Thông tin: Truyện cổ Grim Vua trộm

Thảo luận trong 'Thư viện của con' bởi dvsang, 31/10/2013.

  1. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Vua trộm truyện cổ grim hay
    Một hôm, hai vợ chồng bác nông dân già ngồi nghỉ trước túp lều tồi tàn sau khi làm việc vất vả. Bỗng có một chiếc xe tứ mã lộng lẫy đến đỗ ngay trước nhà. Một vị ăn mặc sang trọng bước từ trên xe xuống. Bác giai đứng dậy, tiến đến gần vị quí tộc, hỏi ông cần gì.

    vua trom grim

    Người lạ mặt bắt tay bác và nói: “Tôi chỉ ước ao có một điều là được ăn bữa ăn nông thôn một lần xem sao. Hai bác hãy nấu cho tôi một món khoai tây như bác thường nấu, tôi sẽ rất vui sướng được ăn cùng hai bác”.

    Bác nông dân cười và nói: “Ngài hẳn là bá tước, hoàng thân hay hầu tước. Những người lịch sự đôi khi hay thèm như vậy. Tôi xin làm theo ý thích của ngài.”

    Bác gái vào bếp rửa và gọt khoai tây để làm món khoai theo kiểu nông thôn. Trong khi bác gái làm bếp, bác giai bảo khách: ”Trong khi chờ ăn, mời ngài ra vườn cùng tôi. Tôi còn phải làm việc ngoài đó”. Bác đã đào hố để trồng cây.

    Khách hỏi: “Bác không có con cái đỡ đần cho à?” “Không – bác trả lời. Thật ra tôi cũng đã có một thằng con trai, bác nói tiếp, nhưng nó đi chu du thiên hạ từ lâu rồi. Nó là một thằng hư hỏng, láu cá và nhiều mưu mô. Nhưng nó lại không muốn học hành gì cả, chỉ chuyên đi phá quấy. Cuối cùng, nó bỏ nhà đi, và từ bấy đến nay, tôi không có tin gì về nó cả”.

    Bác già lấy một cây non đặt vào hố và cắm vào một cái cọc chống bên cạnh. Rồi bác vun gốc; khi đã đắp được đất khá cao, bác buộc cây trồng vào cái cọc chống bằng những cây rạ, buộc trên cao, ở giữa và ở dưới.

    “Bác ơi, – vị khách giàu sang nói, – sao bác không buộc cả cọc chống cho cái cây còi cọc ở trong góc kia cho nó mọc thẳng. Nó mọc gần sát mặt đất vì thân cây quăn queo”.

    Bác già cười và nói:

    - Ông nói mà chẳng hiểu gì cả. Người ta biết ngay là ông chưa từng làm vườn. Cái cây ấy đã già cỗi, còi cọc. Không ai có thể dựng nó mọc thẳng lên được. Phải uốn cây từ lúc còn non.

    - Cũng như thằng con bác ấy, – người lạ mặt nói, – khi nó còn trẻ, nếu bác dạy dỗ nó tử tế thì nó đã không bỏ nhà ra đi, hẳn bây giờ nó cũng còi cọc rồi.

    - Cái đó thì chắc rồi, – bác già nói, – nó đi đã lâu hẳn là nó đã thay đổi.

    - Liệu bác có nhận được ra anh ta nếu anh ta đứng trước mặt bác không?

    - Nhận được mặt nó cũng khó đấy, Bác nông dân trả lời. Nhưng nó có một dấu vết đặc biệt, một cái nốt ruồi ở vai, giống như hạt đậu.

    Khi bác nói tới đó, người lạ mặt cởi áo ngoài ra, trật vai ra và chỉ nốt ruồi cho bác nông dân xem.

    - Trời ơi! – Bác kêu lên, – đúng là con ta đây rồi. Và tình yêu con tràn ngập trong lòng bác. – Nhưng, – bác nói thêm, – có thể nào anh lại là con ta? Con ta trở thành một ông lớn sống trong giàu sang phú quí! Làm thế nào con lại được như thế?

    - Thưa cha! Người con trả lời: – Cây non đã không được buộc vào cọc chống nên đã cong queo. Bây giờ cây già rồi, không mọc thẳng lại được nữa.

    - Sao con lại được như thế này ư?

    - Con đã thành thằng ăn trộm. Nhưng cha đừng sợ. Con là Vua trộm. Đối với con thì không có khóa, có then cài nào cả. Cái gì con thích là con chiếm được. Cha đừng nghĩ con là thằng ăn trộm như một tên trộm tầm thường. Không. Con chỉ lấy cái thừa mứa của nhà giàu. Những người nghèo thì có thể yên tâm, con còn cho họ là đằng khác, chứ không lấy của họ. Mà lấy trộm cái gì mà không vất vả, không cần có mưu mẹo và khéo léo thì con không lấy.

    - Ừ, ừ! Bác già nói, – nhưng dù sao, ta cũng không hài lòng về con. Thằng ăn trộm vẫn là thằng ăn trộm. Ta nói cho con biết, rồi cũng không ra gì đâu.

    Bác dẫn con đến bác gái. Khi nhận ra con trai mình, bác gái khóc vì vui sướng, nhưng khi bác giai cho biết con là Vua trộm thì hai dòng nước mắt buồn tủi lại tràn đầy mắt bác. Cuối cùng bác nói: ”Dù nó có là thằng ăn trộm đi nữa thì nó vẫn là con tôi, tôi rất sung sướng được gặp lại nó”.

    Mọi người cùng ngồi vào bàn ăn và tên ăn trộm lại được cùng ăn với bố mẹ cái món ăn đạm bạc mà lâu nay nó không được ăn.

    Sau đó người cha bảo: “Nếu ngài bá tước ở trong lâu đài kia mà biết mày đi ăn trộm thì ông ấy đã không bế mày trong lòng ông mà ru như hôm làm lễ rửa tội cho mày. Ông ấy sẽ lấy thừng treo cổ mày lên cho mày đu đưa”

    - Cha đừng lo, người con nói, ông ta sẽ không làm gì con đâu: con thạo nghề của con. Ngay hôm nay, con sẽ đến gặp ông ta.

    Đến chiều, vua trộm lên xe đi đến lâu đài. Bá tước tiếp đón anh một cách kính nể, coi anh là một vị khách cao quý. Khi khách nói cho chủ biết mình là ai thì ông tái mặt đi và ngồi lặng yên một lúc.

    Rồi ông nói:

    - Anh là con đỡ đầu của ta. Đáng lẽ phải xử theo pháp luật thì tha thứ cho anh, xử sự với anh có độ lượng. Anh đã huênh hoang là Vua trộm, vậy ta thử tài anh xem. Nếu anh thất bại thì sợi dây thừng sẽ là vợ anh và tiếng quạ kêu sẽ thành nhạc cưới của anh.

    - Thưa ngài, tên trộm nói ngài hãy thử thách tôi ba lần thật khó tùy theo ý của ngài; nếu tôi không làm nổi, thì ngài muốn xử tôi thế nào cũng được.

    Ông bá tước suy nghĩ một lúc, rồi nói:

    - Vậy thì, đầu tiên, anh hãy lấy trộm được con ngựa của ta đang ở trong chuồng. Hai là anh phải lấy trộm được cái khăn trải giường trong khi vợ chồng ta đang nằm ngủ mà chúng ta không biết, đồng thời, anh phải rút được cái nhẫn cưới vợ ta đeo ở ngón tay. Ba là anh phải bắt cóc được cha xứ và người giúp việc ông ngay trong nhà thờ. Hãy để ý đến các điều đó nếu không thì toi mạng đấy!

    Vua trộm đến một đô thị gần nhất. Anh mua một bộ quần áo cũ của một bà nông dân rồi mặc vào. Anh bôi mặt thành da màu nâu, vẽ lên mặt nhiều nếp nhăn. Không ai có thể nhận ra anh. Anh đổ đầy r*** vang Hung vào một cái thùng to; trong r*** anh trộn một loại thuốc ngủ rất mạnh. Anh đặt thùng r*** trên một cái giá vác trên lưng và đi chuệnh choạng, bước chậm chạp đến lâu đài bá tước.

    Khi anh đến nơi, thì đêm đã khuya. Anh ngồi trên một hòn đá ở sân, ho lụ khụ như một bà già đau ngực và xoa tay mạnh vào nhau như sắp chết rét. Trước cửa chuồng ngựa, lính canh đang nằm dài quanh đống lửa. Một người trong bọn họ trông thấy bà già, liền gọi:

    - Lại đây mẹ ơi, mẹ hãy lại đây mà sưởi với chúng con. Mẹ không có nơi ngủ, thì mẹ hãy bạ đâu ngủ đấy vậy.

    Bà già loạng choạng bước lại gần, nhờ họ nhấc xuống hộ cái giá đỡ và thùng r***, rồi ngồi bên họ.

    - Mẹ có gì trong thùng thế? Một người lính hỏi

    - R*** ngon đấy, bà già trả lời, tôi buôn r*** mà. Các chú nói tử tế và trả cho tôi ít tiền thì tôi vui lòng để các chú uống một cốc.

    - Mẹ rót r*** cho con uống thử xem, một chú lính nói. Uống xong, anh nói: – Nếu r*** ngon thật, con sẽ làm cốc nữa. Bà rót r*** cho anh, những người lính khác cũng bắt chước bạn.

    - Này! Các bạn ơi, – một người trong bọn họ gọi những người ở chuồng ngựa, – ở đây có bà mẹ mang r*** vang lâu năm, tuổi r*** ngang tuổi bà mẹ. Hãy lại đây mà uống, các bạn sẽ ấm bụng hơn sưởi lửa.

    Bà già mang thùng r*** vào chuồng ngựa. Một người lính ngồi trên con ngựa đã đóng yên của bá tước; một người khác cầm dây cương, người thứ ba đang tết đuôi ngựa. Bà rót r*** cho mọi người uống thỏa thích, cho tới khi thùng r*** cạn. Chẳng mấy chốc dây cương tuột khỏi tay cầm và anh ta lăn ra đất mà ngáy. Người kia buông đuôi ngựa ra, rồi cũng nằm dài ra đất mà rống to hơn. Người ngồi trên ngựa thì vẫn ngồi yên nhưng cái đầu thì cúi rạp xuống gần cổ ngựa; anh ta cũng ngủ và ngáy như kéo bễ lò rèn. Những người lính ở bên ngoài đã ngủ từ lâu. Họ không động đậy, cứ như người đá. Khi Vua trộm đã thấy mọi việc đều trôi chảy, anh đặt vào tay người lính sợi thừng thế cho dây cương, anh đặt vào tay người lính kia cái chổi rơm thế cho cái đuôi. Nhưng trường hợp thứ ba, giải quyết người ngồi trên yên ngưa bằng cách nào đây? Anh không muốn làm cho người lính ngã xuống đất, anh ta sẽ tỉnh dậy và có thể kêu la lên. Vua trộm tìm được một kế hay: anh tháo sợi dây buộc yên ngựa ra treo cái yên lên tường bằng những sợi thừng luồn qua các cái vòng, rồi kéo chàng kỵ mã lên sát trần nhà. Sau đó anh buộc thật chắc dây thừng vào một cái cột. Loáng một cái, anh đã tháo được ngựa ra khỏi xích. Nhưng từ lâu đài người ta có thể nghe thấy tiếng vó ngựa đập trên nền sân bằng đá. Anh bèn lấy giẻ bọc móng ngựa lại, dắt ngựa cẩn thận ra khỏi chuồng và đi qua sân, rồi anh nhảy lên ngựa và phi nước đại.

    Khi trời sáng, Vua trộm phi ngựa đến lâu đại. Bá tước vừa ngủ dậy và đứng nhìn qua cửa sổ. “Chào ngài bá tước! Vua trộm kêu to. đây là con ngựa tôi đã lấy được ra khỏi chuồng ngựa; ngài hãy nhìn kìa, lính của ngài đang ngủ ngon giấc! Nếu ngài ra chuồng ngựa thì ngài sẽ thấy quân canh gác của ngài thoải mái như thế nào”. Bá tước không nhịn được cười. Ông nói: “Lần này, anh được cuộc.

    Nhưng lần sau thì không dễ may mắn thế đâu. Ta báo cho anh biết nếu ta bắt được anh đang ăn trộm, thì ta sẽ đối với anh như một tên ăn trộm”.

    Buổi tối, khi đi ngủ, bà bá tước nắm chặt tay có đeo nhẫn. Bá tước bảo vợ: “Tất cả các cửa ra vào đều đóng và cài then chặt. Tôi sẽ thức để rình thằng ăn trộm. Nếu nó chui cửa sổ nào thì tôi sẽ bắn hắn”.

    Vua trộm lẩn vào trong bóng tối, đến cái giá treo cổ, tháo gỡ xuống một người phạm tội đáng thương treo ở đó; anh cõng cái xác trên lưng đi đến lâu đài. Anh dựng một cái thang ở dưới cửa sổ phòng ngủ của bá tước, công kênh xác chết trên vai và trèo lên. Khi anh lên đã khá cao, đầu người chết đã hiện ra ở cửa sổ, thì bá tước nằm trong giường vẫn rình, bắn một phát súng lục. Lập tức, tên trộm để xác người bị treo cổ rơi xuống đất, và nó cũng nhảy xuống khỏi thang chạy nấp vào một góc. Sáng trăng vằng vặc, nó trông thấy rõ ràng bá tước trèo thang xuống, vác cái thây ra vườn… Ông ta đào hố để chôn. Đúng dịp may đây rồi, tên trộm tự nhủ, nó chạy nhanh ra khỏi nơi đang trốn, leo lên thang và vào phòng bà bá tước:

    “Bà nó ơi, tên trộm bắt chước giọng ông bá tước để nói, thằng ăn trộm đã chết rồi. Nhưng nó là con đỡ đầu của tôi, và nó là thằng bịp bợm chứ không phải là một tên gian ác. Tôi không muốn đưa ra công chúng để làm nhục nó. Tôi cũng thương bố mẹ nó nghèo khổ.

    Tôi sẽ đem chôn nó ở ngoài vườn trước khi trời sáng để câu chuyện khỏi vỡ lở. Bà đưa cho tôi cái khăn giải giường để tôi liệm nó rồi lẳng lặng vùi nó như một con chó” – Bà bá tước đưa cho tên trộm cái khăn trải giường ” À mà này, bà ạ, tôi lại nổi máu hào hiệp đây, bà đưa tôi cái nhẫn của bà. Thằng xấu số này đã liều mạng vì cái nhẫn, thôi thì ta cho nó để nó mang xuống mồ”. Bà bá tước không muốn trái ý chồng; tuy miễn cưỡng, bà cũng rút nhẫn ra đưa. Tên trộm bước ra với hai thứ đã lấy được, nó về nhà không bị cản trở trước khi ông bá tước chôn xong ở trong vườn.

    Sáng hôm sau, ông bá tước ngẩn tò te ra khi tên trộm mang lại cho ông cái khăn và cái nhẫn!

    - Mày là phù thủy à? Ông hỏi. Ai đã kéo mày ra khỏi nấm mồ, là nơi chính tao đã chôn mày? Ai đã làm mày sống lại?

    - Ông có chôn tôi đâu, thưa ông bá tước, tên trộm nói, đó là xác một người phạm tội đáng thương ở giá treo cổ – Và nó kể lại tỉ mỉ nó đã làm như thế nào. Ông bá tước phải công nhận nó đúng là một tên trộm nhiều mưu mẹo.

    - Nhưng chưa xong đâu! Ông bảo tên trộm. Mày còn việc cuối cùng phải làm và nếu không làm được thì tất cả những gì mày đã làm đều vô ích.

    Đến đêm, nó lại nhà thờ làng, vác một cái bao tải to trên lưng, cắp nách một cái gói, tay cầm một cái đèn. Trong bao tải có cua, trong gói có những cây nến nhỏ. Tên trộm ngồi ở trong nghĩa địa sát nhà thờ, lôi một con cua trong bao tải ra, gắn lên mai cua một cây nến. Nó thắp nến lên rồi đặt con cua xuống đất cho nó bò đi. Nó lấy con thứ hai, cũng làm như vậy, và tiếp tục đến khi trong bao hết sạch cua. Lúc đó nó khoác một cái áo lông đen dài, giống cái áo của cha xứ, và gắn vào cằm một bộ râu dài màu xám. Không ai nhận được ra nó nữa. Nó vào trong nhà thờ, đứng lên trên bục giảng.

    Đúng lúc ấy, chuông đồng hồ điểm nửa đêm. Khi tiếng chuông cuối cùng đã âm vang, nó kêu gầm, giọng vang lên: “Hãy nghe đây, hỡi các người tội lỗi. Ngày tận thế đã đến! Ngày phán xử cuối cùng không còn xa! Hãy nghe đây! Hãy nghe đây! Ai muốn lên thiên đường thì hãy chui vào cái bao này. Ta là thánh Pê-tơ-rut, làm nhiệm vụ đóng và mở cửa Thiên đường. Hãy nhìn ra ngoài kia, những xác chết đang chui ra khỏi mồ và đang gom hài cốt lại. Hãy lại đây và chui vào bao này, ngày tận thế đã đến!”

    Tiếng tên trộm vang khắp làng. Cha xứ và người giúp việc ở sát nhà thờ, là người nghe thấy trước tiên. Khi họ trông thấy ánh sáng trong nghĩa địa, họ hiểu là có chuyện bất thường xảy ra và họ chạy đến nhà thờ. Họ nghe lời phán truyền của tên trộm một lúc. Người giúp việc lấy khuỷu tay huých cha xứ và nói: “Dầu sao cũng không nên bỏ lỡ cơ hội, cùng nhau lên Thiên đường không phải khó khăn vất vả gì cả” – “Nhất định rồi, cha xứ trả lời: Tôi cũng nghĩ thế. Nếu anh đồng ý thì ta cùng đi” – “Vâng, người giúp việc nói, nhưng người đi trước phải là cha, con xin đi theo sau”. Cha xứ tiến lên trước, trèo lên bục giảng, ở đó tên trộm đang cầm bao. Cha chui vào bao trước, theo sau là người giúp việc.

    Ngay lập tức, Vua trộm cột chặt miệng bao và kéo bao từ bục giảng xuống. Mái đầu của hai người ngớ ngẩn chạm phải bậc lên xuống, tên trộm lại kêu to: “Chúng ta đang leo lên núi!” Cứ như vậy nó lôi họ đi qua làng, khi qua một vũng nước thì nó lại kêu: “Bây giờ chúng ta đang qua những đám mây sinh ra mưa đấy!” Và cuối cùng, khi leo lên bậc thềm của lâu đài thì nó kêu: “Chúng ta đang trèo các bậc thang lên Thiên đường; chúng ta sẽ vào tiền sảnh!” Khi trèo lên cao, nó vứt cái bao vào chuồng chim bồ câu; chim đập cánh thì nó nói: “Các ông có nghe thấy tiếng đập cánh của các thiên thần đang vui đùa không?” Xong đâu đó, nó đóng cửa chuồng chim lại và bỏ đi.

    Sáng hôm sau, vua trộm đến gặp bá tước bảo đã làm xong việc thứ ba là bắt cóc cha xứ và người giúp việc ngay trong nhà thờ - ”Thế mày để họ ở đâu”, bá tước hỏi – “Họ đang ở một cái bao trên chuồng chim bồ câu và họ tưởng là đang ở trên trời”. Bá tước đích thân lên xem và thấy tên trộm nói đúng. Khi ông mở bao cho cho cha xứ và người giúp việc ra, ông nói: “Mày là Vua trộm và mày đã thắng cuộc. Nhưng mày hãy đi khỏi xứ sở của ta!

    Nếu người ta còn thấy mày luẩn quẩn ở đây thì chắc chắn mày sẽ hết đời trên giá treo cổ”. Vua trộm về từ biệt bố mẹ, rồi lại lên đường đi chu du thiên hạ. Từ đấy, không ai có tin gì về anh ta nữa.

    Các em có thấy tên trộm trong câu chuyện có thực sự tài giỏi không? Nhưng tại sao ông Bá tước lại đuổi ông Vua trộm ra khỏi xứ sở của mình? Bởi vì không ai ưa những tên trộm các em ạ. Nếu ông Bá tước không đuổi tên trộm ra khỏi xứ sở của ông thì sẽ có ngày của cải trong nhà ông sẽ lọt vào tay tên trộm mất thôi, đúng không nào?

    và thêm truyện bà lão chăn ngỗng
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi dvsang
    Đang tải...


  2. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Vua trộm, kiểu như trộm chuyên nghiệp
     
  3. Kimanh3380

    Kimanh3380 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    16/1/2013
    Bài viết:
    747
    Đã được thích:
    321
    Điểm thành tích:
    103
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Hay và có ý nghĩa nữa. Tối nay cuối tuần về đọc cho con nghe thôi. Cám ơn chủ top nhé!
     
  4. Candy Còi

    Candy Còi Thành viên tập sự

    Tham gia:
    22/10/2013
    Bài viết:
    17
    Đã được thích:
    3
    Điểm thành tích:
    3
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    truyện rất hay bạn ạ. tks bạn nhiều
     
  5. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Mỗi ngày một câu truyện grim cho bé

    Ba anh em

    Một người có ba con trai, cả cơ nghiệp có một cái nhà. Người con nào cũng muốn sau này, khi bố mất, nhà sẽ về mình. Ông bố thì con nào cũng quí, thành ra rất phân vân, không biết tính sao cho các con vừa lòng. Bán nhà đi thì có tiền chia cho chúng, nhưng là của hương hỏa nên ông không muốn bán. Sau ông nghĩ được một kế, bảo các con:

    - Chúng mày hãy đi chu du thiên hạ, thử gan thử sức một phen. Mỗi đứa học lấy một nghề. Đứa nào giỏi nhất, bố cho cái nhà.

    Ba người con lấy làm thích lắm. Người con cả muốn trở thành thợ đóng móng ngựa, người thứ hai muốn làm thợ cạo, còn người em út muốn làm thầy dạy võ. Ba anh em hẹn nhau ngay về, rồi chia tay ra đi.

    Cả ba người đều gặp được thầy giỏi truyền cho biết hết bí quyết nhà nghề. Người đóng móng ngựa được làm việc cho nhà vua và nghĩ bụng: “Phen này, chắc nhà không thoát khỏi tay mình”. Người thợ cạo được sửa tóc cho những nhà quyền quí nên chắc mẩm là được nhà. Anh học võ bị đấm nhiều miếng nhưng vẫn cắn răng chịu, nghĩ bụng: “Nếu sợ bị đấm thì bao giờ được nhà?”.

    Đến hẹn, ba anh em trở về nhà. Nhưng chẳng ai biết làm thế nào để thi thố tài nghệ của mình, bèn ngồi bàn với nhau. Đương lúc ấy chợt có một chú thỏ băng qua cánh đồng. Anh thợ cạo reo lên: “May quá, thật là vừa đúng dịp”. Anh liền cầm đĩa xà phòng, đánh
    bọt, đợi thỏ ta đến gần, anh vừa chạy theo vừa quét xà phòng, cạo râu thỏ mà không hề làm thỏ xầy da chút nào. Người bố khen: “Khá lắm! Nếu hai thằng kia không làm được trò gì hay hơn thế thì cho mày cái nhà”.

    Một lát sau có một cỗ xe ngựa chạy qua như bay. Anh đóng móng ngựa nói: “Bố xem tài con nhé!”. Anh liền chạy đuổi theo cỗ xe, tháo bốn móng sắt của một con ngựa và thay luôn bốn móng mới trong khi ngựa vẫn phi đều. Người bố lại khen: “Mày giỏi lắm! Mày chẳng kém gì em mày. Không biết cho đứa nào cái nhà đây!”.

    Lúc bấy giờ người con út mới nói:

    - Thưa bố, bây giờ đến lượt con, bố cho con thử tài.

    Vừa lúc ấy trời bắt đầu mưa. Anh ta rút ngay gươm múa kín trên đầu, người không dính một giọt nước nào. Trời mưa ngày càng to, anh ta múa càng hăng, áo quần vẫn khô như đứng nơi kín đáo. Người bố ngạc nhiên quá reo lên:

    - Con thật là tài nhất! Thôi con được cái nhà rồi.

    Hai anh cũng phục người em út lắm và đồng ý với cha. Ba anh em rất mực thương nhau nên ở cùng một nhà, mỗi người làm nghề của mình. Họ tài khéo nên kiếm được nhiều tiền. Họ sống sung sướng như vậy mãi cho đến lúc tuổi già, một người ốm chết, hai người kia buồn rầu cũng chết theo. Cả ba anh em vừa khéo vừa giỏi, lại vừa quí mến lẫn nhau, đều được chôn chung một mộ.

    Châu truyện tiếp theo: Anh chàng đánh trống
     
  6. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Mỗi ngày một câu truyện grim cho bé

    Anh chàng đánh trống
    Một buổi tối, chàng đánh trống trẻ tuổi đi một mình giữa cánh đồng. Tới bên một cái hồ, anh thấy trên bờ ba chiếc áo trắng của ai vứt đó. Anh khen: “Vải đẹp quá!”. Rồi nhét luôn một chiếc vào túi. Về nhà, anh cũng quên khuấy mất câu chuyện nhặt được của rơi. Anh lên giường nằm, sắp ngủ chợt nghe như có tiếng người gọi tên mình. Anh lắng nghe thì quả có tiếng gọi rất khẽ: “Anh đánh trống ơi, anh đánh trống ơi, dậy đi thôi”. Đêm tối quá, anh không nhìn thấy rõ người nhưng anh thấy rõ một cái bóng cứ lơ lửng trước giường anh nằm.

    Anh hỏi:

    - Mày muốn gì?

    Tiếng người đáp:

    - Trả lại cho tôi cái áo, cái áo anh đã lấy của tôi ở bờ hồ tối nay ấy.

    Anh đánh trống nói:

    - Được, ta sẽ trả, song mày phải cho ta biết mày là ai đã.

    “Trời!”, tiếng người đáp. “Tôi là con gái một ông vua hùng cường. Chẳng may tôi sa vào tay một mụ phù thủy và bị nó đầy lên ngọn núi Thủy tinh. Ngày nào ba chị em tôi cũng xuống hồ tắm. Hôm nay vì mất áo, tôi không về được nữa. Các chị đã bay đi cả rồi, riêng tôi phải ở lại. Tôi van anh, anh hãy trả lại áo cho tôi”.

    Anh đánh trống nói: “Cứ yên chí, cô bé đáng thương ơi, tôi sẵn lòng trả lại áo cho cô”.

    Anh rút túi lấy áo trả lại cho người đứng trong bóng tối. Người con gái vội cầm lấy định đi ngay. Anh gọi cô ta lại:

    - Hãy khoan đã, may ra tôi có thể giúp cô chăng?

    - Muốn giúp tôi thì chỉ có cách là anh lên ngọn núi Thủy tinh mà cứu tôi thoát khỏi phép thuật của mụ phù thủy. Nhưng anh lên núi làm sao nổi, dù anh có lọt vào sát tới chân núi, anh vẫn không thể lên được.

    Anh đánh trống nói:

    - Tôi thương cô và tôi không sợ gì hết. Nhưng tôi không biết đường đi.

    Người con gái đáp:

    - Đường đi qua một khu rừng lớn. Trong rừng có bọn khổng lồ ăn thịt người, tôi chỉ được phép nói với anh thế thôi. Nói xong cô gái biến mất.

    Sớm hôm sau, trời vừa rạng sáng, anh đánh trống lên đường, đeo trống đi thẳng vào rừng không chút sợ hãi. Đi được một lát mà vẫn chưa thấy tên khổng lồ nào, anh nghĩ bụng: “Phải đánh thức cái bọn ngủ trưa này dậy”. Anh bèn xoay trống ra phía trước, khua vang một hồi, khiến chim chóc trên cây đều xao xác bay đi.

    Chỉ một lát sau, thấy một tên khổng lồ nằm ngủ trong bụi cỏ nhỏm dậy. Hắn đứng cao lênh khênh như một cây thông. Hắn thét: truyen co grim

    - Thằng nhóc kia, mày làm gì mà khua ầm lên, làm mất giấc ngủ ngon.

    Anh đáp:

    - Ta đánh trống để chỉ đường cho hàng vạn người còn đi sau ta và sắp kéo cả đến đây bây giờ.

    Tên khổng lồ nói:

    - Ui chao, tao sẽ giẫm chết bọn mày như giẫm chết đàn kiến ấy.

    Anh đánh trống tiếp lời:

    - Mày tưởng mày chống cự nổi họ à? Mày cúi xuống định chộp một người thì người đó lập tức nhảy đi và ẩn nấp ngay. Nhưng đợi lúc mày đi nằm, ngủ lại rồi, từ khắp các bờ bụi, họ mới kéo ra và trèo lên người mày. Người nào cũng có một cây búa sắt giấu trong thắt lưng, họ sẽ đập vỡ sọ mày ra.

    Tên khổng lồ thấy ngài ngại. Hắn nghĩ bụng: “Mình mà dây với lũ ranh ma này, kéo lại bị hại. Sói và gấu, ta bóp cổ chết tươi ngay, nhưng cái đám sâu đất này thì khó chơi đây”.

    Hắn nói:

    - Nghe này, thằng nhóc, mày hãy cút đi, ta hứa từ nay về sau không đụng đến mày và đồng bọn của mày. Và nếu như mày muốn gì nữa thì cứ nói, ta sẵn sàng làm mày vui lòng.

    Anh đánh trống nói:

    - Chân mày dài, mày có thể chạy nhanh hơn tao, mày hãy đem ta lên ngọn núi Thủy tinh. Ta sẽ ra hiệu cho người của ta rút đi thì mày được yên ổn.

    Tên khổng lồ nói:

    - Lại đây, giống sâu bọ kia, leo lên vai ta mà ngồi, ta sẽ đem mày lên đó.

    Tên khổng lồ nhấc anh lên. Ngồi yên trên đó rồi, anh lại bắt đầu khua trống rộn lên một hồi. Tên khổng lồ nghĩ bụng: “Có lẽ nó đang làm hiệu cho bọn kia rút”.

    Đi được một quãng thì gặp một tên khổng lồ nữa. Hắn nhấc luôn anh đánh trống khỏi vai tên kia và mắc anh vào một khuy áo. Anh đánh trống vội bám vào cái khuy, to bằng cái chậu sành ngồi chắc ở đó, ngó nhìn xung quanh, có vẻ rất thích thú. Lại gặp một tên thứ ba, tên này lôi anh ra khỏi cái lỗ khuy áo và giắt anh lên vành mũ của hắn. Anh đánh trống ngồi rập rình trên đó, nhìn qua các ngọn cây, thấy tít tắp phía xa xanh biếc có một trái núi. Anh nghĩ bụng: “Chắc là ngọn núi Thủy tinh”. Mà cũng đúng thế thật. Tên khổng lồ chỉ đi có vài bước nữa là tới sát bên chân núi, hắn đặt anh xuống đất. Anh đánh trống đòi hắn đưa luôn anh lên đỉnh núi, song hắn lắc đầu nói lẩm bẩm câu gì trong miệng rồi quay vào rừng.

    Trước mặt anh chàng đánh trống đáng thương là một trái núi cao ngất, đến bằng ba trái núi thường xếp chồng lên nhau. Sườn núi láng như gương, không còn biết trèo lên bằng cách nào cho được. Anh cố trèo lên nhưng vô hiệu, lần nào cũng bị tuột. Anh nghĩ bụng: “Ước gì lúc này mình là chim”. Nhưng ước suông nào được ích gì, cánh vẫn không thấy mọc. Giữa lúc anh đứng ngây ra chưa biết làm gì bỗng cách đấy không xa lắm có hai người đang cãi nhau rất
    hăng. Anh đi lại phía họ thì thấy họ đang tranh nhau một cái yên ngựa vứt trên mặt đất, người nào cũng muốn lấy cái yên đó.

    Anh nói:

    - Các anh mới ngốc làm sao, ngựa chẳng có, giành giật nhau cái yên để làm gì?

    Một người đáp:

    - Tranh nhau cái yên đó là có lý do, ai ngồi lên yên muốn đi đâu cũng được. Dù muốn đến tận cùng thế giới thì cũng chỉ nói một câu là sẽ tới ngay trong nháy mắt. Yên vốn là của chung chúng tôi, bữa nay đến lượt tôi cưỡi song gã nay lại không chịu.

    Anh đánh trống nói:

    - Được để tôi phân xử cho.

    Anh đi một quãng và cắm một cái gậy trắng xuống đất. Đoạn anh quay lại bảo:

    - Giờ hai người cứ nhằm cái đích kia mà chạy, ai đến trước thì người đó sẽ được ngồi trước.

    Hai người thì nhau chạy, song họ mới chạy được vài bước thì anh đánh trống đã nhảy tót lên yên ngựa. Anh ước được lên ngọn núi Thủy tinh, tức thì chưa kịp trở bàn tay, anh đã ở trên đó rồi.

    Trên núi có một chỗ đất bằng. Ở đó có một ngôi nhà xây bằng đá đã cũ. Trước cửa có một cái ao cá lớn, phía sau là rừng rậm. Anh chẳng thấy người nào, vật nào cả. Khung cảnh yên lặng, chỉ có tiếng gió thổi vi vu trên ngọn cây và mây lững lờ trôi qua sát ngay trên đầu. Anh bước tới gõ cửa. Gõ đến lần thứ ba thì thấy một mụ già ra mở cửa. Mặt mụ đen xạm, đôi mắt đỏ ngầu. Mụ mang một cặp kính trên cái sống mũi dài thườn thượt, ngó anh trừng trừng và hỏi anh muốn gì. Anh đáp:

    - Cho tôi vào ăn và ngủ nhờ

    Mụ già nói:

    - Được, nếu người chịu làm cho ta ba việc.

    Anh đáp:

    - Được thôi, tôi chẳng ngại việc gì hết, dù là việc nặng nhọc. Mụ già cho anh vào, cho anh ăn và tối hôm đó xếp cho anh một cái giường rất êm.

    Sớm hôm sau, đợi anh đã ngủ no mắt rồi, mụ mới rút từng ngón tay khẳng khiu của mụ ra một cái đê khâu đưa cho anh và bảo:

    - Giờ ngươi đi làm đi, ngươi hãy cầm lấy cái đê này tát cạn ao trước nhà cho ta, hẹn đến tối phải xong, và cá dưới nước đã bắt hết lên phải xếp theo từng giống cá và tùy theo cỡ lớn nhỏ.

    Anh đánh trống nói:

    - Thật là một việc hiếm có.

    Nhưng anh vẫn cứ ra ao và bắt đầu tát nước. Anh tát suốt sáng, nhưng với một đê khâu bé tẹo, sao tát cạn nổi một lượng nước lớn như vậy, dù có dài đến ngàn năm đi nữa?

    Đến giữa trưa, anh tự nhủ:

    - Thế là toi công, làm cũng như không làm.

    Anh dừng tay rồi xuống. Vừa khi ấy, một người con gái từ trong nhà đi ra, xách một làn thức ăn đưa cho anh và hỏi:

    - Anh ngồi thừ ra đấy trông buồn quá, có điều gì thế?

    Anh ngước nhìn thấy người con gái thật là tuyệt đẹp. Anh nói:

    - Chà, mới việc thứ nhất đã làm chưa xong, không biết rồi những việc khác sẽ ra thế nào? Tôi đi tìm một nàng công chúa ở đâu trong này song không thấy, tôi muốn đi nữa đây.

    Người con gái bảo :

    - Cứ ở đây, tôi sẽ giúp anh làm việc khó khăn này. Anh mệt rồi, hãy tạm ngả đầu vào lòng tôi đây mà ngủ. Lúc nào anh trở dậy, việc cũng sẽ vừa xong.

    Anh đánh trống không đợi mời đến lần thứ hai. Anh nhắm mắt thì người con gái xoay chiếc nhẫn thầm nói:

    - Nước lên đi, cá ra đi.

    Tức thì nước lên hơi như sương trắng và cùng mây trôi đi. Cá quẫy lên, nhảy cả lên bờ nằm cạnh nhau xếp theo loại và theo cỡ lớn nhỏ. Đến khi tỉnh dậy, anh đánh trống ngạc nhiên thấy mọi việc đã đâu vào đấy. Nhưng người con gái bảo:

    - Có một con cá không nằm cùng với đồng loại của nó, mà lại nằm riêng một mình. Chiều tối, mụ già đến, thấy mọi việc đã xong như ý mụ muốn, thế nào mụ cũng hỏi: “Tại sao có một con cá này?”. Khi ấy anh hãy ném ngay con cá vào mặt mụ mà nói: “Để phần mày đấy, con mụ phù thủy già ạ”.

    Chiều tối, mụ già đến. Mụ vừa dứt lời hỏi, anh đánh trống ném ngay con cá vào mặt mụ. Mụ cứ lờ đi như không có việc gì xảy ra, chẳng nói một câu, nhưng mụ nhìn anh một cách rất nham hiểm.

    Sớm hôm sau, mụ bảo:

    - Việc hôm qua dễ quá, ta phải giao cho mày một việc nặng hơn. Bữa nay, mày phá cho cả khu rừng ngoài kia, phải bổ cây thành củi, bổ xong phải xếp thành từ thước một và cũng hạn cho đến chiều tối phải xong.

    Mụ đưa cho anh một cây rìu, một con dao rựa với hai con nêm. Nhưng lưỡi rìu lại bằng chì, con dao với nêm đều bằng sắt tây. Anh vừa bắt tay vào việc, rìu đã bị quằn lưỡi, rựa và nêm đều bẹp rúm. Anh không còn biết xoay xở ra sao. Nhưng đến trưa, người con gái hôm trước lại đem thức ăn tới cho anh. Cô an ủi anh:

    - Anh ngả đầu vào lòng tôi mà ngủ đi, khi nào anh tỉnh dậy, mọi việc sẽ xong cả.

    Người con gái lại xoay chiếc nhẫn thần. Trong nháy mắt cả rừng chuyển mình răng rắc, rồi sập xuống, từng cây gỗ cứ tự tách ra thành củi, rồi những thanh củi nhỏ lại tự xếp thành từng thước. Dường như có những người khổng lồ vô hình nào đã làm việc đó. Lúc anh thức giấc, người con gái bảo:

    - Anh thấy không, gỗ đã được bổ và xếp thành đống rồi. Chỉ còn mỗi một cành. Chiều nay mụ già có tới hỏi sao còn sót thì anh lấy cành cây quật cho mụ một cái mà bảo: “Để phần cho mày đó, mụ phù thủy ạ”.

    Mụ già đến, mụ nói:

    - Thấy không, việc thật là quá dễ. Nhưng còn cái cành kia để cho ai đó?

    Anh đáp:

    - Để cho mày đó, mụ phù thủy ạ.

    Rồi anh quất cho mụ một roi. Nhưng mụ vẫn cứ lờ đi như không có gì xẩy ra. Mụ chỉ cười mỉa mai và bảo:

    - Sớm mai mày phải đem hết gỗ chất lại thành một đống, nhóm lửa đốt đi cho ta.

    Trời vừa sáng thì anh thức giấc và bắt đầu di chuyển gỗ. Nhưng chỉ có một mình anh thì làm sao chuyển nổi được cả một rừng gỗ. Công việc cứ ì ạch mãi. Nhưng người con gái không bỏ anh trong lúc khó khăn. Buổi trưa, cô đem thức ăn đến cho anh. Ăn xong, anh lại ngả đầu vào lòng cô mà ngủ. Lúc anh tỉnh dậy thì cả đống gỗ đã đỏ rực lửa, ngọn lửa liếm đến tận trời xanh. Người con gái nói:

    - Anh ạ, lát nữa con mụ đến, thế nào nó cũng sẽ bắt anh làm nhiều thứ, nó bảo gì anh cứ nhận, đừng sợ, nó không làm gì được anh đâu. Anh mà sợ thì lửa sẽ bắt vào người anh và thiêu anh ra tro tức khắc. Cuối cùng, khi anh đã làm xong mọi việc rồi, anh hãy ôm luôn cả con mụ quẳng nó vào đống lửa.

    Người con gái đi được một lúc thì mụ già rón rén tới. Mụ kêu:

    - Chà, rét quá, nhưng đống lửa cháy to cũng làm ấm được nắm xương già; ta thấy dễ chịu quá. Nhưng còn khúc gỗ không cháy kia kìa, mày hãy khuân ra đây cho ta. Mày làm xong được nốt việc này, ta cho mày tự do muốn đi đâu thì đi. Cứ nhanh nhẹn mà bước vào đi.

    Anh đánh trống không nghĩ ngợi lâu, nhảy luôn vào giữa đống lửa, nhưng lửa không đụng gì đến anh, cũng không thiêu mất một sợi tóc của anh. Anh khuân khúc gỗ ra, đặt xuống. Khúc gỗ vừa chạm mặt đất thì biến thành người con gái đẹp đã từng giúp anh qua bao khó khăn. Thấy quần áo óng ánh như vàng của nàng anh nhận ngay ra đó là công chúa. Nhưng mụ già vẫn cười rất thâm độc. Mụ bảo:

    - Mày tưởng con bé ấy đã ở trong tay mày rồi sao? Chưa đâu!

    Mụ vừa định chạy đến chỗ người con gái để lôi cô ta đi thì mụ bị anh dang hai tay ôm lại, nâng bổng lên và ném vào giữa đống lửa đang ngùn ngụt cháy. Lửa cuốn lấy mụ, dường như lửa cũng lấy làm mừng được kết liễu cuộc đời một mụ phù thủy.

    Công chúa ngước nhìn anh đánh trống, thấy anh đẹp trai, lại nhớ đến anh đã không tiếc cả tính mạng để cứu mình, nàng bèn đưa tay cho anh và bảo:

    - Chàng đã dám làm tất cả vì thiếp, thì thiếp cũng sẽ sẵn sàng làm tất cả vì chàng. Chỉ cần chàng hứa chung thủy, thiếp sẽ xin lấy chàng. Của cải không thiếu, riêng số của mụ phù thủy thu gom tại đây, cũng thừa đủ đối với chúng ta.

    Công chúa dẫn anh vào trong nhà, hòm, rương đều đầy ắp của. Hai người không lấy vàng, không lấy bạc mà chỉ lấy châu báu. Họ không muốn ở trên núi Thủy tinh lâu nữa. Anh bảo công chúa:

    - Nàng hãy ngồi ghé vào bên yên, chúng ta sẽ bay xuống như chim.

    Nàng đáp:

    - Thiếp không ưa cái yên ngựa cũ kỹ đó, thiếp chỉ cần xoay chiếc nhẫn thần này của thiếp thì đôi ta ở nhà rồi.

    Anh đánh trống nói:

    - Tốt thôi, thế thì nàng hãy ước cho chúng ta đến trước cổng thành.

    Trong nháy mắt, hai người đã ở đó. Anh đánh trống bảo:

    - Anh muốn về qua nhà cho cha mẹ biết tin đã. Nàng cứ đợi anh ở cánh đồng này, anh sẽ trở lại ngay.

    Công chúa đáp:

    - Trời ơi, thiếp xin chàng, chàng hãy lưu ý, về nhà chàng chớ có hôn cha mẹ chàng lên má bên phải; nếu không chàng sẽ quên hết mọi việc còn thiếp sẽ cứ phải bơ vơ chờ mãi ở cánh đồng này.

    - Ta quên nàng sao được.

    Anh nắm tay nàng hứa sẽ trở lại ngay tức khắc. Lúc anh về tới nhà, không người nào biết anh và anh đã thay đổi quá nhiều. Ba ngày trên núi Thủy tinh dài bằng ba năm. Anh phải tự giới thiệu, khi đó bố mẹ mới sung sướng ôm chầm lấy anh. Quá xúc động anh quên bẵng mất lời người con gái đã dặn, hôn luôn bố mẹ vào cả hai bên má. Sau khi anh hôn lên má bên phải bố
    anh và mẹ anh thì anh không còn nhớ gì đến nàng công chúa nữa. Anh dốc túi lấy ra một nắm những hạt ngọc lớn nhất, để lên mặt bàn. Bố mẹ không biết dùng của cải đó vào việc gì. Ông cụ bèn làm một tòa lâu đài thật lộng lẫy; chung quanh nhà nào vườn, nào rừng, nào đồng cỏ, như dinh cơ của một ông hoàng vậy. Lúc đã xây nhà xong, bà cụ bảo:

    - Mẹ đã kiếm cho con được một người con gái rồi đấy, ba hôm nữa sẽ làm lễ cưới.

    Bố mẹ anh muốn sao, anh cũng bằng lòng hết. Còn nàng công chúa đáng thương kia vẫn đứng đợi ngoài ở ngoài cổng thành. Mãi đến tối, nàng mới tự nhủ: “Chắc là chàng đã hôn lên má bên phải của cha mẹ chàng nên đã quên ta mất rồi”. Trong dạ rất buồn nàng bèn ước được một ngôi nhà nhỏ hẻo lánh trong rừng, nàng không muốn trở về triều đình vua cha nữa. Chiều
    nào, nàng cũng vào thành, đi qua trước cửa nhà chàng. Đôi khi chàng cũng có trông thấy nàng nhưng không nhận ra được là ai. Sau nàng thấy thiên hạ bàn tán: “Mai sẽ làm lễ cưới anh ta đấy”, nàng tự nhủ: “Mình cứ cố xem, biết đâu không chiếm lại được trái tim chàng”.

    Đợi tới ngày thứ nhất của lễ cưới, nàng xoay chiếc nhẫn và ước: “Một chiếc áo sáng như mặt trời”. Tức thì cái áo hiện ngay ra trước mặt nàng, rực rỡ lạ thường, như dệt toàn bằng ánh nắng vậy. Khi khách khứa đã đến đông đủ cả, nàng mới bước vào trong phòng. Anh rất ngạc nhiên về tấm áo đẹp, nhất là cô dâu. Xưa nay cô dâu vốn chỉ mê quần áo đẹp, vội tiến lại tiến về phía người khách lạ, hỏi xem khác có muốn bán áo chăng.

    Công chúa đáp:

    - Tôi không lấy tiền, chỉ cần đêm tân hôn cho phép tôi đứng ngay tại trước phòng chú rể ngủ, tôi sẽ cho không chiếc áo.

    Cô dâu thích áo quá đồng ý ngay, nhưng sau đó cô đã tinh khôn trộn ngay ít thuốc ngủ vào cốc r*** của chú rể, làm chú rể ngủ li bì. Đợi lúc đâu đấy yên tĩnh cả, công chúa mới đến ngồi trước cửa phòng ngủ, khẽ mở cánh cửa gọi vọng vào trong:

    - Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!

    Nhưng nào có ích gì, anh đánh trống vẫn không tỉnh giấc. Rạng hôm sau, công chúa đành bỏ đi, không được gì cả. Tối thứ hai, nàng công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: “Một chiếc áo bằng bạc như ánh trăng”. Thấy nàng mặc chiếc áo thanh lịch như ánh trăng đi vào đám lễ, cô dâu lại nổi lòng tham và lại đồng ý cho nàng đứng một đêm nữa trước cửa phòng ngủ để đổi lấy chiếc áo. Đợi đến đêm khuya thanh vắng nàng lại gọi:

    - Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!

    Nhưng nàng không thể đánh thức được chàng đánh trống đã uống thuốc ngủ. Sớm hôm sau, công chúa lại đành trở về ngôi nhà nhỏ trong rừng, lòng buồn vô hạn. Có người ở trong nhà nghe được tiếng than của nàng đêm trước đã kể lại cho chú rể nghe. Họ cũng nói cho chàng rõ là vì chàng đã uống phải thuốc ngủ trong r*** nên không thể nghe thấy được những lời than đó.

    Tối ngày thứ ba, công chúa lại xoay chiếc nhẫn thần và ước: “Một chiếc áo lấp lánh như sao”. Thấy nàng mặc chiếc áo đó vào dự lễ, hai chiếc áo trước đã đẹp mà còn thua xa, cô dâu rất tức tối. Cô ta tự nhủ: “Ta phải lấy chiếc áo ấy và nhất định ta sẽ lấy được”.

    Cũng như hai lần trước công chúa lại đổi chiếc áo để được phép qua một đêm ở trước cửa phòng chú rể. Nhưng lần này chú rể không uống cốc r*** đưa trước khi đi ngủ anh để r*** ra mé sau giường nằm. Và đến lúc trong nhà đã yên tĩnh đâu đấy cả, anh nghe có tiếng có tiếng người dịu dàng gọi anh:

    - Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp. Chàng quên thiếp rồi sao? Trên núi Thủy tinh, chàng ngồi bên cạnh thiếp, chống mụ phù thủy, thiếp đã bảo vệ chàng! Chàng nắm tay thiếp, thề thốt trăm năm. Chàng đánh trống ơi, chàng đánh trống ơi, hãy nghe lời thiếp!

    Anh chợt nhớ lại tất cả mọi chuyện. Anh kêu lên:

    - Trời! Sao ta lại có thể ăn ở bội bạc như thế nhỉ? Nhưng lỗi chính là ở cái hôn, cái hôn giữa lúc bối rối ta đã đặt lên má bên phải của cha mẹ ta, nó đã làm cho ta u mê đi.

    Anh vùng dậy, dắt tay công chúa dẫn đến trước giường nằm của bố mẹ. Anh nói:

    - Đây mới là cô dâu thật, nếu như con lấy người kia thì con sẽ có lỗi vô cùng.

    Bố mẹ anh nghe rõ đầu đuôi câu chuyện cũng bằng lòng. Tức thì trong phòng lớn đèn nến lại được thắp sáng trưng, tiếng kèn lại vang lên, bè bạn, họ hàng được mời ngay trở lại, đám cưới thật được tổ chức trong bầu không khí vui vẻ, tưng bừng. Cô dâu kia được giữ lại mấy chiếc áo đẹp coi như của bồi thường và cô ta cũng hài lòng.
     
  7. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Mỗi ngày một câu truyện grim cho bé

    Có hai anh em nhà kia mồ côi mẹ. Một hôm, anh dắt em gái đi thủ thỉ nói:

    - Từ ngày mẹ mất, anh em mình không có lúc nào sung sướng nữa. Mẹ ghẻ hàng ngày đánh đập, xin cái gì thì thượng cẳng chân, hạ cẳng tay đuổi đi. Ăn thì chỉ có mấy miếng bánh mì đầu thừa đuôi thẹo. Con cún ở chân bàn còn sướng hơn anh em mình, thỉnh thoảng nó còn được mẹ ghẻ vứt cho một miếng ngon. Lạy trời phù hộ để mẹ chúng mình thấy tình cảnh này! Thôi em ạ, anh em mình hãy bỏ nhà đi đi.

    Hai anh em đi suốt hai ngày qua đồng ruộng bãi hoang. Trời đổ mưa, anh bảo em:

    - Trời khóc cùng với anh em mình đấy.

    Chiều tối, hai anh em tới một khu rừng to. Chúng đi đường xa, vừa đói vừa mệt, chui vào hốc cây ngủ. Sáng hôm sau, khi chúng bừng mắt dậy thì mặt trời đã lên cao, nắng chiếu vào trong hốc cây. Anh nói:

    - Em ạ, anh khát quá. Hễ gặp suối là anh uống ngay. Mà nghe như có tiếng suối đâu đây.

    Anh đứng dậy dắt em đi tìm suối. Mẹ kế vốn là một mụ phù thủy. Mụ đã thấy hai đứa trẻ ra đi nên mụ rón rén bước theo. Mụ phù phép vào tất cả các suối trong rừng. Hai anh em thấy một cái suối chảy như thác bạc xuống đá. Anh muốn uống, nhưng em nghe như có tiếng rì rào trong suối:

    - Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp. Ai uống nước ta, sẽ hóa ra cọp.

    Em bảo anh:

    - Em xin anh, anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành thú dữ xé xác em mất.

    Anh khát đến cháy cổ, vẫn cố nhịn không uống:

    - Thôi đợi đến suối sau.

    Tới suối thứ hai, em nghe thấy tiếng rì rào:

    - Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói. Ai uống nước ta, sẽ thành chó sói.

    Em lại bảo anh:

    - Anh ơi, em xin anh chớ có uống, kẻo lại hóa thành chó sói ăn thịt em.

    Anh không uống, nói:

    - Đến suối sau, em muốn nói gì thì nói, thế nào anh cũng phải uống, anh khát quá rồi.

    Hai anh em đến suối thứ ba thì em nghe thấy tiếng rì rào:

    - Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang. Ai uống nước ta sẽ hóa thành con mang.

    Em bảo:

    - Ối anh ơi, em xin anh, anh chớ có uống kẻo lại hóa thành con mang bỏ em mà chạy.

    Nhưng anh đã quì gối, cúi xuống uống nước suối. Môi vừa dính nước thì người đã hóa thành con mang. Em khóc than thương hại cho anh. Con mang cũng khóc lóc và ngồi rầu rĩ bên em. Mãi sau em mới nói:

    - Anh mang thân mến ơi, anh mang cứ yên tâm, em sẽ không bao giờ rời anh mang ra đâu.

    Rồi em tháo nịt vàng ra buộc cổ mang, lại đi nhổ cói tết một sợi dây mềm, dắt mang vào rừng sâu. Người và vật đi mãi thì tới một căn nhà nhỏ. Em nhìn vào thấy nhà bỏ không, nghĩ bụng ở lại đấy được. Em đi tìm rêu và lá khô làm đệm cho mang. Sáng sáng, em đi tìm củ, quả dại và hạt dẻ để ăn, lấy cỏ non, đút cho mang ăn. Mang vui thích nhảy nhót quanh em. Buổi tối, khi em mệt, em gối đầu vào lưng mang ngủ một giấc ngon lành. Nếu anh lại biến thành người được thì cuộc đời của hai anh em thật sung sướng.

    Chúng sống quạnh hiu như vậy một thời gian trong rừng hoang. Một hôm, vua tổ chức một cuộc săn lớn trong rừng. Tiếng tù và, tiếng chó sủa, tiếng người đi săn hò hét cười đùa vang trời. Mang nghe thấy, muốn nhập cuộc quá đi mất. Mang bảo em:

    - Anh xin em, em hãy cho anh nhập cuộc săn. Anh không chịu được nữa.

    Mang van xin mãi, em đành để cho đi. Em nói với mang:

    - Nhưng thế nào chiều tối anh cũng phải về nhé. Em sẽ đóng cửa lại để đề phòng bọn đi săn độc ác. Anh về nhớ gõ cửa nói: “Em ơi em, hãy mở cho anh vào, để em nhận ra anh. Nếu anh không nói thì em không mở cửa đâu nhé”.

    Mang nhảy ra ngoài trời rất là thảnh thơi vui thú. Vua và quần thần thấy con mang đẹp, đuổi theo nhưng không kịp. Lúc tưởng là bắt được đến nơi thì mang nhảy vọt qua bụi cây biến mất. Chiều tối, mang về nhà gõ cửa nói:

    - Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào.

    Cửa mở, mang nhảy vào, nằm nghỉ suốt đêm trên đệm ấm. Sáng hôm sau, cuộc săn lại bắt đầu, mang ta nghe tiếng tù và, tiếng người đi săn la hò, sốt ruột bảo: “Em ơi em, mở cửa cho anh, thế nào anh cũng phải ra mới được”. Em mở cửa cho mang ra và bảo: “Nhưng đến tối anh phải về nhé, nhớ nói câu em dặn”.

    Vua và quần thần vừa thấy con mang đeo vòng vàng thì đuổi theo liền, nhưng mang chạy nhanh hơn họ. Họ dồn mang suốt ngày, đến tối thì vây được mang. Một người bắn trúng chân mang khiến mang bị thương nhẹ, khập khiễng đi không được nhanh. Người đi săn theo dõi mang đến tận căn nhà nhỏ và nghe thấy mang gọi:

    - Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào.

    Cửa mở ra rồi đóng lại liền. Người đi săn nhớ kỹ những điều mắt thấy tai nghe, kể lại cho
    vua. Vua phán: “Ngày mai lại đi săn”.

    Em thấy mang bị thương sợ lắm. Em lau sạch máu, đắp lá, bảo mang:

    - Mang ơi mang, mang ra nằm nghỉ trên nệm đi cho khỏi.

    Nhưng vết thương nhẹ nên sáng hôm sau mang không thấy đau gì nữa. Thấy ở bên ngoài cuộc săn lại nhộn nhịp, mang bảo:

    - Mang không nhịn được nữa đâu, mang đi đây. Không phải dễ mà bắt được mang đâu!

    Em khóc lóc bảo:

    - Lần này thì họ giết chết anh mất, rồi em ở một mình trong rừng, chẳng ai nghĩ đến em nữa. Không, em không để anh ra đâu.

    Mang đáp:

    - Thế thì mang ở đây cũng đến sốt ruột mà chết. Hễ mang nghe tiếng tù và là lòng lại rộn lên.

    Em không biết làm thế nào, đành rầu rầu mở cửa. Mang vui vẻ, nhảy tót vào rừng.

    Vua trông thấy mang, ra lệnh cho các người đi săn:

    - Đuổi nó cho đến đêm, nhưng chớ đụng đến nó.

    Mặt trời vừa lặn thì vua bảo người đi săn đã đến báo vua lần trước:

    - Nào đi, ngươi hãy dẫn ta đến căn nhà nhỏ trong rừng.

    Tới cửa, vua gõ và gọi:

    - Em ơi em, hãy mở cửa cho anh vào.

    Cửa mở, vua vào, thấy một cô gái đẹp tuyệt trần. Cô sợ quá vì không thấy mang của mình mà lại thấy một người đội mũ miện vàng. Vua nhìn cô rất dịu dàng, cầm lấy tay cô bảo:

    - Nàng có muốn theo trẫm về cung làm hoàng hậu không?

    Cô nói:

    - Thiếp xin vâng, nhưng xin cho mang đi cùng, thiếp không bỏ mang đâu.

    Vua đáp:

    - Mang sẽ ở với nàng suốt đời và sẽ không bao giờ bị thiếu thốn gì.

    Giữa lúc ấy thì mang nhảy vào. Em lấy dây buộc mang, dắt ra khỏi nhà.

    Vua đặt em lên ngựa cùng ngồi đưa về cung, làm lễ cưới rất to. Em lên ngôi hoàng hậu, hai vợ chồng hưởng hạnh phúc lâu dài. Mang được chăm nom săn sóc, tha hồ nhảy nhót trong vườn thượng uyển.

    Mụ dì ghẻ ác nghiệt đã làm cho hai anh em phải bỏ trốn, vẫn tưởng là sau đó em bị thú rừng ăn thịt và anh thì bị bắn chết. Khi mụ được tin cả hai anh em đều sung sướng thế thì mụ ghen tức lồng lộn. Mụ lại nghĩ cách hại chúng. Con gái mụ xấu như ma lem, chỉ có độc một mắt, dằn vặt mụ:

    - Số con phải được làm hoàng hậu cơ!

    Mụ an ủi con:

    - Mày cứ yên trí. Tao sẽ không để lỡ dịp đâu.

    Hoàng hậu đẻ ra một đứa con trai xinh đẹp, trong khi vua đi săn vắng. Mụ phù thủy già chỉ chờ đợi lúc ấy. Nó hóa phép biến thành một người hầu gái, vào trong phòng hoàng hậu nói:

    - Tâu lệnh bà, nước tắm đã sẵn sàng, mời lệnh bà đi tắm cho khỏe người, lệnh bà đi ngay kẻo nước nguội.

    Con gái mụ đứng sẵn đó. Hai mẹ con khiêng hoàng hậu mệt lả vào buồng tắm, khóa cửa lại bỏ đi. Chúng hun lửa ở trong buồng tắm để cho bà hoàng hậu trẻ đẹp bị chết ngạt.

    Mụ già làm xong việc ấy liền đội mũ cho con, đưa vào nằm giường hoàng hậu. Mụ hóa phép cho con biến thành hoàng hậu hình dáng vẻ người y hệt, nhưng không sao chữa được con mắt hỏng cho con. Con mụ đành nằm nghiêng về mé mắt hỏng để vua không nhận ra. Buổi tối, vua đi săn về, nghe nói hoàng hậu sinh con trai mừng lắm, định tới giường hoàng hậu thăm.
    Mụ già vội nói:

    - Chớ chớ, bệ hạ chớ có kéo rèm lên. Hoàng hậu chưa nhìn ánh sáng được đâu, phải nghỉ ngơi đã.

    Vua lui về, không biết có hoàng hậu giả nằm trong giường. Đến nửa đêm, mọi người đều ngủ, người bảo mẫu một mình thức bên nôi Hoàng tử thấy cửa mở ra, hoàng hậu thật bước vào. Bà
    bế con ở nôi ra, cho con bú. Rồi bà giũ gối cho con, đặt con nằm và đắp chăn cho con. Bà cũng không quên con mang, bà đi tới góc phòng nó nằm và vuốt lưng nó. Sau đó, bà lẳng lặng ra. Hôm sau, người bảo mẫu hỏi lính canh có thấy ai ban đêm vào cung không. Lính canh đáp:

    - Không, chúng tôi chẳng thấy ai cả.

    Hoàng hậu đến mấy đêm như thế mà không bao giờ nói một câu gì. Người bảo mẫu nhìn thấy bà nhưng không dám nói hở cho ai biết. Sau một thời gian, hoàng hậu bắt đầu nói trong đêm tối:

    - Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến hai lần nữa thôi.

    Người bảo mẫu không trả lời, nhưng khi hoàng hậu biến đi, thì chị tìm vua kể lại hết. Vua phán:

    - Trời! Sao lại có chuyện thế nhỉ! Đêm nay ta sẽ thức trông con.

    Đến tối, vua vào buồng hoàng tử. Vào khoảng nửa đêm, hoàng hậu lại hiện ra và nói:

    - Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta còn đến một lần nữa thôi.

    Rồi hoàng hậu chăm sóc con như thường lệ, trước khi biến mất. Vua không dám lên tiếng, nhưng đêm sau lại thức. Hoàng hậu nói:

    - Con ta ra sao? Mang của ta ra sao? Ta đến lần này là lần cuối cùng.

    Vua không nhịn được nữa, liền chạy lại nói:

    - Đúng nàng là vợ yêu quí của ta rồi!

    Bà trả lời:

    - Thưa đúng, em là vợ của nhà vua.

    Vừa lúc đó thì nàng sống lại, tươi tắn, hồng hào, khỏe mạnh. Nàng bèn kể lại cho vua nghe tội ác của mụ phù thủy độc ác và con mụ. Vua cho đem hai đứa ra xử. Chúng bị tội chết, án xử xong thì mang lại hiện nguyên hình thành người. Hai anh em cùng nhau sống sung sướng mãi đến khi chết.
     
  8. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Mỗi ngày một câu truyện grim cho bé

    Con chó xấu tính truyện ngụ ngôn Aesop

    Có một con chó nọ cứ hay lao vào tấn công bất cứ ai mà nó gặp, nhưng nó làm điều này rất bất ngờ đến mức không ai nghĩ là sẽ bị nó làm đau cho đến khi nó cắn vào gót chân họ.

    Nhằm cảnh báo cho người lạ biết mà tránh, đồng thời cũng để trừng phạt con chó, có lúc người chủ đeo vào cổ của nó một cái chuông, và có lúc ông bắt nó phải kéo một khúc gỗ nặng, khúc gỗ này được cột vào vòng cổ của nó bằng một sợi xích.

    Lúc đầu con chó nọ còn cúi gằm mặt xuống, nhưng khi thấy chính cái chuông và khúc gỗ làm cho người ta chú ý đến mình nhiều hơn, thì nó lại lấy làm tự hào và chạy vòng quanh khu chợ để trưng chúng ra cho người ta chú ý. Thậm chí nó còn tỏ ra kiêu ngạo, huênh hoang với những con chó khác không giống như nó.

    Thấy thế, một con chó săn già đã nói:

    - Tại sao chú mày lại tỏ ra huênh hoang cứ như thể cái chuông và khúc gỗ của chú mày là những phần thưởng thế hả? Đúng là những vật đó khiến cho chú mày được nhiều người chú ý đến thật đấy, nhưng khi người ta hiểu được ý nghĩa thực sự của chúng thì chúng chính là điều đáng hổ thẹn cho chú mày và là vật luôn nhắc nhở rằng chú mày là một “con chó xấu tính”.

    Nổi tiếng vì những phẩm chất tốt đẹp là một chuyện, nhưng tai tiếng vì những lỗi lầm của mình thì lại là chuyện khác.
    * Con gấu và hai người đàn ông

    Hai người đàn ông đang đi cùng nhau thì bỗng nhiên có một con gấu xuất hiện trên đường. Một người nhanh chóng trèo lên một cái cây và cố giấu mình trong những nhánh cây rậm rạp.

    Người kia nhận thấy mình sắp bị tấn công bèn nằm sải trên nền đất. Khi con gấu lại gần dùng mũi đánh hơi và hít hít ngửi ngửi khắp người anh ta, thì anh ta liền nín thở, giả vờ chết.

    Con gấu bỏ đi vì người ta vẫn hay nói rằng loài gấu không bao giờ động vào xác chết.

    Khi con gấu đã đi khỏi, người đang trốn trên cây bèn tuột xuống, chạy đến chỗ bạn mình và hỏi đùa rằng:

    - Con gấu đó đã thì thầm cái gì vào tai anh vậy?

    Người kia nghiêm trang trả lời:

    - Nó đã cho tôi một lời khuyên: đừng bao giờ đồng hành cùng một người bỏ rơi anh trong lúc hoạn nạn.
    * Con chó và con sò

    Một con chó nọ nhìn thấy một con sò thì tưởng nhầm đó là một quả trứng và thế là chó ta đã nuốt sò vào bụng. Liền sau đó chó ta bị đau đớn dữ dội. Nó nói:

    “Chính thói tham lam và hấp tấp của ta đã hại ta ra nông nỗi này đây”.
    * Con cáo và con báo

    Một lần nọ, cáo và báo cãi nhau xem ai đẹp hơn. Báo khoe từng cái đốm trên khắp bộ da của mình. Còn cáo vốn tự hào về trí khôn của nó hơn là vẻ ngoài, sau cùng đã cắt ngang sự khoe khoang của báo bằng một câu nói như thế này:

    - Có nói gì thì nói, tôi vẫn đẹp hơn anh nhiều, tôi không chỉ có vẻ đẹp bên ngoài, mà vẻ đẹp của tôi còn thể hiện qua trí tuệ của tôi nữa kia.
    DMCA.com

    Giá trị thực sự của một người quan trọng hơn vẻ ngoài của anh ta.
     
  9. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    truyện hay đọc và cảm nhận đi các mẹ, đọc cho bé nghe
     
  10. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Mỗi ngày một câu truyện grim cho bé

    Vua trộm truyện cổ grim hay

    Một hôm, hai vợ chồng bác nông dân già ngồi nghỉ trước túp lều tồi tàn sau khi làm việc vất vả. Bỗng có một chiếc xe tứ mã lộng lẫy đến đỗ ngay trước nhà. Một vị ăn mặc sang trọng bước từ trên xe xuống. Bác giai đứng dậy, tiến đến gần vị quí tộc, hỏi ông cần gì.

    vua trom grim

    Người lạ mặt bắt tay bác và nói: “Tôi chỉ ước ao có một điều là được ăn bữa ăn nông thôn một lần xem sao. Hai bác hãy nấu cho tôi một món khoai tây như bác thường nấu, tôi sẽ rất vui sướng được ăn cùng hai bác”.

    Bác nông dân cười và nói: “Ngài hẳn là bá tước, hoàng thân hay hầu tước. Những người lịch sự đôi khi hay thèm như vậy. Tôi xin làm theo ý thích của ngài.”

    Bác gái vào bếp rửa và gọt khoai tây để làm món khoai theo kiểu nông thôn. Trong khi bác gái làm bếp, bác giai bảo khách: ”Trong khi chờ ăn, mời ngài ra vườn cùng tôi. Tôi còn phải làm việc ngoài đó”. Bác đã đào hố để trồng cây.

    Khách hỏi: “Bác không có con cái đỡ đần cho à?” “Không – bác trả lời. Thật ra tôi cũng đã có một thằng con trai, bác nói tiếp, nhưng nó đi chu du thiên hạ từ lâu rồi. Nó là một thằng hư hỏng, láu cá và nhiều mưu mô. Nhưng nó lại không muốn học hành gì cả, chỉ chuyên đi phá quấy. Cuối cùng, nó bỏ nhà đi, và từ bấy đến nay, tôi không có tin gì về nó cả”.

    Bác già lấy một cây non đặt vào hố và cắm vào một cái cọc chống bên cạnh. Rồi bác vun gốc; khi đã đắp được đất khá cao, bác buộc cây trồng vào cái cọc chống bằng những cây rạ, buộc trên cao, ở giữa và ở dưới.

    “Bác ơi, – vị khách giàu sang nói, – sao bác không buộc cả cọc chống cho cái cây còi cọc ở trong góc kia cho nó mọc thẳng. Nó mọc gần sát mặt đất vì thân cây quăn queo”.

    Bác già cười và nói:

    - Ông nói mà chẳng hiểu gì cả. Người ta biết ngay là ông chưa từng làm vườn. Cái cây ấy đã già cỗi, còi cọc. Không ai có thể dựng nó mọc thẳng lên được. Phải uốn cây từ lúc còn non.

    - Cũng như thằng con bác ấy, – người lạ mặt nói, – khi nó còn trẻ, nếu bác dạy dỗ nó tử tế thì nó đã không bỏ nhà ra đi, hẳn bây giờ nó cũng còi cọc rồi.

    - Cái đó thì chắc rồi, – bác già nói, – nó đi đã lâu hẳn là nó đã thay đổi.

    - Liệu bác có nhận được ra anh ta nếu anh ta đứng trước mặt bác không?

    - Nhận được mặt nó cũng khó đấy, Bác nông dân trả lời. Nhưng nó có một dấu vết đặc biệt, một cái nốt ruồi ở vai, giống như hạt đậu.

    Khi bác nói tới đó, người lạ mặt cởi áo ngoài ra, trật vai ra và chỉ nốt ruồi cho bác nông dân xem.

    - Trời ơi! – Bác kêu lên, – đúng là con ta đây rồi. Và tình yêu con tràn ngập trong lòng bác. – Nhưng, – bác nói thêm, – có thể nào anh lại là con ta? Con ta trở thành một ông lớn sống trong giàu sang phú quí! Làm thế nào con lại được như thế?

    - Thưa cha! Người con trả lời: – Cây non đã không được buộc vào cọc chống nên đã cong queo. Bây giờ cây già rồi, không mọc thẳng lại được nữa.

    - Sao con lại được như thế này ư?

    - Con đã thành thằng ăn trộm. Nhưng cha đừng sợ. Con là Vua trộm. Đối với con thì không có khóa, có then cài nào cả. Cái gì con thích là con chiếm được. Cha đừng nghĩ con là thằng ăn trộm như một tên trộm tầm thường. Không. Con chỉ lấy cái thừa mứa của nhà giàu. Những người nghèo thì có thể yên tâm, con còn cho họ là đằng khác, chứ không lấy của họ. Mà lấy trộm cái gì mà không vất vả, không cần có mưu mẹo và khéo léo thì con không lấy.

    - Ừ, ừ! Bác già nói, – nhưng dù sao, ta cũng không hài lòng về con. Thằng ăn trộm vẫn là thằng ăn trộm. Ta nói cho con biết, rồi cũng không ra gì đâu.

    Bác dẫn con đến bác gái. Khi nhận ra con trai mình, bác gái khóc vì vui sướng, nhưng khi bác giai cho biết con là Vua trộm thì hai dòng nước mắt buồn tủi lại tràn đầy mắt bác. Cuối cùng bác nói: ”Dù nó có là thằng ăn trộm đi nữa thì nó vẫn là con tôi, tôi rất sung sướng được gặp lại nó”.

    Mọi người cùng ngồi vào bàn ăn và tên ăn trộm lại được cùng ăn với bố mẹ cái món ăn đạm bạc mà lâu nay nó không được ăn.

    Sau đó người cha bảo: “Nếu ngài bá tước ở trong lâu đài kia mà biết mày đi ăn trộm thì ông ấy đã không bế mày trong lòng ông mà ru như hôm làm lễ rửa tội cho mày. Ông ấy sẽ lấy thừng treo cổ mày lên cho mày đu đưa”

    - Cha đừng lo, người con nói, ông ta sẽ không làm gì con đâu: con thạo nghề của con. Ngay hôm nay, con sẽ đến gặp ông ta.

    Đến chiều, vua trộm lên xe đi đến lâu đài. Bá tước tiếp đón anh một cách kính nể, coi anh là một vị khách cao quý. Khi khách nói cho chủ biết mình là ai thì ông tái mặt đi và ngồi lặng yên một lúc.

    Rồi ông nói:

    - Anh là con đỡ đầu của ta. Đáng lẽ phải xử theo pháp luật thì tha thứ cho anh, xử sự với anh có độ lượng. Anh đã huênh hoang là Vua trộm, vậy ta thử tài anh xem. Nếu anh thất bại thì sợi dây thừng sẽ là vợ anh và tiếng quạ kêu sẽ thành nhạc cưới của anh.

    - Thưa ngài, tên trộm nói ngài hãy thử thách tôi ba lần thật khó tùy theo ý của ngài; nếu tôi không làm nổi, thì ngài muốn xử tôi thế nào cũng được.

    Ông bá tước suy nghĩ một lúc, rồi nói:

    - Vậy thì, đầu tiên, anh hãy lấy trộm được con ngựa của ta đang ở trong chuồng. Hai là anh phải lấy trộm được cái khăn trải giường trong khi vợ chồng ta đang nằm ngủ mà chúng ta không biết, đồng thời, anh phải rút được cái nhẫn cưới vợ ta đeo ở ngón tay. Ba là anh phải bắt cóc được cha xứ và người giúp việc ông ngay trong nhà thờ. Hãy để ý đến các điều đó nếu không thì toi mạng đấy!

    Vua trộm đến một đô thị gần nhất. Anh mua một bộ quần áo cũ của một bà nông dân rồi mặc vào. Anh bôi mặt thành da màu nâu, vẽ lên mặt nhiều nếp nhăn. Không ai có thể nhận ra anh. Anh đổ đầy r*** vang Hung vào một cái thùng to; trong r*** anh trộn một loại thuốc ngủ rất mạnh. Anh đặt thùng r*** trên một cái giá vác trên lưng và đi chuệnh choạng, bước chậm chạp đến lâu đài bá tước.

    Khi anh đến nơi, thì đêm đã khuya. Anh ngồi trên một hòn đá ở sân, ho lụ khụ như một bà già đau ngực và xoa tay mạnh vào nhau như sắp chết rét. Trước cửa chuồng ngựa, lính canh đang nằm dài quanh đống lửa. Một người trong bọn họ trông thấy bà già, liền gọi:

    - Lại đây mẹ ơi, mẹ hãy lại đây mà sưởi với chúng con. Mẹ không có nơi ngủ, thì mẹ hãy bạ đâu ngủ đấy vậy.

    Bà già loạng choạng bước lại gần, nhờ họ nhấc xuống hộ cái giá đỡ và thùng r***, rồi ngồi bên họ.

    - Mẹ có gì trong thùng thế? Một người lính hỏi

    - R*** ngon đấy, bà già trả lời, tôi buôn r*** mà. Các chú nói tử tế và trả cho tôi ít tiền thì tôi vui lòng để các chú uống một cốc.

    - Mẹ rót r*** cho con uống thử xem, một chú lính nói. Uống xong, anh nói: – Nếu r*** ngon thật, con sẽ làm cốc nữa. Bà rót r*** cho anh, những người lính khác cũng bắt chước bạn.

    - Này! Các bạn ơi, – một người trong bọn họ gọi những người ở chuồng ngựa, – ở đây có bà mẹ mang r*** vang lâu năm, tuổi r*** ngang tuổi bà mẹ. Hãy lại đây mà uống, các bạn sẽ ấm bụng hơn sưởi lửa.

    Bà già mang thùng r*** vào chuồng ngựa. Một người lính ngồi trên con ngựa đã đóng yên của bá tước; một người khác cầm dây cương, người thứ ba đang tết đuôi ngựa. Bà rót r*** cho mọi người uống thỏa thích, cho tới khi thùng r*** cạn. Chẳng mấy chốc dây cương tuột khỏi tay cầm và anh ta lăn ra đất mà ngáy. Người kia buông đuôi ngựa ra, rồi cũng nằm dài ra đất mà rống to hơn. Người ngồi trên ngựa thì vẫn ngồi yên nhưng cái đầu thì cúi rạp xuống gần cổ ngựa; anh ta cũng ngủ và ngáy như kéo bễ lò rèn. Những người lính ở bên ngoài đã ngủ từ lâu. Họ không động đậy, cứ như người đá. Khi Vua trộm đã thấy mọi việc đều trôi chảy, anh đặt vào tay người lính sợi thừng thế cho dây cương, anh đặt vào tay người lính kia cái chổi rơm thế cho cái đuôi. Nhưng trường hợp thứ ba, giải quyết người ngồi trên yên ngưa bằng cách nào đây? Anh không muốn làm cho người lính ngã xuống đất, anh ta sẽ tỉnh dậy và có thể kêu la lên. Vua trộm tìm được một kế hay: anh tháo sợi dây buộc yên ngựa ra treo cái yên lên tường bằng những sợi thừng luồn qua các cái vòng, rồi kéo chàng kỵ mã lên sát trần nhà. Sau đó anh buộc thật chắc dây thừng vào một cái cột. Loáng một cái, anh đã tháo được ngựa ra khỏi xích. Nhưng từ lâu đài người ta có thể nghe thấy tiếng vó ngựa đập trên nền sân bằng đá. Anh bèn lấy giẻ bọc móng ngựa lại, dắt ngựa cẩn thận ra khỏi chuồng và đi qua sân, rồi anh nhảy lên ngựa và phi nước đại.

    Khi trời sáng, Vua trộm phi ngựa đến lâu đại. Bá tước vừa ngủ dậy và đứng nhìn qua cửa sổ. “Chào ngài bá tước! Vua trộm kêu to. đây là con ngựa tôi đã lấy được ra khỏi chuồng ngựa; ngài hãy nhìn kìa, lính của ngài đang ngủ ngon giấc! Nếu ngài ra chuồng ngựa thì ngài sẽ thấy quân canh gác của ngài thoải mái như thế nào”. Bá tước không nhịn được cười. Ông nói: “Lần này, anh được cuộc.

    Nhưng lần sau thì không dễ may mắn thế đâu. Ta báo cho anh biết nếu ta bắt được anh đang ăn trộm, thì ta sẽ đối với anh như một tên ăn trộm”.

    Buổi tối, khi đi ngủ, bà bá tước nắm chặt tay có đeo nhẫn. Bá tước bảo vợ: “Tất cả các cửa ra vào đều đóng và cài then chặt. Tôi sẽ thức để rình thằng ăn trộm. Nếu nó chui cửa sổ nào thì tôi sẽ bắn hắn”.

    Vua trộm lẩn vào trong bóng tối, đến cái giá treo cổ, tháo gỡ xuống một người phạm tội đáng thương treo ở đó; anh cõng cái xác trên lưng đi đến lâu đài. Anh dựng một cái thang ở dưới cửa sổ phòng ngủ của bá tước, công kênh xác chết trên vai và trèo lên. Khi anh lên đã khá cao, đầu người chết đã hiện ra ở cửa sổ, thì bá tước nằm trong giường vẫn rình, bắn một phát súng lục. Lập tức, tên trộm để xác người bị treo cổ rơi xuống đất, và nó cũng nhảy xuống khỏi thang chạy nấp vào một góc. Sáng trăng vằng vặc, nó trông thấy rõ ràng bá tước trèo thang xuống, vác cái thây ra vườn… Ông ta đào hố để chôn. Đúng dịp may đây rồi, tên trộm tự nhủ, nó chạy nhanh ra khỏi nơi đang trốn, leo lên thang và vào phòng bà bá tước:

    “Bà nó ơi, tên trộm bắt chước giọng ông bá tước để nói, thằng ăn trộm đã chết rồi. Nhưng nó là con đỡ đầu của tôi, và nó là thằng bịp bợm chứ không phải là một tên gian ác. Tôi không muốn đưa ra công chúng để làm nhục nó. Tôi cũng thương bố mẹ nó nghèo khổ.

    Tôi sẽ đem chôn nó ở ngoài vườn trước khi trời sáng để câu chuyện khỏi vỡ lở. Bà đưa cho tôi cái khăn giải giường để tôi liệm nó rồi lẳng lặng vùi nó như một con chó” – Bà bá tước đưa cho tên trộm cái khăn trải giường ” À mà này, bà ạ, tôi lại nổi máu hào hiệp đây, bà đưa tôi cái nhẫn của bà. Thằng xấu số này đã liều mạng vì cái nhẫn, thôi thì ta cho nó để nó mang xuống mồ”. Bà bá tước không muốn trái ý chồng; tuy miễn cưỡng, bà cũng rút nhẫn ra đưa. Tên trộm bước ra với hai thứ đã lấy được, nó về nhà không bị cản trở trước khi ông bá tước chôn xong ở trong vườn.

    Sáng hôm sau, ông bá tước ngẩn tò te ra khi tên trộm mang lại cho ông cái khăn và cái nhẫn!

    - Mày là phù thủy à? Ông hỏi. Ai đã kéo mày ra khỏi nấm mồ, là nơi chính tao đã chôn mày? Ai đã làm mày sống lại?

    - Ông có chôn tôi đâu, thưa ông bá tước, tên trộm nói, đó là xác một người phạm tội đáng thương ở giá treo cổ – Và nó kể lại tỉ mỉ nó đã làm như thế nào. Ông bá tước phải công nhận nó đúng là một tên trộm nhiều mưu mẹo.

    - Nhưng chưa xong đâu! Ông bảo tên trộm. Mày còn việc cuối cùng phải làm và nếu không làm được thì tất cả những gì mày đã làm đều vô ích.

    Đến đêm, nó lại nhà thờ làng, vác một cái bao tải to trên lưng, cắp nách một cái gói, tay cầm một cái đèn. Trong bao tải có cua, trong gói có những cây nến nhỏ. Tên trộm ngồi ở trong nghĩa địa sát nhà thờ, lôi một con cua trong bao tải ra, gắn lên mai cua một cây nến. Nó thắp nến lên rồi đặt con cua xuống đất cho nó bò đi. Nó lấy con thứ hai, cũng làm như vậy, và tiếp tục đến khi trong bao hết sạch cua. Lúc đó nó khoác một cái áo lông đen dài, giống cái áo của cha xứ, và gắn vào cằm một bộ râu dài màu xám. Không ai nhận được ra nó nữa. Nó vào trong nhà thờ, đứng lên trên bục giảng.

    Đúng lúc ấy, chuông đồng hồ điểm nửa đêm. Khi tiếng chuông cuối cùng đã âm vang, nó kêu gầm, giọng vang lên: “Hãy nghe đây, hỡi các người tội lỗi. Ngày tận thế đã đến! Ngày phán xử cuối cùng không còn xa! Hãy nghe đây! Hãy nghe đây! Ai muốn lên thiên đường thì hãy chui vào cái bao này. Ta là thánh Pê-tơ-rut, làm nhiệm vụ đóng và mở cửa Thiên đường. Hãy nhìn ra ngoài kia, những xác chết đang chui ra khỏi mồ và đang gom hài cốt lại. Hãy lại đây và chui vào bao này, ngày tận thế đã đến!”

    Tiếng tên trộm vang khắp làng. Cha xứ và người giúp việc ở sát nhà thờ, là người nghe thấy trước tiên. Khi họ trông thấy ánh sáng trong nghĩa địa, họ hiểu là có chuyện bất thường xảy ra và họ chạy đến nhà thờ. Họ nghe lời phán truyền của tên trộm một lúc. Người giúp việc lấy khuỷu tay huých cha xứ và nói: “Dầu sao cũng không nên bỏ lỡ cơ hội, cùng nhau lên Thiên đường không phải khó khăn vất vả gì cả” – “Nhất định rồi, cha xứ trả lời: Tôi cũng nghĩ thế. Nếu anh đồng ý thì ta cùng đi” – “Vâng, người giúp việc nói, nhưng người đi trước phải là cha, con xin đi theo sau”. Cha xứ tiến lên trước, trèo lên bục giảng, ở đó tên trộm đang cầm bao. Cha chui vào bao trước, theo sau là người giúp việc.

    Ngay lập tức, Vua trộm cột chặt miệng bao và kéo bao từ bục giảng xuống. Mái đầu của hai người ngớ ngẩn chạm phải bậc lên xuống, tên trộm lại kêu to: “Chúng ta đang leo lên núi!” Cứ như vậy nó lôi họ đi qua làng, khi qua một vũng nước thì nó lại kêu: “Bây giờ chúng ta đang qua những đám mây sinh ra mưa đấy!” Và cuối cùng, khi leo lên bậc thềm của lâu đài thì nó kêu: “Chúng ta đang trèo các bậc thang lên Thiên đường; chúng ta sẽ vào tiền sảnh!” Khi trèo lên cao, nó vứt cái bao vào chuồng chim bồ câu; chim đập cánh thì nó nói: “Các ông có nghe thấy tiếng đập cánh của các thiên thần đang vui đùa không?” Xong đâu đó, nó đóng cửa chuồng chim lại và bỏ đi.

    Sáng hôm sau, vua trộm đến gặp bá tước bảo đã làm xong việc thứ ba là bắt cóc cha xứ và người giúp việc ngay trong nhà thờ - ”Thế mày để họ ở đâu”, bá tước hỏi – “Họ đang ở một cái bao trên chuồng chim bồ câu và họ tưởng là đang ở trên trời”. Bá tước đích thân lên xem và thấy tên trộm nói đúng. Khi ông mở bao cho cho cha xứ và người giúp việc ra, ông nói: “Mày là Vua trộm và mày đã thắng cuộc. Nhưng mày hãy đi khỏi xứ sở của ta!

    Nếu người ta còn thấy mày luẩn quẩn ở đây thì chắc chắn mày sẽ hết đời trên giá treo cổ”. Vua trộm về từ biệt bố mẹ, rồi lại lên đường đi chu du thiên hạ. Từ đấy, không ai có tin gì về anh ta nữa.

    Các em có thấy tên trộm trong câu chuyện có thực sự tài giỏi không? Nhưng tại sao ông Bá tước lại đuổi ông Vua trộm ra khỏi xứ sở của mình? Bởi vì không ai ưa những tên trộm các em ạ. Nếu ông Bá tước không đuổi tên trộm ra khỏi xứ sở của ông thì sẽ có ngày của cải trong nhà ông sẽ lọt vào tay tên trộm mất thôi, đúng không nào?

    Những bài học từ tình yêu trong những câu truyện cổ tích
     
  11. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Truyện cổ Grim đứa con vàng

    Xưa có hai vợ chồng nhà kia rất nghèo. Của cải chỉ có độc một túp lều nhỏ. Ngày ngày hai người đi bắt cá, làm chẳng đủ ăn. Bỗng một hôm, người chồng thả lưới xuống nước cất lên được một con cá toàn vàng.

    Bác còn đang kinh ngạc ngắm nghía thì thấy cá lên tiếng nói:

    - Này, bác đánh cá ơi, xin hãy ném trả tôi xuống nước, tôi sẽ biến túp lều nhỏ của bác thành một tòa lâu đài tráng lệ.

    Bác đánh cá đáp:

    - Ăn còn không có, lâu đài để làm gì?

    Cá vàng nói tiếp:

    - Tôi sẽ lo cả chuyện đó cho bác nữa. Trong nhà sẽ có một cái tủ. Bác cứ việc mở ra là đã sẵn thức ăn ngon trong đó rồi. Toàn cao lương mĩ vị, muốn bao nhiêu cũng có.

    Bác đánh cá đáp:

    - Nếu thế thì ta làm ơn cho mi cũng được thôi.

    Cá nói:

    - Vâng, song bác phải hứa với tôi một điều, bác không để lộ cho bất kì ai trên thế gian này biết sự may mắn của bác do đâu mà có.

    Chỉ cần bác hé ra một lời là bác sẽ lại mất hết. Bác đánh cá bèn ném trả con cá thân xuống nước rồi về nhà. Tới nơi, bác chẳng thấy túp lều đâu nữa, giờ đây là cả một tòa lâu đài đồ sộ. Bác đứng nhìn hồi lâu rồi bước vào nhà thì gặp bác gái, quần áo lộng lẫy, đang ngồi trong một căn phòng vô cùng tráng lệ.

    Bác gái có vẻ hả hê lắm, cứ hỏi bác:

    - Mình ơi sao bỗng dưng lại được thế này? Ôi sung sướng quá!

    - Phải – bác đáp – Tôi cũng vui sướng. Nhưng này, đói lắm rồi

    đấy, dọn cái gì ăn đi.

    Bác gái bảo:

    - Tôi chẳng có gì đâu, mà cũng không biết trong tòa nhà mới này có gì hay không?

    Bác trai nói:

    - Không khó đâu, đằng kia có một cái tủ lớn, lại mở ra xem nào. Bác gái mở ra thì thấy bên trong nào bánh nào thịt, nào hoa quả, nào r*** nho như mời mọc.

    Bác sướng quá kêu lên:

    - Ta còn ước gì hơn nữa?

    Hai người ngồi xuống cùng ăn uống. Ăn đã no, bác gái hỏi:

    - Nhưng nhà này, của ở đâu thế?

    - Chà – bác trai đáp – hỏi chuyện ấy làm gì, tôi không nói được đâu. Tôi mà hở ra cho ai biết thì chúng mình sẽ lại mất hết.

    Bác gái nói:

    - Được, nếu như không được phép biết thì tôi cũng chẳng thiết hỏi làm gì. Tuy miệng nói thế nhưng bụng lại nghĩ khác, đêm ngày bác ta đứng ngồi không yên. Bác cứ giày vò thúc bác trai mãi, kỳ cho đến khi bác trai sốt ruột, kể cho bác biết câu chuyện con cá thần đã bị bắt, được thả như thế nào. Kể chưa dứt lời, tòa lâu đài tráng lệ với cái tủ kia đã biến đâu mất. Hai người lại ngồi trong túp lều đánh cá cũ.

    Người chồng lại phải bắt cá kiếm ăn. Dường như vận may đã định, bác lại bắt được con cá vàng phen nữa. Cá nói với bác:

    - Này nếu như bác lại thả tôi thì tôi sẽ trả cho bác tòa lâu đài với cái tủ kia, đầy ắp những thứ nấu và rán cho bác. Bằng không sẽ lại mất hết.

    Bác đánh cá đáp:

    - Tôi sẽ cố giữ.

    Bác ném con cá xuống nước. Về đến nhà, bác lại giàu có như trước. Bác gái hả hê vô cùng, song sự tò mò vẫn chưa thôi day dứt bác. Chỉ vài ngày sau, bác lại tỉ tê dò hỏi nguyên do sự việc. Bác trai mới đầu còn giữ, nhưng sau tức vợ quá bác kể tuột luôn mọi chuyện. Tức thì chỉ trong nháy mắt, tòa lâu đài biến mất, hai người lại ngồi trong túp lều cũ. Bác trai phàn nàn:

    - Đã thấy chưa, giờ rồi đến chết đói.

    Bác gái đáp:

    - Ôi chà, thà không có của còn hơn có mà chẳng biết của từ đâu đến, bảo tôi im sao được.

    Người chồng lại đi bắt cá. Ít lâu sau, bác lại bắt được con cá vàng lần thứ ba. Cá nói:

    - Này, thế là cái phận tôi không thể thoát tay bác rồi. Bác cứ đem tôi về chặt làm sáu khúc, hai khúc cho bác gái ăn, hai khúc cho con ngựa của bác ăn, còn hai khúc chôn xuống đất rồi bác sẽ được phú quý.

    Bác trai xách con cá về nhà, làm đúng theo lời căn dặn. Kết quả là sau đó hai khúc cá chôn dưới đất biến thành hai cây huệ vàng, con ngựa đẻ ra một đôi ngựa con bằng vàng và bác gái sinh được hai đứa con cũng toàn vàng.

    Hai đứa trẻ lớn lên nom vừa khỏe vừa đẹp, hai cây huệ với đôi ngựa con cũng lớn lên.

    Hai con bảo bố:

    - Cha ơi, chúng con muốn lên ngựa vàng đi giang hồ bốn bể một phen.

    Bác trai bối rối đáp:

    - Để các con đi mà rồi đây cha không biết được các con ra sao thì cha đành lòng sao được? Hai con nói:

    - Hai cây huệ vàng vẫn còn đây, cha cứ xem hoa khắc biết chúng con thế nào. Hoa cứ tươi là chúng con vẫn khỏe, hoa héo là chúng con đang ốm, hoa rụng đi là chúng con đã chết.

    Hai con lên ngựa ra đi. Tới một quán trọ kia, bên trong rất đông khách, mọi người thấy hai đứa trẻ bằng vàng đi vào cứ khúc khích cười và lên tiếng đùa cợt. Một chú nghe thấy người ta chế nhạo, phát ngượng không muốn đi nữa, mới quay về nhà với bố.

    Còn chú kia vẫn cưỡi ngựa đi, đi tới một khu rừng lớn, chú vừa định giục ngựa vài rừng thì có người bảo:

    - Không được đâu, không thể đi qua được đâu, trong đó toàn bọn cướp của giết người, tất chúng sẽ sinh chuyện. Nhất là khi chúng lại thấy chú và ngựa của chú toàn bằng vàng, chúng sẽ giết chú mất.

    Song chú bé không sợ, chú bảo:

    - Nhất định tôi phải đi và sẽ đi được.

    Chú lấy da gấu, phủ lên mình và phủ cho ngựa để không ai thấy đó là vàng nữa, rồi ung dung giục ngựa phi nước kiệu vào rừng. Mới đi được một quãng thì thấy có tiếng xì xào trong bụi. Chú nghe rõ tiếng người gọi nhau. Phía này gọi:

    - Có một đứa vào đấy.

    Phía kia đáp:

    - Cho nó đi. Cái đồ vô dụng ấy, kiết xác mà trần trụi như một con chuột trong xó nhà thờ, được việc gì.

    Thế là chú bé vàng may mắn lọt qua được khu rừng, bình yên vô sự. Một hôm khác, chú tới một làng kia. Chú gặp một cô thiếu nữ xinh đẹp quá, tưởng chừng như ở trên đời này không thể còn ai xinh đẹp hơn. Chú thấy yêu cô nàng vô cùng, mới lại gần hỏi:

    - Ta rất yêu nàng, yêu tha thiết, nàng có ưng lấy ta không?

    Người thiếu nữ nhìn chú cũng thấy ưng ý nên bằng lòng ngay và bảo:

    - Vâng, thiếp xin theo lời chàng, thiếp nguyện suốt đời sẽ chung thủy với chàng.

    Hai người làm lễ cưới. Đang giữa cuộc vui, bỗng bố cô dâu về.

    Thấy lễ cưới con gái, bác ta ngạc nhiên lắm, hỏi:

    - Thế chú rể đâu?

    Mọi người chỉ chú bé vàng, lúc này vẫn còn đang khoác tấm da gấu. Người bố nổi giận, quát:

    - Không đời nào ta chịu gả con cho những quân vô dụng.

    Bác ta muốn giết chú rể vàng.

    Cô dâu vội ra sức van xin và nói:

    - Dù sao thì chàng cũng đã là chồng con rồi, con rất thương chàng. Sau rồi người bố cũng xiêu lòng, nhưng trong dạ vẫn chưa được yên. Sáng hôm sau bác trở dậy thật sớm muốn xem kỹ con rể, có đúng chỉ là một tên ăn mày tầm thường rách rưới không. Song người nằm trong giường lại là một chàng trai rất đẹp, toàn bằng vàng, tấm da gấu vất bỏ dưới đất. Bác quay trở ra, nghĩ bụng: “Tốt quá, may mà mình kìm được cơn nóng, bằng không đã phạm sai lầm lớn”.

    Trong lúc đó thì chàng người vàng đang mơ màng, thấy mình săn trượt theo một con hươu rất đẹp. Lát sau tỉnh giấc, chàng bảo vợ:

    - Ta muốn đi săn một bữa.

    Người vợ thấy lo, nài chồng ở nhà. Nàng bảo:

    - Chỉ sợ sẽ xảy ra vạ lớn cho chàng.

    Nhưng chàng gạt đi:

    - Ta phải đi và nhất định đi được.

    Nói xong chàng đứng lên đi luôn vào rừng. Đi mới được một lát đã thấy một con hươu ngạo nghễ đứng chắn ngang đường, đúng như trong giấc mơ. Chàng vừa giơ súng toan bắn thì hươu đã nhảy vọt đi mất. Chàng liền rượt theo, băng qua hố qua bụi, suốt ngày hôm đó mà không thấy mệt. Đến chiều thì con hươu biến đi đâu mất. Chàng người vàng nhìn quanh quất thấy phía trước có một ngôi nhà nhỏ. Trong nhà có một mụ phù thủy đang ngồi. Chàng gỗ cửa. Mụ già bước ra cất tiếng hỏi:

    - Ngày đã muộn thế này mà ngươi còn quanh quẩn làm chi

    trong rừng?

    Chàng hỏi lại:

    - Bà có thấy con hươu nào chạy qua không?

    - Có, – mụ đáp – Con hươu ấy ta biết rõ lắm.

    Vừa lúc ấy, một con chó nhỏ theo mụ từ trong nhà ra cứ hướng vào chàng trai mà sủa ầm ĩ.

    Chàng mắng nó:

    - Có câm không, đồ khốn. Ta lại cho mi một phát chết tươi bây giờ.

    Mụ phù thủy nổi nóng hét lên:

    - Sao, mi muốn giết chó của ta à?

    Mụ phù thủy biến luôn chàng trai thành đá nằm lì tại đó. Vợ ở nhà đợi mãi không thấy chồng về, nghĩ bụng: “Chắc đã xảy ra chuyện gì rồi”. Nàng lo buồn hết sức.

    Trong lúc đó, ở nhà người em đang đứng bên hai cây huệ vàng bỗng thấy một bông gục xuống. Chàng kêu lên:

    - Trời ơi, anh con gặp vạ lớn rồi, phải đi ngay, may ra còn cứu được.

    Người cha gạt đi:

    - Ở nhà thôi, mất nốt con thì bố biết làm sao?

    Nhưng người con vẫn kiên quyết:

    - Con phải đi và nhất định đi.

    Chàng bèn cưỡi lên con ngựa vàng, phóng ngựa phi thẳng đến khu rừng lớn, chỗ anh chàng đã bị hóa đá. Mụ phù thủy già ở trong nhà chạy ra, gọi chàng và có ý định bắt nốt chàng, song chàng không lại gần mà chỉ gọi với lại:

    - Nếu như mi không làm cho anh ta sống lại thì ta sẽ bắn chết mi.

    Mụ phù thủy buộc lòng phải đặt ngón tay lên tảng đá, tức thì tảng đá lại hóa thành người. Hai người con vàng gặp lại nhau, vui mừng khôn xiết, ôm hôn nhau rồi cùng lên ngựa ra khỏi rừng. Một người về nhà vợ, còn người kia về nhà cha mẹ. Người cha bảo:

    - Cha cũng biết là con đã cứu được anh con rồi, vì cha thấy bông huệ vàng kia lại đứng thẳng và tươi như cũ.

    Họ sống rất hạnh phúc đến trọn đời.

    Các em có thích giàu có không? Ai cũng muốn trở nên giàu có, đúng không nào? Nhưng tự nhiên trở nên giàu có mà không biết nguồn gốc của sự giàu có ấy thì ai cũng thắc mắc như vợ bác đánh cá trong truyện đúng không?

    Những bài học từ tình yêu trong những câu truyện cổ tích

    Cô bé quàng khăn đỏ phiên bản khác phần cuối

    Bà lão chăn ngỗng
     
    Sửa lần cuối: 5/11/2013
    tramttnviconlaconcuame thích.
  12. viconlaconcuame

    viconlaconcuame Con là baoboi của Mẹ ^_^

    Tham gia:
    25/4/2013
    Bài viết:
    357
    Đã được thích:
    91
    Điểm thành tích:
    28
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Hay quá chủ top ơi !!! Tiếp nữa đi ạ ^_^
     
  13. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Cùng đọc với mỗi ngày một câu truyện cổ grim nào các mẹ
     
  14. tramttn

    tramttn Mẹ Tôm

    Tham gia:
    11/7/2011
    Bài viết:
    3,112
    Đã được thích:
    616
    Điểm thành tích:
    773
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Mải mê đọc truyện cổ Grim của bác mà quên cả đi bán hàng rồi bác ạ!
     
  15. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Truyện Nàng tiên cá
    Tít ngoài biển khơi kia, nước xanh hơn cánh đồng hoa mua biếc nhất, trong vắt như pha lê, nhưng sâu thăm thẳm, sâu đến nỗi neo buông không tới đáy, phải chồng chất vô số ngọn núi đá mới lên tới mặt nước.

    nang tien ca.cdr
    Chớ tưởng rằng đáy bể chỉ toàn là cát trắng. Nơi đấy, cỏ cây vẫn mọc, những loại cây kỳ diệu, thân lá mềm mại đến nỗi một gợn nước cũng có thể làm cho cây đu đưa. Cá lớn; cá bé lướt giữa những cành lá như chim bay qua các vòm cây trên mặt đất. Nơi sâu nhất, sừng sững lâu đài của vua Thủy Tề, tường bằng san hô, cửa sổ cao hình cung nhọn, bằng hổ phách trong suốt, mái lợp tòan vỏ ốc, mở ra khép vào theo chiều nước. Thật là tráng lệ! Nguyên một trong những hạt ngọc nằm trong từng vỏ ốc cũng đủ trang sức cho mũ miện của một bà Hoàng Hậu rồi. Vua Thủy Tề góa vợ từ lâu, công việc trong cung do Hoàng Thái hậu điều khiển. Bà là người khôn ngoan, nhưng rất kiêu hãnh về dòng dõi quý tộc của bà. Bà cài tới mười hai con ngọc trai ở đuôi, trong khi những bà khác trong Hòang tộc chỉ đeo đến sáu con là cùng. Bà có nhiều đức tính tốt, nhưng tốt nhất là bà rất mực yêu thương các cô cháu gái, các nàng công chúa nơi thủy cung. Các cô nàng đều xinh đẹp, riêng nàng út đẹp hơn cả. Nàng có làn da nhỏ mịn như cánh hồng, có đôi mắt xanh thẳm như nước biển. Nhưng nàng cũng giống các chị, không có chân, chỉ có một cái đuôi như đuôi cá.
    Suốt ngày các nàng nô đùa trong những cung thất rộng rãi, hoa nở khắp các hốc tường. Cửa sổ bằng hổ phách mở rộng, cá tung tăng bơi vào như chim én bay vào nhà chúng ta khi cửa ngỏ. Chúng xán đến cho các công chúa vuốt ve.
    Trước lâu đài là một vườn rộng, cành lá xanh thẫm, quả vàng lóng lánh, cánh hoa đỏ ửng tựa than hồng, cùng với cuộng hoa rung rinh không ngớt. Mặt đất toàn một thứ cát rất mịn, xanh như ngọn lửa diêm sinh. Một luồng ánh sáng xanh biếc huyền diệu chiếu tỏa khắp nơi. Khi gió lặng, sinh vật dưới đáy biển có thể nhìn thấy mặt trời lóng lánh như một ông hoa đỏ thắm đang tỏa ánh sáng xuống đáy biển.
    Mỗi nàng công chúa có một khoảnh vườn nhỏ để có thể vun xới, trồng trọt theo sở thích. Nàng này sắn luống theo hình cá voi, nàng kia theo hình tiên cá, nàng út sắn luống thành hình tròn như vầng thái dương, trồng thuyền thành một loài hoa đỏ tía như mặt trời.
    Tính tình nàng út trầm lặng và đoan trang. Trong khi các cô chị bày biện những vật kỳ lạ chìm theo những con tàu bị đắm, thì ngoài những bông hoa đỏ tía như mặt trời, nàng chỉ thích một bức tượng rất đẹp rơi xuống biển bữa nào. Ấy là tượng một cậu bé xinh xắn tạc bằng đá trắng như tuyết.
    Nàng trồng bên pho tượng một nhánh liễu đỏ tía, liễu mọc rất nhanh, cành lá rậm rạp chiếu bóng màu tím xuống nền cát xanh. Nàng thích nghe nói chuyện về loài người sống trên mặt đất có hương thơm mà loài hoa dưới biển không có, trên ấy rừng lại xanh biếc và cá lại có đậu trên cành cây cất tiếng hót mê hồn. Vì nàng chưa hề trông thấy chim, nên Hoàng Thái hậu phải gọi chim là cá, không thì nàng không thể hiểu được.
    Bà nói thêm rằng:

    the_little_mermaid_1024x43153

    Chơi ngay taive2 game với nàng tiên cái

    - Khi nào lên mười lăm tuổi cháu sẽ được phép ngồi trên mặt biển, ngồi dưới ánh trăng, trên một mõm đá mà nhìn tàu bè đi lại. Lúc đó cháu sẽ được tận mắt nom thấy rừng núi và thành phố.
    Năm sau, cô chị cả mới đến tuổi mười lăm. Các nàng sinh năm một, vì thế nàng út còn phải đợi năm năm nữa mới mới được phép lên mặt biển xem trên ấy có những gì. Các nàng hứa sẽ lần lượt kể cho nhau nghe những điều mắt thấy trên mặt biển, vì bà Thái hậu chưa biết đấy đủ, còn vô khối cái mà các nàng tò mò muốn biết rõ hơn.
    Người nóng ruột nhất là nàng út, vì nàng là người phải chờ đợi lâu nhất. Ban đêm, đứng bên cửa sổ, nhìn qua làn nước xanh sẫm, nàng thấy cả trăng sao. Qua làn nước, ánh trăng mờ nhạt đi, nhưng trăng sao lại to phìn ra khác thường, và mỗi lần chúng bị một vật gì che khuất như một đám mây lớn, nàng biết đó là một con cá voi đang bơi phía trên hay là một chiếc tàu lớn chở đầy người. Hẳn họ không ngờ rằng có một nàng tiên cá nhỏ nhắn đang lặng lẽ đứng dưới đáy biển với đôi tay trắng về phía con tàu.
    Thế là đến tuổi mười lăm nàng công chúa cả được phép lên mặt biển.
    Trở về, nàng kể lại hàng ngàn câu chuyện. Theo nàng, tuyệt nhất là được ngồi dưới ánh trăng trên bãi cát, khi bể lặng và nhìn thấy thành phố lớn gần bờ biển, có hàng trăm ánh đèn lấp lánh như sao sa, được nghe tiếng ca nhạc, tiếng xe cộ, tiếng người ầm ĩ, được trông thấy tháp nhà thờ, và nghe thấy tiếng chuông ngân vang.
    Công chúa út chăm chú nghe chị kể. Chiều chiều, khi trở lại đứng bên cửa sổ nhìn qua làn nước xanh thẫm, tâm trí nàng bay bỗng về cái thành phố lớn có nhiều tiếng ồn ào, và lúc đó dường như có tiếng chuông ngân tới tận tai nàng.
    Năm sau, chị hai được phép lên mặt nước để vùng vẫy thỏa thích. Nàng ló lên khỏi mặt nước vào lúc hoàng hôn và nàng cho rằng không còn gì đẹp bằng khung cảnh lúc ấy. Bầu trời như toàn bằng vàng, còn mây thì nhuộm một màu đỏ kỳ diệu. Gần nơi mặt trời lặn, một đàn thiên nga bay là là mặt nước trông như một dải dài bằng sa trắng. Chúng mất hút theo hướng ấy, rồi mặt trời lặn xuống nước, ánh hào quang vụt tắt trên mặt biển và trên các đám mây.
    Năm sau nàng thứ ba được lên mặt nước. Nàng bạo dạn nhất trong năm chị em. Nàng bơi ngược dòng một con sông đổ ra biển và thế là nàng thấy được những đồi nho rực rỡ. Thành phố, lâu đài hiện ra sau dải rừng xanh. Chim hót ríu rít; mặt trời nóng bỏng đến nỗi nàng phải luôn luôn ngụp xuống nước cho mát da mặt.
    Nàng trông thấy một đám trẻ con trần truồng nô đùa nhảy xuống nước trong một cái vịnh nhỏ. Nàng muốn vui chơi cùng chúng, nhưng chúng hoảng sợ bỏ chạy. Một con vật đen xì, một con chó mà nàng chưa hề thấy bao giờ, chạy tới. Nó sủa dữ dội đến nỗi nàng hoảng sợ, vội vã bơi nhanh ra biển khơi. Nhưng chẳng bao giờ nàng quên được núi rừng hùng vĩ, gò đống xanh tươi, và những đứa trẻ đáng yêu bơi lội rất giỏi mà chẳng cần đến đuôi cá.
    Nàng thứ tư, vốn nhút nhát, thả mình đong đưa trên ngọn sóng, cho rằng không còn gì thú bằng. Mặt biển quanh nàng rộng tới hàng mấy dặm, bầu trời như một quả chuông vĩ đại bằng thủy tinh. Nhìn xa xa thấy tàu biển, nàng tưởng đó là giống chó bể.
    Bầy cá heo nhào lộn trước mặt nàng, mấy con cá voi khổng lồ phun nước qua hai lỗ mũi làm cho nàng tưởng mình đang bơi giữa hàng trăm vòi nước đang phun.
    Đến lượt nàng năm. Ngày sinh nàng vào mùa đông nên ngày đầu tiên trên mặt biển, cảnh vật nàng trông thấy không giống cảnh vật các chị nàng đã được mục kích. Bể xanh ngắt một màu. Xung quanh nàng những tảng băng nổi khổng lồ rập rờn trên mặt biển như là những viên ngọc quý lóng lánh và lớn hơn tháp chuông nhà thờ. Hình thù chúng rất quái dị. Nàng ngồi trên một tảng đá to nhất, gió đùa trên mái tóc, cá tung tăng bơi lặn xung quanh.
    Chiều đến, mây đen phủ kín bầu trời, sấm sét nổi lên, từng đợt song đen ngòm nâng bỗng những tảng băng khổng lồ sáng rực dưới ánh chớp.
    Tất cả tàu bè đều hạ buồm. Ai nấy đều kinh hãi. Riêng nàng tiên cá vẫn trầm lặng ngồi trên núi băng ngắm ngía những tia chớp nổ ran trên mặt biển ngầu bọt.
    Thoạt mới lên mặt nước nàng nào cũng say mê với những cảnh vật mới lạ, nhưng dần dần được tự do đi lại các nàng đã thấy dửng dưng. Các nàng vội quay về lâu đài dưới nước và chỉ một tháng sau đã cho rằng không kỳ diệu bằng đáy biển.
    Thường buổi chiều, năm chị em cầm tay nhau bơi lên mặt biển. Các nàng có giọng hát mê hồn, hay hơn bất cứ giọng hát nào trên trần gian.
    Khi giông tố nổi lên, tưởng chừng như sắp đánh tàu bè, các nàng liền bơi đến trước mũi tàu, cất giọng mê hồn ca ngợi vẻ đẹp nơi đáy biển, khuyên các thủy thủ chớ có sợ gì và mời họ theo các nàng về thủy cung; nhưng thủy thủ chẳng hiểu gì và cho rằng đó là những tiếng gào thét của cơn giông tố.
    Vả chăng, khi xuống đáy biển, họ chẳng thể nhìn thấy cảnh đẹp huy hoàng ở đấy, vì nếu tàu đắm họ sẽ chết đuối, và chỉ còn là những cái xác không hồn.
    Chiều chiều, khi năm chị em rủ nhau đi, nàng út ở lại một mình, ngó theo các chị, những muốn khóc lên. Nhưng nàng là cá, không có nước mắt, nên lòng càng thêm đau đớn bội phần. Nàng thở dài: “Ước gì ta đủ mười lăm tuổi! Chắc rằng ta sẽ yêu cuộc đời và những con người trên ấy”.
    Cuối cùng nàng đã đến mười lăm tuổi.
    Bà bảo nàng:
    - Thế là cháu đã trưởng thành. Lại đây để bà trang điểm cho, như các chị cháu.
    Bà đặt tóc nàng một mũ miện hình hoa sen, dát ngọc, và ra lệnh cho tám con ngọc trai cặp vào đuôi nàng để tỏ rõ ngôi thứ của nàng.
    Công chúa kêu lên:
    - Đau quá!
    Bà nàng bảo:
    - Muốn đẹp thì phải đau một tí!
    Nàng tiên cá chỉ muốn quẳng tất cả ngọc trai và mũ miện nặng trình trịch đi! Nàng thích trang điểm bằng những bông hoa nhỏ trồng trong vườn kia, nhưng nàng không dám trái lệnh bà Thái hậu.
    - Cháu đi đây, bà ạ!
    Nàng reo vừa lao mình lên mặt biển, nhẹ nhàng như bọt bong bóng.
    Nàng lên tới mặt biển thì mặt trời lặn, mây còn ánh màu da cam, và trên bầu trời rực lửa, sao hôm đã lấp lánh sang ngời. Không khí êm đềm, mát mẻ, mặt biển phẳng như gương. Gió lặng. Một con thuyền có ba cột buồm đứng im phăng phắc, chỉ trương một cánh buồm. Thủy thủ đang nghỉ ngơi. Tiếng đàn, tiếng hát vọng ra và đến đêm, hang ngàn ngọn đèn lồng thắp sang trưng.
    Quốc kỳ của tất cả các nước dăng lên trên thuyền và tung bay trước gió. Nàng tiên cá Bơi đến gần các cửa sổ ở mạn thuyền, và mỗi lần sóng nâng nàng lên, nàng nhìn được vào cả bên trong thuyền. Trong ấy có rất nhiều người ăn mặc sang trọng, người mặc đẹp nhất là một Hoàng tử chạc mười sáu tuổi. Hôm nay chính là ngày hội mừng sinh nhật hoàng tử. Thủy thủ nhảy múa trên thuyền và khi Hoàng tử bước ra, hàng trăm pháo hoa bay vụt lên không trung.
    Pháo hoa rực sáng như ban ngày làm nàng tiên cá sợ hãi lặn xuống nước. Nàng lại nhô đầu lên và tưởng chừng như tất cả các sao trên trời rơi xuống đầu nàng. Chưa bao giờ nàng được xem đốt pháo hoa. Có bông đỏ rực như mặt trời vừa quay tít vừa rít lên, có bông bay vút lên bầu trời xanh và tất cả phản chiếu xuống mặt biển trong vắt. Trên thuyền sáng rực, nhìn rõ từng vật, nhìn người lại càng rõ hơn. Hoàng tử mới đẹp làm sao! Chàng tươi cười thân mật nắm tay mọi người, giữa tiếng nhạc vang lừng trong màn đêm lặng lẽ.
    Đêm đã khuya, nhưng nàng công chúa vẫn không rời mắt khỏi con thuyền và chàng Hoàng tử đẹp trai. Đèn tắt, không còn pháo hoa, không còn tiếng đại bác nổ nữa. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng biển cả gầm thét. Nàng tiên cá vẫn ngồi trên sóng, nhìn qua cửa sổ ở mạn thuyền.
    Gió nổi, thuyền nhổ neo, buồm lần lượt căng lên rồi sóng lớn mãi, mây đen kéo đến. Chẳng bao lâu sấm chớp nổi lên và một cơn phong ba khủng khiếp đổ tới. Thủy thủ vội vã hạ buồm. Chiếc thuyền cheo leo trên mặt biển đang động lên dữ dội. Từng đợt sóng dâng lên, đen ngòm, cao như những ngọn núi khổng lồ, hăm dọa đổ sập vào các cột buồm. Con thuyền dâng lên hạ xuống theo những đợt sóng ngầu bọt. Thủy thủ rất lo lắng, còn nàng tiên cá thấy cảnh tượng ấy lại lấy làm thích thú.
    Những tấm vân dầy gãy gập trước những đợt sóng hung hãn. Con thuyền vỡ tan ra, cột buồm chính gãy đôi như một cây sậy, thuyền nghiêng sang một bên, nước ập vào khoang.
    Lúc đó nàng tiên cá mới hiểu là người trên thuyền đang gặp cơn phong ba nguy hiểm, và chính nàng cũng phải cẩn thận để khỏi va vào các mảnh thuyền vỡ tung đang trôi lềnh bềnh. Có lúc trời tối ngòm đến nỗi nàng không còn phân biệt được vật gì nữa; nhưng ánh chớp lóe lên làm nàng nhận ra từng người trên thuyền. Nàng chỉ chú ý nhìn theo chàng hoàng tử trẻ tuổi và khi thuyền chìm hẳn, nàng thấy chàng cũng chìm theo.
    Thoạt đầu nàng mừng rỡ, tưởng rằng sẽ được gặp chàng nơi đáy biển. Nhưng nàng sực nhớ rằng con người không sống được dưới nước và khi tới giang sơn của vua Thủy tề thì chàng đã chết. Chết ư? Không, không thể để cho chàng chết được!
    Nàng nâng đầu chàng lên khỏi mặt nước và cùng chàng phó mặc cho sóng cuốn.
    Sáng hôm sau, cơn bão táp đã qua, nhưng chẳng còn dấu vết gì của con thuyền nữa. Mặt trời đỏ ửng chói lọi trên mặt biển, Hoàng tử trông như còn sống, nhưng đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Nàng tiên cá hôn lên trán chàng. Người chàng đã lạnh toát như pho tượng cẩm thạch trong vườn hoa của nàng. Nàng hôn mãi lên trán chàng, lòng tha thiết mong chàng sống lại.
    Đột nhiên, nàng trông thấy đất liền, thấy những rặng núi cao, một màu xanh biếc, đỉnh phủ tuyết, lóng lánh như đàn thiên nga đang ngủ. Dưới chân núi, gần bờ biển, có những khu rừng đẹp đẽ xanh tươi và một ngôi nhà, nhà thờ, nhà tu hay nhà gì đó, nàng chẳng rõ.
    Chanh, cam đầy vườn, dừa mọc trước cửa. Biển xói vào bờ tạo thành một cái vịnh nhỏ, nước lặng và sâu, có núi đá bao quanh. Nàng dìu Hoàng tử về phía đó, đặt chàng lên bãi cát mịn và cẩn thận nâng cao đầu chàng lên.
    Tiếng chuông nhà thờ đổ hồi trong ngôi nhà trắng xinh xắn và một đoàn thiếu nữ chạy ra vườn. Nàng tiên cá vội bơi ra nấp sau một tảng đá, lấy rong biển phủ đầu và trước ngực để khỏi lộ bộ mặt kiều diễm. Nàng cố ý theo dõi xem chàng Hoàng tử tội nghiệp sẽ ra sao.
    Một lát sau, có một thiếu nữa đi tới. Lúc đầu, cô ta sợ, nhưng các cô khác đã kéo đến. Nàng tiên cá nhìn thấy Hoàng tử đã hồi tỉnh và mỉm cười với các thiếu nữ. Chỉ riêng với nàng, người đã cứu chàng, nhưng chàng không hề biết, chàng không tặng một nụ cười nào cả. Thế là nàng buồn thỉu. Và khi Hoàng tử đã vào khuất trong ngôi nhà, nàng lặn xuống nước, quay về nơi thủy cung.
    Từ đó, sáng, chiều, nàng bơi lên nhìn lại nơi nàng đã đặt Hoàng tử. Nàng thường thấy có người ra hái trái cây, nàng thấy tuyết lóng lánh trên núi cao, nhưng nàng chẳng thấy Hoàng tử, và cứ thế nàng lại trở về, càng buồn bã hơn.
    Niềm an ủi độc nhất của nàng là ngồi trong vườn, ôm lấy pho tượng cẩm thạch trông giống Hoàng tử như đúc. Nàng chẳng còn thiết hoa nữa, bỏ mặc hoa lan ra cả lối đi, cuốn cành cuốn lá vào cả các cây lớn.
    Cuối cùng, không chịu nổi nữa, nàng kể lể nỗi niềm với một cô chị. Các chị khác cũng được biết chuyện và kể lại với vài bạn giáng liềng thân thiết nhất, trong số đó, có một cô biết rõ giang sơn của Hoàng tử.
    Hết P1 vì dài quá các mẹ à
     
  16. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Phần 2 này các bạn
    - Đi nào, cô em bé bỏng!
    Các chị gọi nàng rồi tay cầm tay, họ nối đuôi nhau bơi lên mặt nước, tới trước lầu Hoàng tử.
    Lầu này xây bằng các thứ đá màu rực rỡ và có những cầu thang lớn bằng cẩm thạch chạy xuống tận mắt nước. Mặt lầu cuộn tròn và thếp vàng lộng lẫy. Giữa các cột, quanh lầu, có những bức tượng bằng cẩm thạch trông như người thật. Nhìn qua cửa sổ cao, người ta thấy những căn phòng lộng lẫy, trải thảm lụa, và những bức chân dung kỳ diệu dăng đầy tường. Chính giữa căn phòng lớn, một vòi nước phun lên tới tận mái tròn. Từ mái lầu mặt trời rọi xuống mặt nước và cỏ cây mọc trong bể cạn.
    Bây giờ nàng tiên cá đã biết nơi Hoàng tử ở. Từ đó, chiều và đêm, nàng thường trở lại đấy, ngồi trên mặt biển. Nàng còn bơi xa hơn các cô chị, bơi sâu vào đất liền, đến tận con kênh đào chảy dưới chân các bể bực thang lộng lẫy xây bằng đá cẩm thạch. Nàng ngồi đó ngắm ngía Hoàng tử, còn Hoàng tử thì tưởng rằng chỉ có một mình mình dưới ánh trăng.
    Thường vào buổi chiều Hoàng tử dạo chơi giữa tiếng đàn nhạc, trên một con thuyền mắc đầy cờ xí. Lúc đó, nàng vượt hẳn lên mặt nước, gió đùa trên mái tóc màu bạc của nàng, trông hệt như một con thiên nga đang giương cánh.
    Thường thường, nghe những người dân chài đánh cá ban đêm ca tụng Hoàng tử, nàng cảm thấy sung sướng, vì đã cứu chàng đêm nào bập bềnh, ngoắc ngoải giữa làn sóng, và nàng lại càng sung sướng mỗi khi nghĩ đến lúc ôm ghì đầu chàng vào ngực mà hôn. Nhưng chàng đâu có hề hay biết chuyện ấy mà nghĩ đến chuyện an ủi nàng. Càng ngày nàng thấy yêu mến loài người, nàng lại càng muốn gần họ, càng muốn sống với loài người trên cái thế giới rộng hơn giang sơn của nàng rất nhiều. Loài người có thể lướt trên sóng bằng thuyền bè, có thể leo lên tận đỉnh núi cao tít. Rừng núi, động ruộng của họ rải ra đến tân chân trời bao la. Còn biết bao nhiêu điều nàng muốn rõ mà các chị nàng không giải đáp cho nàng được.
    Nàng tìm đến bà Thái hậu là người biết rõ về cái thế giới bên trên, mà nàng gọi là “xứ trên bể”. Nàng hỏi:
    - Bà ơi, nếu loài người không chết đuối thì họ có thể sống vĩnh viễn được không? Họ có chết như chúng ta ở dưới bể không?
    Thái Hậu bảo:
    - Có chứ, họ chết và đời họ còn ngắn hơn đời chúng ta nữa kia! Chúng ta có thể sống tới ba trăm năm, nhưng khi lìa đời chúng ta sẽ biến thành bọt sóng và không có mồ mả để được chôn cất giữa những người thân yêu. Linh hồn chúng ta không tồn tại được lâu nên ta không thể hóa thành kiếp khác được, cũng ví như cây rong bể đã cắt rồi là hết xanh tươi. Loài người, trái lại có một linh hồn bất tử, ngay cả khi thân thể đã nằm im trong nấm mồ, linh hồn họ lúc ấy bay lên không trung. Cũng như chúng ta bơi lên mặt nước để nhìn đất liền, linh hồn họ bay lên những miền mà chúng ta không thể nào nhìn thấy được.
    Nàng tiên cá buồn bã hỏi:
    - Sao chúng ta lại không có một linh hồn bất diệt? Cháu sẵn sàng hiến ba trăm năm của cháu để được thành người, dù chỉ sống có một ngày để linh hồn được lên Thiên đàng.
    Thái Hậu bảo:
    - Cháu đừng nghĩ nhảm; dù sao chúng ta còn sung sướng hơn loài người nhiều lắm.
    - Thế là cháu sẽ phải chết và hóa thành bọt bể ư? Lúc đó chẳng còn nghe thấy tiếng sóng vỗ nhịp nhàng, chẳng còn nhìn thấy hoa nở và mặt trời ửng hồng sao?
    Thái Hậu nói thêm:
    - Không cháu ạ, chỉ cần có một người yêu thương cháu thiết tha hơn cha mẹ. Nếu tâm hồn và tình yêu người đó dồn cả cho cháu và có một đức cha đặt tay cháu vào người đó thì lúc ấy hồn người đó truyền qua cháu và cháu sẽ được hưởng phần hạnh phúc dành riêng cho loài người. Nhưng việc đó không bao giờ có được. Ở dưới đáy bể chúng ta cho cái đuôi cá là đẹp nhất thì loài người cho là gớm ghiếc. Họ cho là cặp chân nặng nề của họ mới là đẹp kia!
    Nàng tiên cá thở dài buồn bã nhìn cái đuôi của mình.
    Thái Hậu bảo:
    - Thôi cháu đi vui chơi với bà. Bà cháu ta sẽ nhảy nhót cho thỏa ba trăm năm của chúng ta. Cuộc đời như thế cũng đủ lắm. Cháu đi với bà! Tối nay có đại hội khiêu vũ trong cung đấy.
    Thật vậy, ở trên mặt đất, người ta không thể tưởng tượng được một khung cảnh lộng lẫy đến thế. Gian phòng khiêu vũ rộng lớn, tường và trần toàn bằng một thứ thủy tinh dầy, trong suốt. Hàng mấy trăm con ngao khổng lồ xanh đỏ xếp thành hai hàng dọc; cạnh chúng ta là những ngọn đuốc có ánh lửa xanh lam chiếu tỏa khắp phòng trông hệt như một bể ánh sáng rực rỡ. Hàng ngàn cá lớn, cá con, vẩy đỏ, vẩy vàng, vẩy bạc, bơi tung tăng bên ngoài tường kính.
    Thanh niêm nam nữ sống dưới đáy biển nhảy múa và ca hát êm ái trên một dòng nước chảy giữa gian phòng; loài người không thể có giọng hát hay đến thế. Nàng công chúa út hát hay nhất.
    Mọi người hoan nghênh nàng và có lúc nàng sung sướng nghĩ rằng giọng hát của nàng có thể hay nhất trần gian, trên đất liền cũng như trên mặt biển. Nàng chợt nghĩ đến thế giới trên mặt đất. Nàng không thể nào quên được chàng Hoàng tử trẻ tuổi và cảm thấy đau khổ vì không thể có được một linh hồn bất diệt. Giữa lúc mọi người vui chơi, ca hát, nàng lẩn tránh ra ngoài lâu đài của vua cha rồi ngồi âu sầu trong khu vườn nhỏ của mình. Bỗng nhiên nàng nghe thấy những tiếng động truyền qua làn nước biển vọng tới nàng.
    Nàng nghĩ thầm:
    - Chắc là tiếng chàng, người mà ta luôn luôn nghĩ tới, người mà ta yêu quý hơn cha mẹ, người mà ta muốn gửi gắm cả cuộc đời. Ta dám làm tất cả mọi việc để được gần chàng, để được có một linh hồn bất diệt. Trong lúc các chị còn đang mãi múa trong lâu đài của vua cha, ta thử tìm đến mụ phù thủy mà cho đến bây giờ ta vẫn khiếp sợ, may ra mụ có thể khuyên bảo và giúp ta điều gì.
    Nghĩ thế nàng bơi đến động của mụ phù thủy, ở dưới cái vưc xoáy đang gầm thét.
    Nàng chưa hề qua nẻo đường này, một con đường chẳng có hoa và rong rêu gì cả, chỉ có cát mịn rải tới tận miệng vực, nước xoáy lồng lộng như dưới bánh cối xay máy.
    Nàng vượt qua làn sóng vào tận xào huyệt của mụ phù thủy, ở giữa một khu rừng kỳ lạ. Cây cối, bờ bụi đều là những loại san hô, nửa động vật, nửa thực vật, trông như những con rắn trăm đầu mọc từ dưới đất lên, cành cây giống như những con rắn trăm đầu mọc từ dưới đất lên, cánh cây giống như những cánh tay dài nhầy nhụa.
    Nàng công chúa kinh hãi đứng trước nhà mụ phù thủy, tim đập mạnh. Nàng toan bỏ chạy nhưng nghĩ đến hoàng tử và linh hồn con người nàng trở nên can đảm. Nàng quấn mớ tóc dài để tránh không cho những con san hô nắm được, khoanh tay vào trước ngực, bơi rõ nhanh như cá, lách qua các con san hô gớm ghiếc đang giơ những cánh tay khủng khiếp về phía nàng. Nàng thấy hàng trăm cánh tay của chúng, hệt như những cái kim sắt, cặp chặt lấy những bộ xương trắng hếu của những người bị chết đuối, những xác súc vật, và cái làm cho nàng kinh hãi nhất là có cả xác một nàng tiên cá.
    Cuối cùng, nàng đến một cánh đầm lầy, lúc nhúc những con rắn gớm ghiếc, ở giữa là nhà mụ phù thủy xây bằng sọ những người chết chìm. Trước cửa nhà, mụ phù thủy đang ngồi cho con cóc ăn như loài người mớm thức ăn cho chim bạch yến vậy.
    Mụ bảo:
    - Ta biết ngươi muốn gì rồi. Hỡi nàng công chúa xinh đẹp, ngươi thật là điên rồ, ngươi sẽ bị đau khổ, nhưng ta cũng cứ giúp ngươi. Muốn cho hoàng tử yêu ngươi và chia sẻ linh hồn với ngươi, ngươi phải vứt bỏ cái đuôi cá và thay vào đó đôi chân như của loài người. Ngươi đến thật đúng lúc, vì nếu ngươi đến sau đêm nay thì một năm nữa ta mới có thể giúp ngươi được. Ta sẽ chế cho ngươi một liều thuốc, rồi ngươi bơi vào bờ, uống hết liều thuốc đó và sẽ biến thành một người con gái đẹp tuyệt trần. Dáng đi của ngươi sẽ nhẹ nhàng uyển chuyển như một vũ nữ, nhưng cứ mỗi bước đi ngươi sẽ thấy như kim châm và ứa máu chân ra. Nếu ngươi chịu được đau đớn ta sẽ giúp ngươi.
    - Tôi xin chịu hết, nàng tiên cá vừa run rẩy trả lời vừa nghĩ đến hoàng tử và linh hồn bất diệt.
    Mụ phù thủy bảo:
    - Nhưng hãy nghĩ cho kỹ. Một khi đã biến thành người rồi ngươi không thể trở thành thủy nữ nữa được nữa. Không bao giờ ngươi gặp lại các chị ngươi, được quay về thủy cung nữa. Và nếu ngươi không chiếm được tình yêu của Hoàng tử để chàng yêu quý ngươi hơn cha mẹ chàng, nếu chàng không chịu làm lễ thàn hôn với ngươi thì ngươi không thể có linh hồn bất diệt được. Ngay sáng sau hôm hoàng tử lấy người khác làm vợ, tim ngươi sẽ tan nát và ngươi sẽ biến thành bọt biển.
    - Tôi xin chịu đựng cả, nàng công chúa nhắc lại, mặt tái nhợt như người chết.
    Mụ phù thủy bảo:
    - Nhưng hãy nghĩ cho kỹ. Một khi đã biến thành người rồi ngươi không thể trở thành thủy nữa được nữa. Không bao giờ ngươi gặp lại các chị ngươi, được quay về thủy cung nữa. Và nếu ngươi không chiếm được tình yêu của hoàng tử để chàng yêu quý ngươi hơn cha mẹ chàng, nếu chàng không chịu làm lễ thàn hôn với ngươi thì ngươi không thể có linh hồn bất diệt được. Ngay sáng sau hôm hoàng tử lấy người khác làm vợ, tim ngươi sẽ tan nát và ngươi sẽ biến thành bọt biển.
    - Tôi xin chịu đựng cả, nàng công chúa nhắc lại, măặt tái nhợt như người chết.
    - Nhưng ngươi phải trả công cho ta không phải là ít. Giọng hát của ngươi hay nhất nơi đáy biển này, và ngươi tưởng rằng sẽ dùng trò mê hoặc hoàng tử, nhưng chính giọng hát ấy ngươi phải trao cho ta. Ta muốn đổi liều thuốc của ta lấy cái quý báu nhất của ngươi kia, vì chính ta cũng phải chích máu của ta để chế thành liều thuốc cho ngươi uống. Nó sẽ công hiệu như một thanh kiếm hai lưỡi vậy.
    Thủy nữ lo lắng:
    - Nhưng nếu mụ lấy mất giọng hát của tôi thì tôi chẳng còn gì nữa ư?
    - Còn cái sắc đẹp, cái dáng đi nhẹ nhàng, duyên dáng và đôi mắt tình tứ của ngươi. Bấy nhiêu cũng đủ say đắm một con người rồi. Thế nào? Hay ngươi lại sợ rồi? Thè cái lưỡi con con ra cho ta cắt để đổi lấy liều thuốc.
    - Được, thủy nữ đáp.
    Liền đó, mụ phù thủy lấy một cái nồi ra để pha thuốc.
    - Sạch sẽ vẫn là một thói tốt! Vừa nói mụ vừa lấy một búi toàn là rắn để chùi nồi.
    Rồi mụ rạch ngực cho máu chảy xuống và thêm hết vị thuốc này đến vị thuốc khác cho vào trong nồi. Một làn khói dầy đặc bốc lên. Cuối cùng liều thuốc đã chế xong, lúc này trong suốt như nước.
    - Đây cầm lấy.
    Mụ phù thủy nói rồi cắt luôn lưỡi nàng tiên cá. Thế là từ đấy nàng tiên cá không thể hát và nói được nữa.
    - Khi qua rừng, nếu loài san hô định bắt ngươi cứ rẩy cho chúng vài giọt nước này.
    Nàng tiên cá chẳng cần phải làm thế. Các thủy quái vừa thấy bình thuốc lóng lánh như sao trong tay nàng đã sợ hãi rụt tay lại. Nàng vượt qua cánh rừng và các vực sâu bình yên vộ sự.
    Nàng đã lại nhìn thấy lâu đài của vua cha. Các ngọn đuốc nơi phòng lớn đã tắt, mọi người đang say sưa yên giấc. Nàng chẳng dám đánh thức ai cả, nhất là bây giờ nàng đã câm rồi. Nàng sắp phải vĩnh viễn lìa xa tất cả. Lòng nàng se lại vì đau khổ. Nàng lén ra vườn hái trong một khoảnh vườn của các chị một bông hoa, gửi hàng nghìn chiếc hôn về phía lâu đài, rồi bơi qua làn nước xanh thẳm, nhoi lên mặt biển.
    Mặt trời chưa mọc, hoàng tử đang bước lên trên những bậc thang cẩm thạch rực rỡ. Trăng chưa lặn, tỏa một ánh sáng dịu dàng. Nàng tiên cá uống liều thuốc nóng bỏng. Nàng thấy hình như có một thanh kiếm hai lưỡi đâm xuyên qua làn da thịt mềm mại, và nàng nằm đấy, ngất đi. Khi mặt trời chiếu sáng trên ngọn sóng, nàng tỉnh dậy, và thấy người đau nhói. Chàng hoàng tử trẻ tuổi đã đứng trước mặt, đôi mắt đen nhánh chăm chú nhìn nàng. Nàng nhìn xuống thấy đuôi cá đã biến mất, thay vào đấy là một cặp chân trắng muốt như chân của một người con gái. Thấy mình thân thể lõa lồ nàng vội lấy làn tóc dài quấn vào người như một cái áo choàng. Hoàng tử hỏi nàng là ai, ở đâu, nàng nhìn chàng với đôi mắt xanh thẳm, âu yếm nhưng buồn rầu, không nói được một lời.
    Hoàng tử cầm tay dắt nàng về lầu. Mỗi bước đi, đúng như lời mụ phù thủy nói, nàng cảm thấy như giẫm lên kim hay gốc rạ phát nhọn, nhưng nàng cố chịu đựng, không hề kêu ca. Nàng đi bên chàng, nhẹ như bông hồng, và chàng, cũng như mọi người trong lầu, đều say mê dáng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng của nàng.
    Người ta mặc cho nàng quần áo lượt là. Trong lâu đài này, nàng là người đẹp nhất, nhưng chẳng biết nói mà cũng chẳng biết hát. Rất nhiều cung nữ, quần áo lụa dát vàng, đến ca hát trước hoàng tử, vua và hoàng hậu, người nào hát cũng hay và được hoàng tử vỗ tay khen ngợi trước tiên. Nàng tiên cá rất buồn rầu vì biết rằng mình còn có thể hát hay hơn thế.
    Nàng nghĩ:
    - Ôi! Nếu chàng biết được rằng ta đã phải vĩnh viễn hy sinh giọng hát của ta chỉ vì muốn được sống bên chàng!
    Hát xong, cung nữ nhảy múa theo điệu nhạc rất du dương. Nàng tiên cá liền giơ cao đôi cánh tay nõn nà, nhấc gót lên, đầu gót chân lướt trên mặt sàn, cất bước nhảy múa một bài tuyệt đẹp. Mỗi cử chỉ làm tôn vẻ đẹp của nàng lên và đôi mắt nàng làm xúc động tâm hồn hơn các cung nữ.
    Mọi người đều ngất ngây, nhất là hoàng tử. Chàng gọi nàng là cô bé lạc loài. Nàng vẫn tiếp tục nhảy múa, mặc dầu mỗi lần chạm chân xuống đất nàng cảm thấy đau đớn như giẫm lên gốc rạ vót nhọn. Hoàng tử lưu nàng lại và cho phép nàng ngủ trên chiếc đệm nhung, ngay trước cửa phòng mình. Hoàng tử còn cho may một bộ nam phục để nàng có thể cưỡi ngựa đi chơi cùng chàng. Hai người đi dạo qua những cánh rừng thơm ngát, cành lá xanh tươi rủ xuống vuốt ve vào vai họ, trên cành chim hót líu lo. Nàng cùng hoàng tử leo lên núi cao. Khi mọi người nhìn thấy chân nàng đẫm máu nàng vẫn mỉm cười và cùng chàng leo lên mãi đến khi thấy mây bay dưới chân tựa như những đàn chim bay từng đàn về xứ nóng.
    Khi mọi người đã ngủ yên trong lâu đài, nàng ngồi xuống bậc thang cẩm thạch bên bờ biển, dúng đôi chân nóng bỏng xuống nước lạnh cho dịu cơn đau. Dần dần chân bớt đau, nàng nhìn biển cả, chạnh lòng nhớ đến những người thân yêu dưới đáy biển. Nàng bỗng thấy các chị đang cầm tay nhau hiện trên mặt biển, vừa bơi vừa hát véo von. Nàng vẫy họ và các chị đã nhận ra nàng, nói cho nàng biết nỗi âu sầu từ khi nàng bỏ đi. Từ đấy đêm nào các chị cũng đến, và có lần nàng trông thấy cả bà Thái Hậu là người đã hàng bao năm nay không lên đến mặt biển; nàng trông thấy cả vua Thủy tề, đầu đội mũ miệng vàng. Hai ngài giơ tay về phía nàng, nhưng không dám vào gần bờ như các chị nàng.
    Mỗi ngày thủy nữ càng yêu hoàng tử, nhưng hoàng tử chỉ yêu nàng như yêu một người em gái hiền hậu, dễ thương thôi. Chẳng hề biết rằng nếu chàng không lấy nàng thì nàng sẽ không thể nào trở thành người có linh hồn bất diệt được và sau ngày chàng lấy người khác làm vợ, nàng sẽ phải biến thành bọt biển.
    Anh không yêu em hơn tất cả mọi người sao?
    Đôi mắt người thủy nữ hình như hỏi vậy khi hoàng tử xiết chặt người nàng trong tay và hôn lên trán nàng.
    Hoàng tử bảo nàng:
    - Đúng lắm, ta yêu em vì em có một tấm lòng tốt hơn cả. Em là bạn quý nhất của ta. Em giống hệt như một thiếu nữ mà ta đã gặp, nhưng rồi có lẽ ta chẳng bao giờ gặp nữa. Khi đó ta đang ở trên một chiếc tàu bị đắm. Sóng biển đánh giạt ta vào một nhà tu, nơi có nhiều thiếu nữ đã nguyện dốc lòng đi theo Thượng đế. Nàng trẻ nhất thấy ta nằm sóng sượt trên mặt biển đã cứu ta thoát chết. Ta chỉ gặp nàng có một lần, nhưng chỉ có nàng là người ta có thể yêu được thôi. Em giống hệt nàng và gợi lại hình ảnh nàng trong tâm trí ta. Nàng đã đi tu, nhưng nàng đã cử em đến đây như một sứ giả của tình bạn. Chẳng khi nào ta còn được gặp nàng nữa.
    Nàng tiên cá nghĩ thầm:
    - Trời ơi! Chàng không biết, chính ta đã cứu chàng thoát chết. Chính ta đã vượt sóng đưa chàng đến tận nhà tu trong rừng. Chính ta đã nấp sau tảng đá mong mỏi có người thấy mà cứu chàng, và chính ta đã trông thấy người con gái mà chàng yêu hơn ta.
    Nàng không khóc được, nhưng thở dài não ruột, tự nhủ:
    - Chàng đã chẳng bảo rằng cô ta đi tu hay sao? Như thế thì chẳng bao giờ cô ta được ra và họ chẳng thể gặp nhau được. Còn ta, ta sống gần hàng ngày trông thấy chàng, ta muốn được hầu hạ, yêu quý chàng và hiến dâng cho chàng cả cuộc đời của ta.
    Trong cung, người ta đã bàn tán đến chuyện hoàng tử sắp lấy một nàng công chúa xinh đẹp, con vua nước giáng liềng. Người ta đã chuẩn bị một chiếc tàu trang hoàng lộng lẫy.
    Nhân dân đồn đại:
    - Hoàng tử nói là đi viếng thăm nhà vua, nhưng chính là sang xem mặt công chúa. Hoàng tử mang theo rất nhiều tùy tòng.
    Nàng tiên cá mỉm cười, lắc đầu vì nàng biết rõ hơn ai hết ý định của hoàng tử. Hoàng tử nói với nàng:
    - Phải, chính ta đi xem mặt công chúa, vì vua cha và hoàng hậu bắt buộc ta, nhưng cha mẹ chẳng thể bắt buộc ta phải cưới công chúa được, chắc chắn là công chúa không thể nào giống được người thiếu nữ trong nhà tu. Nếu ta lấy vợ, người đó sẽ là "nàng", hay là em người em gái lạc loài, giống hệt như "nàng", chỉ nói bẳng mắt mà không nói bằng lời.
    Nói rồi chàng hôn lên đôi môi đỏ thắm, mâm mê bộ tóc dài của nàng ép đầu nàng vào ngực chàng. Suốt đêm đó nàng tiên cá đáng thương mơ được sống hạnh phúc và có một linh hồn bất diệt như loài người.
    Khi tàu sửa soạn xong, hoàng tử hỏi nàng:
    - Em câm của ta, em không sợ biển cả đấy chứ?
    Rồi chàng nói về những cơn giông tố, về cảnh trời yên bể lặng, về những con cá biến kì dị.
    Nghe chàng nói, nàng mỉm cười, vì nàng biết rõ đáy biển hơn bất cứ một người nào.
    Một đêm trăng, khi mọi người đã yên ngủ, trừ người hoa tiêu, nàng cúi trên thành tàu nhìn qua làn nước biếc, tưởng như nhìn thấy lâu đài của cha nàng. Bà nàng ngồi đó nhìn con tàu qua làn sóng đang cuốn lên dữ dội. Nàng vẫy tay ra hiệu muốn nói cho các chị biết rằng mình rất sung sướng, nhưng chợt có một anh thủy thủ đến, các chị vội lặn xuống nước. Anh thủy thủ tưởng rằng đấy chỉ là một đám bọt sóng.
    Sáng hôm sau, tàu cập bến tại kinh đô nước giáng liềng. Chuông nhà thờ kéo vang, lính tráng mang cờ, súng cắm lưỡi lê, dàn thành cơ đội để duyệt binh. Mỗi ngày có những cuộc vui mới; yến tiệc, khiêu vũ liên tục, nhưng nàng công chúa vẫn chưa về. Người ta nói rằng hiện nàng đang ở một nhà tu xa để trau dồi đức hạnh theo lễ giáo của các vua chúa. Cuối cùng, nàng đã về.
    Thủy nữ nóng lòng muốn biết mặt người con gái có sắc đẹp lừng danh ấy. Nàng đã phải công nhận điều đó. Nàng chưa bao giờ thấy một người dễ thương, có làn da mịn màng, đôi mắt xanh thẳm lóng lánh dưới hàng lông mày đen và dài như vậy.
    Hoàng tử reo lên:
    - Chính em, chính em đã cứu ta khi ta mê man trên bãi biển.
    Rồi chàng ôm lấy người vợ chưa cưới và bảo nàng tiên cá:
    - Hạnh phúc quá! Điều mơ ước tha thiết nhất đời ta đã thực hiện được. Cô bạn quý mến của ta ơi, em hãy chia xẻ hạnh phúc với ta!
    Nàng công chúa thủy cung hôn tay hoàng tử, nhưng cảm thấy cõi lòng tan nát. Ngày cưới chàng sẽ là ngày nàng từ gĩ cõi trần và biến thành bọt biển.
    Chuông tất cả nhà thờ khua vang, sứ giả chạy khắp phố phu7o2ng báo tin công chúa kết hôn. Trên khắp các nhà thờ, dầu thơm bốc lên nghi ngút trong những cây đèn bạc quý giá. Các cha cố lắc lư đỉnh trầm; cặp vợ chồng mới cầm tay nhau nhận phước trước đứa giám mục. Nàng tiên cá bận áo lụa thêu vàng, nâng đuôi áo của công chúa. Nhưng nàng chẳng còn nghe thấy tiếng nhạc du dương, chẳng còn trông thấy lễ cưới tưng bừng. Nàng còn phải nghĩ đến cái chết đêm nay và tất cả những gì sẽ mất đi, đối với nàng, trên thế gian này.
    Ngay đêm đó, cặp vợ chồng mới cưới trở lại con tàu giữa tiếng súng chào và cờ bay phấp phới. Chính giữa tàu là cán lều có căng màn đỏ rực thêu vàng, nơi mà cặp vợ chồng mới cưới sẽ nghỉ đêm.
    Gió căng buồm và tàu lướt nhẹ nhàng trên làn nước trong vắt.
    Đêm đến, người ta đốt đuốc sáng trưng, thủy thủ nhảy múa vui vẻ trên boong. Nàng tiên cá nhớ lại đêm đầu tiên nàng được phép lên mặt biển. Nàng đã được trông thấy một cuộc dạ hội tưng bừng náo nhiệt như đêm nay. Lúc này nàng còn đủ can đảm để khiêu vũ; nàng nhảy múa nhẹ như én liệng làm mọi người phải thán phục; chưa bao giờ nàng nhảy đẹp như đêm nay. Chân bước như giẫm lên gốc rạ vót nhọn, nhưng nàng đâu có cảm thấy đau, vì còn có một nỗi đau khổ mãnh liệt hơn đang dày vò tâm can nàng. Nàng biết rằng đêm nay là đêm cuối cùng nàng được nhìn thấy con người mà vì ai nàng lìa bỏ cha mẹ, quê hương, hy sinh tiếng nói và giọng hát huyền diệu, và ngày lại ngày, nàng đã phải âm thầm chịu đựng bao nhiêu nỗi đau đơn ê chề mà không ai biết tới. Đêm nay là đêm cuối cùng nàng được thở chung bầu không khí với người đó, nàng được nhìn thấy biển sâu và sao trời vằng vặc. Một đêm sâu thẳm, vĩnh viễn, một đêm vô tri vô giác, không mơ, không mộng, đang chờ đón nàng, chỉ vì nàng không có và chẳng hề có một linh hồn bất diệt được.
    Cuộc vui rộn rã trên tàu kéo dài đến nửa đêm; nàng tiên cá đang thương vẫn tươi cươi và nhảy múa, nhưng đã chết cã cõi lòng. Hoàng tử ôm luôn người vợ xinh đẹp, nàng đùa vào mái tóc của chàng và họ khoác tay nhau vào nghỉ trong căn lều.
    bản đầy đủ truyen nang tien ca
     
  17. pnh11082005

    pnh11082005 0988.44.00.51

    Tham gia:
    11/6/2012
    Bài viết:
    4,722
    Đã được thích:
    800
    Điểm thành tích:
    773
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Cám ơn bạn nhé! Hôm nào phải copy mang về đọc cho con nghe mới được! :D
     
  18. blu

    blu Thành viên đạt chuẩn

    Tham gia:
    7/12/2012
    Bài viết:
    83
    Đã được thích:
    7
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Cháu em cũng thích nghe kể chuyện cổ tích lắm. Tối nay em sẽ về đọc lại cho nó nghe. Thanks mẹ no nhiều ạ...
     
  19. dvsang

    dvsang Thành viên chính thức

    Tham gia:
    13/5/2009
    Bài viết:
    121
    Đã được thích:
    19
    Điểm thành tích:
    18
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    Sáu con Thiên Nga
    Ngày xưa có một ông vua đi săn ở một khu rừng lớn, vì vua đuổi theo một con thú hăng quá nên quân hầu không ai theo kịp. Tối đến, vua đứng lặng nhìn quanh, thấy mình đã bị lạc đường, không tìm được lối ra. Bỗng vua thấy có một mụ già, đầu lắc lư đi tới: đó là một mụ phù thủy. Vua bảo mụ:

    - Này cụ, cụ có thể làm ơn chỉ cho tôi lối ra khỏi rừng được không?

    Mụ đáp:

    - Tâu bệ hạ, được chứ. Cái đó già làm được, nhưng với một điều kiện mà nếu bệ hạ không chấp nhận thì bệ hạ không bao giờ ra được khỏi rừng này và sẽ chết đói ở đây.

    Vua hỏi:

    - Điều kiện gì hở cụ?

    - Già có một đứa con gái đẹp nhất đời. Bệ hạ chưa từng thấy ai đẹp đến thế đâu, thật xứng đáng làm vợ vua. Nếu bệ hạ đồng ý lấy nó làm hoàng hậu thì già sẽ chỉ đường cho bệ hạ ra khỏi rừng.

    Trong lúc hoảng sợ, vua bằng lòng ngay. Mụ già dẫn vua đến ngôi nhà nhỏ của mụ. Con gái mụ ngồi bên lửa. Cô đứng dậy ra đón vua ngay, như đã sẵn sàng chờ vua đến. Vua thấy cô tuyệt đẹp nhưng không thích, nhìn cô, vua cảm thấy rờn rợn. Sau khi vua đặt cô lên mình ngựa thì mụ chỉ đường cho vua. Vua về đến cung điện làm lễ cưới.

    Nguyên vua đã lấy vợ một lần và hoàng hậu sinh được bảy con, sáu trai một gái, vua yêu quí vô cùng. Sợ người dì ghẻ đối với con mình không tốt mà còn có thể làm khổ chúng nữa vua đưa chúng đến ở một tòa lâu đài hiu quạnh giữa rừng sâu. Lâu đài rất kín, đường đi đến khó mà tìm được, chính vua cũng không tìm ra đường nếu không được một bà lão cho một cuộn chỉ có phép lạ. Khi vua ném cuộn chỉ về phía trước, nó sẽ tự gỡ ra và chỉ đường cho vua.

    Nhà vua luôn luôn đi thăm các con yêu dấu, nên hoàng hậu để ý đến sự vắng mặt của vua. Mụ dì ghẻ tò mò muốn biết vua đi vào rừng một mình làm gì. Mụ bèn cho thị vệ của vua nhiều tiền, chúng nói lộ bí mật cho mụ biết và nói cả đến cuộn chỉ biết đưa đường. Mụ bứt rứt không yên tâm, mãi cho đến lúc mụ tìm ra được chỗ vua để cuộn chỉ. Mụ bèn may một số áo lót bằng lụa trắng và khâu bùa vào vì mụ học được ít phép của mẹ.

    Một hôm, vua ruổi ngựa đi săn vắng, mụ mang áo đi theo cuộn chỉ dẫn đường vào rừng. Bọn
    trẻ thấy từ xa có bóng người đến tưởng là cha yêu dấu, vội vui mừng chạy lại đón. Mụ bèn tung trùm lên mỗi đứa một cái áo, áo vừa đụng vào người thì chúng biến ra thiên nga bay vượt qua rừng biến mất. Mụ hớn hở về nhà, tưởng là đã trừ được lũ con chồng. Nhưng mụ không ngờ là còn cô con gái không chạy ra đón cha cùng các anh.

    Một hôm, vua đến thăm các con thì chỉ thấy con gái thôi. Vua hỏi:

    - Các anh con đâu?

    Cô đáp:

    - Trời ơi, cha yêu dấu! Các anh con đi mất rồi, bỏ lại mình con.

    Rồi cô kể cho vua nghe cô đứng ở cửa sổ nhìn thấy những gì, các anh cô hóa thiên nga bay qua rừng thế nào, và đưa cho vua xem những lông chim cô nhặt được ở ngoài sân. Vua rất buồn bã nhưng không ngờ là hoàng hậu làm việc độc ác ấy. Vua sợ cô gái cũng bị mất nốt nên định mang cô đi cùng. Nhưng cô sợ dì ghẻ nên xin vua hãy để cô ở lại tòa lâu đài trong rừng đêm ấy nữa. Cô gái đáng thương nghĩ bụng:

    - Mình không thể ở đây lâu được nữa, mình phải tìm các anh mới được.

    Đêm đến, cô trốn vào rừng. Cô đi suốt đêm hôm ấy cả ngày hôm sau, mãi đến lúc mệt quá không đi được nữa. Lúc đó, cô thấy một chiếc lều hoang. Cô bước vào thì thấy một căn buồng có sáu chiếc giường nhỏ. Nhưng cô không dám nằm vào chiếc nào, mà chui xuống nằm ở gầm giường, định ngủ đêm đó trên nền đất rắn.

    Nhưng tới lúc mặt trời sắp lặn cô nghe có tiếng lào xào và thấy sáu con thiên nga bay qua cửa sổ chui vào. Chúng ngồi xuống đất, thổi lẫn cho nhau, cho bay hết lông; bộ lông thiên nga trút ra như một chiếc áo lót. Cô gái nhận ra các anh mình, mừng lắm, chui ở gầm giường ra. Các anh trông thấy em cũng mừng rỡ chẳng kém. Nhưng vui chẳng được bao lâu, các anh bảo em:

    - Em không ở đây được đâu. Đây là sào huyệt của bọn cướp, chúng về thấy em sẽ giết em mất.

    Em hỏi:

    - Thế các anh có cách nào che chở em không?

    Các anh nói:

    - Không, vì mỗi tối, các anh chỉ có thể trút bộ lông thiên nga, hiện nguyên hình người trong một khắc đồng hồ, sau đó lại phải biến thành thiên nga.

    Em khóc hỏi:

    - Thế không có cách nào giải thoát các anh à?

    Các anh đáp:

    - Không được đâu! Khó lắm. Trong sáu năm, em không được nói được cười. Trong thời gian ấy, em phải may cho các anh sáu chiếc áo lót nhỏ bằng hoa thúy cúc. Nếu em nói nửa lời là công toi hết.

    Các anh vừa nói xong thì một khắc đồng hồ đã qua, các anh lại biến thành thiên nga bay qua cửa sổ mất. Cô gái nhất định giải thoát cho các anh, dù có phải hy sinh tính mạng. Cô rời bỏ chiếc lều hoang, vào giữa rừng, leo lên cây ngủ đêm. Sáng hôm sau, cô đi hái hoa thúy cúc và bắt đầu khâu áo. Cô chẳng nói năng được với ai mà cũng chẳng buồn hé miệng cười. Cô chỉ ngồi một chỗ chăm chú làm.

    Một thời gian đã qua. Vua xứ ấy cùng thợ săn vào rừng tìm thú, đến cây cô ngồi. Họ gọi cô:

    - Cô hãy xuống đây với chúng tôi, chúng tôi không hại gì cô đâu.

    Cô chỉ lắc đầu. Họ hỏi dồn mãi, cô liền ném xuống cho họ chiếc dây chuyền đeo cổ bằng vàng, tưởng làm như thế cho họ yên đi. Nhưng họ vẫn không chịu thôi, cô liền vứt chiếc thắt lưng của cô xuống. Thấy vẫn chưa ổn cô vứt thêm nịt bít tất, rồi dần dần vứt tất cả các thứ mặc trên người có thể vứt được, đến nỗi cô chỉ còn chiếc áo lót. Những người thợ săn không vì thế mà chịu lùi. Họ trèo lên cây, bế cô xuống đưa đến trước mặt vua. Vua hỏi:

    - Nàng là ai? Nàng ngồi trên cây làm gì?

    Cô không đáp. Vua dùng đủ các thứ tiếng vua biết mà cô vẫn câm như hến. Nhưng cô đẹp quá khiến lòng vua rung động. Vua yêu cô tha thiết. Vua khoác áo ngực cho cô, đặt cô lên kiệu ngồi trước mình đưa về cung điện. Vua cho cô mặc quần áo sang trọng, cô đẹp lộng lẫy như một ngày nắng đẹp, nhưng cô vẫn không nói nửa lời. Vua đưa cô lại ngồi ở bàn ăn, cho ngồi bên mình. Dáng điệu nhu mì và e lệ của cô khiến vua rất hài lòng. Vua nói:

    - Ta thiết tha muốn lấy cô này, ta không lấy một ai khác trong thiên hạ đâu.

    Mấy hôm sau, vua lấy nàng. Vua có một bà mẹ ghẻ độc ác, không bằng lòng với đám cưới
    này, và nói xấu hoàng hậu trẻ tuổi. Bà bảo:

    - Không biết cái con này ở đâu ra mà nó không nói năng gì được. Nó không xứng đáng làm vợ vua.

    Hơn một năm sau, khi hoàng hậu sinh con đầu lòng. Mụ bắt trộm đi và lừa khi nàng ngủ bôi máu vào mồm nàng. Rồi mụ tâu vua là nàng ăn thịt người. Vua không tin, không để ai làm hại
    nàng. Lúc nào nàng cũng ngồi khâu áo lót, ngoài ra không để ý đến cái gì khác. Lần sau, nàng lại sinh một đứa con trai kháu khỉnh. Mẹ ghẻ quỉ quyệt lại lừa vua như lần trước. Vua vẫn nhất định không tin lời mụ. Vua bảo:

    - Nàng trong sạch và tốt bụng, không thể làm việc ấy đâu. Nếu nàng nói được và có thể tự bênh vực được thì sẽ minh oan được. Nhưng đến lần thứ ba, mụ già lại ăn trộm đứa bé mới đẻ và lại tố cáo hoàng hậu. Nàng vẫn không nói nửa lời để minh oan. Vua không làm khác được phải đưa nàng ra tòa xử. Nàng bị kết tội chết thiêu.

    Đã đến ngày hành hình, cũng là ngày cuối cùng của thời gian sáu năm không được nói, cười, ngày nàng sẽ giải thoát được các anh khỏi yêu thuật. Sáu chiếc áo lót đã khâu xong chỉ còn thiếu cánh tay áo chiếc cuối cùng. Khi nàng bị dẫn đến đống củi, ở dưới sắp châm lửa, nàng nhìn quanh thì thấy sáu con thiên nga bay trên không lại. Nàng cảm thấy mình sắp được cứu thoát, lòng mừng khôn xiết.

    Thiên nga bay rào rào tới chỗ nàng, sà xuống thấp để nàng có thể ném áo lót lên tới được. Áo vừa đụng chim thì lông thiên nga rơi xuống liền, các anh nàng hiện lên hình người đứng trước nàng, vui vẻ, đẹp đẽ. Chỉ có người em cuối cùng là chiếc áo còn thiếu cánh tay trái vì vậy ở lưng còn có một cánh thiên nga. Anh em ôm nhau hôn trìu mến; hoàng hậu đến tìm vua, vua rất đỗi ngạc nhiên. Nàng nói:

    - Tâu bệ hạ, giờ thiếp mới được phép nói và bộc lộ là thiếp đã bị oan.

    Nàng kể lại âm mưu mụ già đã lấy trộm ba đứa con đem giấu đi. Vua tìm được con mừng rỡ lắm, còn mụ dì ghẻ cay nghiệt kia phải đền tội. Mụ bị trói trên đống lửa và bị thiêu ra tro. Vua và hoàng hậu cùng sáu anh hưởng hạnh phúc dài lâu
     
  20. ocbuu

    ocbuu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    10/5/2012
    Bài viết:
    5,199
    Đã được thích:
    511
    Điểm thành tích:
    823
    Ðề: Truyện cổ Grim Vua trộm

    đọc nhiều lần rồi mà vẫn thấy hay và có ý nghĩa quá
     

Chia sẻ trang này