Em sưu tầm được cái này thấy hay muốn chia sẻ với các mẹ ạ Nguyên-Tắc Cúng, Khấn, Vái, và Lạy Khải-Chính Phạm Kim-Thư I. Nghi-Thức Cúng Gia-Tiên Khi cúng thì chủ gia đình phải bầy đồ lễ cùng với hoa quả theo nguyên-tắc “đông bình tây quả,” r***, và nước. Sau đó, phải đốt đèn (đèn dầu, đèn cầy, hay đèn điện), thắp nhang, đánh chuông, khấn, và cúng trước rồi những người trong gia đình theo thứ tự trên dưới cúng sau. Nhang (hương) đèn để mời và chuông để thỉnh tổ tiên. Khi cúng thì phải chắp tay đưa lên ngang trán khấn. Khấn là lời trình với tổ tiên về ngày cúng liên quan đến tên người quá cố, ngày tháng năm ta và tây, tên địa phương mình ở, tên mình và tên những người trong gia đình, lý do cúng và lời cầu nguyên, v.v.. Riêng tên người quá cố ta phải khấn rõ nhỏ. Sau khi khấn rồi, tuỳ theo địa vị của người cúng và người quá cố mà vái hay lạy. Nếu bố cúng con thì chỉ vái bốn vái mà thôi. Nếu con cháu cúng tổ tiên thì phải lạy bốn lạy. Chúng ta cần hiểu cho rõ về ý nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy. II. Định-Nghĩa của Cúng, Khấn, Vái, và Lạy a. Cúng Khi có giỗ Tết, gia-chủ bày hoa (bông) quả, nước, r***, cỗ-bàn, chén bát, đũa, muỗng (thìa) lên bàn thờ rồi thắp nhang (hương), thắp đèn, đốt nến (đèn cầy), khấn, vái, hay lạy để tỏ lòng hiếu-kính, biết ơn, và cầu phước-lành. Đây là nghĩa rộng của cúng. Trong nghĩa bình-thường, cúng là thắp nhang (hương), khấn, lạy,và vái. b. Khấn (*) Khấn là lời cầu-khẩn lầm-rầm trong miệng khi cúng, tức là lời nói nhỏ liên-quan đến các chi-tiết về ngày tháng năm, nơi-chốn, mục-đích buổi cúng lễ, cúng ai, tên những người trong gia đình, lời cầu xin, và lời hứa. Sau khi khấn, người ta thường vái vì vái được coi là lời chào kính-cẩn. Người ta thường nói khấn vái là vậy. Trong truyện Kiều, Nguyễn Du dùng từ khấn vái trong câu “Lầm rầm khấn vái nhỏ to,/ Sụp ngồi đặt cỏ trước mồ bước ra.” (câu 95-96) c. Vái Vái thường được áp-dụng ở thế đứng, nhất là trong dịp lễ ở ngoài trời. Vái thay thế cho lạy ở trong trường hợp này. Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái (xem phần sau). d. Lạy Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau. - Thế Lạy Của Đàn Ông Thế lạy của đàn ông là cách đứng thẳng theo thế nghiêm, chắp hai tay trước ngực và dơ cao lên ngang trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống gần tới mặt chiếu hay mặt đất thì xòe hai bàn tay ra đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối bên trái rồi gối bên phải xuống đất, và cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ- phục. Sau đó cất người lên bằng cách đưa hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái lúc bấy giờ đã co lên và đưa về phía trước ngang với đầu gối chân phải đang quì để lấy đà đứng dậy, chân phải đang quì cũng theo đà đứng lên để cùng với chân trái đứng ở thế nghiêm như lúc đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy (xem phần Ý-Nghĩa của Lạy dưới đây). Khi lạy xong thì vái ba vái rồi lui ra. Có thể quì bằng chân phải hay chân trái trước cũng được, tùy theo thuận chân nào thì quì chân ấy trước. Có điều cần nhớ là khi quì chân nào xuống trước thì khi chuẩn-bị cho thế đứng dậy phải đưa chân đó về phía trước nửa bước và tì hai bàn tay đã chắp lại lên đầu gối chân đó để lấy thế đứng lên. Thế lạy theo kiểu này rất khoa-học và vững-vàng. Sở-dĩ phải quì chân trái xuống trước vì thường chân phải vững hơn nên dùng để giữ thế thăng-bằng cho khỏi ngã. Khi chuẩn-bị đứng lên cũng vậy. Sở-dĩ chân trái co lên đưa về phía trước được vững-vàng là nhờ chân phải có thế vững hơn để làm chuẩn. Thế lạy phủ-phục của mấy nhà sư rất khó. Các Thầy phất tay áo cà sa, đưa hai tay chống xuống ngay mặt đất và đồng-thời quì hai đầu gối xuống luôn. Khi đứng dậy các Thầy đẩy hai bàn tay lấy thế đứng hẳn lên mà không cần phải để tay tỳ lên đầu gối. Sở dĩ được như thế là nhờ các Thầy đã tập-luyện hằng-ngày mỗi khi cúng Phật. Nếu thỉnh-thoảng quí cụ mới đi lễ chùa, phải cẩn-thận vì không lạy quen mà lại bắt chước thế lạy của mấy Thầy thì rất có thể mất thăng-bằng. - Thế Lạy Của Đàn Bà Thế lạy của các bà là cách ngồi trệt xuống đất để hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân phải ngửa lên để ở phía dưới đùi chân trái. Nếu mặc áo dài thì kéo tà áo trước trải ngay ngắn về phía trước và kéo vạt áo sau về phía sau để che mông cho đẹp mắt. Sau đó, chắp hai bàn tay lại để ở trước ngực rồi đưa cao lên ngang với tầm trán, giữ tay ở thế chắp đó mà cúi đầu xuống. Khi đầu gần chạm mặt đất thì đưa hai bàn tay đang chắp đặt nằm úp xuống đất và để đầu lên hai bàn tay. Giữ ở thế đó độ một hai giây, rồi dùng hai bàn tay đẩy để lấy thế ngồi thẳng lên đồng-thời chắp hai bàn tay lại đưa lên ngang trán như lần đầu. Cứ theo thế đó mà lạy tiếp cho đủ số lạy cần thiết (xem phần Ý Nghĩa của Lạy dưới đây). Lạy xong thì đứng lên và vái ba vái rồi lui ra là hoàn tất thế lạy. Cũng có một số bà lại áp dụng thế lạy theo cách quì hai đầu gối xuống chiếu, để mông lên hai gót chân, hai tay chắp lại đưa cao lên đầu rồi giữ hai tay ở thế chắp đó mà cúi mình xuống, khi đầu gần chạm mặt chiếu thì xòe hai bàn tay ra úp xuống chiếu rồi để đầu lên hai bàn tay. Cứ tiếp tục lạy theo cách đã trình bày trên. Thế lạy này có thể làm đau ngón chân và đầu gối mà còn không mấy đẹp mắt. Thế lạy của đàn ông có vẻ hùng-dũng, tượng trưng cho dương. Thế lạy của các bà có tính cách uyển-chuyển tha-thướt, tượng-trưng cho âm. Thế lạy của đàn ông có điều bất-tiện là khi mặc âu-phục thì rất khó lạy. Hiện nay chỉ có mấy vị cao-niên còn áp-dụng thế lạy của đàn ông, nhất là trong dịp lễ Quốc-Tổ. Còn phần đông, người ta có thói quen chỉ đứng vái mà thôi. Thế lạy của đàn ông và đàn bà là truyền-thống rất có ý-nghĩa của người Việt ta. Nó vừa thành-khẩn vừa trang-nghiêm trong lúc cúng tổ-tiên. Nếu muốn giữ phong-tục tốt đẹp này, các bạn nam nữ thanh-niên phải có lòng tự-nguyện. Muốn áp-dụng thế lạy, nhất là thế lạy của đàn ông, ta phải tập-dượt lâu mới nhuần-nhuyễn được. Nếu đã muốn thì mọi việc sẽ thành. III . Ý-Nghĩa của Lạy và Vái Số lần lạy và vái đều mang một ý-nghĩa rất đặc-biệt. Sau đây chúng tôi xin trình-bày về ý-nghĩa của vái và lạy. Đây là phong-tục đặc-biệt của Việt Nam ta mà người Tàu không có tục-lệ này. Khi cúng, người Tàu chỉ lạy 3 lạy hay vái 3 vái mà thôi. a. Ý-Nghĩa Của 2 Lạy và 2 Vái Hai lạy dùng để áp-dụng cho người sống như trong trường-hợp cô dâu chú rể lạy cha mẹ. Khi đi phúng-điếu, nếu là vai dưới của người quá-cố như em, con cháu, và những người vào hàng con em, v.v., ta nên lạy 2 lạy. Nếu vái sau khi đã lạy, người ta thường vái ba vái. Ý-nghĩa của ba vái này, như đã nói ở trên là lời chào kính-cẩn, chứ không có ý-nghĩa nào khác. Nhưng trong trường- hợp người quá-cố còn để trong quan-tài tại nhà quàn, các người đến phúng- điếu, nếu là vai trên của người quá-cố như các bậc cao-niên, hay những người vào hàng cha, anh, chị, chú, bác, cô, dì, v. v., của người quá-cố, thì chỉ đứng để vái hai vái mà thôi. Khi quan-tài đã được hạ-huyệt, tức là sau khi chôn rồi, người ta vái người quá cố 4 vái. Theo nguyên lý âm-dương, khi chưa chôn, người quá-cố được coi như còn sống nên ta lạy 2 lạy. Hai lạy này tượng-trưng cho âm dương nhị khí hòa-hợp trên dương-thế, tức là sự sống. Sau khi người quá cố được chôn rồi, phải lạy 4 lạy. b. Ý-Nghĩa Của 3 Lạy và 3 Vái Khi đi lễ Phật, ta lạy 3 lạy. Ba lạy tượng-trưng cho Phật, Pháp, và Tăng (xin xem bài về “Nghĩa Đích Thực của Quy Y Tam Bảo” đã được phổ biến trước đây và sẽ được nhuận sắc và phổ biến). Phật ở đây là giác, tức là giác-ngộ, sáng-suốt, và thông hiểu mọi lẽ. Pháp là chánh, tức là điều chánh-đáng, trái với tà ngụy. Tăng là tịnh, tức là trong-sạch, thanh-tịnh, không bợn-nhơ. Đây là nói về nguyên-tắc phải theo. Tuy-nhiên, còn tùy mỗi chùa, mỗi nơi, và thói quen, người ta lễ Phật có khi 4 hay 5 lạy. Trong trường-hợp cúng Phật, khi ta mặc đồ Âu-phục, nếu cảm thấy khó-khăn trong khi lạy, ta đứng nghiêm và vái ba vái trước bàn thờ Phật. c. Ý-Nghĩa Của 4 Lạy và 4 Vái Bốn lạy để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh-thần. Bốn lạy tượng-trưng cho tứ-thân phụ-mẫu, bốn phương (đông: thuộc dương, tây: thuộc âm, nam: thuộc dương, và bắc: thuộc âm), và tứ-tượng (Thái Dương,Thiếu Dương, Thái Âm, Thiếu Âm). Nói chung, bốn lạy bao-gồm cả cõi âm lẫn cõi dương mà hồn ở trên trời và phách hay vía ở dưới đất nương vào đó để làm chỗ trú-ngụ. Bốn vái dùng để cúng người quá-cố như ông bà, cha mẹ, và thánh thần, khi không thể áp-dụng thế lạy. d.Ý-Nghĩa Của 5 Lạy và 5 Vái Ngày xưa người ta lạy vua 5 lạy. Năm lạy tượng-trưng cho ngũ-hành (kim, mộc, thuỷ, hỏa, và thổ), vua tượng-trưng cho trung-cung tức là hành-thổ màu vàng đứng ở giữa. Còn có ý-kiến cho rằng 5 lạy tượng-trưng cho bốn phương (đông, tây, nam, bắc) và trung-ương, nơi nhà vua ngự. Ngày nay, trong lễ giỗ Tổ Hùng-Vương, quí-vị trong ban tế lễ thường lạy 5 lạy vì Tổ Hùng-Vương là vị vua khai-sáng giống nòi Việt. Năm vái dùng để cúng Tổ khi không thể áp-dụng thế lạy vì quá đông người và không có đủ thì-giờ để mỗi người lạy 5 lạy. IV Kết Luận Phong tục có được là do thói quen mà mọi người đã chấp nhận, nhiều khi không giải thích được lý do tại sao lại như thế mà chỉ biết làm theo cho đúng thôi. Trong mỗi gia đình Việt Nam, dù theo đạo nào cũng vậy, chúng ta, con dân nước Việt, hãy cố gắng thiết lập một bàn thờ gia tiên. Có như thế, con cháu ta mới có cơ hội học hỏi cách thiết lập bàn thờ gia tiên, và hiểu được ý nghĩa của việc thờ cúng ra sao. Thờ cúng là cách biểu thị lòng nhớ ơn tổ tiên cũng như lòng thương và hiếu thảo đối với ông bà cha mẹ. Đây là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt mà chúng ta cần phải duy trì. Khải-Chính Phạm Kim-Thư (*) Góp ý thêm của TRANG CHỦ: Lời khấn vái là lời nói chuyện với người quá cố, do đó lời khấn là tấm lòng của người còn sống. thì muốn khấn sao cũng được. Tuy nhiên người xưa cũng đã đặt ra lễ khấn và lời khấn. Lễ khấn gồm các thủ tục như sau: (Chỉ nhớ đại khái mong quý vị cao niên dạy dỗ thêm cho để hiệu đính cho đúng để đời sau dùng) 1. Sau khi mâm cỗ đã đặt xong thì gia trưởng ăn mặc chỉnh tề (ngày xưa thì khăn đống áo dài) đi ra mở cửa chính. Ở xứ lạnh thì cũng phải ráng hé cửa chứ không đóng được cửa kín mít. 2. Sau đó phải khấn xin Thành Hoàng Thổ địa để họ không làm khó dễ Linh về hưởng lễ giỗ. 3. Và sau đây là một đoạn khấn theo lối xưa: Duy .....quốc.....Tỉnh/Thị xa.... trang/gia tại... (số nhà). Việt lịch thứ 488..., thử nhật ... (ngày âm lịch) húy nhật gia phụ/mẫu/Tằng tổ v.v. là Hiển khảo/Tỷ.. (tên) (cho đàn bà thì là hiển tỷ; với ông nội ngọai thì thêm chữ tổ - hiển tổ khảo/tỷ), Hiếu tử/nữ/tôn v.v là (Tên) tâm thành kính cáo thành hoàng và thổ thần bản địa, tiền chủ tiếp dẫn gia phụ mẫu/cô di v.v. (Người được giỗ hôm nay) đồng cung thỉnh Cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ tỷ, liệt vị tổ tiên, hiển tổ khảo, hiển tổ tỷ, cô di tỷ muội, nội ngoại đồng giai lâm, tọa ngự linh sàn chứng giám. Cẩn cáo. Cúng giỗ Theo tập quán lâu đời, dân ta lấy ngày giỗ (ngày mất) làm trọng, cho nên ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Ðây cũng là dịp gặp mặt người thân trong gia đình trong dòng họ, họp mặt để tưởng nhớ người đã khuất và bàn việc người sống giữ gìn gia phong. Vào dịp đó người ta thường tổ chức ăn uống, nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng sau ăn, cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng, kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa "Uống nước nhớ nguồn" việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục. * Ngày cúng giỗ Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật, tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ. Nguyên ngày trước, "Lễ giỗ" gọi là "Lễ chính kỵ"; chiều hôm trước lễ chính kỵ có "lễ tiên thường" (nghĩa là nếm trước), con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước. Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch, người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần nhưng hương hoa, trầu r*** vẫn cúng cả hai lễ. Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều, cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng. * Mấy đời tống giỗ Theo gia lễ: "Ngũ đại mai thần chủ", hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo. Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ) tức là kỵ (hay can),; cụ (hay cô), ông bà, cha mẹ. Từ "Cao" trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ. * Cúng giỗ người chết yểu Những người đã đến tuổi thành thân, thành nhân nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai hoặc có con trai nhưng con trai cũng chết, trở thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự. Những người chưa đến tuổi thành thân (dưới 16 hoặc dưới 18 tuổi, tuỳ theo tục lệ địa phương) sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mân, coi như người thân còn sốngtrong gia đình. Ðiều này không có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với thân nhân đã khuất. Giỗ tết, Tế lễ Quan niệm cổ xưa không riêng ta mà nhiều dân tộc trên thế giới mọi vật do tạo hóa sinh ra đều có linh hồn, mỗi loại vật, kể cả khoáng vật, thực vật cũng có cuộc sống riêng của nó. Mọi vật trong tạo hoá hữu hình hay vô hình, cụ thể hay trừu tượng đều mang khái niệm âm dương, đều có giống đực giống cái. Ðó là xuất xứ tục bái vật hiện tồn tại ở nhiều dân tộc trên thế giới và một vài dân tộc ở miền núi nước ta. Ở ta, hòn đá trên chùa, cây đa đầu đình, giếng nước, cửa rừng cũng được nhân dân thờ cúng, coi đó là biểu tượng, nơi ẩn hiện của vị thiên thần hay nhân thần nào đó. Người ta "sợ thần sợ cả cây đa" mà cúng cây đa, đó không thuộc tục bái vật. Cũng như người ta lễ Phật, thờ Chúa, quì trước tượng Phật, tượng Chúa, lễ Thần, quì trước long ngai của thần, nhưng thần hiệu rõ ràng, chứ không phải khúc gỗ hòn đá như tục bái vật. Ngày nay chỉ còn lại vài dấu vết trong phong tục. Thí dụ, bình vôi là bà chúa trong nhà, chưa ai định danh là bà chúa gì, nhưng bình vôi tượng trưng cho uy quyền chúa nhà, nhà nào cũng có bình vôi. Khi có dâu về nhà, mẹ chồng tạm lánh ra ngõ cũng mang bình vôi theo, có nghĩa là tạm lánh nhưng vẫn nắm giữ uy quyền. Khi lỡ tay làm vỡ bình vôi thì đem mảnh bình còn lại cất ở chỗ uy nghiêm hoặc đưa lên đình chùa, không vứt ở chỗ ô uế. Gỗ chò là loại gỗ quí, gỗ thiêng chỉ được dùng để xây dựng đình chùa, nhà thờ. Dân không được dùng gỗ chò làm nhà ở. Ngày xưa trong đám củi theo lũ cuốn về xuôi, nếu có gỗ chò, các cụ còn mặc áo thụng ra lạy.
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh mẹ nó có thể search trên net cách các sư thầy hướng dẫn cách lạy Phật. Việc khấn thì cũng đơn giản, hương hoa, trà quả và tuyệt đối ko được mang đồ mặn vào chùa Nếu mẹ nó chưa hiểu hoặc chưa thuộc được các bài kinh kệ, chú thì có thể làm theo hướng dẫn cách lạy Phật đã đựoc học ( mình để ý mọi người đi Chùa, đứng,đầu lạy như búa bổ củi, có khi vừa lạy, mắt thì nhìn xung quanh, khấn vái toàn cầu tài cầu lộc, không có sự thành kính, tôn nghiêm nơi cửa Chùa. Một vài lời chia sẻ
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh Ý nghĩa của nghi lễ trong Phật giáo - Lễ Phật là thể hiện lòng tôn kính với Phật, để trừ tâm ngã mạn, cao ngạo. Nếu một người không chịu quỳ gối trước ai thì người đó là người cao ngạo nhất, kết quả cũng chẳng tốt đẹp gì. Lạy Phật cũng là một phương pháp tập thể dục. Khi lạy cúi xuống ta thả lỏng người để thư giãn. Tối thiểu 5 giây hãy đứng dậy. Trong 5 giây này ta quán tưởng và nhìn lại mình, nghĩa là xem trong lòng còn tâm niệm gì nổi lên thì liền dẹp nó đi. - Lạy Phật là đứng chắp tay trước ngực, rồi quỳ xuống, cúi đầu xuống sát đất, xòe 2 bàn tay ngửa ra(tránh bẩn tay, tay còn dùng để dâng cúng Phật). Khi lạy Phật ta nên quán tưởng, hình dung đức Phật hiện ra trước mặt ta với đầy đủ tướng tốt, ta cúi xuống như ôm lấy chân ngài. Lễ Phật cũng chính là ta lạy Phật tính, đức Phật trong ta. - Lễ Tam bảo là lạy Phật, lạy Pháp, lạy Tăng. Ta nên quán tưởng trong không trung không thể cùng tận có rất nhiều Phật, rất nhiều kinh điển, rất nhiều tăng chúng. Nơi mỗi Phật đều có hình ta quỳ trước các ngài. - Đọc Kinh, Tụng Kinh là ôn lại những lời Phật dạy. Nguyên tắc cơ bản là đọc và hiểu được nghĩa kinh. Từng chữ đọc rõng rạc, không nhanh quá để cho mình và những người xung quanh hiểu được ý nghĩa của Kinh. - Niệm Phật là đọc danh hiệu của Phật. Đọc làm gì? Đọc đề nguyện tu theo ngài, đọc để cầu cho mình và mọi người được bình an. Đọc để dẹp trừ tâm niệm xấu, khi tâm niệm xấu hết rồi, khái niệm giữa ta và người, giữa sạch và bẩn không còn, chỉ còn thể tánh Phật mà, từ xưa tới nay vẫn tồn tại như vậy là Nhất tâm bất loạn. Là tâm Phật, là cảnh giới của chư Phật rồi. - Niệm cái gì thì thành cái nấy (mình niệm Phật sẽ thành Phật). Câu Phật hiệu A Di Đà đã niệm ba đời, 10 phương Chư Phật; tụng hết tất cả kinh Đại Thừa của Phật; tu hết môn, tông. Phái và Kinh Vô Lượng Thọ là kinh Trung Chi Vương, nghĩa là bộ kinh cao siêu nhất của Phật. Tại sao? Vì bộ kinh này đã đúc kết tất cả tinh hoa, cốt tủy cao thâm của hết thảy kinh giáo của Phật. - Tại sao có người niệm Phật hiệu A Di Đà và có người niệm đức Quán Thế Âm? thật ra đó là cách niệm của mỗi người, nhưng quý vị nên niệm câu Phật hiệu A Di Đà hơn. Tại Sao? Vì Quán Thế Âm cũng là Phật, khi chúng ta niệm danh hiệu A Di Đà, là đã niệm hết 10 phương Chư Phật và Chư Bồ Tát rồi. - Xin phân tích thêm cho quý vị hiểu, tại sao Phật dạy niệm Phật sẽ thành Phật: Phật thấy trong mỗi chúng sanh, tuy mang một thân thể, nhưng có nhiều tâm khác nhau, nhưng chung quy chỉ có bốn tâm làm căn bản (nói về chủng tử tâm) Tâm Phật, tâm người, tâm ma, tâm thú. Hằng ngày chúng ta niệm tâm gì, thì chúng ta thành tâm nấy. Niệm, đồng nghĩa với chiêm ngưỡng, và quán tưởng. Niệm từ bi A Di Đà, thì thành tâm Phật = sẽ thành Phật. Niệm lương tâm, đạo đức, thì thành tâm người =sẽ thành người. Niệm thần thông, tham sân, thì thành tâm ma =sẽ thành ma. Niệm ngu si, thì thành tâm thú =sẽ thành thú. Mời quí vị xem thêm CÁCH NIỆM PHẬT THIẾT YẾU Tác giả: Thích Chân Tính *** Phần lưu ý: Khi niệm Phật, chúng ta đừng câu nệ về vấn đề nhắm mắt hay mở mắt. Chúng ta phải biết uyển chuyển theo thân thể và sức khỏe của mình (nghĩa là khỏe thì mở mắt he hé, mệt thì nhắm mắt). Niệm Phật là tâm ta niệm, không phải mắt và thân ta niệm. Tâm là chính, thân chỉ là phụ trợ cho tâm mà thôi. Điều quan trọng là khi niệm Phật , tâm chúng ta luôn luôn thức tỉnh để giữ câu niệm Phật. Nếu chúng ta câu nệ vào hình thức quá nhiều, vô tình sẽ sanh ra phân biệt chấp trước. Còn phân biệt thì còn chướng ngại, còn chướng ngại thì không đạt đến an lạc tự tại. Tóm lại, chúng ta càng buông xả thì càng tự tại. - Ăn chay là một nét đẹp trong Phật giáo nhằm tôn trọng sự sống, muôn loài khi sinh ra đều có lòng ham sống(đức hiếu sinh) do đó ta ăn chay để nuôi dưỡng tấm lòng nhân từ của ta. Khi một con vật bị giết, nó sẽ căm hận người giết nó và để lại dư hưởng chất độc ở trong thịt. Ăn thịt động vật sẽ bị nhiễm độc đó. Nếu là người xuất gia nên đoạn tuyệt với thịt động vật, người tại gia nên ăn vừa phải để nuôi dưỡng thân thể. Đặc biệt, Phật tử tại gia có thể tùy theo hoàn cảnh nguyện ăn chay 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày v.v… để trừ tâm sát sinh nuôi dưỡng từ tâm. - Cúng dàng là gì? Cúng dàng là dâng phẩm vật. Cúng những gì? Cúng những đồ ăn, hoa quả thể hiện lòng tôn kính như khi Phật, thánh, cha mẹ còn ở tại thế. Nếu như cha mẹ mình còn vảng vất đâu đây thì cũng mát lòng bởi có đứa con hiếu thảo. Phật Thánh cũng vậy. Cúng dàng Pháp là nói, làm cho mọi người phát khởi lòng tin chân thật. Cúng dường Tăng là cung cấp những vật dụng giúp cho những người tu học được thuận lợi. Đặc biệt, những vị tu hành giữ giới, tu hành phạm hạnh. In Kinh, chép kinh, làm chùa, tô tượng, đúc chuông v.v… Đức Phật dạy nên hiếu thuận cha mẹ cũng giống như Phật. Do đó, khi cha mẹ còn sống, ta nên hiếu thuận với cha mẹ. Trước khi vào chùa, lễ Phật, ta nên rửa sạch thân thể, tay chân, mặc quần áo nghiêm chỉnh, thoải mái, trong đầu loại bỏ hết những suy nghĩ xấu. Một lòng hướng về Phật. - Mê tín và chính tín: Mê tín là si mê, tin tưởng một cái gì đó không có cơ sở dẫn đến mộng mị, mù quáng. Chính tín là tin tưởng một chân lý, một hành động có thật, có sự xác minh của rất nhiều người. Các vấn đề đặt với mê tín: - Cầu xin khi đi chùa: Đến chùa với để tìm thấy sự thanh thản trong lòng mỗi người, thể hiện sự biết ơn chư Phật, để cầu siêu cho ông bà cha mẹ, để nguyện làm những việc lành. Sự cầu ở đây là tự mình nguyện với mình sẽ làm việc thiện như mong cho cha mẹ khỏe mạnh, con cái học hành tốt v.v… Để sự cầu được thành thì ta phải làm những việc để nó mau thành. Đối với cha mẹ, phải hiếu thuận, chăm lo thì cha mẹ sẽ khỏe mạnh, đối với con cái phải dạy dỗ chúng thì mới tốt được. Lắm người đến chùa cầu xin đủ thứ, rồi cả việc trù ẻo cho người khác để đạt được việc mình. Như vậy hỏi có Phật nào phù hộ được chăng? Cầu xin việc lành thì sẽ được chư Phật, thần thánh gia hộ. Cầu xin việc ác thì chỉ có ma quỷ nghe thôi (chuaonline.com)
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh Phương Pháp Niệm Phật Cư Sĩ Lý Bỉnh Nam - Hỏi: Niệm Phật không chỉ là dùng miệng niệm mà phải chú tâm đúng không? - Ðáp: Có nhiều người miệng tuy niệm Phật nhưng chẳng để tâm vào đó, trong lòng toàn là suy xằng nghĩ loạn. Niệm như vậy cũng vô dụng. Miệng niệm Phật thì tâm phải tưởng Phật, tâm khẩu nhất như. Ngoại trừ một câu niệm Phật ra không còn nghĩ đến gì khác nữa, không còn có ý niệm nào khác khởi lên. Có vậy mới gọi là “Nhất Tâm Bất Loạn”, từ đó mới dễ thành công. - Hỏi: Như vậy chẳng phải là khó lắm ư? - Ðáp: Xem kìa! Một mặt quý vị chê niệm Phật quá dễ dàng, một mặt lại sợ nó quá khó. Thật sự ra, một pháp Niệm Phật đây, bảo là dễ thì nó cực dễ, bảo là khó thì nó cũng cực khó. Chẳng qua là chẳng cần biết là khó hay dễ, chỉ đáng kể mình có thể bền lòng niệm được nhiều hay không. Lâu ngày chầy tháng, tự nhiên tâm chẳng loạn nữa. Lời tục thường nói: “Trên đời không có việc gì khó, chỉ sợ tâm chẳng chuyên”, chính là ý này. Lại có một cách niệm Phật như sau: mỗi lúc niệm Phật, mỗi chữ phải phát xuất từ trong tâm. Trong tâm tưởng thật rõ ràng, miệng niệm cho thật rõ ràng, tai nghe thật rõ ràng. Mỗi một chữ phát xuất từ trong tâm, thấu qua tai lọt vào tâm, một chữ cũng chẳng để lọt mất. Tu tập lâu dài như vậy, tâm tự nhiên chẳng còn tán loạn. Ðấy chính là một phương pháp khẩn yếu bậc nhất, ngàn vạn phần chớ quên. - Hỏi: Nên niệm Phật vào lúc nào? - Ðáp: Nên niệm Phật vào hai thời sáng tối, lập một công khóa nhất định, hạn định số câu niệm Phật nhiều ít: hoặc là mấy trăm câu, mấy ngàn câu, tùy theo hoàn cảnh mỗi người mà định số. Chẳng cần biết là rảnh hay bận, không niệm đủ số đó không được. Còn ngoài ra thì chẳng cần biết là lúc nào, đang ở chỗ nào đều niệm được cả. Càng niệm nhiều càng tốt. Thời gian niệm càng lâu càng hay. - Hỏi: Vừa làm việc vừa niệm Phật được không? - Ðáp: Lúc đang vác củi, gánh nước cũng niệm Phật được. Lúc đang cọ nồi, rửa chén cũng niệm Phật được. Lúc cày bừa, cuốc xới, cắt cứa cũng niệm Phật được. Chẳng luận là đi, ngồi, ngủ nghê, thậm chí lúc đang đại tiểu tiện cũng đều có thể niệm Phật. Nói chung, trừ lúc phải dùng trí óc làm việc, ngoài ra thì dù đang làm gì cũng chẳng trở ngại việc niệm Phật cả. - Hỏi: Nên niệm Phật lớn tiếng hay là niệm nhỏ tiếng? - Ðáp: Niệm lớn tiếng cũng tốt, niệm nhỏ tiếng cũng hay. Miệng không niệm nhưng tâm thầm niệm cũng tốt. Chỉ trừ lúc đang nằm trên giường hay đang ở chỗ không sạch sẽ thì nên thầm niệm trong tâm, chẳng được niệm ra tiếng. Niệm ra tiếng là không cung kính. Nhưng lúc gặp chuyện nguy cấp, chẳng cần biết là đang ở chỗ nào, cứ việc niệm ra tiếng. - Hỏi: Học Phật thì nên thờ hình Phật nào? - Ðáp: Thờ một mình đức A Di Ðà Phật hoặc tượng Tây Phương Tam Thánh đều được (A Di Ðà Phật và hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, Ðại Thế Chí gọi là Tây Phương Tam Thánh). - Hỏi: Nên thờ tượng Phật ở chỗ nào? - Ðáp: Nếu có phòng trống, dành riêng một phòng thờ Phật là tốt nhất. Nếu không có, thờ Phật ngay trong phòng mình ở cũng được. Nói chung là phải chọn nơi sạch sẽ. Trước tượng treo màn vải vàng, lúc không niệm Phật, buông màn xuống. Làm vậy để khỏi đến nỗi khinh nhờn. Tốt nhất là để tượng Phật hướng mặt về Ðông, người niệm Phật đối trước tượng Phật, hướng mặt về Tây. Nếu chẳng thể làm vậy được thì thờ tượng ở phương nào thuận tiện cũng được. - Hỏi: Nếu không có chỗ nào thuận tiện, không thờ Phật có được không? - Ðáp: Nếu thực sự không có chỗ nào thuận tiện, miễn sao tâm thành thì không thờ tượng Phật cũng được. Lúc niệm Phật hướng về Tây là ổn. - Hỏi: Nên dùng những thứ gì để cúng dường Phật? - Ðáp: Thông thường dùng hương, hoa, đèn, nước trong, trái cây v.v... Nếu không lo liệu được, thiếu một vài thứ hoặc không có thứ gì hết cũng xong. Nhưng tuyệt đối chẳng được cúng r*** hoặc đồ mặn cũng như đốt giấy tiền, vàng mã trước Phật. - Hỏi: Nên hành lễ trước Phật như thế nào? - Ðáp: Tùy ý. Hoặc là dập đầu lạy, hoặc là vái, hoặc khom mình, hoặc chắp tay; nhưng dập đầu lễ bái là cung kính nhất, có thể tiêu tội, tăng phước. - Hỏi: Lúc niệm Phật có nên quỳ trước mặt Phật không? - Ðáp: Chẳng nhất định. Quỳ niệm, đứng niệm, vừa đi vừa niệm đều được. Cốt yếu là phải thành tâm. Quỳ niệm rất tốt mà ngồi niệm cũng hay. - Hỏi: Cụ nói hai thời niệm Phật sáng tối, phải lập một khóa trình, phiền cụ lập cho tôi một khóa trình có phải là hay hơn không? - Ðáp: Khóa trình vốn là dựa theo thời gian, sức lực của chính mỗi người mà quy định. Ngài đã cầu tôi thì tốt nhất là tôi soạn ra một nghi thức thật đơn giản cho ngài vậy. Nếu như ngài có sức thì có thể hành trì thêm nhiều hơn, có thể thêm vào kinh Di Ðà, chú Vãng Sanh, kệ Tán Phật, văn Ðại Phát Nguyện. Những bài kinh ấy trong sách Thiền Môn Nhật Tụng có chép đủ cả, những chỗ lưu thông kinh Phật đều có. Khóa sáng thì lúc vừa ngủ dậy, khóa tối thì trước khi đi ngủ, rửa tay, súc miệng, đến trước tượng Phật, thắp nhang, dâng nước, chắp tay cung kính, rồi quỳ hoặc đứng, hoặc ngồi xếp bằng, dùng tâm chí thành niệm theo thứ tự sau: - Nam mô thập phương Thường Trụ Tam Bảo (niệm một lần, lễ một lạy). - Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (niệm một lần, lễ một lạy). - Nam mô Tây Phương Cực Lạc thế giới đại từ đại bi A Di Ðà Phật (niệm một lần, lễ một lạy). - Nam mô A Di Ðà Phật (trăm câu, ngàn câu, hai, ba ngàn câu, càng nhiều càng hay. Tùy mỗi người rảnh hay bận mà định số, nhưng phải từ ít tăng lên nhiều, chẳng được từ nhiều giảm ít đi. Vô luận niệm nhiều hay ít, chẳng cần phải lạy). - Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát (niệm một tiếng, lễ một lạy, hoặc niệm ba lần, lễ ba lạy). - Nam mô Ðại Thế Chí Bồ Tát (như trên). - Nam mô Thanh Tịnh Ðại Hải Chúng Bồ Tát (như trên). - Nguyện đem công đức này Trang nghiêm Phật Tịnh Ðộ. Trên đền bốn ân nặng. Dưới cứu khổ tam đồ Nếu có ai thấy nghe. Ðều phát lòng Bồ Ðề, Hết một báo thân này, Cùng sanh cõi Cực Lạc. (lễ ba lạy) - Hỏi: Khóa trình này rất hay, xin giảng thêm về chữ “thập phương Tam Bảo”. - Ðáp: Tám phương, phương trên và phương dưới gọi là mười phương. Phật, Pháp, Tăng là Tam Bảo. Phật là Giáo Chủ. Pháp là kinh điển để tu nhân chứng quả do Ðức Phật giảng. Tăng là những pháp tử chiếu theo lời Phật dạy tu hành, đã chứng thánh quả Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn, và các cao tăng đạo cao, đức trọng, hoằng pháp lợi sanh. Phật, Pháp, Tăng đều gọi là Bảo (quý báu) vì có thể phát sanh, tăng trưởng pháp thân, huệ mạng của hết thảy chúng sanh, giống như của báu trong thế gian có khả năng nuôi sống thân mạng của con người. Phải hiểu rằng khi niệm Tam Bảo chính là biểu thị mình hoàn toàn lấy Phật, kinh điển Phật nói và các vị Bồ Tát, cao tăng tu hành đúng theo lời Phật làm thầy của mình. Mình từ những vị đó quy hướng trở thành tín đồ Phật giáo. - Hỏi: Xin hỏi vì sao phải niệm Phật Thích Ca? - Ðáp: Là vì pháp môn Niệm Phật do chính Ngài dạy cho chúng ta. Niệm Phật lạy Ngài chính là chẳng dám quên bỏ nguồn gốc vậy. - Hỏi: Tại sao lại còn phải niệm Quán Thế Âm và Ðại Thế Chí Bồ Tát? - Ðáp: Vì người niệm Phật lúc lâm chung, hai vị Bồ Tát này cùng với đức A Di Ðà Phật đồng thời đến tiếp dẫn về Tây Phương. Vì thế niệm Phật xong phải niệm danh hiệu và lễ bái hai vị Bồ Tát này.
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh Đến Chùa hành lễ cần theo thứ tự như sau: 1. Đặt lễ vật: Thắp hương và làm lễ ban thờ Đức Ông trước. 2. Sau khi đặt lễ ở ban Đức Ông xong, đặt lễ lên hương án của chính điện, thắp đèn nhang. 3. Sau khi đặt lễ chính điện xong thì đi thắp hương ở tất cả các ban thờ khác của nhà Bái Đường. Khi thắp hương lên đều có 3 lễ hay 5 lễ. Nếu chùa nào có điện thờ Mẫu, Tứ Phủ thì đến đó đặt lễ, dâng hương cầu theo ý nguyện. 4. Cuối cùng thì lễ ở nhà thờ Tổ (nhà Hậu) 5. Cuối buổi lễ, sau khi đã lễ tạ để hạ lễ thì nên đến nhà trai giới hay phòng tiếp khách để thăm hỏi các vị sư, tăng trụ trì và có thể tuỳ tâm công đức.
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh nhà mình thì toàn mẹ chồng làm, hôm nào mẹ chồng đi vắng thì có chị dâu, chả bao giờ đến lượt mình
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh ối, mn sướng nhỉ, tớ sẽ cố gắng đào tạo xã nhà, nhưng chắc khó vì ông nội k thắp hương bao h, thể nào nói thì xã chẳng: "bố có làm bao h đâu, a k làm dâu" cho mà xem
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh ừ, cũng để học hỏi mn à, chắc mn ở chung nhỉ, tớ ở riêng nên tự thắp thôi, còn về nội hay về ngoại cũng có đến lượt tớ đâu, toàn 2 bà thắp thôi
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh hì, xin lỗi mẹ nó cho tớ phát biểu chút chút với sự hiểu biết chút chút của tớ nhé, đừng giận nhé Đến Chùa, thì việc đầu tiên là sắp lễ: ở CHùa thì thanh tịnh, tuyệt nhiên ko có đồ mặn, tốt nhất là hoa, nước, hoa quả, trà, nến hoặc hương vòng Đặt lễ ở chính điện: gọi là Ban Tam Bảo. Ban tam bảo là cao nhất trong chùa vì có 3 ngồi : Phật, Pháp và Tăng ( các tăng ni là một trong 3 ngôi này nên việc đến Chùa, đảnh lễ các tăng ni là việc phải làm). Nếu muốn cúng dường sư thầy thì để lễ riêng, nếu cúng dường Chùa thì cho vào hòm công đức, không rải tiền lẻ khắcp các ban, tránh tạo nghiệp cho người gian Sau đó đi các ban lễ. Cố gắng để tâm thanh tịnh khi đến Chùa, ko nên đi lúc Chùa quá đông, chen chúc, sẽ làm ảnh hửong đến tâm an tịnh của chính mình Một vài lời chia sẻ Suy cho cùng lấy THIỆN TÂM làm ĐẠO. OM MANI PADME HUM
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh hì, có j đâu, ai biết gì thì chia sẻ cho mọi ng thôi, tớ cũng chỉ là ếch ngồi đáy giếng thôi, còn phải học hỏi nhiều, tks mn nhá, a di đà phật
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh mn chịu khó sưu tầm quá... nhà e luôn phiên vợ chồng. cũng ko hẳn là đúng nhưng vợ chồng bảo nhau là cái tâm
Ðề: Cách Thắp Hương, Lạy Phật, Tụng Kinh Đạo Phật nguyên gốc không có vấn đề này mẹ cháu nhé, chỉ có miền bắc mới có Tam giáo đồng nguyên tức là thờ 3 tôn giáo trong chùa thôi. Ai hiểu Đạo Phật thì biết ngay