Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh tí nữa nghiên cứu kỹ cái này của chị, thank chị. sách của chị đã về, tận 7 kg cơ
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh hàng của chị là 95,17 bảng, công 6,5b. cân nặng là 7kg. giá chưa ship là 3558,45; ship là 2250. chị cọc e 2 triệu, còn 3763,45 chị nhé
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh Hihi các mẹ trong quá trình áp dụng có khó khăn hay cách nào hợp với Việt Nam mình hơn thì lên đây chia sẻ cho chị em hóng hớt cùng với nhé
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh Bé nhà mình đc hơn 18 tháng rùi và mình có áp dụng pp Ăn dặm kiểu Nhật nhưng có mô-đi-phê đi cho tiện với mình, hồi đó cũng có tham khảo qua kiểu Pháp nhưng rồi thấy ăn khoai tây thay gạo thì sau này ko ngồi chung bàn với bố mẹ đc mất Đến giờ có thể nói là kết thúc thời kì ăn dặm vì bé ăn cơm tốt, tự cầm thịt rút xương ăn, đang tập cho tự xúc thì mới tự xúc đc váng sữa v sữa chua thui, trộm vía vẫn còn niềm vui với việc ăn uống nên mình có rút ra mấy điều khác so với kiểu ăn truyền thống: -Kiểu Nhật và kiểu Pháp đều ăn từ nhuyễn đến đặc, tăng dần độ thô rất đúng thời điểm chứ ko ăn cháo đến tận 2 3 tuổi như VN mình -Cho bé ăn rất nhạt vì ăn mặn ko có lợi cho thận của bé và để bé ăn cơm trắng cũng đc->thích nghi với mọi hoàn cảnh dù ko có thịt -Nhất thiết khi ăn phải có ghế ăn đàng hoàng, ko thay thế = ngồi đất hay ngồi xe đẩy đc, ko bật tv cho con xem khi ăn để tránh làm mất tập trung -Ăn thìa nhỏ thui chứ không cần thìa to như thìa ăn phở người lớn, dễ làm bé nghẹn dẫn đến sợ rùi chán ăn -Khi ăn đưa bé cái thìa để bé cầm cho quen, hướng dần đến việc tự xúc ngay từ bữa ăn phục vụ bản thân->giúp bé tự lập -Không ép bé ăn vì càng ép bé càng sợ đấy ạ
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh Bài viết thật là hay và hữu ích ! cảm ơn chủ add nha !
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh hi mẹ nó rút ngắn xúc tích dễ hiểu lắm hi.................
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh Thanks mẹ hpt0712 nhiều nhá, mấy phương pháp này cũng làm các mẹ đỡ cực hơn nữa nhỉ, đỡ được cảnh bế con rong ruổi khắp xóm làng đút từng thìa, nhiều mẹ đến lúc cáu quá con khóc thì còn đánh con nưã tội nghiệp.
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh Mình đã cho con ăn phô mai nhưng ko phải là phomai tươi mà là phomai cho vào cháo đó. Ko biết phomai tươi cho vào cháo đc ko nhỉ
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh hí mình mới đầu cũng có bit làm tnao đâu, rồi cứ lên mạng mò dần, pp Ăn dặm kiểu Nhật thì đóng thành sách A4 gối đầu giường lun ý, vướng mắc đâu lại giở ra đọc, chứ con mình cũng chẳng ăn bữa bột nào cả, à mà còn lưu ý là nên cho con tham gia vào bữa ăn của gia đình, đừng ngại con phá quấy mà tách con ra để bố mẹ ăn cho nhàn nhé và càng ít người tham gia vào việc ăn uống của bé càng tốt. Nhà mình chỉ có 1 mẹ 1 con từ lúc con 3 tháng đến h nhưng mình thấy chăm con nhàn lắm vì đã luyện cho con tự giác đc, chứ cứ thêm bà nội vào là khó luyện lắm, các cụ hay xót cháu lại bảo thủ nữa ý ạ
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh Mình cũng ngại mấy vụ tranh luận với các cụ về chuyện chăm và dạy con lắm, không biết sau này thế nào...
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh I/ Một số kiến thức về thức ăn bổ sung cho trẻ trong lứa tuổi ăn dặm: *****Sữa chua với sức khỏe trẻ em Ngoài việc bổ sung các chất dinh dưỡng, sữa chua còn có khả năng phòng và điều trị một số bệnh. Sữa chua có tính acid cao (với độ pH thấp khoảng 4,2) nên có tác dụng tiêu diệt một số vi khuẩn có hại trong hệ thống tiêu hóa. Đối với trẻ nhỏ, sữa chua ngăn ngừa một số bệnh đường ruột, bổ sung thêm acid cho dịch dạ dày (ở trẻ nhỏ nồng độ acid trong dạ dày chưa đạt được tiêu chuẩn như ở người lớn) giúp cho việc tiêu hóa thức ăn được dễ dàng hơn. - Bé từ 6 tháng tuổi trở lên có thể ăn được sữa chua mỗi ngày với “tiêu chuẩn” như sau: 6 – 10 tháng: 50g/ngày. 1 – 2 tuổi: 80g/ngày. Trên 2 tuổi: 100g/ngày. *******Bé mấy tháng tuổi có thể ăn được sữa chua? Xem tin gốc aFamily -1854 lượt xem Theo BS Hải - Viện Dinh dưỡng QG, ở tuổi nào bé cũng có thể ăn được sữa chua, quan trọng là sữa đó được làm từ loại sữa nào mà thôi. Con em được 6 tháng tuổi, em cho bé ăn dặm được 1 tháng nay rồi. Nay em cho bé ăn sữa chua có được không? Và ăn như thế nào là tốt nhất thưa bác sỹ? (vientin...@yahoo.com) Trả lời: Sữa chua là loại sữa được làm từ sữa đã được lên men bởi các vi khuẩn có lợi cho đường ruột, đường lactoza trong sữa đã được chuyển thành axit lactic, chính axit này làm đông thành phần chất đạm trong sữa, vì vậy sữa chua trở nên sánh và đặc, ăn sữa chua rất tốt cho đường tiêu hóa. Như vậy thì ở lứa tuổi nào cũng ăn được sữa chua, quan trọng là sữa đó được làm từ loại sữa nào? Nếu trẻ dưới 6 tháng muốn ăn được sữa chua thì sữa đó phải được làm từ sữa bột công thức dành cho trẻ dưới 6 tháng, còn sữa chua làm từ các loại sữa bột nguyên kem, sữa tươi... thì trẻ từ 6 tháng trở lên mới ăn được, số lượng không hạn chế, nếu cháu ăn được nhiều sữa chua thì ăn giảm sữa nước đi, tuy nhiên mỗi ngày cũng chỉ nên ăn 100 – 200ml là đủ. Còn phô mai và váng sữa thì trẻ từ 6 tháng trở lên mới ăn được, đối với trẻ < 1 tuổi chỉ nên ăn 1 – 2 viên phô mai/ngày và 1 cốc váng sữa, vì ăn nhiều sẽ gây đầy bụng khó tiêu, còn trẻ> 1- 3 tuổi có thể ăn số lượng gấp đôi dưới 1 tuổi, những trẻ bị thừa cân béo phì không nên ăn váng sữa. Bé nhà chị 6 tháng tuổi có thể ăn: 100ml sữa chua, 1 viên pho mai, 1 cốc váng sữa một ngày. ****Có nên cho bé ăn váng sữa? Chủ nhật, 03/04/2011, 03:01 PM (GMT+7) Trên thị trường gần đây xuất hiện khá nhiều loại váng sữa với các mùi hương hợp khẩu vị trẻ nhỏ như: vani, chocolate... Đa phần các loại váng sữa này là sản phẩm nhập khẩu, và được bán với giá khá cao. Đây cũng chính là lý do khiến mặt hàng này trở nên hút khách vì tâm lý chuộng hàng ngoại nhập, mắc tiền của các bậc phụ huynh cha mẹ. Nhưng chất lượng của váng sữa có tương thích với cái giá bán ra? Quan sát nhãn ghi trên hộp váng sữa, chúng ta sẽ thấy thành phần chủ yếu của váng sữa là chất béo. Lượng chất béo trong 1 hũ váng sữa chiếm đến trên 70% tổng năng lượng mà trẻ cần. Lượng chất béo trong 1 hũ váng sữa này cao gấp đôi so với chất béo có trong 1 ly sữa thông thường của trẻ. Do đó, đây là nguồn cung cấp năng lượng rất cao. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc váng sữa có nhiều chất dinh dưỡng. Thực ra, thành phần dưỡng chất trong váng sữa rất ít. Vì vậy, các bậc cha mẹ không nên dùng váng sữa để thay thế sữa cho trẻ. Và cũng vì đây là một sản phẩm cao năng lượng nên cần hạn chế cho trẻ dưới 1 tuổi ăn váng sữa, và cả những trẻ dư cân, béo phì cũng nên hạn chế dùng sản phẩm này vì trẻ sẽ bị dư chất béo, dư năng lượng không cần thiết. Tuy nhiên, không nên hoàn toàn tẩy chay sản phẩm này vì váng sữa là nguồn cung cấp chất béo và năng lượng rất tốt cho những trẻ gầy ốm, ăn ít hoặc bị suy dinh dưỡng. Với những trẻ này, cha mẹ nên dùng váng sữa làm bữa ăn phụ cho trẻ, với lượng dùng hợp lý là 1 – 2 hũ/ngày. Bên cạnh váng sữa, các ông bố bà mẹ cũng đang “sốt” với các sản phẩm phô mai tươi. Đây cũng là sản phẩm nhập khẩu và cũng được bán với giá khá cao. Các bậc phụ huynh thường được cho rằng “tươi” là tốt. Nhưng thực ra, thành phần dinh dưỡng từ loại phô mai tươi này hay phô mai thông thường (dạng viên hình tam giác) là như nhau. Do đó, không nên vì giá thành cao, hành nhập và vì chữ “tươi” mà cố gắng mua cho con ăn. BS. CKI Nguyễn Thùy Trang (Theo Cha mẹ và con) *****Váng sữa và những điều chưa biết trong bữa ăn của bé Thành phần của váng sữa cũng gồm có chất đạm, chất béo, chất đường, các vitamin và chất khoáng nhưng tỉ lệ các chất dinh dưỡng này hoàn toàn khác trong sữa. Tuỳ thuộc vào cách chế biến, sẽ có nhiều loại váng sữa khác nhau. Trước đây, váng sữa được chế biến bằng cách vớt phần trên cùng của sữa và cho làm lạnh. Ngày nay, nhà sản xuất sử dụng máy li tâm để tách phần trên cùng của sữa, đó chính là váng sữa. Ngoài ra, còn có váng sữa nhân tạo được chế biến từ các loại dầu thực vật (dầu dừa, dầu cọ…), bổ sung thêm casein (đạm sữa bò) và đường lactose (loại đường có trong sữa bò). Thị trường váng sữa ngày nay vô cùng tiện lợi và phong phú nhiều loại khác nhau Quan sát nhãn ghi trên hộp váng sữa, chúng ta sẽ thấy thành phần chủ yếu của váng sữa là chất béo. Lượng chất béo trong một hộp váng sữa chiếm đến trên 70% tổng năng lượng mà bé cần. Trái lại, thành phần dưỡng chất trong váng sữa rất ít. Chất đạm rất thấp, các vitamin và chất khoáng cũng thấp. Theo hướng dẫn của tổ chức y tế thế giới (WHO), cần cho bé bú mẹ hoàn toàn dưới sáu tháng tuổi. Vì vậy, chỉ nên cho bé ăn váng sữa sau sáu tháng tuổi, nhằm bổ sung thêm năng lượng, giúp bé tăng cân tốt hơn. Váng sữa bổ dưỡng, nhưng không có nghĩa là nên cho bé ăn một cách ồ ạt Các bậc cha mẹ không nên dùng váng sữa để thay thế sữa cho bé, chỉ nên sử dụng váng sữa như thực phẩm bổ sung mà thôi. Những bé không nên dùng: bé dưới sáu tháng tuổi, bé bị thừa cân - béo phì, bé đang bị tiêu chảy, bé dị ứng với sữa bò… Những bé nên dùng: váng sữa có thành phần chất béo cao, cung cấp nhiều năng lượng nên sẽ tốt cho bé từ trên một tuổi bị thiếu cân, suy dinh dưỡng; bé mới ốm dậy cần nhiều năng lượng. Với những bé này, mẹ nên dùng váng sữa làm bữa ăn phụ, với lượng dùng hợp lý là 1-2 hộp/ngày. Cho bé ăn váng sữa phải tùy vào giai đoạn và mức độ phát triển của trẻ Lượng váng sữa có thể cho bé ăn trong ngày phụ thuộc vào tuổi, cân nặng và loại váng sữa được mua. Trung bình, bé 6-12 tháng tuổi có thể ăn 1/2-1 hộp váng sữa/ngày, bé trên một tuổi có thể ăn 1-2 hộp/ngày, tuỳ vào mức độ dung nạp của bé. Không nên cho bé ăn quá nhiều, vì có thể gây đầy bụng, tiêu chảy do hàm lượng chất béo quá cao. II/ Thực đơn ăn dặm *****Thực đơn mẹ ChitCop chia sẻ. Một số mẹ thường chế biến bữa bột mặn cho con rất cầu kỳ: nêm nếm gia vị vừa miệng, phi thơm hành... và thường xào thức ăn trước khi trộn vào bột hay cháo của con với niềm tin chế biến cẩn thận thức ăn sẽ ngon hơn và bé yêu sẽ ăn được nhiều hơn. Các mẹ không biết rằng mình đã vô tình làm giảm giá trị dinh dưỡng bữa ăn của con. Đối với các bé đang tuổi ăn dặm, các chuyên gia dinh dưỡng khuyên các mẹ không nên sử dụng dầu, mỡ đã qua chế biến (chiên, xào) và không nên nêm muối vào đồ ăn của bé. Cách chế biến cầu kỳ như trên có thể giúp tăng vị giác nhưng không hề tốt cho hệ tiêu hóa còn non nớt cũng như quả thận bé nhỏ của các bé. Thay vì dùng các gia vị như muối hay đường... các mẹ có thể sử dụng 1 viên phô mai, các loại nước ép từ rau củ như nước ép cà rốt, sữa ngô non... để giúp món ăn của bé đậm đà hơn. Cách nấu cho các bé tập ăn dặm cũng chỉ nên đơn giản là ninh, hấp, luộc chín thức ăn để giúp bé dễ tiêu hóa và giữ lại nhiều nhất chất dinh dưỡng của thực phẩm. Mẹ ChitCop xin chia sẻ với các mẹ một số cách chế biến bữa ăn dặm cho bé hết sức đơn giản mà vẫn ngon miệng và đầy đủ dinh dưỡng để các mẹ tham khảo (trộm vía cả Chit và Cọp nhà mình đều không chê bữa ăn dặm nào của mẹ kể cả khi các con ốm mệt). Mình thường ninh một nồi cháo trắng đủ cho con ăn cả ngày và chế biến riêng thức ăn chứ không cho thức ăn vào ninh cùng cháo để dễ đổi món từng bữa cho con. Một số món tiêu biểu sau mình hay chế biến cho Chit và Cọp. Các mẹ tham khảo nhé: 1. Cháo tôm, rau cải ngọt Món bột, cháo này luôn được các bé nhà mình hào hứng chào đón, rất chi là hợp tác với mẹ... Bé há miệng, đến kềnh bụng vẫn há khiến mẹ rất phấn khởi. Cách nấu thì cũng vô cùng đơn giản. Các mẹ có thể lựa tôm đồng hoặc tôm biển đều được nhé, miễn là tôm còn tươi. Nguyên liệu: - 100g tôm tươi, sau khi bóc bỏ đầu và vỏ tôm chỉ còn lại khoảng 40g thịt tôm là đủ một bữa của bé. Nhà mình thường dùng tôm sú, chỉ khoảng 2 “em” tôm là đủ. - Vài lá cải ngọt, chỉ khoảng 3-5 lá cải non là vừa đủ. - 01 bát cháo trắng đủ 1 bữa của bé đã nấu chín. Chế biến: Tôm rửa sạch, nhặt bỏ đầu, vỏ, rút bỏ chỉ phân rồi xay nhuyễn hoặc băm nhỏ (nếu bé bạo nuốt). Phần đầu tôm rửa sạch, giã nhỏ lọc lấy một bát con nước. Cải ngọt rửa sạch xay cùng tôm hoặc thái nhỏ. Cho nước lọc tôm, thịt tôm và rau cải vào nồi đun sôi khoảng 5 phút, sau đó cho cháo vào đảo đều cho sôi trở lại là mẹ đã xong một bữa cháo tôm rau cải thơm ngon cho bé. Nước lọc đầu tôm và thịt tôm nấu với rau cải rất hợp nên rất ngọt các mẹ ạ, vì vậy mẹ không cần nêm thêm gia vị gì vào cháo của bé nữa nhé. 2. Cháo thịt bò, cà rốt, rau dền, phô mai Với món cháo thịt bò các bé thường không hào hứng vì cháo thịt bò không được ngọt như khi ninh xương hay tôm, cá... Nhưng thịt bò lại rất giàu sắt vì thế mỗi tuần các mẹ nên cho bé ăn ít nhất là hai bữa cháo thịt bò nhé. Nhà mình thì hay nấu cháo thịt bò với rau dền đỏ cùng nước ép cà rốt và thường cho thêm 1 viên phô mai để bát cháo đậm đà hơn. Nguyên liệu: - 40g thịt bò thăn - 3-5 ngọn rau dền đỏ - 1/3 củ cà rốt nhỏ (cỡ 3 đầu ngón tay) - 01 viên phô mai, các mẹ có thể sử dụng phô mai Con Bò Cười hoặc các loại phô mai nhập khẩu đều được nhé. - 01 bát cháo trắng đủ 1 bữa ăn của bé đã nấu chín. Chế biến: Thịt bò rửa sạch xay nhuyễn hoặc băm nhỏ. Rau dền rửa sạch cho xay cùng thịt bò hoặc thái thật nhỏ. Cà rốt gọt vỏ rửa sạch, thái mỏng nghiền lấy 1 bát con nước. Cho nước ép cà rốt, thịt bò và rau dền vào nồi đun sôi khoảng 5 phút, sau đó cho phô mai và cháo vào đảo đều cho sôi trở lại. Cháo thịt bò, cà rốt, rau dền và phô mai rất giàu sắt, lại bổ sung thêm canxi cho bé mà không hề "nhạt" một tí ti nào cả nên mẹ có thể yên tâm là bé yêu không từ chối đâu. 3. Cháo ngao rau mồng tơi Để bổ sung kẽm cho con, thỉnh thoảng mình mua thêm cua bể, ghẹ... nhưng thường xuyên nhất là ngao vì lý do kinh tế và dễ chế biến. Nguyên liệu: - 300g ngao sống. - 3-5 lá mồng tơi - 01 bát cháo trắng đủ 1 bữa ăn của bé. Chế biến: Ngao rửa thật sạch luộc sơ cho há miệng, nhặt ruột bỏ vỏ. Lọc lấy 1 bát con nước luộc ngao trong. Ruột ngao làm sạch phân rồi băm nhỏ. Rau mồng tơi rửa sạch thái nhỏ. Cho rau mồng tơi vào nước luộc ngao đun sôi khoảng 3 phút, sau đó cho ruột ngao và cháo vào đảo đều cho sôi trở lại. Cháo ngao rau mồng tơi rất đơn giản, dễ làm nhưng rất giàu kẽm và rất hiệu quả với các bé táo bón các mẹ nhé. 4. Cháo chay thập cẩm Một món cháo mà thỉnh thoảng mẹ ChitCop xen bữa cho con vào những hôm cho con ăn những bữa cháo giàu đạm như cháo sườn, cháo tim hoặc cháo lươn... đó chính là món cháo chay thập cẩm. Món cháo này các mẹ có thể tùy cơ ứng biến với các loại rau củ có trong tủ lạnh nhà mình. Nguyên liệu: - 50g ngô non - 1 miếng bí đỏ nhỏ cỡ đầu ngón tay cái - 10-12 ngọn rau mầm hay 1 nhánh súp lơ xanh nhỏ cỡ đầu ngón tay cái, có thể thay thế bằng rau ngót, rau cải xanh... - 01 bát cháo đậu xanh đủ 1 bữa ăn của bé. (Nhà mình thường ninh 100g đậu xanh tách vỏ cùng cháo luôn để có món cháo đậu xanh cho bé ăn cả ngày) Chế biến: Ngô non rửa sạch xay mịn lọc lấy 1 bát con nước sữa ngô non. Rau mầm rửa sạch thái nhỏ. Bí đỏ làm sạch luộc chín rồi nghiền nát. Đun sôi sữa ngô non, cho rau mầm vào đun sôi khoảng 3 phút sau đó cho bí đỏ đã nghiền và cháo đậu xanh vào đảo đều cho sôi trở lại. Món cháo chay thập cẩm này có vị ngọt mát rất dễ ăn và giúp bé dễ tiêu hóa nữa. Công thức cháo rau, thịt, khoai tây Nguyên liệu: (1 phần ăn cho trẻ từ 5 tháng, thời gian nấu: 30 phút). 1 củ khoai tây (khoảng 50 g)., 100 g cà rốt. 20 g thịt nạc, băm nhỏ hoặc xay (thịt lợn, gia cầm, cừu hoặc bò). 2-3 thìa nước táo ép không đường(có thể mua loại nước táo ép không đường đóng hộp ở siêu thị). 1 thìa dầu ăn (các loại dầu trung tính như dầu cải, dầu hướng dương, không nên dùng các loại dầu ăn có vị quá đặc trưng như dầu oliu). Cách chế biến: - Khoai tây rửa sạch, để nguyên vỏ, luộc chín (khoảng 15-20 phút). - Cà rốt rửa sạch, gọt vỏ, thái nhỏ. Thị băm hoặc thái nhỏ cho vào nồi nấu với cà rốt cùng 1 chút nước. Không nên đổ quá nhiều nước từ đầu mà chỉ cho khoảng 3 thìa ăn nước, nếu khi đun thấy thiếu mới cho thêm một chút nữa. - Khoai tây sau khi luộc chín, bóc vỏ, thái nhỏ. - Cho các nguyên liệu trên vào cùng nhau, cho thêm dầu ăn và nước táo rồi dùng máy xay nghiền thật nhuyễn. Một số lưu ý khi nấu món cháo dinh dưỡng cho trẻ trong thời kỳ ăn dặm: + Những bữa ăn dặm đầu tiên cũng nấu theo công thức này nhưng không cho thịt. Từ tháng thứ 6, nhất thiết trong cháo phải có thịt để bổ sung dinh dưỡng cho bé nhưng mỗi khẩu phần chỉ 20g, không nên nhiều hơn hoặc ít hơn. Những loại thịt 'màu tối' như thịt bò chỉ nên cho bé ăn nhiều nhất 2 lần 1 tuần, cá 1 lần 1 tuần. Rau củ quả luôn đảm bảo 100g một phần (bạn có thể nấu 2 loại rau củ với nhau ví dụ bí ngô và cà rốt, mỗi thứ 50g). Những bữa ăn dặm đầu tiên không nên cho thịt + Trong thời kỳ ăn dặm, nếu các bà mẹ không có thời gian để nấu cho bé hàng ngày như thế này, mẹ có thế nấu nhiều phần một lúc (chỉ việc nhân các nguyên liệu lên theo số khẩu phần) rồi cho vào từng hộp nhựa nhỏ. Sau đó, mỗi phần mới rưới một thìa dầu ăn lên. Bảo quản các hộp nhựa này trong ngăn đá. Tuy nhiên, các chuyên gia dinh dưỡng luôn khuyên bạn, cố gắng nên dành thời gian nấu ăn theo khẩu phần ăn mỗi bữa cho trẻ để hạn chế chất dinh dưỡng bị hao hụt trong quá trình bảo quản. + Nhiều người cho rằng khi nấu món cháo dinh dưỡng cho trẻ trong thời kỳ ăn dặm nên nấu thật nhiều nước và loãng cho dễ nuốt. Điều này hoàn toàn không đúng. Ăn dặm còn được gọi là ăn đặc, để bé làm quen với các 'thức ăn rắn' hơn sữa mẹ và cũng để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng đang ngày một lớn dần. Từ công thức trên và một số công thức tương tự, tôi đúc kết ra một công thức chung như sau: - 50 g tinh bột (khoai tây hoặc bột gạo). - 100 g rau củ (cà rốt, khoai tây, bí ngô, bí ngòi, su hào, súp lơ xanh...). - 20g thịt (bò, gà, lợn...). - 3 thìa nước táo ép. -1 thìa dầu ăn. Cách nấu vẫn tương tự. Luộc chín khoai tây hoặc nấu chín bột gạo, rau củ nấu lẫn thịt với một chút nước, cho các nguyên liệu vào cùng nước táo, dầu ăn và nghiền nhuyễn bằng máy sinh tố. Như vậy, tôi có các loại cháo kiểu tây như: + Cháo su hào + khoai tây+ thịt gà. + Cháo bí ngô+ khoai tây+thịt bò. + Cháo súp lơ xanh+khoai tây+thịt lợn + Cháo cá hồi+khoai tây+cà rốt+cà chua. + Cháo bí ngòi+khoai tây+thịt gà. + Cháo rau chân vịt (spinat)+thịt gà+khoai tây ..... Món cháo dinh dưỡng cho trẻ trong thời kỳ ăn dặm kiểu ta như: Cháo bột gạo+rau cải+thịt nạc, cháo cá,.. Một số món cháo dinh dưỡng tôi cho thêm rau thơm như mùi tây, quế tây trẻ ăn cũng rất ngon miệng. Đây là công thức chung cho tất cả các món cháo dinh dưỡng cho trẻ trong thời kỳ ăn dặm. 'Rỉ tai' mẹ món ngon cho bé ăn dặm Thứ tư, 11/04/2012, 10:28 AM (GMT+7) Sự kiện: Ăn dặm Xin chia sẻ với các mẹ một số món ngon (theo chủ kiến của mình), bé nhà mình ‘mê tít’. Eva sẽ giúp bạn giải đáp những thắc mắc khi bắt đầu tập cho trẻ Ăn dặm! Con mình hiện được gần 8 tháng. Bé đã ăn dặm được khoảng 2 tháng. Mới đầu cho bé ăn bột dặm, thực đơn của mình cũng không mấy phong phú (vì tài bếp núc hơi kém)... được cái con ăn vẫn 'ngon lành cành đào'. Nhưng chỉ khoảng hơn 1 tuần, con có phản ứng 'đình công', chê món mẹ nấu. Bà nội cháu mắng, tại mẹ lười không chịu đa dạng món, nên con khảnh ăn cũng phải. Nghe mẹ chồng nói thấy thấm thía quá, nên quyết tâm 'truy tìm' và học một số món mới bổ sung dinh dưỡng cho bé. Xin chia sẻ với các mẹ một số món ‘ngon’ cho bé ăn dặm (theo chủ kiến của mình), bé nhà mình ‘mê tít’. 1. Bột tôm, cải ngọt Nguyên liệu: Bột gạo: 20g (4 thìa súp gạt). Tôm đã bóc vỏ: 30g (2 thìa súp). Lá cải ngọt: 30g (3 thìa súp). Dầu ăn: 10g (2 thìa cà-phê). Nước: 200ml (lưng 1 bát). Nước mắm hoặc muối i-ốt. Cách chế biến: - Lá cải ngọt rửa sạch, thái nhỏ hoặc băm nhuyễn, tùy sở thích. - Tôm rửa sạch, băm nhuyễn đánh tan với một ít nước - Bột gạo hòa tan với một ít nước. Đặt phần nước còn lại lên bếp cho tôm vào nấu sôi, rồi cho cải vào nấu chín. Cho bột vào từ từ khuấy chín, nêm chút nước mắm, đổ ra bát, thêm 2 thìa cà-phê dầu ăn. 2. Bột đậu hũ, bí xanh Nguyên liệu: Bột gạo (hoặc bột ăn liền cho bé): 4 muỗng canh. Bí xanh (xay nhuyễn): lấy 1 muỗng canh (không lọc để giữ chất sơ). Đậu hũ non (nghiền nhuyễn): 1 muỗng canh. Dầu Omega 3: 1 muỗng canh. Nước: 100 ml (ít nước hơn vì đã có nước từ đậu hũ và bí) Cách chế biến: - Cho bí xanh vào nấu với nước. - Cho đậu hũ vào khuấy đều, đun sôi, để bớt nóng. - Trộn bột vào, thêm dầu ăn, khuấy đều 3. Bột thịt gà, khoai lang Nguyên liệu: Bột gạo 10g (2 muỗng canh gạt). Sữa bột: 12g (3 muỗng canh gạt). Bí đỏ 30g (3 muỗng canh gạt). Dầu 2,5g (1/2 muỗng cà phê) - Lưu ý: Dầu ăn chứ không phải dầu Mazút. Đường 10g (2 muỗng cà phê). Nuớc 200ml (lưng 1 chén) Cách chế biến: - Bí đỏ luộc chín, tán nhuyễn. - Lấy chút nước lạnh khuấy với 10g bột cho tan đều, thêm bí đỏ, đường và phần nước còn lại vào, bắc lên bếp lửa nhỏ, khuấy đều cho đến khi bột chín. - Cho bột ra chén, thêm 1/2 muỗng cà phê dầu trộn thật đều sau đó mới cho từ từ sữa bột béo vào. - Bé ăn từ 1/3 đến 1 bát (chén) mỗi ngày. Lưu ý: Khi tập cho bé ăn dặm quan trọng là bạn nên tập cho bé ăn từng thứ một và chờ xem phản ứng của bé với thức ăn ấy như thế nào? Đặt trường hợp bé bị dị ứng thức ăn thì bạn có thể biết ngay và tránh không cho bé ăn món đó nữa. Còn nếu bé không dị ứng gì thì sau đó vài ngày bạn có thể cho thêm thứ mới vào nấu nhừ cùng với món đầu tiên. Khi bé mới tập ăn thì nấu lỏng lỏng nhé rồi sau đó dần nấu đặc thêm. Thông thường bé hơn 6 tháng tuổi là có thể ăn 2 bữa bột / ngày, bữa sáng các mẹ nên nấu đặc hơn bữa chiều, vì sau 1 đêm bé cần nhiều năng lượng hơn để đón chào ngày mới, còn bữa tối cần nhẹ nhàng và ít hơn để giảm tải cho cơ quan tiêu hóa giúp bé yêu ngon giấc. Ps: Để topic thêm phần 'xôm tụ', các mẹ có công thức hay bí kíp gì hay hay về món ngon cho bé ăn dặm thì hãy 'xuất chưởng' thêm nhé! Copy từ sách hay sưu tầm ở đâu cũng được, miễn là mẹ đã nấu món đó và được bé hưởng ứng nồng nhiệt. Còn đây là Tài liệu của viện dinh dưỡng quốc gia em sưu tầm những thông tin e cần ( nguồn nhé: http://www.viendinhduong.vn/news/vi/...m-cho-tre.aspx) Cách chế biến thức ăn cho trẻ Cập nhật ngày: 21/09/2010 06:57:28 | Lượt xem: 60441 Nhiều bà mẹ lúng túng khi chuyển chế độ dinh dưỡng cho con từ bú sữa mẹ hoàn toàn sang cho trẻ ăn thêm những thức ăn khác. Những hướng dẫn cụ thể sau đây sẽ giúp người mẹ nắm bắt được dễ dàng cách chế biến thức ăn cho bé theo từng lứa tuổi. Nấu bột cho trẻ 6 tháng tuổi : Bột gạo 2thìa cà phê (10g bột) + Lòng đỏ trứng gà : 1/2 quả hoặc thay thế bằng 2 thìa cà phê thịt, tôm, cá (giã nhuyễn, băm nhỏ, ăn cả cái) + 10g rau xanh (1 thìa cà phê bột rau giã nhỏ), cho rau khi bột đã chín, đun sôi nhắc ra ngay + Dầu ăn hoặc mỡ : 1/2- 1 thìa cà phê. Nấu bột cho trẻ 7 – 12 tháng tuổi: Bột gạo 4 - 5 thìa cà phê ( 20 - 25g bột) + Lòng đỏ trứng gà : 1 quả hoặc thay thế bằng 3 thìa cà phê thịt, tôm, cá (giã nhuyễn, băm nhỏ, ăn cả cái). + 20 g rau xanh (2 thìa cà phê bột rau băm nhỏ) cho rau khi bột đã chín, đun sôi nhắc ra ngay. + Dầu ăn hoặc mỡ : 1 - 2 thìa cà phê. Nấu cháo cho trẻ 13 - 24 tháng: Có thể nấu một nồi cháo trắng nhừ, mỗi bữa múc một bát vào xoong con rồi cho thêm thịt, cá, trứng, tôm, gan, đậu phụ... . Thêm rau xanh và dầu mỡ như nấu bột nhưng số lượng nhiều hơn. Nấu cơm nát cho trẻ từ 24 - 36 tháng tuổi: Nấu cơm nhiều nước hơn bình thường rồi nấu canh thịt, cá, tôm, cua trộn với cơm cho trẻ ăn, không nên chỉ cho trẻ ăn nước rau luộc trộn cơm. Cũng có thể nấu kiểu cơm nát thập cẩm: dùng các loại bí đỏ, su hào, khoai tây... cắt nhỏ 2 x 3 cm, đun chín nhừ, nghiền nát, cho gạo vào nước rau củ để nấu cơm. Thịt, cá băm nhỏ, mồi bữa 30 - 40g cho vào hấp khi cơm đã chín. Nếu dùng thịt nạc, cá, tôm... thì phải cho thêm 1 - 2 thìa dầu mỡ, trộn đều. Trẻ trên 36 tháng: Có thể ăn cơm như người lớn nhưng cần ưu tiên thức ăn và ăn thêm các bữa phụ. Chớ hiểu sai là trẻ ăn cơm sớm sẽ cứng cáp, hoặc ăn xương ống, xương chân gà sẽ chống được còi xương. Nên nhớ: trẻ cần nhiều loại thức ăn khác nhau, ăn được nhiều thì trẻ sẽ mau lớn và cứng cáp dù đó là thức ăn lỏng và mềm. Cần theo dõi cân nặng của trẻ, nếu trẻ lên cân đều đặn tức là được nuôi dưỡng tốt. Không lên cân, hoặc tụt cân, tức là có thể trẻ bị bệnh hoặc nuôi dưỡng không đúng Thực đơn ăn bổ sung (ăn dặm) cho trẻ Cập nhật ngày: 07/10/2010 13:54:53 | Lượt xem: 133658 Trẻ nhỏ cần được nuôi hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 6 tháng đầu đời. Sau thời gian này, trẻ cần được cho ăn bổ sung hợp lý để đáp ứng với nhu cầu phát triển của trẻ, đồng thời tiếp tục duy trì cho trẻ bú sữa mẹ ít nhất cho đến khi trẻ được 18-24 tháng. Chúng tôi xin giới thiệu một số mẫu thực đơn ăn bổ sung cho trẻ do các chuyên gia dinh dưỡng tính tóan phù hợp cho từng nhóm tuổi của trẻ. Thực đơn dành cho trẻ từ 6-8 tháng tuổi 1/Bột đậu xanh + bí đỏ: Bột gạo tẻ: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê) Bột đậu xanh: 10gam (tương đương 2 thìa cà phê) Bí đỏ: 4 miếng nhỏ nghiền nát Mỡ ăn (dầu ăn): 1 thìa cà phê Nước: 1 bát con 2/Bột tôm: Bột gạo tẻ: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Tôm biển tươi (bỏ vỏ, giã nhỏ): 15gam (tương đương 3 thìa cà phê) Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa Mỡ (dầu ăn): 1 thìa Nước 1 bát con 3/ Bột trứng: Bột gạo tẻ: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Trứng gà: 1 lòng đỏ trứng gà hoặc 4 lòng đỏ trứng chim cút (tương đương với 10gam) Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa cà phê Nước: 1 bát con 4/Bột thịt: Bột gạo tẻ: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Thịt nạc: 10gam (tương đương 2 thìa cà phê) Mỡ (dầu ăn): 1 thìa cà phê Nước: 1 bát con 5/Bột cá: Bột gạo tẻ: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Cá quả gỡ bỏ sạch xương: 10gam (tương đương 2 thìa cà phê) Mỡ (dầu ăn): 1 thìa cà phê Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa cà phê Nước: 1 bát con 6/Bột gan (gan gà, gan lợn): Bột gạo tẻ: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Gan (gà, lợn) băm hoặc nghiền nát: 10gam (tương đương 2 thìa cà phê) Mỡ (dầu ăn): 1 thìa cà phê Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa cà phê Nước: 1 bát con Thực đơn cho trẻ từ 9-11 tháng tuổi Bột lạc: Bột gạo tẻ: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Lạc rang chín giã nhỏ mịn : 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Rau xanh: 1 thìa cà phê Nước 1 bát con Bột đậu xanh+ bí đỏ: Bột gạo : 15gam (tương đương 3 thìa cà phê) Bột đậu xanh: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê) Bí đỏ: 40g - 4 miếng nhỏ nghiền nát Mỡ (dầu ăn): 1,5 thìa cà phê Nước: 1 bát con Bột cua: Bột gạo tẻ: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Cua đồng: 30gam (tương đương 6 thìa cà phê) Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa cà phê Dầu ăn: 1 thìa cà phê Bột tôm: Bột gạo tẻ: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Tôm tươi ( bỏ vỏ, giã nhỏ): 15gam (tương đương 3 thìa cà phê) Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn): 1,5 thìa cà phê Nước 1 bát con Bột thịt: Bột gạo tẻ: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Thịt nạc: 16gam (tương đương 3 thìa cà phê) Mỡ (dầu ăn): 1 thìa cà phê Nước: 1 bát con Bột cá: Bột gạo tẻ: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Cá quả gỡ bỏ sạch xương: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê) Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn): 1 thìa cà phê Nước: 1 bát con Bột gan( gan gà, gan lợn): Bột gạo tẻ: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Gan ( gà, lợn) băm hoặc nghiền nát: 15gam (tương đương 3 thìa cà phê) Mỡ (dầu ăn): 1 thìa cà phê Rau xanh giã nhỏ: 2 thìa cà phê Nước: 1 bát con Thực đơn của trẻ từ 12- 23 tháng tuổi: (ngày cho trẻ ăn 3-4 bữa) Cháo lạc: Gạo tẻ 50gam Lạc rang chín bỏ vỏ giã nhỏ: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Rau xanh băm nhỏ: 3 thìa cà phê Nước vừa đủ Cháo đậu xanh hoặc đậu đen: Gạo tẻ 35gam Đậu xanh hoặc đậu đen: 20gam (tương đương 4 thìa cà phê) Rau xanh thái nhỏ: 2 - 3 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn): 2 thìa cà phê Nước vừa đủ Cháo cá: Gạo tẻ 40gam Cá chép luộc chin gỡ xương: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Rau xanh thái nhỏ: 2 - 3 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn) : 1,5 thìa cà phê Nước vừa đủ Cháo tôm: Gạo tẻ 40gam Tôm bóc vỏ giã nhỏ: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Rau xanh thái nhỏ: 2 - 3 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn): 2 thìa cà phê Nước vừa đủ Cháo trứng: Gạo tẻ 40gam Trứng gà: 1 quả Rau xanh thái nhỏ: 2 - 3 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn): 2 thìa cà phê Nước vừa đủ Cháo thịt (thịt lợn, thịt gà, thịt bò): Gạo tẻ 50gam Thịt gà ta: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Rau xanh thái nhỏ: 2 - 3 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn): 2 thìa cà phê Nước vừa đủ Cháo lươn: Gạo tẻ 40gam Lươn: 25gam (tương đương 5 thìa cà phê) Rau xanh thái nhỏ: 2 - 3 thìa cà phê Mỡ (dầu ăn): 1,5 thìa cà phê Nước vừa đủ Dinh dưỡng và sức khỏe >>Dinh dưỡng trẻ em Nên cho trẻ ăn cái hay ăn nước Cập nhật ngày: 25/05/2012 14:04:46 | Lượt xem: 6166 Ông bà ta thường có câu “Khôn ăn cái, dại ăn nước”, thế nhưng còn rất nhiều người quan niệm rằng, khi ninh thịt, ninh xương các chất bổ béo đã ra hết nước, nên chỉ cho con ăn nước vừa dễ ăn, dễ tiêu hoá lại vừa bổ, nhưng kết quả là dù chăm sóc kĩ càng chu đáo bao nhiêu, tốn tiền mua thực phẩm mất thời gian ninh nấu, tốn nhiều nhiên liệu như ga, điện, củi, than…mà con vẫn bị còi xương, suy dinh dưỡng. Hàng ngày tại trung tâm khám của Viện Dinh dưỡng, các bác sĩ gặp nhiều bà mẹ phàn nàn “Bác ơi em cho cháu ăn chẳng thiếu thứ gì, mất bao nhiêu công ninh nấu, mà sao cháu chẳng lên cân, da cứ xanh nhợt, mà chẳng biết đi, biết đứng gì cả” khi được hỏi về cách chế biến thức ăn cho trẻ thì hầu hết các bà mẹ này đều chỉ ninh lấy nước thịt, nước xương nấu bột nấu cháo cho trẻ, lý do là vì sợ cháu không ăn được, sợ cháu bị hóc thức ăn, một số cháu cứ lợn cợn tý thịt là nôn. Có những bà mẹ khi được Bác sĩ chẩn đoán là cháu bị còi xương thì nói luôn “Ngày nào em cũng ninh nửa cân xương ống, hai đôi chân gà để nấu bột cho cháu ăn mà sao vẫn bị còi xương hở bác?”. Khi được các bác sĩ giải thích: "khi ninh thịt và xương chỉ có rất ít các axit amin hoà tan trong nước tạo vị ngọt, thơm, còn lại phần lớn chất đạm vẫn còn lại ở bã thịt, nếu cháu chỉ ăn nước thịt sẽ bị thiếu chất đạm dẫn đến suy dinh dưỡng còi cọc và thiếu máu, còn ninh xương thì canxi hoà tan trong nước rất ít, cháu bị thiếu canxi nên bị còi xương"; bà mẹ mới ồ lên “thế mà mà em cứ tưởng nước mới là chất bổ, em ninh kỹ thế cơ mà”. Cũng có những ông bố tâm sự: “Vợ em bận việc suốt ngày, mọi việc chăm sóc cháu đều khoán cho người giúp việc, mỗi ngày ninh 2- 3 lạng thịt thăn để nấu bột cho cháu, phần bã còn lại chị giúp việc tiếc của nên ăn, thế mà cháu bé thì cứ gầy còm xanh xao, còn chị giúp việc cứ béo tròn, da dẻ hồng hào, bây giờ nghe bác giải thích em mới hiểu phần bã thịt nhạt nhẽo ấy lại còn nhiều chất bổ đến vậy”. Nghe những câu chuyện trên chắc các bà mẹ cũng đã hiểu nên cho con ăn cái hay ăn nước. Nhiều bà mẹ cho rằng nước hầm có nhiều chất bổ, giúp trẻ dễ tiêu hóa và cứng xương. Thực ra, trong nước thịt, nước xương ninh hầm có nhiều nitơ, tuy tạo được hương vị thơm ngon, kích thích sự thèm ăn nhưng lại có rất ít đạm và canxi. Còn nước luộc rau, chỉ có một ít vitamin hòa tan trong nước (vitamin C, vitamin B1) với lượng không đáng kể. hơn nữa chỉ cho ăn nước rau sẽ thiếu chất xơ dẫn đến trẻ bị táo bón cũng không hấp thu được thức ăn cũng dẫn đến suy dinh dưỡng. Trong những năm đầu đời, cân nặng và chiều cao của trẻ phát triển rất nhanh. Do vậy, nhu cầu dinh dưỡng tính theo cân nặng của trẻ cao hơn hẳn người lớn. Nếu chỉ luộc hoặc ninh thức ăn rồi lấy nước nấu bột, trẻ sẽ không có đủ dinh dưỡng. Nên cho trẻ ăn cả phần cái bằng cách nghiền, xay hoặc băm nhỏ. Tất cả các thành phần dinh dưỡng như chất đạm, chất béo, canxi, phốt pho, sắt, kẽm... (giúp tạo dựng nên cấu trúc tế bào của các tổ chức và tham gia vào nhiều hoạt động chức năng cơ thể) đều nằm trong phần cái của thức ăn. Trên thực tế cũng có bà mẹ biết rằng ăn cả cái thì tốt hơn nhưng cứ cho ăn là trẻ lại nôn nên phải ăn nước vậy phải làm thế nào cho trẻ ăn được cái? Điều quan trọng là ngay từ bữa ăn dặm đầu tiên, bà mẹ đã phải cho con ăn cả cái, chỉ có điều tập ăn ít một, lúc đầu xay băm nhuyễn, sau đó tăng dần độ thô của thức ăn lên, những miếng ăn đầu tiên cháu có thể ậm ẹo muốn nôn, nhưng nếu kiên trì tập trẻ sẽ quen và không nôn nữa. Khi trẻ bắt đầu có răng, nhất là có răng hàm (từ trên 1 tuổi) thì không dùng máy xay sinh tố nữa mà phải cho ăn thô: chỉ băm thức ăn, thái rau, ăn cháo hạt hoặc cơm nát, mỳ, bún phở để cho trẻ tập nhai, khi nhai thức ăn kích thích tuyến nước bọt tiết men tiêu hoá giúp trẻ ăn ngon miệng và tiêu hoá tốt, động tác nhai cũng giúp xương hàm phát triển, sau này bé không bị mọc răng lệch do cung hàm hẹp, cho ăn thô sớm cũng phòng ngừa được chứng biếng ăn ở trẻ. Như vậy, câu nói của ông bà ta “khôn ăn cái, dại ăn nước” quả là không sai! Dinh dưỡng và sức khỏe >>Dinh dưỡng trẻ em Khi nào có thể cho bé ăn hải sản? Cập nhật ngày: 13/06/2012 17:05:31 | Lượt xem: 10549 Trừ các loại hải sản có vỏ, bạn có thể cho bé ăn cá ở dạng bột sệt hoặc nghiền nhuyễn ngày từ 6 tháng tuổi khi bé bắt đầu ăn dặm. Tuy nhiên do đạm trong hải sản nói chung cũng như cá thường hay gây dị ứng cho trẻ vì vậy nên cho bé ăn từ tháng thứ 7 trở đi là tốt nhất, nhưng điều quan trọng là cho ăn từ từ ít một cho bé thích nghi dần, với những trẻ có cơ địa dị ứmg thì các bà mẹ cần phải thận trọng hơn Nên cho bé ăn những loại hải sản nào ? Trong số các loại hải sản, cá biển là thực phẩm tuyệt vời đối với sức khoẻ do chứa đạm có giá trị sinh học cao với tỷ lệ cân đối, phù hợp với cơ thể người. Cá còn rất giàu chất béo không no omega-3 cần để tạo màng tế bào thần kinh và có tác dụng phòng chống bệnh tim mạch. Do đó, ăn cá ít nhất 3 lần/tuần rất có lợi cho sức khoẻ. Gan cá còn rất giàu vitamin A và D. Hàu thì rất giàu kẽm là thành phần của hơn 300 enzyme bên trong cơ thể, là chất cần thiết để trẻ tăng trưởng, và cũng rất cần để phát triển hệ sinh dục. Hầu hết các loại hải sản đều giàu canxi (nhất là các loại cá nhỏ ăn được cả xương) nên rất cần cho xương và răng. Nhưng nếu không biết lựa chọn, bảo quản, chế biến hải sản đúng cách và ăn có mức độ thì có thể “lợi bất cập hại”. Cá đồng tuy không chứa nhiều các axit béo chưa no như các biển, nhưng cá đồng cũng chứa nhiều chất đạm quí, dễ hấp thu, lại ít gây dị ứng hơn cá biển, vì vậy khi mới bắt đầu ăn cá các bà mẹ nên cho ăn cá đồng trước, nên chọn cá nạc ít xương như : cá quả, cá trắm, cá trê.. Cá biển nên ăn cá hồi, cá thu, cá ngừ, cá basa các loại cá này chứa nhiều omega 3 ( các axit béo chưa no rất tốt cho sự phát triển thần kinh và thị giác của trẻ, phát triển trí não giúp bé thông minh hơn) Tôm cũng là thức ăn giàu đạm và canxi, từ tháng thứ 7 trở di các bà mẹ có thể cho con ăn tôm đồn, tôm biển Cua đồng là thức ăn chứa hàm lượng canxi cao, vì vậy nên cho trẻ ăn thường xuyên để cung cấp canxi cho trẻ. Các loại hải sản có vỏ như : hàu, ngao, hến, trai … nên cho bé ăn khi đã 1 tuổi, dùng nước nấu cháo, còn thith xay băm nhỏ, các laọi hải sản này chứa nhiều kẽm, một vi chất quan trọng đối với trẻ em. Hải sản thường giàu đạm và các dưỡng chất cần thiết khác. Hải sản cũng rất ít chất béo no và chứa axit béo không no omega-3, là chất béo thiết yếu cho cơ thể. Hải sản còn giàu vitamin (đặc biệt là vitamin nhóm B) và khoáng chất (canxi, kẽm, sắt, đồng, kali…). Do đó, hải sản sẽ góp phần đa dạng cho chế độ ăn cân đối, khoẻ mạnh và giúp trẻ tăng trưởng. Tuy nhiên, hải sản cũng ẩn chứa một số nguy cơ đối với sức khoẻ. Những loại hải sản nào không nên cho bé ăn ? Một số loại cá chứa hàm lượng thủy ngân và các chất ô nhiễm cao. Nên tránh ăn cá mập, cá kình, cá lưỡi kiếm (cá cờ), cá thu lớn, cá ngừ lớn. Điều quan trọng nhất là khi cho bé ăn hải sản các bà mẹ phải chọn laọi còn tươi, không ăn hải sản đã chết vì dẽ gây ngộ độc thức ăn cho bé. Cách chế biến hải sản như thế nào ? Cách chế biến hải sản không đúng cũng có thể gây bất lợi cho cơ thể bé . Hải sản chế biến chưa chín hẳn (gỏi cá sống, hàu sống, sò, mực nướng…) có thể ẩn chứa vi trùng và ký sinh trùng. Đó là nguyên nhân của không ít trường hợp nhiễm trùng đường ruột khi ăn hải sản. Ngày nay, khi môi trường ngày một ô nhiễm thì một nguy cơ nữa phải kể đến khi ăn nhiều hải sản là khả năng nhiễm kim loại nặng như thuỷ ngân. Khi trẻ còn trong giai đoạn ăn bột và cháo : tốt nhất là xay, nghiền nhỏ cá, tôm để nấu bột hoặc cháo, nếu là cá đồng nhiều xương, bạn nên luộc chín cá rồi gỡ xương, cá biển nạc có thể xay sống như xay thịt rồi cho vào nấu bột, nấu cháo cho bé, với cua đồng thì giã lọc lấy nước để nấu bột, cháo, tôm to thì bóc vỏ sau đó xay hoặc băm nhỏ, với tôm quá nhỏ có thể giã lọc lấy nước như nấu bột cua. Với các loại hải sản có vỏ thì luộc chín lấy nước nấu cháo, bột , thịt xay băm nhỏ cho vào cháo, bột Trẻ đã lớn hơn từ 3 tuổi trở lên : ngoài ăn các loại cháo, mỳ, miến… nấu với hải sản có thể cho bé ăn dạng luộc hấp : cua luộc, ghẹ hấp, luộc, ngao hấp… Điều quan trọng nhất là phải nâú chín kỹ không cho trẻ ăn gỏi cá, hoặc nấu chưa chín kỹ. Lượng hải sản ăn bao nhiêu là đủ ? Ngày nào bạn cũng có thể cho bé ăn 1 – 2 bữa từ hải sản, nhưng tuỳ theo tháng tuổi mà lượng ăn mỗi bữa khác nhau : Trẻ 7 – 12 tháng : mỗi bữa có thể ăn 20 – 30 thịt của cá, tôm ( đã bỏ xương, vỏ ) nấu với bột, cháo, mỗi ngày có thể ăn 1 bữa, tối thiểu ăn 3 – 4 bữa/tuần Trẻ 1 -3 tuổi : mỗi ngày ăn 1 bữa hải sản nấu với cháo hoặc ăn mỳ, bún , súp…mỗi bữa ăn 30 - 40 g thịt của hải sản Trẻ từ 4 tuổi trở lên : có thể ăn 1 – 2 bữa hải sản/ngày, mỗi bữa có thể ăn 50 – 60g thịt của hải sản, nếu ăn ghẹ có thể ăn ½ con/bữa, tôm to có thể ăn 1 – 2 con/bữa (100g cả vỏ). Với những lợi ích về dinh dưỡng không thể chối cãi của các loại hải sản các bà mẹ nên cho bé ăn hàng ngày, nhưng phải tập cho bé ăn ít một, từ ít đến nhiều, chọn loại tươi ngon, chế biến nấu chín kỹ để tránh ngộ độc thức ăn ở trẻ. Dinh dưỡng và sức khỏe >>Dinh dưỡng trẻ em Xử trí viêm mũi ở trẻ nhỏ khi trời lạnh Cập nhật ngày: 13/06/2012 17:03:16 | Lượt xem: 8058 Thời tiết giao mùa, chênh lệnh nhiệt độ giữa ban ngày và ban đêm cao là nguyên nhân trẻ nhỏ dễ mắc bệnh viêm mũi. Bệnh thường tái phát nhiều lần, trẻ dưới 3 tuổi có thể viêm mũi 4 - 6 lần trong một năm, tần số có thể tăng lên trong thời kỳ bé đi nhà trẻ, mẫu giáo. Vì vậy chúng ta cần theo dõi xử trí khi trẻ bị bệnh đề phòng biến chứng nguy hiểm. Độ tuổi dễ mắc … Viêm mũi là bệnh thường gặp ở trẻ nhỏ từ khoảng 6 tháng tuổi đến 7 - 8 tuổi. Đây là tình trạng viêm niêm mạc của hốc mũi và vùng họng mũi, vì khả năng miễn dịch ở trẻ còn kém nên rất dễ bị bệnh. Khi trẻ hít thở không khí đi từ ngoài vào đến phổi, cung cấp ôxy cho cơ thể đồng thời những tác nhân gây bệnh cũng vào theo. Nếu không được điều trị dứt điểm, bệnh tái phát nhiều lần sẽ dẫn đến biến chứng như viêm phổi, viêm tai, viêm tai giữa cấp, viêm xoang cấp... … và những biểu hiện Trẻ thường bị sốt và xuất hiện đột ngột nếu bệnh nhẹ, thì chỉ 37,5oc nếu bị bội nhiễm sốt khá cao có thể 39 - 40oC, trong 2-3 ngày. Ngoài ra trẻ bứt rứt, quấy khóc, kém ăn, đôi khi có nôn mửa, tiêu chảy… Ngạt mũi kèm theo chảy nước mũi trong hoặc mũi nhầy mủ và ho. Các biểu hiện nếu kéo dài trên 7 ngày phải đề phòng có những biến chứng của viêm mũi. Xử trí khi bị viêm mũi Khi trẻ bị viêm mũi, hàng ngày cần nhỏ mũi cho trẻ bằng dung dịch nước muối 0,9%, ngày 3 - 4 lần cho đến khi trẻ hết chảy nước mũi, dạy trẻ biết cách xì mũi đúng (bịt một bên, xì mũi bên kia). Cho trẻ ăn đủ chất dinh dưỡng thịt, cá, trứng, đậu, rau củ quả chín... giúp trẻ nhanh hồi phục. Nếu trẻ sốt cao trên 38oC, cần hạ sốt bằng phương pháp lau mát và dùng thuốc hạ sốt theo chỉ định của thầy thuốc. Lau mát bằng khăn bông nhúng nước ấm (bằng thân nhiệt của trẻ) vắt kiệt, lau khắp người trẻ. Cho trẻ mặc quần áo mỏng, thoáng, nơi trẻ nằm phải thoáng nhưng tránh gió lùa. Cần phải theo dõi nhiệt độ cho trẻ thường xuyên. Ngoài ra cho trẻ uống nhiều nước vì sốt làm mất nước. Đặc biệt chú ý khi trẻ đang bị viêm mũi bỗng nhiên thấy sốt cao phải đề phòng biến chứng cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất để được khám và điều trị. Phòng bệnh như thế nào? Khi thời tiết thay đổi cần giữ ấm khi trời trở lạnh. Giữ gìn vệ sinh nhà cửa, nơi ngủ. Không dùng tay ngoáy mũi để tránh tổn thương niêm mạc mũi. Hàng ngày dùng nước ấm hoặc nước muối sinh lý để vệ sinh, rửa mũi. Vệ sinh mũi giúp loại bỏ gỉ mũi, chất nhầy, giúp ngăn ngừa và góp phần tránh các bệnh viêm nhiễm hô hấp như: Viêm mũi, nghẹt mũi, hắt xì và viêm xoang. Khi thấy viêm mũi kéo dài trên 7 ngày hoặc có triệu chứng nặng hơn như đau tai, khàn tiếng, khó thở phải kịp thời đưa trẻ đến cơ sở y tế để được thăm khám và điều trị. BS. Nguyễn Văn Tuấn - Báo Sức khỏe & Đời số Dinh dưỡng phát triển trí não trẻ em Cập nhật ngày: 20/05/2010 16:42:30 | Lượt xem: 11990 Làm cha mẹ ai cũng mong muốn có đứa con thông minh và khỏe mạnh. Vậy trí thông minh do những yếu tố nào quyết định? Thực sự có những loại thực phẩm nào ăn vào để phát triển sự thông minh của trẻ hay không? Sự phát triển trí thông minh ở trẻ phụ thuộc vào 3 yếu tố: - Do di truyền (do gen) - Do chế độ dinh dưỡng - Do sự rèn luyện, học tập, môi trường sống Như vậy thực sự không thể có một loại thực phẩm nào có thể làm trẻ thông minh, mà các chất dinh dưỡng chỉ có tác dụng hỗ trợ để phát huy những tiềm năng di truyền về gen thông minh đã sẵn có. Ngoài ra sự giáo dục, rèn luyện học tập cũng có tác dụng hỗ trợ cho trí thông minh phát triển. Tuy nhiên nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số chất dinh dưỡng nếu bị thiếu hụt cũng ảnh hưởng đến sự phát triển trí não ở trẻ em đó là: 1. Chất đạm (protein): Protein là vật liệu xây dựng nên các tế bào mô, cơ quan, cung cấp các nguyên liệu cần thiết cho sự hình thành các dịch tiêu hóa, các nội tiết tố, các men và các vitamin. Khi thiếu chất đạm sẽ ảnh hưởng sự phát triển của cơ thể nói chung và não bộ nói riêng. 2. Iốt: Khi trong thực phẩm thiếu iốt thì không những lượng iốt di chuyển qua nhau thai của người mẹ sang bào thai sẽ không đủ để đáp ứng sự phát triển não bộ tối ưu, mà nguy cơ hàm lượng iốt trong sữa mẹ cũng sẽ rất thiếu dẫn đến suy giảm sự phát triển não bộ và dẫn đến bệnh đần độn do thiểu năng tuyến giáp. 3. Sắt: Sắt là thành phần của huyết sắc tố myoglobin, các xitrocrom và nhiều engym khác. Sắt vận chuyển oxy và giữ vai trò quan trọng trong hô hấp tế bào. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh thiếu sắt đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển não bộ trong thời thơ ấu. Trẻ bị thiếu máu thiếu sắt có chỉ số phát triển tâm thần và vận động thấp hơn trẻ cùng trang lứa cùng môi trường sống. Khi trẻ đã lớn thiếu máu thiếu sắt cũng ảnh hưởng đến sự phát triển trí nhớ và ảnh hưởng đến kết quả học tập do ngủ gật trong giờ học và thiếu oxy não. 4. Các axit béo không no chuỗi dài: Thành phần của não bộ có đến 60% là chất béo. Trong đó DHA (Docosahexaenoic Acid) và ARA (Arachidonic Acid) là các thành phần lipid chính của não. Trong thời gian có thai người mẹ huy động DHA và ARA để hỗ trợ cho sự phát triển não bộ thai nhi. Người mẹ tiếp tục cung cấp hai dưỡng chất quan trọng này qua nguồn sữa của mình nên nuôi con bằng sữa mẹ làm tăng chỉ số thông minh của trẻ. Trẻ được bú sữa mẹ có chỉ số thông minh (IQ) cao hơn trẻ bú bình từ 3 - 5 điểm. Ngoài 4 chất dinh dưỡng kể trên còn nhiều các vi chất dinh dưỡng khác như: kẽm, magiê, đồng, crom, selen…cũng rất quan trọng cho sự phát triển cơ thể của trẻ cũng như não bộ. Vậy muốn con thông minh, các bà mẹ cần phải làm gì? Trước và trong thời kỳ mang thai, thời gian cho con bú người mẹ phải ăn uống đầy đủ các dưỡng chất quan trọng để phát triển tốt não đó là: chất đạm, iốt, sắt, axit folic, các axit béo chưa no (DHA, ARA) có trong các loại thực phẩm như thịt, cá, tôm, cua, trứng, sữa, rau xanh và quả chín. Người mẹ nên ăn nhiều cá nhất là các loại cá biển có chứa nhiều axit béo chưa no (DHA, ARA), uống thêm dầu gan cá, ăn các loại dầu thực vật (dầu đậu nành, dầu oliu…) cũng cung cấp các tiền DHAvà ARA, đó là các anpha linolenic, axit linoleic…khi vào trong cơ thể sẽ được tổng hợp thành DHA và ARA. Nhiều nghiên cứu đã được chứng minh khi có thai bà mẹ ăn cá thường xuyên > 5 lần/tuần sinh ra con có chỉ số IQ cao hơn 8 điểm so với các bà mẹ không ăn cá trong thời kỳ mang thai. Tiếp tục 2 năm cho con bú nếu bà mẹ thường xuyên ăn cá, dầu thực vật thì nguồn DHA và ARA trong sữa cao giúp cho sự phát triển thị lực và trí não của trẻ. Trong giai đoạn quan trọng của 2 năm đầu đời, thời kỳ ăn dặm (từ 7 tháng - 3 tuổi): Trẻ cần được ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng để cung cấp chất đạm, chất sắt, qua nguồn thức ăn động vật như thịt, cá, trứng, sữa, ăn muối, nước mắm có bổ sung iốt. Các axit béo không no từ dầu ăn, dầu gan cá, cá biển, các loại vitamin và muối khoáng khác từ nguồn rau xanh và quả chín, uống các loại sữa có bổ sung DHA, ARA, Iốt, sắt, taurin và các vi chất dinh dưỡng khác. Như vậy muốn có đứa con thông minh, khỏe mạnh các bà mẹ phải chuẩn bị từ trước khi mang thai 1 - 3 tháng. Ăn uống đầy đủ khi mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn bổ sung đầy đủ và hợp lý thì trẻ sẽ phát triển tốt về thể lực và trí não, kết hợp với việc giáo dục và môi trường sống tốt chúng ta sẽ có những trẻ em thông minh và khỏe mạnh, trở thành nguồn nhân tài cho đất nước mai sau. Có phải uống nhiều sữa thì trẻ sẽ cao? Cập nhật ngày: 20/05/2010 16:43:43 | Lượt xem: 9813 Làm cha mẹ ai cũng mong muốn con mình cao lớn khoẻ mạnh có một thân hình cân đối và một chiều cao lý tưởng, họ tìm mọi cách miễn làm sao cho con cao là được. Hàng ngày phải tiếp rất nhiều các ông bố bà mẹ đến tư vấn tôi được nghe nhiều các câu hỏi: “bác ơi uống loại sữa nào cho cháu cao hả bác?” hoặc “có loại thuốc nào uống vào cho cháu cao lên không?”... Có bà mẹ tâm sự: “Em và bố cháu đều thấp, sợ con mình sau này bị lùn em đã cho cháu uống rất nhiều sữa, toàn những loại đắt tiền thế mà chẳng thấy cháu cao lên gì cả”. Trường hợp này thì ta có thể đổ cho yếu tố di truyền nhưng lại có những trường hợp cả bố và mẹ đều cao cháu cũng uống khá nhiều sữa mà sao vẫn thấp. Nhưng ngược lại có trường hợp bố mẹ thấp nhưng cháu được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt thì lại cao đúng theo tiêu chuẩn. Vậy thì chiều cao do cái gì quyết định?Chiều cao phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố: yếu tố di truyền, dinh dưỡng, môi trường sống, tình trạng bệnh tật và vấn đề luyện tập thể dục thể thao. Đã có nhiều công trình nghiên cứu chứng minh dinh dưỡng có vai trò rất quan trọng với sự phát triển chiều cao của trẻ. Một điều chúng ta dễ nhận thấy ở nước ta hiện nay đó là trẻ em ở thành phố cao hơn trẻ em nông thôn là do trẻ em thành phố được chăm sóc tốt hơn có chế độ ăn uống đầy đủ. Để có sự tăng trưởng chiều cao liên tục, cơ thể trẻ cần được nhận đầy đủ năng lượng cần thiết hàng ngày, trẻ có tăng cân tốt thì mới tăng chiều cao được. Ngoài vấn đề năng lượng thì những vi chất dinh dưỡng đã được các nhà khoa học chứng minh là có liên quan đến tăng trưởng chiều cao đó là: Vitamin A, vitamin D, lysin, canxi, sắt, kẽm, iốt. Vitamin D có vai trò rất quan trọng trong chuyển hoá, canxi và phốt pho là hai khoáng chất quan trọng để phát triển xương. Nếu thiếu vitamin D thì ruột sẽ không thể hấp thu được canxi và phốt pho dẫn đến trẻ bị còi xương, mà còi xương ảnh hưởng rất nhiều đến sự phát triển chiều cao. Vitamin D có rất ít trong thức ăn, nguồn vitamin D chủ yếu là da tự tổng hợp được khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Vậy nên một đứa trẻ dù có uống nhiều sữa nhưng suốt ngày bị nhốt trong nhà không được tắm nắng để tổng hợp vitamin D thì canxi không thể hấp thu được, mà canxi là yếu tố quan trọng để phát triển chiều cao. Vitamin A cũng giúp cho sự tăng trưởng của xương, giúp tăng cường miễn dịch trẻ ít bị ốm đau thì sẽ có cơ hội để cao lớn hơn. Một yếu tố vi lượng rất quan trọng để phát triển chiều cao của trẻ đó là kẽm, kẽm tham gia vào rất nhiều thành phần các enzyme trong cơ thể giúp tăng tổng hợp protêin, phân chia tế bào, thúc đẩy sự tăng trưởng, trẻ em thiếu kẽm thường biếng ăn, còi cọc và chậm lớn. Iốt là thành phần của nội tiết tố tuyến giáp, nội tiết tố này có vai trò thúc đẩy sự tăng trưởng của cơ thể, khi thiếu iốt trẻ sẽ bị thiểu năng tuyến giáp có thể bị lùn do suy giáp trạng. Ngoài việc cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng trẻ muốn cao lớn còn phải được ngủ đủ giấc, nhất là giấc ngủ ban đêm. Hormon tăng trưởng do tuyến yên tiết ra cao nhất là vào ban đêm khoảng 11 – 12 giờ đêm khi mà trẻ đã ngủ say, cho trẻ em ngủ quá muộn, ngủ nhiều ban ngày thì lượng hormon tiết ra rất ít, trẻ thường chậm lớn, chậm phát triển chiều cao. Vì vậy vấn đề chăm sóc giấc ngủ cho trẻ đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát triển chiều cao. Một số yếu tố khác cũng liên quan đến phát triển chiều cao đó là môi trường sống, bệnh tật và đặc biệt là vấn đề vận động thể lực. Một đứa trẻ không thể cao lớn được trong một môi trường sống ô nhiễm (khói thuốc lá, khói than tổ ong, khói xe, bụi...) thường xuyên bị bệnh tật ốm đau và suốt ngày bị giữ trong nhà. Mặt khác sự tăng trưởng chiều cao của trẻ có 3 giai đoạn quan trọng nhất: Giai đoạn trong bào thai, giai đoạn dưới 2 tuổi và giai đoạn tiền dậy thì và dậy thì (trẻ trai: 13 – 16 tuổi, trẻ gái 10 – 13 tuổi). Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai, đẻ ra nhẹ cân, thiếu chiều cao thì sau này cũng khó mà cao được. Hoặc giai đoạn dưới 2 tuổi trẻ bị suy dinh dưỡng nhất là suy dinh dưỡng thể thấp còi thì nguy cơ thấp chiều cao sau này là rất lớn (vì chiều cao của trẻ lúc 2 tuổi bằng # chiều cao của trẻ lúc trưởng thành). Và giai đoạn dậy thì cũng rất quan trọng, ở giai đoạn này trẻ có thể tăng 10 – 15cm/ năm. Nếu trẻ được chăm sóc dinh dưỡng tốt và tập thể dục thể thao như: chạy, bơi lội, tập xà... thì có thể cải thiện được chiều cao rất tốt. Như vậy có rất nhiều yếu tố liên quan đến sự phát triển chiều cao của trẻ, nếu chỉ quan tâm đến việc cho trẻ uống nhiều sữa để phát triển chiều cao thì chưa đủ. Sữa đúng là một thực phẩm rất tốt có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng giúp trẻ tăng trưởng và phát triển chiều cao, sữa là nguồn cung cấp canxi quan trọng nhất là trẻ được nuôi bằng sữa mẹ thì có cơ hội cao lớn hơn những trẻ không có sữa mẹ. Vì canxi trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn canxi trong sữa bò. Khi cai sữa mẹ trẻ cần được bổ sung các loại sữa bột công thức theo tuổi, hoặc uống sữa tươi khi trẻ đã lớn. Vậy muốn trẻ phát triển chiều cao tốt các bậc cha mẹ cần phải làm gì? Trẻ cần có một chế độ dinh dưỡng hợp lý: ăn đủ năng lượng, cân đối thành phần các chất dinh dưỡng, cung cấp đầy đủ các vitamin và khoáng chất nhất là các vi chất dinh dưỡng có liên quan đến phát triển chiều cao: Vitamin A, vitamin D, lysin, canxi, sắt, kẽm, iốt. Bằng cách: ăn đủ bữa theo lứa tuổi, bú sữa mẹ hoặc ăn sữa bột công thức theo tháng tuổi, khi cai sữa mẹ vẫn duy trì uống 500 – 600ml sữa/ngày. Sử dụng muối iốt khi nấu thức ăn cho trẻ, ăn đa dạng các loại thực phẩm để nhận được đầy đủ các chất dinh dưỡng có liên quan đến tăng trưởng. Cho trẻ tắm nắng hàng ngày để da tổng hợp đủ vitamin D cho cơ thể. Trẻ cần được ngủ đủ giấc vào ban đêm, không để trẻ ngủ muộn sau 10h đêm. Tạo điều kiện cho trẻ được sống trong môi trường không ô nhiễm, tăng cường cho trẻ được vận động thể lực từ khi còn nhỏ. coppy cho các mẹ tham khảo
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh có đk tốt nhất là ra ở riêngmình là mình rất tâm đắc câu Xa thơm gần thối
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh hết cho kon ăn kiểu nhật giờ lại cho kon ăn kiểu Pháp nh vấn đề học hỏi thật
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh mình ko dám cho bé ăn phômai, bố mẹ cứ ngăn cản ấy
Re: Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh Cứ cho bé ăn một ít dần dần thử xem + in luôn 1 tập tài liệu ăn dặm nhờ bố mẹ nghiên cứu , nếu thấy bé thích chắc các cụ cũng chiều theo thôi Mà mới có vấn đề ăn thôi đấy ), còn nhiều vấn đề khác nữa thì ngất Nhà mình chắc không ở riêng được rồi, chỉ hi vọng sẽ không có vấn đề gì quá to tát, amen
Ðề: Ăn dặm kiểu Pháp cho con cứng cáp và khỏe mạnh nghe có vẻ lạ, nhưng không biết có phù hợp với con mình không, không phải bé nào cũng hợp đâu