Tham khảo sách “ The willpower instinct “ của Kelly McGonigal . Khi người nào đó nói rằng, “ tôi không có ý chí”, điều họ ám chỉ ở đây là ,” tôi có vấn đề trong việc nói “không” khi trái tim, dạ dày.. của tôi muốn nói “có”. Ý chí gồm 3 yếu tố sau : (1) Biết nói “không” khi bạn cần phải nói “không”, (2) Biết nói “có” khi bạn cần phải nói “có”, (3) Khả năng ghi nhớ những gì bạn thực sự mong muốn. Tại sao con người có ý chí ? Cách đây 100,000 năm , những trách nhiệm của bạn trong cuộc sống chỉ đơn giản là (1) Tìm thức ăn , (2) duy trì nòi giống và (3) Tránh kẻ thù. Bạn sống trong bộ lạc và phụ thuộc vào mọi người để sinh tồn. Sống trong cộng đồng đòi hỏi sự hợp tác và chia sẻ các nguồn lực - bạn không thể lấy những gì bạn muốn. Ví dụ, nếu bạn ăn trộm thịt của người khác thì bạn sẽ bị khai trừ khỏi nhóm hoặc thậm chí bị giết. Bạn cần những người trong bộ lạc chăm sóc bạn nếu bạn ốm hoặc bị thương , hoặc khi bạn không đi săn bắt, hái lượm được. Như vậy, nhu cầu hòa hợp, hợp tác, duy trì những mối quan hệ đã gây áp lực lên bộ não loài người, buộc họ phát triển những chiến lược tự kiểm soát bản thân- đó là khả năng kiểm soát những thôi thúc của bản thân giúp chúng ta trở thành con người trọn vẹn. Tất cả chúng ta khi sinh ra đều có sức mạnh ý chí, nhưng một số người trong chúng ta sử dụng khả năng này nhiều hơn những người khác. Những người có khả năng kiểm soát tốt sự chú ý, cảm xúc và những hành động của mình thì họ thường có cuộc sống khỏa mạnh và hạnh phúc hơn. Những mối quan hệ của họ thường kéo dài hơn và đem lại nhiều thỏa mãn. Họ kiếm được nhiều tiền và thành công trong sự nghiệp. Họ có khả năng kiểm soát tốt stress, xử lý những xung đột và vượt qua nghịch cảnh. Họ thậm chí sống lâu hơn. Khả năng tự kiểm soát bản thân ( self-control) là 1 dự báo tốt về sự thành công trong học tập hơn cả trí thông minh, nó là yếu tố quyết định của nhà lãnh đạo thành công còn hơn cả uy tín, và sự kiểm soát bản thân quan trọng hơn cả sự thấu cảm trong 1 cuộc hôn nhân hạnh phúc (bí mật để kéo dài cuộc hôn nhân của bạn có lẽ là học cách làm thế nào để giữ mồm giữ miệng ). ** Có 1 cách giúp bạn tăng cường ý chí ngay lập tức : đó là làm chậm hơi thở của bạn xuống còn khoảng 4 đến 6 nhịp thở mỗi phút, tức là khoảng 10 đến 15 giây cho mỗi lần hít-thở. Làm chậm nhịp thở giúp não và cơ thể bạn chuyển từ trạng thái căng thẳng sang trạng thái tự kiểm soát. 5phút vận động ngoài trời có thể giúp bạn giảm stress và cải thiện tâm trạng, nâng cao ý chí. Việc thiếu ngủ cũng ảnh hưởng đến ý chí của bạn. ** Stress là kẻ thù của ý chí. Chúng ta thường tin rằng stress là cách duy nhất làm cho mọi việc hoàn thành, và bạn thường tìm cách gia tăng stress- ví dụ như đợi nước đến chân mới nhảy, hoặc phê bình bản thân vì thiếu khả năng kiểm soát – nhằm thúc đẩy bản thân. Nhưng điều này chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Về lâu dài thì stress sẽ làm cạn kiệt ý chí của bạn. Vì yếu tố sinh học của stress và yếu tố sinh học của ý chí đơn giản là không tương thích với nhau. Khi cơ thể bị stress thì sẽ có phản ứng “ chiến đấu hoặc bỏ chạy” và khi cơ thể chịu sự kiểm soát của ý chí thì nó sẽ có phản ứng “ dừng lại và lên kế hoạch” . Và 2 phản ứng trên hướng năng lượng và sự chú ý của bạn đi theo những cách khác nhau. Stress khuyến khích bạn tập trung vào mục tiêu và kết quả ngắn hạn, ngay lập tức ; còn việc kiểm soát bản thân đòi hỏi bạn lưu giữ về bức tranh tổng thể. Việc bạn học cách quản lý stress là 1 trong những điều quan trọng nhất giúp bạn có thể nâng cao sức mạnh ý chí của mình. Bài tập thực hành : khi bạn lo lắng hoặc làm việc quá sức thì nó ảnh hưởng như thế nào đến những lựa chọn của bạn ? Liệu khi bạn cảm thấy đói bụng , mệt mỏi , đau ốm, buồn, cô đơn, tức giận thì nó có làm cạn kiệt ý chí của bạn không ? ** Cuộc sống hiện đại tràn ngập những cám dỗ ( đòi hỏi bạn sự kiểm soát bản thân ) cũng có thể làm suy giảm ý chí của bạn. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng khả năng kiểm soát bản thân cao nhất vào buổi sáng và tệ dần đi vào cuối ngày. Vào buổi tối, bạn cảm thấy mình kém ý chí thì điều này không nói lên điều gì về đạo đức của bạn – nó chỉ là bản chất tự nhiên của ý chí. Khả năng kiểm soát bản thân là có giới hạn. Khả năng kiểm soát bản thân cũng giống như cơ bắp. Khi bạn sử dụng nhiều thì nó sẽ mệt mỏi. Nếu bạn không để cơ bắp nghỉ ngơi thì bạn sẽ mất hết sức mạnh, cũng giống như vận động viên thúc đẩy cơ thể đến kiệt sức. Bộ não là 1 cơ quan, dù nó không phải là cơ bắp, nhưng bộ não cũng trở nên mệt mỏi khi phải lặp đi lặp lại những hành động tự kiểm soát bản thân. Các nhà thần kinh học đã phát hiện ra rằng mỗi lần bạn sử dụng sức mạnh ý chí thì hệ thống kiểm soát bản thân của bộ não trở nên kém năng động. Điều đáng ngạc nhiên là khi bạn bổ sung một lượng đường vào cơ thể, nó sẽ giúp khôi phục sức mạnh ý chí. Những người tham gia nghiên cứu được cho uống nước chanh có đường đã thể hiện sự nâng cao khả năng kiểm soát bản thân, còn những người uống nước chanh không đường thì khả năng kiểm soát bản thân tệ đi. Lượng đường trong máu giảm sút sẽ dự đoán về khả năng thất bại của người tham gia nghiên cứu khi họ từ bỏ những bài kiểm tra khó, nổi giận với người khác ( theo giáo sư Gailliot, trường đại học Thổ nhĩ Kỳ ). Ông còn phát hiện thấy những người có lượng đường trong máu thấp thường ít quyên tiền cho hội từ thiện hoặc giúp đỡ người lạ. Khi cung cấp thức ăn có đường cho họ thì họ trở nên kiên nhẫn hơn, bớt xung động hơn, bớt ích kỷ hơn. Vì vậy, đường là bạn của chúng ta. Việc ăn 1 cây kẹo hoặc uống soda có thể là 1 hành động tự kiểm soát bản thân ! Tuy nhiên, đường chỉ giúp bạn tăng cường ý chí trong trường hợp khẩn cấp, trong ngắn hạn thôi. Về lâu dài thì việc cung cấp đường cho cơ thể không phải là chiến lược tốt để tăng khả năng kiểm soát bản thân. ** Chúng ta không thể kiểm soát mọi thứ, và cách duy nhất để tăng cường ý chí của chúng ta là kéo dài những giới hạn của mình. Cũng giống như cơ bắp, sức mạnh ý chí của bạn tuân theo quy tắc “ sử dụng hoặc mất đi”. Nếu chúng ta sử dụng ý chí của mình hằng ngày thì nó sẽ càng trở nên mạnh mẽ hơn. ** Phần lớn chúng ta diễn giải về sự kiệt sức như 1 dấu hiệu khách quan rằng chúng ta không thể tiếp tục công việc. Người ta cho rằng chỉ cần 1 tín hiệu cảm xúc nảy sinh từ não cũng có thể thôi thúc chúng ta dừng hành động ; cũng giống như cách thức mà cảm giác lo sợ khiến chúng ta dừng làm những việc nguy hiểm, và cảm giác ghê tởm có thể làm bạn dừng ăn những thức ăn khiến bạn phát ốm. Nhưng đối với những vận động viên thể thao thì tín hiệu mệt mỏi đầu tiên không bao giờ là giới hạn thực sự, và với động cơ đủ mạnh, họ có thể vượt qua sự mệt mỏi ban đầu đó. Một số nhà khoa học tin rằng những giới hạn của ý chí cũng giống như những giới hạn về thể chất của cơ thể - chúng ta thường cảm thấy ý chí của mình bị triệt tiêu trước khi điều đó thực sự xảy ra. Phần nào đó, chúng ta có thể cảm ơn bộ não mình vì nó có nhiệm vụ duy trì năng lượng. Cũng như bộ não yêu cầu các cơ bắp vận động chậm lại khi nó sợ cơ thể sẽ kiệt sức. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng ta cạn kiệt ý chí; chúng ta chỉ cần tập trung động lực để sử dụng nó. Những quan sát khoa học phát hiện thấy khả năng kiểm soát bản thân của bạn bị giới hạn là bởi niềm tin của bạn về ý chí, chứ không phải đó là giới hạn thực sự của ý chí. Và do đó, chúng ta có nhiều sức mạnh ý chí hơn mình nghĩ. Liệu bạn có cảm thấy thực sự kiệt sức ? Lần tới, khi bạn thấy mình “quá mệt mỏi” trong việc kiểm soát bản thân, hãy kiểm tra thử liệu bạn có thể tiến thêm vài bước nữa không (?) ** Thách thức sức mạnh ý chí của mình bằng cách tập kiểm soát những việc nhỏ mà trước đây bạn chưa từng thử. Ví dụ, 1 chương trình rèn luyện ý chí yêu cầu những người tham gia tự đặt ra mục tiêu và thực hiện nó trước 1 thời hạn nhất định. Bạn cũng có thể làm điều này . Khi những người tham gia đặt mục tiêu thực hiện nhiệm vụ trong khoảng 2 tháng, thì dù họ chưa hoàn thành được nhiệm vụ nhưng họ cũng có những tiến bộ, như : họ tập thể dục nhiều hơn, giảm hút thuốc, uống rượu. Như thể là họ đã tăng cường sức mạnh ý chí. Những nghiên cứu khác phát hiện thấy việc bạn cam kết thực hiện những mục tiêu nhỏ, hành động nhất quán – ví dụ như cải thiện tư thế của bản thân, tập siết chặt tay, giảm tiêu thụ đường và chú ý đến việc chi tiêu – có thể làm tăng cường sức mạnh ý chí. Những bài tập tự kiểm soát bản thân nho nhỏ tưởng chừng như vụn vặt , nhưng chúng lại giúp bạn nâng cao ý chí, bao gồm việc tập trung vào công việc, chăm sóc sức khỏe bản thân, kháng cự lại những cám dỗ, và cảm thấy mình có khả năng kiểm soát cảm xúc nhiều hơn . Sau đây là bài tập ý chí : - Tăng cường khả năng nói “không” : cam kết không thực hiện một vài thói quen xấu trước đây, ví dụ : nói tục, ... - Tăng cường khả năng nói “ có” : Cam kết làm một vài việc nào đó mỗi ngày ( không phải những việc mà bạn đã làm ) nhằm tập xây dựng 1 thói quen và không viện lý do. Ví dụ : ngồi thiền 5 phút, hoặc tìm 1 vật gì đó trong nhà bạn cần vứt đi. - Tăng cường khả năng tự kiểm soát bản thân : Hình thành thói quen chú ý đến những điều mà trước đây bạn thường không để ý. Nó có thể là thói quen chi tiêu, bạn ăn loại thức ăn nào, bạn dành bao nhiêu thời gian lên mạng hoặc xem tivi. Khi bạn đang nỗ lực thực hiện 1 thay đổi lớn lao hoặc thay đổi 1 thói quen cũ của mình, hãy tìm những cách thức nho nhỏ giúp luyện tập khả năng tự kiểm soát bản thân, nó sẽ làm ý chí bạn trở nên mạnh mẽ hơn, nhưng cũng không làm bạn bị quá tải. ** Tại sao việc cảm thấy tốt về bản thân lại làm giảm ý chí của bạn ? Những gì khiến chúng ta cảm thấy mình có đạo đức– ngay cả khi chỉ nghĩ về việc làm điều gì đó tốt đẹp – cũng có thể cho phép chúng ta đi theo những thôi thúc, cám dỗ. Trong 1 nghiên cứu, người tham gia được yêu cầu lựa chọn về loại hình tình nguyện mà họ ưa thích : dạy học cho trẻ mồ côi hoặc bảo vệ môi trường. Ngay cả khi họ không đăng ký tham gia loại tình nguyện nào, chỉ việc riêng việc tưởng tượng về lựa chọn tham gia công việc thiện nguyện cũng làm gia tăng ham muốn đi mua 1 cái quần jeans của họ. Nghiên cứu khác phát hiện thấy , khi con người chỉ xem xét về việc quyên tiền cho hội từ thiện – dù họ chưa thực sự đóng góp tiền – đã làm tăng ham muốn đối xử đặc biệt với bản thân. Khi bạn mua socola tặng cho 1 hội từ thiện thì bạn sẽ tự thưởng cho hành động tốt của mình bằng cách ăn nhiều socola hơn. Nếu điều duy nhất giúp thúc đẩy việc tự kiểm soát bản thân là mong muốn trở thành 1 con người đủ tốt, có lẽ bạn sẽ bỏ cuộc chừng nào bạn cảm thấy tốt về bản thân mình. Bạn hãy tự hỏi mình : Liệu bạn có dùng những hành động “tốt” để cho phép mình quyền làm điều gì đó “xấu” ? Trong 1 nghiên cứu, người ta nhắc nhở những người ăn kiêng về những tiến bộ của họ; sau đó đưa cho những người ăn kiêng 1 món quà là 1 quả táo hoặc 1 thanh socola. Và 85% người ăn kiêng ( được chúc mừng về tiến bộ ) lựa chọn thanh socola thay vì quả táo; so với 58% người ăn kiêng không được nhắc về những tiến bộ của họ trong quá trình giảm cân. Như vậy, sự tiến bộ có thể là nguyên nhân gây ra sự xao nhãng mục tiêu mà chúng ta đã nỗ lực, bởi vì nó làm chuyển biến quyền lực cân bằng giữa 2 cái tôi của bạn. ( sức mạnh ý chí bao gồm 2 mục tiêu đối lập. Một phần trong bạn suy nghĩ về những mối quan tâm lâu dài, ví dụ như giảm cân; phần còn lại của bạn lại muốn phần thưởng tức thì ( socola ). Khi bạn có được tiến bộ trong việc thực hiện mục tiêu lâu dài, bộ não của bạn sẽ ngắt quá trình theo đuổi mục tiêu lâu dài và chuyển hướng chú ý sang mục tiêu chưa được thỏa mãn. Các nhà tâm lý gọi đây là “ goal liberation”. Mục tiêu mà bạn phải kìm nén bởi ý chí ( ví dụ : socola ) sẽ trở nên mạnh mẽ hơn , một vài cám dỗ, thôi thúc sẽ trở nên mạnh mẽ hơn . Khi bạn tiến lên được 1 bước , bạn tự cho phép mình lùi lại 2 bước. Một ví dụ khác : Bạn đã từng lên danh sách những việc cần làm trong 1 dự án, và sau đó bạn cảm thấy rất tốt về bản thân khi bạn xem xét về những công việc của dự án đó được làm vào ngày nào đó ? Vì khi bạn lên danh sách công việc cần làm, nó đem lại sự giải tỏa . Chúng ta đã nhầm lẫn giữa việc xác định những gì cần làm với những nỗ lực thực sự hướng đến những mục tiêu của mình. Do đó, việc tập trung vào sự tiến bộ có thể kìm giữ sự thành công của bạn. Ý ở đây không phải nói rằng sự tiến bộ là có vấn đề. Vấn đề của sự tiến bộ là cách thức mà nó làm cho bạn cảm nhận – khi bạn lắng nghe những cảm xúc của mình thay vì bám vào những mục tiêu. Khi bạn nhìn vào sự tiến bộ của mình để viện lý do dừng thực hiện mục tiêu. ** Con người thường có kỳ vọng họ sẽ đưa ra những quyết định khác ở tương lai. Ví dụ : tôi bỏ tập thể dục hôm nay, nhưng tôi chắc chắn sẽ tập vào ngày mai. Những lạc quan về tương lai như vậy đã cho phép chúng ta nuông chiều bản thân ngày hôm nay- đặc biệt khi chúng ta biết mình sẽ có cơ hội để lựa chọn khác đi trong tương lai. Nghiên cứu của trường đại học Yale , đưa cho sinh viên lựa chọn giữa sữa chua không béo và bánh ngọt. Khi sinh viên được cho biết thực đơn này sẽ duy trì vào tuần tiếp theo, thì 83% chọn bánh ngọt . Câu hỏi dành cho bạn : Bạn có thường phát hiện thấy mình “ nuông chiều bản thân ngày hôm nay, thay đổi vào ngày mai “ không ? ** Các nhà tâm lý học đã chứng minh rằng chúng ta thường có dự đoán sai lầm, rằng chúng ta sẽ có nhiều thời gian rảnh trong tương lai hơn là trong hiện tại. Điều đó đã thuyết phục chúng ta rằng chúng ta sẽ có nhiều thời gian và năng lượng để làm điều mà chúng ta không muốn ở tương lai thay vì hiện tại. ** Mức dopamine cao làm tăng ham muốn nhận được phần thưởng tức thời, làm bạn ít quan tâm hơn đến những hậu quả lâu dài. Ví dụ : Tưởng tượng về việc mình trúng số khiến bạn ăn nhiều hơn; Những hình ảnh khiêu dâm khiến đàn ông có những mạo hiểm về tài chính. Khi bạn bị stress, bạn sẽ dùng những chiến lược như : ăn, uống, đi mua sắm, xem tivi, lướt web, chơi game. Vì dopamine hứa rằng bạn sẽ cảm thấy tốt. Nhưng theo khảo sát của APA về stress thì những chiến lược thông thường con người dùng để đối phó stress được đánh giá là kém hiệu quả. Ví dụ, chỉ có 16% số người giải tỏa stress bằng cách ăn uống là cảm thấy nó thực sự giúp được họ. Các nhà thân kinh họ chỉ ra rằng, stress – bao gồm những cảm xúc tiêu cực như giận, buồn, nghi ngờ bản thân, lo lắng – đã chuyển bộ não sang trạng thái tìm kiếm phần thường ( a reward-seeking state ) . Bạn lao vào những hoạt động hoặc những chất kích thích mà bộ não bạn gắn nó với phần thường, và bạn tự thuyết phục mình rằng “phần thưởng” là cách duy nhất giúp bạn cảm thấy tốt hơn. Câu hỏi dành cho bạn : Những cảm xúc tiêu cực ảnh hưởng như thế nào đến ý chí của bạn ? Theo hiệp hội tâm lý học Mỹ, Chiến lược giải tỏa stress hiệu quả nhất là tập thể dục, thể thao, cầu nguyện , đọc sách, nghe nhạc , dành thời gian cho gia đình, bạn bè, đi dạo ngoài trời , tập yoga, thiền , dàh thời gian cho những sở thích mang tính sáng tạo. Những chiến lược giải tỏa stress kém hiệu quả nhất là cờ bạc, đi mua sắm , hút thuốc, uống rượu, ăn uống , chơi game , xem tivi, lướt web nhiều hơn 2 giờ. Bởi vì những hoạt động giải tỏa stress hiệu quả nhất không gây cho bạn sự thích thú giống như những hoạt động, chất kích thích tạo ra dopamine, do đó chúng ta có xu hướng đánh giá thấp về khả năng những hoạt động đó giúp cải thiện tâm trạng chúng ta. Nỗi sợ cái chết ảnh hưởng đến ý chí của bạn như thế nào ? Theo lý thuyết terror-management thì bản chất tự nhiên của con người là sợ hãi khi nghĩ về cái chết của họ. Đó là mối đe dọa mà chúng ta cố tránh nhưng không bao giờ thoát được. Bất cứ khi nào chúng ta được nhắc nhở về tỷ lệ tử vong ( trên tin tức qua báo, đài ), nó kích hoạt phản ứng sợ hãi trong não. Chúng ta không ý thức được về nỗi sợ, nỗi sợ có thể chỉ tạo ra cảm giác không thoải mái . Nỗi sợ tạo nên nhu cầu cấp bách phải làm một cái gì đó để thay đổi cảm giác bất lực của chúng ta. Lý thuyết terror-management có thể dạy cho chúng ta nhiều điều về những thất bại ý chí của mình. Chúng ta không chỉ bấu víu vào Chúa trời khi sợ hãi; nhiều người trong chúng ta còn bám vào thẻ tín dụng, rượu, thuốc lá. Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi con người được nhắc về tỷ lệ tử vong, nó khiến chúng ta nhạy cảm hơn đối với những loại cám dỗ trong cuộc sống, khi chúng ta tìm kiếm hy vọng và sự an toàn ở những thứ hứa sẽ mang lại phẩn thưởng và sự giải tỏa cho chúng ta. Ví dụ, 1 nghiên cứu về hành vi người mua hàng ở cửa hàng tạp hóa phát hiện thấy, khi con người được yêu cầu nghĩ về cái chết của họ, thì họ liệt kê ra nhiều thứ hơn cần phải mua, họ sẵn sàng trả nhiều tiền cho những thức ăn đem lại sự thoải mái, và họ ăn nhiều socola và bánh quy hơn. Nghiên cứu khác thì phát hiện thấy những tin tức về cái chết, số người tử vong làm cho người xem phản ứng tích cực hơn đối với những quảng cáo của sản phẩm hàng hiệu, như xa oto sang trọng và đồng hồ Rolex. Lúc đó chúng ta không nghĩ rằng đồng hồ Rolex sẽ bảo vệ mình khỏi 1 cuộc tấn công tên lửa- mà đó là những hàng hóa xa xỉ đó giúp nâng cao hình ảnh bản thân của chúng ta, làm chúng ta cảm thấy mình quyền lực. Đối với nhiều người thì mua sắm là 1 cách giúp họ cảm thấy lạc quan và có kiểm soát ngay lập tức. Bài tập: Tuần này, bạn hãy chú ý đến những gì có thể kích hoạt nỗi sợ của bạn. Những tin tức bạn nghe hoặc xem trên báo, đài ? Những tên sát nhân ? Những tòa nhà bị cháy nổ , những vụ cháy xe ...? Thỉnh thoảng, những nỗi sợ đó khiến chúng ta trì hoãn, bám víu vào những gì mang lại sự thoải mái. Hãy thử cắt giảm việc tiêu thụ những thông tin kiểu như vậy trên báo đài ; nó sẽ giúp tăng cường ý chí bạn. ** Chú ý đến cách bạn xử lý với những thất bại ý chí của mình. Liệu bạn có phê phán bản thân và nói rằng mình sẽ không bao giờ thay đổi , rằng bạn là người lười biếng, bất tài, tham lam, ngu ngốc ? Bạn có cảm thấy tuyệt vọng, xấu hổ, tội lỗi hoặc cảm thấy quá tải ? Liệu bạn có sử dụng những thất bại của mình như cái cớ để tiếp tục những hành vi nuông chiều bản thân ?
Trải nghiệm thưởng thức. Tham khảo : sách “Flow - The Psychology of Optimal Experience” của tác giả Mihaly Csikszentmihalyi. http://www.mediafire.com/?897e91vs5652jin Sự khác nhau giữa sự vui vẻ ( pleasure ) và sự thưởng thức ( enjoyment ): Khi xem xét về những trải nghiệm làm cuộc sống bạn tốt hơn, điều đầu tiên phần lớn mọi người nghĩ đến là : hạnh phúc bao gồm những trải nghiệm vui vẻ : thức ăn ngon, tình dục tuyệt, tất cả những sự tiện nghi, thoải mái mà tiền bạc có thể mua. Sự vui vẻ là một cảm giác hài lòng khi những kỳ vọng được tạo ra bởi phần sinh học hoặc bởi những điều kiện xã hội được đáp ứng. Mùi vị thức ăn chúng ta ăn khi đói đem lại sự vui vẻ bởi vì thức ăn làm giảm sự mất cân bằng sinh lý trong cơ thể bạn. Một buổi chiều nghỉ ngơi, thụ động hấp thụ thông tin từ báo, đài cùng với rượu là 1 sự thư giãn vui vẻ. Sự vui vẻ là 1 thành phần quan trọng của chất lượng cuộc sống, nhưng tự thân sự vui vẻ không mang lại hạnh phúc. Ngủ, nghỉ ngơi, thức ăn và tình dục đem lại sự phục hồi sức mạnh cho cơ thể nhưng chúng không tạo ra sự phát triển tâm lý. Chúng không bổ sung tính chất phức tạp ( complexity ) cho bạn. Khi con người suy ngẫm về những gì làm cho cuộc sống của họ là 1 phần thưởng, họ có xu hướng tiến xa hơn những ký ức vui vẻ và bắt đầu nhớ đến những sự kiện khác, những trải nghiệm khác, được gọi là sự thưởng thức. Sự thưởng thức xuất hiện khi 1 người không chỉ đạt được 1 số kỳ vọng hoặc thỏa mãn 1 nhu cầu, 1 khao khát mà người ấy dự định, anh ấy còn đạt được những điều bất ngờ mà mình chưa từng tưởng tượng trước đó. Đó là 1 cảm giác của sự mới lạ, của sự hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ như chơi tennis nhằm mở rộng khả năng của bản thân là 1 sự thưởng thức; đọc 1 cuốn sách có những điều mới lạ, 1 buổi nói chuyện khiến chúng ta thổ lộ những ý tưởng mà chúng ta không biết mình có những ý tưởng đó là 1 sự thưởng thức. Khi mới bắt đầu thực hiện những hoạt động trên, chúng có thể không mang lại sự vui vẻ, nhưng sau này khi chúng ta ngẫm lại thì thấy “ chúng thực sự rât vui” và chúng ta ao ước những trải nghiệm đó xuất hiện lại 1 lần nữa. Những trải nghiệm mang đến sự vui vẻ cũng có thể mang lại sự thưởng thức, nhưng 2 cảm giác đó là khác nhau. Ví dụ, mọi người đều nhận được sự vui vẻ khi ăn uosng. Nhưng để thường thức món ăn thì khó hơn. Chúng ta có thể trải nghiệm sự vui vẻ mà không phải đầu từ năng lượng tinh thần cuả mình; trong khi đó sự thưởng thức chỉ xuất hiện khi bạn đầu tư sự chú ý của mình. Một người vẫn có thể cảm thấy vui vẻ mà không cần nỗ lực, gắng sức nếu như phần não của anh ấy được kích thích đúng chỗ hoặc sự vui vẻ của anh ta là kết quả của sự kích thích hóa học của thuốc/chất gây nghiện. Nhưng bạn không thể thưởng thức 1 trận tennis, 1 quyển sách hoặc 1 buổi nói chuyện nếu bạn không tập trung chú ý hoàn toàn vào hoạt động đó. Vì lý do này mà sự vui vẻ sẽ tiêu tan dần, và bản thân bạn không có sự phát triển sau khi trải nghiệm những kinh nghiệm vui vẻ. Sự phức tạp đòi hỏi bạn đầu tư năng lượng tinh thần vào những mục tiêu mới lạ, mang tính thách thức. Nếu không có sự thưởng thức, bạn vẫn có thể chịu đựng được cuộc sống của mình. Nhưng cuộc sống đó có thể là bấp bênh, phụ thuộc vào may mắn và sự hợp tác với yếu tố môi trường bên ngoài. Nếu bạn muốn có sự kiểm soát đối với chất lượng đời sống của mình, bạn cần học cách tạo dựng sự thưởng thức trong những gì xảy ra từ ngày này sang ngày khác. Những yếu tố của sự thưởng thức Những nghiên cứu đã chỉ ra, trải nghiệm thưởng thức bao gồm 8 yếu tố chính. 1. Một hoạt động mang tính thách thức yêu cầu về những kỹ năng . Những hoạt động đòi hỏi sự đầu tư năng lượng tinh thần và do đó bạn không thể làm nó nếu không có những kỹ năng phù hợp. Đối với những người không có kỹ năng phù hợp thì hoạt động đó đối với họ không còn mang tính thách thức, nó chỉ đơn giản là vô nghĩa. Một cách đơn giản để tìm thấy sự thách thức đó là dấn thân vào 1 tình huống mang tính cạnh tranh. Và do đó bạn phải đối mặt với những yêu cầu mang tính thách thức và sử dụng những kỹ năng ở cấp độ cao hơn. Trong mọi hoạt động, những người tham gia trong cuộc nghiên cứu của chúng tôi nói rằng, sự thưởng thức chỉ đến khi họ nhìn nhận những cơ hội, những thách thức của hoạt động ngang bằng với năng lực của họ. Ví dụ, khi chơi tennis, nó sẽ không còn là sự thưởng thức khi 2 đối thủ không ngang tài. Người có kỹ năng kém hơn sẽ cảm thấy lo sợ, và người có kỹ năng tốt hơn sẽ cảm thấy nhàm chán. Điều này cũng đúng đối với những hoạt động khác : 1 bản nhạc quá đơn giản trong tương quan với kỹ năng nghe nhạc của người nghe sẽ khiến họ cảm thấy nhàm chán, trong khi đó bản nhạc quá phức tạp sẽ gây ra sự thất vọng. Sự thưởng thức chỉ xuất hiện tại ranh giới giữa sự nhàm chán và sự lo sợ, khi những thách thức cân bằng với khả năng hành động của con người. 2. Sự hợp nhất của hành động và nhận thức Khi tất cả những kỹ năng có liên quan của 1 người được sự dụng để đương đầu với những thách thức của 1 tình huống, thì sự chú ý của người đó hoàn toàn bị hấp thụ bởi hoạt động đó. Con người trở nên chìm đắm trong những gì họ đang làm và hoạt động đó trở nên tự nhiên, gần như mang tính tự động; và họ dừng việc nhận thức về bản thân mình như 1 thứ tách rời khỏi hoạt động mà họ đang tiến hành. 1 vũ công miêu tả về những cảm xúc của cô khi buổi biểu diễn diễn ra tốt đẹp:” Bạn hoàn toàn tập trung. Tâm trí bạn không đi lang thang, bạn không suy nghĩ về những điều khác; bạn hoàn toàn chìm đắm vào những gì mình đang làm... Năng lượng của bạn trôi chảy nhẹ nhàng. Bạn cảm thấy thư giãn, thoải mái và tràn đầy năng lượng.” Mặc dù sự trải nghiệm thưởng thức xuất hiện có vẻ như không cần sự nỗ lực, nhưng nó còn nhiều hơn thế. Nó thường đòi hỏi sự gắng sức của thể chất hoặc tính kỷ luật cao của hoạt động tinh thần. Nó không thể xuất hiện nếu không có sự áp dụng kỹ năng thực hiện. 3. Những mục tiêu và thông tin phản hồi rõ ràng. Ví dụ, người chơi tennis luôn luôn biết được cô ấy phải làm gì : trả bóng về phía đối thủ. Và mỗi lần cô ấy đánh bóng, cô ấy sẽ biết liệu mình đã làm tốt hay không. Nếu bạn chọn lựa 1 mục tiêu tầm thường, không quan trọng thì đạt được thành công trong mục tiêu ấy không đem lại cho bạn sự thưởng thức. Nếu như tôi đặt mục tiêu của tôi là vẫn tồn tại trong khi ngồi trên ghế sofa, tôi cũng có thể biết được mình đạt được mục tiêu đó, cũng giống như người leo núi. Nhưng sự nhận biết này không mang lại cho tôi hạnh phúc so với người leo núi. Tuy nhiên, có những mục tiêu của 1 hoạt động không phải luôn luôn rõ ràng như của người chơi tennis, và thông tin phản hồi thì thường mơ hồ hơn là đơn giản kiểu như “tôi không bị té ngã” của người leo núi. Đó là trường hợp của những hoạt động nghệ thuật. Làm thế nào nhà soạn nhạc biết được mình làm đúng hay sai ? Và họa sỹ vẽ 1 bức tranh. Trong những hoạt động mang tính sáng tạo, khi mà mục tiêu không rõ ràng, 1 người buộc phải phát triển cảm nhận cá nhân mạnh mẽ về những gì cô ấy dự định làm. Người họa sỹ có thể không có hình ảnh tưởng tượng về bức tranh sau khi hoàn thành trông như thế nào, nhưng khi bức tranh có sự tiến triển đến 1 mức nào đó thì cô ấy nên biết liệu đây có phải là những gì cô ấy mong muốn. 4. Tập trung chú ý vào nhiệm vụ. Khi thưởng thức 1 hoạt động nào đó, bạn có khả năng quên đi tất cả những khía cạnh không thoải mái của cuộc sống. Vì những hoạt động mang tính thưởng thức yêu cầu 1 sự tập trung hoàn toàn vào nhiệm vụ - do đó nó không có chỗ cho những thông tin không liên quan trong tâm trí của bạn. Trong cuộc sống bình thường hằng ngàu, chúng ta là con mồi của những suy nghĩ và những lo lắng không mong muốn luôn tìm cách xâm nhập vào ý thức của ta. Bởi vì phần lớn những công việc và cuộc sống ở nhà nhìn chúng , thiếu vắng những yêu cầu có tính áp lực của những kinh nghiệm thưởng thức , và sự tập trung của bạn hiếm khi mạnh mẽ khiến những lo sợ của bạn tự động bị loại bỏ. Đây là 1 lý do tại sao những hoạt động mang tính thưởng thức ( flow) đã cải thiện chất lượng kinh nghiệm sống của bạn : vì chúng có yêu cầu rõ ràng và loại trừ những sự can thiệp của các thông tin không liên quan trong ý thức. 5. Nghịch lý của sự kiểm soát Những trải nghiệm mang tính thưởng thức thường bao gồm cảm giác của sự kiểm soát. Điều mà con người thưởng thức không chỉ là cảm giác đang kiểm soát mà còn là cảm giác thực tập việc kiểm soát trong những tình huống khó khăn. 6. Đánh mất sự tự ý thức về bản thân. Khi bạn hoàn toàn bị độc chiếm bởi 1 hoạt động nào đó thì bạn không còn đủ sự chú ý để xem xét về quá khứ hoặc tương lai, hặc một vài kích thích tạm thời không liên quan đến hoạt động. Và 1 điều biến mất khỏi ý thức của chúng ta ,xứng đáng được đề cập đến, bởi vì trong cuộc sống thường nhật chúng ta đã dành quá nhiều thời gian suy nghĩ về nó : đó là cái tôi của chúng ta. Sự đánh mất cảm giác về 1 cái tôi tách biệt với thế giới xung quanh thỉnh thoảng đi cùng với 1 cảm giác hợp nhất với môi trường xung quanh. Việc ám ảnh với cái tôi của chính mình đã tiêu tốn năng lượng tinh thần của bạn bởi vì trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thưởng cảm thấy bị đe dọa. Bất cứ khi nào chúng ta bị đe dọa, chúng ta cần phải mang hình ảnh mà chúng ta có về bản thân mình quay về với ý thức, do đó chúng ta có thể phát hiện liệu sự đe dọa đó có thực không, và làm thế nào để ứng phó. Ví dụ, nếu tôi đang đi bộ trên đường , tôi để ý thấy một vài người quay lại và nhin tôi , nhe răng cười , điều tự nhiên tôi làm là ngay lập tức bắt đầu lo lắng :” Có điều gì đó không ổn ? Trông tôi buồn cười lắm sao ? Có phải là do cách đi của tôi hay mặt tôi có vết bẩn?”. Chúng ta thường tự nhắc nhở mình hàng trăm lần mỗi ngày về những tổn thương của bản thân. Nhưng trong những hoạt động mang tính thưởng thức thì không có chỗ cho sự giám sát bản thân. Bởi vì hoạt động đó có những mục tiêu rõ ràng, những quy tắc ổn định và những thách thức phù hợp với những kỹ năng của bạn, và do đó ít có cơ hội cho cái tôi của bạn cảm thấy bị đe dọa. Sự vắng bóng cái tôi khỏi ý thức không hàm ý rằng con người trong 1 hoạt động mang tính thưởng thức từ bỏ việc kiểm soát năng lượng tinh thần của anh ấy, hoặc cô ấy không ý thức về điều gì đang xảy ra trong cơ thể hoặc tâm trí mình. Sự thực là những trải nghiệm thưởng thức bao gồm 1 vai trò chủ động của cái tôi. 1 vận động viên điền kinh luôn luôn ý thức về mọi cơ bắp và nhịp thở trong cơ thể mình, cũng như sự thể hiện của những đối thủ của anh ta trong cuộc chạy đua. Do đó sự đánh mất ý thức về cái tôi không bao gồm sự đánh mất bản thân và chắc chắn không phải là sự đánh mất ý thức. Khi có thể quên đi tạm thời rằng mình là ai dường như có vẻ rất thú vị. Khi bạn không bị ám ảnh với cái tôi của mình, bạn thực sự có 1 cơ hội để mở rộng khái niệm bản thân mình là ai. 7. Sự chuyển đổi của thời gian. Khi trải nghiệm sự thưởng thức, thời gian dường như không còn trôi đi theo cách thông thường của nó. Phần lớn mọi người nói rằng thời gian dường như trôi nhanh hơn. 8. The autotelic experience Tự thân hoạt động mang tính thưởng thức là 1 phần thưởng mang tính nội tại. Bạn thực hiện hoạt động đó không phải với kỳ vọng rằng sẽ có được một vài lợi lạc trong tương lai, đơn giản chỉ vì thực hiện hoạt động đó tự thân nó đã là phần thưởng. Ví dụ, việc dạy dỗ trẻ em nhằm biến chúng thành những công dân tốt thì không phải là hoạt động mang tính autotelic ( tự thân hoạt động là 1 phần thưởng), trong khi đó việc dạy trẻ vì bạn thích tương tác với chúng là 1 trải nghiệm autotelic Phần lớn những việc chúng ta làm không hoàn toàn mang tính autotelic hoặc exotelic ( thực hiện hoạt động đó vì những lý do bên ngoài ) mà là sự kết hợp của cả 2 yếu tố trên. Những trải nghiệm autotelic rất khác so với những cảm giác mà chúng ta có trong cuộc sống. Phần lớn những gì chúng ta làm thông thường không có giá trị tự thân, và chúng ta làm nó chỉ vì chúng ta buộc phải làm hoặc chúng ta kỳ vọng lợi ích ở tương lai. Nhiều người cảm thấy thời gian họ dành cho công việc là lãng phí – họ xa lạ với chúng và năng lượng tinh thần đầu tư cho công việc không tăng cường sức mạnh cho bản thân. Một số ít người khác thì thời gian rảnh rỗi của họ cũng là lãng phí. Thời gian rỗi của họ nhìn chung gồm những việc thụ động tiếp thu thông tin ( từ báo đài ) mà không sử dụng bất cứ kỹ năng hoặc khám phá những cơ hội mới để hành động. Và kết quả là cuộc sống trôi đi trong buồn chán và lo sợ khi con người có rất ít sự kiểm soát. Trải nghiệm autotelic ( hoặc trải nghiệm thưởng thức ) nâng cuộc sống của bạn lên 1 mức độ khác. Việc xa lạ với công việc bị thay thể bởi sự đắm chìm vào nó, sự thưởng thức thay thế cho sự nhàm chán, sự tuyệt vọng chuyển thành cảm giác kiểm soát, và năng lượng tinh thần giúp củng cố cảm nhận bản thân. Nhưng bạn cũng cần phải nhận thức về nguy cơ của việc nghiện sức mạnh của trải nghiệm thưởng thức . Chúng ta nên nhận thức rằng không điều gì trong thế giới này là hoàn toàn tích cực; sức mạnh / quyền lực có thể bị lạm dụng.Tình yêu có thể dẫn đến sự tàn ác, khoa học có thể tạo ra sự hủy diệt, kỹ thuật công nghệ không được kiểm tra sẽ tạo ra sự ô nhiễm môi trường. Những trải nghiệm thưởng thức là 1 dạng của năng lượng và năng lượng có thể được dùng để giúp đỡ hoặc hủy diệt. Trải nghiệm thưởng thức, cũng giống như mọi thứ khác, nó không “ tốt đẹp” hoàn toàn.Nó chỉ tốt khi giúp cuộc sống bạn phong phú hơn, ý nghĩa hơn, làm tăng tính phức tạp của con người. Nghịch lý của công việc. Trong 1 nghiên cứu chúng tôi sử dụng phương pháp Experience Sampling : Liệu con người tiết lộ họ có nhiều trải nghiệm thưởng thức khi làm việc hay khi rảnh rỗi ? Hơn 4800 lời phản hồi được thu thập , 33% của những phản hồi nói rằng họ đang có “ trải nghiệm thưởng thức”. Như kỳ vọng, con người càng dành nhiều thời gian cho những hoạt động mang tính thưởng thức trong 1 tuần thì chất lượng kinh nghiệm sống của họ càng tốt. Họ cảm thấy “mạnh mẽ”, “có hiệu lực”, “sáng tạo”,”tập trung”, “ có động lực”. Khoảng một nửa thời gian khi con người làm việc, họ cảm thấy họ đang đương đầu với những thử thách trên mức trung bình và sử dụng những kỹ năng trên mức trung bình. Ngược lại, khi họ tham gia vào những hoạt động lúc nhàn rỗi như đọc sách báo, xem tivi, đi ăn tiệm thì chỉ 18% những phản hồi nói rằng họ đang có “trải nghiệm thưởng thức”. Những phản hồi của họ được xếp vào loại “thờ ơ”, đặc tính bởi mức độ thứ thách và những kỹ năng dưới trung bình . Khi con người làm việc thì chỉ có 16% phản hồi nói là họ ở tình trạng “thờ ơ” , còn khi rảnh rỗi thì có đến 52% “thờ ơ”. Như vậy, nghịch lý ở đây là : Trong công việc, con người cảm thấy họ có kỹ năng và thử thách và do đó cảm thấy hạnh phúc hơn, mạnh mẽ, sáng tạo và thỏa mãn hơn. Còn khi rảnh rỗi nhìn chung con người cảm thấy không có nhiều việc để làm và những kỹ năng của họ không được sử dụng và do đó họ có xu hướng cảm thấy buồn chán, yếu kém, ngu si , không thỏa mãn . Tuy nhiên, họ vẫn thích làm việc ít đi và có nhiều thời gian nhàn rỗi hơn. Dù trải nghiệm thưởng thức khi làm việc là thú vị nhưng con người không thể chịu đựng mức độ thử thách cao suốt ngày. Họ cần được nghỉ ngơi, phục hồi, nằm ườn xem tivi trong vài giờ mỗi ngày ngay cả khi họ không thích thú với việc đó. Sự lãng phí thời gian nhàn rỗi. Mặc dù con người mong muốn rời công sở và về nhà tận hưởng thời gian nhàn rỗi, nhưng thường thì họ không biết phải làm gì ở nhà. Trở trêu là, con người dễ dàng cảm thấy vui thích trong công việc hơn là khi rảnh rỗi, bởi vì giống như trải nghiệm thưởng thức, công việc tạo ra những mục tiêu, quy tắc, những phản hồi và những thách thức, khuyến khích con người chìm đắm vào công việc, tập trung và đánh mất ý thức về bản thân trong công việc. Còn thời gian nhàn rỗi thì ngược lại, nó không có tính cấu trúc, nó đòi hỏi nhiều nỗ lực để tạo nên những gì mà bạn có thể thưởng thức. Con người bỏ lỡ cơ hội thưởng thức thời gian nhàn rỗi nhiều hơn so với khi họ làm việc. Năng lượng của họ thay vì được sử dụng để tập trung vào những mục tiêu phức tạp, đem lại sự phát triển thì lại bị phung phí trong những hình thức giải trí thụ động.Chúng làm tê liệt trí óc. Chúng hấp thụ năng lượng tinh thần của bạn mà không đem lại sức mạnh cho bạn. Chúng khiến bạn kiệt sức hơn, chán nản hơn trước.
10 nguyên tắc để thay đổi bản thân ( Stan Goldberg, Ph.D) Nhiều người tring chúng ta muốn thay đổi nhưng đơn giản là không biết phải làm như thế nào. Sau 25 năm nghiên cứu về vấn đề cách thức con người tiến hành thay đổi, tiến sỹ Goldberg đã khám phá ra 10 nguyên tắc chính để thay đổi bản thân. Ông đưa ra 10 nguyên tắc này kèm theo 1 ví dụ về 1 người đàn ông muốn thay đổi thói quen của bản thân là đi làm đúng giờ hơn. Sau đây là 10 nguyên tắc để thay đổi. 1.Mọi hành vi của con người đều rất phức tạp ( All behaviors are complex) Nhà tâm lý học nổi tiếng, tiến sỹ James O. Prochaska, chuyên gia về lĩnh vực lập kế hoạch thay đổi bản thân, đã phát hiện rằng sự thay đổi phải diễn ra theo các giai đoạn ( change occurs in stages ). Để tăng khả năng thành công, ta cần phải chia nhỏ 1 hành động thành nhiều bước và học cách thực hiện mỗi bước nhỏ đó thành công ( divide a behavior into parts and learn each part successively ). Chiến lược 1: Chia nhỏ hành động Gần như tất cả các hành động đều có thể được chia nhỏ. Ví dụ : Anh ấy muốn đi làm đúng giờ, anh ấy viết ra giấy như sau : thức dậy, đi tắm, thay quần áo,chuẩn bị bữa sáng, ăn sáng, lái xe, đỗ xe, mua cafe – tất cả những hành động đó đều xảy ra trước 9h sáng. 2.Sự thay đổi đem đến nỗi sợ hãi. Chúng ta kháng cự sự thay đổi. Nỗi sợ về những điều mình chưa biết sẽ khiến chúng ta bám chặt vào thói quen hiện tại của bản thân- bất kể thói quen đó ảnh hưởng xấu đến cuộc sống của chúng ta. Chiến lược 2: Đánh giá hậu quả So sánh tất cả những hậu quả mà thói quen hiện tại của bạn gây ra và những hậu quả tốt khi bạn thực hiện những hành vi thay đổi. Nếu những hành vi mới đem lại kết quả tích cực hơn thì những nỗi sợ bạn đầu của bạn sẽ dần mất đi. Ví dụ : Nếu anh ấy không đi làm đúng giờ, điều xảy ra tiếp theo là anh ấy sẽ bị cho thôi việc. Như vậy, việc thay đổi hành vi sẽ đem lại lợi ích lớn hơn so với việc không thay đổi. Chiến lược 3: Mục tiêu thực tế Những mục tiêu không thực tế sẽ làm tăng thêm sự sợ hãi. Sự sợ hãi của bạn sẽ làm tăng khả năng thất bại. 3.Sự thay đổi phải mang tính tích cực Những nghiên cứu của B.F. Skinner chỉ ra, những củng cố hành vi ( không bằng trừng phạt ) thì cần thiết cho sự thay đổi lâu dài. Những củng cố hành vi có thể là nội tại hoặc ngoại giới. Theo giáo sư tâm lý Carol Sansone thuộc trường đại học Utah, 1 kiểu củng cố là điều bắt buộc cho sự thay đổi bản thân, 2 kiểu củng cố thì sẽ tốt hơn để thay đổi 1 hành vi, và 3 kiểu củng cố là tốt nhất để thay đổi hành vi. Chiến lược 4: Tự thưởng cho bản thân Chiến lược 5: Tận hưởng thành quả của sự thay đổi. Ví dụ : bạn ghét dọn bếp, nhưng bạn vẫn dọn dẹp vì bạn thích nhìn 1 căn bếp sạch sẽ. 4.Giữ nguyên ở hiện tại thì dễ dàng hơn là thay đổi ( Being is easier than becoming ) Ví dụ : trong 1 lớp học karate có 20 sinh viên, thầy giáo hô to “ Không khổ luyện thì không thành công “ ( No pain no gain ). Sau 4 tuần, chỉ còn đúng 3 sinh viên theo học. Những thay đổi làm bạn không thoải mái sẽ trở thành cực hình và chúng ta sẽ không tiếp tục thực hiện những hành động mà nó đem lại nhiều đau đớn hơn là phần thưởng nhận được. Chiến lược 6: Tiến hành những bước nhỏ ( take baby steps ) Trong 1 cuộc nghiên cứu ở trường đại học bang San Francisco, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng những người tham gia sẽ thành công hơn khi mục tiêu của họ tiến bộ 1 cách từ từ. Hãy viết ra hành vi mà bạn muốn thay đổi. Sau đó viết ra mục tiêu của bạn ở bên phải. Để ra 4 dòng ở giữa 2 mục tiêu và viết những bước nhỏ bạn cần làm để tiến gần hơn đến mục tiêu. Ví dụ : Trong tuần đầu tiên, anh ấy đi làm trước 9h20 phút sáng, những tuần kế tiếp anh ấy đi sớm hơn được 5 phút cho đến khi anh ấy đạt được mục tiêu đi làm trước 9h sáng. Chiến lược 7: Đơn giản hóa quá trình Những phương pháp để thay đổi không cần phải phức tạp. Ví dụ : thay vì xếp hàng mua cafe Starbuck, anh ấy có thể mua cafe ở công ty mình đang làm. Chiến lược 8 : Chuẩn bị đối phó những vấn đề sẽ xảy ra ( prepare for problems ) Ví dụ : đồng hồ báo thức không thể đánh thức anh ấy, vì vậy trong tháng đầu tiên anh ấy phải dùng dịch vụ báo thức của mạng điện thoại. 5.Chậm thì tốt hơn ( slower is better ) Mọi thứ đều có tốc độ tự nhiên của nó; khi thay đổi thì những điều không thoải mái sẽ xuất hiện. Do đó, sự thay đổi chỉ có thể tiến hành hiệu quả nhất khi bạn thay đổi từ từ, để cho những hành vi mới trở nên tự động hóa ( behaviors become automatic ). 6.Càng hiểu biết nhiều thì càng dễ thay đổi ( know more, do better ) Bạn càng hiểu rõ về quá trình thay đổi thì bạn càng có khả năng kiểm soát nó. Chiến lược 9: Hiểu lý do vì sao bạn thành công hay thất bại để áp dụng những chiến lược thay đổi hành vi. Ví dụ : mỗi sáng, anh ấy sẽ phân tích lý do mình đi làm trễ hoặc đi làm đúng giờ. 7.Sự thay đổi yêu cầu tính cấu trúc ( Change require structure ) Nhiều người xem tính cấu trúc như một cái gì đó giới hạn, hạn chế việc tùy tiện. Mặc dù tính tùy tiện ( spontaneity ) là điều thú vị trong 1 vài hoạt động, nhưng sự tùy tiện sẽ phá hoại quá trình thay đổi. Chiến lược 10: Xác định những gì có hiệu quả ( identify what works ) Phân loại những hoạt động hữu ích và vô ích trong việc đạt mục tiêu. Loại bỏ những hoạt động vô ích và tăng cường những hoạt động hữu ích. Ví dụ : Sau khi đánh giá những thói quen vào buổi sáng của mình, anh ấy đã thay thế việc chuẩn bị bữa sáng ( ngốn nhiều thời gian ) bằng thức uống nhanh giàu protein. Chiến lược 11: Thường xuyên xem xét lại kế hoạch của mình Hằng ngày bạn cần xem xét lại mình đã thay đổi như thế nào và tại sao, hậu quả của thành công và thất bại. Tiến sỹ Daniel Willingham ở đại học Virginia chỉ ra rằng : sự nhắc lại, lặp lại ( repetition ) sẽ làm gia tăng khả năng thành công. 8.Thực hành là cần thiết Thực hành là 1 chìa khóa khác dẫn đến thay đổi – đó là kết luận của 1 cuộc nghiên cứu về kinh nghiệm thay đổi đăng trên tờ British Journal of psychology. Nguyên nhân chính dẫn đến thất bại là bởi vì nguyên tắc này bị bỏ qua. Việc thực hành sẽ làm cho những hành vi mới trở nên tự động hóa và trở thàn bản năng, 1 phần của chúng ta. Chiến lược 12: Nhờ người khác giúp đỡ. Không phải tất cả hành vi mới bạn đều có thể tự học. Thỉnh thoảng bạn nên nhờ bạn bè giúp. Ví dụ : khi dịch vụ báo thức của điện thoại không đánh thức anh ấy dậy được, anh đã nhờ thư kí của mình gọi điện đánh thức anh. Chiến lược 13: Thực hành trong nhiều hoàn cảnh. Nếu bạn muốn thực hiện 1 hành vi mới ở những môi trường khác nhau, bạn cần thực hành nó trong nhiều hoàn cảnh tương tự ( T.F.Stokes và D.M.Baer- đó là điều quan trọng để duy trì những hành vi mới ). Ví dụ : trong tuần đầu tiên , anh ấy cố gắng đi làm đúng giờ. Trong những tuần tiếp theo, anh ấy cố gắng đi chơi tennis đúng giờ. 9.Những hành vi mới cần được bảo vệ ( New behaviors must be protected ) Vì những hành vi mới rất dễ biến mất, nếu bạn không bảo vệ, không củng cố hành vi đó thường xuyên. Chiến lược 14: Kiểm soát môi trường sống của bạn. Sau khi xác định những yếu tố có lợi và ảnh hưởng đến việc thay đổi, bạn cần loại bỏ những yếu tố bất lợi và tăng cường yếu tố có lợi. Ví dụ : uống rượu trước khi đi ngủ sẽ làm anh ấy khó thức dậy sớm. Vì vậy anh ấy tránh uống rượu sau 7h tối. Chiến lược 15 : Sử dụng vật ghi nhớ. Bởi vì 1 hành vi mới tập sẽ chưa quen thuộc và chưa trở nên tự động hóa, bạn sẽ dễ dàng quên nó. Ví dụ : anh ấy giữ 1 danh sách mô tả những việc cần làm ở các phòng trong nhà. 10.Những thành công tuy nhỏ nhưng thực ra nó rất lớn ( Small successes are big ) Điều không may là khi bạn lên kế hoạch cho những thay đổi lớn thì thường đem lại thất bại lớn. Bạn hãy tập trung vào một loạt những thành công nho nhỏ, những thay đổi nhỏ. Những thành công nhỏ sẽ làm tăng cường cảm nhận về giá trị bản thân, còn 1 thất bại lớn sẽ tàn phá cảm nhận về giá trị của bạn.
Sự im lặng có vai trò như thế nào khi lắng nghe người khác ? Sự im lặng có vai trò như thế nào khi lắng nghe người khác ? Nói năng thể hiện mình có uy tín, trình độ. Chúng ta cảm thấy rất khó khăn khi im lặng. Không phải vốn chúng ta là những sinh vật thích nói nhiêu , mà chính đời sống đã khiến sự im lặng trở nên quý giá, hiếm hoi. Sự im lặng không đơn giản chỉ là tách bạch âm thanh, sự không có bất kỳ một tiếng nói gì ở trong đầu, sự cảm thấy như thể một mình mình là đầy đủ rồi, một mình mình là cảm thấy bình an thoải mái và không cần thêm bất cứ yếu tố nào khác. Sự im lặng đích thực là sự im lặng từ trong nội tâm chứ không phải là sự im lặng bên ngoài. Sự im lặng là quan trọng vì mọi sự mang tính rỗng không, có như vậy thì mọi thứ mới được chứa vào, tràn vào. Sự im lặng của người khác ở bên mình giống như một sự hiện diện, đem lại cảm giác bình yên, được thấu hiểu. Con người bây giờ không bao giờ ngơi tay, nếu không thì cái đầu của bạn cũng không bao giờ ngơi suy nghĩ. Lỗ tai quen âm thanh, giờ yên ắng quá bạn chịu không được, vì không gian yên ắng đánh thức rất nhiều sự bất an nổi bên trong bạn. Mình không thể yên lặng vì mình luôn cảm thấy thiếu thốn. Chúng ta nghĩ rằng tự thân mình là không đầy đủ, mình cần một cái khác nữa thì mới đủ đầy. Cái khác đó có thể là âm thanh của 1 đĩa nhạc bạn yêu thích, 1 cuốn sách đem lại trí tuệ, 1 buổi nói chuyện, đi lau nhà, dọn dẹp... Nói chung là phải có 1 cái gì đó vì nó dựa trên 1 giả thuyết rằng tự thân mình thì chưa đầy đủ. Trong khi ngược lai, đích thực của im lặng, bình yên là nghĩ rằng, biết chắc tự mình là đủ. Trong mình có tất cả rồi nên không cần thêm 1 cái gì nữa. Một mình mình là cả thế giới. Im lặng chính là sự kết nối với chính bản thân. Khi bạn hiểu cái tôi, gần cái tôi của bạn thì không bao giờ bạn cảm thấy bất an. Chỉ khi mình cảm thấy xốn xang, lòng mình không tĩnh, dường như có gì đang diễn ra mà mình không kiểm soát được, nó nằm ngoài tầm của mình. Khi đó bạn sẽ cảm thấy nôn nao, bấn loạn, xung đột. Bí quyết của sự im lặng , tức là giờ nào việc nấy, tập trung chú mục focus vào duy nhất việc đó thôi. Hầu như toàn bộ tâm trí của mình đặt để trong sự vật đó. Sự tập trung cao độ, vì khi bạn tập trung thì người ta có cảm giác bạn lắng nghe người khác. Bạn không thể thực sự lắng nghe người khác nói khi trong đầu bạn có nhiều suy nghĩ, bạn chỉ nghe âm thanh thôi, không nắm bắt được ý nghĩa sâu xa. Thân chủ rất nhạy cảm và họ biết bạn đang không thực sự nghe họ vì khi nghe thực sự thì mắt, con người bạn thể hiện rất rõ. Tất cả con người bạn bị treo, não không xử lý vấn đề của mình mà đang xử lý thông tin người khác nói. Sự yên lặng của bạn có 1 năng lượng khủng khiếp, 1 ảnh hưởng rất ghê gớm, ảnh hưởng thật sự đến người ngồi trước mặt mình. Nếu thật sự yên lặng có chú ý thì năng lượng đó thường là năng lượng tích cực, nó mang tính quan tâm , chăm sóc, chữa lành người khác. Đó là sự yên lặng hùng tráng. Nền văn hóa của chúng ta rất khó để tìm ra sự yên lặng. Chúng ta phải đánh đổi rất nhiều thứ để chống lại nỗi sợ sự yên lặng. Chúng ta rất sợ sự yên lặng. Xung quanh chúng ta thường xuyên phải ồn ào, ồn ào bằng những mỹ từ như âm nhạc, công việc, ồn ào bằng những điều mà mình cho là tốt như suy nghĩ điều này, điều nọ, gặp gỡ người khác, buôn dưa lê với bạn, làm tất cả những gì mình cho là cần phải làm, miễn là tránh cho mình cảm giác phải đối diện và sống với chính mình, sống với thế giới nội tâm của mình. Hầu như mình có thời gian để làm mọi thứ nhưng lại không có thời gian để sống với nội tâm của chính mình, cảm giác xa lạ với chính mình. Hãy cố gắng hiểu động cơ sâu xa gì khiến mình cảm thấy bồn chồn, lo lắng, bất an khi ngồi im lặng. Tìm ra cái đó và nhận ra cái đó trong người mình như thế nào. Thỉnh thoảng mình nên bắt chộp được những lúc mà mình phân tâm. Ví dụ, lúc này, hình như mình đang nghĩ lơ đãng, mình chỉ ghi nhận nó thôi chứ mình không nói là mình xấu xa, không nên đánh giá mình ( là đứa lúc nào cũng nghĩ lung tung ). Thay vì thế, bạn chỉ nói là bạn đang quan sát và ghi nhận. Hồi nãy cách đây 5 phút mình đã nghĩ rất nhiều ý tưởng. Ví dụ , mình đã nghĩ 3 ý khác nhau. Chính quá trình theo dõi mình như vậy khiến mình trở nên nhạy cảm hơn đối với những suy nghĩ và những lúc mình phân tâm, đó là cách để đưa ý nghĩ của mình trở lại bình thường, rất nhẹ nhàng và không căng thẳng. Một trong những lý do khiến mình quen suy nghĩ lung tung là do tính củng cố ( quen rồi ) và hay nhất là phải tập lại. Các ý nghĩ sẽ đến và đi như ý muốn vì nó là khách. Đến 1 lúc nào đó bạn sẽ chủ động biết mình chuẩn bị nghĩ gì, nhạy bén hơn trong tâm trí.
Làm thế nào để thay đổi thói quen ? Tham khảo sách “ The Power of habit : Why we do what we do in life and business” của tác giả Charles Duhigg. Link tải sách : http://www.mediafire.com/?n4l4uv6xtf3sbum Vòng lặp của thói quen ( habit loop) Các nhà khoa học nói rằng, thói quen xuất hiện bởi vì bộ não liên tục tìm kiếm những cách thức để tiết kiệm sức lực. Bộ não sẽ tìm cách làm cho hầu hết một số công việc thường ngày trở thành thói quen. Bản năng tiết kiệm sức lực này có 1 lợi ích to lớn. 1 bộ não hiệu quả sẽ cần ít không gian, và làm cho đầu của bạn nhỏ hơn, làm cho việc sinh nở dễ dàng hơn và do đó sẽ có ít em bé và người mẹ bị chết do sinh đẻ. 1 bộ não hiệu quả cũng cho phép chúng ta ngừng suy nghĩ liên tục về những hành động cơ bản như đi bộ và chọn lựa đồ ăn, và chúng ta có thể dành năng lượng tinh thần để phát minh ra hệ thống thủy lợi, máy bay, và trò chơi điện tử. Nhưng việc tiết kiệm nỗ lực tinh thần cũng có mặt trái là bộ não của chúng ta có thể gặp thất bại trong việc để ý đến một số điều quan trọng, như thú săn mồi lẩn trốn trong bụi rậm hoặc 1 chiếc xe phóng với tốc độ nhanh khi chúng ta băng qua đường. Vì vậy, hạch nền ( basal ganglia ) của não đã phát minh ra một hệ thống thông minh để xác định khi nào để cho thói quen xuất hiện. Quá trình này trong não của chúng ta là 1 đường xoáy ốc có 3 bước. Đầu tiên là 1 sự kích hoạt nói với bộ não tự động hóa và sử dụng thói quen nào. Sau đó là 1 thói quen ( routine ) , nó có thể là thói quen thể chất hoặc tinh thần hoặc cảm xúc. Cuối cùng, đó là 1 phần thưởng , nó giúp bộ não xác định liệu cái vòng lặp của thói quen này có đáng để ghi nhớ trong tương lai hay không. Theo thời gian, vòng lặp này – sự kích hoạt, thói quen, phần thưởng; sự kích hoạt, thói quen, phần thưởng ngày càng trở nên tự động hóa. Lý do cho việc khám phá vòng lặp của thói quen rất quan trọng bởi vì nó tiết lộ 1 sự thật cơ bản : Khi thói quen xuất hiện thì bộ não dừng tham gia hoàn toàn vào quá trình ra quyết định. Bộ não dừng làm việc, hoặc nó chuyển hướng chú ý sang những nhiệm vụ khác. Do đó , chừng nào mà bạn còn đang nỗ lực chiến đấu chống lại 1 thói quen , chừng nào mà bạn còn chưa tìm thấy những thói quen mới – thì khuôn mẫu thói quen cũ này vẫn sẽ được tự động hóa. Hiểu được cách thức hoạt động của thói quen – hiểu được cấu trúc của vòng lặp của thói quen – sẽ khiến bạn dễ dàng kiểm soát được thói quen. Những thói quen không bao giờ thực sự biến mất. Chúng được mã hóa vào trong cấu trúc bộ não. Và đó là 1 thuận lợi lớn cho chúng ta, bởi vì thật kinh khủng nếu chúng ta phải học lại 1 điều gì đó ( ví dụ như cách lái xe ). Nhưng vấn đề là bộ não của chúng ta không thể phân biệt được sự khác nhau giữa thói quen tốt và xấu. Điều này cũng giải thích tại sao bạn lại gặp khó khăn khi muốn hình thành thói quen tập thể dục hoặc thay đổi thói quen ăn uống chẳng hạn. Một khi chúng ta đã hình thành 1 thói quen ngồi ì trên salong thay vì chạy bộ , những khuôn mẫu hành vi đó vẫn lưu giữ trong não chúng ta. Nếu không có những thói quen , bộ não của chúng ta sẽ ngưng hoạt động, bị quá tải bởi những điều vụn vặt trong cuộc sống hằng ngày. Những người bị tổn thương phần hạch nền ( basal ganglia ) thường trở nên tê liệt về tinh thần. Họ gặp khó khăn trong việc thực hiện những hoạt động cơ bản , ví dụ như mở cửa hoặc quyết định sẽ ăn món gì. Họ mất khả năng phớt lờ những tiểu tiết không quan trọng . 1 nghiên cứu phát hiện thấy người bị tổn thương phần hạch nền không nhận ra được những biểu hiện trên khuôn mặt của người khác, bao gồm sự tức giận và ghê tởm bởi vì họ không chắc chắn về việc nên tập trung chú ý vào phần nào trên khuôn mặt. Nếu không có phần hạch nền, chúng ta đánh mất khả năng thực hiện hàng trăm thói quen mà ta dựa vào mỗi ngày.Liệu bạn có dừng lại trong buổi sáng hôm nay để quyết định xem mình nên buộc dây giày bên phải hay bên trái trước ? Liệu bạn có gặp khó khăn trong việc quyết định mình nên đánh răng trước hay sau khi đi tắm ? Tất nhiên là không. Vì những quyết định đó là những thói quen, không cần nỗ lực. Chừng nào mà phần hạch nền của bạn không bị tổn hại và những kích thích vẫn duy trì liên tục thì những hành vi của bạn sẽ xuất hiện không cần phải suy nghĩ. Tuy nhiên, sự phụ thuộc của bộ não vào những thói quen tự động hóa có thể trở nên nguy hiểm. Thói quen của chúng ta có sức mạnh, quyền lực nhưng nó cũng rất tinh vi. Nó có thể xuất hiện bên ngoài ý thức của chúng ta hoặc thói quen có thể được chúng ta chủ động tạo ra. Thói quen có thể xuất hiện mà không cần sự cho phép của chúng ta. Thói quen hình thành nên cuộc sống của chúng ta nhiều hơn những gì chúng ta nhận ra. Thói quen rất mạnh mẽ, chúng khiến bộ não của chúng ta bám chặt vào chúng. Thói quen xuất hiện mà không cần sự cho phép của bạn. Nghiên cứu chỉ ra rằng các gia đình thường không có ý định ăn thức ăn nhanh thường xuyên . Điều xảy ra đó là việc đi ăn thức ăn nhanh 1 lần/1 tháng dần dần trở thành 1 lần/1 tuần và sau đó là 2 lần/1 tuần – khi mà những kích thích và phần thưởng tạo nên thói quen. Khi các nhà nghiên cứu của trường đại học North Texas và Yale cố tìm hiểu lý do tại sao các gia đình dần dần gia tăng việc tiêu thụ thức ăn nhanh, họ phát hiện thấy 1 loạt những kích thích và phần thưởng mà người tiêu thụ không biết rằng chính chúng đã ảnh hưởng đến hành vi của họ. Họ đã khám phá ra vòng lặp của thói quen.Thức ăn mang lại phần thưởng ngay tức thì. Tuy nhiên, những thói quen đó rất tinh vi. Khi 1 nhà hàng thức ăn nhanh đóng cửa , các gia đình đến ăn ở đó sẽ bắt đầu dùng bữa tối ở nhà , thay vì tìm 1 nhà hàng khác. Ngay cả 1 sự thay đổi nhỏ cũng có thể chấm dứt khuôn mẫu hành vi. Nhưng vì chúng ta thường không nhận ra được những vòng lặp thói quen đó khi chúng phát triển, chúng ta mù quáng về khả năng kiểm soát của chúng ta đối với chúng. Bằng cách học quan sát những kích thích và những phần thưởng, chúng ta có thể thay đổi những thói quen. Làm thế nào để tạo ra những thói quen mới. Có 2 nguyên tắc cơ bản là : 1. Tìm 1 kích thích đơn giản và rõ ràng. 2. Định nghĩa rõ ràng về những phần thưởng. Những nguyên tắc đó được sử dụng để tạo nên hàng ngàn thói quen khác nhau . Những nghiên cứu về những người thành công trong việc bắt đầu những thói quen tập thể dục mới, chẳng hạn như , họ có nhiều khả năng sẽ theo đuổi với 1 kế hoạch tập thể dục nếu như họ chọn được 1 kích thích cụ thể, ví dụ như chạy bộ sớm khi họ đi làm trở về nhà, và 1 phần thưởng rõ ràng, như 1 cốc bia hoặc 1 buổi tối xem tivi. Nghiên cứu về việc ăn kiêng nói rằng việc tạo ra những thói quen ăn uống mới yêu cầu 1 kích thích định trước – ví dụ như lên thực đơn và những phần thưởng đơn giản cho người ăn kiêng khi họ làm theo kế hoạch đã định. Bạn muốn tạo ra 1 thói quen ăn uống mới ? Các nhà nghiên cứu liên kết với sở kiểm soát cân nặng quốc gia Mỹ tiến hành 1 dự án bao gồm hơn 6000 người đã giảm được hơn 30 pounds – tìm kiếm những thói quen ăn kiêng thành công, họ phát hiện thấy 78% trong số đó ăn sáng hằng ngày vào 1 thời gian nhất định. Nhưng phần lớn những người ăn kiêng thành công cũng tưởng tượng về 1 phần thưởng cụ thể khi họ thực hiện chế độ ăn kiêng của mình – 1 bộ bikini họ muốn mặc hoặc cảm giác tự hào khi họ bước lên bàn cân mỗi ngày- phần thưởng là những điều họ chọn lựa cẩn thận và thực sự muốn có. Họ tập trung vào sự ham muốn về phần thưởng đó khi những cám dỗ ăn uống xuất hiện. Chính sự ham muốn về phần thưởng đó đã điều khiển vòng lặp của thói quen. Đối với các công ty, hiểu về khoa học của sự ham muốn là 1 cuộc cách mạng. Vì có hàng tá những lề thói mà chúng ta buộc phải làm hằng ngày những không bao giờ trở thành thói quen. Ví dụ như chúng ta nên bôi kem chống nắng khi ra đường sẽ làm giảm nguy cơ ung thư da , nhưng chưa đến 10% người Mỹ dùng kem chống nắng mỗi ngày. Tại sao ? Bởi vì họ không có sự ham muốn khiến cho việc bôi kem chống nắng trở thành 1 thói quen hằng ngày. Sự ham muốn là cái thúc đẩy hình thành thói quen. Và xác định được cách thức làm thế nào để khuấy động ham muốn sẽ làm cho việc hình thành thói quen trở nên dễ dàng hơn. Nguyên tắc vàng để thay đổi thói quen. Bạn không thể loại bỏ 1 thói quen xấu , bạn chỉ có thể thay đổi thói quen đó thôi. Để thay đổi 1 thói quen, bạn phải giữ lại kích thích cũ , phần thưởng cũ , nhưng thêm vào đó 1 thói quen mới. Nguyên tắc : Nếu bạn sử dụng lại cùng 1 kích thích và phần thưởng , bạn có thể thay đổi thói quen. Hầu hết một vài hành vi có thể được biến đổi nếu như kích thích và phần thưởng giữ nguyên như cũ. ( Xem hình trang 127 của sách ) Nguyên tắc vàng này đã ảnh hưởng đến việc điều trị cho người nghiện rượu, béo phì, ám ảnh cưỡng bức và hàng trăm hành vi xấu khác, và hiểu được nguyên tắc này có thể giúp bạn thay đổi những thói quen của chính mình. Những nỗ lực nhằm từ bỏ thuốc lá sẽ thất bại trừ khi anh ấy tìm thấy 1 vài hoạt động khác để thay thế cho việc hút thuốc khi sự ham muốn nicotine bị kích hoạt. Thường thì chúng ta không thực sự hiểu được những ham muốn nào thúc đẩy những hành vi của chúng ta cho đến khi nào chúng ta tìm thấy chúng. Ví dụ bạn muốn dừng việc ăn quà vặt ở nơi làm việc. Liệu phần thưởng mà bạn tìm kiếm là để thỏa mãn cơn đói bụng ? Hoặc đó là 1 sự can thiệp chống lại sự nhàm chán ? Nếu bạn ăn vặt là để giải tỏa , bạn có thể dễ dàng tìm thấy những thói quen khác – như tán gẫu vài phút với đồng nghiệp, hoặc lướt net khoảng 3 phút – những cách thức đó cũng đem lại phần thưởng như nhau mà không làm vòng eo của bạn to lên. Nếu bạn muốn dừng việc hút thuốc, hãy hỏi mình là, bạn hút thuốc vì bạn thích nicotine hay bởi vì nó đem lại 1 sự kích thích , 1 cách để hòa nhập với bạn bè? Nếu bạn hút thuốc vì bạn cần sự kích thích thì các nghiên cứu chỉ ra rằng một chút cafe vào buổi chiều là đủ . Xác định những kích thích và phần thưởng mà bạn gắn với việc hút thuốc, và sau đó chọn những thói quen mới cũng đem lại phần thưởng tương tự có thể làm tăng khả năng bỏ thuốc lá. ( xem hình trang 135 ) Như vậy, chúng ta hiểu rằng thói quen có thể được điều khiển khi áp dụng quy tắc vàng nêu trên để thay đổi thói quen. Nhưng chừng đó cũng chưa đủ. Để 1 thói quen thay đổi, 1 người phải tin rằng sự thay đổi là khả thi. Và thường thì, niềm tin về khả năng thay đổi chỉ xuất hiện khi có sự giúp đỡ của 1 nhóm . Nếu bạn muốn bỏ thuốc lá, hãy xác định 1 thói quen khác có thể làm thỏa mãn ham muốn của bạn bởi thuốc lá. Sau đó, tìm 1 nhóm hỗ trợ, gồm những người hút thuốc giúp bạn tin rằng bạn có thể tránh xa nicotine. Việc hiểu về những kích thích và những ham muốn thúc đẩy thói quen của bạn sẽ không làm cho những thói quen đó đột ngột mất đi – nhưng nó sẽ đem lại cho bạn 1 cách thức để lên kế hoạch thay đổi thói quen. Các bước thay đổi thói quen. Bước 1 : Xác định thói quen. Để hiểu về thói quen của chính mình, bạn cần xác định được những yếu tố của vòng lặp của thói quen. Ví dụ, bạn có 1 thói quen xấu, giống như tôi chẳng hạn, tôi thường hay đến quán cafe và mua bánh quy socola mỗi buổi chiều. Và thói quen này làm bạn tăng thêm vài cân.Bạn cố gắng buộc bản thân phải dừng thói quen này. Bạn hứa với bản thân là ngày mai bạn sẽ dùng ý chí để kháng cự lại thói quen này. Nhưng ngày mai, thói quen đó lại lặp lại. Làm thế nào để bạn bắt đầu chẩn đoán và thay đổi thói quen này ? Bằng cách xác định vòng lặp của thói quen. Và bước đầu tiên là xác định được lề thói ( routine ) – đó là khía cạnh ta thấy rõ ràng nhất : đó là hành vi mà bạn muốn thay đổi. Lề thói của bạn ở đây là rời khỏi bàn làm việc vào buổi chiều, đi bộ đến quán cafe và mua bánh socola , và ăn bánh trong khi đó tán gẫu với bạn bè. Tiếp theo: cái gì đã kích thích hành vi đó ? Có phải là cơn đói bụng ? Nhàm chán ? Lượng đường trong máu thấp ? Bạn cần giải lao trước khi chuyển sang nhiệm vụ khác ? Và phần thưởng là gì ? Bản thân cái bánh ? Thay đổi không khi ? Tạm thời xao nhãng khỏi công việc ? Nói chuyện với đồng nghiệp ? Hoặc sự tăng cường năng lượng từ đường ? Bước 2 : Thử nghiệm để tìm ra phần thưởng. Phần thưởng có sức mạnh to lớn bởi vì chúng làm thỏa mãn những ham muốn của bạn. Nhưng chúng ta thường không ý thức được những ham muốn nào đã thúc đẩy hành động của mình. Để xác định được ham muốn nào thúc đẩy 1 kiểu thói quen cụ thể, ta cần thử nghiệm với nhiều phần thưởng khác nhau. Ngày thử nghiệm đầu tiên, khi bạn cảm thấy thôi thúc muốn đi đến quán cafe và mua bánh, hãy điều chỉnh hành vi này để nó mang lại 1 kiểu phần thưởng khác. Ví dụ, thay vì đi bộ đến quán cafe, hãy đi ra ngoài, đi dạo xung quanh tòa nhà và sau đó quay lại bàn làm việc mà không ăn cái gì cả. Ngày tiếp theo, đi đến quán cafe nhưng mua bánh rán hoặc 1 thanh kẹo và ăn nó tại bàn làm việc. Ngày tiếp theo, đến quán cafe mua 1 quả táo và ăn nó trong khi nói chuyện với bạn bè. Sau đó, thử dùng 1 cốc cafe. Sau đó, thay vì đi đến quán cafe, hãy đi bộ đến văn phòng của bạn bè bạn và tán gẫu trong vài phút và quay lại bàn làm việc của bạn. Những gì bạn lựa chọn thay vì mua bánh socola không phải là điều quan trọng. Mục đích của bài thử nghiệm là để xác định được ham muốn nào thúc đẩy thói quen của bạn. Liệu bạn có ham muốn cái bành , hay là sự giải lao , hoặc là bởi vì bạn muốn có thêm năng lượng mà cái bánh mang lại ? Và nếu là vậy thì 1 cốc cafe là đủ. Hoặc bạn lang thang trong quán cafe để viện lý do nói chuyện với bạn bè , nêu sbaajy thì hãy đến tán gẫu với bạn bè trong vài phút thì cũng có thể thỏa mãn được thôi thúc này. Bước 3 : Cô lập kích thích. Lý do khiến bạn khó xác định được những kích thích nào kích hoạt nên thói quen của bạn là bởi vì có quá nhiều thông tin dội vào chúng ta Hãy hỏi bản thân : Bạn ăn sáng vào 1 giờ nhất định bởi vi bạn đói ? Hoặc vì đồng hồ báo đã 7h30 ? Hoặc vì những đứa con của bạn đã bắt đầu ăn sáng ? Tất cả những kích thích dẫn đến thói quen ( habitual cues) đều thuộc 1 trong 5 loại sau : Địa điểm, thời gian, trạng thái cảm xúc, những người khác và hành động ngay lập tức trước đó. Do đó, nếu bạn đang cố để xác định được những kích thích dẫn đến thói quen “ đi đến quán cafe và mua bánh” , hãy viết ra 5 điều thúc đẩy bạn tại thời điểm đó Ví dụ : Bạn đang ở đâu ? Đang ngồi tại bàn làm việc. Lúc mấy giờ ? 3h36. Trạng thái cảm xúc gì ? Nhàm chán. Có những ai xung quanh ? Không có ai cả. Hành động gì xảy ra trước đó ? Trả lời email. Ngày tiếp theo : Bạn đang ở đâu ? đang đi bộ về văn phòng từ chỗ phôt. Lúc mấy giờ ? 3h18. Trạng thái cảm xúc gì ? Hạnh phúc. Có những ai xung quanh ? Jim. Hành động gì xảy ra trước đó ? Đang photo giấy tờ. Ngày thứ 3: Bạn đang ở đâu ? phòng họp. Lúc mấy giờ ? 3h41. Trạng thái cảm xúc gì ? Mệt mỏi, phấn khích về dự án mà tôi đang làm. Có những ai xung quanh ? Biên tập viên đến tham gia cuộc họp này. Hành động gì xảy ra trước đó ? Tôi ngồi xuống vì cuộc họp đang bắt đầu. Như vậy, qua 3 ngày, tôi dã xác định được khá rõ ràng kích thích kích hoạt thói quen ăn bánh của tôi. Tôi cảm thấy 1 sự thôi thúc muốn ăn vặt vào 1 thời điểm nhất định trong ngày. Không phải vì sự đói bụng thúc đẩy hành vi của tôi. Phần thưởng mà tôi đang tìm kiếm đó là 1 sự xao nhãng tạm thời – đến từ việc tán gẫu với 1 người bạn. Và bây giờ tôi đã biết, thói quen này được kích hoạt trong khoảng thời gian từ 3h-4h. Bước 4 : lên kế hoạch. Khi bạn đã xác định được vòng lặp thói quen – bạn đã xác định được phần thưởng thúc đẩy hành vi , những kích thích kích hoạt nó, và lề thói – bạn có thể bắt đầu thay đổi hành vi của mình. Bạn có thể thay đổi sang 1 thói quen tốt hơn bằng cách lên kế hoạch cho kích thích và lựa chọn 1 hành vi mang lại phần thưởng bạn mong muốn. Những gì bạn cần là 1 kế hoạch. Ví dụ : tôi viết 1 kế hoạch : lúc 3h30 chiều mỗi ngày, tôi sẽ đi bộ đến bàn làm việc của 1 người bạn và nói chuyện trong 10 phút Tôi buộc mình tuân thủ theo kế hoạch này. Khi đồng hồ báo 3h30 , tôi buộc mình đi đến bàn làm việc của 1 người bạn và tán gẫu trong 10 phút – tôi cảm thấy tốt hơn khi ngày làm việc kết thúc. Tôi không đi đến quán cafe, tôi không ăn bánh và tôi vẫn cảm thấy tốt. Cuối cùng nó trở thành tự động : khi chuông báo giờ rung, tôi tìm đến 1 người bạn. Sau một vài tuần, tôi không còn nghĩ về thói quen này nữa. Và khi tôi không tìm thấy ai để nói chuyện, tôi đến quán cafe và mua uống trả cùng 1 vài người bạn. Tất cả những điều đó xảy ra trong 6 tháng. Tôi không cần đến đồng hồ nữa. Nhưng cứ đến 3h30 mỗi chiều, tôi tự động tìm đến 1 ai đó và nói chuyện khoảng 10 phút về những tin tức mới, sau đó quay lại bàn làm việc. Những việc đó xảy ra tự động mà tôi không cần suy nghĩ về chúng. Chúng đã trở thành 1 thói quen . ( Hình trang 436)
6 lợi ích tâm lý khi nổi giận. Chúng ta thường nghĩ rằng sự tức giận là 1 cảm xúc tiêu cực, hoang dã, nhưng nghiên cứu tâm lý học đã phát hiện ra rằng tức giận cũng có những khía cạnh tốt đẹp của nó. Mặc dù con người có những lý do hợp lý để tránh nổi giận. Sự tức giận không chỉ làm bạn cảm thấy tệ mà nó khiến bạn làm những thứ ngu ngốc mà không lường trước những rủi ro và nó có thể mang tính hủy hoại bản thân. Do vậy con người văn minh cố gắng hết sức để kìm nén, chuyển hướng và che đậy cơn phẫn nộ của họ. Phần lớn chúng ta đối xử với cơn phẫn nộ của mình như thể nó là 1 cái gì đó vô lý, không được phép bộc lộ, không thể nói ra được. Nhưng cũng như tất cả những cảm xúc khác, sự tức giận cũng có những mục đích của nó, nó có thể được dùng để đem lại ảnh hưởng tốt. 1. Tức giận là 1 động lực thúc đẩy Bạn thỉnh thoảng có thể nghe mọi người nói rằng hãy sử dụng cơn tức giận, phẫn nộ của mình như là 1 động lực thúc đẩy bằng cách “ chuyển sự tức giận thành năng lượng tích cực” ( turning anger into positive energy ). Thực tế, bản thân sự tức giận là 1 loại năng lượng tích cực và là 1 động lực thúc đẩy mạnh mẽ. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự tức giận có thể thúc đẩy chúng ta hướng đến mục tiêu, đối mặt với những rắc rối và những trở ngại. Trong 1 nghiên cứu, người tham gia được xem những vật thể mà họ gắn liền với 1 phần thưởng. Khi chúng ta thấy 1 thứ gì đó có lợi, chúng ta muốn thứ đó nhiều hơn khi chúng ta tức giận. Do đó, khi sử dụng sự tức giận đúng đắn, mang tính xây dựng thì sự tức giận có thể làm bạn cảm thấy mạnh mẽ và nó thúc đẩy bạn giành lấy thứ bạn muốn. 2. Những người tức giận thường lạc quan hơn. Nghe có vẻ kỳ quặc , nhưng những người tức giận có 1 vài điểm giống với những người hạnh phúc. Đó là vì cả hai đều có xu hướng lạc quan hơn. Một nghiên cứu về nỗi sợ khủng bố sau thảm họa 11/9 tại Mỹ. Trong nghiên cứu này, những người trải nghiệm sự tức giận, phẫn nộ thường kỳ vọng sẽ ít có những cuộc tấn công, khủng bố hơn trong tương lai ( Lerner , 2003 ). Ngược lại, những người trải nghiệm nhiều nỗi sợ hãi thường có xu hướng bi quan hơn về tương lai và kỳ vọng sẽ có nhiều cuộc khủng bố trong tương lai. 3. Sự tức giận có thể mang lại lợi ích cho các mối quan hệ. Sự tức giận là 1 phản ứng tự nhiên khi bị đối xử bất công bởi 1 người nào đó và tức giận là 1 cách truyền thông với người khác về cảm giác bất công. Nhưng xã hội chúng ta cho rằng sự tức giận là nguy hiểm và chúng ta nên che dấu nó. 1 nghiên cứu của Baumeister ( 1990 ) chỉ ra rằng : việc che dấu tức giận trong những mối quan hệ tình cảm có thể gây bất lợi. Vấn đề là khi bạn che dấu cơn giận của mình, người bạn đời của bạn sẽ không biết được họ đã làm sai điều gì. Và họ sẽ vẫn tiếp tục làm điều đó. Và nó sẽ không tốt cho mối quan hệ của bạn. Việc bộc lộ sự tức giận, phẫn nộ, nếu bạn thấy nó xứng đáng và hướng đến việc tìm kiếm 1 giải pháp thay vì chỉ đổ lỗi, xả giận, có thể thực sự hữu ích và làm vững mạnh những mối quan hệ. 4. Sự tức giận mang lại sự bừng ngộ nội tâm ( self-insight ) Nếu chúng ta cho phép bản thân được nổi giận thì sự tức giận có thể mang lại sự bừng ngộ nội tâm trong chúng ta. Nghiên cứu của Kassinove ( 1997) : Những người Mỹ, người Nga được hỏi về những cơn giận, cơn thịnh nộ gần đây của họ đã ảnh hưởng như thế nào đến họ. 55% nói rằng sự tức giận mang lại 1 kết quả tích cực. Lý do hàng đầu mà 1/3 số người nói rằng sự tức giận mang lại 1 sự bừng ngộ trong họ về những lỗi lầm của chính họ. Nếu chúng ta có thể để ý khi nào chúng ta nổi giận và tại sao tức giận thì sau đó chúng ta có thể học cách nâng cao cuộc sống của mình. Sự tức giận có thể thúc đẩy việc thay đổi bản thân. 5. Sự tức giận làm giảm bạo lực Mặc dù sự tức giận thường đi trước bạo lực thân thể, nó cũng có thể là 1 cách để giảm bạo lực. Vì sự tức giận là 1 dấu hiệu cảnh báo về 1 tình huống cần phải giải quyết . Khi người khác nhìn thấy dấu hiệu tức giận, họ sẽ có nhiều động lực để xoa dịu người tức giận. Hãy tưởng tượng về 1 thế giới mà ở đó không có sự tức giận, con người không có cách thức nào để bộc lộ cho mọi người biết họ đang cảm thấy như thế nào về sự bất công. Liệu họ có thể tiến hành ngay lập tức những hành vi bạo lực không ? 6. Sự tức giận như là 1 chiến lược đàm phán. tức giận có thể là 1 cách hợp pháp để có những gì bạn muốn. Có 1 vài bằng chứng cho thấy sự tức giận có thể được sử dụng như là 1 chiến lược đàm phán, nhưng nó phức tạp hơn vậy. Bạn không thể cứ điên tiết lên và kỳ vọng đạt được mọi điều bạn muốn. Sự tức giận có hiệu quả nhất khi nó xứng đáng, hợp lý, nếu bạn xuất hiện với vẻ ngoài mạnh mẽ, uy lực và khi quyền lựa chọn của phía bên kia bị giới hạn. ( Nguồn :spring.org.uk)
Người xấu tính ( Difficult people ) Tham khảo :” Thank you for being such a pain – spiritual guidance for dealing with dificult people” của Mark I.Rosen,Ph.D Link : http://www.mediafire.com/?68cjiff7664sirv Bạn không thể thoát khỏi họ. Khi bạn đang phải vật lộn với 1 người xấu tính , bạn cần hiểu rằng mình không đơn độc. Nhiều người trước bạn đã từng gặp vấn đề tương tự như bạn. Bạn cần biết rằng mình sẽ phải đương đầu với những người xấu tính trong tương lai. Và không có cách nào để thoát khỏi họ. Định nghĩa về người xấu tính 1 người xấu tính là người có những từ ngữ hoặc hành động gợi lên những cảm xúc khó chịu và không mong muốn ở trong bạn. Đó là người gây ra cho chúng ta những cảm xúc mà bạn không muốn cảm nhận. 1 điểm quan trọng khi xử lý với người xấu tính, đó là bạn cần chú ý đến những gì đang diễn ra trong bạn , chứ không chỉ chủ ý đến những gì mà người xấu tính đang làm. Tất cả mọi người đều là “ người xấu tính” trong mắt một số người. Bất kể mức độ bực bội mà chúng ta gây ra cho người khác thì chúng ta cũng không sẵn sàng chấp nhận bị dán nhãn là “ người xấu tính”. Khi chúng ta làm điều gì đó gây bực bội cho người khác , chúng ta cũng không xem mình là “ người xấu tính”; chúng ta vẫn nhìn nhận hành động của mình là hợp lý, chính đáng. Chúng ta dễ dàng tập trung chú ý vào hành vi của người khác hơn là thừa nhận rằng mình cũng đang có những hành vi “ xấu tính”. Điều đó có nghĩa là những người xấu tính không khác gì với chúng ta; sự thật là, họ là chúng ta. Để hiểu vấn đề của chúng ta với người xấu tính, chúng ta cần phải chấp nhận sự thật là : chúng ta là họ. Những cách thức bạn dùng để xử lý vấn đề với người xấu tính. 1. Không làm gì cả. Cách thức đầu tiên chúng ta dùng để xử lý với 1 người xấu tính là phớt lờ/ bỏ quá những khó khăn, né tránh thảo luận chúng, giả vờ rằng chúng sẽ không xảy ra che giấu những cảm xúc trong chúng ta. Rất nhiều người thực hiện cách này hằng ngày. Một số người làm tốt đến nỗi việc né tránh và phủ nhận trở thành phương pháp chủ yếu của họ dùng để xử lý những vấn đề trong mối quan hệ. Có 2 lý do cơ bản lý giải tại sao việc né tránh như 1 cách thức dùng để xử lý với người xấu tính thường không đạt được hiệu quả. Thứ nhất : vấn đề người xấu tính thường không trở nên tự động tốt đẹp hơn; bằng cách không làm gì cả, chúng ta có xu hướng làm cho vấn đề tồn tại mãi mãi. Thứ 2, chúng ta phải trả giá cho việc không bộc lộ cảm xúc của mình. Những cảm xúc đó không mất đi, chúng vẫn khuấy động trong ta. Thỉnh thoảng , những cảm xúc không được bộc lộ đó nổi lên bề mặt qua những hành động của bạn. Bạn có thể ăn quá nhiều, đánh bạc, mua sắm những thứ không cần thiết, uống rượu ... bởi vì bạn không xử lý với những cảm xúc tiêu cực bạn có với người xấu tính – khiến bạn đau khổ. Chỉ có 1 trường hợp mà việc không làm gì cả là hợp lý. Đó là khi cảm xúc của bạn mãnh liệt, và bạn nên khôn ngoan đợi 1 thời gian trước khi hành động. 2. Tỏ ra tử tế. Có những hoàn cảnh mà tất cả chúng ta cho rằng điều dễ nhất mình làm được là đành cười và chịu đựng vậy. Bất kể sự sai trái mà hành động của người khác gây ra , chúng ta chỉ mỉm cười, chịu đựng và để yên cho người khác tiếp tục hành vi của họ . Về lâu dài, chúng ta sẽ trả giá đắt vì luôn luôn tán thành với những yêu cầu từ người khác. Họ sẽ lợi dụng bạn và cơn giận dữ sẽ chất chứa trong bạn. Khi người xấu tính nhận ra chúng ta luôn luôn nói “vâng” , họ sẽ kỳ vọng và đòi hỏi nhiều hơn nữa . Và khi những nhu cầu của bạn càng không được đáp ứng, bạn sẽ ngày càng tức giận. 3. Rời bỏ. Điều này phụ thuộc vào việc bạn là người có xu hướng là 1 người rời bỏ hay là 1 người ở lại. Mỗi người chúng ta có cách thức riêng để xử lý với sự chia tách và mất mát, và phong cách cá nhân có thể được xem là quan trọng hơn tình huống. Một số người có xu hướng rời bỏ ngay từ đầu khi gặp vấn đề. Họ rời bỏ vì họ lạc quan quá mức. Họ nghĩ rằng mình sẽ tìm được 1 người khác, cơ hội khác tốt hơn ở đâu đó. Nếu bạn là người có xu hướng rời bỏ, có lẽ sẽ khôn ngoan hơn nếu bạn không từ bỏ 1 mối quan hệ khi có những vấn đề rắc rối xuất hiện. Đó là cơ hội vàng đề bạn đương đầu với những nỗi sợ của bạn và chữa lành những cảm xúc. Nó cũng mang lại cho bạn 1 cơ hội học hỏi, đánh giá cao những gì mình có hơn là luôn luôn ở trạng thái tìm kiếm 1 thứ khác tốt hơn. Nhưng trở thành 1 người ở lại cũng có thể là 1 vấn đề. Những người ở lại cần học cách chăm sóc bản thân tốt hơn bằng cách từ bỏ những tình huống, những mối quan hệ không thể giữ được. Lo sợ về những điều chưa biết là 1 lý do tại sao người ở lại muốn ở lại với mối quan hệ này. Trong khi hoàn cảnh hiện tại của họ có thể đi từ tệ đến rất tồi tệ , người ở lại có thể còn sợ hãi hơn về những gì có thể xảy ra nếu họ rời bỏ mối quan hệ. Họ nghĩ rằng tốt hơn là nên duy trì 1 sự không thoải mái nhưng quen thuộc ở hiện tại hơn là đón nhận 1 sự không quen thuộc ở tương lai. 1 số người ở lại với mối quan hệ tồi tệ vì sự cam kết lâu dài với con người đó hoặc hoàn cảnh đó. Sự chung thủy/ trung thành có thể là 1 chất keo dính mạnh mẽ trong mối quan hệ. Những người khác thì vì lý do kinh tế ; hoặc trong vô thức họ cảm thấy mình xứng đáng bị đối xử tệ bạc. Rời bỏ hay ở lại, không có sự lựa chọn nào là sai, vì chúng ta học hỏi được từ cả hai. Mỗi lựa chọn có thể giúp chúng ta trở thành 1 người tốt hơn hoặc mang lại cho bạn những trải nghiệm- sẽ có lợi cho bạn trong tương lai khi bạn gặp hoàn cảnh tương tự. 4. Chống lại. Trả thù thường được xem là 1 cách thức chủ yếu nhằm loại bỏ những cảm xúc khó chịu, không mong muốn. Ví dụ, nếu có 1 ai đó lừa dối, phản bội hoặc xúc phạm chúng ta, chúng ta có thể sẽ mắc kẹt trong những cảm xúc tồi tệ mà bạn muốn thoát khỏi những cảm xúc đó. Trả thù có thể được xem là đem lại 1 cách thức nhằm chuyển hóa những cảm xúc không thể chịu đựng nổi đó của bạn. Phần lớn thì sự trả thù khiến ai đó cảm thấy tốt hơn. Trong tiếng Đức có 1 từ đặc biệt là “schadenfreude” nghĩa là cảm thấy vui sướng trước nỗi đau của người khác. Nhưng cảm giác vui sướng đó chỉ mang tính tạm thời và đó là ảo tưởng. Sau một thời gian, nếu chúng ta có ý thức, chúng ta có xu hướng cảm thấy tồi tệ. Động cơ thứ hai của việc trả thù là bạn muốn gửi 1 thông điệp đến người xấu tính. Chúng ta hy vọng là người xấu tính sẽ nhận thấy sai lầm của họ và hối hận về những gì họ đã làm với ta. Nhưng tất cả chúng ta đều hiểu điều này hiếm khi xảy ra. Người xấu tính ít khi quan tâm đến nỗi bất hạnh của bạn. Nếu cô ấy làm được như vậy thì có lẽ cô ấy đã không có những hành vi xấu tính ngay từ ban đầu rồi. 5. Làm cho người xấu tính thay đổi. Vấn đề là chúng ta đã đặt hạnh phúc của mình dựa vào hành động của người khác. Điều này đem lại cho họ quyền lực to lớn đối với trạng thái tâm lý của chúng ta. Khi họ tử tế, chúng ta cảm thấy thoải mái. Khi họ xấu tính, chúng ta trở nên điên loạn/ Để xử lý hiệu quả với 1 người xấu tính, chúng ta cần chấp nhận sự thật là : làm cho người khác thay đổi có thể là 1 mục tiêu không thực tế. 6. Làm cho 1 người xấu tính thay đổi : vẫn đáng để thử. Sự thay đổi của 1 cá nhân gồm có 3 yếu tố : sự nhận thứ, sự sẵn sàng và khả năng thay đổi của họ. Thứ nhất, 1 người phải nhận thức được rằng hành động của anh ấy đang tạo ra vấn đề đối với người khác. Ví dụ, nếu anh ta gọi điện thoại cho bạn quá nhiều, khiến bạn nổi giận, nhưng nếu anh ta không nghĩ rằng mình đang làm 1 việc sai trái và nếu bạn không nói ra thì anh ấy vẫn sẽ tiếp tục hành vi này. Thứ hai, 1 người phải có mong muốn thay đổi. Người xấu tính sẽ chỉ thay đổi nếu anh ta mong muốn thay đổi. Vì sự thay đổi đòi hỏi 1 động lực to lớn; những thói quen cũ không dễ dàng vượt qua. Người xấu tính phải quan tâm đủ đến mối quan hệ này để làm cho anh ta thay đổi, vì mối quan hệ này quan trọng với anh. Hoặc anh ta muốn thay đổi vì những lợi ích của sự thay đổi rõ ràng nhiều hơn so với những hình phạt của việc không thay đổi. Thứ ba, 1 người phải có khả năng để thay đổi. Trong 1 thế giới lý tưởng, mọi người muốn thay đổi đều có thể thay đổi khi họ cần. Nhưng trong thế giới chúng ta đang sống, 1 số người không thể thay đổi, ngay cả khi họ cố gắng. Làm thế nào chúng ta có thể khiến người khác thay đổi ? Có nhiều cách tiếp cận : bằng quyền lực, sự ảnh hưởng và tình yêu. Quyền lực là khả năng làm cho 1 ai đó làm điều gì đó mà cô ấy không muốn làm. Để làm được điều này, bạn chỉ cần đạt được 1 số nguồn lực của quyền lực. Một nguồn lực , ví dụ , là tiền bạc, hoặc khả năng mang lại phần thưởng. Với 1 phần thưởng phù hợp, tôi có thể làm cho bạn hành động theo những cách thức làm tôi thỏa mãn. Nếu tôi có một số thứ bạn cần và tôi sẵn sàng trao nó cho bạn nếu bạn đồng ý 1 số điều kiện của tôi, điều này mang lại cho tôi quyền lực đối với bạn. 1 nguồn khác của quyền lực là khả năng trừng phạt. Sự sợ hãi được sử dụng như 1 phương tiện khiến người khác làm những gì chúng ta muốn. 1 nguồn khác của quyền lực đến từ địa vị của bạn. 1 ông sếp, cha mẹ, thầy tu hoặc giáo viên – tự động có quyền yêu cầu ai đó làm điều gì trong 1 mối quan hệ. Ở bên ngoài mối quan hệ thì quyền lực của họ biến mất. 1 người cũng có quyền lực nếu họ là chuyên gia. Khi bác sỹ bảo bạn cởi áo ra, bạn tuân theo vì bạn muốn những gì ông ấy có – kiến thức y học. Sức thu hút cũng mang lại quyền lực. Nếu bạn tôn trọng, ngưỡng mộ ai đó, bạn có khả năng làm những gì người đó yêu cầu. Sự ảnh hưởng Có nhiều chiến lược ảnh hưởng mà chúng ta có thể dùng trong những tương tác hằng ngày. - dùng những sự kiện và logic. - thương lượng, hối lộ. - đe dọa. - sự thân thiện, nồng ấm. - kết hợp với những người khác để tạo ảnh hương lớn hơn đến người mà ta muốn ảnh hưởng. - Tạo ra cảm giác tội lỗi là 1 chiến lược ảnh hưởng cổ điển. - Thỉnh thoảng chúng ta cố ảnh hưởng người khác 1 cách gián tiếp. Tình yêu Tình yêu là cách tiếp cận thứ ba nhằm thay đổi người khác. Đây là cách mạnh mẽ nhất, có tính chất chữa lành nhất và khó dùng nhất. 7. Thay đổi bản thân . Đây là lựa chọn có hiệu lực nhất để xử lý với 1 người xấu tính. Sự thay đổi bản thân ( thay đổi bên trong ) không tránh khỏi sẽ dẫn đến thay đổi bên ngoài. Tại sao con người lại xấu tính ? 1. Một số người xấu tính không thực sự xấu tính. Một số người không xấu tính; họ chỉ ở trong 1 tình huống hoặc 1 vai trò yêu cầu họ hành xử theo 1 cách thức nhất định. 2. Một số người là khác biệt với bạn chứ không phải họ xấu tính. Mọi người là khác nhau. Con người khác nhau ở khí chất và những giá trị sống, nhân cách; họ có những tài năng, sở thích và mục tiêu khác nhau. Họ không phải luôn luôn hành xử xấu khi chúng ta nghĩ về họ như vậy; họ chỉ là sống thật với con người họ. Họ nhìn thế giới khác với chúng ta, được nuôi dạy về những giá trị từ gia đình họ, lịch sử cuộc đời họ, nền văn hóa, và tôn giáo của họ . Vì họ khác với chúng ta nên chúng ta xem họ là xấu tính. Chúng ta thất bại trong việc đánh giá về cách thức họ nhìn nhận thế giới khác với chúng ta. 3. Một số người xấu tính bị mắc kẹt trong quá khứ. Thời thơ ấu ảnh hưởng mạnh mẽ đến chúng ta, và kiểu mối quan hệ mà chúng ta có trong quá khứ ( thơ ấu ) ảnh hương đến tất cả những mối quan hệ tiếp theo trong suốt cuộc đời của chúng ta. Rất nhiều những lý thuyết tâm lý học lâm sàng bao gồm việc phân tích việc làm thế nào mà những mối quan hệ thời thơ ấu với bố mẹ, anh chị em và người chăm sóc ảnh hưởng đến chúng ta trong hiện tại, 1 khái niệm được gọi là sự chuyển dịch ( transference ). Một số ít người may mắn có những mối quan hệ với bố mẹ thời thơ ấu đầy yêu thương, nuôi dưỡng và lành mạnh. Những người đó không có những vấn đề khó khăn chưa được xử lý trong thời thơ ấu; và khi họ gặp gỡ những người mới/lạ thì quá khứ không can thiệp vào mối quan hệ hiện tại, và họ có khả năng nhìn nhận người khác như những gì người đó là. Nhưng với phần lớn chúng ta, vẫn còn nhiều vấn đề khó khăn chưa được xử lý trong quá khứ, và khi chúng ta tiếp xúc với người khác, ta có xu hướng vô thức xem người đó như 1 sự phản ánh về 1 ai đó trong quá khứ của ta hơn là xem người đó như 1 con người độc đáo. 1 lý do khác khiến 1 người là xấu tính vì họ bị mắc kẹt trong quá khứ - họ tiếp xúc với bạn như thể bạn là 1 người khác ( có liên quan đến mối quan hệ với ai đó trong quá khứ của họ ). Khi 1 người trở nên xấu tính thì có 2 điều có thể xuất hiện. Bạn có thể gợi cho họ nhớ về 1 người xấu tính với họ trong quá khứ, hoặc họ có thể gợi nhắc bạn về 1 người xấu tính bạn gặp trong quá khứ của bạn. 4. Một số người xấu tính có những tổn thương về cảm xúc/ tình cảm. Một số người xấu tính vì ho bị tổn thương về cảm xúc. Cách thức mà chúng ta đáp ứng lại về mặt cảm xúc với người xấu tính cũng thể hiện những tổn thương về cảm xúc của chính chúng ta, nó tiết lộ những phần bên trong bạn cần được chữa lành. 5. Một số người xấu tính có lòng tự trọng thấp. Một số người xấu tính vì họ không thích bản thân họ và họ dùng nhiều chiến lược khác nhau nhằm tránh cho mình không bị tổn thương một lần nữa. 6. Không ai biết về những vẫn đề mà họ đã trải qua. Hãy xem xét về khả năng 1 ai đó trở nên xấu tính không chỉ vì họ đang trải qua 1 ngày tồi tệ mà bởi vì họ đang có 1 cuộc sống tồi tệ. 7. Niềm tin của người xấu tính. Một số người xấu tính vì họ lưu giữ những niềm tin, quan điểm sống, những giá trị sống. Những niềm tin, quan điểm sống giúp chúng ta tìm thấy sự chắc chắn trong 1 thế giới không chắc chắn. Những niềm tin đó mang lại cho chúng ta 1 cách để diễn dịch về những sự kiện xảy đến bất ngờ. Niềm tin đem đến cho ta 1 lý do để kiên trì khi đối mặt với những trở ngại, những sự kháng cự và đối nghịch. Chúng đem đến cảm giác cộng đồng giữa những người cùng chia sẻ về niềm tin đó. Đồng thời, niềm tin cũng giới hạn cuộc sống của chúng ta. Chúng ngăn cản khả năng trải nghiệm những sự kiện trong cuộc sống theo cách mới mẻ. Những niềm tin cũng tạo ra sự chia tách giữa những người tin và người không tin vào 1 điều gì đó. Khi chúng ta nhận ra rằng, một số người xấu tính bởi vì họ cần lưu giữ những niềm tin cứng nhắc của họ để cảm thấy thoải mái và an toàn. 8. Một số người xấu tính muốn quá nhiều. Một số người xấu tính vì họ đánh giá đồ vật/ vật chất cao hơn con người. Khi ham muốn về 1 thứ gì đó vượt quá mức cần thiết, nó được gọi là sự tham lam. Tiền bạc và vật chất không chỉ là đối tượng duy nhất của lòng tham. Con người cũng có thể tham lam về quyền lực, địa vị hoặc danh tiếng. Một số người xấu tính vì họ xem người khác như 1 phương tiện để đạt được mục đích cá nhân của họ. 9. Một số người xấu tính là người nghiện chất . Những người nghiện rượu có xu hướng lo sợ, cáu gắt và mất kiên nhẫn, ngay cả khi họ không uống. 10. Một số người xấu tính là người có bệnh tâm thần ( mentally ill) 11. Ốm đau và mệt mỏi. Đôi khi con người ta trở nên xấu tính/ khó tính khi họ đang ốm hoặc mệt mỏi. Bạn cần tránh giả định 1 người xấu tính là có ác ý chừng nào bạn có những bằng chứng không thể bác bỏ được.Khi bạn gặp 1 người xấu tính, luôn luôn giả định, ít nhất là lúc ban đầu, rằng người đó đang cố gắng làm tốt nhất những gì anh ấy có thể ; và còn có 1 lý do chuộc lỗi cho hành vi xấu của anh ấy. Nếu chúng ta có thể thay đổi cách thức mình nhìn về 1 người xấu tính, thì chúng ta có thể thay đổi cách thức mình cảm nhận về họ. Nhưng việc đặt câu hỏi “ tại sao “ thường không xuất hiện dễ dàng ở những người có xu hướng nhanh chóng đưa ra kết luận. Nếu bạn là người thích nhanh chóng xác định mọi việc, đặt câu hỏi “tại sao” sẽ làm bạn cảm thấy không thoải mái, bởi vì quá trình hỏi này sẽ không đưa đến những câu trả lời nhất định. Nó sẽ dẫn đến nhiều khả năng thay thế. Nó cho phép bạn xem xét nhiều lời giải thích. Nó ngăn không cho bạn buộc tội người khác chừng nào mà bạn hiểu về toàn bộ câu chuyện. Nếu chúng ta nhìn lại những giải thích khác nhau về hành vi của người xấu tính, chúng ta thấy những điểm chung , đó là gần như tất cả hành vi của họ là kết quả của sự đau khổ, sự ngu dốt/ sự không biết. Con người làm những việc họ đang làm cho người khác bởi vì họ bị tổn thương, họ muốn, hoặc họ không biết ( việc mình làm là xấu ). Chúng ta có thể kết tội những hành động của họ. Nhưng chúng ta không thể , với sự chắc chắn tuyệt đối, rằng bản thân mình sẽ không hành động tương tự nếu chúng ta từng trải qua những khó khăn , đau khổ, tai họa giống như họ. Cuối cùng, một vài nỗ lực chân thành để hiểu lý do tại sao họ lại xấu tính sẽ khiến bạn cảm thông cho những đau khổ hoặc sự ngu dốt – là nguồn gốc của tất cả những hành động xấu. Bài tập : Hãy chọn 1 người xấu tính bạn gặp trong cuộc sống. Bây giờ lập 1 danh sách tất cả những lý do bạn có thể nghĩ ra nhằm giải thích cho hành vi của người đó. Người xấu tính dạy chúng ta về những hành động của bạn ảnh hưởng đến người khác như thế nào. Người xấu tính dạy chúng ta rằng mọi chuyện sẽ như thế nào khi bạn nhận được 1 hành động không suy nghĩ, không quan tâm, không nhạy cảm. Người xấu tính cho chúng ta thấy sự khó chịu khi bị đối xử tệ. Người xấu tính cũng làm cho chúng ta trải nghiệm về nỗi đau tương tự mà chúng ta đã từng gây ra cho người khác. Lần tới khi có ai đó đối xử tệ với bạn, hãy tự hỏi bản thân mình là bạn đã từng làm điều gì tương tự với ai đó trong quá khứ chưa, và nếu có, hãy giải quyết nó với tất cả sự chân thành rằng mình sẽ không lặp lại hành động đó. Có lẽ bạn gặp người xấu tính trong cuộc đời này không phải vì trước đây bạn đã từng gây tổn thương cho người khác, nhưng chúng ta sẽ không làm tổn thương ai đó trong tương lai. Nói cách khác, 1 người xấu tính có thể được xem là 1 sự phòng ngừa, 1 ai đó gây ra điều kinh khủng với mình sẽ thúc đẩy mình không bao giờ làm điều đó với người khác. Người xấu tính dạy chúng ta về những gì không nên làm. Điều không may là không phải ai cũng học được những điều tích cực từ những trải nghiệm tiêu cực. Một số người gây đau khổ cho người khác 1 cách thiếu suy nghĩ, như là 1 cách vô thức nhằm làm tổn thương ngừi đã từng làm tổn thương họ. Những người đó không có khả năng kết nối giữa nỗi đau mà họ trải nghiệm và nỗi đau mà họ gây ra cho người vô tội. Người xấu tính như là tấm gương phản chiếu. Tất cả chúng ta đều có những phần bên trong mình mà chúng ta không quan tâm. Vì chúng ta thấy sự không hoàn hảo của mình không lôi cuốn, và bởi vì phần lớn chúng ta thậm chí không thích thừa nhận mình có chúng, chúng ta đè nén chúng. Chúng ta đẩy chúng ra và chỉ chú ý tới những phẩm chất tốt đẹp của mình. Nhưng chúng ta càng đẩy 1 thứ gì đó ra khỏi nhận thức của mình thì chúng sẽ càng xuất hiện. Nhà tâm lý học Harold Bloomfield chỉ ra rằng, những gì chúng ta kháng cự sẽ kéo dài. Nếu chúng ta né tránh nhìn vào bên trong mình, chúng ta sẽ có khuynh hướng nhìn thấy những tính cách mình né tránh đó ở người khác. Nếu bạn là người muốn mở rộng sự tự nhận thức bản thân thì người xấu tính có thể mang lại cho bạn nguồn thông tin có giá trị. Mỗi lần bạn gặp ai đó với những nét tính cách bạn không thích, bạn đã nhận được những manh mối về những phần bên trong bạn mà bạn đã phớt lờ và nó đòi hỏi sự chú ý của bạn. Người xấu tính như những tấm gương phản chiếu những khía cạnh của chúng ta mà chúng ta đang che dấu. Bằng cách thừa nhận sự không hoàn hảo của mình và mang nó trở về nhận thức, chúng ta có khả năng sử dụng chúng 1 cách tích cực trong cuộc sống của mình.
Ðề: Tâm lý học ý chí. Hic,s đúng là em đang sống phi ý chí đây ạ. Em thấy đúng là mình đang nuông chiều bản thân quá rùi. Cảm ơn chủ topic. Để em down về đọc dần và suy nghĩ
Ðề: Tâm lý học ý chí. Vấn đề của những cô gái thông minh. Tham khảo : The Trouble With Bright Girls For women, ability doesn’t always lead to confidence. Here’s why. Published on January 27, 2011 by Heidi Grant Halvorson, Ph.D. in The Science of Success Đối với phụ nữ, năng lực không phải luôn luôn dẫn đến sự tự tin. Đây là lý do tại sao. Theo kinh nghiệm của tôi, những phụ nữ thông minh và tài năng hiếm khi nhận ra một trong những chướng ngại vật khó khăn nhất họ sẽ phải vượt qua để thành công nằm trong chính họ. Phụ nữ đánh giá về những khả năng của họ một cách khắc nghiệt hơn, và về cơ bản là khác biệt so với đàn ông. Hiểu lý do tại sao chúng ta làm điều này là bước đầu tiên để sửa 1 sai lầm khủng khiếp. Và để làm điều này, chúng ta cần quay lại quá khứ. Nhà tâm lý Carol Dweck đã tiến hành một loạt nghiên cứu trong những năm 1980 , quan sát cách thức những bé trai và bé gái thông minh ở lớp 5 xử lý những tài liệu mới và khó hiểu như thế nào. Bà phát hiện thấy những bé gái thông minh, khi được đưa cho một số thứ ( phức tạp hoặc lạ lẫm ) để học, đã nhanh chóng từ bỏ - và những bé gái càng có chỉ số IQ cao thì chúng càng dễ từ bỏ. Trong thực tế, những bé gái điểm A tỏ ra có những phản ứng bất lực nhất. Ngược lại, những cậu bé thông minh xem những tài liệu khó như một thách thức. Chúng có thể cố gắng gấp đôi, nỗ lực hơn nữa thay vì từ bỏ. Tại sao điều này xảy ra ? Điều gì làm cho những bé gái thông minh ít tự tin hơn , trong khi chúng nên là những đứa trẻ tự tin nhất trong lớp ? Ở lớp 5, những bé gái thường học tốt hơn các bé trai ở mọi môn học, bao gồm cả toán và khoa học. Do đó không có sự khác biệt giữa các bé trai và bé gái về năng lực, cũng như lịch sử thành công . Chỉ có khác biệt duy nhất là cách thức bé trai và bé gái diễn giải về sự khó khăn - sự khó khăn có ý nghĩa gì đối với chúng khi tài liệu có vẻ khó học. Những bé gái thông minh đã nhanh chóng nghi ngờ về năng lực, khả năng của mình, đánh mất sự tự tin và trở thành những người học kém hiệu quả hơn như là một hệ quả. Các nhà nghiên cứu đã khám phá ra lý do của sự khác biệt về cách thức diễn giải khác nhau về sự khó khăn, và nó đơn giản là thế này : khá thường xuyên, những bé gái thông minh tin rằng những năng lực của chúng là bẩm sinh và không thể thay đổi , trong khi đó, các bé trai thông minh tin rằng chúng có thể phát triển năng lực thông qua sự nỗ lực và luyện tập. Làm thế nào mà các bé trai và bé gái phát triển những quan điểm khác biệt như vậy ? Nhiều khả năng, nó có liên quan đến những kiểu phản hồi mà chúng ta nhận được từ bố mẹ và các giáo viên khi còn bé. Con gái, thường phát triển sự tự kiểm soát bản thân ( self-control) sớm hơn và có khả năng làm theo những chỉ dẫn tốt hơn, và thường được khen về " tính tốt " của chúng . Khi chúng ta học tốt ở trường, chúng ta được khen là " rất thông minh " hoặc " thật là một học sinh giỏi ". Kiểu khen ngợi này ám chỉ rằng những tính như thông minh, lanh lợi, tốt, giỏi là những phẩm chất mà bạn hoặc là có, hoặc là không có. Ngược lại, những bé trai thì thật khó chịu. Cố gắng làm cho các bé trai ngồi yên và tập trung chú ý là một thách thức thật sự đối với bất kỳ bậc phụ huynh hoặc giáo viên nào. Một kết quả là, các bé trai nhận được rất nhiều phản hồi nhấn mạnh về sự nỗ lực ( ví dụ, " Nếu em chỉ cần chú ý thì em có thể học được điều này, " " Nếu em chỉ cần cố gắng thêm một chút thì em có thể làm đúng.") . Kết quả là : khi học điều gì mới lạ thực sự khó, các bé gái xem nó như là dấu hiệu rằng chúng không " giỏi " và " thông minh " , và các bé trai xem đó như một dấu hiệu để chú ý và cố gắng hơn nữa. Chúng ta tiếp tục mang theo những niềm tin này bên mình , thường là trong vô thức, trong suốt cuộc sống của chúng ta. Và bởi vì những bé gái thông minh đặc biệt có thể xem những năng lực của mình là bẩm sinh và không thể thay đổi, nên khi lớn lên trở thành những phụ nữ quá hà khắc với bản thân - những phụ nữ sẽ kết luận quá sớm rằng họ không có những gì cần thiết để thành công trong một lĩnh vực cụ thể, và từ bỏ quá sớm. Bạn có thường phát hiện thấy mình tránh né những thách thức và chỉ làm những gì an toàn, bám lấy những mục tiêu mà bạn biết là dễ dàng để đạt được đối với bạn ? Có những lĩnh vực gì mà bạn quyết định từ lâu rằng mình không bao giờ có thể giỏi trong lĩnh vực đó ? Những kỹ năng mà bạn tin là mình sẽ không bao giờ sở hữu được ? Nếu danh sách này dài thì bạn có lẽ là một trong những cô gái thông minh. Cho dù năng lực đó là trí thông minh, sự sáng tạo , tự kiểm soát bản thân, sức hấp dẫn lôi cuốn, các nghiên cứu cho thấy chúng có thể được rèn luyện. Để tinh thông bất kỳ kỹ năng nào, sự nỗ lực, trải nghiệm và sự kiên trì của bạn có ý nghĩa rất lớn. Vì vậy, nếu bạn đã từng là một cô gái thông minh, đã đến lúc loại bỏ niềm tin sai lầm về năng lực này và bạn luôn luôn có thể tiến bộ và lấy lại sự tự tin để giải quyết bất kỳ thách thức mà bạn đánh mất rất lâu trước đây .
Ðề: Tâm lý học ý chí. Tại sao Descartes yêu người phụ nữ mắt lác ? Sự quyến rũ của cái không hoàn hảo. Tham khảo : Why Did Descartes Love Cross-Eyed Women? The Lure of Imperfection Imperfection, not perfection, is the contemporary trend Published on November 29, 2011 by Aaron Ben-Zeév, Ph.D. in In the Name of Love Tại sao nhà triết học người Pháp Descartes yêu một cô gái có đôi mắt lác ? Có nhiều lý do giải thích cho điều này và một lý do lớn nhất có thể là sự quyến rũ của cái không hoàn hảo - trong hoàn cảnh có sự hiện diện của sự hoàn hảo ở một mức độ nhất định. Một người có thể giải thích cho sự yêu thích của Descartes bằng cách lập luận rằng mỗi người chúng ta đều có những khuyết điểm nhất định; do đó, không thể tránh khỏi việc chúng ta sẽ yêu ai đó với một số khiếm khuyết. Tuy nhiên, đây không thể là toàn bộ sự giải thích , vì sau này Descartes có xu hướng yêu những người phụ nữ mắt lác. Theo ý nghĩa này, ông ấy nhìn nhận đôi mắt lác theo cách tích cực, mặc cho sự thật là ông ấy biết nó là một khiếm khuyết. Ông ấy yêu cô gái , bao gồm những đặc điểm khác, nhưng đôi mắt lác của cô ấy là độc đáo nhất. Đặc điểm này của cô gái phân biệt cô với phần lớn những cô gái khác. Như thể trong tiềm thức, ông ấy nghĩ rằng mọi phụ nữ chia sẻ đặc điểm này sẽ có những đặc điểm tích cực khác của cô gái người yêu đầu tiên của ông và do đó sẽ tạo nên một tình yêu sâu sắc tương tự. Thái độ này làm ông nhìn nhận những phụ nữ đó là xinh đẹp. Một đặc điểm đặc biệt thu hút sự chú ý của chúng ta và bởi vì tầm quan trọng đáng kể mà chúng ta trao cho nó, đôi lúc chúng ta xem nó trở thành yếu tố quan trọng trong đánh giá tổng thể của chúng ta về người khác. Tuy nhiên, thực tế thì cô gái mà ông ấy yêu có đặc điểm đặc biệt là đôi mắt lác không có nghĩa rằng những đặc điểm khác của cô sẽ được chia sẻ bởi những phụ nữ khác có cùng đặc điểm mắt lác. Tuy nhiên, trong thực tế , sự nhầm lẫn này tạo ra một cảm giác tình yêu khi ông bắt gặp nó ở những phụ nữ khác. Trên thực tế, tất cả chúng ta có xu hướng bị thu hút bởi một người có ngoại hình, giọng nói hoặc thậm chí một mùi hương giống với người chúng ta đã từng yêu sâu đậm. Đó là một kiểu phản xạ có điều kiện , làm chúng ta có khả năng yêu người này. Cũng cần nhấn mạnh rằng, chúng ta thực sự nhìn nhận người này có nhiều đặc điểm tích cực và không chỉ đơn thuần liên đới với những đặc điểm như vậy. Một cơ chế hơi tương tự được thể hiện trong " hiệu ứng quyến rũ " ( attractiveness halo) , một người xinh đẹp thì được giả định là cũng có những tính cách tích cực khác. Trong trường hợp này, chúng ta có thể nói rằng Descartes có " hiệu ứng mắt lác " : tất cả phụ nữ mà có đặc điểm này thì cũng có liên đới với cô gái mà ông đã từng yêu, và do đó đã kích hoạt lên một thái độ yêu thương , bao hàm vệc nhìn nhận người phụ nữ đó là quyến rũ. Một hiện tượng tương tự với trải nghiệm này của Descartes là một số người đàn ông bị quyến rũ bởi những phụ nữ đeo kính. Một lần nữa ở đây, sự quyến rũ là một điều gì đó được thể hiện bởi một khiếm khuyết trong tầm nhìn của người phụ nữ, nhưng khi kết hợp với những thuộc tính khác của cô thì nó tạo nên một tổng thể rất tích cực. Những người đeo kính thường được xem là có học thức và thậm chí là thông minh. Có nhiều lý do khác nhau giải thích tại sao đàn ông bị thu hút bởi phụ nữ đeo kính. Một lý do đó là đàn ông từng có một mong muốn được quan hệ tình dục với cô giáo của họ ( người, theo lý thuyết này, được giả định là đeo kính ). Không kể đến nguyên nhân cụ thể trong mỗi trường hợp cụ thể, tình huống này tương tự theo ý nghĩa rằng một đặc điểm có thể được xem như là một khiếm khuyết , được đánh giá tích cực dưới ánh sáng của quá khứ có liên quan đến đặc điểm này. Dù sự hoàn hảo và sự cân đối là cơ sở cho nhận thức về cái đẹp và sự quyến rũ của chúng ta, thì đôi lúc sự hoàn hảo có thể bị xem là nhàm chán, vì nó quá hoàn hảo. Có rất nhiều tấm hình của những nữ diễn viên ăn mặc luộm thuộm là ví dụ của xu hướng đương thời chống lại sự quá hoàn hảo. Con người sợ ở với những người hoàn hảo. Tác giả Jeff Riva nói :" Tôi yêu những nhân vật không hoàn hảo; cả khi đọc lẫn khi viết sách. Phần lớn những nhân vật tôi tạo ra đều có một vài điểm không hoàn hảo trong họ. Sự không hoàn hảo thực sự là sự hoàn hảo mới. Sự không hoàn hảo làm cho một nhân vật thật hơn." Riva lập luận thêm rằng " mặc dù chúng ta tìm kiếm người hoàn hảo thì họ đem đến cho chúng ta một cảm giác bất an tạm thời. Chúng ta cảm thấy nhỏ bé khi đứng trước họ. Chúng ta thậm chí có thể phẫn nộ với sự hoàn hảo của họ. Nhưng chúng ta lại dính lấy những người không hoàn hảo. Sự hiện diện của họ làm chúng ta được vui chơi trong sự không hoàn hảo của chính mình. Những khiếm khuyết hoặc sự không hoàn hảo bổ sung chiều sâu và tính người cho những nhân vật trong truyện. Chúng ta có thể nói rằng sự không hoàn hảo thật sự là xu hướng mới của sự hoàn hảo, nhưng khi sự không hoàn hảo gia tăng thì sự quyến rũ của nó giảm xuống." Những tuyên bố trên không có nghĩa là chúng ta không bị thu hút bởi cái đẹp và sự cân đối. Chắc chắn chúng ta có. Nó chỉ đơn giản là khi có ai đó đẹp thì sự hiện diện của một người không hoàn hảo vừa phải , ví dụ như đôi mắt lác hoặc mắt đeo kính, có thể trong một số trường hợp làm gia tăng sự quyến rũ. Chúng ta quả thật bị kích thích bởi bất cứ điều gì chưa hoàn thành, chưa giải thích được, hoặc không chắc chắn, vì chúng ta nhìn nhận nó là không bình thường và do đó nó điêu cầu sự chú ý và suy nghĩ của chúng ta. Khi tình huống trở nên ổn định và bình thường thì hệ thống tinh thần không còn lý do để cảnh giác và đầu tư thêm các nguồn lực. Điều này luôn đúng trong tình yêu. Những trạng thái mơ hồ và không hoàn hảo, hơn là những trạng thái hoàn hảo và đã kết thúc, hoàn thành, có bản chất của sự chưa hoàn thành và do đó mang lại một sự quyến rũ nhất định. Giải quyết sự mơ hồ thường làm loại bỏ ảo tưởng tích cực , dẫn đến việc ít thỏa mãn hơn với tình huống. Theo ý nghĩa này, việc giải quyết sự không chắc chắn tạo ra một kết quả tiêu cực Tóm lại, chúng ta không rõ nguyên nhân nào trong số những nguyên nhân trên có thể giải thích cho tình yêu của Descartes với những phụ nữ mắt lác. Nó có thể là một số hoặc tất cả những nguyên nhân đó. Nhưng những nguyên nhân này chỉ ra rằng hành vi của ông ấy không phải là kỳ quặc.
Ðề: Tâm lý học ý chí. Tại sao sự tử tế không dẫn đến tình yêu Tham khảo Why Nice Guys and Gals Finish Last in Love Why being nice doesn't lead to love. Published on November 1, 2012 by Jeremy Nicholson, M.S.W., Ph.D. in The Attraction Doctor Những anh chàng và cô nàng tử tế làm tất cả mọi điều cho người khác. Nhưng đối tác vẫn bỏ rơi họ, không chú ý tới họ, đối xử tệ với họ và nhìn chung, không yêu lại họ. Những anh chàng và những cô gái tử tế hoàn toàn bối rối trước những kết quả đó. Họ không thể hiểu được, ít nhất về mặt lý thuyết, làm mọi điều đều đúng nhưng tình huống lại trở nên quá bất công. Họ không thể hiểu được lý do tại sao những hành động tốt của họ không dẫn đến tình yêu và sự tôn trọng. Tất cả chúng ta được 'bảo' rằng, mang hoa tặng ai đó hoặc nấu cơm tối cho họ và họ sẽ yêu bạn mãi mãi...Không hoàn toàn! Bây giờ tôi sẽ chia sẻ với bạn 1 bí mật nhỏ. Tôi đã từng là 1 anh chàng tử tế. Tôi làm tất cả những thứ mà xã hội và những bộ phim lãng mạn yêu cầu, nhưng không hiệu quả. Tôi cho người yêu tất cả và không nhận được sự biết ơn. Tôi làm những điều mà người bạn trai và người chồng 'tốt' làm. Tôi đã học được rằng những hành động tử tế như vậy không có hiệu quả. Nhưng cuối cùng tôi đã tìm thấy câu trả lời! Bước đầu tiên để nhìn thấy vấn đề rõ ràng là tạm thời đặt những sự thất vọng và cay đắng của bạn sang 1 bên. Nếu bạn đang đọc bài này, có lẽ bạn đang có 1 câu chuyện của bản thân để kể. Bạn có thể đã từng bị đối xử tệ. Bạn có thể đã từng chọn ai đó rõ ràng là thua kém bạn. Nhưng tại sao 'anh chàng của bạn' lại quan hệ với người phụ nữ lăng nhăng đó? Tại sao 'cô nàng của bạn' lại đá bạn vì anh chàng thất nghiệp kia? Có 1 lý do. Đối tác của bạn không ngu ngốc. Có những nguyên tắc đơn giản ở đây. Những nguyên tắc đó làm cho 'những người thua kém' trông đáng giá và bạn thì không đáng giá nhiều. 1) Những người tử tế không làm cho đối tác của họ đầu tư vào mối quan hệ Khi chúng ta làm những điều tử tế cho người khác, chúng ta đang đầu tư vào họ và mối quan hệ. Những sự đầu tư về thời gian, công sức và tiền bạc có xu hướng tăng lên theo thời gian. Những sự đầu tư đó cũng làm chúng ta cảm thấy mối quan hệ hoặc đối tác của chúng ta là quý giá, do đó chúng ta yêu họ và chúng ta cam kết với mối quan hệ. Đây là nguyên tắc 'chi phí chìm'. Làm điều tốt cho người khác và đối xử tốt với họ, khiến chúng ta đánh giá cao và yêu họ. Tuy nhiên, điều ngược lại thì không đúng. Người nhận được đặc ân không phải lúc nào cũng cảm thấy yêu người cho. Trong thực tế, họ có thể cảm thấy bị thao túng, gánh nặng hoặc nhìn chung là không biết ơn. Tình yêu không thể mua hoặc kiếm được. Bất kỳ ai đang giúp đỡ thì sẽ bắt đầu yêu. Nhưng bất kỳ ai đang nhận được những đặc ân có thể sẽ không yêu. Người đầu tư cảm thấy yêu thương. Người nhận được sự đầu tư có thể không cảm thấy gì cả. Những người tử tế chờ đợi đối tác, có những hành động tốt, mua quà, trả tiền bữa ăn...Kết quả là, họ có rất nhiều tình yêu (những chi phí chìm) cho đối tác hoặc mối quan hệ. Nhưng đối tác của họ thì không đầu tư. Họ không cho lại điều gì. Vì vậy, họ không hoàn toàn yêu hoặc cam kết. Ngược lại với những người tử tế là những anh chàng hoặc cô nàng 'hư' hay đòi hỏi. Họ luôn luôn đưa ra yêu cầu đối với đối tác. Họ đòi hỏi được nuông chiều, được chờ đợi và được dỗ dành. Họ làm cho đối tác của họ ĐẦU TƯ. Vì vậy, đối tác của họ có cả tấn chi phí chìm. Và đối tác yêu họ và cam kết với họ. @ Đừng 'tử tế' và làm tất cả. Hãy làm đối tác đầu tư vào bạn và mối quan hệ. Khi họ LÀM VÌ BẠN, đó là khi họ bắt đầu yêu. Nếu họ từ chối đầu tư vào mối quan hệ thì họ có thể không bao giờ yêu lại bạn. Làm họ yêu bạn bằng cách nhận (không phải cho) 2) Những người tử tế thưởng cho hành vi xấu Con người học hỏi từ những hậu quả của hành vi của họ. Khi họ thực hiện 1 hành động và được thưởng, họ có xu hướng làm điều tương tự một lần nữa. Ngược lại, khi họ thực hiện 1 hành động và bị trừng phạt, họ có xu hướng tránh lặp lại hành vi đó trong tương lai. Khá đơn giản... Những người tử tế có xu hướng đối xử với đối tác rất tốt. Rất thường xuyên. Ngay cả khi họ không xứng đáng với nó. Bất kể đối tác đối xử với họ như thế nào, người tử tế sẽ tiếp tục đối xử tốt với họ. Người tử tế thường 'nghĩ' rằng cư xử tốt như vậy thì một ngày nào đó sẽ được nhận ra. Nó sẽ làm đối tác từ bỏ hành vi xấu của họ. Nhưng họ không nhận ra, những gì họ đang DẠY cho đối tác bằng cách đối xử tốt với họ trong mọi hoàn cảnh. Về bản chất, bằng cách liên tục tỏ ra tử tế, họ đang thưởng cho đối tác vì những hành vi xấu của họ. Nếu bạn nấu cơm tối cho anh ta vào cái ngày anh ta không tôn trọng bạn, bạn đã thưởng và khuyến khích hành vi đó tiếp tục. Nếu bạn đưa cô ấy đi chơi vào những đêm cô ấy gắt gỏng, bạn đã đảm bảo rằng cô ấy sẽ lặp lại điều đó. Những người không-quá-tử tế có những ranh giới (boundary) tốt hơn. Họ chỉ thưởng đối tác khi đối tác kiếm được những phần thưởng đó. Họ cũng phớt lờ đối tác khi họ không tôn trọng. Điều này dạy cho đối tác những gì họ sẽ và sẽ không chịu đựng. Kết quả là, bằng cách tỏ ra tử tế liên tục, họ thực sự khuyến khích người khác đối xử tệ với mình. Họ thưởng cho những người đối xử tệ với họ và làm cho hành vi đó có nhiều khả năng xảy ra trong tương lai. Nếu họ thỉnh thoảng giữ lại phần thưởng, họ sẽ nhận được sự đối xử tốt hơn. Họ cũng sẽ được người khác tôn trọng hơn. 3) Những người tử tế quá sẵn sàng Nhìn chung, chúng ta tin rằng bất kỳ điều gì khan hiếm hoặc đòi hỏi nỗ lực để đạt được, thì quý giá. Bất kỳ điều gì dễ dàng đạt được, hoặc phổ biến, thì có lẽ rẻ tiền, ít giá trị. Dù điều này không phải lúc nào cũng đúng, nhưng nó đủ đúng để trở thành giả định phổ biến, trong vô thức. Nó cũng được áp dụng với mọi thứ...ngay cả con người. Không may cho người tử tế, họ là bất kỳ điều gì, trừ sự khan hiếm. Họ hăm hở làm hài lòng. Họ lúc nào cũng sẵn sàng buông rơi cuộc sống của họ và vội vàng đi gặp đối tác. Họ hy vọng là hành động này sẽ dẫn đến sự biết ơn và tôn trọng. Bằng cách làm cho bản thân sẵn sàng và loại bỏ những sự bất tiện, họ hy vọng sẽ làm tình yêu dễ dàng hơn. Nhưng tất cả những hành động sẵn sàng thực sự làm họ có vẻ ít giá trị. Ngược lại, những anh chàng và cô nàng 'hư' lúc nào cũng 'khó để có có được'. Họ không bao giờ sẵn sàng, luôn luôn hủy kế hoạch và làm đối tác thực hiện mọi việc theo cách của họ. Họ không làm gì cả ngoại trừ việc phớt lờ và làm phiền người yêu của họ. Nhưng người yêu của họ thấy họ quyến rũ, lôi cuốn, gây thèm muốn. Những anh chàng và cô nàng 'hư' tỏ ra khan hiếm. Sự khan hiếm làm họ có vẻ quý giá. Sự không sẵn sàng và phá vỡ kế hoạch của họ làm họ trông tự tin và quan trọng. Làm cho người khác phải nỗ lực để có được thời gian của họ mang lại ảo tưởng thời gian của họ là đáng giá. Phải buông bỏ mọi thứ để ăn cắp một khoảnh khắc với họ làm người khác đánh giá cao thời gian mà họ 'cho'. Đó là ảo tưởng của sự khan hiếm. Theo đó, người tử tế sẽ có lợi từ việc trở nên khan hiếm. Họ sẽ trông có giá trị hơn nếu họ không bỏ mọi thứ để đến ngay với người yêu. Nếu họ trở nên 'khó đạt được' một chút, người yêu của họ sẽ thấy họ lôi cuốn hơn. Kết luận Một lần nữa, ex của bạn không điên. Nhưng, những chức năng tâm lý của họ làm họ xử lý mọi việc khác với những gì 1 người tử tế có thể hy vọng. Liệu điều đó có nghĩa rằng bạn phải trở thành trai/gái hư để tìm thấy tình yêu? Không. Nó có nghĩa là bạn cần lựa chọn đối với thời gian, sự chú ý và sự tử tế của bạn. Đơn giản là hãy làm cho đối tác đầu tư lại cho bạn khi bạn đầu tư vào họ. Thêm nữa, chỉ thưởng cho họ khi họ xứng đáng với nó và phớt lờ họ khi họ không xứng đáng. Điều này sẽ cho họ thấy bạn là 1 người đáng giá và quyến rũ với sự tự trọng. Nguồn: psychologytoday