Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả huhu, muỗi mùa này hầu như ngày nào em cũng giết ạ, vì lúc mắc màn cho con ngủ cứ thấy mấy con vo ve, ko giết nó thì nó cắn con mình no
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả Thiện tai, sống trên đời sao tránh đc sát sinh ta bookmark lại xem nào
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả Mình góp 1 clip cực kỳ cảm động về luật nhân quả. Hàng ngày, mình cũng như mọi người vẫn còn đầy Tham- sân- si, vẫn ăn mặn và vẫn trực tiếp hay gián tiếp sát sinh. Để giảm nghiệp sát và nghiệp ác mình đã tạo thì các mẹ hãy làm thật nhiều việc thiện nhé như phóng sinh, làm từ thiện, bố thí, cúng Dường Tam Bảo. Dù bạn tin hãy không thì luật nhân quả vẫn luôn hiện hữu. Mong là mọi người đều biết để làm lành tránh dữ, biết tạo thêm Phúc chứ không gây tạo thêm nghiệp ác. "Không làm các điều ác Vâng làm các việc lành Giữ tâm ý thanh tịnh Là lời Chư Phật day" https://www.youtube.com/watch?v=VwEmJsfokBA
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả Mình up lai video của bạn Ngathuy84. [video=youtube;VwEmJsfokBA]https://www.youtube.com/watch?v=VwEmJsfokBA[/video] Mình đang gõ nốt 1 bài , có liên quan đến 1 vài câu hỏi của các bạn. Nhưng chưa gõ xong. Các bạn thông cảm nha. hihi. còn rất nhiều câu chuyện hay lắm ạ
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả Nhân nào quả nấy Láng giềng tôi có bác Trương ưa luyện khí công và còn dùng khí công để chữa bệnh cho người . Nhưng ông trị người không hết mà bản thân cũng bị bệnh quấy nhiễu.Ông bị chóng mặt đã 3 -4 năm nay. Uống thuốc trị liệu gì cũng không kết quả . Ông nói : - Đầu tôi xây xẩm giống như mới vừa uống 2 bình r*** vậy Nhân duyên hội đủ, ông đến gặp Hòa Thượng Diệu Pháp năn nỉ ngài vận khí công trị bệnh cho ông . Sư phụ cười nói : - Tôi không thể vận khí công để trị bệnh đâu , mỗi người mắc bệnh đều có nguyên nhân . Tôi có thể nói rõ nguyên nhân vì sao ông chóng mặt. Còn trị bệnh hết hay không thì tùy thuộc vào ông. Đây cũng là đạo lý mà , Phật nói : ‘’ Mệnh tự ta lập ‘’. Thí như do ông không hiểu chuyện mà làm sai việc gì đó đem lại thống khổ phiền não cho mình và người. Nếu ông gặp được Thiện tri thức , giải thích và chỉ ra nguyên nhân. Một khi ông hiểu rõ và nhận ra chỗ sai của mình , cố gắng sửa đổi , thì phiền não và thống khổ sẽ biến mất không có. Bởi vì Phật pháp không phải để cho người mê tín Phật – Bồ Tát , hay một cao Tăng nào đó , mà là để mỗi người đều có thể hoạch đắc trí huệ . Tự mình cải tạo số mệnh của mình . Bác Trương suy nghĩ 1 lúc rồi gật đầu. Hòa Thượng nói tiếp : - Ông chóng mặt vì do 3-4 năm trước ông làm hại 1 ổ chuột con. Có việc này không ? Bác Trương hồi tưởng lại và nói : -Dạ có , có việc này. Sư phụ ngài quả có đại thần thông. Cách đây 3 năm , một hôm con vào kho chứa đồ phát hiện 1 ổ chuột con mới sinh độ khoảng chừng 6-7 con.Đệ tử nhát lắm , chẳng biết làm sao cho chúng chết , bèn bỏ chúng vào trong 1 cái lồng , gắng sức lắc mạnh . Lắc 1 hồi lâu , con nghĩ là chúng đã chết liền đem quăng ra bãi rác. Ôi ! Việc như thế mà lien quan tới chứng chóng mặt của con sao ? - Đúng vậy , ổ chuột đó không bị ông lắc chết chỉ bị ông làm cho chóng mặt thôi. Nhân nào quả đó. Đây là nguyên nhân vì sao ông chóng mặt Bác Trương lẩm bẩm 1 mình : ‘’ Ngài phán rất đúng . Con từ lúc đó về sau , bắt đầu chóng mặt . May là bầy chuột chưa chết , nếu mà chúng nó chết rồi thì không biết con đền mạng tới đâu nữa. ?’’ - Đúng vậy sát sinh sẽ làm giảm thọ mệnh , bằng không thì ngay đời này cũng gặp tai ương . Động vật sở dĩ có thể bị giết , cũng là do kiếp trước nó từng gieo nhân sát sinh nên đời này mới bị quả báo như thế. Phần chúng ta đời này giết hại chúng nó tức là đang vay nợ mạng , cứ thế nhân quả tuần hoàn , oan oan tương báo ,không bao giờ hết. Vì vậy mà phàm phu chúng ta cứ luân hồi trong lục đạo không có ngày ra. Chỉ có liễu giải Phật pháp , tin sâu nhân quả , ngừng ác hành thiện thì mới có thể thoát ly biển khổ sinh tử. Thế nào , từ rày ông còn muốn sát sinh chăng ? Bác Trương đang ngồi sợ đến ngẩn ngơ , nghe Hòa Thượng hỏi , vội đáp : - Từ rày về sau con chẳng dám sát sinh nữa. Nói xong ông hoan hỉ mách : - Bạch Sư phụ , đầu con đột nhiên tỉnh táo rồi. Không choáng chút nào cả. Người chung quanh đều cười. Bác Trương thắc mắc nói tiếp : -Nhưng mà loài chuột hại sâu cắn phá loài vật của người. Thậm chí truyền bệnh dịch hạch .. Nếu như không giết nó , tương lai nó sinh sản lan tràn làm sao ??? - Trọn cả tổng thể , từ lớn như vũ trụ và nhỏ như tơ , bao gồm cả chủng loại sinh mệnh … đều có qui luật vận hành và thời gian tồn tại . Nếu con người có sinh, lão , bệnh, tử thì vật có ‘’ thành ‘’ , ‘’ trụ ‘’, ‘’ hoại’’ , ‘’ không ‘’….. cho dù là núi , song , biển cả , cây cỏ , hạt sương .. Chỉ cần có hình thành , là có hoại diệt .Thê nhưng cách hoại diệt hay chu trình sinh tử này tự có qui luật của nó. Nếu chúng ta coi thường qui luật tự nhiên , mặc tình phá hoại theo lý luận và ý thích ngu muội của mình , tất nhiên sẽ chiêu lấy ác quả bất kham , khó thể tưởng tượng. Thí như chúng ta vì những lợi ích trước mắt , cho phá rừng nổ đá , khiến rừng bị hủy hoại , núi bị sạt lở và cây cối loài vật trong rừng bị tàn hại… tất cả việc làm thiếu ý thức này của chúng ta dẫn đến hậu quả là địa cầu bị ngập nước, khí hậu thay đổi , lũ lụt phát sinh… Ông không thấy số lượng cây rừng bị chặt phá quá nhiều , động vật bị săn giết thảm đến nhiều loài phải mất tích hoặc tuyệt diệt. Loài chuột cũng có rất nhiều kẻ thù trong thiên nhiên : rắn ,diều hâu , mèo , chim ưng , chim ó … Có thể những kẻ thù thiên nhiên này cũng bị nhân loại chúng ta giết hại , ăn thịt, lột da làm y phục , trang sức ., Do vậy mới có câu :’’Thiên tai là chính do nhân họa tạo thành .’’ Hòa Thượng ngừng 1 lát rồi nói : - Tôi bày ông 1 cách có thể diệt trừ nạn chuột , ông có muốn thí nghiệm thử không ? Mọi người đều nhìn Hòa Thượng chăm chăm , Ngài mỉm cười rồi giải thích : - Trước tiên phải biết chuột cũng là loài động vật hữu tình , cũng có mẹ sinh đẻ , dưỡng nuôi. Chúng cũng giống trâu , ngựa , mèo , chó , một số có thể nghe hiểu tiếng người. Khi ông hiểu rõ đạo lý không sát sinh rồi , ông có thể hằng ngày chuẩn bị những thức ăn dư thừa cho nó , đặt ở nơi mà chuột thường ẩn hiện và nói nhỏ : ‘’ Bản thân tôi ngày trước chưa hiểu Phật pháp nên đã giết hại rất nhiều chuột , bây giờ đã rõ đạo lý , từ nay về sau nhất định chẳng sát sinh nữa. Tôi vẫn muốn tụng kinh cầu siêu cho loài chuột từng bị giết. Hi vọng chuột sẽ không cắn phá đồ vật trong nhà người… Chỉ cần ông thành tâm , thành ý làm như thế nhất định sẽ có kết quả. Thậm chí một ngày kia chuột sẽ rời ổ bỏ đi. Buổi nói chuyện của Sư phụ đã khiến chúng tôi mắt tai như đổi mới. Sau đó phương pháp này lần lượt được thí nghiệm , kết quả rất tuyệt . Còn có người trong nhà bị nhiều kiến , họ cũng áp dụng phương thức này và nói rất linh nghiệm. - Không tin ư ? - Thế thì bạn hãy thí nghiệm đi. ! P/s: Phần in đậm có câu hỏi của 1 số mẹ nhé. Có nên giết những động vật có hại không ???
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả Câu chuyện quả báo: 3 Năm bắn chim, đau đớn 18 năm Khi còn đi học, tôi hoàn toàn không tin Phật, Bồ Tát, tội, phước-đức hay nhân-quả báo ứng gì cả. Tôi cho rằng đây là chuyện của những người mê tín, thiếu học vấn, chứ còn người có học thức thì không tin những việc nầy. Khi còn nhỏ, tôi sống ở tỉnh Quảng Đông. Thời gian đó và ở nơi đó, tôi đã gặp chuyện nhân quả báo ứng mà chính bản thân tôi bị. Trải qua hơn 20 năm vở kịch kinh hoàng nầy mới được diễn xong, máu và nước mắt đã làm tôi tỉnh ngộ, nhận thức của tôi thay đổi 360 độ. Vì không muốn ai dẫm lên vết xe đổ của tôi, tôi xin viết câu chuyện có thật của bản thân mình, để mọi người đừng làm cái việc như tôi đã từng làm, và đây cũng là cũng cách sám hối mà tôi đã thực hành bao năm nay. Năm 1960 vì hoàn cảnh khó khăn, tôi buộc phải nghỉ học khi đang học trung học phổ thông. Từ Quảng Xuyên, tôi trở về quê hương để phụ gia đình làm rẫy. Do còn quá trẻ, nhận thức kém, tôi suốt ngày sống buông lung không có mục đích. Lúc bấy giờ đang là thời kỳ ‘Cách Mạng Văn Hoá’, ở thôn quê gần 10 năm thì mọi tín ngưỡng tôn giáo đã bị dẹp sạch hoàn toàn. Thanh thiếu niên lớn lên chỉ tin khoa học, tuyệt đối không được tin Phật, tin Nhân-Quả. Đương nhiên tôi cũng không là trường hợp ngoại lệ. Do cuộc sống quá vô vị, tẻ nhạt, tôi nghĩ phải tìm cách giải trí gì đó để kích thích cuộc sống. Vả lại lúc đó vật chất, thực phẩm vô cùng thiếu thốn, thèm thịt còn hơn thèm á phiện nữa, do đó tôi tích cóp tiền trong nhiều năm mua được cây súng hơi. Từ khi có súng, tôi lấy việc bắn chim làm thú vui, bắn được chim tôi liền đem về làm thịt, ăn cho có thêm chất dinh dưỡng. Hai ba năm sau, nhờ bắn chim nhiều nên kinh nghiệm càng dày dạn, tôi trở thành xạ thủ bắn chim có tiếng. Tôi thường nấp vào những đám ruộng hoang, bên rừng cây, hoặc vào trong núi để tìm chim bắn. Chỉ cần nghe thấy chim hót trên cây, tôi liền mò đến và giương súng bắn; trong nháy mắt viên đạn trong nòng súng của tôi đã ghim vào con chim. Máu nó tuôn chảy, nhỏ thấm vào lá cây, một lúc sau mới rớt xuống, nhưng mắt của nó vẫn giương to không chịu nhắm lại. Hình như nó còn luyến tiếc bầu trời trong xanh, cánh rừng tươi mát, đàn con dại trong tổ đang chờ Mẹ, Cha đi kiếm mồi về, hay là nó không nhắm mắt vì thù hận tôi? Có nhiều khi con chim bị bắn trúng, rơi xuống đất, vẫy cánh yếu ớt vài cái rồi mới chết, lông mao bay tứ tung, máu chảy nhầy nhụa. Có những con chim chỉ bị thương, nó cố dùng chút hơi tàn để chạy trốn thì tôi đuổi theo ngay, quyết không để nó trốn thoát. Có khi đuổi mệt quá, tôi liền cho nó ăn thêm một viên đạn nữa. Cũng có khi tôi lần mò theo vết máu để tìm, rất nhiều con chim khôn lắm, biết trốn vào cỏ, khi tôi phát hiện ra thì thấy nó đang giẫy giụa, miệng há hốc, máu trong miệng túa ra… Thế mà tôi nào biết thương nổi thống khổ của nó. Lúc ấy tôi chẳng mảy may động lòng hành động tàn nhẫn của mình, cũng không hề có cảm giác tội lỗi, mà còn cho đó là thú vui nhất trên đời, nên càng ra sức bắn giết. Tôi có thể bỏ cả ngày đi săn lùng chúng mà không thấy mệt mỏi. Vì đã giết quá nhiều chim, cho nên bất luận tôi đi đến đâu, trên tay có cầm súng hay không, tất cả chim muông vừa thấy tôi là tự dưng chúng đều bay mất dạng. Thậm chí, có những đàn chim rất lớn, chúng đang tìm mồi, vừa thấy bóng dáng tôi từ xa là chúng lập tức bay ngay, động tác của chúng vô cùng vội vàng, chẳng những vậy mà chúng còn hốt hoảng kêu la nữa. Do vô minh, tôi không biết rằng do sát khí của mình quá nặng khiến chim muông vừa thấy bóng tôi liền chạy trốn vì quá sợ hãi. Thời gian tôi bắn chim không lâu, chỉ trong khoảng ba năm, từ năm 18 tuổi cho đến năm 20 tuổi, nhưng vì là tay thiện xạ, lại rất say mê, nên số lượng chim trời bị tôi bắn rất nhiều, có ngày bắn được mấy chục con. Không có người thân bên cạnh, người trong làng cũng không ai khuyên bảo, tôi lại càng dấn thân sâu vào tội lỗi. Mãi sau, tôi dần nhận thấy hành động của mình quá tàn nhẫn, tôi mới bỏ việc bắn chim. Một lần nọ, tôi tình cờ gặp được một người bị dân trong làng cho là “gàn dở mê tín” và “côn đồ”. Tôi và ông ta cùng đi chung một đoạn đường. ông kể cho nghe một chuyện có liên quan đến báo ứng. Thú thật, lúc ấy những tư tưởng được nhồi sọ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã ăn sâu trong trí nên tôi không một chút tin tưởng vào lời ông. Nhưng, sâu trong tâm khảm tôi, vẫn còn lắng đọng âm hưởng những gì ông nói, tôi thường thấy bất an vì những hành động trước kia của mình. Tôi bắt đầu đi tìm người để thỉnh giáo. Nhưng những người trong làng họ đâu có tin tội phước, đâu có tin Nhân-Quả Báo-Ứng, biết hỏi ai bây giờ? May sao, giữa cánh đồng có một ngôi miếu bị bỏ hoang, trong ngôi miếu ấy có một ông lão ngày ngày lo việc hương khói, tôi liền đến thỉnh giáo. Sau khi nghe tôi kể về những hành động tội ác trước kia của mình, ông suy nghĩ một lúc rồi nói: - Theo chỗ tôi được biết, vấn đề của anh thì nếu đã biết sợ tội ác, thì phải mau chóng quyết tâm sửa lỗi lầm, lúc nào anh cũng phải có tâm nguyện: thà chết chớ không làm việc ác nữa, thì mới mong cứu vãn bớt việc ác báo sau nầy. Đó chỉ là lý thuyết, nhưng thực tế chẳng hề dễ dàng, đơn giản như vậy. Hai năm sau, tôi phát hiện ở hậu môn của mình có năm sáu cục trĩ, nó thường làm cho tôi đau đớn thống khổ vô cùng, nhất là những lúc đi vệ sinh. Trước giờ bệnh trĩ là căn bệnh mà mọi người thường gặp, chỉ cần tìm một vị bác sĩ chuyên khoa thì sẽ chữa bớt ngay. Tôi liền đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ đến chữa bệnh. Cách trị liệu của ông ta là dùng một loại thuốc nước có mùi rất thối xoa vào những cục trĩ đó, mục đích để cho thuốc nầy ăn mòn dần dần những cục trĩ. Hàm lượng thạch tín trong thuốc nước của ông rất cao (thạch tín là hợp chất Arsenium, ký hiệu As, màu vàng, vị đắng, rất độc). Mỗi ngày ông đến nhà để thoa thuốc, sau đó mỗi cục trĩ ông châm một cây kim. Nhiều năm lão luyện, tay nghề ông rất giỏi, cộng thêm ông dùng thuốc tê, vì vậy khi châm kim vào tôi không có một chút cảm giác đau đớn. Nhưng khoảng năm giây sau khi châm, tôi thấy trong tim hồi hộp khó chịu, hô hấp bắt đầu khó khăn, thấy trời tối sầm, tình hình không mấy khả quan. - Không được rồi! Bác sĩ!… Tôi dùng hết sức mới nói được mấy tiếng đó, nói xong tôi không còn sức để thở nữa. Lúc ấy trước mắt chỉ là màn đen tối mịt, dù tôi cố mở to mắt cũng không thấy được gì hết, tay chân run rẩy, rung lắc giống như thây ma treo cổ bị gió lùa; tiếp theo là co giật giống như người mắc bệnh kinh phong, cảm giác như bay lơ lửng trong không trung; tâm tôi tuy vẫn tỉnh táo sáng suốt, nhớ rõ từng hành động cử chỉ của mình, nhưng vô cùng khó chịu. Tôi nghe rất rõ tiếng hô hoán của bạn tôi đang đứng bên cạnh để chăm sóc: - Bác sĩ! Không ổn rồi! Anh ta sẽ chết mất! Không cần thoa thuốc nữa! Hãy mau rút kim ra đi! Anh ta la tiếp: - Máu chảy ra nhiều quá kìa, Bác sĩ! Chất độc trong thuốc nước của ông đã xâm nhập vào máu của bạn tôi rồi… Rồi anh ta làm náo động cả lên, cảm giác của tôi lúc đó rất lạ kỳ, tôi thấy hình như có người rót nước vào miệng cho tôi uống… Khoảng nửa giờ sau, tôi dần dần tỉnh lại. Kiểm tra lại, thì đâu có ai cho tôi uống nước lúc đó, và nguyên nhân là do vì muốn bệnh mau lành nên ông bác sĩ đã bỏ hàm lượng thạch tín vào trong nước thuốc khá cao, chất thạch tín theo cục trĩ xâm nhập vào mạch máu, mà mạch máu thì thông với tim, vì vậy mới khó thở khi thoa thuốc. Nhờ phước duyên, tôi đã trở lại từ cõi chết, đây là lần thứ nhất tôi nếm sơ mùi vị của cái chết. Những lỗ kim châm lần này lại là nguyên nhân chính khiến cho sau nầy càng khó chữa trị. Trải qua 18 năm, những lỗ kim vẫn không lành, do trĩ ngoại liền với mạch máu nên những lỗ kim nầy giống như cái ống dẫn máu ra ngoài, do đó máu cứ liên tục chảy ra nhưng chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây. Do lần chữa trị đầu tiên đã mắc sai lầm, nên máu càng ngày càng ra nhiều, lúc bình thường thấy ít ra máu, lâu lâu mới chảy ra vài giọt. Nhưng khi đi đại tiện thì thật kinh hồn. Vừa ngồi xuống, thấy máu chảy ra như nước từ trong người chảy ra qua đường tiểu tiện, máu chảy mạnh giống như lúc bác sĩ châm kim vào. Máu chảy xong , tiếp theo là huyết tương chảy ra thành vòi (huyết tương là chất nước màu vàng của máu sau khi loại bỏ hết huyết cầu). Mỗi ngày tôi phải đi đại tiện một lần, mỗi lần như vậy đồng nghĩa là tôi mất cả một bô huyết tương. Chỉ vài tháng sau, da tôi trắng bạch, tay chân run rẩy, mắt bắt đầu mờ dần. Nhiều người thấy tình cảnh như vậy họ thương quá, ai cũng bảo tôi đi mời bác sĩ về chữa, bằng không hậu quả khó lường được. Tôi lại đi mời một vị bác sĩ giỏi về bệnh trĩ, ông ta là bác sĩ chuyên khoa rất nổi tiếng ở một bệnh viện lớn. ông bảo tôi hãy yên tâm, ông chữa mau và đặc biệt không đau, vì không tiêm chích chỉ thoa thôi. Ông dùng thuốc giã nhuyễn, mỗi ngày thoa lên cục trĩ, cục trĩ sẽ khô và tự rụng. Ông còn bảo đảm chỉ sau một tuần toàn bộ những cục trĩ của tôi đều rụng hết, mà vĩnh viễn không còn chảy máu nữa. Đương nhiên khi nghe vị bác sĩ nổi tiếng hứa như thế, tôi vô cùng vui mừng, đặt hết hy vọng vào ông. Ngờ đâu, ngay đêm hôm đó, tôi rất muốn đi đại tiện. Nó thúc giục giống như bị tiêu chảy vậy. Tôi nhờ người bạn dìu đến nhà vệ sinh, mà hơn nửa tiếng không ra được một chút phân. Trải qua mấy tiếng, càng ngồi lại càng mắc. Tôi cố nhẫn nại ngồi, cho đến khi hai chân không còn cảm giác, đến nổi ngủ gục trong nhà vệ sinh. Anh bạn chờ lâu quá đã vào phòng ngủ một giấc, giật mình dậy mới dìu tôi vào phòng ngủ. Nhưng chưa kịp leo lên giường, tôi lại trở ra đi cầu tiếp… Cứ như thế, suốt đêm tôi cứ chạy đi chạy lại liên tục. Thống khổ đến mức chảy nước mắt, toàn thân run lên. Vậy mà sự thống khổ nầy kéo dài liên tục suốt 7 ngày đêm, mà thống khổ của đêm sau lại hơn đêm trước. Trong lúc thống khổ cực độ, tôi ngước mặt lên hỏi ông trời: - Ông trời ơi! Tôi đã phạm tội gì mà phải chịu thống khổ như thế nầy? Dẫu bị như vậy, tôi vẫn chưa tỉnh ngộ đấy là lúc quả báo đến, sự trừng phạt giống như ở địa ngục. Nhưng qua bảy ngày, tôi bỗng dưng dần dần khỏe trở lại, những búi trĩ cũng khô và rụng từ từ, máu không còn chảy nữa, tôi hết sức vui mừng. Nhưng, chỉ 6 tháng sau, bệnh trĩ lại tái phát trở lại, chẳng những thế mà còn phát rất mau, máu cũng bắt đầu chảy ra như trước. Bi kịch tiếp tục tái diễn, tôi lại phải tiếp tục tốn kém tiền bạc để chữa trị Ngày nào cũng chảy máu, thân thể tôi suy nhược hẳn đi, dẫn đến chứng mất máu kinh niên. Các búi trĩ làm tôi vô cùng khó chịu giống như bị lửa thiêu, dao cắt, tôi đau đớn trong từng giây từng phút không lúc nào yên. Biết bao nhiêu vị bác sĩ giỏi, nổi tiếng đều bó tay đành giương mắt nhìn tôi quằn quại trên giường mà không còn biết làm gì cả. Riết tôi cũng bị hội chứng sợ hãi bác sĩ, vì bao nhiêu người chữa trị bệnh cũng không bớt mà còn đau đớn đủ kiểu nên tôi quyết định không chữa trị theo y học nữa. Cũng chính vì quyết định đó nên tôi lại bị điều tiếng thị phi trong làng là trốn tránh lao động (kỳ thực lúc này tôi cũng chẳng còn chút hơi sức để làm việc chi nữa). Thời đó là còn thời kỳ bao cấp, ai nấy cũng phải lao động sản xuất làm ruộng, rẫy nên việc tôi không chịu chữa chạy bác sĩ dấy lên mối nghi hoặc của người dân trong làng. Người thì nói: “Có bác sĩ mà không chịu chữa, vậy rốt cuộc nó bị bệnh thật hay giả?”, người khác thì bồi thêm: “Bệnh trĩ của nó là giả, trốn tránh lao động mới là thật!” Sau đó, trưởng thôn, phó thôn, gọi bác sĩ lấy cớ cùng đến thăm tôi nhưng thật ra để dò la, điều tra. Biết mục đích của họ, tôi vào nhà vệ sinh đại tiện, giống như thường ngày, máu chảy ra cả một đống lớn rồi tôi gọi mọi người vào xem. Trưởng thôn vốn không tin tôi bị bệnh thật, nên vào xem ngay. Vừa nhìn thấy, ông vô cùng kinh hãi thốt lên: “Ôi máu ra nhiều thế này à!” Sau đó, nể lời mọi người khuyên bảo tôi quyết định để ông bác sĩ, được cho là ‘thần tiên giáng thế’ chữa trị thêm một lần nữa. Than ôi, lại thêm một lần nữa, máu vẫn chảy, đau đớn vẫn còn nguyên, ông bác sĩ ‘thần tiên’ cũng đành bó tay rồi lặng lẽ bỏ đi. Có lúc tôi chịu đựng đau đớn hết nổi, tôi khóc than rên la thảm thiết. Trên gò má, nước mắt trộn lẫn mồ hôi chảy ròng ròng, tóc tai bù xù. Tôi bấu chặt quần áo, mền mùng có lúc xé rách, hai chân đạp tấm nệm đến mức rách bươm, chẳng khác chi người điên là mấy. Ai thấy cũng đều lắc đầu thở dài, có nhiều người đã rơi nước mắt khi thấy cảnh thống khổ của tôi. Trong lúc quằn quại trên giường chịu đựng đau khổ, tôi chợt phát hiện ra nếu để mông cao hơn đầu thì sự đau đớn sẽ giảm đi một ít, tức là nằm theo tư thế treo ngược. Tôi nhờ bạn tôi lấy mền gối chồng lên nhau, để lài lài giống như mái nhà,rồi tôi leo lên đó, đầu thấp xuống và nâng cao mông, như thế trồng cây chuối. Tôi không nhớ rõ mình trải qua bao nhiêu ngày đêm như vậy, tôi chỉ nhớ trừ lúc ăn cơm. đi vệ sinh ra, còn suốt ngày luôn sống với tư thế treo ngược kể cả lúc ngủ nghỉ. Rồi đến một ngày, khi đang ở tư thế ‘treo ngược’ như thế, khi máu chảy ra đọng thành vũng rồi thấm vào mền chiếu, nằm trên vũng máu đỏ tươi, tôi thảng thốt nhận ra cảnh tượng đó rất giống những con chim trước kia bị tôi bắn giết, máu của chúng nó cũng chảy rớt xuống những cành, lá cây. Trời ơi! tư thế “treo ngược” của mình với tư thế những con chim bị tôi bắn trước đây không hai không khác. Đây không phải là quả báo nhãn tiền đó sao? Đúng là “Nợ máu phải trả bằng máu, Nhân-Quả công bằng, một sợi tơ cũng không sót “. Cái cảnh tôi đang chịu đựng trong đau đớn đó không phải là hình phạt trong địa ngục đó sao? Tôi bắt đầu tỉnh ngộ ra rằng : Tất cả những nỗi đau khổ của con người chẳng phải do ông trời làm ra mà chính là những tư tưởng xấu, hành động ác mà con người đã tạo trong đời này hoặc trong đời trước mới là nguyên nhân con người phải chịu mọi thống khổ trong hiện kiếp. Muốn cải đổi vận mệnh chỉ có một con đường duy nhất là năng làm việc lành, tích chứa âm đức mà thôi. Khi được thấu suốt, tôi đã không còn oán hận những vị bác sĩ đã ‘hại’ mình nữa, ngược lại, tôi lại vô cùng biết ơn họ, vì họ đã giúp tôi sớm trả xong món nợ máu. Nếu họ không chữa sai, có lẽ tôi còn mang bệnh tới già hoặc tiếp đến đời sau tiếp tục trả. Sau khi có nhận thức đứng đắn về cuộc đời, tôi luôn luôn sám hối trong tâm, có lúc sám hối cho đến khi chịu không nổi khóc rống lên mới thôi. Tôi quyết tâm “lấy công chuộc tội”. tự nhủ tranh thủ lúc còn trẻ, gấp rút lo tu hành để cải thiện vận mệnh đời mình. Sau đó tôi thường nhờ bạn bè đi mua động vật để phóng sinh, hằng ngày gặp những cơ hội phóng sinh cứu sinh vật là tôi đều không bỏ qua, đồng thời tôi cũng dùng hết khả năng của mình để giúp đỡ người bệnh tật, nghèo đói. Tôi cũng thường ráng hết sức lực để bí mật đến ngôi đền giữa cánh đồng, lễ bái và cúng thí cho các oan hồn uổng tử ở mười phương, giúp họ được ấm no… Nói ra cũng thật kỳ lạ, từ sau khi tôi bố thí phóng sinh, cơn thống khổ của bệnh trĩ của tôi dần dần giảm thiểu một cách rõ ràng, máu cũng chảy ít hơn, dần dần cách hai ba ngày, rồi đến một tuần mới phát một lần mà không cần tới thuốc men chi cả. Nửa năm sau, bệnh bắt đầu bình phục, người tôi có da thịt trở lại, có thể đi lại mà không cần người dìu như suốt mười mấy năm qua. Tôi càng vui mừng nên ra sức làm việc thiện quanh năm suốt tháng như vậy. Bệnh trĩ từ tám, rồi mười ngày, một tháng, hai tháng mới phát một lần. Đến mùa xuân năm trước nó hết còn chảy máu và cơn đau hết hẳn. Tính ra từ khi phát bệnh cho đến khi lành hẳn hết cả thảy là 18 năm. Bảy năm trước, tôi may mắn được đến Hồng Kông, nhưng còn may mắn hơn nữa là gặp được Phật Pháp. Từ đó niềm tin của tôi đối với Nhân-Quả báo ứng càng thêm kiên cố. Tôi giác ngộ sâu sắc rằng: “Mục đích đời người, chẳng phải là tiền rừng bạc biển, nhà cao cửa rộng, hoặc danh cao chức trọng mới làm rạng rỡ tông phong. Chỉ cần siêng năng làm thiện pháp, tích chứa âm đức, không sát sinh, làm lợi vật lợi người, Cửu huyền thất tổ nhờ đó mà được siêu thăng thì ta sẽ không thấy hổ thẹn một đời” Lưu Tâm Bình (Hồng Kông)
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả mÌNH THÍCH CÁC CÂU CHUYỆN CỦA BẠN LẮM, ngày nào cũng vào đọc, hy vọng bạn up nhiều vào bạn nha
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả mÌNH THÍCH CÁC CÂU CHUYỆN CỦA BẠN LẮM, ngày nào cũng vào đọc, hy vọng bạn up nhiều vào bạn nha
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả NGƯỜI VỢ ĐAU KHỔ VÀ NHÂN DUYÊN TIỀN ĐỊNH Cát cư sĩ tuổi gần 60, tin Phật đã nhiều năm. Lúc bà gặp Hòa thượng Diệu Pháp thì mắt lệ tuôn trào, do quá bi ai cho bản thân. Hai mươi tuổi bà lấy chồng, nhưng cho tới giờ phút này bà vẫn chưa biết đến chữ phu thê hạnh phúc nồng ấm là như thế nào. Vợ chồng tuy là chung sống với nhau nhưng chỉ đem lại cho bà toàn là khủng hoảng. Điều khiến bà thống khổ và vô phương kham nhẫn nổi chính là tuy hiện thời đã ở vị trí bà nội, song lắm lúc bà vẫn còn bị chồng đánh, mắng chửi…mấy mươi năm nay hôn nhân của bà toàn là nếm mùi cay đắng đánh đập, mắng chửi…bị khổ đau mài luyện. Nhưng ngược ngạo thay, cái ông chồng vô tình vũ phu này, ở bên ngoài ai cũng tấm tắc khen ổng là người tốt. Sau khi học Phật pháp, tin Phật, hiểu được Nhân quả bà thầm nghĩ: “Chắc do đời trước mình thiếu nợ ổng, cho nên bây giờ tùy duyên cũng cố gắng mà đối diện thuận nghịch, ráng mà sống với nhau”….cho đến ngày hôm nay. Thế nhưng bà rất muốn biết giữa mình với chồng có nghịch duyên oan trái gì mà đến bây giờ bà vẫn chưa trả xong? Hòa thượng Diệu Pháp chiều theo nguyện vọng của bà. Đây có lẽ nhờ bà niệm Phật nhiều năm mà có được cơ duyên hiểu rõ nguyên nhân. Hòa thượng kể: Ngày xưa có một phú thương, tuy đã có rất đông thê thiếp, nhưng còn tham lam để mắt tới đứa tớ gái tên Lan có nhan sắc ở trong nhà. Thế là ông ta mới cưỡng ép chiếm đoạt Lan, còn dùng lời ngon tiếng ngọt lường gạt, dụ dỗ, hứa hẹn rằng khi có dịp thuận tiện sẽ nạp Lan lên làm thiếp. Nữ nhân ngày xưa rất coi trọng việc chung thân. Lan nghĩ “Mình đã là người của ông chủ rồi, nên một bề trông ngóng đến ngày được vẻ vang mặt mày” như lời ông đã hứa hẹn. Nào ngờ phú gia này đã không thật tâm giữ lời. Lúc cao hứng thì y tìm Lan để thỏa mãn thú tính, khiến nữ tỳ này luôn bị thống khổ, muốn chết cũng chẳng thành, muốn bỏ đi mà cũng không được! Do ước mơ cả đời cô không bao giờ thành sự thật, nên trong lòng cô oán hận phú ông đến tận xương tủy. Đời này, oan oan tương báo, bọn họ lại kết thành vợ chồng danh chánh ngôn thuận (đúng y như nguyện ước của cô nữ tỳ ngày xưa), nhưng vai vế vị trí đã có sự thay đổi. Phú ông đời thuở đó giờ phải chuyển thành thân nữ là Cát cư sĩ đây, còn cô tớ gái đã từng nhận chịu nhiều nhục nhã, thống khổ nay được thăng làm đàn ông, ở vào vị trí người chồng. Những oán hận tích chứa từ kiếp xa xưa, kiếp này được dịp đủ duyên phát tiết, trút cả vào Cát cư sĩ. Đây gọi là “nhân duyên hội đủ quả báo đến liền thọ”. Cát cư sĩ nghe Hòa thượng Diệu Pháp kể xong câu chuyện, mắt bà đầy lệ. Bà tỉnh ra và thành tâm sám hối. Bà nói bà tin điều Sư phụ giảng là có thật. Bởi vì bà cảm thấy tính cách mình rất hướng ngoại, giỏi giao thiệp, năng lực làm việc mạnh mẽ y hệt như đàn ông. Trong khi chồng bà thì tính tình kỹ lưỡng, có trách nhiệm bổn phận, ưa làm những việc dọn dẹp lau chùi, những công việc tỉ mỉ như đàn bà con gái. Ngoại trừ việc cư xử rất tệ đối với bà ra , thì ông giao hảo với mọi người rất tốt, dịu dàng như nữ nhân. Bà nói hiện giờ bà thọ khổ đúng là “Nhân quả báo ứng tơ hào không sai”, là bà tự làm tự chịu, không còn dám trách ai. Từ rày về sau, bà chẳng dám khởi tâm oán hận chồng nữa. Một đời này quyết chí tu tinh tấn niệm Phật cầu sanh về Cực Lạc, để không còn sanh tử luân hồi đầy đau khổ nữa. Hòa thượng Diệu Pháp dạy bà hàng ngày phải âm thầm sám hối và tụng kinh niệm Phật hồi hướng cho cô “tớ gái” tiền kiếp. Nếu như bà tin sâu và kiên nhẫn thực hành, nhất định ác duyên sẽ tiêu trừ, thiện duyên tăng trưởng, quan hệ phu thê sẽ được cải thiện.
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả GIẬT MÌNH TỈNH NGỘ Tôi tên Trương Nghĩa, nhà tại thành phố Thiên Tân, năm nay 24 tuổi. Vào năm 19 tuổi, tôi bị bệnh nặng, mới đầu hai chân mất cảm giác, đi đứng khó khăn, tối đó bệnh tình phát nặng, xương hông, xương khớp đau không chịu nổi hai chân không thể cử động, hễ bóp nhẹ vào là đau đến toàn thân co rúm. Bác sĩ khám xong nói: - Bịnh này cực kỳ hiếm thấy, vô phương phán đoán, chỉ có thể tạm gọi là “ viêm đơ cứng cột sống”. Bệnh này không thể trị, chỉ có về nhà nghỉ dưỡng thôi. Về đến nhà, suốt ngày tôi nằm dài trên giường, buổi tối cơn đau càng kịch liệt, chẳng cách chi chợp mắt. Ba má tôi ban ngày thì đi khắp nơi cầu thầy chẩn trị, ban đêm thì chứng kiến cảnh tôi đau đớn rên la, lòng đau như cắt, cũng không ngủ được. Mới mấy ngày mà cha mẹ tôi thân thể đã tiều tụy, võ vàng, già đi rất nhiều. Mẹ tôi có người bạn đồng nghiệp họ Dương, thời trẻ thường nghiên cứu Phật học, hiểu sâu ngữ lý. Ông Dương quy y dưới trướng Hòa thượng Diệu Pháp ở Ngũ Đài Sơn, siêng tu giới định tuệ, hoằng pháp độ nhân. Trong tình huống tôi bị bệnh hết cách chữa như thế này, nghe dương cư sĩ nói Hòa thượng Diệu Pháp hiểu rất sâu về nhân quả, hễ ai bị bệnh nan y khó chữa mà đến nhờ Ngài thì đều thoát khỏi cơn bệnh lâu năm giày vò. Thảy đều không trị mà được lành và hồi phục giống như chết đi sống lại. Cha mẹ tôi nghe vậy càng thêm nôn nóng, vội tìm đến gặp Hòa thượng Diệu Pháp thử xem sao. Khi ông bà kể cho Ngài nghe bệnh trạng của tôi xong, Hòa thượng hỏi: - Có phải con trai hai vị rất ưa ăn thịt ếch? Mẹ tôi đáp: - Dạ, phải! Nó ưa món ếch xào ớt, mỗi tuần ăn hai, ba lần. Hòa thượng lại bảo: - Hiện giờ hai chân cháu có hình dạng như chữ “ cung” phải không? Vừa nói Ngài vừa dùng tay phác họa diễn tả. - Dạ, hai chân nó có hình giống y như vậy - Mẹ tôi đáp Hòa thượng hỏi tiếp: - các vị xem hình dáng đó có giống như con ếch không hả? Thấy ba mẹ tôi ngơ ngác, Ngài phán: - Cháu bị bệnh này là do ăn quá nhiều ếch mà chiêu nên. Đây chính là nhà Phật thường nói là “ Nhân quả báo ứng”. Sau đó Ngài giảng giải Phật lý, nói rõ về nhân quả báo ứng và nêu lên những bằng chứng có thực. Hơn nữa, Hòa thượng còn đích thân đến nhà xem cho tôi, đầu tiên Ngài cổ vũ tôi nên kiên cường đối diện với bệnh tật, tiếp đến lại bảo tôi phải làm đúng như lời Ngài dạy thì chắc chắn sẽ hết bệnh. Hòa thượng khai thị lý nhân quả báo ứng, giải thích sự luân hồi trong sáu nẻo, khiến tôi vô cùng cảm động và có cảm giác như mình đi trong đêm đen bỗng được đèn soi sáng, tôi cảm thấy chỉ có Ngài mới cứu được mình. Hòa thượng vừa giảng pháp vừa dùng tay thoa chà chân tôi, thấy thế mẹ tôi cuống quýt ngăn cản: - Xin đừng làm vậy, vì hễ chạm đến một chút là cháu nó đau đớn co rúm, run rẩy toàn thân... Hòa thượng cười bảo tôi: - Vậy ta có nên xoa bóp cho con nữa không? - Tôi vốn rất sợ người động chạm đến mình, nhưng do đối với Hòa thượng có niềm tin rất sâu nên đồng ý. Lúc hai tay Hòa thượng tiếp xúc với hai chân tôi, không những tôi chẳng mảy may đau, mà còn cảm thấy nóng ấm, thư giãn, hết sức dễ chịu. Hồi nãy tôi với song thân cứ thắc thỏm lo âu, bây giờ thì an tâm rồi, tôi cảm kích đến lệ tuôn ràn rụa. Nếu như hai chân tôi có thể hồi phục mạnh khỏe, thì đây chính là niềm hạnh phúc và may mắn suốt đời. Trong lòng toi tràn đầy niềm tin kính phục Hòa thượng. Một lần nữa Ngài đã nhen nhúm cho tôi niềm lạc quan, vui sống. Hòa thượng còn dặn tôi nhất định từ nay không nên ăn ếch nữa, cũng không được sát hại loài vật để ăn, nếu có thể thì nên ăn chay, để giúp thân mau hồi phục. Ngài giải thích “ Tội lớn đầy trời, sám hối liền tiêu”. Chỉ cần tôi thật lòng ăn năn phát lộ sám hối những sát nghiệp đã tạo, mỗi ngày chịu khó vì bao sinh linh tôi hại chết đó mà thành tâm niệm Phật cầu siêu cho nó, thì hai chân tôi dần dần có thể hồi phục lại. Tôi tuân theo lời Ngài. Bắt đầu ăn chay, niệm Phật. Cha mẹ tôi cũng đồng niệm Phật hỗ trợ, cầu cho tôi sớm mạnh khỏe. Như thế bệnh của tôi dần dần chuyển tốt, bạn bè đến thăm. Thấy tôi thân thể quá suy yếu, ai cũng khuyên nên ăn thịt cá cho có chất bổ dưỡng. Cha mẹ tôi cũng nóng ruột, đồng bảo tôi hãy đợi thân thể khỏe hẳn rồi hãy ăn chay. Do niềm tin không kiên cố, tôi bị mọi người thuyết phục, thế là quay lại ăn cá thịt. Về sau này, khi tụng kinh Địa Tạng, tôi mới biết mình thuộc loại người “ Vừa mới phát thiện tâm, trong chốc lát đã vội thối thất” Từ sau khi tôi ăn mặn lại rồi. Thì hai chân bắt đầu đau kịch liệt trở lại. Dù tôi có chích, uống thuốc gì, cũng đều vô hiệu. Lúc này cha mẹ tôi mới cuống quýt đi tìm Hòa thượng Diệu Pháp, nhưng Dương cư sĩ nói Hòa thượng đã đi Nam Phương Tự giảng pháp. Trải qua bao trắc trở, vất vả, cuối cùng chúng tôi cũng liên lạc được với Ngài. Qua điện thoại, Hòa thượng hỏi: - Con lại ăn cá, lươn, phải không? Lòng nóng như lửa đốt, mẹ tôi chen vào thưa: - Dạ, đúng vậy, cá lươn có thể giúp bổ huyết tráng kiện thân thể ạ... Hòa thượng thở dài nói: - Ôi chao! Sao các vị không nhớ kỹ lời ta dặn, ăn cá thịt chẳng ích chi cho thân thể, chỉ có hại và làm tăng thêm tội, khiến bệnh tình trở nặng mà thôi!” Thật là nghiệp cũ chưa trừ, lại gây thêm nghiệp mới!”. Lần trước ta đã chỉ các vị cách điều dưỡng rồi, nếu như có thể kiên trì ăn chay, niệm Phật và thành tâm sám hối phát thệ dứt ác, thì bệnh sẽ chuyển tốt. Tuyệt không thể có hiện tượng xấu như bây giờ. Nghe xong, cả nhà đều hối hận. Chúng tôi bày tỏ lòng ăn năn và tha thiết hứa lần này nhất định vâng theo lời Hòa thượng. Sau đó, cùng thỉnh cầu Ngài dạy cho cách cứu vãn. Hòa thượng bảo tôi phải tụng Kinh Địa Tạng và chú Đại Bi, phải thực lòng thành tâm ăn năn sám hối, như thế mới dần dần tiêu trừ nghiệp chướng. Hòa thượng buộc tôi mỗi ngày phải siêng năng tụng niệm, hồi hướng công đức trì chú cho chúng sinh khắp pháp giới, như vậy hiệu quả mới tốt. Từ đó tôi mới thật sự bắt đầu học hỏi và tu tập Phật pháp. Ngày ngày khẩn thiết tụng Kinh Địa Tạng và chú Đại Bi. Có nhiều chữ tôi không biết. Nên phải mua máy ghi âm để tụng theo, tôi kiên trì không dám biếng lười. Không bao lâu tôi có thể tụng thuộc làu chú Đại Bi. Và tụng xong bộ kinh Địa Tạng trong vòng hai tiếng. Tôi nghĩ đây là nhờ ân Phật, Bồ-tát gia hộ, nên mới có được hiệu quả nhanh như thế. Cha mẹ tôi cũng vì tôi chí thành học Phật hành pháp và chiêu cảm được vô lượng an ủi. Tôi hằng ngày tập trung tinh thần tụng kinh, trì chú, niệm Phật, chuyên tâm tu hành. Người khác có khuyên tôi ăn thịt, tôi cũng không lay động. Nhờ vậy mà bệnh ngày càng chuyển tốt. Sau đó tôi đến y viện kiểm tra. Họ chẩn đoán là xương đùi hoại tử. Tôi cũng phối hợp trị liệu đông y, bệnh tôi thuộc dạng tạp chứng nay y hiếm thấy. Nhưng kỳ tích của tôi dần xuất hiện: tôi có thể bước đi không còn đau đớn, tôi nghĩ: “Đây chính là cảnh chuyển theo tâm”. Đã là báo ứng nhân quả thì không nên sợ hãi, buồn rầu, khóc lóc, chỉ cần bình thản đối diện, tin sâu Phật pháp, chí tâm tu hành, nhất định sẽ chuyển xoay ác cảnh thành thiện cảnh. Qua kinh nghiệm lần này, tôi hy vọng những ai xem chuyện của tôi đều sẽ lấy đó làm gương mà cẩn trọng cảnh giác, mong quý vị đừng sát sinh nữa, để khỏi đi vào vết xe đổ như tôi. Nếu không đích thân trải qua kinh nghiệm đau đớn khắc cốt ghi tâm này, tôi cũng khó mà tin vào thuyết báo ứng nhân quả, về tội nghiệp sát sinh! Đúng là nhân qảu báo ứng rất rõ ràng, như bóng tùy theo hình, không mảy may sai lệch. Cho nên, mong các vị sớm tỉnh ngộ, hiểu rõ sát sinh chắc chắn chiêu ác báo mà dứt tuyệt ăn mặn. Xin hãy xem tôi, sau khi thọ ác báo rồi, mới biết tỉnh ngộ, nhờ vậy mà càng phát trí tuệ, càng có phúc phận. Tôi luôn nhớ câu: “Ác hữu ác báo, thiện hữu thiện báo”. Những gì chúng ta tạo tác hành động, từng cử chỉ, từng niệm khởi, theo sau đều có quả báo. Người mắt sáng, vừa nhìn là biết ngay. Nếu không thì Hòa thượng Diệu Pháp làm sao thấu rõ nguyên nhân căn bệnh của tôi là do ăn ếch, cá, lươn... mà chiêu cảm nên? Mong quý vị hãy suy ngẫm cho thật kỹ.
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả mình cũng chẳng mê tín đâu nhưng thích đọc mấy câu chuyện bạn đưa lên ^^
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả em rất tin vào luật nhân quả. có thật. gieo nhân nào gặt quả ấy.
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả CHỨNG BỆNH SỢ BÓNG TỐI Trần nữ sĩ tuổi hơn 40, đang cùng chồng đến bái kiến Hòa thượng Diệu Pháp. Bà kể từ nhỏ tới giờ hễ trời vừa tối là phát sợ. Cho nên trước khi trời tối, bà luôn thắp sáng hết mọi phòng trong nhà. Nếu không, thì sau khi trời tối, bà sẽ không còn dũng khí vào phòng thắp đèn. Và nếu có vật gì rơi từ trên giường xuống chỗ tối, bà đều chẳng dám lượm lên. Bởi vì chỉ cần nhìn thấy bóng tối là bà sợ rét run. Từ nhỏ đến giờ bà đã đi rất nhiều bệnh viện, gặp nhiều bác sĩ tâm lý, nhưng không ai tìm ra nguyên nhân. Tính sợ bóng tối luôn phiền nhiễu bà, khiến bà rất khổ. Sư phụ nói kiếp trước bà là một nam nhân X, trong nhà nghèo tới mức ngay cả dầu thắp đèn cũng không mua nổi. Tại hương thôn gã X trú ngụ, có một gia đình thiện lương, vào những đêm không trăng, gia đình này luôn thắp đèn dầu cho treo ngoài cổng lớn, nhằm giúp soi sáng đường đi cho khách bộ hành, để cho họ dễ nhìn ra điểm đến và tránh cho họ nỗi sợ hãi trong bóng đêm. Nhưng tên X nghèo nàn này lại khởi tâm tham xấu, hắn thường lợi dụng đêm khuya, lén trộm hết dầu trong đèn đem về nhà. Đèn bị tắt rồi, khiến người đi đường sinh tâm hoảng sợ và không nhìn rõ phương hướng. Nhân nào quả nấy. Do vậy mà đời này bà luôn sợ hãi bóng đêm.
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả NƯỚC TRÀN KIM SƠN TỰ Tháng 7 năm 1997 Chu nữ sĩ là giáo sư đại học cùng chồng lên Ngũ Đài Sơn bái phật. Trong dịp tình cờ , nghe đồn Hòa Thượng tu hành uyên thâm liền đến thỉnh giáo. Chu nữ sĩ khoảng 32-33 tuổi , người cao vừa tầm , da trắng ngần , trên sống mũi đeo 1 cặp kiếng gọng vàng , phong độ thanh nhã. Chu nữ sĩ kể đôi mắt cô từ nhỏ không được tốt , luôn có cảm giác nóng như bị lửa đốt , cơn đau cứ ẩn hiện hành hạ. Vì đôi mắt này mà song than cô đã ưu tư rầu lo rất nhiều , tốn bao nhiêu tiền bạc , nhưng không trị khỏi . Sau đó trong thời gian qua Mỹ du học cô cũng đi khắp nơi tìm thầy , nhưng không cách nào chữa trị hết. Nghe Chu nữ sĩ kể bệnh tình xong , sư phụ nhắm mắt lại . Một lúc sau , ngày kể ra câu chuyện rất thú vị mà ngay cả tôi cũng không dám tin . Sư phụ hỏi : - Các con biết câu truyền thuyết ‘’ Bạch xà , nước tràn Kim Sơn Tự ‘’ chứ hả ? Chúng tôi đáp : - Dạ biết ạ. Hồi nhỏ chúng con đã xem qua tác phẩm này. Sau đó còn xem phim nữa. Sư phụ nói : - Người ta ai cũng cho rằng đấy chỉ là câu chuyện này thần thoại hư cấu viết ra , nhưng trong lịch sử quả thực có chuyện này ! Nhiều loại vật trải qua năm dài , tháng rộng tu hành sẽ phát thần thông , nhất là loại sống lâu dài , đây tiệt chẳng có gì kì lạ. Bạch xà hóa hiện thành cô vợ họ Bạch là bởi trong quá trình tu luyện , ả chưa đoạn trừ tâm dâm , nên lầm rơi vào đường tà . Cứ bám chân vào mục tiêu truy cầu tình yêu nam nữ ở nhân gian. Nhưng qui luật thiên nhiên không cho phép người và súc sinh sống chung , có hành vi loạn luân như vậy. Cho dù xã hôi hiện nay có văn mình tân tiến , quan niệm thoát đến đâu chăng nữa thì luật lí cũng khó dung. Trong ‘’’ Truyện Bạch Xà ‘’ Hòa Thượng Pháp Hải ngăn cản – Bạch Xà – là do phát xuất từ tâm đại bi , bởi nếu Bạch Xà không chấm dứt ngay hành vi loạn luân thì ngày sau sẽ phải hối hận thống thiết ( vì tương lai ả sẽ bị hủy hết đạo nghiệp ngàn năm và phải đọa vào địa ngục ). Sư Pháp Hải đem Bạc h Xà nhốt dưới tháp Lôi Phong ,thực tế là để giúp ả tiêu trừ tâm dâm , cho ả bế môn tu hành , tự kiểm điểm , nhận ra lỗi của mình . Nhưng trong ‘’truyện Bạch Xà ‘’ tác giả đã viết hoàn toàn sai lệch : vị sư Pháp Hải từ bi lại bị diễn tả thêu dệt thành giống như ác ma , tác giả biến Phật Bồ Tát thành kẻ bất thông tình lý , tận sức hủy Pháp , báng Tăng ,gieo rắc tình ái diễm ảo trong nhân gian , ca ngợi quỉ tà , tô hồng tình yêu , sung bái luyến ái cực độ. Hoàn toàn không lưu tâm giữa người và súc sinh có khác biệt hẳn hòi. Tác giả đã dùng ngòi bút bất minh lý , làm chánh tà điên đảo , hướng dẫn người phỉ báng Phật giáo , khiến họ mê muội theo .. Đây chính là làm trái nhân quả , phải quấy chẳng phân , uốn thẳng thành cong Người mắt sang vừa xem đã thấy rõ ngay ! Hòa thượng ngưng 1 chút rồi nói tiếp : - Vì sao tôi nhắc chuyện này cùng quí vị? Vì đôi mắt Chu nữ sĩ có lien quan đến cổ sự này . Cô ta đã từng tu niệm theo pháp Phật , nhờ đức hạnh hộ trì Phật giáo mà chiêu cảm quả báo tốt , rất cần hiểu rõ tội nghiệp mình đã làm . Câu chuyện ‘’ Nước tràn Kim Sơn Tự ‘’ là Bạch Xà kể là Bạch Xà , Thanh Xà không nghe lời Hòa Thượng Pháp Hải khuyên răn nên đã hỗn chiến cùng ông , dùng thần chú kêu gọi Thủy Thần nổi gió , dâng song làm nước ngập Kim Sơn Tự. Thủa đó , Thủy thần không hiểu sự lý , nên làm sai , lại nhè sự trợ ác hành nghịch , dâng nước ngập lụt chùa khiến thiên thần hộ pháp nổi giận. Thiên thần bèn dùng lôi quang đánh Thủy Thần , khi hỏa châu sắp đánh vào mặt , Thủy thần vốn thân thủ nhanh nhẹn nên đã kịp lặn xuống nước đào nạn, nhưng đôi mắt đã bị ton thương vì lôi quang đả thương , đau đớn khó chịu… Bộ hạ của Thủy thần vội lấy vải băng mắt cô lại , gấp rút hộ tống đưa cô đến tiểu am trên núi , van cầu 1 hòa thượng có công phu , giỏi trị bệnh , chữa giùm giúp cho . Nhưng khi Thủy thần tháo vải băng mắt ra , vị Hòa Thượng tu hành nhiều năm này bị nét kiều diễm , mỹ lệ của Thủy thần hớp hồn ( Khiến ông ngất ngây rồi cứ nhìn sững như hóa đá ), lập tức tâm luyến ái phát sinh .. Một niệm khởi sai là công phu tiêu hết , do vậy Hòa thượng trị bệnh không thành công. Thủy thần trong cổ sự chính là Chu nữ sĩ đời nay , do đôi mắt kiếp trước bị nạn dẫn đến nguyên nhân bệnh mắt đời này.Vị Hòa thượng kiếp xưa nhìn thấy Thủy thần bỗng khởi phàm tâm , nay là chồng cô. Chẳng phải bây giờ phu quân rất yêu thương cô hay sao ??? Nghe Hòa Thượng Diệu Pháp nói , mọi người đều hung phấn , nhìn chăm chăm vào đôi phu thê này. Chu nữ sĩ có vẻ rất kích động khi biết câu chuyện này . Giờ nghe Hòa Thượng hỏi , cô quay lại nhìn chồng thật lâu , thật đằm thăm và cười cười , xác nhận : - Đúng vậy , ông xã rất chăm và lo cho con , y như con nít vậy. Người chồng có vẻ lung túng , ông khẽ mỉm cười và không nói gì. Kế đó , sư phụ bảo 2 vợ chồng họ: -Hai con phải đến đại điện xám hối tội nghiệp xưa.Làm ngập nước Kim Sơn Tự cho dù không phải chủ ý của Thủy thần , nhưng vì vô tri mà thành ra trợ ác , tội không nhỏ đâu. Từ nay về sau phải thường lạy ‘’Lương Hoàng Sám ‘’ và năng tụng ‘’ Kinh Địa Tạng ‘’ đôi mắt nhất định sẽ lành. Sư phụ quay qua bảo chồng nữ sĩ : -Con vốn là 1 người chân chất ,tu hành đoàng hoàng , nhưng mỗi lần đến thế gian đều không buông được tâm ái dục, nên cung phu xem như bị thiệt . Đời này hai con đã nối tiếp tiền duyên , kết làm vợ chồng , lại càng phải phát tâm , ngay một đời này phải siêng tu giới , định , huệ , chứng đắc vô thượng Bồ Đề. Ngưng một lát Hòa Thượng nói tiếp : - Con có thể chẳng tin chút gì về cổ sự ta kể. Thế nhưng , khi về chỉ cần làm theo những gì ta nói , thành tâm sám hối nhất định sẽ có hiệu quả. Một tuần sau , vợ chồng Chu nữ sĩ đến bái kiến Hòa Thượng . Vừa gặp mặt tôi đã thấy đôi mắt cô sáng long lanh , nhìn rất có thần. Các mạch máu trong tròng trắng cũng không còn nữa, trông cô hết sức tươi tắn , rạng rỡ. Dù hai vợ chồng này đối với câu chuyện sư phụ kể lòng rất hoài nghi , nhưng họ vẫn quyết định sám hối chân thành y như lời Ngài khuyên. Lúc đến trước Phật đường sám hối , thì cô bỗng cảm giác có một luồng khí mát mẻ xâm nhập vào mắt , làm cho mắt cô rất dễ chịu.Từ nhỏ đến giờ đôi mắt cô chưa từng có qua cảm giác tuyệt vời như thế này . Cảm thọ này khiến cô nhận ra chính xác mình đang được Phật lực gia trì, do vậy mà cô vững tin cổ sự sư phụ kể là có thật. Chồng cô cũng bị chấn động sâu sắc , hai người ngay tối đó tại ‘’Tân Quán Khách ‘’ đã cùng chí thành tụng ‘’Kinh Địa Tạng ‘’ , sám hối tội lỗi của mình. Sáng ra , khi mở mắt cô thấy nhãn thần của mình không còn nóng đau nữa. Điều này làm họ kinh ngạc và vui mừng vô kể. Thế là hai vợ chồng hàng ngày tụng ‘’ Kinh Địa Tạng’’ thiết tha sám hối. Hiện nay mắt cô Chu đã lành hoàn toàn. Thời gian quay về cũng đã đến , họ đặc biệt tới cảm tạ và bái biệt sư phụ , còn bày tỏ rằng sau khi về Đài Loan sẽ 1 ngày dành thời gian lễ tụng ‘’Lương Hoàng Sám’’ . Chu nữ sĩ còn 1 vấn đề nan giải , xin thỉnh giáo sư phụ , cô thưa : - Nếu như khi về , con bị người hỏi làm sao trị lành được đôi mắt. Thì con phải đáp sao dây ? Vì con không thể nói mình chữa trị ở y viện nào , lại càng không thể thổ lộ đời trước mình là Thủy Thần trong ‘’ Truyện Bạch Xà’’ từng dâng nước làm ngập Kim Sơn Tự. Nếu con giải thích như vậy thiên hạ không nói con điên mới là lạ. Câu chuyện này khiến mọi người tại hiện trường phải bật cười , Sư phụ đáp : - Rất đơn giản con cứ nói mình tại Ngũ Đài Sơn tụng kinh bái phật mà được lành. Dù đối với Sư phụ tôi tin tưởng tram phần tram , nhưng khi nghe cổ sự này , lòng tôi không thể không có chút hoài nghi. Bởi thời thơ ấu tôi thường nghe người lớn nói truyện ‘’ Bạch Xà ‘’ chẳng qua chỉ là một truyền thuyết , sao giờ đây lại có thực được ? Không những vậy , hiện thời còn có một Thủy Thần tái thế bằng xương bằng thịt đang ở ngay trước mắt tôi nữa chứ ! Thế nhưng , mấy ngày sau kết quả thực tế khiến tôi tiêu tan nghi hoặc , bằng chứng là đôi mắt Chu nữ sĩ rõ rang đã hoàn toàn hồi phúc. Lúc đó người biết việc này tối đa chỉ có 6 -7 vị. Tôi mong rằng một ngày nào đó , nếu Chu nữ sĩ tình cờ xem cuốn sách này , sẽ không đem lòng giận tôi. Được vậy là quí lắm rồi. Cho dù khi tường thuật lại sự kiện này , các tên thật đều được tôi thay đổi nhưng có điều là tôi chưa có xin phép , chưa có chút đồng ý nào của cô đã mạo muội tiết lộ. Nếu như câu chuyện này khiến các bạn có được nhận thức tốt và hiểu biết sâu hơn với Nhân quả và Phật pháp – thì công đức này là của vợ chồng cô. Cầu mong hai người sớm chứng thành quả. Ngay đây tôi cũng hi vọng các cư sĩ có đạo đức và văn tài cao , có thể dùng ngòi bút tuyệt vời của mình viết mới lại ‘’ Truyện Bạch Xà ‘’ theo quan điểm Phật giáo và ghi thêm câu chuyện tái thế tình duyên của Thủy Thần. Nếu như không hiểu rõ về Bạch Xà , Thanh Xà , Hứa Tiên , chúng ta sẽ cầu giup đỡ nơi Hòa Thượng Diệu Pháp và cũng có thể đem câu chuyện chân thực ( chứ không phải sai lệch ) này dựng thành phim truyền hình nhiều tập như điện ảnh Đài Loan đã từng công diễn chuyện đời ‘’ Ngọc Lâm quốc sư’’ và ‘’ Tái Thế Tình Duyên’’ vậy. Hi vọng ‘’ Truyện Bạch Xà’’ viết lại này là tác phẩm tốt giáo dục người đồng thời cũng khôi phuc lại danh vị xứng đáng cho Hòa Thượng Pháp Hải. , đây cũng là một việc công đức vô lượng . Đến như lai lịch Hòa Thượng Pháp Hải , rốt cuộc ngài là ai ,là vị Bồ - Tát chuyển thế ?Nếu sau này có dịp thì chúng ta sẽ bàn thêm.
Ðề: Những câu chuyện về luật Nhân- Quả PHƯƠNG PHÁP HAY ĐỂ CHỮA BỆNH HIẾM MUỘN THEO PHẬT PHÁP Rất nhiều Phật tử tu học theo Phật nhiều năm đã đoạn trừ ăn mặn, dứt thịt cá, nhưng vẫn còn ăn trứng gà, trứng vịt. Thế thì đệ tử Phật rốt cuộc có nên ăn các loại trứng hay không? Trước tiên xin kể một câu chuyện có thật: Một lần trong pháp hội, Trần cư sĩ dẫn theo nữ đồng nghiệp tên Nhã Lâm, 35 tuổi. Cô này gầy gò, sắc mặt xám vàng, ngó bộ rất tiều tụy. Do đây là lần đầu gặp giáo sư Quả Khanh, ánh mắt cô hiện đầy nét hân hoan, khát vọng. Trong quá trình nghe giảng, cô rất chăm chú chí thành. Lúc giáo sư Quả Khanh hỏi cô Lâm có vấn đề gì? Mặt cô hơi đỏ lên, lộ vẻ căng thẳng, ấp úng mãi chẳng thành câu, cuối cùng nhờ Trần cư sĩ giải thích giùm, mọi người mới hiểu rõ. Thì ra cô kết hôn đã mười năm, rất khao khát có con, nhưng bất kể cầu thầy bổ thuốc đến đâu, vẫn chẳng có thai. Hôm nay, may mắn gặp giáo sư Quả Khanh, cô thỉnh cầu ông chỉ giúp chỗ mê muội…. Giáo sư Quả Khanh rất thông cảm cho cô, vì nỗi khổ “cầu bất đắc” này (ước con mà không có được)…Ông thở dài, quay sang bảo tôi: - Quả Hồng, cô hãy quán sát xem nguyên nhân vì sao Nhã Lâm không có con? Tôi xoay đầu nhìn Nhã Lâm, chạm ngay ánh mắt nhìn đầy khát vọng của cô, tôi cũng không kềm được, bật ra âm thanh cảm thán: - Có phải cô rất ưa ăn trứng? Đặc biệt là trứng chim cút? - Đúng, đúng, tôi rất ưa. Tôi đã ăn rất nhiều trứng chim cút….thế chẳng lẽ…. Nửa câu sau âm điệu cô ta có vẻ nghi hoặc. Trần cư sĩ ở bên cạnh, thông minh hiểu nhanh, liền hỏi giúp cho một câu: - Mọi người đều cho rằng trứng có dinh dưỡng tốt, hơn nữa trước khi biết Phật pháp, chúng tôi ai cũng ăn trứng. Nhưng vì sao chỉ riêng Nhã Lâm lại chẳng thể có thai? Tôi nhìn giáo sư Quả Khanh đang đứng cạnh mình, thấy mắt ông đầy hối thúc và khuyến khích), tôi liền giải rõ: - Phật từng nói ăn trứng các loài điểu cầm, thủy tộc …v.v…..là không có lòng từ mẫn. Hòa thượng Tuyên Hóa cũng từng giảng những điều liên quan đến ăn trứng, Ngài từng hóm hỉnh nói: “Nếu bạn không sợ đời sau làm trứng cho người ăn thì bạn có thể ăn bất kỳ trứng gì”….Bởi nhân quả đan xen chồng chéo phức tạp, mỗi người lại có phước đức nhân duyên bất đồng nhau, nên mặc dù có nhiều người ăn trứng, nhưng việc thọ báo lại không giống nhau….Bạn muốn có con tất phải đoạn trừ ăn mặn (đương nhiên trong đây bao gồm cả trứng). Ngoài ra, bạn còn phải phóng sinh cho nhiều và tụng kinh, niệm Phật để hồi hướng cho các chúng sinh bạn đã từng ăn qua…. Tôi nói xong, khẽ nhìn Nhã Lâm, thấy cô có vẻ không tin và khó chấp nhận. Rõ ràng là cô chờ nghe….một câu chuyện nhân quả chứa tình tiết hấp dẫn liên quan đến việc hiếm muộn (khó mang thai) của cô…nhưng lại bị những câu nói thẳng phũ phàng và quá thực tế của tôi là cho “vỡ mộng”. Có lẽ, cô cảm thấy những điều tôi nói quá “xoàng”, không quan trọng và chẳng có gì đáng lưu tâm, nên mặt cô lộ đầy vẻ thất vọng. Tôi cảm thấy thật tiếc cho cô, bởi cô hoàn toàn không tin gì, bất đắc dĩ tôi phải nói thẳng ra: - Cô hiện tại chỉ muốn bản thân mình có con, nhưng sao không nghĩ cho những cái trứng bị cô ăn mất?....Chúng cũng có mẹ…và thân mẫu chúng phải gian nan khổ cực lắm mới sinh được con ra. Lúc này, giáo sư Quả Khanh ôn tồn bảo Nhã Lâm: - Quả Hồng giảng lý nhân quả cho cô nghe rất đúng và chính xác. Cô hãy trân trọng tiếp thu và chịu khó làm theo cách cô ấy bày, thì sẽ chiêu cảm được hài nhi ngoan. Tốt nhất là cả hai vợ chồng đồng phải tu sửa luôn. Tiện thể, cư sĩ Quả Khanh mới kể ra một câu chuyện thật để chứng minh: “Có một nữ Trưởng khoa nghiên cứu Sinh vật học, thấy con gái mình kết hôn đã 4 năm mà không có thai. Thế là bà dùng kiến thức chuyên môn của mình để hướng dẫn con rể bào chế thuốc. Nhưng dẫu có chế chi, làm gì…thì kết quả càng khiến bà thêm hoài nghi về khả năng chuyên môn của mình. Do vậy mà nữ Trưởng khoa này mặt mày cứ rầu rĩ, khiến ai cũng phải cảm thán: “Thật là tội cho tấm lòng của bậc làm cha mẹ!”. Khi đó tôi bảo bà: - Vợ chồng con gái bà đều mê ăn trứng, lại thích nhất là trứng cút (đây là cộng nghiệp khiến cho họ không thể sinh con). Muốn có con thì cả hai cần phải ăn chay, phóng sanh, tụng kinh, niệm Phật, làm nhiều việc thiện….. Vợ chồng con gái vị nữ Trưởng khoa này y theo lời khuyên mà thực hành. Kết quả, chỉ nửa năm sau thì con gái bà đã có thai… Khi nghe Quả Khanh vừa kể xong thì Lý cư sĩ (nữ bác sĩ thực tập) liền hỏi tôi: - Vì sao hiện nay những bệnh nhân (từng mang thai nhưng nạo thai), giờ muốn có con mà không được…lại nhiều đến như thế? Tôi bảo mọi người: - Mỗi đứa con đến đầu thai đều có nhân duyên rất sâu nặng với cha mẹ…Mà trong vòng luân hồi dày đặc, cơ hội có được một lần đầu thai làm người lại rất hiếm hoi! Thế nhưng các bậc cha mẹ do nhiều nguyên nhân, đã phá thai bừa bãi, hủy đi cơ duyên làm người của vong nhi. Khi làm vậy họ nào biết rằng mình đã tạo ra tội nặng tương đương giết A-la-hán. Đã vậy mà lại còn không biết sám hối, mặc tình sát sinh ăn thịt, tạo nghiệp sát sâu nặng chất chồng, tất nhiên sẽ chiêu cảm ác báo: “triệt con dứt cháu”… Tôi thấy Nhã Lâm và những người khác gật gật đầu tán đồng, thật là mừng cho cô có thể tỉnh ngộ. Hi vọng cô sẽ được Phật lực gia trì, chịu sửa đổi lỗi lầm hướng thiện, trì giới tu hành, sớm sinh quý tử…. Thời gian trôi qua được nửa năm, Trần cư sĩ là người ban sơ dẫn Nhã Lâm đến, đã gọi điện thoại báo tin cho tôi hay: “Nhã Lâm từ lúc trở về nhà đã làm y theo lời chúng tôi hướng dẫn, và hiện giờ cô đã mang thai, rất là tri ân mọi người”. Xin khuyên mọi người không nên vì tham ăn ngon, ham khoái khẩu mà ăn các loại trứng. Tôi suốt 20 năm trên đường học Phật đã từng gặp nhiều vị ăn trứng (bao gồm cả trứng chim, rắn, cá….v.v….cho đến ăn trứng chưa thành hình trong thân gà mái)…mà biến thành phụ nữ không thể mang thai hoặc thường sinh non, hư thai….Bọn họ bí lối cùng đường, đành phải làm theo cách tôi hướng dẫn là: Sám hối trước Phật (nguyện từ bỏ ăn mặn lẫn các loại trứng). Hàng ngày tụng từ 1-2 bộ kinh Địa Tạng hồi hướng cho các trứng và những thân mẫu đẻ ra các trứng mà họ đã ăn qua….Kết quả, đại đa số khoảng chừng ba tháng là được hoài thai, thân thể họ cũng thay đổi, trở nên khỏe mạnh… Nguyện cầu cho những vị hiếm muộn khao khát con, có sự nghiệp gia đình không thuận lợi và thân thể kém khỏe mạnh, hãy y theo phương pháp này mà thực hành, trong vòng vài tháng sẽ có việc bất khả tư nghì xuất hiện trên thân các bạn. Bạn không phải tốn xu nào cho việc có con, còn tiết kiệm được rất nhiều tiền, tốt như thế vì sao bạn không làm? Nhưng liệu bạn có đủ can đảm để trường chay hành thiện, phóng sanh, niệm Phật….. hay không? Có làm được mọi điều như chúng tôi đã hướng dẫn hay không mà thôi, tất cả đều tùy thuộc vào bạn. Tác giả: Quả Khanh – Quả Hồng. Dịch giả: Hạnh Đoan (Trích từ Báo ứng hiện đời) LTS: Trong cuộc sống hiện tại, tôi cũng thấy xung quanh mình có những gương người thật việc thật rất đáng phải suy gẫm. Có hai vợ chồng sống ở Quận 6, TP.HCM cưới nhau đã 4 năm rồi không có con, cũng lấy làm phiền muộn đi chạy chữa tốn tiền mà vẫn không thấy tiến triển. Sau đó nhờ thiện duyên gặp thiện tri thức dạy nên lên Tịnh Thất Quan Âm để cộng tu và bái Phật. Hai vợ chồng cùng mẹ vợ đã đủ duyên lên Đức Trọng, Lâm Đồng để cộng tu. Lên đến nơi, nhìn thấy một bé gái xinh xắn con người ta, người vợ trong lòng ao ước: “Anh à, phải chi mình cũng có một đứa con thế này nhỉ!”. Khi trở về nhà, hai vợ chồng này đã phát tâm trường chay, tích cực phóng sanh, tụng kinh niệm Phật, cả người mẹ vợ cũng vậy (bà ăn chay, niệm Phật), siêng làm việc thiện lành. Một năm sau, người vợ hoài thai, quả là sự nhiệm mầu Phật pháp (việc này có lẽ các bác sĩ cũng không giải thích được). Lúc gặp tôi vào tháng 6 năm 2014, thì người chồng hoan hỷ, xúc động lắm: “Chị à, vợ em vừa sinh bé được một tháng, là một bé gái dễ thương. Nhà em và những hàng xóm xung quanh có thể tin Phật rồi. Hết sức nhiệm mầu. Hihihi…”. Quả là có tâm, chịu nghe lời dạy của thiện tri thức, tích cực hành thiện thì hoàn cảnh thay đổi, có thể “hữu cầu tất ứng”. Chỉ sợ bạn không chịu tin, không dám làm theo mà thôi. Thế thì tùy phước duyên của chính bạn vậy. A Di Đà Phật.