Có nhiều nguyên nhân gây sảy thai. Nhưng dưới đây chỉ xin nói đến những người bị sảy thai tự nhiên liên tục từ ba lần trở lên và được gọi là sảy thai thường xuyên. Các đối tượng này thường sảy thai trong cùng một tháng mang thai thì việc bồi bổ những món ăn hướng dẫn sau đây đúng cách sẽ có tác dụng giữ thai. Tuy nhiên, tùy hoàn cảnh hay khẩu vị từng người có thể lựa chọn sử dụng sao cho thích hợp. Món cháo nếp, đẳng sâm, đỗ trọng: Nguyên liệu: Đẳng sâm 5-10g, đỗ trọng 6-12g, gạo nếp 100g. Cách chế biến: Cho đẳng sâm và đỗ trọng vào túi vải buộc miệng, rồi cho vào nồi cùng gạo nếp nấu nhừ thành cháo là ăn được. Cách dùng: Mỗi ngày ăn 2-3 lần, ăn trong thời kỳ mang thai ở 3 tháng đầu. Canh hạt sen, trần bì, tô cảnh: Nguyên liệu: Hạt sen 60g, tô cảnh 10g, trần bì 6g. Cách chế biến: Hạt sen bóc vỏ bỏ tâm cho vào nồi, đổ nước đun chín đến 4-5 phần thì cho tô cảnh, trần bì vào, đun tiếp đến khi hạt sen chín kỹ là ăn được. Cách dùng: Ăn ngày 1-2 lần, trong suốt thời kỳ mang thai 3 tháng đầu. Canh trứng gà ngải cứu: Nguyên liệu: Lá ngải cứu 50g, trứng gà 2 quả, đường trắng một ít. Cách chế biến: Lá ngải cho nước vừa đủ ăn nấu canh, sau đập 2 quả trứng gà bỏ vào đun chín, cho tiếp đường trắng vào khuấy tan. Cách dùng: Hằng ngày uống trước khi đi ngủ, trong suốt thời kỳ mang thai 3 tháng đầu. Dùng nước áo ngô: Nguyên liệu: Áo ngô (vỏ bắp) lượng vừa đủ. Cách chế biến và sử dụng: Hằng ngày dùng áo ngô sắc lấy nước uống liên tục cho tới cận số ngày sảy thai lần trước thì tăng lượng áo ngô lên gấp đôi và như vậy uống tới khi đẻ mới thôi. Canh gà mái, cá mực: Nguyên liệu: Gà mái 1 con 500-700g làm thịt rửa sạch, cá mực 1 con, gạo nếp 90-150g. Cách chế biến: Làm thịt gà rửa sạch, cùng cá mực cho vào hầm nhừ, lấy nước canh đặc cho gạo nếp từ 90-150g nấu nhừ thành cháo, nêm đủ gia vị mắm muối vừa miệng. Cách dùng: Sau khi mang thai ăn bất cứ lúc nào, ăn thường xuyên, lượng không hạn chế cho đến khi quá thời gian thường sảy thai thì ngừng ăn. Có thể ăn thịt gà và mực khô cũng được. Theo BS. Hoàng Xuân Đại - Sức Khoẻ & Đời Sống
8 sự thật về khả năng sinh sản Tập luyện đều đặn, ăn uống đủ chất, chỉ số huyết áp, cholesterol lý tưởng... không có nghĩa bạn là "nhà vô địch" trong chuyện sinh sản. 10% các cặp vợ chồng hoàn toàn khỏe mạnh và đang trong độ tuổi sinh nở vẫn gặp các vấn đề về "duy trì nòi giống". Nguyên nhân thì nhiều nhưng rắc rối lớn nhất thường liên quan đến chuyện tuổi tác. Với phụ nữ khỏe mạnh, khả năng có con đạt đỉnh điểm vào độ tuổi 25, bắt đầu giảm lúc 27 và sa sút khi 37. Nếu trên 35 tuổi rồi mới tính chuyện có em bé thì bạn cần một nỗ lực rất lớn mới có thể thành công. Nếu đã nỗ lực 6 tháng rồi mà không có tín hiệu thì đừng có "ráng chờ thêm tí nữa" mà nên đến gặp bác sĩ sản khoa ngay. Còn với phụ nữ 37-40 thì thời gian chờ đợi chỉ nên kéo dài 3 tháng. Quá béo hay quá gầy đều bất ổn 12% trường hợp hiếm muộn có liên quan đến cân nặng. Cả người suy dinh dưỡng và người béo phì đều khó rụng trứng. Chị em cần ít nhất là 22% chất béo trong cơ thể để có thể rụng trứng nhưng thừa chất béo thì lại làm thay đổi lượng hoóc môn và ngăn cản quá trình này. Trong thực tế, hơn 70% phụ nữ hiếm muộn đã thụ thai khi đạt được số cân hợp lý. Cân nặng còn gây nhiều phiền toái cho các bà bầu: thừa cân dễ bị huyết áp cao, tiểu đường, tim mạch và sinh con nhẹ cân. Nhưng nếu cân nặng chuẩn và đang muốn có bầu thì hãy gác ý định ăn kiêng hay tập luyện khốn khổ để có thân hình "người dây" sang một bên. Tư thế "trên giường" không mấy quan trọng Chẳng có nghiên cứu nào khẳng định tư thế này hiệu quả hơn tư thế kia trong việc "gieo mầm". Trên thực tế, dù ở tư thế nào thì tinh trùng cũng có thể gặp trứng sau khi được xuất ra. Tất nhiên, "súng" vào sâu cũng dễ nhắm trúng địch hơn, song "thâm cung" mỗi chị em một khác nhau nên cũng khó đưa ra một tư thế chuẩn. Dù sao cũng rất hữu ích nếu bạn nằm yên một lúc sau khi làm chuyện ấy để lưu giữ "tình yêu" của chồng (không cần phải trồng cây chuối đâu). Tuổi càng cao, khả năng "gieo giống" càng giảm Một nghiên cứu trên 8.500 cặp vợ chồng cho thấy, chỉ 8% đàn ông dưới 25 tuổi là không thể "gieo giống" sau một năm nỗ lực. Con số đó tăng lên đến 15% sau tuổi 35. Ngày rụng trứng không phải là ngày dễ thụ thai nhất Trước đây, người ta cho rằng phụ nữ có khả năng thụ thai cao nhất trong ngày rụng trứng và cơ hội có con cũng nhiều hơn nếu vợ chồng "gặp nhau" liên tục khoảng 5, 6 ngày trước đó. Tuy nhiên, nghiên cứu mới đây lại cho thấy khả năng lớn hơn nếu quan hệ vào 2 ngày trước đó. Quần sịp không có tội Các ông bố tương lai vẫn được khuyến khích tránh xa quần sịp vì sợ chúng sẽ làm tăng nhiệt độ của "súng" và tiêu hủy "đạn". Nhưng thật ra chỉ những loại quần bó chặt đến nghẹt thở mới có thể dẫn đến tình trạng này. Còn loại quần sịp vừa vặn, có độ co giãn tốt hoàn toàn chẳng can hệ gì đến khả năng có con của cánh mày râu. Biện pháp tránh thai có ảnh hưởng nhất định Trên thực tế, ảnh hưởng của các loại thuốc tránh thai có thể kéo dài hơn chỉ định của nhà sản xuất tức là sau khi dừng uống, thuốc vẫn có khả năng ngăn cản rụng trứng nên bạn chưa chắc đã có thai ngay lập tức. Chế độ ăn không có tác động nhiều Chẳng có chế độ ăn thần kỳ nào làm tăng khả năng tinh trùng gặp trứng. Tốt nhất là bạn hãy dùng thức ăn nhiều dinh dưỡng và giảm thiểu những món chế biến sẵn. Thức ăn chứa nhiều axit folic cũng khá quan trọng vì nó giúp cải thiện số lượng tinh trùng. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng kẽm có thể cải thiện số lượng tinh trùng nhưng nó không nằm riêng biệt trong một loại thức ăn nào cả. Giống như mọi thứ trong cuộc sống, khả năng sinh sản đòi hỏi một sự cân bằng trong chế độ ăn hằng ngày. Theo Gia Đình Trẻ
Mẹo giúp dễ thụ thai lần hai Nếu đang muốn có một em bé nữa, bạn không nên dùng nhiều vitamin C vì nó có thể làm khô vùng cổ tử cung, hạn chế quá trình xâm nhập của tinh trùng. Không ít người nghĩ rằng nếu đã mang thai thuận lợi lần đầu, những lần sau sẽ không gặp khó khăn gì. Thực tế không phải vậy. Khoảng 20% phụ nữ gặp trục trặc ở lần mang thai thứ hai, nhất là với những người lập gia đình muộn. Dưới đây là những điều mà người phụ nữ cần quan tâm để tăng cơ hội thụ thai: Bổ sung vitamin ngay từ bây giờ: Axit Folic và chất sắt giúp tăng khả năng sinh sản. Các loại vitamin tổng hợp có thể không cung cấp đủ các chất này. Viên vitamin đặc biệt dành cho phụ nữ trước khi sinh rất tốt cho bạn. Hãy uống trong bữa ăn để tăng khả năng hấp thụ của thuốc. Theo dõi sát chu kỳ kinh nguyệt: Trứng chỉ có khả năng thụ tinh trong vòng 12 tiếng mỗi tháng. Que thử sẽ cho bạn biết chính xác nhất thời điểm trứng rụng và thời gian tốt nhất để gần gũi. Tạo môi trường thích hợp: Vitamin C và các chất kháng histamine có thể làm khô vùng cổ tử cung, hạn chế quá trình xâm nhập của tinh trùng vào trứng. Nên tránh sử dụng những chất này khi muốn có em bé. Chất bôi trơn giúp người trong cuộc dễ thăng hoa nhưng nếu lạm dụng quá nhiều sẽ làm cản trở lối vào của tinh trùng. Kiểm tra định kỳ: Nếu bạn từ 35 tuổi trở lên, muốn có thai trong 6 tháng nay nhưng chưa được, nên đến khám ở sản phụ khoa. Bác sĩ sẽ tiến hành các xét nghiệm để tìm nguyên nhân khó thụ thai. Thoải mái, thư giãn: Hoóc môn gây căng thẳng cortisol có thể ảnh hưởng không tốt đến quá trình rụng trứng, đồng thời hạn chế khả năng thụ thai. Trong thời gian này, bạn sẽ cố gắng giữ gìn tâm trạng vui vẻ, thoải mái, làm những việc yêu thích. Đừng quên tìm người trò chuyện để giải tỏa ngay những căng thẳng vừa phát sinh. Không nên để chúng tích tụ nhiều trong lòng qua thời gian dài. Những điều người chồng nên làm Bỏ thuốc lá: Chất cadmium trong thuốc lá đã được chứng minh là làm giảm lượng tinh trùng và khả năng bơi lội của chúng. Việc hút thuốc lá thụ động cũng ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thụ thai. Hạn chế chất cồn: Uống hơn một hoặc hai ly rượu mỗi ngày sẽ gây tác hại như hút thuốc. Mặc quần rộng rãi: Quần quá chật hoặc ở trong môi trương nhiệt độ cao có thể làm giảm số lượng tinh trùng. Vì vậy, bạn nên nhắc anh ấy mặc trang phục rộng rãi, tránh tắm nước quá nóng và xông hơi trong thời gian dài. Làm tinh dịch đồ: Việc kiểm tra này cực kỳ cần thiết, giúp phát hiện sai sót xuất phát từ ai. Từ đó, chúng ta có thể sớm tìm ra biện pháp khắc phục. Theo Tiếp Thị & Gia Đình
Co dung the k nhi, o que toi co bac 65 tuoi lay vo 48 van sinh con, vay ma hoc do 2 truong DH nhe. Co le doi khi ong troi thuong cho ho chang ?
10 bí quyết giữ gìn khả năng thụ thai 10 bí quyết giữ gìn khả năng thụ thai14:46' 04/08/2003 (GMT+7) Thanh niên thời hiện đại có khả năng sinh đẻ không kém so với thế hệ cha ông. Nhưng lối sống bừa bãi và sự kém kiên nhẫn thường khiến các cặp vợ chồng đã có con khó sinh thêm em bé. Họ cần phải làm gì để lại được làm cha làm mẹ thêm một lần nữa? Theo kết quả điều tra tại Pháp, trung bình chỉ có 1/6 số cặp vợ chồng thành công trong việc thụ thai sau 1 năm cố gắng. Không quá 20% phụ nữ may mắn có thai trong một chu kì kinh nguyệt. Sau đây là 10 lời khuyên giúp các cặp vợ chồng duy trì khả năng sinh đẻ và không gặp khó khăn gì khi muốn có thêm em bé. Kiên nhẫn Nếu hai vợ chồng sinh hoạt tình dục thường xuyên trong vòng một năm, không áp dụng biện pháp tránh thai nào trong thời gian này mà vẫn không có thai thì vẫn cần hết sức kiên nhẫn. Quan hệ tình dục thường xuyên Các chuyên gia sản khoa cho rằng, quan hệ tình dục thường xuyên về đêm cho nhiều khả năng thụ thai hơn. Nên nhớ là tinh trùng có khả năng sống 72h kể từ khi bắt đầu “tạm trú” trong cơ quan sinh dục phụ nữ. Chấm dứt chế độ ăn uống hà khắc Những người phụ nữ ăn kiêng có thể giảm cân và cũng giảm cả khả năng sinh con. Hãy bỏ ăn kiêng vài tháng trước khi quyết định có bầu. Ăn uống theo chế độ hợp lí Bỏ bữa và ăn quá nhiều đường không tốt cho cơ thể của bạn và cả cho khả năng thụ thai nữa. Tỉ lệ đường trong máu cao khiến cơ thể tiết ra quá nhiều hormone có tên là adrenalin. Hormone này tác động xấu đến chất progesteron, một loại hormone có vai trò giúp tử cung đón nhận bào thai. Béo quá hoặc gầy quá cũng làm giảm khả năng thụ thai cho dù bạn đã được điều trị hormone kích thích sinh sản. Giữ chồng luôn trong môi trường mát mẻ Nói thế không có nghĩa là bắt chồng bạn chui vào trong tủ lạnh mà là khuyên anh ấy mặc quần rộng, tốt nhất là quần bằng vải coton. Quần quá chật sẽ gây nhiệt độ quá cao ở khu vực bộ phận sinh dục và nhất là hai tinh hoàn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng tinh trùng. Chọn mùa phù hợp Trong một năm có những thời kỳ dễ thụ thai hơn những thời kỳ khác. Đàn ông thường có lượng tinh trùng cao nhất vào đầu mùa xuân và cuối mùa thu. Khả năng di chuyển của chúng cao nhất là vào cuối mùa hè, đầu mùa thu. Vì vậy, đầu mùa đông là thời kỳ thuận lợi nhất cho việc thụ thai. Hãy tận dụng tiết trời xấu mà ve vuốt nhau nhiều hơn dưới tấm chăn ấm. Cẩn thận với thuốc giảm đau Một số loại thuốc giảm đau ảnh hưởng đến các hormone prostaglandine đóng vai trò làm co tử cung. Vì vậy, không nên dùng thuốc giảm đau trong thời kì rụng trứng. Giảm thuốc lá Phụ nữ đều biết hút thuốc trong thời gian mang thai là có hại, nhưng ít ai biết thói quen này làm giảm khả năng thụ thai, cản trở quá trình thụ thai đối với cả nam giới lẫn nữ giới. Theo một công trình nghiên cứu mới đây tại Pháp, phụ nữ hút thuốc có ít hơn phụ nữ không hút thuốc tới 30% khả năng thụ thai. Tỉ lệ này còn cao hơn nếu đức lang quân của họ cũng hút thuốc. Kiêng rượu Những người uống nhiều rượu quá có ít khả năng sinh sản hơn những người khác, và ngay cả khi người phụ nữ mang bầu uống rượu, bào thai của họ cũng bị ảnh hưởng. Uống ít café Uống nhiều café quá cũng làm giảm khả năng thụ thai. Các công trình nghiên cứu ở nhiều nước châu Âu đã khẳng định, caféine là kẻ thù của khả năng sinh đẻ. (Mạnh Hùng- Theo Doctissimo.com)
Mập làm hạn chế khả năng sinh sản Nam giới béo phì dễ có nguy cơ "sở hữu" lượng tinh trùng kém chất lượng. Các nhà khoa học thuộc Đại học Aberdeen (Vương quốc Anh) đã rút ra kết luận này sau khi khảo sát tinh dịch của hơn 2.000 nam gặp khó khăn trong vấn đề sinh sản. Cuộc khảo sát cho thấy những nam giới có cân nặng nhiều nhất đã có tỷ lệ tinh trùng kém chất lượng hơn những người khác. Ở nam giới với chỉ số cơ thể vào khoảng 20-25, lượng tinh trùng có chất lượng nhiều hơn so với những người có thể trọng nặng hơn. Các chuyên gia cho rằng giảm cân có thể giúp tăng cường khả năng sinh sản ở nam giới. Béo phì cũng được xem là tác nhân ảnh hưởng đến cơ hội mang thai của phụ nữ. Nguồn: BBC
Vitamin D với phụ nữ có thai và trẻ sơ sinh Vitamin D có vai trò quan trọng chuyển hóa hấp thu calci, giúp cơ thể phát triển tốt với bộ xương cấu trúc vững chắc, giúp cho hoạt động bình thường của hệ thống thần kinh cơ. Thiếu vitamin D và calci gây nên những bệnh lý điển hình như còi xương, mềm xương ở trẻ em và người lớn, bệnh loãng xương ở người cao tuổi. Đa số các bà mẹ chỉ thấy rõ dấu hiệu điển hình của bệnh còi xương, mềm xương khi trẻ được 1-2 tuổi; xương bị biến dạng: thóp rộng và lâu liền, đầu bị bẹp hoặc méo, chân hoặc tay bị cong biến dạng, với cổ tay, cổ chân, đầu gối to và cong hơn bình thường, trẻ chậm lớn, hay bị đau ốm... Để đến khi thấy rõ các dấu hiệu này mới đưa con đi khám bác sĩ thì đã muộn, có điều trị tích cực thì bệnh vẫn để lại di chứng về biến dạng xương trong cả cuộc đời cũng như nhiều hậu quả không tốt khác về sức khỏe cho trẻ. Những dấu hiệu sớm để phát hiện bệnh còi xương do thiếu vitamin D ở trẻ Thật ra các nhà khoa học đã chứng minh rằng còi xương ở trẻ bắt đầu rất sớm ngay trong thời kỳ thai nghén, mà nguyên nhân chính là do người mẹ bị thiếu vitamin D và calci trong thời kỳ mang thai. Thiếu calci và vitamin D của người mẹ, tiếp tục gây nên rối loạn chuyển hóa calci và bệnh còi xương của thai nhi, cũng như những năm đầu sau khi sinh. Người ta thấy rằng trọng lượng của thai nhi tăng gấp đôi trong 3 tháng cuối của thời kỳ thai nghén, trong đó bộ khung xương với mật độ xương tăng 3 lần. Cơ và tế bào thần kinh của thai nhi cũng phát triển rất nhanh, nếu người mẹ không cung cấp đủ calci và vitamin D cho thai nhi trong 3 tháng cuối của thai kỳ sẽ dẫn đến rối loạn chuyển hóa xương của thai nhi. Rối loạn chuyển hóa xương thường song hành với bệnh suy dinh dưỡng thời kỳ bào thai: trẻ đẻ ra thấp bé nhẹ cân, kém phát triển về thể lực, trí tuệ, giảm miễn dịch... Trong những tháng đầu sau khi sinh, trọng lượng trẻ cũng phát triển rất nhanh, nhu cầu dinh dưỡng của trẻ cũng tăng cao và hoàn toàn phụ thuộc vào sữa mẹ. Nhiều nghiên cứu chứng minh rằng những người mẹ bị thiếu vitamin D trong thời kỳ có thai sẽ có lượng vitamin D sữa mẹ thấp, thậm chí giảm một nửa so với những người mẹ có đủ vitamin D, con của những người mẹ này ngay khi sinh ra đã có dấu hiệu mềm xương, thóp rất rộng, suy dinh dưỡng... Ngay cả ở trẻ được sinh đủ tháng, cân nặng khi sinh ra là bình thường, nồng độ vitamin D trong máu cũng giảm thấp nhất vào ngày thứ 3 thứ 4 sau khi sinh, nồng độ này giảm và cạn kiệt ở những người mẹ không được cung cấp đầy đủ vitamin D khi có thai. Nguyên nhân của sự giảm này là do trẻ bị cắt nguồn cung cấp dinh dưỡng từ mẹ qua nhau thai, sữa mẹ chưa cung cấp đủ số lượng vitamin D trong 1-2 ngày đầu tiên. Với trẻ đẻ non, thiếu tháng, lượng dự trữ calci và vitamin D của thai nhi trong những tháng cuối của thai kỳ càng thấp, nên nguy cơ hạ calci máu và vitamin D càng lớn hơn. Do vậy, hầu hết các nước đều có khuyến nghị bổ sung sớm các vitamin và chất khoáng, trong đó có vitamin D cho nhóm trẻ đẻ non thiếu tháng. Hiệu quả của bổ sung vitamin D cho phụ nữ có thai Trong những thập kỷ trước đây, tại các nước phát triển như Anh và Đức, người ta thấy cứ 4 trẻ sinh ra thì có 1 trẻ bị bệnh còi xương, mềm xương ngay khi sinh. Khuyến nghị bổ sung vitamin D và calci cho người mẹ mang thai bằng uống vitamin D và sử dụng các sản phẩm dinh dưỡng có tăng cường vitamin D đã mang lại hiệu quả rõ rệt, đặc biệt tốt cho phụ nữ thuộc tầng lớp bình dân, điều kiện sống khó khăn và những vùng thiếu ánh sáng mặt trời. Ở Anh, khi so sánh giữa quần thể được uống sữa có bổ sung vitamin D và quần thể uống sữa không được bổ sung vitamin D, người ta thấy mật độ xương của nhóm được bổ sung vitamin D tăng cao hơn 20% so với nhóm không được bổ sung. Ở nhóm không được bổ sung, nồng độ vitamin D trong máu của thai phụ giảm nhanh trong 3 tháng cuối thai kỳ, ngay sau khi sinh có đến 36% số bà mẹ và 32% số trẻ bị cạn kiệt vitamin D. Có 5 trẻ em trong số 50 trẻ sinh ra có dấu hiệu hạ calci máu ngay khi sinh. Nghiên cứu khác cho thấy bổ sung 1.000 UI/ngày (25microgam) trong 3 tháng cuối của thai kỳ cho phụ nữ cũng làm tăng trọng lượng của mẹ và giảm 50% số trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai. Một năm sau khi sinh, con của những bà mẹ được bổ sung vitamin D tăng nhiều hơn 0,4 kg cân nặng và 1,6 cm chiều dài so với nhóm đối chứng. Thực trạng còi xương ở trẻ nhỏ và phụ nữ có thai ở nước ta Tuy chưa có số liệu thống kê một cách đầy đủ, nhưng tại các phòng khám bệnh nhi khoa, một số lượng lớn trẻ đến khám có dấu hiệu còi xương sớm (ngay trong tháng đầu tiên hoặc tháng thứ 2 sau khi sinh, trẻ có dấu hiệu quấy khóc, ngủ không ngon giấc, thóp rộng, tóc rụng xung quanh đầu theo hình vành khăn...) và gặp nhiều ở trẻ được bú sữa mẹ hoàn toàn. Những trẻ này được chẩn đoán là còi xương, nếu được điều trị tích cực bằng vitamin D thì cho những kết quả rất tốt. Bởi vậy các bà mẹ nên chú ý các dấu hiệu sớm này và mang trẻ đến khám bác sĩ. Yếu tố nguy cơ của bệnh thiếu vitamin D, còi xương, mềm xương ở nước ta Một yếu tố phổ biến là thực phẩm sữa giàu calci và vitamin D chưa được sử dụng rộng rãi ở nước ta. Các thực phẩm được tăng cường vitamin D và calci chưa phổ biến đến mọi tầng lớp. Tại các vùng nông thôn, vùng khó khăn... tuy có được tiếp xúc nhiều hơn với ánh sáng mặt trời, giúp cơ thể tổng hợp được một phần vitamin D, nhưng khẩu phần ăn lại nghèo nàn, thiếu calci và vitamin D cho cả mẹ và con, do vậy bệnh vẫn có nguy cơ xuất hiện. Tại các thành phố lớn, ngay cả các tầng lớp có thu nhập khá, bữa ăn có khá hơn vùng nông thôn nhưng bệnh vẫn hay gặp, yếu tố liên quan chính là mẹ và bé không được tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, trẻ luôn được giữ kín trong nhà, mẹ ra đường cũng che kín sợ rám nắng, và kết quả là không tận dụng được nguồn vitamin D tự nhiên do cơ thể tổng hợp. Phòng ngừa và điều trị * Chế độ ăn cho người mẹ khi mang thai: chú ý đến sữa và chế phẩm có nhiều calci và vitamin D, các thực phẩm nguồn hải sản như cá, tôm, cua... Những thực phẩm có tăng cường vitamin D và calci cũng rất tốt. * Bổ sung vitamin D, calci cho người mẹ khi mang thai: ngay khi ăn một khẩu phần khá sung túc, vẫn không cung cấp đủ nhu cầu calci và vitamin D cho người mẹ có thai trong 3 tháng cuối. Theo điều tra của Viện Dinh dưỡng, khẩu phần ăn trung bình hiện nay của người Việt Nam chỉ đạt 50-70 nhu cầu calci và vitamin D, do vậy việc bổ sung thêm chế phẩm giàu calci và vitamin D là cần thiết. Phác đồ đang được nhiều nước áp dụng như sau: - Bổ sung hàng ngày 400 đơn vị vitamin D (10 microgam) trong suốt thời gian cóthai. - Liều cao 1.000 đơn vị vitaminD/ngày (25 microgam) trong suốt 3 tháng cuối của thời kỳ thai nghén, hoặc 100.000 đơn vị (2.500 mg/d) một liều duy nhất vào ngày đầu của 3 tháng cuối mang thai. Phác đồ này được áp dụng cho những vùng tiêu thụ sữa ít, thiếu ánh sáng mặt trời, hoặc ít có điều kiện được chăm sóc y tế. * Bổ sung sớm vitamin D và calci cho trẻ sau khi sinh. - Với trẻ sinh đủ tháng: nhiều nước khuyến nghị bổ sung ít nhất 400 đơn vị/ngày cho trẻ bú mẹ. Với trẻ ăn sữa tăng cường vitamin D và calci cần được cân nhắc hơn. - Trẻ sinh thiếu tháng, thiếu cân: + Hội nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị trẻ non tháng cần được bổ sung thêm tối thiểu 400 đơn vị vitamin D mỗi ngày cùng với ăn sữa công thức có bổ sung vitamin D. + Hội tiêu hóa - nhi khoa châu Âu khuyến nghị cần bổ sung thêm 1.000 đơn vị (25 microgam) vitamin D mỗi ngày cho trẻ thiếu tháng bú sữa mẹ. * Tắm nắng đúng cách, tận dụng ánh sáng mặt trời để giúp cơ thể tự tổng hợp vitamin D: tối thiểu 2 lần trong tuần, mỗi lần 20-30 phút, vào khoảng 7-8 giờ sáng hoặc 4-5 giờ chiều (với ánh nắng dịu) cho trẻ được cởi trần, đội mũ, để tiếp xúc với ánh sáng mặt trời, cũng là biện pháp phối hợp quan trọng để có thêm vitamin D. Sức khỏe & Đời sống
Mẹ ăn nhiều rau, con đỡ bị hen Phụ nữ ăn nhiều rau củ, trái cây, ngũ cốc và cá trong thời kỳ mang thai có thể giúp trẻ sinh ra ngừa được bệnh hen cũng như các chứng bệnh dị ứng khác. Đây là kết luận của các nhà khoa học thuộc Đại học Crete (Hy Lạp) sau khi khảo sát 460 cặp mẹ con từ lúc người mẹ mang thai cho đến khi con của họ lên 6 tuổi, theo Reuters. Kết quả cho thấy trẻ có mẹ ăn nhiều thịt, trứng và các chế phẩm từ sữa nhưng ăn ít rau quả, cá dễ bị mắc bệnh hen và các chứng dị ứng ở da, mũi cao hơn so với trẻ có mẹ ăn nhiều rau, cá. Theo các chuyên gia, chế độ ăn nhiều rau, cá có hàm lượng chất chống ô-xy hóa và a-xít béo cao, giúp giảm nguy cơ dị ứng ở trẻ.
Chế độ ăn của mẹ quyết định giới tính của con! Theo một nghiên cứu được công bố hôm 24/4/2008, những miếng thịt gà béo gậy có thể kích thích ham muốn tình dục, và một bữa sáng thịnh soạn pha thêm đường sẽ làm tăng cơ hội có con trai ở phụ nữ. Như vậy, một chế độ ăn kiêng ít năng lượng, ít calo, khoáng chất và dinh dưỡng có nhiều khả năng sẽ mang lại một bé gái, bài nghiên cứu Proceedings of the Royal Society B: Biological Sciences khẳng định. Fiona Mathews thuộc trường Đại học Exeter ở Anh và các đồng nghiệp của mình muốn tìm hiểu xem liệu chế độ ăn kiêng của phụ nữ có tính quyết định đối với giới tính của đứa trẻ được sinh ra hay không? Vì thế họ đã tiến hành thăm dò 740 phụ nữ làm mẹ lần đầu tiên, những người chưa biết bào thai sắp chào đời của mình là trai hay gái, đưa ra một bản kê khai chi tiết thói quen ăn uống của mình trước và sau khi mang bầu. Những phụ nữ này được chia làm 3 nhóm phụ thuộc vào lượng calo mà họ sử dụng hàng ngày xung quanh thời gian mang thai. 56% phụ nữ ở nhóm tiêu thụ năng lượng cao nhất sẽ sinh con trai, so với 45% ở nhóm tiêu thụ ít năng lượng nhất. Bên cạnh việc phân loại nhờ vào lượng calo, nhóm những phụ nữ sinh nhiều con trai là những người thích ăn nhiều loại thực phẩm giàu dinh dưỡng như kali, canxi, vitamin C, E và B12. Tỷ lệ sinh con mang gen XY cũng nhiều hơn ở những phụ nữ “tiêu thụ ít nhất một bát thực phẩm ăn sáng là ngũ cốc hàng ngày so với những người chỉ ăn ít hơn hoặc bằng một bát thực phẩm ngũ cốc hàng tuần”. Những phát hiện ngạc nhiên này phù hợp tỷ lệ giảm dần đều ở số lượng bé gái được sinh ra trong 4 thập kỷ qua. “Bài nghiên cứu này cũng giải thích lý do tại sao ở các nước phát triển - nơi nhiều phụ nữ trẻ chọn chế độ ăn ít calo, tỷ lệ sinh con trai lại giảm đi”, bà Mathew nói.
'Cẩm nang' cho bà bầu khi vào hè Nếu đi làm công sở, bạn nhớ "thủ" sẵn chai nước, chiếc quạt gió hay đôi dép đi trong nhà... ở chỗ làm việc. Những bộ quần áo hay váy bằng chất mát, dễ thấm mồ hôi cũng giúp các bà bầu chống lại cái nóng ngày hè. Dưới đây là những lời khuyên để chăm sóc bà bầu tốt nhất trong mùa nắng. Vô tư làm duyên Trong những ngày này, bạn đừng ngần ngại khoe hình dáng của mình. Bạn có thể làm nổi bật vẻ rạng rỡ vì đang mang trong mình một thiên thần nhỏ với chiếc bụng tròn xoe bằng những chiếc áo sát nách khỏe khoắn vừa vặn hay các loại áo cotton thoáng mát và những chiếc váy hè gợi cảm. Hãy để mọi người xung quanh luôn thấy bạn mát mẻ, tươi sáng chứ không phải tạo cho họ cảm giác nặng nề, nóng bức. Uống nhiều nước Bà bầu cần nhiều nước suốt những tháng hè nóng bức vì thế bạn phải uống ít nhất 6-8 cốc mỗi ngày. Tất nhiên điều này cũng gây cho bạn đôi chút phiền phức bởi bình thường khi mang thai, bạn đã phải ghé thăm toalet nhiều lần trong ngày rồi. Tuy nhiên, còn tệ hơn nếu bạn rơi vào tình trạng thiếu nước vì nó có thể dẫn đến những hiện tượng xấu như sưng phù, co dạ con sớm và nguy cơ sinh trước kỳ hạn. Để thích uống nước hơn, bạn có thể thêm vào vài lát cam, chanh hay mấy lá bạc hà vào cốc nước. Những loại nước uống không có chất kích thích, các loại trà thảo mộc để lạnh cũng là lựa chọn tốt cho bạn. Bên cạnh đó, bạn có thể thêm vào ít nước lựu hay nước ép quả đào vào một cốc nước khoáng để uống. Thỉnh thoảng nhấm nháp những loại rau và quả giàu nước như dưa bở, dưa hấu, dưa chuột cũng có thể giúp bạn cung cấp đủ nước. Đầu tư cho một cặp kính râm "xịn" Ngay cả khi bạn cảm thấy không quá nắng, vào buổi sáng chẳng hạn, thì một đôi kính râm chất lượng tốt vẫn luôn cần cho bạn. Nếu một bộ quần áo có thể bạn chỉ ních vừa trong mấy tháng thì đôi kính này sẽ là phụ tùng hữu ích cho bạn suốt 9 tháng bầu và cả sau này nữa. Tận hưởng những chuyến du lịch Nếu muốn có một "kỳ trăng mật lần hai" trước khi em bé chào đời hay chỉ là chuyến ngao du trong những ngày cuối tuần lãng mạn, bạn đừng ngần ngại thực hiện ngay. Khi thấy mệt mỏi và nặng nề quá, một chuyến hóng gió ở biển có thể giúp bạn thư giãn và nạp lại năng lượng cho mình. Hãy nuông chiều bản thân một chút, đi chơi mà không phải lo lắng về những điều có thể xảy gì như: nhỡ gặp mưa hay bị lạc đường thì sao? Tuy nhiên, bạn không nên đi du lịch quá xa. Nếu đi bằng ô tô hay máy bay thì được nhưng tốt nhất bạn chớ ra nước ngoài hay đi đến các vùng nông thôn hẻo lánh. Chọn những đôi sandals an toàn Bạn thấy tông xỏ ngón có vẻ thích hợp cho những ngày nóng bức hay khi chân bị đau nhức nhưng thực chất chúng không tốt tí nào cho các bà bầu. Tông chỉ làm cho da chân bạn xấu đi và do tính dễ trơn, trượt nên rất nguy hiểm cho bạn. Vào thời kỳ mang thai, do ảnh hưởng của một số hoóc môn, những dây chằng và gân của bạn bị kéo ra, trong đó có cả những dây chằng ở chân. Hơn nữa, lúc này, bạn phải mang một khối lượng lớn hơn bình thường. Áp lực này đè lên bàn chân và có thể làm chân bạn đau, sưng, .. thậm chí còn dẫn đến những tổn thương nghiêm trọng và kéo dài hơn nếu bạn không chọn cho mình một đôi giày, dép phù hợp. Bạn nên chọn những đôi sandal vững chắc, đế nhiều ma sát và thật sự thoải mái, dễ chịu khi đi. Tạo thói quen đi dạo Buổi sáng khi nắng mới hay buổi chiều mát mẻ, bạn có thể đi chầm chậm đến công viên hay khu vui chơi gần nhà. Đây là cách thể dục an toàn và hiệu quả cho các bà bầu trong những ngày hè nắng nôi. Dùng kem chống nắng Kem chống nắng luôn hữu ích khi bạn ra ngoài trời và càng cần thiết khi bạn mang thai. Mức estrogen cao trong cơ thể làm da bạn dễ sạm màu và nổi những đốm màu sậm trên mặt. Bôi kem chống nắng là cách tốt nhất để tránh điều này hay ngăn nó xấu đi nếu bạn đã bị sẵn rồi. Bạn nên dùng kem chống nắng có độ bảo vệ ít nhất là 50. Cắt tóc Đa số các bà mẹ đều cảm thấy khó duy trì kiểu tóc sau khi sinh con. Sao bạn không thử ghé thăm nhà tạo mẫu tóc và tham khảo những gợi ý của họ về kiểu tóc phù hợp với mình ngay từ lúc mang bầu? Một kiểu tóc ngắn có thể vừa giúp bạn trông trẻ trung, tươi mới lại vừa làm bạn đỡ mất công mỗi lần gội, sấy hay tạo nếp. Bơi Bơi là cách rất hay cho các bà bầu, vừa để dịu bớt căng thẳng, vừa làm mát lại như một bài tập thể dục hữu hiệu. Tuy nhiên, khi bơi, hãy lắng nghe cơ thể bạn, khi nào cảm thấy không thoải mái, khó thở thì nên dừng hoạt động này và đi khám bác sĩ. Đánh tan những vết sưng phồng Chứng phù, sự giữ nước gây ra cho các bà bầu vết sưng, thường ở tay, chân và mắt cá chân. Tình trạng này có thể xấu hơn trong những tháng nóng như thiêu. Thường chúng không có gì nguy hiểm nhưng nó có thể làm bạn cảm thấy khó chịu. Để chống lại nó, bạn tránh ăn quá mặn, giữ mát và uống nhiều nước, nâng cao cẳng chân càng nhiều càng tốt. Và sao bạn không thử nhờ chồng mỗi tối xoa bóp chân cho một lúc? Chống lại cái nóng ở nơi làm việc Dù đang cố gắng hoàn thành nốt công việc trước khi nghỉ sinh hay thậm thụt sắm đồ cho con trên mạng thì bạn vẫn phải "ấp" trong môi trường công sở gò bó nhiều giờ mỗi ngày. Hãy tạo cho nơi làm việc của bạn cảm giác dễ chịu hơn bằng cách giữ ở ngăn bàn vài thứ cần thiết để chống lại cái nóng như một cái quạt, chai nước và những đôi dép đi trong nhà. Ngoài ra, bạn nhớ chọn cho mình những bộ đồ thật thoáng mát, dễ chịu. Bỏ bớt những hoạt động xã hội quá sức Những chuyến đi xa bằng ô tô với cái bụng bầu sẽ làm cho bạn cảm thấy mệt mỏi và khó chịu. Đám cưới người họ hàng ở xa, đợt họp đồng hương ở quê nhà... là những hoạt động bạn có thể tế nhị từ chối. Việc đi lại nhiều, không khí ồn ào, đông đúc với cái nóng như nung chẳng dễ chịu với bạn chút nào và ai cũng hiểu điều ấy nên bạn không cần phải ngại. Ăn uống an toàn Thỉnh thoảng đi chơi và ăn uống bên ngoài cũng làm tinh thần bạn phấn chấn hơn nhiều. Bạn có thể đi ăn ngoài bất cứ khi nào thích nhưng nhớ chọn những thứ an toàn. Nếu ăn đồ nướng, phải chắc là nó đã chín hoàn toàn để ngăn chặn sự xâm nhập của những loại vi khuẩn có hại. Bạn nên tránh xa những đồ ăn ôi, thiu, kể cả ngồi cạnh thôi chứ không phải là cho vào miệng và dè chừng những thứ có sốt mayonnaise. Bất kỳ thứ gì đã cất trong tủ lạnh như bơ, sữa, nước hoa quả, thậm chí là bánh hăm bơ gơ đều đáng bỏ đi nếu bạn đã để chúng ở ngoài trời nắng vài giờ. Tận hưởng những ngày rảnh rỗi khi em bé chưa chào đời Bạn nên nghỉ ngơi càng nhiều càng tốt và cho phép mình có nhiều thời gian rảnh rỗi. Đi ăn uống với bạn bè, thưởng thức những món mình yêu thích trong những ngày hè như kem, chè hoa quả hay đi massage, làm đẹp, mua sắm... ngay khi bạn có thể bởi những việc này sẽ không dễ thực hiện nữa sau khi em bé xuất hiện. Theo Vnexpress.net
Khi đọc sách báo mình biêt là "có thể sinh con theo y mình"qua cách ăn uống,mình đã từng biết một chuyện là dùng thuốc thì có thể chuyễn từ con gái qua trai(có thật đó),bạn nguyentrunghoa có biết trang wep nào đưa cuộc thử nghiệm chính thức về việc ăn uống mà có thể sinh con trai hay gái theo ý muôn không? nêu co bạn cho mình và những bạn khác biết với nha!!!
3 món có lợi cho bà bầu Thai phụ trong thời gian cuối của thai kỳ có thể dùng nhiều những món vừa tăng cường dưỡng chất như bò xào, cá chim trắng... Vừa "lợi sữa" theo kinh nghiệm dân gian như móng giò hầm lạc để chuẩn bị cho bước làm mẹ sau này. Móng giò hầm lạc (Móng heo hầm đậu phộng) Nguyên liệu 2 cái: móng. 50g lạc (đậu phộng). 100g: nấm. 10g: gấc. 2 thìa cà phê: dầu ăn. 1 thìa cà phê đường. 1 thìa cà phê: nước mắm. 1/4 thìa cà phê tiêu. Thực hiện Móng cạo rửa sạch. Nấm ngâm nước muối pha loãng, vớt ra. Bắc bếp, phi thơm dầu mè, cho gấc và giò vào, chiên sơ hơi vàng. Đổ nước ngập giò, hầm chung với lạc (đậu phộng) khoảng 30 phút, để lửa nhỏ. Nước còn xăm xắp thì cho tiếp nấm vào, nêm nước mắm, tiêu, đường vừa ăn. Tắt bếp, nhắc xuống. Múc ra tô, dọn dùng nóng với cơm. Bò xào rau diếp Nguyên liệu 100g: thịt bò. 100g: rau diếp. 50g: cà rốt. 1 thìa cà phê: hạt nêm. 1 thìa súp: dầu ăn. 1/4 thìa cà phê tiêu. Đầu hành lá. Thực hiện Thịt bò băm nhuyễn Cà rốt gọt vỏ rửa sạch, xắt sợi. Rau diếp thái nhuyễn. Bắc chảo, phi thơm đầu hành lá, cho thịt bò vào đảo nhanh tay. Cho tiếp cà rốt, rau diếp vào, nêm hạt nêm, tiêu vừa ăn. Tắt bếp, nhắc xuống. Súp trứng nạc cá chim Nguyên liệu 2 quả: trứng gà. 100g: nạc cá chim. 100g: mướp xanh. 1 quả: cà chua. 1 thìa cà phê nước mắm. 1 thìa cà phê gừng băm nhuyễn. Dầu ăn, hành ngò. Thực hiện Trứng gà đập ra chén, đánh tơi. Cà chua xắt hạt lựu. Mướp xanh bỏ vỏ cắt miếng. Bắc bếp, phi thơm gừng, cho cà chua và nạc cá chim vào đảo đều, nêm ít nước mắm. Cho thêm một chén nước vào nấu tiếp Nước sôi cho trứng vào khuấy nhẹ tay để trứng tan đều, nêm lại vừa ăn, nhắc xuống. Múc ra chén, rắc hành ngò xắt nhuyễn lên, dùng nóng. Theo Món Ngon
Cường giáp ở thai phụ Cường giáp là bệnh không hiếm gặp ở các phụ nữ mang thai, tuy nhiên còn nhiều người, kể cả một số thầy thuốc còn chưa hiểu biết rõ về các nguy cơ cũng như cách thức theo dõi và điều trị căn bệnh này. Sự thiếu hiểu biết đã khiến cho nhiều người quyết định sai lầm là bỏ thai khi biết mình bị bệnh cường giáp. Nguyên nhân phổ biến nhất gây cường giáp ở các phụ nữ có thai là bệnh Basedow, chiếm tới 80-85% các trường hợp, với tỷ lệ 1/1.500 phụ nữ có thai. Các nguyên nhân gây cường giáp khác cũng có nhưng hiếm gặp hơn như bướu nhân độc tuyến giáp... Bên cạnh đó những người bị ốm nghén nặng và có nồng độ hCG cao cũng có thể gây cường giáp thoáng qua. Cường giáp có nguy cơ gì cho mẹ? Cường tuyến giáp. Ảnh: SKĐS Bệnh Basedow có thể xuất hiện hoặc nặng lên (ở người đã có bệnh Basedow cũ) trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Bên cạnh các nguy cơ cổ điển của cường giáp như suy tim, loạn nhịp tim, lồi mắt... nếu không được điều trị tốt thì các thai phụ mắc bệnh cường giáp có thể bị sảy thai sớm hoặc các biến chứng nặng khác như nhiễm độc thai nghén, sản giật. Ngoài ra, những phụ nữ có thai khi mà bệnh Basedow của họ vẫn đang tiến triển nặng thì có nguy cơ rất cao bị cơn cường giáp cấp hay còn gọi là cơn bão giáp với tỷ lệ tử vong cao. Trong 3 tháng cuối của thai kỳ, mức độ cường giáp thường có giảm nhưng bệnh sẽ lại nặng lên sau đẻ. Với những phụ nữ bị bệnh Basedow muốn có thai thì tốt nhất là hãy đợi đến khi điều trị khỏi bệnh. Tuy nhiên nếu trong khi đang điều trị bệnh mà họ có thai ngoài ý muốn thì hoàn toàn có thể giữ được thai, điều quan trọng là họ phải đi khám ngay chuyên khoa nội tiết để có được lời khuyên tốt nhất. Những trường hợp muốn bỏ thai khi đang bị cường giáp nặng thì nên điều trị cường giáp cho tới khi tạm ổn định mới được phép bỏ thai để hạn chế các biến chứng, nhất là cơn cường giáp cấp. Cường giáp ở người mẹ có ảnh hưởng như thế nào đến thai nhi? Sự phát triển của thai nhi ở các bà mẹ bị bệnh cường giáp có thể bị ảnh hưởng do 3 cơ chế sau: - Cường giáp ở người mẹ không được kiểm soát tốt, nồng độ các hormon tuyến giáp trong máu người mẹ cao, hậu quả là nồng độ tuyến giáp trong thai nhi cũng cao và làm tăng nhịp tim thai, thai nhi nhẹ cân so với tuổi, đẻ non, thai chết lưu. Khả năng cường giáp gây dị tật cho thai có thể xảy ra. Đó chính là một nguyên nhân quan trọng giải thích tại sao phải bắt buộc điều trị và kiểm soát được tình trạng cường giáp ở người mẹ. - Nồng độ globulin miễn dịch kích thích tuyến giáp rất cao trong máu. Các kháng thể này có vượt qua hàng rào nhau thai và kích thích tuyến giáp của thai nhi gây ra cường giáp thai nhi, và hậu quả cũng làm thai nhi bị nhẹ cân, tim đập nhanh và có nguy cơ bị đẻ non... - Ở những người mẹ bị Basedow được điều trị thuốc kháng giáp tổng hợp như methimazole, carbimazole, thyrozole hay propylthiouracil (PTU). Các loại thuốc này đều qua được nhau thai với mức độ khác nhau và có thể ức chế hoạt động tuyến giáp, dẫn đến sự hình thành bướu giáp ở thai nhi. Dựa trên kết quả các nghiên cứu, PTU là thuốc thường được lựa chọn để điều trị cường giáp ở phụ nữ có thai vì nó qua nhau thai ít hơn so với các thuốc khác. Theo các khuyến cáo, chỉ sử dụng thuốc kháng giáp trạng tổng hợp ở liều thấp nhất có hiệu quả để hạn chế ảnh hưởng đến thai nhi. Lựa chọn điều trị cho những phụ nữ mang thai bị cường giáp/Basedow Trường hợp cường giáp nhẹ (hormon tuyến giáp tăng ít, các triệu chứng nhẹ hoặc không rõ) thường chỉ cần theo dõi chặt mà không cần điều trị gì nếu sức khỏe của mẹ và thai nhi tốt. Trường hợp cường giáp nặng thì cần điều trị bằng các thuốc kháng giáp trạng tổng hợp, và như đã đề cập ở trên thì thuốc được lựa chọn là PTU. Mục tiêu của điều trị là giữ cho nồng độ FT3 và FT4 của mẹ ở giới hạn cao của bình thường (hoặc hơi cao hơn bình thường) với liều PTU thấp nhất có tác dụng mặc dù nồng độ TSH có thể vẫn thấp. Bằng cách này sẽ hạn chế được các nguy cơ thai nhi bị suy giáp hoặc có bướu giáp. Tuyệt đối tránh để mẹ bị suy giáp vì hậu quả cho con là rất lớn, nhất là 3 tháng đầu của thai kỳ. Muốn vậy các thai phụ cần phải được theo dõi chặt, bệnh nhân phải được khám và làm xét nghiệm FT4 và TSH hằng tháng. Ở các bệnh nhân không thể điều trị nội khoa được (ví dụ do dị ứng thuốc kháng giáp trạng) thì phẫu thuật là phương pháp điều trị thay thế. Nhưng nhìn chung đây là phương pháp ít khi phải áp dụng cho những phụ nữ mang thai vì nguy cơ của cả phẫu thuật và gây mê có thể xảy ra cho mẹ và thai. Điều trị iode phóng xạ bị chống chỉ định cho phụ nữ có thai vì iode có thể qua được nhau thai và tấn công tuyến giáp của thai nhi gây phá hủy tuyến giáp, hậu quả là gây suy giáp vĩnh viễn. Các thuốc beta-blocker như atenolol... có thể được sử dụng tạm thời trong thời gian mang thai để làm giảm các triệu chứng như run tay và hồi hộp đánh trống ngực. Tuy nhiên nên hạn chế nếu có thể vì có nghiên cứu cho thấy nó có khả năng làm giảm sự phát triển của thai khi dùng kéo dài. Thông thường nó chỉ dùng trong thời gian ngắn cho đến khi các thuốc kháng giáp trạng có tác dụng và kiểm soát được cường giáp. Tiến triển của cường giáp sẽ như thế nào sau khi đẻ? Bệnh Basedow hay nặng lên sau khi đẻ, thường là trong thời gian 3 tháng đầu sau khi đẻ. Khi đó các bệnh nhân cần phải bắt đầu lại hoặc tăng liều thuốc kháng giáp trạng tổng hợp và theo dõi thường xuyên như khi không có thai. Theo ThS. Nguyễn Quang Bảy - Báo Sức Khỏe & Đời Sống
Mất ngủ gây khó đẻ Những cô gái làm mẹ lần đầu tiên mà ngủ ít trong tháng cuối của thai kỳ sẽ trở dạ lâu hơn và có khả năng phải sinh mổ so với những bà bầu ngủ tốt. Các nhà nghiên cứu tại Đại học California, San Francisco, Mỹ, tìm thấy trong số 131 phụ nữ họ theo dõi, những ai ngủ ít hơn 6 tiếng mỗi tối trong tháng mang thai thứ 9 sẽ tăng 4 lần khả năng phải can thiệp khi sinh so với những phụ nữ ngủ nhiều hơn. Còn những bà bầu hay mất ngủ ban đêm sẽ có nguy cơ phẫu thuật cao gấp 5 lần. Nhìn chung, những người ngủ kém cũng chịu các cơn đau đẻ lâu hơn. Trung bình, phụ nữ ngủ chưa tới 6 tiếng mỗi tối bị lên cơn co dạ trong 29 tiếng, so với chưa đầy 18 tiếng ở những phụ nữ ngủ 7 tiếng hoặc nhiều hơn. Kết quả cho thấy việc ngủ đủ và chất lượng trong thời kỳ mang thai là rất quan trọng trong việc sinh nở. Các bác sĩ khuyên rằng các bà bầu nên ngủ ít nhất 8 tiếng mỗi tối. ST
Chuyện "yêu" tuyệt nhất lúc mang thai Các chuyên gia sẽ giải đáp những thắc mắc thường gặp của các bà mẹ tương lai để thấy rằng chuyện yêu không hề ảnh hưởng đến quá trình mang thai mà còn đem lại những giây phút thăng hoa trong đời sống vợ chồng. Phụ nữ mang thai đạt khoái cảm nhiều hơn bình thường. Các nhà nghiên cứu đã chứng minh có rất nhiều phụ nữ mang thai đạt được cực khoái lâu hơn, dễ hơn bình thường. Điều này được giải thích là do hooc-môn được tiết ra trong thời kỳ này làm bộ phận sinh dục trở nên nhạy cảm hơn bình thường. Dù trọng lượng của bào thai đè lên âm đạo làm cho âm đạo bị xung huyết nhưng lại làm cho âm đạo trở nên nhạy cảm hơn. Phụ nữ mang thai không hề mất đi sự quyến rũ hơn dưới mắt chồng Phụ nữ mang thai không hề kém quyến rũ hơn dưới mắt người chồng của mình. Cơ thể của bạn tất nhiên có nhiều thay đổi, nhưng bạn biết không chồng bạn luôn thấy bạn đáng yêu vì anh ấy yêu bạn và đứa con trong bụng bạn. Phần lớn các đức ông chồng thấy vợ nữ tính và dịu dàng hơn khi mang bầu. Do đó nếu cả hai vợ chồng bạn cùng có ham muốn, hãy tự tin đến với anh ấy. Tư thế nào thì hợp lý cho phụ nữ mang thai? Theo một cuộc tham khảo được thực hiện tại Pháp, phần lớn chị em mang thai thích tư thế “cái thìa”, có nghĩa là năm nghiêng và người bạn đời “yêu” từ phía sau. Tuy nhiên các chuyên gia khuyên bạn nên cởi mở nói chuyện với người bạn đời của mình để tìm ra 1 tư thế thích hợp với cả 2 người. Những vùng kích thích trở nên nhạy cảm hơn bao giờ hết Nhũ hoa của người phụ nữ mang thai dầy và to lên trong quá trình mang thai và đó cũng là vùng kích thích mang lại nhiều khoái cảm cho chị em. Vùng âm đạo bị tụ huyết nhưng cũng trở nên nhạy cảm và dễ bị kích thích hơn. Quan hệ khi mang thai không làm đau em bé. Trên thực tế, quan hệ khi mang bầu không hề làm đau em bé. Em bé được bảo vệ an toàn và bơi trong túi nước ối. Khi thai nhi của bạn phát triển bình thường, không có sự cấm chỉ định nào từ phía bác sỹ sản khoa, bạn có thể sinh hoạt vợ chồng. Tuy nhiên bạn cần lưu ý, số lần mỗi tuần sẽ thưa hơn bình thường, chỉ sinh hoạt khi sức khoẻ cho phép và sinh hoạt ở tư thế thoải mái nhất. Phụ nữ mang thai có nhiều ham muốn “yêu” hơn bình thường? Điều này còn phụ thuộc vào từng thời kỳ mang thai. Trong thời gian đầu thai nghén, phần lớn chị em dù ít hay nhiều thường bị nghén và do đó không có ham muốn “yêu”. Ở 3 tháng giữa và 3 tháng cuối, khi không còn nghén nữa và sức khoẻ đã ổn định, các chị em bắt đầu cảm nhận được hưng phấn khi ở bên cạnh người bạn đời của mình. Tuy nhiên ở 3 tháng cuối, do thai nhỉ đã lớn nên các chị em cảm thấy nặng nề. Ở thời kỳ này chuyện “yêu” diễn ra không được thuận lợi. Tuy vậy nếu vẫn đạt được khoái cảm, thì trọng lượng của bào thai không phải là rắc rối. Những lưu ý Quan hệ vào giai đoạn cuối của thời kỳ thai nghén nguy hiểm cho thai nhi? Đúng. Các bác sỹ đã ghi nhận nhiều trường hợp quan hệ trong giai đoạn cuối của thời kỳ thai nghén đã làm vỡ màng ối và làm đau em bé. Tuy nhiên nếu thận trọng một chút, việc quan hệ của vợ chồng bạn vẫn có thể diễn ra bình thường trong suốt giai đoạn mang thai. Tinh dịch làm cổ tử cung co bóp. Tinh dịch có chứa hooc-mon prostaglandin, hooc-mon này làm co bóp cổ tử cung. Do đó đối với những phụ nữ có nguy cơ đẻ non hoặc có tiền sử đẻ non, bác sỹ sản khoa sẽ khuyên nên hạn chế tối đa hoặc không sinh hoạt tình dục trong suốt thời kỳ mang thai. Chảy máu khi quan hệ sẽ nguy hiểm Ngay khi thấy ra máu khi quan hệ, bạn cần gọi điện hoặc đến khám bác sỹ ngay. Nếu đây là thời kỳ đầu của thai kỳ, có thể không có điều gì quá nguy hiểm nhưng vào cuối thai kỳ đó có thể là dấu hiệu cổ tử cung đã mở. Bác sỹ có thể đưa ra chống chỉ định với chuyện phòng the Như đã nói ở trên, trong trường hơp bạn có tiền sử đẻ non hoặc có nguy cơ đẻ non, bạn bị chảy máu khi giao hợp, bạn bị cao huyết áp, bạn sẽ sinh đôi, sinh ba… bác sỹ sẽ khuyên bạn hạn chế tối đa giao hợp hoặc chỉ định bạn hoàn toàn không được giao hợp trong suốt thai kỳ. Theo Neufmois
Nhắc nhỏ bà bầu Chín tháng mang thai, từ lúc tinh trùng và trứng gặp nhau, cùng với những điều kiện thể chất trong cơ thể người mẹ sẽ quyết định sức khoẻ của bé trong tương lai. (ảnh sưu tầm)Trước khi quyết định có bầu: Các bác sĩ có thể giúp bạn tránh được những loại thuốc có ảnh hưởng đến thai nhi. Hãy nói với bác sĩ về bệnh tật hay tình trạng sức khoẻ có thể gây trở ngại trong quá trình mang thai. Ðể ngăn ngừa những nguy cơ khuyết tật ống thần kinh như tật nứt cột sống, hãy cố gắng đưa vào cơ thể ít nhất 40 microgam axit folic mỗi ngày từ những loại rau xanh hay nước cam vắt. Chế độ ăn: Trong khi mang thai, bạn cần có thêm 300 calo mỗi ngày, hãy ăn nhẹ rải rác trong ngày. Thai nhi rất cần nguồn dinh dưỡng hợp lý để có thể phát triển bình thường. Nên ăn các loại rau quả, các sản phẩm ít béo và thịt nạc. Những loại thức ăn này chứa nhiều protein, các vitamin và khoáng chất góp phần cho sự tạo máu, cơ và xương khớp. Cân nặng cần đạt: Hãy cố gắng đạt được mức tăng thể trọng khoảng 12kg so với cân nặng bình thường của bạn. Chế độ dùng thuốc: Hãy nói với bác sĩ tất cả những loại thuốc mà bạn đang dùng. Thuốc chống co giật có thể mang lại một quá trình sinh nở không hoàn hảo. Một số loại thuốc giảm đau và thuốc chống trầm cảm cũng ảnh hưởng tới thai nhi. Cocain có thể gây tử vong cho thai nhi. Những đứa trẻ khi đã quen với việc dùng thuốc gây ngủ, gây mê khi còn trong bụng mẹ sẽ có nguy cơ bị nghiện khi ra đời. Cafein: Trong khi mang thai, thể tích máu của bạn sẽ tăng gấp đôi, vì thế việc dùng quá nhiều cafein sẽ gây ra hội chứng mất nước khi bạn đang rất cần đến nước. Một số nghiên cứu đã cho rằng việc sử dụng cafein quá liều có sự liên quan đến tình trẻ sơ sinh thấp cân. Nếu phải dùng thuốc tốt nhất nên hỏi ý kiến bác sĩ. Thể dục: Bạn có thể bơi lội hoặc đi bộ song không nên quá mức Sự căng thẳng thần kinh: Tránh những căng thẳng về thần kinh cho dù đó là hiện tượng bột phát hay hiện tượng mạn tính vì nó là một trong những nguyên nhân gây đẻ non. Cố gắng giảm cường độ làm việc, và ngủ đủ giấc. Rượu và thuốc lá: Người mẹ uống rượu khi mang thai có nguy cơ sinh con khuyết tật ở vùng mặt, tim, chân và chậm phát triển tâm thần. Thuốc lá là nguyên nhân chiếm 25% cho ra đời những đứa trẻ nhẹ cân. Hãy từ bỏ thuốc lá vì nó cũng là nguyên nhân gây đẻ non. (Theo Sức khoẻ cộng đồng)
Thai phụ nên ăn bao nhiêu cá mỗi tuần? Các chuyên gia dinh dưỡng và sản khoa cho biết về khuyến nghị mới nhất đối với phụ nữ đang mang thai: Họ cần ăn ít nhất là 300gr hải sản mỗi tuần. Khuyến nghị này là kết quả của cuộc tranh luận gay gắt mới nhất về tính an toàn của đồ hải sản đối với thai phụ. Hầu hết các nhà khoa học đều quan tâm tới nồng độ thủy ngân, một nguyên tố được tích lũy trong cơ thể của nhiều loài cá, có khả năng tích lũy trong cơ thể người mẹ và gây hại cho sự phát triển của thai nhi. Trong thông cáo, nhóm nghiên cứu khuyến nghị các bà bầu, những bà mẹ đang cho con bú và những phụ nữ chuẩn bị mang thai nên ăn tối thiểu là 300gr hải sản mỗi tuần nhưng tối đa chỉ ăn 150gr cá ngừ bởi đây là loài cá tích lũy thủy ngân nhiều nhất. Khuyến nghị cũng cho biết các loài cá đại dương bao gồm cá hồi, cá ngừ, cá mòi, cá thu đều rất giàu chất béo omega 3. Đây là hợp chất cơ bản và vô cùng cần thiết đối với quá trình phát triển và lớn lên của thai nhi. Đặc biệt, DHA được biết đến như một yếu tố hỗ trợ cho sự phát triển trí não trong suốt giai đoạn thai kỳ. Theo ABCnews
Tư thế nằm ngủ khi mang thai Khi mang thai thì chế độ ngủ như thế nào là hợp lý, tư thế ngủ như thế nào để không chèn ép thai nhi? Ngoài việc mỗi đêm phải ngủ ít nhất 8 giờ, buổi trưa nên nằm khoảng 1 giờ. Người ta khuyên phụ nữ có thai nên nằm nghiêng, vì khi nằm ngửa, tử cung chứa thai nhi sẽ chèn ép vào hệ thống mạch máu ở vùng chậu, thậm chí chèn động mạch ở bụng làm giảm cung cấp máu cho tử cung (thai nhi cũng kém được nuôi dưỡng). Máu tĩnh mạch ở hai chân khó khăn khi trở về tim nên thường có phù 2 chi dưới. Ngoài ra, tử cung to có thể chèn ép niệu quản gây cản trở dòng nước tiểu từ thậm xuống khi thai phụ nằm ngửa. Thai phụ nên nằm nghiêng bên nào? Khi nghiên cứu sự phát triển của thai nhi và sự thay đổi của tử cung, các nhà khoa học thấy rằng 80-90% khi mang thai tử cung ngã sang phải. Do đó, thai phụ nên nằm nghiêng sang trái là tốt nhất. Kim Hương