Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

Thảo luận trong 'Các CLB' bởi mekhanhtroc, 21/9/2010.

  1. tho_yeu_rat_kieu

    tho_yeu_rat_kieu Em là con gái Bắc Ninh

    Tham gia:
    6/3/2009
    Bài viết:
    8,223
    Đã được thích:
    2,399
    Điểm thành tích:
    863
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    quê gốc mình ở chùa Dạm đây. Nhưng cũng ít về lắm.
     
    Đang tải...


  2. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Mẹ Khanhtroc Chuối vừa thôi nhé. Bố Nó xịn mà dám đổi sânng mẹ nó. Liệu xác đấy nhé....
     
  3. mekhanhtroc

    mekhanhtroc & Sóc xấu xí

    Tham gia:
    18/6/2009
    Bài viết:
    18,534
    Đã được thích:
    5,286
    Điểm thành tích:
    3,063
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    ôối xin lỗi nhá, làm sao mà biết đc cơ chứ, quen mồm cứ quy ra mẹ nó tất í mà
     
  4. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    KHU DI TÍCH LỊCH SỬ ĐỀN ĐÔ - ĐÌNH BẢNG - TỪ SƠN - BẮC NINH
    Đền Lý Bát Đế, còn gọi là Đền Đô hoặc Cổ Pháp điện là nơi thờ tám vị vua đầu tiên của nhà Lý. Đây là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng được bảo tồn khá trọn vẹn, nơi tưởng niệm và phụng thờ của toàn dân đối với các vị vua nhà Lý.
    Với vị thế, ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân Việt và in đậm bản sắc văn hóa dân tộc, đền Lý Bát Đế đã được Nhà nước Việt Nam công nhận là di tích lịch sử - văn hóa theo Quyết định số 154 của Bộ Văn hóa-Thông tin cũ, nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ngày 25/01/1991.
    Khái quát
    Đền Lý Bát Đế thuộc xóm Thượng, làng (xã) Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
    Đền nằm trên vùng đất "địa linh nhân kiệt" Đình Bảng, cách thủ đô Hà Nội gần 20 km về phía Bắc, thuộc địa phận hương Cổ Pháp, châu Cổ Pháp (làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nên còn gọi là đền Cổ Pháp.
    Đền thờ tám vị vua nhà Lý, đó là: Lý Công Uẩn tức Lý Thái Tổ (1009-1028); Lý Thái Tông (1028-1054); Lý Thánh Tông (1054-1072); Lý Nhân Tông (1072-1128); Lý Thần Tông (1128-1138); Lý Anh Tông (1138-1175); Lý Cao Tông (1175-1210) và Lý Huệ Tông (1210-1224).
    Từ xa xưa, Cổ Pháp được liệt vào làng "tam cổ": "Thứ nhất Cổ Bi, thứ nhì Cổ Loa, thứ ba Cổ Pháp". Đất Cổ Pháp là nơi thắng địa bậc nhất Kinh Bắc, vượng khí, linh thiêng. Làng Cổ Pháp là nơi phát tích của triều đình nhà Lý, kéo dài hơn 200 năm.
    Đền Lý Bát Đế được khởi công xây dựng từ ngày 3 tháng Ba năm Canh Ngọ 1030 bởi Lý Thái Tông khi vị hoàng đế này về quê làm giỗ cha. Sau này, đền được nhiều lần trung tu và mở rộng. Lần trùng tu lớn nhất là vào năm thứ hai niên hiệu Hoàng Định của vua Lê Kính Tông (tức năm 1620), khắc văn bia ghi lại công đức của các vị vua triều Lý.[1]
    Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, quân Pháp đã phá hủy nhiều di sản văn hóa ở Cổ Pháp. Năm 1952, quân Pháp dội bom, phá hủy hoàn toàn đền. Đến năm 1989, đền đã được khởi công xây dựng lại, theo đúng hình dáng và kiến trúc mà các nhà nghiên cứu lịch sử đã phác thảo, căn cứ vào dấu tích còn lại và các tài liệu lưu trữ.
    Kiến trúc


    Thủy đình của Đền Đô
    Đền Lý Bát Đế rộng 31.250 m², với trên 20 hạng mục công trình, chia thành 2 khu vực: nội thành và ngoại thành. Tất cả đều được xây dựng công phu, đắp vẽ chạm khắc tinh xảo.
    Khu vực nội thành có kiến trúc theo kiểu "nội công ngoại quốc". Cổng vào nội thành gọi là Ngũ Long Môn vì hai cánh cổng có trạm khắc hình năm con rồng. Trung tâm của Khu nội thành và cũng là trung tâm đền là chính điện. Chính điện gồm trước tiên là Phương đình (nhà vuông) 8 mái 3 gian rộng đến 70 m². Tiếp đến nhà Tiền tế 7 gian rộng 220 m². Tại đây có điện thờ vua Lý Thái Tổ. Phía bên trái điện thờ có treo tấm bảng ghi lại "Chiếu dời đô" của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, ứng với 214 năm trị vì của 8 đời vua nhà Lý. Phía bên phải có treo tấm bảng ghi bài thơ nổi tiếng của Lý Thường Kiệt: "Nam quốc sơn hà Nam đế cư...". Sau cùng là Cổ Pháp điện gồm 7 gian rộng 180 m² là nơi đặt ngai thờ, bài vị và tượng của 8 vị vua nhà Lý. Gian giữa là nơi thờ Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông; ba gian bên phải lần lượt thờ Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và Lý Thần Tông; ba gian bên trái lần lượt thờ Lý Anh Tông, Lý Huệ Tông và Lý Cao Tông.[2]
    Trong nội thành còn có nhà chuyển bồng, kiến trúc theo kiểu chồng diêm 8 mái, 8 đao cong mềm mại, nhà tiền tế, nhà để kiệu thờ, nhà để ngựa thờ. Đặc biệt, phía Đông đền có nhà bia, nơi đặt "Cổ Pháp Điện Tạo Bi" (bia đền Cổ Pháp). Tấm bia đá này cao 190 cm, rộng 103 cm, dày 17 cm, được khắc dựng năm Giáp Thìn (1605), do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn văn bia, ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền và ghi công đức của các vị vua triều Lý.
    Khu ngoại thất đền Lý Bát Đế gồm thủy đình trên hồ bán nguyệt. Đây là nơi để các chức sắc ngày trước ngồi xem biểu diễn rối nước. Hồ này thông với ao Cả trên và ao Cả dưới và sông Tiêu Tương xưa. Thủy đình ở phía Bắc hồ rộng 5 gian có kiến trúc chồng diêm 8 mái, 8 đao cong. Thủy đình đền Lý Bát Đế từng được Ngân hàng Đông Dương thời Pháp thuộc chọn là hình ảnh in trên giấy bạc "năm đồng vàng". Nhà văn chỉ ba gian chồng diêm rộng 100 m² nằm bên trái khu nội thành thờ Tô Hiến Thành và Lý Đạo Thành, những quan văn đã có công lớn giúp nhà Lý. Nhà võ chỉ có kiến trúc tương tự nhà văn chỉ, ở bên phải khu nội thành thờ Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt, Đào Cam Mộc, những quan võ đã có công lớn giúp nhà Lý. Ngoài ra, ở khu vực ngoại thành còn có nhà chủ tế, nhà kho, nhà khách và đền vua Bà (thờ Lý Chiêu Hoàng, còn gọi là đền Rồng), v.v.

    Hoành phi liên hoa bát diệp (tám đời như tám bông hoa sen), trong đền còn có bức hoành phi "Bát diệp trùng quang" (tám đời cùng sáng)
    Trong khi hướng dẫn du khách tham quan, các cụ trong Ban Quản lý di tích đền kể lại, không phải chỉ một lần, vào những ngày giỗ các vị vua Lý, trên nóc đền thường xuất hiện 8 đám mây trắng xếp thành một dải nối tiếp nhau. Đám mây hiện hữu khoảng mươi, mười lăm phút rồi mới tản ra. Những người dự lễ xôn xao bàn tán. Các cụ bảo, đó là linh hồn 8 vị vua Lý hiện về. Lại nữa, vào đúng ngày Lễ hội đền Đô năm 2003 (15-3 âm lịch - ngày Lý Công Uẩn đăng quang), những người dự lễ hội tại đây đã chứng kiến một hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ: Một dải mây hình rồng vàng từ phía Thăng Long - Hà Nội bay về đứng lên nóc đền một lúc rồi tản ra, đúng lúc dân làng Đình Bảng bắt đầu lễ rước "Linh bài Lý Thái Tổ và Chiếu dời đô ra Thăng Long" theo nghi lễ cổ truyền... Những câu chuyện và hình ảnh ấy được ghi chép, chụp ảnh và lưu lại trong những tài liệu về đền Đô. Các nhà khoa học giải thích, đó chỉ là sự trùng hợp kỳ lạ của thiên nhiên. Nhưng với người dân Đình Bảng, điều đó có nghĩa là các vị vua nhà Lý vẫn luôn hiện diện đâu đó trên mảnh đất quê nhà.
    Hội Đền
    Đền là trung tâm thờ các vua Lý với nhiều nghi thức rất trọng thể trong các dịp lễ hàng năm, kỷ niệm ngày mất của các vị vua. Đặc biệt lễ hội đền Đô được tổ chức vào các ngày 15, 16, 17 tháng 3 âm lịch nhằm kỷ niệm ngày Lý Công Uẩn đăng quang (ngày 15/3 năm Canh Tuất 1010). Đây là ngày hội lớn mang tính quốc gia, thu hút hàng vạn khách hành hương thể hiện lòng thành kính và nhớ ơn của người dân Việt đối với các vua Lý. Đó còn là lễ hội truyền thống có từ lâu đời và trở thành phong tục được nhân dân xã Đình Bảng tự nguyện lưu giữ, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
     
  5. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Chùa Bút Tháp (Thuận Thành-Bắc Ninh)

    Chùa Bút Tháp thuộc thôn Bút Tháp, xã Đình Tổ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh là một công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo. Chúng tôi giới thiệu ở đây một số vấn đề về lịch sử ngôi chùa này qua tư liệu Hán Nôm.

    1. Vị trí địa lý và lịch sử hình thành

    Chùa Bút Tháp nằm trên một dải đất có lịch sử lâu đời đặc biệt là nằm trong không gian văn hóa Luy Lâu - trung tâm của Phật giáo trong nhiều thế kỉ. Tuy vậy chúng tôi đã đi khảo sát chùa Bút Tháp nhưng cũng không thấy tư liệu nào chứng tỏ nó có từ thời Trần. Không biết dựa vào đâu mà tác giả L.Bezacier trong tác phẩm Nghệ thuật Việt Nam (L’artvietnamien) xuất bản năm 1944 lại cho rằng chùa Bút Tháp là nơi tu hành của Trạng nguyên Lý Đạo Tái thời Trần(1). Chúng ta đã biết, dưới thời Lý - Trần nhiều nhân vật nổi tiếng đứng ra xây dựng hoặc trụ trì chùa Dâu và chùa Trí Quả như trong Thiền uyển tập anh ghi việc Thiền sư Sùng Phạm (1004-1087) trụ trì ở chùa Pháp Vân, hương Cổ Châu, huyện Long Biên; Thiền sư Thiền Nham (1093-1163) trụ trì ở chùa Trí Quả(2) mà không hề nói đến chùa Bút Tháp. Theo tấm bia Trùng tu Ninh Phúc tự(3) khắc vào năm Quý Mão niên hiệu Thành Thái thứ 5 (1903) do Tổng đốc Hoàng Trọng Phu đứng ra hưng công trùng tu chùa chỉ viết: "Đại để là di tích của thánh hiền để lại, kế tiếp đến đời Lê, hoàng hậu, nhà vua trùng hưng, trải đến nay hơn 300 năm rồi". Như vậy kể từ khi nhà vua, hoàng hậu đứng ra xây dựng qui mô cho đến đầu thế kỉ XX là hơn 300 năm, còn trước đó tuy có thể đã có chùa nhưng chắc còn khá khiêm tốn.

    Ngôi chùa này còn có nhiều tên gọi khác nhau. Tương truyền: thuở xưa từng đàn chim Nhạn thường bay về đậu trên tháp đá Ninh Phúc tự - cảnh thiền đất lành chim đậu và tên chùa Nhạn Tháp, xã Nhạn Tháp cũng được hình thành từ đây. Sau này trên các bi kí thời Lê thế kỉ XVII-XVIII đều ghi là Nhạn Tháp.

    "Thuận An phủ, Siêu Loại huyện, Nhạn Tháp xã" về sau đến thời Tự Đức (1848-1883) đổi tên chùa là Bút Tháp, còn nhân dân đều gọi là chùa Bút Tháp. Làng Bút Tháp với tên gọi giản dị là chùa Thấp, làng Thấp (với đặc điểm địa hình rất thấp trũng). Ngoài ra chùa Bút Tháp còn có tên gọi khác. Trên tấm bia Sắc kiến Ninh Phúc thiền tự bi kí(4) khắc năm Đinh Hợi năm thứ 5 niên hiệu Phúc Thái (1647) đặt tại chùa ghi "Chùa cổ Ninh Phúc xưa còn có biệt danh là Thiếu Lâm (Ninh Phúc cổ Sát Thiếu Lâm biệt danh)". Và tấm bia Trùng tu Ninh Phúc tự bi niên đại Quý Mão (1903) ghi "Chùa Ninh Phúc có biệt danh là Thiếu Lâm".

    Chùa Bút Tháp tọa lạc trong khuôn viên 10.000m2 bên bờ nam sông Đuống, bên phía bắc sông chạy dài xuống phía đông là các núi Văn Chinh, Long Khám, núi Phật Tích, núi Đông Cứu. Chùa Bút Tháp cách chùa Dâu khoảng 3km, cách làng tranh Đông Hồ nổi tiếng khoảng 7km, cách 20km về phía Tây là kinh thành Thăng Long. Nằm trong một vùng có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nên từ lâu trên tấm bia Sắc kiến Ninh Phúc thiền tự bi kí đã viết: "Hình thế của Siêu Loại liền Tam Đảo, sông dài uốn quanh, giáp Yên Tử một dải, hai bên tả hữu cùng ôm ấp, Phật pháp khó gặp, nhân tâm không thay đổi, đẹp thay thắng cảnh chung đúc khí thiêng, vị của sông Tào Khê, hoa sen nở rộ, hương thơm sực nức đất gò nơi Thiên Trúc (đất Phật)… bậc thiện tín, hướng theo hâm mộ ở nơi tịnh độ".

    Hay tấm bia Khánh lưu bi kí(5) niên đại Vĩnh Thịnh thứ 10 (1714) ghi: "Chùa Ninh Phúc, xã Nhạn Tháp trở thành một chốn thiền lâm đẹp nhất Kinh Bắc, điện vũ nguy nga, tráng lệ". Đến thế kỉ XVII-XVIII, chùa Bút Tháp đã trở thành một ngôi chùa nổi tiếng về qui mô và cảnh đẹp. Được như vậy không thể không kể đến những vị cao tăng từng trụ trì và những người có công xây dựng, như Chuyết Chuyết, Minh Hành, Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc...

    2. Những vị Thiền sư nổi tiếng

    Người được coi là vị tổ thứ nhất của chùa là thiền sư Chuyết Chuyết. Vào cuối thời Minh (thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII) tình hình chính trị không ổn định, nhiều người Trung Hoa sang nước ta lánh nạn. Có lẽ Chuyết Chuyết cũng sang nước ta trong hoàn cảnh này. Bia Hiển Thụy am, Báo Nghiêm tháp bi minh khắc năm Đinh Hợi niên hiệu Phúc Thái thứ 5 (1647) do đệ tử là Minh Hành lập và Thanh Nguyên cư sĩ Âu Dương Vựng Đăng hiệu Thế Chân soạn. Về nhà sư Chuyết Chuyết, phần đầu ghi: "Phong Minh Việt Phổ Giác Quảng Tế đại đức thiền sư Chuyết công hòa thượng nhục nhân bồ tát tháp minh (Bài minh tháp Hòa thượng Chuyết Chuyết được phong Minh - Việt Phổ Giác Quảng Tế đại đức thiền sư). Chuyết Chuyết không phải là người vậy. Lại hay thất hiếu quên ơn cha mẹ, họ Thẩm bị diệt kiếp ngũ luân, cho đến nay mới được làm kiếp người. Ngài vượt sông sang gặp vua nước Miên được vua coi là bậc thầy cũng không gọi là quá. Lại nói rằng bậc sĩ đại ngôn mà không có thực, hư danh mà không thể dùng được (…) Đoạn tiếp theo Thiền sư Minh Hành thuật lại "Tôi lấy lòng từ bi thuật lại việc lánh đời đến nước Nam gặp Chuyết Chuyết ở chùa Khán Sơn, thành Thăng Long. Ông nói là cuồng sĩ vậy. Gặp nhau lâu, ông mở ra việc cứu giúp mọi người ở nơi núi sông mà không ngại lại nói rằng có tài vui đùa. Bậc công khanh che chở cả già trẻ, lấy thiên tử làm bạn tốt, coi tiền tài như cỏ rác, vốn không coi trọng tiền tài, ra tay cứu vớt người nghèo đói, cứu người bần hèn, nghĩa khí cao cả thông suốt cổ kim, trải qua các đời có thể gọi là người ngoại hạng mà khí tiết từ bi thì tận thiện rồi. Chuyết Chuyết tự phụ có chí của Liễu Hạ Huệ. Tôi lại chưa tin và cùng ở với nhau mấy tháng (...) Việc giới hành nhẫn nhục như thế, biến hóa khôn lường lại như thế, tôi kính phục ông, ôi ông sống trí tuệ vậy. Tin thật rồi. Nếu không có được nơi sâu thẳm của núi tuyết, mênh mông của biển lớn thì cũng mở ra chân tính cửa Cam lồ. Do đó, nhân duyên cũng không phải là ít, công danh của bậc đại phu như thế, do đó tháp miếu xây 5 tầng vẫn là sự bất hiếu của bậc đệ tử. Tháp xây xong ghi lại lời nói, tế điền đầy đủ, xin tôi bài kí. Tôi kính cẩn viết bài bia và bài minh. Ông là người quận Chương Hải, họ Lý, hiệu Chuyết Chuyết”. Tiếp đó là bài minh dài 26 câu.

    Mặt bia sau mang tên Hiến Thụy am hương hỏa điền bi kí cho biết thêm: Tổ sư họ Lý, hiệu Chuyết Chuyết, người Hải Trừng, Mân Chương sinh ngày 22 tháng 2 năm Canh Dần niên hiệu Vạn Lịch đời Minh (1590) nhập định (mất) ngày 15 tháng 7 năm Giáp Thân, niên hiệu Phúc Thái Đại Việt (1644).

    Qua tư liệu trên cho biết khá rõ về lai lịch của thiền sư Chuyết Chuyết. Chỉ có điều có chỗ ghi ông họ Thẩm, có chỗ lại ghi là họ Lý. Có lẽ trước đây ở Trung Quốc là họ Thẩm, nhưng sang Đại Việt mới đổi là họ Lý (?) sinh thời từng chu du nhiều nơi như từ Trung Quốc qua nước Miên (Campuchia) rồi mới đến nước ta. Bia cho biết ông là người lánh đời đi tu về sau ốm bệnh mà chết, thọ 54 tuổi(6). Sau này có một số nhà nghiên cứu cho rằng thiền sư Chuyết Công đã hình thành nên một chi phái gọi là phái Lâm tế thiền tông. Tác giả Việt Nam Phật giáo sử lược cho rằng: “Vào khoảng đời vua Lê Hy Tông (1676-1705) ở Bắc lại có phái gọi là phái Liên tông, do một vị vương công nhà họ Trịnh là Lân Giác thiền sư lập ra ở chùa Liên Phái (Bạch Mai, Hà Nội) đồng thời sư Nguyệt Quang cũng là đệ tử của ngài Chính Giác, ngài Chính Giác là đệ tử của ngài Chuyết Công tức là chi phái của phái Lâm tế(7). Thế hệ kế tiếp Thiền sư Chuyết Chuyết trụ trì tại chùa Bút Tháp là Minh Hành thiền sư đã được bi kí ở đây ghi lại khá rõ.

    Bia Ninh Phúc thiền tự tam bảo tế tự điền bi. Dòng đầu ghi:"Sắc kiến Tôn Đức tháp khoán thạch". (Về việc quy ước xây tháp Tôn Đức) khắc ngày tốt tháng 11 năm Giáp Dần niên hiệu Đức Nguyên thứ nhất triều Lê (1674) có đoạn: "Thành đẳng Chính Giác đại đức thiền sư, hóa thân bồ tát, pháp danh Minh Hành, hiệu Tại Tại. Ông vốn họ Hà, phủ Kiến Xương, tỉnh Giang Tây từ nước Đại Minh đến kinh đô Đại Việt vào năm Quý Dậu niên hiệu Đức Long thứ 5 (1633), theo thầy Phổ Giác (tức Chuyết Chuyết - TG.) để hành giáo. Năm Giáp Thân Phúc Thái thứ 2 (1644) thụ y bát, làm việc thiện, giới luật rất nghiêm, đạo cao đức trọng (…) nhà sư trụ thế 64 tuổi, viên tịch ngày 25 tháng 3 năm Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659). Sắc cho đệ tử Tì khâu-ni-Sa-di, Sa-di ưu Bà Cơ, Ưu Bà Di, xây bảo tháp an táng xá lị tháng 11 năm Canh Tý (1660) ở chùa Ninh Phúc để truyền tâm ấn muôn vạn năm".

    Một tư liệu khác là những dòng chữ khắc trực tiếp vào tháp Tôn Đức (nơi yên nghỉ của thiền sư Minh Hành) khắc năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hòa thứ 5 (1684) có đoạn: "Nhị tổ Sắc phong Minh Việt thành Chính Giác đại đức Thiền sư, vốn theo phái Thiền tông, tu chính đạo ở nước Nam". Qua các tư liệu trên, cho chúng ta biết được thiền sư Minh Hành vốn là người Trung Quốc nhưng sang nước ta mới đi tu. Ông sinh năm 1595, mất năm 1659, thọ 64 tuổi. Ông sang Đại Việt từ năm Quý Dậu niên hiệu Đức Long thứ 5 (1633) và theo thầy Phổ Giác (Chuyết Chuyết) khi đó là 38 tuổi. Nhưng phải đến 11 năm sau (năm 1644) khi đã 49 tuổi ông mới chính thức đi tu. Cũng năm này nhà sư Chuyết Chuyết viên tịch và 15 sau đó nhà sư Minh Hành cũng qua đời. Qua đây cho ta hiểu thêm về mối quan hệ giữa ông với nhà sư Chuyết Chuyết và cho ta biết nhà sư Chuyết Chuyết sang Đại Việt vào khoảng những năm đầu thế kỉ XVII (trước năm 1633). Sau khi nhà sư Minh Hành qua đời, chùa Bút Tháp còn có nhiều vị thiền sư khác nối tiếp. Chẳng hạn sau 25 năm sau ngày nhà sư Minh Hành qua đời, vào năm Giáp Tý niên hiệu Chính Hòa thứ 5 (1684) có ghi trên tháp Tôn Đức đệ tứ Tì khâu Sa di hiệu Diệu Tuệ, hiệu Thiện Thiện mua ruộng giao cho xã Nhạn Tháp cày cấy để làm giỗ Minh Hành thiền sư. Đặc biệt là người sống cùng thời với nhà sư Chuyết Chuyết và nhà sư Minh Hành đồng thời cũng là đệ tử trực tiếp của Minh Hành là Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (vợ vua Lê Thần Tông) tu hành tại chùa, có công lớn xây dựng các công trình kiến trúc.

    Viết về bà Trịnh Thị Ngọc Trúc, Đại Việt sử ký toàn thư viết: "Năm Canh Ngọ niên hiệu Đức Long năm thứ 2 (1630) (Minh Sùng Trinh năm thứ 3), mùa hạ tháng 5, vua lấy con gái của Vương là Trịnh Thị Ngọc Trúc lập làm Hoàng hậu. Trước đây, Ngọc Trúc đã lấy bác họ của vua là Cường Quận công Lê Trụ, sinh được 4 con. Khi ấy Lê Trụ bị giam trong ngục, Vương đem Ngọc Trúc gả cho vua, vua lấy vào cung. Triều thần là bọn Nguyễn Thục, Nguyễn Danh Thế nhiều lần dâng sớ can. Vua không nghe và nói rằng: Xong việc thì thôi, lấy gượng vậy. Từ hôm ấy trở đi, trời mưa dầm mấy ngày đêm không ngớt(8).

    Chúng ta biết không nhiều về cuộc đời Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc. Nhưng qua những tấm bia chùa Bút Tháp sẽ cho chúng ta hiểu thêm về bà. Tháp Ni Châu bên phải tháp Tôn Đức sau chùa, nơi yên nghỉ của bà được xây bằng những phiến đá lớn ghép lại trông thật cổ kính trang nghiêm, trên thân tháp còn ghi nhiều chi tiết về bà. Bia khắc tháng 5 năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737) có đoạn:

    "Bà tính khí nhu thuận, ngay thẳng, mắt trong thanh tú, thể chất khác thường. Cha bà dạy cho bà sách nhà Phật, tập học điều chương, kế thuật chưa được mấy năm, sách nhà chùa đã bác đạt, văn chương đẹp đẽ, phong phú, thân tuy là nữ mà tài trí sánh ngang với nam nhi quân tử". Tiếp theo sau đó có đoạn: Bà đến cửa thiền mà xuống tóc, bỏ nơi tráng lệ mà ở nơi nhà tranh, đem tiền tài giúp đỡ nhà sư, ở nơi vắng vẻ, lời nói chân thật, mọi người vui vẻ. Chùa Ninh Phúc một chốn Bồ Đề, dựng tháp đá mà thành Phật đạo, há chẳng phải không hạnh phúc hay sao, há chẳng vui sướng hay sao ?".

    Qua sách Đại Việt sử ký toàn thư và tư liệu ở tháp Ni Châu cho biết bà Trịnh Thị Ngọc Trúc sinh ra trong một gia đình vương giả, thuở nhỏ đã được học sách Phật, bà đã có hai đời chồng, trước lấy Cường Quận công Lê Trụ vào năm Thận Đức thứ nhất (1600)(9) sau lại bị ép gả cho vua Lê Thần Tông vào năm Canh Ngọ Đức Long thứ 2 (1630) và sau đó ít lâu bà bỏ cung cấm vào chùa Bút Tháp được Thiền sư Chính Giác (Minh Hành) truyền cho y bát đạo tràng. Không biết bà cùng người con gái là Lê Thị Ngọc Duyên chính thức vào chùa Bút Tháp tu từ năm nào. Chỉ biết rằng trên bia Phụng lệnh chỉ bà đã cùng con gái là Lê Thị Ngọc Duyên cúng ruộng thế nghiệp ở huyện Yên Mô (Ninh Bình) vào việc trùng tu chùa(10) năm Phúc Thái thứ 4 (1646) ghi "Chính cung Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc cùng Đại nguyên soái thống quốc chính Thái thượng sư phụ Thanh Vương (Trịnh Tùng) lãnh chỉ nguyên phụng binh dân các hạng, xã Nhạn Tháp, huyện Siêu Loại các loại thuế làm ruộng ngụ lộc. Nhưng thấy bản xã có chùa Ninh Phúc là cổ tích danh lam, đang được trùng tu lại, nhân đây cho làm tạo lệ để lo hương hỏa cho bản tự. Con gái Trịnh Thị Ngọc Duyên pháp hiệu Diệu Tuệ có ruộng thế nghiệp ở xứ Nhuệ Cổ Lộng, trang Hưng Hiền, huyện Yên Mô làm ruộng hương hỏa và đắp đê quan lộ". Sau 7 năm tiến hành trùng tu, xây dựng lớn đến năm 1647 được hoàn thành. Bia Ninh Phúc thiền tự tam bảo tế tự điền bi niên đại Đinh Hợi Phúc Thái thứ 5 (1647) viết: "Lê triều Hoàng Thái hậu hoằng thiện đàn việt đạo tràng, mẫu chúa Bà kim cương Trịnh thị, đạo hiệu Pháp Tính, tấm lòng đôn hậu, tốt đạo, từ bi, xây dựng lâu đài, điện miếu từ bi, hiếu thảo, đặt mua ruộng phúc giao cho xã Nhạn Tháp trồng cấy truyền cho con cháu muôn đời hương hỏa tế tự thường niên vào ngày rằm, mồng một mỗi tháng, ngày sinh, giỗ, các nạp đèn hương thờ phụng trời phật, sau là thờ bà Trịnh (Trịnh Thị Ngọc Trúc) ruộng đặt ở thôn Ư Bến, Phúc Lâm, Tứ Kỳ, các xã Nhạn Tháp, Đại Trạch, Á Lữ, Đình Tổ (gồm 54) nơi. Năm 1659 nhà sư Minh Hành viên tịch, đến năm sau (1660) bà Trịnh Thị Ngọc Trúc lại đứng lên xây tháp. Trên tháp còn ghi: "Đệ tử Chính cung Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc đạo hiệu Pháp Tính xây tháp". Tháp đá Tôn Đức của nhà sư Minh Hành do bà Ngọc Trúc xây nhưng đến năm Giáp Tý Chính Hòa thứ 5 (1684) mới khắc chữ Hán chung quanh thân tháp (lúc này bà Ngọc Trúc đã qua đời được ba năm). Trên thân tháp còn viết về công lao của bà và con gái Ngọc Duyên: "Hoàng Thái hậu thực là Bồ tát sống lại. Trưởng Công chúa hiệu Diệu Tuệ được giáo dục trong cung cấm, đức hạnh nổi tiếng ở đời, thuần thục đệ nhất trong cung. Ban đầu Ngọc Duyên chuộng Phật, tuy ở nhà nhưng luôn làm điều nhân, đến tuổi đào yêu (trưởng thành) tâm luôn chuộng điều thiện, thi hành nhân nghĩa, độ chúng sinh năm 26 tuổi, năm 30 tuổi được nhà sư Chính Giác truyền y bát đạo tràng. Ơn trạch của hoàng thái hậu, con gái Diệu Tuệ bèn lấy cái tâm của thánh mẫu ngộ thành đạo của Phật tổ, lấy của cái châu báu tu sửa chùa Ninh Phúc trong ngoài trang nghiêm, bảo tháp làm xong lưu truyền vạn đại".

    Hiện tại chùa Bút Tháp còn có phủ thờ để thờ bà cùng các con gái, con trai, vương tôn trong phủ như Chính cung Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, Trịnh Thị Ngọc Cơ, Quận chúa Lê Thị Duyên, Thái tử Lê Đình Tứ (con bà Ngọc Trúc - con vua Lê Thần Tông). Khác với những pho tượng mang tính chất tượng trưng ước lệ, những pho tượng này đều là tượng bán thân cao khoảng 70cm tương đương với người thực ngoài đời, ngồi xếp bằng tròn, mặc triều phục, tóc dài gọn buông thả ngang lưng, mặc áo dài lộng lẫy, khuôn mặt trang nghiêm, đầy đặn nhưng tươi tắn phúc hậu. Những pho tượng này là hỉnh ảnh cụ thể của những con người thực hết sức sinh động. Qua đây, chúng ta có thể biết được phong cách cũng như trang phục của các bậc vương tôn, quận chúa, hoàng hậu thời Lê - Trịnh thế kỷ XVIII. Những pho tượng này được tạc vào khoảng đầu thế kỷ XVIII. Tạc tượng sau khi bà Trịnh Thị Ngọc Trúc và các con bà mất không lâu, có lẽ khoảng thời gian xây dựng phủ thờ năm 1714. Người đứng ra dựng tượng, xây phủ là các bậc vương tôn trong phủ chúa như Quận công Lê Đĩnh, Chánh đội Lê Trịnh cùng các quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ, Trịnh Thị Ngọc Mai. Bia Khánh lưu bi kí lập năm Giáp Ngọ Vĩnh Thịnh thứ 10 (1724) viết: "Phó Cai đội thị vệ sự thể thái hầu Lê Hội, Phó Cai quản Lại Quận công Lê Đĩnh, Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ, Chánh đội trưởng Đô chỉ huy sứ Ninh Lộc hầu Lê Vịnh, Chánh đội trưởng hiệu điểm Tường Nghĩa hầu Lê Trinh và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Mai... cùng toàn họ hưng công xây dựng điện vũ nguy nga. Nghĩ đến công đức của Hiển tằng tổ Chính cung Hoàng Thái hậu trinh tĩnh u nhàn, tổ cô sắc phong Bồ tát đoan trang diễm lệ thuộc dòng dõi tôn quí. Có lòng từ bi xây dựng chùa Ninh Phúc, xã Nhạn Tháp trở thành một chốn thiền lâm đẹp nhất Kinh Bắc, công lao xây dựng điện vũ nguy nga, tráng lệ. Có công đức như thế sao không hương hỏa thờ cúng cùng Phật được. Bèn xây dựng một nhà thờ riêng liền vào sau nhà thờ Phật".

    Bên trái tháp Tôn Đức là tháp Tâm Hoa cao 3 tầng, dựng năm 1737 về hình thức cũng tương tự như tháp Ni Châu- nơi yên nghỉ của nhà sư pháp hiệu Như Chúc (sinh 1691 mất 1736). Trên thân tháp còn khắc tiểu sử của vị thiền sư này, do sa môn Tính Quảng Thích Điều Điều (soạn): "Nhà sư người Kim Bảng, cha là Nguyễn quý công tự là Lục, mẹ là Đinh thị hiệu Diệu Cung, khi sinh mộng thấy trong rừng trúc mà suất thai. Ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi (1691) cha mất sớm, còn mẹ già tìm đến đất Bắc (Kinh Bắc) nghe chùa Thiên Tâm, Tiêu Sơn có sư trụ trì là lão tăng pháp danh Như Trí rồi cho Như Chúc đến làm đệ tử và nhà sư nhận xuống tóc thụ giới từ đây. Được khoảng 5 năm, nhà sư Như Trí viên tịch. Bà mới đầu trụ trì chùa Chân Khai, Đông Sơn. Đến năm Đinh Mùi lại đến chùa Long Động, núi Yên Tử thuộc tông phái nhà sư Hòa thượng Chính Giác. Nhà sư ứng duyên trụ trì chùa Ninh Phúc (tức Bút Tháp - TG.) được 2,3 năm đến năm Bính Thân thì mất. Giờ Mùi ngày 20 tháng 11 năm Vĩnh Hựu thứ 2 (1736) nhà sư nhập định, hưởng thọ 46 tuổi. Bảy ngày làm hỏa đàn, sau các học trò cho nhập tháp đặt ở bên trái tháp Tôn Đức. Tiếp theo là một bài minh dài 32 câu và danh sách 16 học trò, tháp này do học trò của Thiền sư Như Chúc lập nên. Chữ viết trên tháp khá đẹp, phần cuối viết theo lối thảo phóng khoáng nhuần nhuyễn đạt trình độ nghệ thuật cao. Bài kí trên tháp, cho chúng ta biết Thiền sư Như Chúc từng trụ trì nhiều nơi. Tuy ở chùa Bút Tháp trong một thời gian ngắn nhưng bà có công tu tạo chùa vào những năm đầu thế kỉ XVIII.

    Trong khoảng một thế kỉ (từ nửa đầu thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XVIII), chùa Bút Tháp đã được xây dựng với qui mô bề thế. Đó là sự đóng góp sức người sức của của nhiều thế hệ, của toàn dân trong đó không thể không kể đến công lao của các vị thiền sư như Chuyết Chuyết, Minh Hành, Như Chúc, Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc và nhiều vị vương tôn, quận chúa, quận công trong chính quyền Lê - Trịnh. Sự đóng góp xây dựng của những nhân vật này được ghi lại một cách hệ thống, đầy đủ trên các bi kí và hiện diện bằng những công trình kiến trúc bề thế và qui mô, độc đáo về nghệ thuật.

    3. Một số công trình kiến trúc của chùa Bút Tháp

    Như trên đã đề cập, chùa Bút Tháp không phải là ngôi chùa có lịch sử hình thành sớm lắm. Có lẽ trước thế kỉ XVII, ít người biết đến ngôi chùa này. Phải đến nửa đầu thế kỉ XVII trở đi chùa mới được xây dựng với qui mô bề thế do các vị thiền sư Chuyết Chuyết, Minh Hành (người Trung Quốc) sang trụ trì trùng tu, xây dựng và có sự đóng góp nhiều tiền của những vị hoàng thái hậu, quận chúa, quận công trong phủ chúa đứng ra hưng công. Vậy về kiến trúc nó có đặc điểm gì khác biệt với các ngôi chùa khác khi có sự góp sức của người thiết kế là người ngoại quốc ? Về phần này chúng ta sẽ tiếp tục nghiên cứu sau. Điều dễ nhận ra là ngôi chùa này được xây dựng với nhiều hạng mục công trình, phân làm nhiều phần như: nhà tiền đường, thượng điện, am tích thiện, nhà trung, phủ thờ, hậu đường.

    Tổng thể kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc qua tam quan, gác chuông, giữa 2 dãy hành lang (mỗi dãy dài 26 gian) là 7 tòa nhà nối tiếp nhau tổng chiều dài hơn 100m).

    Nhà tiền đường, thượng điện dựng bằng gỗ lim bề thế, riêng am tích thiện, gác chuông làm theo kiểu chồng diêm 8 mái. Mái chùa được lợp bằng ngói to bản, các góc là những cột đao cao vút chạm khắc, đắp nổi đầu rồng, lá lật. Trong chùa còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như bia đá, lư hương, án thờ và đặc biệt là tượng Phật bà Quan âm nghìn mắt, nghìn tay, cao 3,7m, rộng 2m, dày 1.15m là một kiệt tác nghệ thuật điêu khắc thế kỷ XVII.

    Tiếp theo là nhà thượng điện 5 gian (dài 19m, rộng 10m giống như một bông sen với lan can chạy xung quanh được ghép bằng 26 bức tranh đá, mỗi bức diễn tả những phong cảnh khác nhau như tứ quý, lý ngư hóa long, phượng vũ kỳ lân... gắn kết các bức tranh là cột đá vuông đầu trụ tạo hình búp sen cách điệu.

    Nhà tích thiện nối với nhà thượng điện bằng cầu đá cong dài hơn 4m, rộng gần 2m, gồm 3 nhịp, thành cầu dựng 12 bức tranh đá. Đặc biệt trong nhà tích thiện có tòa Cửu phẩm hình hoa sen 9 tầng, cao 7,76m, rộng 1,90m bằng gỗ, còn gọi là Cối kinh. Xung quanh bài trí 32 bức tranh, tám mặt của tầng dưới chạm nổi các cảnh dân gian, tầng trên mô tả sự tích nhà Phật.

    Chùa Bút Tháp còn có những ngọn tháp được dựng bằng những phiến đá chồng lên nhau, mặc dù không cần chất kết dính nhưng nó đã tồn tại suốt mấy trăm năm nay. Tháp Báo Nghiêm cao 5 tầng xây bằng đá cao 13m, nơi xá lị của vị Hòa thượng trụ trì đầu tiên (dựng năm 1647); tháp Tôn Đức cao 10m, xá lị của Thiền sư Minh Hành (dựng năm 1660), bên phải là tháp Ni Châu, nơi yên nghỉ của bà Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc - vợ vua Lê Thần Tông; bên trái là tháp Tâm Hoa - nơi xá lị của nhà sư Như Chúc (hai tháp này dựng năm 1739 đều bằng đá và khắc chữ trực tiếp lên tháp). Gần 400 năm nay, kể từ khi có sự trụ trì của các thiền sư nổi tiếng như Chuyết Chuyết, Minh Hành và đặc biệt là có lệnh chỉ xây dựng của Chính cung Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc), chùa Bút Tháp đã được xây dựng to đẹp, bề thế. Có thể nói rằng, chỉ trong khoảng gần một thế kỉ (từ nửa đầu thế kỉ XVII đến nửa đầu thế kỉ XVIII) chùa Bút Tháp đã tương đối hoàn thiện như ngày nay với qui mô 120 gian(11). Những thế kỉ sau này chỉ là sửa chữa, tôn tạo thêm mà thôi. Thí dụ bia tháp Tôn Đức còn ghi năm 1739, trụ trì bản tự là Sa môn tự Tính Hài hưng công trang hoàng các tượng, cửu phẩm, đài hoa sen (Cối kinh), hương án và có sự đóng góp của Phương Hoa - con gái Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ, Thái phi Trương Thị Ngọc Chử(12).

    Trải qua thời gian dài, đến đầu thế kỉ XX, những công trình này đã xuống cấp, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu cùng các quan trong tỉnh đứng ra trùng tu. Bia Trùng tu Ninh Phúc tự bi viết: Ninh Thái Tổng đốc Hoàng tướng công chiêu hồi phủ lị, nhân qua ngắm cảnh, nhìn cảnh già lam đổ nát cảm thấy bùi ngùi, cổ tích đổi thay bèn cùng các quan cấp phát tiền công, khuyên các quan viên thập phương, thiện nam tín nữ, bắt đầu làm từ ngày 1 tháng 10 năm Quý Mão (1903) đến ngày 15 tháng 3 năm Giáp Thìn (1904) thì hoàn thành. Bia đề tên 17 vị gồm Tổng đốc, Đốc học, Tri huyện, Tri phủ, Bố chánh của các huyện Từ Sơn, Gia Bình, Quế Dương, Lạng Giang, Gia Lâm, Lương Tài, Văn Giang, Thuận Thành, Tiên Du, Yên Phong, Võ Giàng đóng góp 181 đồng (nguyên). Ngoài ra, khách thập phương cúng tiến hơn 500 (nguyên), tổng cộng là hơn 681 (nguyên). Đây là lần trùng tu qui mô và gần nhất với chúng ta ngày nay
     
  6. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Đền Bà Chúa Kho - Bắc Ninh

    Vùng quê Kinh Bắc cổ kính và văn hiến có không ít những đền thờ thần mẫu, trong đó đền thờ Bà Chúa Kho ở làng Cổ Mễ ven chân núi Kho, nằm bên bờ sông Cầu (thuộc phường Vũ Ninh, TP Bắc Ninh) được coi là một ngôi đền thờ mẫu điển hình trong vùng. Hàng năm, cứ vào dịp đầu và cuối năm, hàng nghìn lượt khách thập phương trong cả nước lại về vãng cảnh, cầu may ở đền Bà Chúa Kho, các hoạt động tín ngưỡng và dịch vụ hành lễ cũng theo đó được mùa làm ăn sôi động.

    Hình ảnh Bà Chúa Kho được truyền tụng trong dân gian với sự ngưỡng mộ tôn thờ của dân vùng Kinh Bắc và khách thập phương cả nước. Tương truyền, bà Chúa Kho là người phụ nữ nhan sắc tuyệt trần, lại khéo tổ chức sản xuất, tích trữ lương thực, trông nom kho tàng quốc gia trong và sau chiến thắng Như Nguyệt (1076), có công chiêu dân dựng lập làng xóm vùng Quả Cảm, Cổ Mễ, Thượng Đồng. Giúp mọi người khai khẩn đất đai nông nghiệp... Sau này bà trở thành một vị hoàng hậu (tương truyền vào thời Lý), giúp nhà vua trong việc kinh bang đất nước, giữ gìn kho lương, bà đã bị giặc giết trong lúc phát lương cứu đỡ dân làng vào ngày 12 tháng giêng năm Đinh Tỵ (1077). Cảm kích đối với tấm lòng bao dung của bà, nhà vua đã có chiếu phong cho bà là Phúc Thần, nhân dân Cổ Mễ nhớ ơn và lập đền thờ ở vị trí kho lương trước kia. Không ai biết tên thật của Bà là gì, chỉ gọi một cách tôn kính là Bà Chúa Kho. Hàng năm nhân dân địa phương tổ chức ngày tưởng nhớ đến bà rất trang nghiêm trọng thể.

    Ngôi đền nhìn về hướng Nam, phía trước là dải đồng trũng, uốn khúc theo triền núi bên dòng sông Cầu, quanh năm nước đầy tạo thành hồ lớn - gọi là hồ Đồng Trầm (hiện đã được quy hoạch xây dựng Khu Du lịch). Đền có kiến trúc của thời Lê, được bố trí theo chiều dọc, chạy từ chân lên sườn núi Kho. Cổng tam quan là công trình mở đầu cho cụm kiến trúc này, các công trình chính của đền bao gồm sân đền, hai dải vũ, toà tiền tế, công đệ nhị và hậu cung, tất cả tạo thành một thể thống nhất, uy nghi. Chị Hồng, quê ở TP Nam Định, người có 7 năm liền đến lễ ở đền Bà Chúa Kho kể: “Mình đi nhiều nơi song thích nhất kiểu kiến trúc ở đây. Mấy năm trước đến đây mình thường bị những người bán lễ, sớ, khấn thuê bám theo, chèo kéo, ép giá nhưng giờ hiện tượng này gần như không còn. Các khu vực bán hàng, dịch vụ hành lễ được quy hoạch rõ ràng, mỗi cửa hàng đều treo bảng giá chi tiết dưới sự giám sát, quản lý chặt chẽ của các cụ trong Ban Quản lý di tích, an ninh trật tự cũng được bảo đảm nên mình thấy rất yên tâm và thoải mái”.

    Đi lễ Bà Chúa Kho đã trở thành thói quen đối với nhiều người, đặc biệt là giới kinh doanh. Cứ vào dịp đầu xuân năm mới hàng ngàn khách thập phương trong cả nước lại đến chiêm bái, thắp hương và dâng phẩm vật kính lễ bà Chúa kho, cầu mong một năm mới an lạc thịnh vượng và hạnh phúc. Ông Nguyễn Văn Quân, Trưởng Ban Quản lý cụm di tích đền Bà Chúa Kho cho biết: “Khách thập phương về ngắm cảnh, hành lễ tại đây năm sau đông hơn năm trước, tập trung nhiều nhất vào 3 tháng lễ hội từ tháng Chạp sang đến Giêng, Hai. Có ngày, lượng khách lên đến hàng nghìn người, chúng tôi phải huy động toàn bộ 500 thành viên trong Ban Quản lý ra để trực và phục vụ. Sau mùa lễ hội, tiền công đức được dùng để trùng tu, mua sắm đồ thờ, dụng cụ ngay năm đó. Trung bình mỗi năm tính cả tiền mặt và hiện vật được nhân dân công đức có giá trị khoảng hơn 1 tỷ đồng…”.

    Có thể nói, hiện tượng tín ngưỡng thờ mẫu ở đền Bà Chúa Kho là nét văn hoá dân gian vừa làm thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng tâm linh vốn có của một bộ phận người dân Việt vừa giúp các hộ dân trong vùng phát triển nghề dịch vụ, tăng thêm thu nhập gia đình. Đồng thời, tạo thêm nguồn kinh phí để trùng tu, tôn tạo các công trình trong cụm di tích ngày càng khang trang, tố hảo. Lại sắp bước vào mùa lễ hội, hy vọng các cơ quan chức năng sớm quan tâm, phối hợp chặt chẽ bảo đảm an ninh trật tự, văn minh quanh khu vực cụm di tích để vượng khí tốt lành của đền Bà Chúa Kho được ban phát đều khắp cho tất cả dân chúng đến vãn cảnh và hành lễ nhằm giữ gìn nét văn hoá lành mạnh trong đời sống tín ngưỡng của nhân dân.
     
  7. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Làng Tranh Đông Hồ hồi sinh

    Dòng tranh dân gian Đông Hồ tưởng chừng như đã bị mai một theo thời gian. Thế nhưng, vài năm gần đây tranh Đông Hồ đã dần lấy lại được danh tiếng một thời của mình.

    Làng tranh Đông Hồ thuộc xã Song Hồ - Thuận Thành – Bắc Ninh, có nguồn gốc làm tranh vào khoảng thời Lý cách đây trên dưới 500 năm.

    Trước cách mạng tháng 8/1945 cứ mỗi khi Tết đến xuân về, tại đình làng Đông Hồ người làm tranh lại tíu tít bảo nhau mang tranh ra bán. Nhưng dần dần do lượng tranh làm ra không tiêu thụ hết nên nhiều người dân đã bỏ nghề vì miếng cơm manh áo. Thế nên, có những lúc người ta tưởng dòng tranh quý của dân tộc này sẽ dần bị mai một theo thời gian.

    Ngày nay, đến làng Đông hồ du khách sẽ không phải "mỏi mắt"tìm kiếm để tham quan hay mua tranh nữa mà ngày từ đầu làng đã có một Trung tâm giao lưu văn hóa tranh dân gian Đông Hồ. Tới đây du khách sẽ được tận mắt chứng kiến các công đoạn làm tranh.

    Theo nghệ nhân làm tranh Nguyễn Đăng Chế, đời thứ 20 của dòng họ Nguyễn Đăng còn bảo tồn được dòng tranh quý này cho biết, ông đã phải tìm tòi và khôi phục dòng tranh dân gian Đông Hồ từ năm 1991 sau một thời gian bị quên lãng.

    “Tại đây trưng bày 180 sản phẩm khác nhau bắt nguồn từ tranh Đông Hồ. Số sản phẩm làm ra hàng năm là cả triệu sản phẩm thu hút hàng nghìn lượng khách du lịch trong và ngòai nước tới tham quan.”
     
  8. mekhanhtroc

    mekhanhtroc & Sóc xấu xí

    Tham gia:
    18/6/2009
    Bài viết:
    18,534
    Đã được thích:
    5,286
    Điểm thành tích:
    3,063
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    hi hi quả này phải dổi tên t op là du lịch Bắc Ninh thôi, ai có nhu cầu đi du lịch, ới nhà Minh Tâm nhá
     
    emxinh_xinh2000 thích bài này.
  9. emxinh_xinh2000

    emxinh_xinh2000 mẹ bé Bo

    Tham gia:
    11/3/2010
    Bài viết:
    3,406
    Đã được thích:
    930
    Điểm thành tích:
    773
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Thanks chị vote cho nhà em, sắp Tết rùi ai có nhu cầu đi lễ hay đi mua sắm Lạng Sơn, Trung Quốc thì alo cho bên em nha. Đảm bảo các bác sẽ hài lòng.!!!!!!!!!!
     
  10. mekhanhtroc

    mekhanhtroc & Sóc xấu xí

    Tham gia:
    18/6/2009
    Bài viết:
    18,534
    Đã được thích:
    5,286
    Điểm thành tích:
    3,063
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    hị hị, hóa ra đây mới là mẹ nó, hôm qua trót phang nhầm
     
  11. emxinh_xinh2000

    emxinh_xinh2000 mẹ bé Bo

    Tham gia:
    11/3/2010
    Bài viết:
    3,406
    Đã được thích:
    930
    Điểm thành tích:
    773
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    vâng, bố nó là dulichminhtam đấy ah. Hiiiiiiiiiiiiiiiiii, nhà mekhanhtroc có gần Lim không? Lúc nào c qua đó thì rẽ vào nhà em chơi nhé! Em mời chị cafe miễn phí, thưởng thức rùi vote cho em nha, cafe nhà em ngon lém!
     
  12. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    HỘI LIM - TIÊN DU - BẮC NINH

    Hội Lim theo lời các cụ cao niên trong làng thì cách đây 300 năm trước đã bắt đầu diễn ra, ban đầu đó là hình thức kết hợp giữa hội chạ của 6 xã thuộc Tổng Nội Duệ (Nội Duệ, Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và giáo phường Tiên Du) và hội chùa Hồng Ân (chùa Lim) vào ngày rằm tháng Tám.

    Hơn 40 năm sau, vào cuối thế kỷ VXIII, Nguyễn Đình Diễn người làng Đình Cả (Nội Duệ) làm Trấn thủ Thanh Hoá, tước hiệu Hiếu Trung Hầu có công đối với quê hương như cung cấp ruộng và cung tiến tiền để sửa chữa đình, chùa, mở mang tập tục và chuyển hội Đình hàng Tổng vào ngày rằm tháng Tám sang ngày rằm tháng Giêng. Kế đó là Bà Mụ Ả, người tu hành và trụ trì tại chùa Hồng Ân (lúc đó chỉ là một Am nhỏ), Bà đã bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Ân dành cho việc xây dựng chùa và vườn chùa và cũng đặt ruộng, đặt tiền cho 6 xã làm hương hoả cho chùa, Bà yêu cầu hàng Tổng cứ 3 năm cho mở hội chùa, hội chạ một lần vào 13 tháng Giêng.

    Ngoài 80 tuổi, Bà Mụ Ả lên giàn tự thiêu về nơi cực lạc, từ đó dân ở sáu xã giữ lệ hương khói thờ bà Mụ Ả, tướng quân Phạm Bân, Hiếu Trung Hầu. Hàng năm vào ngày 13 tháng Giêng dân làng tổ chức Lễ hội tưởng nhớ những người đã có công với cộng đồng dân cư nơi đây.

    Cũng như các lễ hội khác, Hội Lim gồm hai phần : Lễ và Hội. Mở đầu là tục rước Chạ vào ngày 13 tháng Giêng Âm lịch, đây là một đám rước quy mô của sáu làng thuộc Tổng Nội Duệ hợp lại từ các ngả về đình, chùa trên núi Lim. Đám rước được nghi thức hoá, tạo nên vẻ hùng tráng, rực rỡ muôn mầu, đứng xa hàng trăm mét ta đã nghe thấy "trống rong cờ mở" nét mặt rạng rỡ của người người về xem hội. Cả đám rước ánh lên rực rỡ của cờ hoa, của trang phục, các lộng, kiệu sơn son thiếp vàng .v.v. tất cả hợp lại tạo một quang cảnh trọn vẹn về con người, thẩm mỹ, đạo đức, thể hiện việc ứng xử chu đáo với những người có công với cộng đồng dân cư.
    Sau phần rước, tế Chạ trang nghiêm tôn kính, phần hội diễn ra sôi động muôn mầu với âm vang của tiếng nhạc, tiếng trống, tiếng hát, những trò chơi, nghệ thuật dân gian…

    Đến với Hội Lim du khách được chứng kiến và có thể trực tiếp tham gia các trò chơi dân gian phong phú, hấp dẫn như thi chọi gà, đấu vật, dệt vải, đu tiên, đấu cờ người…

    Du khách đến với Hội Lim xem cờ cũng là dịp thưởng thức trí tuệ của người Kinh Bắc và nét đẹp duyên dáng của các thiếu nữ Kinh Bắc khi được chọn đóng quân cờ (32 thanh nữ đẹp nhất làng).

    "Quân cờ là lượt thanh tân
    Bao ngày tập luyện ra quân hội này"

    Chia tay với những ván cờ hấp dẫn, du khách đến với cuộc thi dệt vải, dệt lụa của các làng trong vùng với khung cửi truyền thống, du khách sẽ bị lôi cuốn bởi sự khéo léo mềm mại của các thanh nữ khi đưa thoi, tư thế ngồi dệt đẹp nhất và đặc biệt vừa dệt vừa hát dân ca Quan họ. Sở dĩ có thi dệt vải trong hội Lim bởi vùng Nội Duệ cầu Lim chính là vùng có truyền thống dệt vải lâu đời và hàng năm thi dệt vải trong ngày hội đã trở thành truyền thống.

    Đến với hội Lim, náo nức nhất, hẫp dẫn nhất không thể không nhắc tới sinh hoạt Quan họ trong ngày hội. Quan họ được xem là dân ca đặc sắc nhất không chỉ riêng vùng Quan họ mà phạm vi đã lan toả rộng khắp trong và ngoài nước. Quan họ không chỉ nổi tiếng về lời ca trữ tình nồng nàn, tình yêu lứa đôi, tình yêu cuộc sống của hơn 200 làn điệu khác nhau mà còn đọng lại ở quý khách đó là cách thể hiện, cách chơi thanh lịch, ấm áp tình người Quan họ.

    Nói về Quan họ, Quí khách được thưởng thức một giá trị tổng thể về truyền thống nghệ thuật của một vùng văn hóa từ lời ăn tiếng nói hàng ngày cho đến lối ứng xử trong ngày hội " người quan họ" đều từ tốn, phong nhã. Người Quan họ đều là các "Liền anh, Liền chị" và bao giờ cũng xưng là "Liền em". Dù thân tình mấy lệ chơi Quan họ cũng giữ ở mức tình bạn - ở những người đã có gia đình, giữ cho suốt đời.
    Mỗi làng, mỗi xã chọn cho mình một cách, một lối chơi Quan họ riêng. Vùng Nội Duệ - Cầu Lim là sự kết tinh những đặc sắc của các làn điệu mà các làng khác mang đến dự thi hàng năm, tổng hoà thành đặc trưng riêng của Quan họ. Có lẽ vì thế mà khi nhắc tới Quan họ là nói tới hội Lim. Về với hội Lim du khách thực sự bị cuốn hút và hoà vào giọng hát êm ả, mượt mà đầy chất trữ tình của các liền anh, liền chị Quan họ, các liền anh trong trang phục áo the khăn xếp, ô lục, các liền chị với áo mớ ba mớ bảy, nón thúng quai thao gặp gỡ nhau theo lời hẹn ước hội Xuân năm trước rằng "Đến hẹn lại lên". Quan họ đón tiếp nhau nồng hậu, nói với nhau những lời văn nho nhã, lịch lãm, thiết đãi những món ăn đặc sản vùng quê và hát những làn điệu dân ca Quan họ có trạng thái, cung bậc, tình cảm như thương nhau, yêu quí nhau, lo lắng, nhớ nhung, hẹn ước, nhắn nhủ nhau giữ vẹn lòng thuỷ trung, trân trọng ân nghĩa người với người:

    " Hôm nay sum họp trúc mai
    Tình chung một khắc nghĩa dài trăm năm"

    Chính tấm lòng chân thật, hiếu khách của người Quan họ đã để lại trong lòng du khách nhiều kỷ niệm:

    " Em đi khắp bốn phương trời
    Không đâu lịch sự bằng người ở đây"

    Và dẫu có

    "Tháng ba đi hội Phủ Giầy
    Vui thì vui thật chẳng tầy ở đây"

    Cuộc đối đáp giữa đôi bên Quan họ trong canh hát tưởng như không thể dứt bởi Quan họ dùng dằng chẳng muốn chia ly, canh hát kéo dài thâu đêm suốt sáng. Chia tay với Hội Lim du khách không khổi xốn xang trước tấm lòng của người Quan họ và ghi nhận lời hẹn mời “Đến hẹn lại lên”.

    HỘI LIM THƯỜNG ĐƯỢC MỞ 3 NGÀY: 11 + 12 + 13 THÁNG GIÊNG, CANH HÁT SÔI ĐỘNG NHẤT VÀO ĐÊM 12. Mẹ nào đi hội có gì khó khăn ới tôi 1câu nhé....
     
  13. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    DI TÍCH THÀNH CỔ BẮC NINH

    Trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta, Thành Bắc Ninh từng là một vị trí quân sự đặc biệt quan trọng, nằm trong tuyến phòng thủ phía Bắc, bảo vệ Thủ đô, ngăn chặn các đạo quân xâm lược trước cửa ngõ Kinh thành thăng Long. Đây cũng là một trung tâm chính trị, quân sự, là ly sở của trấn Kinh Bắc của tỉnh Bắc Ninh sau này.

    Theo các nguồn tài liệu cổ, Thành Bắc Ninh trước đóng ở Thị Cầu, được dịch chuyển về vị trí hiện nay vào thời Gia Long (1804). Thành làm kiểu Vô-Băng, chịu ảnh hưởng của một kiến trúc quân sự cổ ở Pháp. Sách Địa chí Hà Bắc dẫn các nguồn tài liệu cổ, miêu tả vị trí, qui mô của thành Bắc Ninh như sau:

    - Thành nằm trên 5 doi đất cao, thuộc làng Thị Trung, xã Yên Xá. Làng này tiếp giáp với Đỗ Xá ở phía Nam, và Lôi đình ở phía Tây Nam, Khúc ở phía Tây Bắc, Y NA ở phía Đông. Xung quanh các núi Tượng ở Quả Cảm, Núi Dinh (ở Đáp Cầu), núi Thiền Sơn, núi Đào, núi Dạm.

    - Thời Gia Long, Thành được đắp bằng đất. Năm 1824 xây bằng đá ong. Năm 1839 xây bằng gạch. Đá ong lấy ở Hiệp Hoà, còn gạch thì nung ở Quả Cảm.

    - Ngoài chân thành là lớp đất rộng khoảng 10mét, rồi đến lớp hào sâu. Ngoài cùng lại có tường đất bao quanh. Diện tích toàn thành là 545.000m2.

    Sách Phong Thổ Hà Bắc đời Lê (Ty Văn hoá Hà Bắc xuất bản), có bài "Knh Bắc phong Thổ ký", do tri phủ Lạng Giang là Nguyến Thăng soạn năm Gia Long thứ 6 (1807), viết về Thành Bắc Ninh một cách sơ lược như sau:

    "Trấn thành mới lập tại các làng Yên Xá (đất ruộng 71 mẫu, 1sào 4thước, 2tấc, 6phân), Lỗi Đình (ruộng 25 mẫu, 4sào, 2 thước, 1tấc), Đỗ Xá (ruộng 37 mẫu, 6 sào, 3 thước, 8 tấc, 6 phân), Khúc Toại (12 mẫu, 6 sào, 4 thước, 2 tấc), thuộc 3 huyện Yên Phong, Tiên Du, Võ Giàng.

    Chu vi 4 mặt trong, ngoài rộng 146 mẫu, 7 sào, 14thước, 2 tấc, 4 phân, (PTHBĐL- Trang 36)

    Thành Bắc Ninh lúc mới làm có 3 cửa: trước, sau và bên phải. Khoảng 9 năm sau mới làm thêm cửa thứ 4 (bên trái).

    Tài liệu "Bắc Ninh tỉnh Dư địa chí" ( Tư liệu Viện Hán Nôm A.590) có đoạn chép về thành Bắc Ninh vào năm Gia Long thứ 14 (tức năm 1815) như sau: " Thành xây năm ất Sửu, chu vi 1 ngàn 77 tầm, 3 thước. Ngoài thành có hào nước vây quanh, có 3 cửa: trước, sau, bên phải, mở ra năm ất Sửu. Cửa thành trên vuông, dưới vuông, hai bên xây tường đất, gạch đá lẫn nhau. Trên xây các toà nhà, đều lợp ngói. Cửa bên trái xây vào khoảng năm Giáp Tuất. Cửa ấy trên vuông, dưới vuông, hai bên vách đứng , và trên mảnh đất ấy xây đài (nhà dài) 3 gian, lợp bằng dạ"

    Tài liệu "Bắc Ninh tỉnh Chí", soạn thảo vào năm Tự Đức thứ 19, do Viễn Đông Bác Cổ chép lại trước cách mạng Tháng Tám- 1945, miêu tả Thành Bắc Ninh vào thời điểm trước khi bị giặc Pháp đánh chiếm như ssau:

    "Bên ngoài tường thành dài 532 trượng, 3 thước, 2 tấc. Tường thành cao 9 thước, trên thành rộng 1 thước, 8 tấc, dưới chân thành rộng 3 thước, hào rộng 9 trượng, sâu 1 trượng. Thành có 4 cửa, mỗi cửa cao 1 trượng, 1 thước, 5 tấc. Trong lòng cao 9 thước, 7 tấc, bề ngang cao 7 thước, 2 tấc. Trên 4 cửa đều có 4 ngôi lầu, cùng với 6 góc đều đặt xưởng pháo. Tổng cộng 54 sở...'

    Về giao thông vào thế kỷ thứ XIX, từ thành cổ Bắc Ninh có 3 con đường lớn:

    - Đường cái quan từ phía Tây Nam tỉnh thành đi qua trạm Bắc Liêm, đến bến đò ái Mộ huyện Gia Lâm, giáp với địa phận Hà Nội, dài 39 dặm, rộng 1 trượng, 2 thước

    - Đường cái quan từ phía Đông bắc tỉnh Thành đi qua 3 trạm Bắc Cầu, Bắc Mỹ, Bắc Lệ, đến xã Hoà Lạc tỉnh Lạng Sơn, dài 104 dặm, rộng 1 trượng, 2 thước.

    - Đường cái quan từ phía Đông Nam tỉnh Thành đi qua Tiên Du, Siêu Loại đến Cầu Lãng, xã Xuân Đào, huyện Lang Tài, giáp với xã Nhật Tảo, tỉnh Hải Dương, dài 33 dặm, rộng 5 thước.

    Nằm trong một địa bàn chiến lược quan trọng, Thành Bắc Ninh vừa trở thành một trung tâm hành chính của một vùng, vừa là một vị trí quân sự kiên cố. Trong các cuộc quyết chiến chiến lược quan trọng của dân tộc ta chống lại các đạo quân xâm lược từ phương Bắc, Thành Bắc Ninh là một vị trí then chốt của tuyến phòng thủ phía Bắc Thủ đô. Năm 1287 quân đội nhà Trần chặn đánh giặc Nguyên ở vùng Thị Cầu," dùng tên thuốc độc bắn, giặc chết và bị thương rất nhiều". Cuối năm 1425, nghĩa quân Lam Sơn bao vây, tiến công bọn giặc Minh, giả phòng Thành Thị Cầu, làm bàn đạp cho cuộc giải phóng Đông Đô. Trong cuộc chiến đấu chống giặc Th a nh xâm lược vào cuối thế kỷ 18, Thành Thị Cầu cũng là một vị trí ngăn chặn bước tiến của địch.

    Giữa thế kỷ thứ 19 phong trào khởi nghĩa nông dân bùng nổ mạnh mẽ ở vùng Kinh Bắc. Nghĩa quân của thủ lĩnh cai vàng và một số thủ lĩnh khác đã nhiều lần vây hãm, tiến công thành Bắc Ninh, nơi đóng doanh sở của chính quyền phong kiến địa phương. Năm 1945, sau khi hất cẳng Pháp, giặc Nhật chiếm đóng Thành Bắc Ninh. Tháng 8 năm 1945 nhân dân Bắc Ninh vùng dậy bao vây giặc Nhật trong thành tiến hành cuộc khởi nghĩa giành chính quyền cách mạnh thắng lợi.

    Từ sau ngày giải phóng thị xã Bắc Ninh đến nay thành cổ Bắc Ninh có sự biến đổi : Dấu vết di tích thành ngày càng bị xuống cấp.

    Việc nghiên cứu tìm hiểu thực trạng di tích thành cổ Bắc Ninh trên cơ sở đó có kế họach tôn tạo, giữ gìn di tích lịch sử quý giá này là một công việc rất cấp thiết.
     
  14. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    LÀNG NGHỀ MỘC CHẠM KHẢM HƯƠNG MẠC - TỪ SƠN - BẮC NINH

    Làng Kim Thiều thuộc xã Hương Mạc, huyện Từ Sơn – một trong những làng có truyền thống về nghề chạm khắc gỗ lâu đời nhất tỉnh Bắc Ninh.
    Theo truyền khẩu của người dân trong làng, ngay từ thời vua Lý Nhân Tông (1072 -1128) đi kinh lý trên địa hạt Lạng Giang (địa danh Thời Lý) để xem xét phòng tuyến Như Nguyệt (trên dòng sông Cầu) chống giặc Tống. Vua nghe tiếng làng Mạc có nghề chạm gỗ bèn kén thợ để chế tác các loại đồ gỗ ngự dụng. Thế rồi nghệ nhân ở làng Mạc nhận mẫu chạm khắc rồi kết hợp với các nhóm thợ khảm trai làng Chuôn (Hà Tây) do ông tổ là Trương Công Thành truyền nghề khảm trai. Nhiều đồ gỗ như tủ, sập, câu đối, ghế...đã khảm trai trước khi tiến cung. Nghề chạm khảm của làng Mạc từ ấy đã được nhân rộng, nhiều người biết đến và được đánh giá cao.

    Nghề truyền thống ở Hương Mạc nhanh chóng nhân rộng sang các làng bên là Làng Thượng, Làng Đông (Phù Khê), Làng Ông (Vân Hà), Làng Đồng Kỵ (Đồng Quang ). Sau này do lợi thế về địa điểm mua bán, người ta đã biết đến làng Đồng Kỵ nhiều hơn với các sản phẩm gỗ mỹ nghệ truyền thống, tuy nhiên những sản phẩm này vẫn còn mang nhiều dấu ấn của quê gỗ Hương Mạc do bàn tay của các nghệ nhân xưa còn truyền lại đến ngày nay
     
  15. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Giếng Ngọc và Ðôi cá chép khoảng 100 năm tuổi

    Ðền Giếng nằm ở đầu làng Viêm Xá, xã Hoà Long (Yên Phong, Bắc Ninh) được xây dựng cùng với đình làng vào năm 1642. Trong khu vực đền có một cái giếng nhỏ, nước trong vắt,chưa bao giờ cạn.



    Ngày trước khi các gia đình chưa có giếng riêng thì nguồn nước sinh hoạt của nhân dân trong làng chủ yếu lấy từ giếng này. Có một điều đặc biệt nữa là ở cái giếng nhỏ cho nước trong và mát này còn có một đôi cá chép đã sống rất lâu.

    Theo các cụ già trong làng kể thì đôi cá chép này đã có ở giếng từ rất lâu. Ngay cả những cụ cao niên nhất trong làng đã 80 tuổi, cũng nhớ rằng hồi nhỏ trong giếng đã có đôi cá chép này rồi. Các cụ cao niên nhất cho biết: Ðôi cá chép này (ảnh, chụp ngày 30.7.2000) đã sống trong giếng ít nhất 100 năm nay. Dân làng gọi là "cá chép thần" (văn bản treo tại đền Giếng cũng ghi những điều này). Ðiều đặc biệt là trải qua nhiều trận lụt, nước ngập đồng, ngập cả giếng, nhưng đôi cá vẫn không đi đâu, chỉ sống trong giếng. Ðến Viêm Xá (tức làng Diềm) - một làng quan họ gốc, du khách không ai muốn bỏ lỡ dịp tới đền Giếng để ngắm nhìn đôi cá chép đặc biệt này
     
  16. dulichminhtam

    dulichminhtam Thành viên mới

    Tham gia:
    27/11/2010
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    16
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương ( Đại Đồng - Thuận Thành - Bắc Ninh)

    Du khách đến với trung tâm Phật giáo chùa Dâu – Bút Tháp chiêm ngưỡng những tác phẩm kiến trúc, điêu khắc độc đáo của những đại cổ tích danh lam nhưng thực sự sẽ là thiếu sót nếu du khách không ghé thăm và thắp nén nhang trầm tưởng nhớ đến Thuỷ tổ Đất Việt – Kinh Dương Vương.

    Truyền tích về vị Thuỷ tổ được ghi và lưu giữ trong thần phả đình làng Á Lữ xã Đại Đồng, huyện Thuận Thành. Tương truyền "Vua Kinh Dương vương tự là Lộc Tục thú Đông Đình quân nữ sinh ra Lạc Long Quân - Tự là Sùng Lãm, ngài thủ Đức Âu Cơ sinh trăm con, sau năm mươi người theo mẹ lên núi, năm mươi ngừơi theo cha xuống biển khai phá, gìn giữ, mở mang bờ cõi, ngài truyền cho con cả nối ngôi – Vua Hùng Vương thứ nhất..."

    Thần phả trùng với những gì viết trong sách Địa chí Hà Bắc và trong Đại Việt Sử ký toàn thư.

    Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương thuộc thôn Á Lữ, được xây dựng từ lâu đời, đến năm Minh Mệnh thứ 21 (1840) được tu bổ và lập bia.

    Tổng diện tích của khu lăng khoảng 42.000m2 bao gồm phần mộ, bệ thờ, bia đá cao 1,05m, rộng 0,45m mang dòng chữ Kinh Dương Vương Lăng khẳng định ngày 16/11 năm Minh Mệnh 21 (1840) Lăng xây cất hoàn chỉnh.

    Đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ có tổng diện tích 2.347m2, đền thờ gồm 3 gian xây cất kiểu chữ công và các di vật có gía trị.
     
  17. mekhanhtroc

    mekhanhtroc & Sóc xấu xí

    Tham gia:
    18/6/2009
    Bài viết:
    18,534
    Đã được thích:
    5,286
    Điểm thành tích:
    3,063
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    chúc cả nhà tuần mới vui vẻ và đầy may mắn
     
  18. me_jun

    me_jun Gái Nội Duệ

    Tham gia:
    17/10/2009
    Bài viết:
    5,462
    Đã được thích:
    739
    Điểm thành tích:
    823
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Em gái các chị về đây, huhuhu em bận quá trời trời luôn, ứ về dc nhà, đã thế lại còn ốm hơn 1 tháng rùi chứ, nhà lại có mấy việc nữa hức hức.
    Nhưng em về zoài kekeke
     
  19. mekhanhtroc

    mekhanhtroc & Sóc xấu xí

    Tham gia:
    18/6/2009
    Bài viết:
    18,534
    Đã được thích:
    5,286
    Điểm thành tích:
    3,063
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    KHiếp lặn mất tích ở đâu thế hả? Lấy chồng chưa? sao im thế?
     
  20. me_jun

    me_jun Gái Nội Duệ

    Tham gia:
    17/10/2009
    Bài viết:
    5,462
    Đã được thích:
    739
    Điểm thành tích:
    823
    Ðề: Tầng 2: Bắc Ninh - Kinh Bắc - Chiếc nôi của người Việt cổ

    Lấy chồng thì phải hô chứ, sao lại im dc chị này hehhehhe
     

Chia sẻ trang này