Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Em vào điểm danh cái, Chúc cả nhà cuối tuần vui vẻ!!!
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Cả tuần làm việc mệt mỏi quá. Cuối tuần ăn chơi nhảy múa xả Xì -Trét đê ê ê ê ê ê ê.
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ giời ơi cả tuần vừa qua cơ quan em mất mạng chịu ko vào nhà thăm mng đc, mà mng cũng tranh thủ em đi vắng mà đi vắng theo hay sao thế này nhỉ?
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Cả nhà ui, tuần rồi tớ bận quá nên ko ghé nhà. cả nhà ăn uống cuối tuần vui vẻ nhé.
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ hô hô, đội trưởng đội chém gió đi vắng là nhà cửa cứ gọi là nam mô a di đà phật, hị hị Đội phó đội chém gió đâu nhỉ? Nhà cũng mất mạng luôn rồi hay sao thế?????????
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Nhà có mạng dưng mờ chồng chiếm oánh võ lâm, hiện đang tắm nên tranh thủ đc
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ ui giống nhau chỉ? zing nè, kiếm thế nè...
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ em Tiên mẫy hom nay bận làm MC hay sao thế nhỉ. ko thấy mẹt đâu
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Thăm Chùa Phật Tích Tiên Du - Bắc Ninh đi nào. Chùa Phật Tích (Phật Tích tự 佛跡寺) còn gọi là chùa Vạn Phúc (Vạn Phúc tự 萬福寺) là một ngôi chùa nằm ở sườn phía Nam núi Phật Tích (còn gọi núi Lạn Kha, non Tiên), xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Trong chùa có tượng đức Phật bằng đá thời nhà Lý lớn nhất Việt Nam. Lịch sử Theo tài liệu cổ thì chùa Phật Tích được khởi dựng vào năm Thái Bình thứ 4 (1057) với nhiều tòa ngang dãy dọc. Chùa được xây dựng vào thời nhà Lý. Ngôi chùa vào thời Lý hiện nay không còn nữa. Năm 1066, vua Lý Thánh Tông lại cho xây dựng một cây tháp cao. Sau khi tháp đổ mới lộ ra ở trong đó bức tượng Phật A-di-đà bằng đá xanh nguyên khối được dát ngoài bằng vàng. Để ghi nhận sự xuất hiện kỳ diệu của bức tượng này, xóm Hỏa Kê (gà lửa) cạnh chùa đổi tên thành thôn Phật Tích. Văn bia Vạn Phúc Đại Thiền Tự Bi năm Chính Hòa thứ bảy (1686) ca ngợi vẻ đẹp của cảnh chùa: "Đoái trông danh thắng đất Tiên Du, danh sơn Phật Tích, ứng thế ở Càn phương (hướng Nam) có núi Phượng Lĩnh bao bọc, phía tả Thanh Long nước chảy vòng quanh. Phía hữu Bạch Hổ núi ôm, trên đỉnh nhà khai bàn đá..." Năm 1071, vua Lý Thánh Tông đi du ngoạn khắp vùng Phật Tích và viết chữ "Phật" dài tới 5 m, sai khắc vào đá đặt trên sườn núi. Bà Nguyên phi Ỷ Lan có đóng góp quan trọng trong buổi đầu xây dựng chùa Phật Tích. Thời bấy giờ vua Trần Nhân Tông đã cho xây tại chùa một thư viện lớn và cung Bảo Hoa. Sau khi khánh thành, vua Trần Nhân Tông đã sáng tác tập thơ "Bảo Hoa dư bút" dày tới 8 quyển. Vua Trần Nghệ Tông đã lấy Phật Tích làm nơi tổ chức cuộc thi Thái học sinh (thi Tiến sỹ). Vào thời nhà Lê, năm Chính Hòa thứ bảy đời vua Lê Hy Tông, năm 1686, chùa được xây dựng lại với quy mô rất lớn, có giá trị nghệ thuật cao và đổi tên là Vạn Phúc tự. Người có công trong việc xây dựng này là Bà Chúa Trần Ngọc Am - đệ nhất cung tần của Chúa Thanh Đô Vương Trịnh Tráng, khi Bà đã rời phủ Chúa về tu ở chùa này. Bia đá còn ghi lại cảnh chùa thật huy hoàng: "... Trên đỉnh núi mở ra một tòa nhà đá, bên trong sáng như ngọc lưu ly. Điện ấy đã rộng lại to, sáng sủa lại kín. Trên bậc thềm đằng trước có bày mười con thú lớn bằng đá, phía sau có Ao Rồng, gác cao vẽ chim phượng và sao Ngưu, sao Đẩu sáng lấp lánh, lầu rộng và tay rồng với tới trời sao,cung Quảng vẽ hoa nhụy hồng...". Đời vua Lê Hiển Tông (1740-1786), một đại yến hội đã được mở ở đây. Nhưng rồi vẻ huy hoàng và sự thịnh vượng của chùa Phật Tích cũng chỉ tồn tại sau đó được gần 300 năm. Kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ và chùa bị tàn phá nhiều. Chùa đã bị quân đội Pháp đốt cháy hoàn toàn vào năm 1947. Khi hòa bình lập lại (1954) đến nay, chùa Phật Tích được khôi phục dần. Năm 1959, Bộ Văn hóa cho tái tạo lại 3 gian chùa nhỏ làm nơi đặt pho tượng A-di-đà bằng đá quý giá. Tháng 4 năm 1962, nhà nước công nhận chùa Phật Tích là di tích lịch sử-văn hoá. Kiến trúc Chùa được kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc", sân chùa là cả một vườn hoa mẫu đơn rực rỡ. Bên phải chùa là Miếu thờ Đức chúa tức bà Trần Thị Ngọc Am là đệ nhất cung tần của chúa Trịnh Tráng tu ở chùa này, có câu đối "Đệ nhất cung thần quy Phật địa. Thập tam đình vũ thứ tiên hương". Bà chẳng những có công lớn trùng tu chùa mà còn bỏ tiền cùng dân 13 thôn dựng đình. Bên trái chùa chính là nhà tổ đệ nhất thờ Chuyết chuyết Lý Thiên Tộ. Ông mất tại đây năm 1644 thọ 55 tuổi, hiện nay chùa còn giữ được pho tượng của Chuyết công đã kết hỏa lúc đang ngồi thiền. Cho tới nay, chùa Phật Tích có 7 gian tiền đường để dùng vào việc đón tiếp khách, 5 gian bảo thờ Phật, đức A di đà cùng các vị Tam thế Phật, 8 gian nhà tổ và 7 gian nhà thờ thánh Mẫu. Ngôi chùa có kiến trúc của thời Lý, thể hiện qua ba bậc nền bạt vào sườn núi. Các nền hình chữ nhật dài khoảng 60 m, rộng khoảng 33 m, mặt ngoài bố trí các tảng đá hình khối hộp chữ nhật. Theo tương truyền, bậc nền thứ nhất là sân chùa với vườn hoa mẫu đơn, nơi xảy ra câu truyện Từ Thức gặp tiên: "...Từ Thức đi xem hội hoa mẫu đơn, gặp Giáng Tiên bị bắt trói vì tội hái trộm hoa. Từ Thức bèn cởi áo xin tha cho tiên nữ. Sau Từ Thức từ quan đi du ngoạn các danh lam thắng cảnh, đến động núi ở cửa biển Thần Phù gặp lại Giáng Tiên..." Do tích này, trước đây chùa Phật Tích mở hội Hoa Mẫu Đơn hàng năm vào ngày mồng bốn tháng giêng để nhân dân xem hoa và các văn nhân thi sĩ bình thơ. Bậc nền thứ hai là nơi có các kiến trúc cổ ngày nay không còn được thấy. Khi đào xuống nền ngôi chùa này, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều di vật điêu khắc thời nhà Lý và nền móng của một ngôi tháp gạch hình vuông, mỗi cạnh dài 8,5 m. Nền thứ ba cao nhất, có Long Trì (Ao Rồng) là một cái ao hình chữ nhật, đã cạn nước. Sau sân nền có 32 tháp xây bằng gạch và đá là nơi cất giữ xá lị của các nhà sư từng trụ trì ở đây, phần lớn được dựng vào thế kỷ 17. Nhiều tác phẩm điêu khắc thời nhà Lý còn được giữ tại chùa cho đến nay. Ngay ở bậc thềm thứ hai, có 10 tượng thú bằng đá cao 10 m, gồm sư tử, voi, tê giác, trâu, ngựa, mỗi loại hai con, nằm trên bệ hoa sen tạc liền bằng những khối đá lớn. Giữa chùa là pho tượng Phật bằng đá xanh ngồi thiền định trên tòa sen, cao 1,85 m. Trên bệ và trong những cánh sen, có những hình rồng và hoa lá đặc trưng cho thời Lý. Ở chùa còn có những di vật thời Lý khác như đá ốp tường, đấu kê,...trên đó chạm khắc các hình Kim Cương, Hộ Pháp, các nhạc công, vũ nữ v.v... Hàng năm vào ngày 4 tết Nguyên Đán, nhân dân Phật Tích thường mở hội truyền thống để tưởng nhớ công lao các vị tiền bối đã khai sinh và tu tạo chùa. Trong những ngày xuân tưng bừng ấy, khách thập phương về đây lễ Phật, hái hoa mẫu đơn, thưởng ngoạn cảnh đẹp vùng Kinh Bắc hoặc tham dự các trò chơi ngày hội như đấu vật, chơi cờ, đánh đu, hát quan họ... Di cốt của sư tổ Năm 1988, đã xảy ra một vụ trộm tại khu tháp này: Kẻ gian đã nạy cửa tháp Báo Nghiêm để kiếm vàng và đồ cổ. Chúng đã vứt ra một vại sành trong đó có chứa di cốt người và những mảnh bó cốt có cấu tạo giống như mảnh bồi của tượng nhà sư chùa Đậu. Phó tiến sỹ Nguyễn Lân Cường cho biết: "Rất tiếc, vị sư trụ trì của chùa đã mất từ trước khi vụ trộm xảy ra cách đó 8 năm. Khi đến thôn Rao Mộc, cách chùa 15 km, chúng tôi gặp cụ Nguyễn Chí Triệu vốn là sư bác ở chùa 45 năm về trước. Theo lời cụ Triệu, trước đây, trong khán thờ có một pho tượng của sư tổ, chân xếp bằng tròn theo thế ngồi thiền, hai tay đặt trước bụng, lòng bàn tay ngửa." Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tất cả 133 mảnh xương và 209 mảnh bồi. Trong số này có đốt sống, xương đùi, xương chày, một phần xương hàm trên, đặc biệt có một xương hàm dưới, một phần xương trán cùng hốc mắt phải đính với hai mũi. Dựa vào các xương chi, các nhà khoa học tính toán chiều cao của nhà sư khoảng 1,6 m. Qua phân tích cấu tạo của khuyết hông và khớp mu, các nhà khoa học khẳng định đây là di hài của một nhà sư nam khoảng 65 - 70 tuổi. Khi nghiên cứu những mảnh bồi, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy một đoạn dây đồng đã gỉ mầu xanh. Điều này chứng tỏ: Sau khi cải táng, người ta lấy xương của nhà sư đã tịch, đem dựng khung tạo thành hình ngồi thiền, rồi mới bồi ra bên ngoài để tạo tượng. Điều này khác với kỹ thuật tạo tượng nhà sư Vũ Khắc Minh ở chùa Đậu. Với mong muốn phục nguyên di hài thiền sư ở chùa Phật Tích, nhóm các nhà khoa học do PTS Nguyễn Lân Cường chỉ đạo đã áp dụng phương pháp Guerasimov phục hồi mặt theo xương sọ. Ngày 12 tháng 1 năm 1993, các nhà khoa học bắt tay tiến hành phục nguyên di hài. Trước hết, họ dựng tượng nhà sư bằng đất sét theo phương pháp Guerasimov; đổ khuôn thạch cao tạo các mảnh khuôn rồi gỡ các mảnh khuôn, phá tượng đất đi. Sau đó, họ bôi sơn ta, lót vải màn, rắc mạt cưa trộn sơn ta và gắn xương vào đúng vị trí. Để thành tượng, các nhà khoa học phá tiếp khuôn thạch cao, gỡ các mảnh bó cốt và gắn lại. Cuối cùng, họ đem thếp bạc rồi quang dầu lên tượng. Sau khi tượng được hoàn thành, tại khu vực này đã diễn ra lễ rước tượng về chùa Phật Tích với sự tham dự của hàng nghìn người dân. Đây là lần đầu tiên Việt Nam phục nguyên thành công một pho tượng theo phương pháp Guerasimov kết hợp với sơn ta cổ truyền của dân tộc
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ tớ đi chùa Phật tích 1 lần từ hồi sinh viên rồi, đẹp lắm, hồi trưng bày phật ngọc thì con bé quá ko đi đc, tiếc lắm í
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Điểm danh hội BN cái nhỉ??Có bố mẹ nào ở Quế Võ không nhỉ???
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Bạn m ở Quế Võ nhưng làm dâu trong này rồi. Cả nhà còn đang ngủ ngon nhỉ?
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Tớ chưa đi hết Bắc Ninh , mong có dịp đi chơi và du lịch tâm linh kết hợp luôn.
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ chị ơi đến em còn chưa đi hết Bn nữa là bạn gì QUế võ ơi,tơc có 1 phần gốc QUế Võ đây, mẹ người Phương Liễu mà
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ CHÙA TIÊU SƠN - TƯƠNG GIANG - TỪ SƠN - BẮC NINH Tiêu Sơn tự - Tỉnh Bắc Ninh Chùa Tiêu còn gọi là chùa Thiên Tâm, Tiêu Sơn tự, nằm trên lưng chừng núi Tiêu, nay thuộc xã Tương Giang, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội khoảng 20 km. Ðây là nơi trụ trì của thiền sư Lý Vạn Hạnh - người đã có công nuôi dạy Lý Công Uẩn - vị vua đầu tiên của triều Lý. Ðến thăm chùa Tiêu, du khách sẽ được đắm mình trong chốn tu thiền huyền bí của người xưa để biết thêm một trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam. Dọc quốc lộ 1 A đường Hà Nội - Lạng Sơn, ai đã từng đi đâu, về đâu, nhưng chưa lấy một lần đến vãng cảnh chùa Tiêu thì thật là đáng tiếc. Trở ngại về địa lý hay eo hẹp về thời gian, nhưng chỉ cần mạnh dạn một chút, quyết tâm vượt qua các ngại ngùng trong lòng là có thể đến được chùa Tiêu. Chùa Tiêu là một danh thắng nổi tiếng và cũng là - trung tâm Phật giáo cổ xưa của Việt Nam. Những công trình còn lại của chùa Thiên Tâm (chùa Tiêu) hiện nay là di sản kiến trúc nghệ thuật thời Lê - Nguyễn. Chùa Tiêu hầu như không bị ảnh hưởng bởi các biến cố lịch sử qua nhiều thời kỳ và chỉ cách thủ đô Hà Nội khoảng 20 km mà thôi. Từ xưa, ở đây, núi bắc, sông nam sơn thủy hữu tình, con sông Tiêu Tương chảy qua bây giờ đã biến thành đồng ruộng, làng mạc trù phú. Dấu ấn một thời chỉ còn lại là một cái hồ sen dưới chân núi trước cửa chùa. Theo bước chân du khách về chốn này, dưới bóng cây xanh mát rượi, ta bước lên từng bậc gạch. Ta đang lần tìm đến nơi phát tích của một triều đại phát triển toàn diện và một quốc gia phong kiến độc lập: triều nhà Lý. Trước mắt ta, trên sân lữ khách dừng chân, cũng là đường dẫn đến chùa chính nhà thờ tổ, hiển hiện một nhà bia mới dựng. Thành kính thắp nén hương, trân trọng xem câu đối trên cột nhà bia viết bằng chữ Hán: "Lý gia linh tích tồn bi kỷ Tiêu Lĩnh danh kha đắc sử truyền" (Dẫu thiêng nhà Lý còn bia tạc Danh thắng non tiên có sử truyền). Mặt chính của tấm bia khắc chữ Hán Nôm: "Lý gia linh thạch". Mặt sau bia quay vào phía núi khắc chữ Hán nhỏ. Theo ông Nguyễn Công Nha người làng Ðình Bảng tạm dịch như sau: "Chùa Thiên Tâm có Lý Vạn Hạnh (là người trụ trì tăng viện người làng Cổ Pháp (nay thuộc làng Ðình Bảng - huyện Tiên Sơn - tỉnh Bắc Ninh). Ðặc biệt, sườn đông bên tả ngạn sông Tiêu Tương có bà Phạm Mẫu người ở Hoa Lâm, lên chùa đèn nhang gặp người thần ngẫu nhiên có thai, rồi sinh ra Lý Công Uẩn tại tam quan chùa ứng Tâm hương cổ pháp còn gọi là chùa Dân thuộc xã Ðình Bảng ngày nay...". Trong Ðại Việt sử ký toàn thư có ghi việc này: "Thái tổ Hoàng đế họ Lý, tên húy là Công Uẩn người châu Cổ Pháp. Mẹ họ Phạm đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần... Có chửa sinh vua ngày 12/2 năm Giáp Tuất, niên hiệu thái bình năm thứ năm (974) thời Ðinh. Mới ba tuổi... Sư Khánh Văn nhận làm con nuôi, bé đã thông minh vẻ người tuấn tú khác thường, lúc nhỏ đi học nhà sư Vạn Hạnh thấy khen rằng "đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy cơ, gỡ rối làm bực minh chủ trong thiên hạ". Nói về chùa Tiêu là nói đến Thiền sư Vạn Hạnh. Bởi lẽ chùa Tiêu là chốn tu thiền giảng đạo của nhiều bậc cao tăng trong đó sư Vạn Hạnh là người trụ trì. Thiền sư Vạn Hạnh là một con người tài năng: về đạo thì "linh thông tam pháp cửu lưu" còn binh pháp thì thuộc lòng binh pháp của Tôn Tử "Vũ". Do có công lao cố vấn cho triều tiền Lê và Lý, Thiền sư Vạn Hạnh được suy tôn là quốc sư, hiện nay trong chùa Tiêu còn bài vị thờ sư tổ: "Lý triều tể tướng Thiền sư Vạn Hạnh vị". Sử thần Ngô Sĩ Liên thừa nhận: "Mắt trông thấy Lý Thái Tổ biết là người khác thường, đến khi thấy sét đánh thành vết chữ thì đoán ngay thời thế thay đổi, như thế là có trí thức vượt người thường". Nghe các cụ Ðình Bảng kể rằng: Thiền sư Vạn Hạnh sinh ra trong một gia đình đại thế tộc, nhiều đời làm quan. Gặp thời loạn thập nhị sứ quân không biết đâu chính, đâu tà đành thành tâm tu luyện đợi thời cơ xoay chuyển thế cuộc. Sư Lý Khánh Văn, Lý Vạn Hạnh là hai anh em ruột. Lý Khánh Văn có công nuôi dưỡng. Lý Vạn Hạnh có công dạy dỗ đào tạo và huấn luyện người "lãnh đạo" quốc gia. Họ đều là những cao tăng có kiến thức uyên bác. Năm 1018 Thiền sư Vạn Hạnh không ốm đau bệnh tật gì mà mất, người thời ấy đã truyền lại rằng ngài đã hóa thân. Vào thập kỷ 90, nhân dân xã Tương Giang, nhà chùa Tiêu Sơn và những người hảo tâm đã đóng góp công sức xây dựng tượng Thiền sư Vạn Hạnh trong tư thế thiền sừng sững giữa đỉnh Tiêu Sơn. Cảnh đấy, người đây đã tạo cảnh quan xứ này thêm trang trọng và bề thế. Ðến thăm chùa Tiêu, đọc lại 10 điều tâm niệm của người xưa, để tưởng nhớ suy ngẫm, học hỏi những gì tốt đẹp về đạo đức lẽ sống, cách làm người, âu cũng là để cho lòng ta thanh thản, cho trí óc ta trong sáng hơn. Ðồng thời ta cũng biết thêm một di tích lịch sử và nghệ thuật được Nhà nước công nhận.
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ MỘT VÀI THÔNG TIN THÊM VỀ NHỤC THỂ CỦA VỊ THIỀN SƯ TẠI CHÙA TIÊU Thêm nhiều chi tiết cụ thể, sống động được tiết lộ về vị thiền sư đã để lại nhục thân ở chùa Tiêu Sơn: Đó là một người đàn ông cao xấp xỉ 1m65, ngài viên tịch ở độ tuổi từ 45 đến 50! Nhục thân sau khi tu sửa. Các nghiên cứu di cốt thậm chí cho chúng ta những thông tin cụ thể hơn nữa, chẳng hạn: Sinh thời, xương hàm dưới của Ngài đã bị viêm nặng! Xương mác, xương gót và xương sên của Ngài sau 300 năm vẫn nằm đúng vị trí. Qua đó có thể kết luận thiền sư được bọc vải, bó cốt ngay sau khi tịch. Đất, vải, sơn ta, mạt cưa được sử dụng kết hợp để bồi lớp thứ nhất. Tiếp đó, các tấm đồng lá được đặt lên trên rồi lớp bồi thứ hai phủ ra bên ngoài. Về các điểm khác, chúng tôi đã có thông tin tới bạn đọc, ở đây chỉ xin trích lời PGS.TS Nguyễn Lân Cường nhằm đưa ra một vài con số cụ thể hơn: "Tấm đồng lớn trên lưng thiền sư có kích thước 65x15 (cm), kéo dài từ dưới hông lên đến tận cổ. Tấm đồng trước ngực rộng 22 cm. Thêm vào đó, các phim chụp X-quang đều cho thấy, quanh xương đầu thiền sư có các dải đồng nhỏ kích thước từ 4 đến 21 mm, băng bó cẩn thận: Ngang trán có 3 vòng, các vòng khác vắt từ dưới cổ lên trán và từ trán ra sau gáy. Tôi xin nhấn mạnh, đây là hiện tượng lần đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam. Có nhiều khả năng, các tấm đồng này giúp cho tư thế ngồi của thiền sư vươn thẳng, tránh bị cúi gập xuống ở phần cổ, lưng như hai pho tượng chùa Đậu. Hoặc cũng có thể việc này nhằm bảo vệ hộp sọ". Cũng theo TS. Nguyễn Lân Cường, không nghi ngờ gì nữa sự tồn tại của khối hợp chất nội tạng bên trong nhục thân thiền sư. Giả thiết rằng đó là một khối chất lạ xâm nhập vào cơ thể ngài bị bác bỏ ngay: Bên dưới đáy tượng có một tấm đế bằng gốm, điều này suy ra đó không thể là khối chất do mối đùn lên từ dưới. Hợp chất này lại càng không thể đến từ bên ngoài qua da, vì phần thân tượng đã được quét sơn ta toàn bộ. Chính vì thế, các chuyên gia đã lấy một phần nhỏ bằng ngón tay đưa vào máy nhiễu xạ tia X để tìm hiểu các chất vô cơ vốn là các chất hữu cơ do phần phủ tạng trong bụng thiền sư phân huỷ mà thành. Phương pháp phân tích phổ hồng ngoại cho thấy có mặt hợp chất hữu cơ của Laccol, tức là thành phần chính của sơn ta. Quy trình tu bổ Hiện trạng ban đầu của pho tượng: mắt hỏng, chân phải gãy, phần lưng bị nứt lớn, tai nứt và vi khuẩn xâm nhập rất nhiều, toàn bộ cẳng chân trái vỡ, hai tay cụt, tuy nhiên bàn tay gãy rơi xuống ngay dưới chân và do đó xác định được tư thế thiền của thiền sư. Sau khi diệt khuẩn, nhóm tu bổ tiến hành sấy nhục thân trong vòng 72 tiếng. Để tượng không bị huỷ hoại nhanh chóng trong khi đợi giấy phép tu bổ hồi tháng 3-4, họ đã bọc vải màn vào tượng. Tiếp đó các quy trình bọc vải, bó, hom, lót...được thực hiện đầy đủ và thận trọng. Cả thảy, sau khi hoàn thành việc tu bổ, tượng thiền sư Như Trí được thếp bạc và sơn 13 lớp sơn ta. Huyền thoại và sự thật về thiền sư Như Trí và nhục thân của Ngài Ni sư Đàm Chính, trụ trì chùa Tiêu Sơn, là người gắn bó với ngôi chùa này ngót bảy chục năm nay, từ những ngày chùa còn hoang lạnh, bị tàn phá do chiến tranh, các di tích nổi tiếng ở núi Tiêu - nơi tu hành của nhà sư Vạn Hạnh, người nuôi nấng và dạy dỗ vua Lý Công Uẩn từ 1000 năm trước, đã bị hư hại hết. Bà nhớ lại: "Năm 1971 vỡ nước, mưa nhiều, cây cối mọc trùm lên các ngọn tháp, rễ ăn vào to quá, sập tháp xuống. Khi lên dọn các cây trên tháp tôi mới trông thấy được cái bia rêu mốc, ghi rằng đây là nhục thân của Ngài. Ngài là Như Trí, sống vào Triều Lê. Phần ghi về ngày ngài tịch thì đã bị tróc lở mất”. Như vậy, qua tấm bia lở lói bên cạnh tháp Viên Tuệ, nơi đặt nhục thể thiền sư, điều ít ỏi mà chúng ta có thể biết về Ngài là Ngài sống vào triều Lê, có pháp hiệu là Như Trí. Một thời gian sau khi nhục thể thiền sư được thỉnh ra và đem tu sửa hồi đầu năm nay, chúng tôi có về lại chùa Tiêu và tại đây được biết nhà chùa còn lưu giữ một số cuốn sách do đích thân thiền sư Như Trí sưu tập, khắc in lại. Trong số đó có cuốn Thiền Uyển tập anh, mà ngày nay được in khá nhiều để phổ biến sử Thiền cho nền Phật giáo nước ta. Sách Thiền Uyển tập anh được sư Như Trí khắc in năm 1715 tại chùa Tiêu. Theo Tỳ kheo Thích Kiến Nguyệt - Tổng thư ký Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt - Yên Tử, sư Như Trí sống vào khoảng cuối thế kỷ 17, đầu thế kỷ 18. Ngài có thể là một trong bốn đệ tử nối pháp của Thiền sư Chân Nguyên trụ trì tại chùa Long Động ở Yên Tử (người đã có công khôi phục lại thiền phái Trúc Lâm). Chính do tiếp nối tinh thần phục hưng Thiền phái Trúc Lâm của Thiền sư Chân Nguyên, sư Như Trí đã cùng các thiền sư thời đó sưu tập và khắc in lại một số sách khác, ngoài Thiền Uyển tập anh. Điều này cũng giải thích tại sao Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt đã hết sức sốt sắng trong việc tu bổ nhục thân ngài Như Trí, và là đơn vị chủ đầu tư dự án này. Thực ra sự tồn tại của pho tượng cốt xương này tại một ngọn tháp nhỏ ở chùa Tiêu, hoàn toàn không phải là điều bí mật đối với nhiều người trong giới tu hành. Ngoài ra, theo lời kể của người dân địa phương, từ vài chục năm trước sự phát hiện của sư trụ trì chùa Tiêu vào năm 1971, pho tượng đã từng phát lộ. Chuyện kể rằng, có một ông người miền Trong lấy vợ ở rể ở đây, tính rất ngỗ nghịch. Ông này thường đi chăn bò quanh quẩn dưới chân núi Tiêu, một lần, phát hiện ra một khe nứt bên sườn ngọn tháp cổ, ông tò mò cạy thêm mấy viên gạch để nhòm vào trong. Bên trong có một pho tượng như người thật đang ngồi thiền. Vốn tính táo tợn, ông bèn lấy que để chọc...và chọc ngay trúng mắt của Ngài. Ông này về nhà được mấy hôm thì chết, miệng thổ ra huyết. Bí thư Đảng ủy xã Tương Giang xác nhận với chúng tôi chuyện này, và cho biết thêm, sau vụ việc đó, nhà chùa đã lấy gạch bịt chặt lại cửa tháp. Pho tượng nằm trong lãng quên từ đó đến giờ, vết chọc ngày xưa đã thành vết thủng lớn trên mắt Ngài. Tuy nhiên, phải đến đầu năm 2004, người ta mới quyết định thỉnh ngài ra để tu bổ. Để tháp nứt vỡ một thời gian dài rồi lại bít chặt vào, có lẽ việc đó đã khiến có sự tích tụ hơi nước, hoặc thay đổi môi trường nghiêm trọng và đẩy pho tượng tới chỗ bị tàn phá nhanh hơn. Có 3 pho tượng thiền sư Như Trí! Pho tượng gốc, sau khi tu bổ, nặng 34kg, cao 78,5 cm được đặt tại nhà thờ Tổ, trong một khám sơn son thếp vàng chứa đầy khí Nitơ để bảo quản lâu dài. Tuy nhiên, lại có hai pho tượng thiền sư Như Trí nữa. Đó là các phiên bản bằng composite, cũng được thực hiện một cách công phu với 10 lớp sơn, vải, mạt cưa, năng 55,5 kg. Mặc dù trọng lượng lớn hơn, nhưng theo quả quyết của nhóm tu bổ, về sự sắp xếp của xương và mọi đặc điểm khác đều được giữ y nguyên như pho tượng gốc. Một phiên bản được đặt ở gian phải, ngay trong nhà thờ Tổ ở chùa Tiêu. Pho còn lại toạ lạc trong chính ngôi tháp cũ của Thiền sư. Quá trình tu bổ tượng táng chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh) Ngày 15/1/2004, môn đồ Thiền phái Trúc Lâm khai tháp Viên Tuệ tại chùa Tiêu, đưa nhục thân ra, chuyển về chùa Duệ Khánh (xã Nội Duệ, huyện Tiên Du, Bắc Ninh). Ngày 13/3 2004, dự án tu bổ bắt đầu được thực hiện. Do một số trục trặc về thủ tục, việc đã bị đình lại khoảng 1 tháng. Thời gian thực mà nhóm tu bổ làm việc là 4 tháng. Ngày 12/8/2004, việc tu bổ hoàn tất và tượng được đưa trở lại về chùa Tiêu. Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt-Yên Tử là chủ đầu tư. Sở VHTT Bắc Ninh là cơ quan lập thiết kế và phương án thi công. PGS.TS Nguyễn Lân Cường, hoạ sĩ sơn mài Đào Ngọc Hân là những người trực tiếp tu bổ. Dự án còn có sự tham gia của Viện 69 Bộ tư lệnh Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Viện Khoa học và Công nghệ VN, Khoa X-quang Bệnh viện đa khoa Bắc Ninh... Bảo tàng Lịch sử VN là đơn vị giám sát thi công.
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ Chùa Dạm - xà Nam Sơn - Quế Võ - Bắc Ninh Khởi công năm 1086 và hoàn thành năm 1094, chùa Dạm (Nam Sơn, Quế Võ, Bắc Ninh) là một công trình đồ sộ, uy nghiêm, nằm dựa vào sườn ngọn núi cao nhất trong dãy Lãm Sơn, trên bốn lớp nền dài 120 m, rộng 70 m ghép bằng đá. Không chỉ nổi tiếng bởi kiến trúc hài hòa, hội đủ huyết mạch linh thông theo thuyết phong thủy, chùa Dạm còn nổi tiếng bởi những tác phẩm điêu khắc tài ba, bao hàm tư tưởng thâm thúy, cao siêu của người Việt, vốn được xem là những tác phẩm mở đầu cho nghệ thuật tạo hình tượng đài hoành tráng ở Việt Nam. Xứ Kinh Bắc là một trong những trung tâm Phật giáo cổ xưa và lớn nhất ở Việt Nam. Trải qua nhiều thế kỷ, mỗi triều đại lại tu bổ hoặc xây mới một số công trình chùa chiền, đền tháp. Vương triều Lý - một vương triều hiển hách về võ công văn trị và rất sùng mộ đạo Phật, tôn đạo Phật là quốc giáo, đã để lại nhiều dấu tích lịch sử làm vẻ vang nền văn hóa dân tộc. Chùa Dạm (thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh) là danh lam thắng cảnh điển hình. Căn cứ vào các thễ tịch cổ, chùa Dạm được Vua Lý Nhân Tông (1072-1127) cho xây dựng vào năm Quang Hựu thứ 2 (1086). Để tiện vận chuyển nguyên vật liệu phục vụ công trình, vua cho đào ngòi Con Tên từ chân núi Lãm Sơn chạy thẳng ra sông Đuống. Năm 1087, "Vua ngự đến chùa Lãm Sơn, đến đêm ban yến cho các quan. Vua làm 2 bài Lãm Sơn dạ yến". Công trình làm trong 9 năm mới xong. Vua ban tên chùa là Cảnh Long Đồng Khánh, lại thân đề biển bằng chữ Triện. Năm Long phù nguyên hóa thứ 5 (1105), vua Lý Nhân Tông cho xây thêm ba tháp đá nữa. Chùa làm xong (1094), Vua ban 300 mẫu ruộng tự điền để nhà chùa có hoa lợi hương khói và 7 gia đình ở mé dưới núi được giao việc chuyên đóng - mở cửa chùa. Nếu như chùa Phật Tích ở dãy Nguyệt Hằng (huyện Tiên Sơn) gần đấy có 300 gian, có tòa nhà đá, bảo tháp nhiều tầng, giếng rồng, ao rồng... thì các công trình kiến trúc của chùa Dạm hẳn là vượt xa hơn thế. Nguyên do: sau chiến thắng lẫy lừng chống Tống trên phòng tuyến sông Cầu khẳng định nền độc lập tự chủ Đại Việt, Nhà Lý có xu hướng chấn hưng văn hóa dân tộc đồng thời phát triển mạnh kinh tế đất nước. Vì vậy hàng loạt chùa chiền ở Kinh Bắc nơi phát tích triều Lý càng được quan tâm. Rút kinh nghiệm xây dựng đồ sộ chùa Phật Tích trước đó ít lâu, chùa Dạm được dựng huy hoàng hơn. Về sự bề thế của chùa Dạm, dân gian đã lưu truyền qua câu ca: "Mười lăm trăng náu, mười sáu trăng treo, mười bảy phẩy giường chiếu, mười tám đóng cửa chùa Dạm", có nghĩa là cứ sau ngày rằm người ta đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc trăng lên cao mới đóng hết tất cả các cửa. Kiến trúc sư và các nhà điêu khắc xưa đã khéo tổ chức không gian một cách hợp lý để nhân gấp bội giá trị - vẻ đẹp công trình và biểu đạt ý niệm triết - mỹ á Đông. Chùa đặt ở sườn núi phía nam của dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn cao nhất. Núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên làm Minh Đường bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông theo thuyết phong thủy.
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ ĐÌNH LÀNG DIỀM -Ngôi đình đẹp nhất xứ Bắc Nhắc đến làng Diềm (hay còn gọi là làng Viêm Xá, xã Hòa Long, (Yên Phong) người ta không chỉ nhớ về những làn điệu Quan họ nổi tiếng xưa nay mà nơi đây còn được biết tới với một ngôi đình cổ rất bề thế như câu ca xưa: “Thứ nhất là đình Đông Khang Thứ nhì đình Bảng, vẻ vang đình Diềm” Đến thăm đình Diềm, hình ảnh đầu tiên đập vào mắt du khách là tòa đại đình 4 mái, đao cong nằm chỉnh tề ngay đầu làng. Đi vào bên trong, ai cũng ấn tượng với một không gian thoáng rộng (do lòng đình rộng tạo nên) và bốn cây cột cái chu vi tới 2,14m. Cụ từ Nguyễn Bá ý cho biết: Đây là những cây trụ chính chịu lực nâng đỡ cả tòa đình. Theo thần phả của làng và một số câu đối trong đình còn ghi lại, đình Diềm được xây dựng vào cuối thế kỷ 17 để thờ Đức thánh Tam Giang (như mọi làng quê ven sông Cầu), dân làng vẫn lấy năm Nhâm Thân 1692 (năm dựng mái) làm năm xây đình. Kiến trúc đình Diềm xưa tuân thủ theo kiến trúc truyền thống của Việt Nam, có nhà tiền tế, có đại đình, ngoài gian giữa có chạm những hình rồng và mây nét mác, tất cả mọi thành phần của khung nhà đều bào trơn đóng bén, soi gờ chỉ chạy thẳng. Đình Diềm xưa khá bề thế, gồm 3 gian hai chái khép kín thành một chỉnh thể thống nhất và hài hòa. Sau này do chiến tranh, nhiều kiến trúc độc đáo đã bị phá huỷ, hiện đình chỉ còn 1 gian 2 chái. Ngay từ năm 1964, đình Diềm đã được Nhà nước ta công nhận danh hiệu di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia. Nét độc đáo của đình Diềm chủ yếu ở chiếc cửa võng và chiếc nhang án thờ nơi gian giữa. Chiếc nhang án nằm phía trong cửa cấm, theo các nhà nghiên cứu thuộc Cục bảo vệ di sản (Bộ Văn hóa-Thông tin), giá trị của nó về một số mặt “có thể đưa vào danh sách các bảo vật Quốc gia”. Nhìn tổng thể nhang án được sơn son thiếp vàng rực rỡ, chân quỳ chạm hình rồng, các tầng diềm được trang trí bằng nhiều hình rồng, vân mây, hoa bốn cánh với kỹ thuật chạm lộng, chạm nổi, chạm thủng. Hai bên là ván chạm thủng hình “Song nghê triều dương” (hai con nghê chầu mặt trời), và 4 con rồng chầu vào vòng sáng nhọn đầu của chữ “Phúc”. Bên cạnh các hình chạm khắc này, nhang án còn có những hình chạm rất đặc sắc, trong đó có cả hình tượng các cô thôn nữ xinh đẹp, yểu điệu. Điều đó chứng tỏ người dân làng Diềm xưa không hề bó buộc, câu nệ mà đưa cả những cảnh sinh hoạt đời thường vào trang trí tại một nơi thâm nghiêm như đình, chùa. Theo cụ Nguyễn Văn Thư, trưởng ban quản lý đình, khác với đình rất nhiều nơi khác, từ gần 300 năm trước, “đặc sản” quan trọng nhất của đình Diềm chính là bức cửa võng “độc nhất vô nhị”. Bức cửa võng này chạy dài suốt từ thượng lương ở trên độ cao 7m xuống tận nền đình, gồm bốn tầng lớn xếp theo bậc thấp dần cho đến giáp hao cột cái bên trong. Tầng nào cũng được chạm khắc tinh tế với nhiều hình khối nghệ thuật, biểu tượng tứ linh (long, li, quy, phượng) và những đề tài đậm chất nghệ thuật. Toàn bộ cửa võng thếp vàng rực rỡ, không một mảng trơn bóng, từng nét nhỏ đều được trang trí kỹ lưỡng khiến cho nổi bật lên, thu hút sự chú ý của mọi người ngay từ phút đầu mới đến. Theo đánh giá, hầu hết các đình làng xứ Bắc đều có cửa võng, nhưng không thấy cửa võng nào đẹp và độc đáo như ở đình Diềm. Nghệ thuật chạm khắc gỗ của cửa võng đình Diềm đã thể hiện được tinh hoa nghệ thuật điêu khắc gỗ của người nghệ nhân dân gian Kinh Bắc thủa xưa. Cùng với đôi phỗng trên ban thờ, đình Diềm còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý như lư hương, lộc bình và đặc biệt là 36 đạo sắc phong. Theo cụ Thư, mỗi năm đình Diềm đón một lượng khách khá lớn về tham quan, nghiên cứu. Điều đáng mừng là nhân dân địa phương luôn có ý thức gìn giữ, tu bổ tôn tạo đẹp hơn nên qua nhiều lần trùng tu vẫn giữ được dáng vẻ nguyên sơ và chưa hề xảy ra vụ mất mát cổ vật nào. Mong rằng các ban ngành chức năng của tỉnh Bắc Ninh quan tâm hơn nữa để đình Diềm phát huy được hết giá trị của một trong những ngôi đình đẹp nhất xứ Bắc
Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ cám ơn mẹ nó đã cho những thong tin hữu ích nhé, đúng là làm du lịch phải khác chứ, hi hi