ayurveda có nguồn gốc xuyên suốt hơn 3.000 năm, Ayurveda nhằm phục hồi sự hài hòa bẩm sinh của từng cá thể con người trong vũ trụ. Bao gồm toàn bộ hệ thống chăm sóc sức khỏe cổ truyền, nhấn mạnh mối liên hệ giữa thể xác, tinh thần và trí tuệ với thiên nhiên.

    Ayurveda khuyên con người phải sống hòa hợp với thiên nhiên. Con người và thiên nhiên đều chứa 5 thành phần cơ bản là Khí, Nước, Lửa, đất và trời, tương tự như Kim, Mộc, Thủy, hỏa, thổ trong đông y. Trong cơ thể con người, các yếu tố này hòa quyện hài hòa với nhau tạo thành 3 thể dịch hay còn gọi là doshas (vata, pitta, và kapha). Doshas ảnh hưởng đến tất cả chức năng sinh học, tâm lý học và sinh lý bệnh học trong thể chất, tinh thần và ý thức. Chúng là gốc con người, và sự thiếu cân bằng dosha sẽ đem lại sự đau ốm. Vì thế liệu pháp Ayurveda chính yếu là làm cho hài hòa 3 thể dịch doshas bằng cách ăn kiêng (hay nhịn ăn), tập thể dục, yoga, thiền định, dùng thảo dược, massage, tiếp xúc ánh sáng mặt trời, khí công (kiểm soát hơi thở) và tẩy xổ (giải độc nếu cần).

    Ayurveda chẩn đoán và điều trị tiểu đường

    Thuyết nguyên nhân và sinh bệnh học: ở Ấn Độ, từ tiểu đường (madhumeha), đã được biết đến từ hàng ngàn năm trước. Nguyên nhân gây ra madhumeha là do nhiều nhân tố. Nguyên nhân được phát hiện là do di truyền hoặc do quá trình lối sống tạo nên. Đặc biệt nếu 3 nhân tố dosha mất cân bằng là nguyên nhân dẫn đầu bệnh tiểu đường.

    Nguyên lý điều trị: liệu pháp Ayurveda cổ điển điều trị tiểu đường (madhumeha) là nguyên tắc chủ yếu điều trị của Ayurveda rất phức tạp. Chúng ta không đi sâu vào phương pháp, nhưng có thể hiểu điều trị bệnh tiểu đường theo Ayurveda như sau:

    Người bệnh đầu tiên được làm sạch cơ thể bằng ăn kiêng để giảm cân, giảm bột đường, tăng cường sinh tố nhóm B (ngũ cốc lứt), rau quả tươi, giảm cân xuống trọng lượng bình thường (cân nặng khoảng = chiều cao - 105). Nếu bệnh nhân nặng cân quá thì phải điều chỉnh mạnh hơn bằng liệu pháp nhịn ăn kỹ hơn và gia tăng thể dục, đi bộ, yoga, khí công, thiền, dùng thảo dược để giảm dosha.

    Liệu pháp nhịn ăn (ăn kiêng)

    Giúp củng cố hay phục hồi, được sử dụng để cân bằng và loại bỏ bất cứ sự suy nhược trong bệnh nhân gây ra bằng cách tẩy xổ. Đây là bước cuối cùng trước khi hướng dẫn liệu pháp đặc biệt ở việc mất cân bằng dosha. Trong điều trị tiểu đường ban đầu, tập thể dục và giảm cân là điều quan trọng. Tuy nhiên, chống chỉ định vận động quá mạnh với người gầy còm và yếu ớt. Thay vào đó, bệnh nhân bị tiểu đường nặng được khuyên thực hành những tư thế đặc biệt trong yoga mà điều này giúp giảm tối thiểu căng thẳng về thể chất. Mỗi một tư thế đều kích thích nội tiết tụy tạng và cải thiện chức năng của nó.

    Chế độ ăn kiêng tùy thuộc độ tuổi, thể trạng cơ thể, các mùa trong năm và môi trường, cũng như tình trạng kinh tế xã hội của bệnh nhân. Ít nhất, cố gắng là ăn kiêng carbohydrat (thí dụ dùng gạo lứt, đậu đỗ thay vì cơm trắng và bánh mì trắng) với lượng vừa đủ nhu cầu hoạt động cơ thể (ăn ít và ăn nhiều bữa hơn, vừa kết hợp luyện tập vừa sức sao cho tiêu hóa hết năng lượng rồi mới ăn tiếp) có tác động kiểm soát bệnh tiểu đường.

    Liệu pháp thảo dược

    Trong nghiên cứu thực vật cổ truyền người ta thấy có hơn 1.200 loài cây thuốc có tác động giảm đường huyết để điều trị bệnh tiểu đường trên thế giới. Số lượng lớn các phương thuốc cổ truyền đặc trị tiểu đường có khả năng mang lại tương đối dễ dàng trong trị bệnh này - có thể cân bằng đường trong nước tiểu - kể cả người nghèo bằng cách ăn nhiều chất xơ (hột É, mủ Trôm, rau lá, trái có nhiều chất nhầy như Mồng tơi, rau Lang, Đậu bắp, rau Đay…).

    Dược điển Ấn Độ có nhiều cây trị bệnh này, sau đây là những dược thảo dễ tìm: giữa những loại thảo dược thì Khổ qua (Momordica charantia L.), Giáng hương (Pterocarpus marsupium Roxb.), Bát bát (Coccinia indica hay C. grandis) và Hồ lô ba hay Methi (Trigonella foenum graecum L.) được chứng minh là điều trị tốt bệnh lý tiểu đường type 2.

    Những cây thông thường trong y học Ayurveda Ấn độ dùng điều trị tiểu đường

    Dây Thìa canh (Gymnema sylvestre R. Br), thuộc họ Thiên lý (Asclepiadaceae), là dây leo phổ biến ở miền trung và nam Ấn Độ. Đã được dùng điều trị tiểu đường hơn 2.000 năm nay. Người Hindu gọi là gurmara hay gurmar, nghĩa là phá hủy đường. Theo dân gian, có thể nhai lá, uống bột, hay dùng nước sắc.

    Cuối thế kỷ 19, người ta phân lập ra hoạt chất đầu tiên từ cây này. Năm 1889, Hooper (Nadkarni and Nadkarni, 1976) đã công bố chiết được gymnemic acids - chất quan trọng điều trị tiểu đường. Regan bắt đầu nghiên cứu dược lý hiện đại vào năm 1930 (Nadkarni and Nadkarni, 1976; Lawrence Review, 1993). Tốt nhất là dịch chiết Gymnema, chứa một nhóm ít nhất 15 triterpen sapinoid (gymnemic acid), cùng với polypeptid, gurmarin (Alternative Med Rev, 1999; Bone, 1996).

    Triterpenoid và peptid hợp thành tác động riêng lẻ trong giảm đường huyết trên cả 2 mô hình thử nghiệm in vitro và in vivo phân lập từ cây Momordica charanthia, cao cồn chiết từ quả, chứa cả b-sitosterol-D-glucosid và 5,25-stigmastaadien-3-B-ol-D-glucosid trong hỗn hợp 1:1 (Marles and Farnsworth, 1995; Zafar and Neerja, 1991). Tác động dược lý của Gymnema được nghiên cứu trên mô hình động vật. Cây này làm đường máu trở về bình thường ở động vật điều trị với tác nhân gây hủy diệt tế bào beta, nhưng không thấy trên động vật cắt bỏ một phần hay toàn bộ tuyến tụy. (Prakash, Mathur, and Mathur, 1986). Ngược lại Gymnema lại thấy ít có tác dụng trên đường huyết ở những con vật bình thường. Quan sát này không được chứng thực bởi các nhà nghiên cứu khác. Chattopadhyay, Medda, Das, et al. (1993) thấy Gymnema trong nước cao chiết gia tăng insulin ngoại sinh ở chuột bình thường, tăng hấp thu glucose ở chuột tăng đường huyết và chuột bình thường, và ở chuột bị bệnh tiểu đường nhẹ.

    Shanmugasundaram và cộng sự, bột lá và dịch chiết cao cơ bản từ lá, kích thích tiết insulin ở chuột. Persaud, Al-Majed, Raman, et al. (1999) chứng minh gia tăng phóng thích insulin ở tế bào beta tuyến tụy phân lập khi cho chuột dùng cao GS4. Hơn nữa, họ cũng xác định gymnemic acid VIII là thành phần đơn chất có hiệu lực nhất gây nên tác dụng này.

    Chứng minh Gymnema có tác dụng bảo vệ tuyến tụy. Dùng bột lá Gymnema - tác dụng của cây này ở động vật - trước khi điều trị 2 tuần, để bảo vệ trước tác hại nguyên tố berium (Be) - một chất gây độc tụy tạng (Prakash, Mathur, and Mathur, 1986).

    Chất chuyển hóa có tác động ngoài tuyến tụy đã chứng minh tác dụng giảm đường huyết của Gymnema. Gia tăng hoạt tính của enzym chủ yếu insulin tùy thuộc vào chuỗi các phản ứng hóa sinh sử dụng glucose, như enzym phosphorylase và enzym gluconeogenic đã được báo cáo ở alloxan. (Shanmugasundaram, Panneerselvam, Samudram, 1981). Shimizu, Iino, Nakajima, et al. (1997) chứng minh gymnemic acids II, III, và IV gia tăng hấp thu đường từ ruột chuột phân lập. Thấy glycopen gan giảm ở chuột cao đường huyết và bình thường khi điều trị với Gymnema (Chattopadhyay, 1998).

    Thấy có tác dụng chậm nhất là 1 - 2 giờ khi nhai lá Gymnema làm cản trở cảm nhận vị ngọt. Vị đắng thì không rõ, nhưng không phải vị khác như mặn, cay, chua, chất làm se (Nadkarni and Nadkarni, 1976).

    Gymnemic acid và gurmar trong thành phần của lá có tác dụng này. Nó tác dụng trực tiếp theo đường thần kinh của bộ phận cảm giác ở lưỡi. (Frank, Mize, Kennedy, et al., 1992; Hellekant, Hagstrom, Kasahara, et al., 1974; Imoto, Miyasaka, Ishima, et al., 1991; Kamei, Takano, Miyasaka, et al., 1992; Yoshikawa, Nakagawa, Yamamoto, et al., 1992; Yoshikawa, Kondo, Arihara, et al., 1993). Người uống dung dịch Gymnema trước khi ăn sẽ giảm tiêu thụ calori; điều này được cho là do hạn chế cảm nhận vị ngọt nên giảm sự thèm ăn (Brala and Hagen, 1983).

    Tóm lại, nghiên cứu in vitro và dữ liệu trên động vật có 3 cơ chế sinh lý học tác động Gymnema: (1) tăng tiết insulin thông qua tác động trên tuyến, (2) tăng mô nhạy cảm với insulin, và (3) giảm lượng ăn vào đường miệng do sự thay đổi vị giác.

    Dây Thìa canh thường dùng điều trị bệnh tiểu đường theo phương thức dân gian Ayurveda (Khajuria and Thomas, 1992). Nói chung, không thấy có báo cáo tác dụng độc tính của cây này. Liều dùng: 3 g bột dây Thìa canh dưới dạng trà.

    Khổ qua hay Mướp đắng (Momordica charantia L.). Dây leo, thảo mộc, họ Bí bầu (Curcutaceae), được sử dụng rộng rãi trong phương thuốc cổ truyền Ayurveda, giúp làm giảm bớt kapha và pitta (Dash, 1987). Vị đắng, trái còn xanh hay nước ép của nó dùng ở Ấn Độ, châu Phi, Trung Quốc, Tây Ấn, và Trung Mỹ (Marles and Farnsworth, 1995; Bhandari and Grover, 1998).

    Liên quan đến insulin thực vật, 17-amino-acid polypeptid, chiết phân lập từ trái, hạt và dây Khổ qua. Bailey and Day (1989) công bố phân lập ít nhất 2 thành phần hoạt chất từ Momordica, 1 chất tác động nhanh và 1 chất tác động chậm trong phần nhỏ giàu alkaloid. Hai chất hóa học này không tìm thấy đặc tính đầy đủ (Bailey and Day, 1989). Nghiên cứu còn chú ý vị đắng hợp thành của Khổ qua và những cây khác cùng họ. Chúng tồn tại thành chuỗi của triterpen glycosid đã được phân loại như là momoridicosid, 11 chất đã xác định gần đây (Zafar and Neerja, 1991).

    Trên in vitro và động vật, cả chất chuyển hóa dịch tụy và ngoài dịch tụy đều được thừa nhận là giảm glucose huyết của cây Mướp đắng. Bailey and Day, 1989; HYPERLINK “javascript:popUpMenu2_Set(Menu_id2503588);” đã trích dẫn tác dụng hạ đường huyết của trái xanh và dịch chiết nước trái này. Charantin còn được công bố tác động hạ glucose thỏ tiêm alloxan, thỏ bình thường, chuột và mèo (Marles and Farnsworth, 1995). Tuy nhiên, những nhà nghiên cứu khác lại nói là khó có tài liệu chứng minh tác dụng hạ đường huyết của những chất này (Bailey and Day, 1989). Trong phẫu thuật cắt bỏ một phần hay toàn bộ tuyến tụy động vật, tác động của Momordica không rõ ràng (Marles and Farnsworth, 1995), nhưng Raman và Lau (1996), nói rằng tác động của karela, giống như trái Mướp đắng, động vật có đường trong máu thấp thì dự trữ rất ít dịch tụy. Công bố giảm glucose trong ống tiêu hóa, cũng như tăng glucose trong cơ nhưng không có trong mô mỡ (Marles and Farnsworth, 1995; Bailey and Day, 1989).

    Mướp đắng theo tường trình là không tăng insulin ở thú vật, có báo cáo tùy thuộc vào việc kích thích insulin từ tế bào dịch tụy phân lập (Raman and Skett, 1998). Protein tinh khiết được phân lập từ Mướp đắng, gọi là peptid V, chứng minh tác dụng hạ đường huyết trên động vật và trên người khi tiêm (Bhandari and Grover, 1998; Marles and Farnsworth, 1995; Bailey and Day, 1989). Liều dùng 200 g Khổ qua/ngày dạng canh hay xào nấu.

    Không dùng hột Khổ qua vì khi cho thỏ mang thai uống dịch chiết từ hột thỏ bị xuất huyết niệu. Trường hợp nôn mửa và tiêu chảy ở người cũng được công bố (Lewis and Elvin-Lewis, 1977. Marles and Farnsworth, 1995).

    Dây Bát bát (Coccinia indica Wight và Arun)

    Tên đồng nghĩa là C. grandis hay C. cordifolia Cogn, thuộc họ Bí bầu (Curcutaceae), dây leo có tua quấn, mọc trên rất nhiều nơi ở Ấn Độ và nhiều nước, được coi như cỏ dại, rất khó tiêu diệt. Tên tiếng Anh là Ivy gourd, tên Ấn Độ là Kanduri, tiếng Phạn là Bimb. Trong dân gian, lá, rễ, trái, vỏ cây đều dùng làm thuốc. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu gần đây chỉ tập trung vào lá và nó cũng là thứ rau nấu canh ăn rất ngon. (Nadkarni and Nadkarni, 1976; Dash, 1987; Jain and DeFilipps, 1991; Kapoor, 1990; Azad Kahn, Akhtar, and Mahtab, 1979).

    Coccinia indica chưa được nghiên cứu nhiều như các phương thuốc trị tiểu đường khác, nhưng về phương diện hóa học và tác dụng dược lý thì đáng chú ý. Nước ép lá chứa men amylase tốt như b-sitosterol và một cucurbitacin, B-glycosid (Kapoor, 1990). Phần nước hòa tan chứa alkaloid thấy có tác dụng hạ đường huyết (Hossain, Shibib, and Rahman, 1991). Một saponin mới tìm thấy ở dịch chiết cồn của lá (Vaishnav and Gupta, 1995). Chất chuyển hóa có tác động của Coccinia indica chưa hiểu rõ ràng, nhưng trên chuột chứng minh ức chế enzym hình thành glucose, glucose-6-phosphatase (Hossain, Shibib, and Rahman, 1991).

    Bột lá C. indica làm hạ thấp đường huyết ở cả 2 loại chó bị bệnh và bình thường trong suốt thử nghiệm dung nạp glucose (Ivorra, Paya, and Villar, 1989; Singh, Singh, Vrat, et al., 1985). Cả dịch chiết nước và cồn thuốc rễ cây thấy tác động kháng tiểu đường trên thỏ mạnh khỏe (Bailey and Day, 1989; Ajgaonkar, 1979; Brahmchari and Augusti, 1963). Nghiên cứu công bố sự khác nhau tùy trường hợp là tác động tấn công mạnh hay là chậm ở ít nhất 3 tuần.

    Trong dân gian, Bát bát còn dùng điều trị bệnh vàng da, bệnh viêm cuống phổi, bệnh vẩy nến, herpes mảng tròn, bệnh lây lan qua đường tình dục như bệnh giang mai, bệnh lậu (Nadkarni and Nadkarni, 1976; Dash, 1987; Jain and DeFilipps, 1991; Kapoor, 1990). Dây Bát bát không có độc tính. Liều dùng: 50 - 100 g lá tươi nấu canh ăn hàng ngày.

    Hồ lô ba

    Tóm lại, cũng như thuốc tây, khi điều trị bệnh tiểu đường type 2, bằng thảo dược, phải kết hợp chặt chẽ các biện pháp ăn kiêng đúng mức, luyện tập thể dục vừa sức và kết hợp dùng dược thảo và theo dõi đường huyết để tăng hay giảm liều lượng thuốc mới có kết quả tốt được.

    DS. PHAN BẢO AN - DS. NGUYỄN XUÂN PHƯƠNG
     
  4. mebibi607

    mebibi607 Sỉ&Lẻ Sơn Móng OPI AU100% - 0943.43.66.55

    Tham gia:
    30/9/2010
    Bài viết:
    1,723
    Đã được thích:
    223
    Điểm thành tích:
    103
    Ðề: Y thuật Ấn Độ: Ayurveda Ðiều trị con người thay vì con bệnh

    Dài quá. Ngại đọc. Túm lại là nói về tác dụng của sp dược liệu Ấn Độ .
     
  5. thuong.kl

    thuong.kl Em ĐẸP không cần son phấn

    Tham gia:
    14/12/2012
    Bài viết:
    1,620
    Đã được thích:
    386
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Y thuật Ấn Độ: Ayurveda Ðiều trị con người thay vì con bệnh

    hi hi... Mẹ nó nói chuẩn. Tại em đã dùng và mê thảo dược Ayuverda quá, giờ lại kinh doanh nên ngoài chia sẻ kết quả sử dụng sp em cũng muốn chia sẻ với các mẹ thêm 1 số thông tin kiến thức chung để khi sử dụng các mẹ có sự tin tưởng hơn :p
     

Chia sẻ trang này