Chào các mẹ. Em rất thích ăn uống và các món ăn mọi miền đất nước. Em mạn phép mở topic về Hương vị quê nhà để các mẹ ở các vùng miền giới thiệu về các món ăn đặc trưng của quê hương mình, những món ăn mà các mẹ, các chị, các em dù đi xa cũng không bao giờ quên. Xin giới thiệu với các mẹ các bài viết em sưu tầm được trong kho của em 1. Ngon lạ với mắm tép quê nhà Giữa cái lạnh của tiết trời đông, bưng bát cơm trắng, chan thìa mắm tép, có thể cảm nhận được từng hạt gạo dẻo thơm, quện với vị đậm đà của của mắm tép đồng, khiến người ăn một lần sẽ nhớ mãi. Tép đồng thường sinh sôi nhiều sau những trận mưa rào mùa hạ, chúng sống trong những mương nước, ao hồ đục. Muốn cất tép đồng, chỉ cẩn buộc tấm vải màn rộng vào bốn góc của hai thanh tre được uốn cong hình dấu nhân, sau đó cho ít cám bột vào nhử mồi. Mùi thơm của bột cám sẽ thu hút đàn tép, đợi khoảng 10 phút thì cất “te” lên, đảm bảo sẽ có một mẻ tép như ý. Tép được cất về có thể chế biến thành nhiều món khác nhau. Nhưng phần lớn ở nông thôn, người ta sẽ đem đi làm mắm để ăn dần. Làm mắm tép rất phức tạp, không chỉ đỏi hỏi người làm phải khéo léo mà còn phải có kinh nghiệm, nếu không cẩn thận rất dễ bị hỏng. Theo kinh nghiệm của người dân Vĩnh Lộc- Thanh Hóa quê tôi thì làm mắm tép trải qua những công đoạn sau. Tép được cất về phải còn tươi sống, đem đãi thật sạch, không để một vết bùn hoặc hạt sạn nào vương trong rổ. Nếu rửa không sạch, vại mắm rất dễ bị hỏng, mắm ngả màu thâm xỉn là coi như phải đổ bỏ. Tép sau đãi sạch phải để ráo nước hoàn toàn, cho tép vào cối đá giã đều tay, như thế mắm mới nhuyễn. Tiếp đó là đến công đoạn làm thính, khá công phu. Đầu tiên là chuẩn bị một lượng gạo ngon, hạt đều. Khi rang phải chú ý để lửa không quá to hoặc nhỏ, tay đảo đều để gạo không cháy khét. Khi thấy hạt gạo vàng rộm nở đều như bông hoa cau thì đem đi giã thật mịn. Chuẩn bị một vại sành được lau chùi sạch sẽ (to hay nhỏ tùy vào lượng tép làm mắm), sau đó cứ bỏ một lớp tép đồng vào thì lại rải một lớp thính gạo phủ lên trên (rắc đều để mắm được chín đều), cứ rải đều tay như thế cho đến khi hết tép và thính là xong. Trong quá trình muối mắm tép nên cho một ít muối trắng vào, để khi ăn mắm có vị đậm đà không quá nhạt. Tiếp theo là bịt kín vại sành bằng lá chuối khô hoặc bì gai, rồi đem ra phơi ngoài trời nắng cho mắm tép nhanh đượm vị và thơm ngon hơn (nắng càng to thì mắm càng nhanh chín). Phơi được một tuần thì mở nắp, trộn đều mắm rồi đóng nắp lại phơi tiếp. Sau đó đợi khoảng 10 ngày hoặc hơn, khi vại mắm đã dậy lên mùi thơm lừng, không còn mùi tanh và kiểm tra vại mắm thấy sắc màu đỏ tươi là mắm đã chín, có thể lấy ra ăn được. Mắm tép rất dễ kết hợp với nhiều món ăn khác, có thể làm nước chấm cho đồ luộc, hoặc chỉ cần chan không vào bát cơm ăn khô, và cũng có thể chế biến thành món mắm tép chưng thịt khoái khẩu. Trong bữa cơm gia đình, có bát mắm tép trên bàn, sẽ tạo không khí gần gũi của bữa cơm đoàn viên. Mùi thơm dậy đặc trưng của mắm tép, cái vị ngọt ngọt của con tép đồng, mùi thơm bùi của thính gạo rang và có thêm cái vị đồng quê rất riêng ấy, sẽ khiến nhiều người khi ăn cảm nhận sâu sắc hương vị dân giã mà đậm tình quê. 2. Mít luộc mắm mè Ngày nắng, đi làm về bỗng dưng thấy trên bàn ăn đĩa mít luộc với chén mắm mè (ở ngoài Bắc gọi là vừng), chợt thấy nhớ những kỷ niệm ngày thơ, khi được mẹ sai ra ngoài vườn chọn hái mít để làm món đặc sản quê hương. Ở những vùng bán sơn địa miền Trung thường có câu ca: “Ai về nhắn với bạn nguồn. Mít non gởi xuống, cá chuồn gởi lên”. Mít non nấu canh với cá chuồn rất hợp, nhưng khi mùa biển động, không có cá thì làm món mít luộc mắm mè, ăn cũng rất hợp khẩu vị. Trong vườn, có cây mít ở góc xa thường ra trái muộn nhưng rất ngon, đặc biệt là làm món mít trộn hay mít luộc. Trái mít không quá to, nhưng lúc ra trái tầm khoảng một tháng tuổi là có thể hái làm các món mít khoái khẩu cho cả nhà. Mít không quá nhiều xơ, múi nhỏ và không dày, vỏ mít có gai nhỏ đều. Hái từ vườn vào xong, cắt thêm vài tàu lá chuối, trải xuống mẹt ngồi trước thềm nhà bắt đầu gọt vỏ. Mủ mít ứa ra, phải có thau nước bên cạnh và lấy lá chuối xoa đều trái mít, nhúng vào thau nước cho mủ chảy hết cả vào thau. Lau thật kỹ cho hết mủ, bắt đầu trải tàu lá chuối lớn, đặt trái mít vào xẻ theo chiều dài của cuống mít, lạng hết phần lõi cuống và cắt mít thành từng miếng lớn, bỏ vào nồi luộc. Mít ngon phải là loại mít có màu trắng ngà, luộc chín phải mềm, không nên chọn mít quá già sẽ có vị chát khi ăn. Luộc mít xong, vớt ra rổ để cho ráo và bắt tay vào làm nước chấm mè. Mè phải chọn loại hạt đều, căng mẩy và rang xong phải có mùi thơm dậy hấp dẫn. Lúc mè đã nguội, vốc mè vào tay, xoa đều cho vỏ mè tơi ra và dùng mẹt sảy hết vỏ. Cho mè vào cối gỗ, giã nhẹ để mè vừa đủ tách ra chứ không giã nhuyễn. Nước mắm chấm mít phải chọn loại mặn vừa, cho thêm chút đường, bột ngọt và tỏi ớt, cho mè đã giã xong vào khuấy đều thành một thứ nước sền sệt. Mít luộc được cắt ra thành từng miếng vừa ăn chứ không quá to. Chấm sâu miếng mít vào chén mắm mè và bỏ vào miệng sẽ thấy vị bùi, ngòn ngọt của mít quyện với vị béo ngầy ngậy của mè. Món ăn tuy dân dã nhưng mùi vị thật khó quên. Đặc biệt, với mỗi ngày hè, món mít luộc mắm mè này sẽ khiến bữa ăn ngon miệng hơn. Có người, khi thèm đôi lúc ăn vã món này cho đến no. Nhiều khi đi xa, thỉnh thoảng được ăn món mít luộc chấm mắm mè, chợt thấy hương vị vườn như phảng phất trong bữa ăn, thấy quê hương dường như gần lại. Trần Thanh Bình
Ðề: Hương vị quê nhà Hi nhà em có món thịt chua các mẹ ah, ngon lém: Thịt chua Thanh Sơn – Phú Thọ Thịt chua là món ăn truyền thống của người Mường huyện Tân Sơn và Thanh Sơn. Thịt chua là món ăn sử dụng thịt lợn Lửng, một loại lợn được người Mông nuôi tự nhiên, quanh năm chỉ ăn củ và trái cây rừng, một năm chỉ đạt tới 15 – 17 kg, thịt ít mỡ rất thơm và giòn, người ta chọn vùng nạc vai, mông, thăn đem thui chín tới sau đó thái ra từng lát nhỏ, trộn gia vị và ướp thính làm từ bột ngô, bột gạo, bột đậu xanh rang vàng rồi đem đóng hộp ủ lên men. Thời gian đảm bảo cho thịt lên men và dùng được là từ 4 – 5 ngày vào mùa hè, và 5 -7 ngày vào mùa đông, bảo quản ở ngăn mát tủ lạnh để hãm bớt độ chua nếu chưa sử dụng ngay. Thời gian sử dụng trong khoảng 15 tới 30 ngày, ăn sớm sau khi đủ độ lên men sẽ càng ngon, kéo dài thời gian sẽ bị chua quá mất ngon. Cách dùng: Thịt chua mua về thường ăn luôn mà không cần nấu lại, được ăn kèm với bánh tráng và các loại lá như sung, ổi, đinh lăng, lá mơ, các loại rau sống khác nhưng thường xuyên nhất và phổ biến nhất là lá sung,lá Lộc vừng, lá đinh lăng, lá ổi, lá mơ. Dùng với tương ớt hoặc nước chấm pha hành tỏi, thêm với r*** hoặc bia thì thật là đã đời Thịt chua nhà em là thịt chua Nghị Thịnh nhé. Giá bán của nhà em là: 45.000 vnđ/ một hộp 300g CÁC BÁC LIÊN HỆ ĐẶT HÀNG :THuật - 094 7171 724 - Hà Nội Nhà em nhận ship từ 2 hộp trở lên ah. * Lưu ý khi order hàng: - Các bạn order buổi tối sẽ có hàng vào trưa hôm sau - Order vào trước 12h trưa sẽ có hàng vào buổi chiều. Mính sẽ luôn lấy hàng tươi ngon cho các ban nênpahair lưu ý khi order!!!!! Thanks Liên lạc hotline 094.7171.724 chúng tôi sẽ giao hàng trong vòng 24 giờ. * Cước vận chuyển - Từ 200.000 vnđ trở lên < 8km Miễn phí - Dưới 200.000 vnđ < 8km phí 15.000 vnđ - Trị giá bất kì dưới 01 triệu vnđ (trên 01 triệu vnđ được miễn phí) 8km – 15km phí 25.000 vnđ - Trị giá bất kì dưới 1,5 triệu vnđ (trên 1,5 triệu vnđ được miễn phí)16km – 19km phí 30.000 vnđ - Trị giá bất kỳ > 20km Vận chuyển bằng hình thức chuyển phát nhanh, chi phí vận chuyển phía Khách hàng trả.
Ðề: Hương vị quê nhà 3. Bồng khoai nấu hến quê nhà Trời mưa lất phất triền miên làm tôi nhớ da diết món canh bồng khoai quê nhà. Trong ký ức của tôi đó là món ăn dân dã mẹ thường nấu từ hồi nhà còn nghèo khó nhưng với tôi luôn ngon đến vô cùng. Tôi nhớ cứ sau mỗi trận mưa phùn rả rích là mấy đọt bồng khoai lại xanh mướt, mỡ màng. Từ một gốc khoai cái hôm trước còn trơ trọi giờ mọc ra tua tủa những chồi non. Ngọn nào ngọn ấy thi nhau “ngóc đầu” cố gắng vươn dài đón ánh nắng sau những trận mưa. Bồng khoai còn gọi là ngó khoai hay dãi khoai, là những thân khoai non mọc ra từ gốc cây mẹ. Bồng khoai không khó để tìm ở những bờ ruộng, bờ ao hay những bờ đất hoang ẩm ướt. Muốn ăn bồng khoai, người ta chọn bồng non, đầu còn chưa nảy cây, mum múp như búp măng, xanh mỡ màng. Nghe các cụ ở quê kể những năm đói khủng khiếp, người ta ăn cả củ chuối, củ khoai nước chỉ để mong cầm cự qua cái đói, và canh bồng khoai cũng là một món như thế. Mẹ bảo bồng khoai ngon là loại thân ngắn, mập và trắng nõn nà. Mỗi lần mẹ ra ao lấy bồng khoai về cả nhà tôi lại quây quần ngồi tước sạch xơ rồi ngâm vào nước lạnh để bồng khoai không bị thâm. Háo hức tước nhưng ai cũng sợ nhựa bồng khoai làm ngứa và đen tay. Bồng khoai đã tước rửa sạch, luộc sơ với chút muối, để ráo nước rồi cho vào nồi nấu. Trước kia khi chưa có điều kiện, mẹ thường nấu bồng khoai với mắm tôm, sau này sang hơn mẹ mua thêm cả hến để nấu khiến món ăn càng trở nên hấp dẫn. Bồng khoai cho vào nấu với nước luộc hến kèm các gia vị mắm tôm, mẻ, ớt, tiêu cho vừa ăn rồi cho lên bếp ninh. Hến rửa sạch, luộc tách lấy nhân con và giữ lại nước. Thịt hến được phi thơm với hành mỡ và cà chua, canh vừa chín tới thì trút thịt hến đã phi thơm vào. Trước khi lấy canh ra bát cho chút rau răm và lá lốt sẽ khiến canh dậy mùi hơn. Nấu bồng khoai đơn giản mà không dễ vì vừa phải để bồng khoai chín hẳn nhưng lại không chín quá đến mức nhũn, như thế mới thưởng thức được cái sừn sựt của cọng bồng khoai. Đặc biệt, trong khi nấu không được dùng đũa quấy, có như thế khi ăn mới không bị ngứa. Không ai lý giải được tại sao chỉ biết rằng người dân quê tự đúc rút kinh nghiệm đó qua quá trình nấu. Canh bồng khoai ăn nóng mới ngon, để nguội ăn dễ có cảm giác ngứa cổ. Bát canh sền sệt, quánh lại với vị thanh mát của bồng khoai. Hương vị riêng của mắm tôm, nồng nồng của lá lốt, chua chua của mẻ, ngọt đậm đà của thịt hến lan tận cùng đến khứu giác, khiến ai đã từng ăn một lần sẽ thòm thèm mãi. Canh bồng khoai ăn đầu hạ thì ít ngứa hơn nhưng không ít người lại thích ăn canh bồng khoai phải hơi ngầm ngậm ngứa, khiến đầu lưỡi tê tê lâm râm như cảm giác của những người thích ăn ớt cay vậy. Ngày nay món canh bồng khoai không còn là món canh nhà nghèo nữa, ngay tại các chợ thành phố bồng khoai cũng được tước sẵn để bán cho các bà nội trợ. Không phải cao lương mỹ vị nhưng bữa cơm gia đình luôn đầy ắp tiếng cười khi có món canh bồng khoai. Những tháng ngày gian khó xưa theo đó như cũng hiện về trong ký ức mỗi người... Theo TTO 4. Lạ miệng nộm củ cải khô xứ Nghệ Bản thân củ cải khô đã là món ăn lạ miệng với bất cứ ai từng thưởng thức. Khi làm nộm củ cải khô với nem tai sẽ có mùi vị thơm ngon, béo ngậy của nem tai, lạc vừng, dai dai của củ cải, thơm của rau mùi, là món ăn bình dị khó quên. Người miền Trung những khi mất mùa, rau màu rẻ người dân thường kỳ công thái những miếng củ cải đem phơi khô, cất giữ đến mùa đông và mùa mưa mang ra nấu lên, mùi thơm bay khắp xóm. Để làm nộm nem tai củ cải khô, cần nguyên liệu như sau: củ cải khô, nem tai, rau thơm, chanh, lạc vừng, gia vị cần thiết là đường, bột canh, mì chính, mắm thơm. Củ cải khô chọn loại thơm ngon, tránh ẩm mốc. Trước tiên, củ cải khô luộc qua nước sôi, sau đó rửa sạch qua nước sôi để nguội, vắt ráo nước, dùng đũa làm tơi lên cho ráo hết nước. Nem tai cho ra đĩa, rửa rau thơm, rau mùi, ớt cay thật sach, để ráo nước. Lạc rang lên, bỏ vỏ, giã nhỏ. Củ cải khô sau đó được trộn gia vị gồm bột canh, mì chính cho thật ngấm, cho một muỗng cà phê nước mắm thơm trộn lên, nêm vừa miệng, cho đường vào trộn tiếp cho đậm đà, sau đó cho ớt cay và vắt chanh vào. Trộn cho đến khi ngấm hẳn, nêm củ cải vừa miệng, chua ngọt vừa đủ. Cho một ít lạc giã nhỏ trộn đều củ cải, sau đó trộn thêm một ít rau thơm thái nhỏ. Cuối cùng cho nem tai vào trộn đều lên, cho lạc vừng, rau thơm trộn lần nữa và cho ra đĩa. Món nộm thơm ngon dọn ra mâm nhìn thật hấp dẫn, khi nếm thử có mùi vị béo ngậy, thơm ngon của nem tai, dai dai của củ cải khô, vị cay cay, chua chua ngọt ngọt, và bùi bùi của lạc vừng khiến nâm cơm trở nên hấp dẫn hơn. Món nộm không quá khó để làm mà còn bình dị và đặc biệt dân dã, thử một lần để không quên mùi vị ấy, mùi vị bùi bùi khó lẫn, khó quên. Theo Vnexpress
Ðề: Hương vị quê nhà Hi. Em có thể giới thiệu về những món ở Hà Nội mà. Hương vị quê nhà là những món ăn, những hương vị mà mình ăn một lần rồi nhớ mãi hoặc là những món bà, mẹ, chị,....đã từng nấu cho mình ăn mà mình nhớ mãi
Ðề: Hương vị quê nhà 5. Cá lóc nướng trộn Tam Kỳ Với đặc điểm thịt lành, bổ dưỡng và khá phổ biến, cá lóc được chế biến thành nhiều món khác nhau ở mỗi địa phương. Ít người biết, dân xã Tam Thăng (TP. Tam Kỳ, Quảng Nam) có món ngon cá lóc nướng trộn. Chế biến món này không quá cầu kỳ, nhưng để đạt độ ngon cũng không hề đơn giản. Ngay từ đầu, người làm bếp phải có kinh nghiệm chọn cá còn tươi sống, về cạo sạch vảy, mổ lấy hết nội tạng rồi nướng chín bằng rơm khô. Tiếp đó, đầu bếp gỡ hết xương, xé nhỏ theo chiều ngang thân cá từ bụng ra lưng song phải chú ý giữ nguyên hình thù con cá. Sau đó cho ớt, tỏi, hành, hạt tiêu, rau mùi băm nhỏ, trộn đều vào trong bụng cá. Chờ khoảng 10 phút cho gia vị ngấm vào thịt là có món cá lóc nướng trộn như ý, chấm với nước mắm tỏi thật không chê vào đâu được. Món này khi chế biến xong đòi hỏi da cá phải có màu vàng rộm, dậy mùi thơm đặc trưng của cá nướng, của các loại gia vị mới được xem là đạt. Cá lóc nướng trộn có thể chế biến quanh năm, dùng ăn với cơm bình thường như bao món ăn khác. Tuy nhiên, món ăn này đặc biệt hấp dẫn và hợp cho cánh mày râu nhậu nhẹt. Món cá lóc nướng trộn đã có mặt trong bữa ăn của người dân Tam Thăng nhiều năm nay, đã mở rộng ra nhiều vùng lân cận. Theo Báo Vĩnh Long 6. Mì hến Hội An Món mì hến lạ miệng được xem là phút ngẫu hứng của người đầu bếp Hội An. Ở phố cổ này, cao lầu và mì Quảng lấn áp các món ăn khác. Nhưng mì hến vẫn tồn tại dù ra đời muộn màng... Đến phố Hội, khách sẽ được giới thiệu món mì hến. Đã có hến xào xúc bánh tráng Huế, cơm hến Vĩ Dạ nổi tiếng rồi; mì hến là món “ăn theo” chăng? Một lần thưởng thức ai cũng cho rằng mì hến nên được bổ sung vào danh mục các món đặc sản của vùng đất này.... Tô mì chẳng khác lắm so với món mì Quảng truyền thống. Nhưng thay vì những miếng thịt heo phá lấu được thay bằng thịt hến. Hến nấu mì được cào trên sông Thu Bồn, là loài hến nước ngọt nhưng có thể tồn tại ở môi trường nước lợ. Hến trên sông Thu Bồn luôn được nhiều thực khách ưa chuộng. Hến cồn Hến (Huế) với hến sông Thu Bồn (Hội An) luôn được đánh giá ngang bằng nhau. Thế nên, mì hến Hội An không “ăn theo” cơm hến Vĩ Dạ mà được chế biến tỉ mỉ, vừa khẩu vị của thực khách. Vẫn cách nấu giữ nguyên bản của mì Quảng nhưng mì hến thay một số nguyên liệu bằng hến sông Thu Bồn làm lạ miệng khách. Hến không là món ăn cao sang nhưng cách chế biến rất cực công. Đầu bếp phải xử lý hến cho sạch cát, giữ nguyên mùi vị thịt hến. Dùng đũa gấp từng con hến, thực khách ăn vào vẫn có cảm giác vừa miệng. Thịt hến hòa quyện vào mì Quảng tạo cho vị giác khác lạ, ăn một miếng vào đã thấy muốn ăn miếng thứ hai. Du khách Tây đến đây cũng thưởng thức món mì hến lạ lẫm này để rồi giơ ngón tay cái lên và tấm tắc khen: “Number one!”. Theo Thanh Nhàn (Cần Thơ Online)
Ðề: Hương vị quê nhà Nhà mình gặp đồng hương rùi. Tớ quê Vĩnh Phúc. Mà ngày xưa chung tỉnh Vĩnh Phú tách ra. Hi hi
Ðề: Hương vị quê nhà Mẹ nó qua Bà Phán Thái Lan, chợ Hàng bè nhé! Thấy các mẹ bảo mắm tép quán đó ngon!
Ðề: Hương vị quê nhà Hi. Vậy khi nào về quê ghé tớ chơi. Chỗ tớ đi vào Đại Lải cũng gần. Kết hợp tham quan nghỉ dưỡng luôn.
Ðề: Hương vị quê nhà 7. "Ốc hôn" Lào Cai Ốc luộc là món ăn dân dã, quen thuộc và phổ biến ở nhiều vùng từ thành thị đến nông thôn thế nhưng "ốc hôn" thì chỉ có ở đồng bào Tày (Bảo Yên, Lào Cai). Ốc khi luộc được chặt bỏ phần đuôi nhọn và khi ăn người ăn phải dùng hơi mà hút thịt ốc ra, người Tày thường đùa nhau đó là món “ốc hôn” và cái tên này định vị cho cách ăn độc đáo của người dân nơi đây từ lúc nào không biết. Không giống với các loại ốc của nhiều nơi trong cả nước, người Tày - Bảo Yên chỉ dùng loại ốc sống trong những dòng suối đá để luộc. Người Tày gọi đó là “ốc đát”, tức ốc đá. Đặc điểm của loại ốc này là thân to, dài, vỏ ốc có vân, thân ốc có màu xám xanh. Để có được món ốc hấp dẫn và có hương vị đặc trưng thì khâu chế biến là quan trọng nhất. Nếu như đa số các vùng khác trước khi luộc ốc đều phải ngâm rất kỹ bằng nước lã hay nước vo gạo cho hết bùn, đất và phải thay nước thường xuyên cho đến khi sạch thì với người Tày - Bảo Yên, đây lại là công đoạn nhàn nhất. Lý do là bởi ốc đát chỉ sống ở vùng suối đá nên rất ít bùn thậm chí không có nên khi mò về có thể chế biến ngay được. Tuy nhiên, mặc dù không phải vất vả cho việc rửa ốc nhưng trước khi đổ vào nồi chế biến, người Tày nơi đây phải chặt bỏ phần đuôi nhọn của từng con một. Đây là cách ăn ốc có từ ngày xưa, bởi theo quan niệm của đồng bào khi đuôi ốc được chặt thì các gia vị sẽ ngấm sâu vào thịt ốc trong quá trình chế biến, món ốc sẽ có hương vị đậm và ngon hơn. Việc chặt đuôi ốc cũng đòi hỏi sự cẩn thận và quen việc. Ốc chặt phải đáp ứng yêu cầu vừa khéo vừa đảm bảo đẹp lại thuận lợi khi ăn. Nếu chặt nông quá thì việc ăn ốc sẽ rất khó khăn vì thịt của ốc vẫn dính liền với vỏ phần đuôi. Nếu chặt sâu quá sẽ lẹm cả vào phần thịt của ốc, như vậy không những lãng phí mà khi luộc có khi thịt ốc sẽ bung ra ngoài, nhìn không đẹp. Ốc vệ sinh sạch sẽ được đổ vào nồi, ngâm trong khoảng thời gian 15-20 phút với các loại gia vị tạo hương thơm như: lá chanh, lá bưởi, lá sả, một ít muối trắng. Sau khi gia vị đã đủ ngấm, ốc sẽ được cho lên bếp, đậy vung và đun đều lửa cho đến khi sôi. Khi ốc sôi thì mở vung, cho thêm một ít mẻ chua và đảo đều một lượt cho mẻ ngấm đều rồi đậy vung đun cho sôi là được. Sở dĩ người Tày cho thêm mẻ vào món ốc nhằm hai mục đích: tạo hương vị lạ và làm cho món ốc không ngán dù ăn nhiều. Trong khi nồi ốc đang được nấu thì việc làm món nước chấm cũng được tiến hành. Điều khác biệt nhất trong cách làm nước chấm của người Tày nơi đây là không lát mỏng gia vị thành miếng nhỏ để cho vào bát nước mắm mà họ giã nhuyễn toàn bộ các thứ gia vị này thành một hỗn hợp. Khi đã có hỗn hợp gia vị người Tày chia vào từng bát nhỏ tuỳ theo số lượng người ăn và cho hỗn hợp gia vị vào trộn đều với nước mắm thành thứ nước chấm đặc trưng, không kém phần hấp dẫn. Nhìn nồi ốc luộc toả hương thơm ngào ngạt và bát nước chấm hấp dẫn chắc chắn chúng ta không thể kìm nén sự thèm muốn của ngũ giác đang bị kích động. Tuy nhiên việc thưởng thức và cảm nhận hương vị ốc luộc theo phong cách người Tày - Bảo Yên không phải là việc dễ dàng, nhất là với những người lần đầu tiên. Chị Hoàng Thị Sứ, ở xã Nghĩa Đô (huyện Bảo Yên), cho biết: “Người Tày từ trước đến nay không có thói quen ăn ốc khêu mà chỉ dùng miệng hút cho thịt con ốc bật ra. Cách ăn như vậy đòi hỏi người ăn phải biết cách hút, nếu không biết dồn hơi và tập trung thì có khi mệt nhoài cũng chưa ăn được”. Cũng theo chị Sứ, để thưởng thức được món “ốc hôn” độc đáo này, miệng của người ăn phải ôm chặt lấy thân con ốc làm sao hơi không thể thoát ra ngoài. Tiếp đó, người ăn phải tập trung sự chú ý cũng như toàn bộ hơi trong cơ thể và hút mạnh, dứt khoát. Nếu thực hiện được những kỹ năng này, bạn sẽ có bữa thưởng thức “ốc hôn” hiệu quả, theo đúng phong cách người Tày Bảo Yên, Lào Cai. Với người Tày, ốc luộc không chỉ độc đáo ở nguồn nguyên liệu mà còn độc đáo trong cả chế biến và cách ăn. Thưởng thức món “ốc hôn” cũng là cách để bạn hiểu hơn về văn hoá sinh hoạt của người Tày ở Lào Cai. 8. Đặc sản nem Phùng Gọi là nem Phùng vì nó được được làm chủ yếu bởi những người ở tổng Phùng thời xưa mà chủ yếu là bốn làng Đại Phùng, Đoài Khê, Đông Khê, Phượng Trì thuộc huyện Đan Phượng, Hà Tây cũ. Nguyên liệu làm món nem Phùng cũng rất đơn giản, dễ kiếm: thịt heo, gạo, lá sung và các thứ gia vị phụ khác. Cách làm nem tuy đơn giản nhưng đòi hỏi phải có độ sành nhất định. Thịt phải chọn thịt mông sấn hoặc thịt thăn, có nạc, có mỡ, bì phải sạch sẽ, không có lông. Thịt được thái theo thớ, cắt ra từng miếng nhỏ, nhúng nước sôi cho tai tái, vớt ra lọc bì riêng, thịt nạc riêng, thịt mỡ riêng rồi xắt nhỏ trộn với gia vị muối mắm vừa phải. Bì heo lọc hết mỡ và phải luộc hai lần. Khi mảnh bì mỏng và trong mới thái nhỏ như sợi miến dài độ hai đến ba phân. Lưu ý là phải xắt thật mỏng. Trước kia mọi công đoạn hoàn toàn làm bằng tay nhưng hiện một số đã được làm bằng máy. Một trong những việc khó khăn nhất vẫn phải hoàn toàn làm thủ công là việc rang thính. Đây là công đoạn phức tạp, đóng vai trò quyết định và đòi hỏi bí quyết gia truyền. Gạo tẻ và một chút gạo nếp (nếu được nếp cái hoa vàng thì tốt nhất) được rang đều tay đến khi có màu như cánh gián và phải rang bằng than củi, bởi rang bằng bếp than đá sẽ làm mất đi mùi vị của thính. Người rang phải liên tục đảo đều tay và lửa vừa phải cho đủ nhiệt, gọi là om. Có vậy thính mới khô đều và có màu nâu sáng, rồi đem vào cối xay nghiền kỹ tới mức mịn tơi có màu trắng đục. Tiếp theo là trộn chung thính với bì và thịt heo tái đã xắt để ủ. Nem muốn gói to hay nhỏ tùy ý nhưng phải bọc trước bằng lá sung non, rồi mới gói lá chuối tươi ở bên ngoài và lấy dây cột lại, tùy theo nhu cầu to nhỏ, gọi là "quả nem". Phải cột bằng sợi lạt được chẻ ra từ cây giang và phải nhuộm đỏ như làm một chút duyên bắt mắt. Như vậy là xong một món ăn. Cũng thật cầu kỳ. Nguyên liệu hoàn toàn sẵn có nên nhà ai cũng làm được. Trời se se lạnh ngồi nhấm r*** Bá (r*** một làng khác cũng thuộc huyện Đan Phượng nhưng ở ven sông Hồng) với nem Phùng thì đúng là một thú tao nhã nhưng cũng rất bình dị dân dã của một làng quê xứ Đoài. Đây là thức nhắm có thể xuất hiện trong mọi cuộc vui trong mọi gia đình không kể giàu hay nghèo: Nem Phùng ăn với lá sung Cho người tứ xứ nhớ nhung suốt đời Cứ ngẫm câu này thì biết người dân nơi đây thích ăn và tự hào với món ăn này nhường nào. Ấy vậy mà nem Phùng chỉ làm để ăn chứ không mấy khi để bán nên rất ít được biết đến. Là món ăn ưa thích trong mọi cuộc vui vì đơn giản ở đó người ta đươc tận hưởng đến tận cùng cái thú mà chỉ riêng người Phùng có mà thôi. Theo Công an TP HCM
Ðề: Hương vị quê nhà 9. Chả gà Tiểu Quan Hưng Yên không chỉ nổi tiếng với nhãn lồng mà còn được biết đến với chả gà Tiểu Quan - món ăn dân dã ngay từ tên gọi, nguyên liệu đến cách chế biến và phong thái thưởng thức. Chả gà Tiểu Quan là món ăn nổi tiếng, có xuất xứ từ thôn Tiểu Quan, thuộc xã Phùng Hưng, huyện Khoái Châu, Hưng Yên Người già trong thôn kể lại rằng ngày xưa vào mỗi dịp lễ tết, dân ở đây không có thức gì ngon ngoài mấy con gà vườn nhà. Để chế biến ra nhiều món lạ miệng, những người phụ nữ đã sáng tạo và truyền nhau cách làm món chả gà. Vì có hương vị thơm ngon, lạ miệng nên không lâu sau món ăn này đã được người khắp vùng biết đến. Chả gà Tiểu Quan được làm cầu kỳ từ việc chọn nguyên liệu đến từng công đoạn. Công đoạn nào cũng thể hiện nét dân dã, đặc trưng đồng nội của người vùng quê. Bãi cỏ xanh mơn mởn ven làng là nơi người quê nuôi thả những chú gà to khỏe. Gà nuôi béo, cao, thịt chắc sẽ được chọn làm món chả gà. Đặc biệt hơn, phải dùng thịt gà nạc, tách bỏ hết da, xương. Ở món chả gà truyền thống, người ta thường dùng cối đá để giã bởi thịt sẽ mịn hơn. Người giã phải biết ước lượng để dừng lại đúng lúc. Nếu dừng sớm quá chả sẽ không mềm, mịn, nhưng giã kỹ quá thì sẽ bị nát. Lúc giã cũng nên cho gia vị vào giã cùng để chả đậm và đều vị hơn... Ngoài ra, còn có vỏ quýt khô được giã nhuyễn, trộn đều với thịt để món ăn thêm vị cay và thơm đặc trưng. Công cụ để làm chả gà truyền thống còn có vỉ nướng làm bằng tre và chiếc mo cau để phết thịt lên vỉ khi nướng. Khi phết thịt nướng cần tinh ý để trải thịt đều, không quá mỏng cũng không quá dày. Nếu phết mỏng quá thịt sẽ dễ bị chảy qua khe vỉ, trong khi dày thì khó nướng chín chả. Do làm chả gà dễ bị khô và sát nên người xưa thường cho thêm chút mỡ lợn trộn cùng với thịt đã nhuyễn để nướng. Đặc biệt, với người làng Tiểu Quan xưa, để có được lát chả gà thơm nhất thì phải dùng củi từ thân và cành nhãn khô. Chả gà thường được ăn kèm với xôi, cơm trắng, được xem là một trong những món chính trong mâm cỗ ngày tết. Trong cái lạnh đầu đông, thật thú vị khi gia đình được quây quần quanh bếp nướng, thưởng thức và cảm nhận vị thơm của thịt gà, vị béo của mỡ phần và vị cay của vỏ quýt... Từ những nguyên liệu từ đồng quê, chả gà Tiểu Quan nay là một trong những món ăn hấp dẫn của văn hóa ẩm thực Hưng Yên. Trong thời buổi hiện đại, dù không thiếu sơn hào hải vị và công cụ làm món chả gà Tiểu Quan cũng được cải tiến nhiều, nhưng một đĩa chả gà có giá trị hơn hẳn vì đó là tình cảm của mẹ, của bà dành cho cả gia đình vào mỗi dịp gia đình đoàn tụ. Và nếu muốn được thưởng thức hương vị ấy, bạn hãy thử ghé về Tiểu Quan một lần. Theo Công an TP HCM 10. Bún mực - Khánh Hòa Nếu dừng chân ở rẻo đất Đại Lãnh (Vạn Ninh, Khánh Hòa) nắng gió, bạn sẽ có cơ hội biết thêm một món bún rất ngon mà nơi khác không có: bún mực. Vùng biển Đại Lãnh lắm mực nhiều cá, nên bún mực là món cây nhà lá vườn. Nấu bún mực nhanh và dễ, chỉ dăm phút là xong. Những chú mực ống màu tím bằng ngón tay cái hay lớn hơn một chút, bụng chứa đầy trứng là trứng, cắt làm đôi (đừng ham mà dùng mực lớn, nấu món này sẽ không ngon). Mực rửa sạch, vớt để vào rổ cho ráo nước. Thơm (dứa), cà chua xắt mỏng, rau ngổ ngắt ngắn. Bắc nồi nước sôi, cho cà chua, thơm vào nấu trước rồi mới cho mực vào. Thấy mực săn lại là đã chín. Nêm nếm vừa miệng. Nếu bạn là người miền Nam, có thể nêm ngọt hơn một chút. Cho bún vào tô, múc nước lèo chan vào, ăn với rau sống, thêm đĩa nước mắm ớt. Rau sống có tần ô, dấp cá và giá là hợp. Vùng Đại Lãnh toàn núi là núi nhưng rau cỏ xanh mát và rất ngon. Đến Đại Lãnh là bạn đã qua một trong hai chiếc đèo: Cổ Mã hoặc đèo Cả. Cái nắng, cái gió của Đại Lãnh sẽ làm cho bạn thấy món bún mực như đậm đà hơn. Theo Phụ nữ TP HCM
Ðề: Hương vị quê nhà 11. Lươn xào chuối Quê tôi là vùng kinh tế mới ở Tây nguyên, nơi có dòng sông Krông Ana chảy qua. Krông Ana tiếng Ê Đê có nghĩa là sông mẹ. Dòng sông hiền hòa bao dung ban cho người dân nhiều thức ăn đậm đà hương vị quê hương. Quen thuộc và ngon phải kể đến món lươn xào chuối. Dòng sông Krông Ana cung cấp nước cho nhiều bàu, láng - nơi có nhiều tảng sình nổi. Cỏ mọc lên bò trên mặt nước qua nhiều năm tạo thành một lớp dày có thể đi lại trên đó. Dưới lớp sình nổi là nơi ở của lươn. Người làm nghề bắt lươn khoét lỗ nhỏ cắm ống trúm có bỏ ít mồi giun xuống nước qua hôm sau rút lên là có lươn vào ống. Lươn đồng thịt dai thơm ngon hơn lươn nuôi. Lươn có màu da đen hoặc vàng tùy vùng nước phèn hay nước đục. Người dân quê cho rằng các loài sống ở nước thân không vảy khi nấu thành món ăn đều rất mát, bổ. Món ăn từ lươn cũng vậy nên được nhiều người ưa chuộng. Lươn bắt về dùng tro vuốt dọc thân để sạch nhớt. Sau đó rửa sạch dùng kéo hoặc dao nhọn làm sạch ruột chặt ra từng khúc nhỏ ướp gia vị cho thật thấm. Chuối trái non gọt bỏ lớp vỏ móng xắt từng khúc nhỏ. Nếu được chuối rừng non, hạt chuối chưa cứng càng tốt. Chuối rừng có vị chát vừa đắng nhẹ xào với lươn có vị rất ngon. Lươn ướp xong cho vào chảo dầu nóng xào chín rồi cho chuối vào. Vị thơm, béo của lươn sẽ thấm vào chuối làm cho nó có vị chát, bùi của chuối vừa mang vị ngon của thịt lươn. Trong thịt lươn cũng có hương vị của chuối non rất ấn tượng khi ăn. Món lươn xào chuối thường ăn kèm với rau húng thơm và dưa leo chấm nước mắm ớt tỏi. Mỗi lát thịt lươn hoặc chuối đều mang đậm hương vị quê nhà. Thịt lươn dai, chuối xào bùi bùi cộng với cái giòn của dưa như mang cả vị ngon của sông nước và vườn nhà vào tận đầu lưỡi người ăn. Cánh đàn ông quê tôi thích nhâm nhi ly r*** gạo với lươn xào chuối vào buổi chiều tối gọi là "giải" mỏi sau một ngày lao động. Món ăn đậm đà hương vị quê hương đã đi vào đời sống ẩm thực, vì vậy trong nỗi nhớ quê của những đứa con đồng quê xa nhà đâu đấy vẫn cứ thoảng hương vị thơm ngon của món lươn xào chuối. Theo TT 12. Bánh tráng trộn Từ cái thời bánh tráng có thêm bịch muối tôm, hành phi đầu tiên xuất hiện trên gánh hàng rong, đến nay món này đã có nhiều biến tấu. Khoảng chiều tà, gió mát trên đường Tháp Mười, trước cửa chợ Bình Tây xuất hiện hàng loạt những quầy hàng cơ động bán bánh tráng muối tôm. Ở đây chuyên bán các loại bánh tráng đã cuốn sẵn gia vị hoặc tự gói. Từ muối tôm, con ruốc cho đến khô bò đều có. Giá 5.000 đồng/bịch. Bánh tráng biến tấu được trộn thêm trứng cút, xoài sống, satế, khô bò, rau răm, đậu phộng để kích thích vị giác hơn, có cái tên chính thức là bánh tráng trộn. Dân sành bánh tráng trộn không thể nào bỏ qua những xe bánh tráng trộn bên hông nhà hàng Đệ Nhất, gần bến xe Chợ Lớn, quận 6. Bánh tráng ở đây được cắt sợi cho vô một cái bao lớn, thỉnh thoảng người bán dùng bình xịt sương rồi xóc bánh lên để bánh không bị khô. Chỉ 5.000 đồng một bịch bánh tráng trộn nhưng bên trong có nào là trứng cút luộc, trứng cút chiên, khô bò, xoài sống, rau răm, hành phi, đậu phộng, ít muối tôm và một ít satế nếu thích cay. “Kỹ thuật” ăn là phải dùng hai tay nhồi bịch bánh cho đều chứ dùng đũa trộn thì gia vị không thấm vào bánh tráng được. Kiếm một góc công viên ngồi ngắm xe cộ qua lại rồi tận hưởng cái vị chua chua, mặn mặn, ngọt ngọt, béo béo, cay cay của bịch bánh tráng trộn thì không gì tuyệt hơn. Một biến tấu khác của bánh tráng mà giới học sinh đang mê tít đó là bánh tráng nướng. Miếng bánh tráng được đặt trên bếp than, người bán đập lên đó khoảng hai, ba quả trứng cút rồi tráng đều lên mặt bánh. Thịt xào, ruốc và hành lá được rắc đều lên. Khi bánh tráng phồng lên cũng là lúc các nguyên liệu chín, người bán cầm chai tương ớt rải lên mặt bánh thành những vòng tròn. Lúc này trông bánh giống như cái bánh pizza, bắt mắt với màu vàng của trứng, màu xanh hành lá, màu đỏ của tương ớt. Thơm phưng phức! Bánh nóng hôi hổi, vị béo của bơ, vị cay cay của tương ớt cùng với thịt xào và ruốc làm cho chiếc bánh tráng nướng ăn hoài không biết ngán. Chỉ từ 2.000 – 5.000 đồng/cái bánh. Trước cổng trường PTTH Nguyễn Hiền, quận 11 có đến ba, bốn xe bán từ sáng sớm cho đến 10 giờ đêm. Một chị bán bánh tráng nướng cho biết, món này chị học từ người bà con trên Đà Lạt. Thì ra là vậy, khí trời lành lạnh mà ăn được miếng bánh tráng nướng kiểu này thì còn gì sướng bằng. Theo Sài gòn tiếp thị
Ðề: Hương vị quê nhà 13. Bánh đa cua Hải Phòng Bánh đa cua là món ăn dân dã, gắn bó từ rất lâu với người dân Hải Phòng. Nó là thứ quà sáng, là thức ăn tối của người dân nơi đây. Nguyên liệu chế biến không có gì cao sang, đắt đỏ, chỉ những sản phẩm của vùng quê như cua đồng, lá lốt, rau muống… Nhưng chính từ những nguyên liệu có từ đất, có từ đồng ruộng ấy qua bàn tay khéo léo, tỉ mỉ của người bán hàng trở thành món ăn đặc sản. Trước tiên là nước dùng: nước phải thật trong, thứ nước xương và nước cua đồng đã gạt hết bọt. Nổi phía trên nước dùng trong suốt là gạch cua nâu hồng, xôm xốp, miếng chả lá lốt xanh đậm, những mảy hành khô vàng rộm, giòn tan, những cọng rau, hành tươi xanh nõn. Thứ đến và cũng rất đặc biệt là sợi bánh đa nâu sậm – loại bánh được tráng khá kỳ công, sợi bánh mỏng tang, mềm và dai. Để làm được loại bánh như thế những người làng Dư Hàng Kênh - nơi cung cấp bánh cho toàn Hải Phòng và đi các nơi khác của cả nước phải nắm rất rõ và giữ bí quyết, kỹ thuật ngâm gạo, chế nước khi xay, pha bột và điều chỉnh lửa lò lúc tráng bánh… Một bát bánh đa cua ngon, hấp dẫn phải hội tụ đủ ngũ màu: màu gạch cua nâu hồng, màu bánh đa nâu sậm, màu xanh mướt của lá lốt, rau muống, hành lá, chanh; màu đỏ tươi nơi trái ớt và vàng rộm của hành khô. Màu sắc bắt mắt kết hợp với hương vị thơm ngon, béo ngậy chắc chắn sẽ níu chân thực khách dù chỉ một lần được thưởng thức, sẽ là hương vị nhớ về của những người đi xa. Trong một ca khúc về Hải Phòng nhạc sĩ Trần Tiến đã viết: “Người Hải Phòng thật thà như bánh đa cua...” – thứ bánh mộc mạc, dân dã được dùng để chỉ một phẩm chất của người dân nơi đây, điều đó đủ cho thấy với người dân đất cảng, bánh đa cua thân thiết như thế nào. Những người đã từng sống ở Hải Phòng đều cho rằng: ăn bánh đa cua phải ăn ở Hải Phòng mới “đã”, sợi bánh đa cua phải ăn tại những con phố, ngõ ngách đất cảng mới giữ được hương vị. Có lẽ không chỉ bánh đa cua mà tất cả các món đặc sản đều vậy. Vì chỉ có đến, thưởng thức hương vị của đất, của nắng gió, sản vật tại nơi nó phát sinh thì mới thấy hết được vị ngon, ngọt, hấp dẫn. Theo Công an TP HCM 14. Phở chua Lạng Sơn Đặc sản xứ Lạng này được chế biến khá cầu kỳ và có hương vị vô cùng hấp dẫn. Phở chua Lạng Sơn phải ăn nhẩn nha mới thưởng thức hết hương vị đặc biệt của nó. Hiện nay, phở chua có bán ở một số vùng miền núi phía Bắc, nhưng chỉ có sản phẩm của Thất Khê, Lạng Sơn là có tiếng hơn cả. Phở chua gồm hai phần: nguyên liệu khô và phần nước. Phần khô trước hết phải kể đến bánh phở. Cũng vẫn là thứ bánh phở quen thuộc nhưng cái khác ở đây là bánh phở được làm se lại sao cho vừa dẻo vừa dai. Tiếp đó là món khoai tây thái chỉ và miếng được chao qua mỡ sao cho thật giòn và vàng rộm lên. Gan lợn thái mỏng bằng nửa lòng bàn tay, rán cháy cạnh. Thịt lợn ba chỉ loại ngon và dạ dày lợn đem quay trong chảo mỡ. Riêng vịt quay thì nên chọn mua tại các nhà hàng chuyên nghiệp nổi tiếng ở Thất Khê. Phần nước phở gồm: nước báng tỏi, dấm, đường, mì chính... Chính thứ nước hỗn hợp này làm cho người ăn không không cảm thấy ngấy. Còn nước lèo chính là thứ nước múc từ bụng con vịt quay, vừa có vị ngậy của mỡ vịt, vừa thơm phức nhờ những gia vị ướp trước khi quay. Toàn bộ phần nguyên liệu được chuẩn bị từ trước và chờ đến khi khách gọi mới bắt đầu trộn. Khâu trộn là khâu cuối quyết định sự thành công của món phở chua. Phải trộn lượng nước vừa đủ sao cho nguyên liệu không bị nát mà gia vị vẫn thấm đều. Những thứ trang điểm cho món phở chua gồm có lạc rang giã đập, các loại rau thơm, hành khô, dưa chuột và vài lát lạp xưởng thái mỏng. Ngoài ra còn có thêm thứ gia vị đặc biệt mà người địa phương quen gọi là xúng xàng tạo ra một hương vị rất lạ. Người ăn tùy khẩu vị của mình có thể thêm một chút chanh tươi, ớt hay tiêu... Đây là một món ăn khá cầu kì đòi hỏi sự công phu. Phở chua là món ăn hàn thực nên nó được ưa chuộng nhất vào mùa thu và mùa hè. Phở chua được coi là món ăn đặc sản đáng tự hào của người Lạng Sơn, bởi vậy nó là món không thể thiếu trong các dịp đón khách quý tới nhà. Theo Công an TP HCM
Ðề: Hương vị quê nhà 15. Chả cá Lã Vọng Chả cá làm bằng cá, đương nhiên. Đó là cá lăng, sau hiếm, được thay bằng nhiều loài cá khác như cá nheo, cá quả, cá chép. . . Cá được làm sạch, đầu tiên ướp riềng mẻ, nghệ và gia vị khác cho ngấm, thịt cá sẽ chuyển thành màu vàng, riềng làm cá hết tanh, mẻ biến nó thành vị khác, chua dịu, mềm mại, như vải chúc bâu đã chuội mềm thành lụa tơ tằm óng ả: Những lát cá đã biến hình hài đó được cặp vào những thanh tre non, nướng chín trên than hoa đỏ bừng ánh lửa mà không hề có khói. Bếp hoặc ngoài sân đang nướng chả, trong nhà, trên gác đã "nghe" hương chả thơm lừng điếc mũi, đã muốn mở cái chai nút lá chuối ra rồi. . . Nhưng nếu chỉ là cá nướng thôi thì không thành chả cá. Hẳn nhiều người từng ăn con cá nướng ngay trên cánh đồng hoặc bờ mương, ven đê. Nó chỉ là miếng cá nướng thôi. Để thành chả cá, nó phải đi kèm nhiều gia vị như ta vừa lướt qua những vùng quê quen thuộc. Mâm chả cá không thể thiếu đĩa rau gồm nhiều loại từ xà lách đến hàng chục thứ rau gia vị khác như rau mùi, thìa là, rau "thơm", kinh giới, hành sống để nguyên củ bóc trắng muốt hoặc chẻ hờ ra như từng bông hoa huệ bán khai. Chưa đủ. Còn vàng sậm đĩa lạc rang đã xát vỏ, mỗi viên lạc giòn tan, còn âm ấm ngón tay, bùi bùi ngon ngọt, mà cũng chỉ rang cát chứ không cần ướp tẩm húng lìu vì mùi húng lìu sẽ làm hỏng hương chả cá. Một bát nước chấm đặc biệt, thiếu nó là không xong. Đó là mắm tôm loãng, màu hồng xám, tuy hơi gắt nhưng đổ vào đấy chút r***, vắt nửa quả chanh tươi, mấy lát ớt đỏ... đánh cho sủi bọt, thành kem thì tàu chả cá đã đi gần tới đích là nhà ga thưởng thức. Nhưng còn thiếu. Một đĩa bún rối, trắng tinh, sợi nhỏ, cứ lồng khồng như đám mây trắng xốp mùa hè. Bún không cần nhiều vì chóng no. Nó chỉ là thứ đi kèm, không là chiêng trống trong cuộc tế mà chỉ là hàng quà ven đường cho rôm rả buổi lễ hội ngày xuân. Chả cá không thể ăn suông, mà phải đi với chất men nao nao hay phừng phừng, nhưng nhất thiết không là r*** tây. Nó phải nguyên bản sắc của cái say nồng say lịm, đựng trong bể sành hay nậm sứ, nút lá chuối khô chứ không cần chai vuông dẹt với nhãn dán đủ màu sắc quốc tế. Mặt bàn bỗng được sắp xếp lại chút ít, thì ra chiếc hoả lò than hoa đã đượm, ngọn. Trên hoả lò là chiếc chảo bằng nhôm xinh xinh, đựng thứ mỡ nước đang kêu lên lích tích như vui mừng, như xua đi cái lạnh lẽo ngoài kia. Từng xâu chả cá đã nướng chín, chỗ vàng chỗ cánh gián, chỗ nâu mờ, còn nhìn rõ thớ cá quyện với những mảnh riềng nhỏ như chiếc tăm sợi tóc...được gỡ nhẹ nhàng vào chảo mỡ sôi. Nó được làm chín hai lần, nên nó vừa dấn thân vào chảo mỡ, âm thanh bỗng rôm rả hơn, rõ ràng hơn, chắc miếng chả cá cũng thay thực khách mà phấn chấn hơn... Và bữa tiệc chả cá đến lúc này mới được bắt đầu thực sự, chén chén được nâng lên. Đôi đũa đã lau sạch từ lúc nào mới gặp những ngón tay ít vết chai sạn, móng tay không gợn viền đen, bởi khách đi ăn chả cá phải thanh thản, nhàn tản, rủng rỉnh. Lao động là ở nơi khác lúc khác. Theo Công an Tp HCM 16. Mắm nha Gò Công Mắm nha Gò Công (Tiền Giang) dọn ăn kèm rau sống, dưa leo, thịt luộc xứ Gò Công lâu nay nổi tiếng gần xa với các món ngon như bánh giá, mắm tôm chà, tôm chua, mắm còng… Nhưng mắm nha Gò Công là một món mới, có thể liệt vào hàng độc. Mắm nha xuất phát từ ý tưởng của ông Cao Văn Hổ, chủ lò mắm tôm chà Kim Sa ở khóm 3, phường 2 thị xã Gò Công. Gia đình ông Năm Hổ có nghề làm mắm gia truyền bằng những nguyên liệu từ các sản vật của biển. Nhưng mắm nha là món mới thử nghiệm. Con nha đem về làm sạch, bóc tách mai, giữ gạch lại và đem muối ướp theo công thức "bí mật" của gia đình (ông Năm Hổ nói công thức này chưa tiện công bố), đậy kín sau 3 tháng là ăn được. Mắm nha được trộn với tỏi ớt, chanh đường, khóm xắt nhuyễn ăn kèm với bún (hoặc cơm nóng), thịt heo luộc, rau sống dưa leo, khế chua chuối chát thì… mắm ba khía hình như cũng phải kêu món này bằng "sư huynh"! Nha là loài giáp xác, hình dạng tựa con ba khía nhưng có thể xếp trong hàng trăm loài còng biển, sinh sống nhiều nhất ở vùng duyên hải Gò Công. Theo lời những bậc kỳ lão, từ xưa đến nay người Gò Công biết con nha sống trong các hang hốc ngoài rừng ngập mặn, nhưng tập tính cư trú như thế nào, ăn thức ăn gì thì… mọi người chịu thua bởi ban ngày đố thấy một con nha nào ló mặt trước ánh nắng mặt trời. Muốn bắt nha, người Gò Công lựa những đêm tối trời, nước lớn ngập bờ bãi mới bó đuốc lá dừa, xách thùng thiếc đi soi theo ven rừng, ao đầm và tha hồ lượm từng đám nha đang huơ càng dày đặc trên các bờ đất cao. Hiện món mắm nha Gò Công chưa bán rộng rãi ngoài thị trường vì đang trong giai đoạn "thăm dò ý kiến khách hàng". Tuy nhỏ con nhưng con nha nhiều thịt và ngọt hơn con ba khía miệt Cà Mau. Theo Công an TP HCM
Ðề: Hương vị quê nhà 17. Dẻo thơm khoai deo – Quảng Bình Quảng Bình mảnh đất cằn cỗi với nắng, gió và cồn cát lại cho ra những loại khoai ngon tuyệt vời, một trong những đặc sản chế biến từ khoai chính là khoai deo. Khoai deo ngon thường được chế biến từ loại khoai lang đỏ trồng trên đất thịt, sau khi luộc xong sẽ cắt thành từng lát và phơi khô khoảng 10 đến 12 nắng, độ dẻo của lát khoai tùy thuộc vào số lần phơi nắng ít hay nhiều. Vì hình dạng giống như củ sâm, lại chứa nhiều dưỡng chất nên khoai deo được người dân Quảng Bình ưu ái đặt tên “sâm đất”. Trước đây, khoai deo thường có độ cứng “đáng sợ”. Có lẽ do đặc trưng không lẫn vào đâu của mùa đông Quảng Bình mà bao nhiêu nắng mùa hạ đều được gom hết gửi vào lát khoai deo cất dành cho mùa đông. Để tránh cái lạnh xé da và những trận mưa rả rích dai dẳng, gặm nhấm khoai deo trở thành thú vui của nhiều tầng lớp - từ bình dân lao động đến những cô cậu học trò lén giấu trong cặp sách mang đến lớp và cả những nhân viên văn phòng “ngồi nhai cho đỡ buồn”. Chầm chậm để vị ngọt bùi của lát khoai tan chảy nơi đầu lưỡi, cái cung cách thưởng thức mộc mạc đó phần nào thể hiện tâm hồn người Quảng Bình: từ tốn nhưng có chút chịu đựng, kham khổ. Ngày nay, với cuộc sống bận rộn đủ bề, lát khoai deo có những cách tân khác biệt: vừa dày thêm lại có độ dẻo vừa phải. Khi đụng đầu lưỡi chỉ muốn nhai ngấu nghiến cho “bõ ghét”, vừa đụng phải chân răng đã dính chặt khó gỡ, lại nhai liên hồi đến sái quai hàm ấy vậy mà ai cũng mê. Có thể vì một lẽ khoai deo đã là nét hàng vặt quá đỗi quen thuộc với người dân Quảng Bình, không ai lớn lên lại chưa một lần thử vị ngọt bùi của khoai. Khoai lang củ có tác dụng rất tốt cho sức khỏe, cung cấp vitamin A, C... tốt cho dạ dày, góp phần chữa bệnh tiểu đường, cân bằng nước trong cơ thể, bổ sung chất khoáng, chất xơ nên tốt cho cả người bệnh trĩ. Do đó khi thành phẩm khoai deo ra đời, mọi người vẫn thường đùa nhau mua “sâm đất” quý giá tặng bạn bè, người thân ngụ ý cầu chúc sức khỏe./. (Theo QuangBinhOnline)