Ðề: Tổng hợp 13 cách chữa hôi nách tại nhà Em mới nghe đến chữa bằng muối, giấm, phèn, chanh chứ chưa nghe đến bằng kiến gai đen bao giờ, hic, giờ kiếm loại kiến này chắc phải về quê mới có, ở ngoài hn toàn kiến đỏ thôi! hì
Ðề: Tổng hợp 13 cách chữa hôi nách tại nhà dùng chanh và phèn chua là hiệu quả nhất đấy các mom ah, nguyên liệu dễ tìm, mà cách này đơn giản, hơn nữa vừa giảm mùi, vừa làm sạch và trắng nữa đấy
Hạ đường huyết biến chứng nguy hiểm của tiểu đường Hạ đường huyết biến chứng nguy hiểm của tiểu đường Ngày nay khi nhắc đến bệnh đái tháo đường hay bệnh tiểu đường, hẳn rất nhiều người chỉ quan tâm tới tình trạng đường huyết trong máu tăng cao, mà quên rằng khi đường máu hạ xuống thấp quá mức bình thường lại là một tình trạng cấp tính rất nguy hiểm. Nó thậm chí còn nguy hiểm hơn tăng đường huyết rất nhiều, vì có thể gây tử vong nhanh chóng nếu không được xử lý kịp thời. Bình thường bộ não của chúng ta sử dụng đường để làm nguồn năng lượng chính trong hoạt động hằng ngày. Trong đó chỉ một lượng nhỏ đường được lấy từ glycogen chứa trong các tế bào hình sao (đủ dùng trong vài phút), còn lại phần lớn đường được lấy từ máu, vì vậy khi nồng độ đường trong máu giảm sẽ gây ra các triệu chứng về thần kinh. Mức đường huyết an toàn khi đói là 90 – 120mg/dl (3.9 – 6.4mmol/l), sau các bữa ăn 1 – 2h là nhỏ hơn 180 mg/dl (10 mmol/l). Khi đường huyết xuống dưới 3.6 mmol/l (65 mg/dl), các triệu chứng thần kinh sẽ xuất hiện; nếu xuống dưới 0,55 mmol/l (10 mg/dl) thì các nơron thần kinh sẽ bị mất hoạt động điện học, khiến người bệnh nhanh chóng đi vào hôn mê. Khi đường máu xuống thấp dưới ngưỡng bình thường, cơ thể sẽ gia tăng sản xuất các hoóc-môn để làm tăng đường huyết như adrenaline, glucargon theo cơ chế tự bảo vệ. Chính sự gia tăng của các hoóc-môn này gây nên triệu chứng kinh điển của hạ đường huyết như: cảm giác cồn cào, mạch nhanh, da tái lạnh, bủn rủn chân tay… Hạ đường huyết là một biến chứng hay gặp ở người đang được chữa bệnh tiểu đường bằng thuốc uống hoặc insulin tiêm. Các yếu tố nguy cơ gây hạ đường huyết bao gồm: - Dùng liều thuốc hạ đường huyết quá cao, quá lâu. - Người bệnh kiêng khem quá mức; người bệnh không ăn uống nhưng vẫn dùng thuốc hạ đường huyết. - Do uống quá nhiều r***, nhất là uống r*** mà không ăn gì. - Dùng liều insulin chưa thích hợp. - Người bệnh đang dùng thuốc điều trị các bệnh khác như: cúm, nhiễm khuẩn… hoặc dùng phối hợp nhiều loại thuốc hạ đường huyết với nhau mà theo dõi không kỹ… Hạ đường huyết là một tình trạng rất thường gặp ở người mắc bệnh đái tháo đường đang điều trị. Các dấu hiệu gồm: - Người bệnh thường cảm thấy mệt mỏi, ăn uống kém, cảm giác cồn cào trong ruột. - Bủn rủn chân tay. Nếu làm xét nghiệm máu kịp thời sẽ thấy tình trạng đường huyết xuống thấp. - Choáng váng, vã mồ hôi lạnh, mạch nhanh, huyết áp tăng nhẹ, tim đập nhanh. - Ngất xỉu, nếu nặng hơn, bắt đầu xuất hiện những cơn co giật và đi vào hôn mê ở các mức độ khác nhau, các phản xạ nuốt và ho sặc rất kém hoặc mất dẫn tới tình trạng sặc dịch hầu họng, dịch vị, thức ăn… vào phổi gây viêm phổi suy hô hấp nặng, có trường hợp tử vong. Ngay cả khi đã được điều trị tích cực, các di chứng thần kinh sau hôn mê hoặc do thiếu oxy não quá lâu cũng thường gặp như chóng mặt, đau đầu, suy giảm trí nhớ, mất tập trung, các cơn co giật kiểu động kinh có thể làm tổn thương não nặng nề cho nên người bệnh tuy được cứu sống nhưng có thể phải sống đời sống thực vật. Trên thực tế tình trạng hạ đường huyết thường xảy ra khi người bệnh đang ở nhà, hoặc đang đi xa hay khi đang ngủ… nên ít khi được người thân phát hiện để đưa đi cấp cứu kịp thời, do đó dễ dẫn tới các biến chứng nặng nề như hôn mê, tử vong do hôn mê, suy hô hấp quá nặng. Nguy hiểm hơn là tình trạng hạ đường huyết khi người bệnh đang lao động hoặc đang điều khiển các phương tiện giao thông nên dễ gây tai nạn. Hiện chưa có thuốc trị bệnh tiểu đường hoàn toàn, vì vậy, khi có các dấu hiệu nghi ngờ hoặc có biểu hiện của hạ đường huyết, người bệnh cần uống ngay một cốc nước đường, sữa, ăn bánh kẹo, hoa quả ngọt để nhanh chóng nâng đường huyết lên. Khi người bệnh đã có biểu hiện hôn mê, không nên cho ăn uống vì rất dễ bị suy hô hấp do sặc, trong trường hợp này phải nhanh chóng đưa người bệnh đến bệnh viện ngay. Đồng thời ngưng ngay tất cả các loại thuốc điều trị đái tháo đường đang dùng. Tại cơ sở y tế, tùy tình trạng người bệnh mà được các bác sĩ xử lý để làm tăng đường huyết và điều trị các biến chứng nếu có. Để phòng hạ đường huyết, người bệnh đái tháo đường cần thường xuyên kiểm tra đường huyết. Nguồn: tri benh tieu duong
Ðề: Tổng quan về đái tháo đường thai kỳ CHĂM SÓC THAI PHỤ BỊ TIỂU ĐƯỜNG. Theo trang tin sức khỏe foxnews: Thời điểm 3 tháng đầu thai kỳ là thời gian quan trọng cho sự hình thành các cơ quan quan trọng trong cơ thể đứa bé. Do vậy, nếu không kiểm soát được lượng đường tốt có thể tăng nguy cơ mắc các biến chứng như: sinh non, sẩy thai, dị tật, trẻ lớn bất thường, hàm lượng đường trong máu thấp khi sinh, bệnh vàng da, các vấn đề về hô hấp. Bác sỹ Alvarez thuộc trang tin sức khỏe Foxnews cũng nói thêm “Sẽ thật sự nguy hiểm nếu phụ nữ có hàm lượng glucose trong máu cao trong suốt thời kỳ mang thai. Do vậy, nên làm những xét nghiệm, kiểm tra, đảm bảo có đủ sức khỏe để sẵn sàng mang thai. Nói cho bác sỹ biết những loại thuốc và chất bổ sung bạn đang sử dụng. Rất có thể chúng được khuyến cáo không nên dùng trong thời kỳ mang thai”. Theo foxnews. Chăm sóc sức khỏe gia đình - Siêu Thị Y Tế
Bệnh tiểu đường và biến chứng tim mạch Bệnh tiểu đường và biến chứng tim mạch Kiểm soát tốt đường huyết là điều hết sức quan trọng để phòng ngừa các bệnh lý liên quan đến đái tháo đường như là bệnh về mắt (cụ thể gây mù); bệnh thận (suy thận, chạy thận nhân tạo), tổn thương thần kinh, loét và hoại tử chi, bệnh tim mạch, đột quỵ và bệnh mạch máu ngoại biên. Những biến chứng như vậy có thể làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh và làm tăng chi phí điều trị. các bệnh liên quan đến đái tháo đường, tim mạch Đái tháo đường (ĐTĐ) có thể dẫn đến những biến chứng tim mạch nào? Có tới 50% bệnh nhân bệnh tiểu đường bị tử vong ở lần nhồi máu cơ tim đầu tiên, do vậy phòng ngừa tiên phát các biến chứng tim mạch là một trong những mục tiêu điều trị chính ở các bệnh nhân ĐTĐ. Bên cạnh tăng đường máu, các bệnh nhân ĐTĐ thường có một số bất thường khác như tăng huyết áp, rối loạn lipid máu, tình trạng tăng đông máu... Các yếu tố nguy cơ tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ týp 2 bao gồm: Tiền sử hút thuốc lá, tăng huyết áp, đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, đột quỵ hay bệnh mạch máu ngoại biên; Khám lâm sàng đánh giá mạch ngoại biên; Đo huyết áp mỗi lần thăm khám; Định lượng lipid máu lúc đói ít nhất mỗi năm 1 lần; Định lượng albumine niệu hay đạm niệu ít nhất mỗi năm 1 lần; Các bệnh nhân ĐTĐ týp 2 thường có các triệu chứng bệnh động mạch vành không điển hình do vậy nên làm điện tâm đồ lúc nghỉ cho tất cả các bệnh nhân. Hiện tại chưa có thuốc trị bệnh tiểu đường hoàn toàn, vì vậy cách biện pháp trên là hoàn toàn cần thiết để tránh những nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng bệnh nhân. Liệu pháp thay đổi lối sống Cai thuốc lá: Luôn cố gắng động viên bệnh nhân ĐTĐ ngừng hút thuốc. Liệu pháp dinh dưỡng: Bên cạnh việc duy trì một trọng lượng cơ thể tối ưu và kiểm soát chặt chẽ đường máu, mục tiêu của liệu pháp dinh dưỡng còn nhằm làm giảm lượng lipid máu và giảm huyết áp. Tăng hoạt động thể lực sẽ làm cải thiện tình trạng tim mạch và làm cải thiện các yếu tố nguy cơ tim mạch như rối loạn lipid máu, béo phì và tăng huyết áp. Kiểm soát trị số huyết áp Tăng huyết áp rất hay gặp ở bệnh nhân ĐTĐ. Tăng huyết áp làm tăng nguy cơ bị các biến chứng vi mạch (bệnh võng mạc và bệnh thận) cũng như các biến chứng tim mạch (đột quỵ, bệnh động mạch vành và mạch máu ngoại biên). Mục tiêu chữa bệnh tiểu đường nhằm đạt trị số huyết áp dưới 130/80 mmHg. Thay đổi lối sống và dùng thuốc được áp dụng cho các bệnh nhân có huyết áp trên 130/80 mmHg. Các nghiên cứu gần đây cho thấy việc quan trọng nhất trong điều trị tăng huyết áp là đạt được trị số huyết áp mục tiêu. Nguyên tắc sử dụng thuốc hạ áp là nên bắt đầu với một thuốc liều thấp hoặc phối hợp các nhóm thuốc với liều thấp để vừa đạt được hiệu quả điều trị vừa làm giảm tác dụng phụ. Có 5 nhóm thuốc thông dụng điều trị tăng huyết áp cho bệnh nhân ĐTĐ bao gồm thuốc lợi tiểu, chẹn bêta giao cảm, chẹn kênh canxi, thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế thụ thể angiotensin II. Điều trị rối loạn lipid máu Các bệnh nhân ĐTĐ cần được kiểm tra lipid máu, bao gồm LDL-C, triglycerid và HDL-C sau khi nhịn đói 10-12 giờ. Nên kiểm tra định kỳ lượng lipid máu 6-12 tháng 1 lần. Mục tiêu điều trị rối loạn lipid máu là LDL-C dưới 2,6 mmol/l (100 mg/dl), triglycerid dưới 2,3 mmol/l (200 mg/dl) và HDL-C là 1,0 mmol/l (40 mg/dl). Để phòng ngừa các biến chứng tim mạch cần ưu tiên đạt nồng độ LDL-C mục tiêu trước. Sau đó là nồng độ HDL-C và triglycerid. Có một ngoại lệ là những bệnh nhân có nồng độ triglycerid trên 4,5 mmol/l (400 mg/dl) sẽ làm tăng nguy cơ bị viêm tụy cấp. Với các bệnh nhân này, điều trị ưu tiên lại là làm giảm nồng độ triglycerid xuống để phòng ngừa viêm tụy cấp và thuốc fibrat nên được ưu tiên lựa chọn. Các bệnh nhân ĐTĐ còn lại có LDL trên 2,6 mmol/l (100 mg/dl), thuốc được ưu tiên lựa chọn là statin. Điều trị bằng thuốc phải kết hợp với liệu pháp thay đổi lối sống. Liều thuốc được tăng dần đến khi đạt được nồng độ LDL-C mục tiêu. Statin cũng làm giảm nồng độ triglycerid và làm tăng HDL-C. Nếu HDL-C vẫn thấp (dưới 1,0 mmol/l hay 40 mg/dl) sau khi đạt được nồng độ LDL-C mục tiêu bằng statin, việc điều trị phối hợp có thể cân nhắc ở một số bệnh nhân có nguy cơ cao như các bệnh nhân ĐTĐ týp 2 có bệnh động mạch vành. Sự kết hợp statin với fibrat làm tăng nồng độ HDL-C nhưng có thể làm tăng nguy cơ bị viêm cơ vân, do vậy nên thận trọng. Điều trị tình trạng tăng đông Tình trạng tăng đông ở bệnh nhân ĐTĐ có thể ảnh hưởng đến bệnh lý tim mạch. Điều trị bằng aspirin có lợi trong phòng ngừa tiên phát và thứ phát cho các bệnh nhân ĐTĐ. Liều điều trị nên lựa chọn là liều có hiệu quả cao nhất với tác dụng phụ ít nhất. Các bệnh nhân trên 45 tuổi hay những người có kèm theo tăng huyết áp, rối loạn lipid máu hoặc bệnh tim mạch (bệnh động mạch vành, đột quỵ hay bệnh mạch máu ngoại biên) nên được điều trị bằng aspirin 75-100 mg/ngày. Nếu bệnh nhân bị dị ứng với aspirin, các thuốc ức chế ngưng tập tiểu cầu khác như clopidogrel 75 mg/ngày có thể được dùng thay thế ở các bệnh nhân có nguy cơ cao. Nguồn: tri benh tieu duong
Cách phòng ngừa và chữa bệnh tiểu đường từ rau Cách phòng ngừa và chữa bệnh tiểu đường từ rau Chúng ta hãy tự học cách ngăn ngừa và điều trị bệnh tiểu đường một cách tốt nhất để tránh bị những tai biến nghiêm trọng. Bệnh tiểu đường là một căn bệnh mãn tính rất nguy hiểm bởi những hệ lụy đáng tiếc do căn bệnh này gây nên, nếu như người bệnh không tự biết điều chỉnh đường huyết của mình ở mức ổn định cho phép. Hiện chưa có thuốc trị bệnh tiểu đường hoàn toàn, mà chỉ còn cách học sống chung hòa bình với chúng. Rau xanh là nguồn thực phẩm không thể thiếu trong các bữa ăn gia đình, đặc biệt là cho người bị tiểu đường. Rau xanh nguồn thực phẩm bổ dưỡng và rất có lợi cho sức khỏe, rau không chứa nhiều calo mà lại giàu chất xơ. Ăn rau nhiều hơn những thực phẩm khác đồng nghĩa với việc giảm được lượng carb (tinh bột và đường, một trong những nguyên nhân làm tăng đường huyết) và giảm được lượng chất béo bão hòa (thủ phạm gây ra tình trạng đề kháng insulin). Rau quả là nguồn cung cấp vitamin và chất xơ. Vậy loại rau nào tốt cho sức khỏe của người bị bệnh tiểu đường? Bông cải xanh: Bông cải xanh là loại rau rất tốt cho sức khỏe người bệnh tiểu đường. Bông cải xanh có nhiều chất xơ và chất chống oxy hoá. Nó cũng giàu crôm, có vai trò quan trọng trong kiểm soát đường huyết. Sử dụng thực phẩm này cho bệnh nhân tiểu đường trong súp, món ăn mì ống và thịt hầm, hoặc xào với tỏi. Bí ngô: Theo những kết quả nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng, bí ngô không chỉ là một loại thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cao mà còn là một bài thuốc tốt cho bệnh tiểu đường. Các nhà khoa học đã chứng minh rằng, bí ngô có tác dụng phục hồi các tế bào trong tuyến tụy, và hoàn toàn có khả năng ngăn ngừa và chữa bệnh tiểu đường. Rau dền: Rau dền rất thích hợp với người tiểu đường, kèm theo táo bón vì rau dền giàu Magiê - là chất có vai trò chữa trị tiểu đường, cao huyết áp, táo bón. Dưa chuột: Nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng, nước ép dưa chuột chứa loại hormone cần thiết tốt cho việc sản xuất insulin của tuyến tụy, có lợi cho bệnh nhân tiểu đường. Đậu: Chế độ ăn gồm nhiều loại đậu, đỗ có thể giúp kiểm soát chỉ số đường huyết cũng như giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch và đột quỵ ở những bệnh nhân tiểu đường tuýp 2. Đậu là nguồn chất xơ tốt nhất trong chế độ ăn kiêng, nó không những giúp no lâu, làm giảm sự tiêu hóa thức ăn mà còn ổn định đường huyết sau khi ăn. Chính vì vậy mà đậu làm ổn định được lượng đường trong máu. Măng tây: Măng tây cũng là một loại rau tốt cho người bệnh tiểu đường. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì măng tây có khả năng giữ lượng đường trong máu ở mức độ kiểm soát và tăng cường sản xuất insulin, hormone giúp cơ thể hấp thụ glucose. Cà rốt: Trong khi các loại đường có các loại thực phẩm chuyển thành đường trong máu một cách nhanh chóng, thì đường trong cà rốt lại chuyển hóa ở mức độ chậm chạp. Cà rốt được cho là rất tốt cho bệnh nhân tiểu đường nó cung cấp beta-carotene giảm nguy cơ của bệnh tiểu đường và kiểm soát đường huyết tố. Hành tây: Hành tây có tác dụng dự phòng sự tăng đường máu. Trên lâm sàng, những bệnh nhân được uống dịch ép hành tây đã giảm đường máu đáng kể. Bệnh nhân cần uống dịch ép hành tây, mỗi buổi sáng một thìa canh, uống liền trong 1-2 tháng sẽ có hiệu quả. Mướp đắng: Trong mướp đắng xanh có chứa các hoạt chất charantin, glycosid steroid, có tác dụng hạ đường máu, làm chậm sự phát triển các bệnh về võng mạc và đục thủy tinh thể và làm tăng khả năng dung nạp glucose của người bệnh. Mướp đắng còn có tác dụng chống oxy hóa, loại bỏ gốc tự do - một trong những nguyên nhân gây đái tháo đường. Những loại rau người bị bệnh tiểu đường cần phải tránh: Người bệnh tiểu đường cần tránh hoặc hạn chế sử dụng một số rau quả có hàm lượng carbohydrate cao có thể gây tăng đường máu như: khoai tây, khoai lang, khoai từ, khoai mỡ,… hay một số cây họ đậu tuy không có vị ngọt nhưng có chứa khá nhiều tinh bột cũng là những thực phẩm người bệnh tiểu đường nên hạn chế. Cách trị bệnh tiểu đường tự nhiên Trị bệnh tiểu đường không dùng thuốc là một cách trị liệu tự nhiên bằng chế độ ăn uống và vận động hợp lý sẽ nhanh chóng giúp người bệnh ổn định đường huyết để phòng ngừa biến chứng. Chế độ ăn uống: Nên chia nhỏ các bữa ăn trong ngày 4-6 bữa/ngày, không nên ăn quá nhiều trong một bữa. Nên ăn thêm bữa tối để tránh hạ đường huyết ban đêm, nhất là ở những bệnh nhân đang điều trị bằng insulin. Không nên uống r*** bia bởi vì r*** bia có thể ức chế tân tạo đường do đó dễ dẫn đến hạ đường huyết, nhất là khi bệnh nhân ăn ít hoặc không ăn. Nên ăn nhạt khi có tăng huyết áp. Nên ăn đúng bữa có thể ăn thêm 1 – 2 bữa phụ. Vận động hợp lý: Bên cạnh cách trị bệnh tiểu đường bằng chế độ ăn uống thì người bệnh đồng thời phải thực hiện chế độ vận động hợp lý để kiểm soát tốt đường huyết và phòng ngừa sự xuất hiện của các biến chứng. Thể dục liệu pháp là một trong những biện pháp điều trị hỗ trợ đối với bệnh nhân đái tháo đường; làm giảm cân nặng, nên luyện tập thường xuyên hàng ngày với các động tác nhẹ nhàng như đi bộ, tập bơi, tập dưỡng sinh, đạp xe… nên tập nhẹ nhàng vừa phải, không nên tập quá sức. Thể dục liệu pháp có thể làm giảm được mỡ máu, hạn chế tăng huyết áp, cải thiện được tình trạng tim mạch và có tác dụng hỗ trợ cho việc ổn định đường máu. Nguồn: tri benh tieu duong
Nghiên cứu vắc xin ngừa bệnh tiểu đường tuyp1 Nghiên cứu vắc xin ngừa bệnh tiểu đường tuyp1 Loại vius Enterovirus này tấn công tuyến tụy và phá hủy các tế bào sản xuất insulin, dẫn đến bệnh tiểu đường. Một nhóm nghiên cứu tại Trường Đại học Tampere - Phần Lan đã khám phá loại virus gây ra chứng bệnh tiểu đường type 1. Loại vius Enterovirus này tấn công tuyến tụy và phá hủy các tế bào sản xuất insulin, dẫn đến bệnh tiểu đường. Khám phá này mở ra khả năng bào chế vắc-xin cho bệnh tiểu đường. Các nhà nghiên cứu đã xem xét hơn 100 chuỗi gien khác nhau của virus Enterovirus và xác định được 5 chuỗi gien gây ra bệnh tiểu đường type 1. “Chúng tôi đã xác định được loại virus có khả năng gây bệnh cao nhất. Vắc-xin chống lại virus này cũng sẽ có hiệu quả chống lại các họ hàng của nó” - GS Heikki Hy-ty thuộc nhóm nghiên cứu, cho biết. Loại virus Enterovirus tương tự cũng gây ra bệnh bại liệt nhưng nhờ có vắc-xin chúng đã bị xóa sổ hoàn toàn nhiều nơi trên thế giới. Hiện một vắc-xin thử nghiệm chống virus gây bệnh tiểu đường đã hoàn thành và đang được thí nghiệm trên loài vật. GS Hy-ty cho biết kết quả thí nghiệm vắc-xin này trên loài chuột rất khả quan, mở ra hướng chữa bệnh tiểu đường mới. Tuy nhiên, cũng theo GS Heikki Hy-ty, để có thể tiến hành thêm thí nghiệm y khoa trên người, các nhà khoa học đang cần đến 700 triệu euro. Kinh phí là trở ngại lớn nhất cho các nhà khoa học trong dự án nghiên cứu vắc-xin tiểu đường. Các nhà khoa học hy vọng sẽ sớm quyên góp được số tiền này từ Mỹ và châu Âu để có thể sớm đưa vắc-xin này ra ứng dụng. Hiện nay chưa có thuốc trị bệnh tiểu đường hoàn toàn, vì vậy nếu loại vắc xin này ra đời, sẽ góp phần phòng chống căn bệnh nguy hiểm này. Nguồn: tri benh tieu duong
Insulin và cách tiêm cho người bệnh tiểu đường Insulin và cách tiêm cho người bệnh tiểu đường Hiện nay chưa có thuốc trị bệnh tiểu đường hoàn toàn, vì vậy việc tiêm insulin để đảm bảo sự ổn định đường huyết đang là biện pháp hiệu quả nhất được sử dụng. Nhưng không phải ai cũng biết có những loại insulin nào, cần tiên loại nào, cách bảo quản ra làm sao, hay cách tiêm thuốc như thế nào. Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết sau. 1. Insulin 1.1 Một số loại Insulin Loại Insulin Bắt đầu tác dụng (h) Đỉnh tác dụng (h) Tác dụng kéo dài (h) Insulin tác dụng tức thì (hiện chưa có ở Việt Nam): Lispro / Aspart Insulin nhanh/ Insulin thường Regular Actrapid Scilin R Humulin R 0,5 – >1 2 – 3 3 – 6 Insulin bán chậm NPH Insulartard Insulin lente Scilin N Humulin N 2 – 4 6 – 12 10 – 18 Insulin tác dụng kéo dài Glargin (Lantus) Levemir 5 24 24 Một vài dạng Insulin trộn sẵn Insulin Mixtard 30/70 (30% Actrapid + 70% Insulartard) Scilin M Humulin M 1.2. Chỉ định dùng Insulin: - Bệnh nhân ĐTĐ typ 1; - ĐTĐ ở phụ nữ có thai hoặc cho con bú; - Điều trị các cấp cứu tăng đường huy - Dùng chữa bệnh tiểu đường tuyp2 ở những giai đoạn đặc biệt: có bệnh cấp tính, suy gan/suy thận, chống chỉ định các thuốc uống hạ đường huyết hoặc không đáp ứng với thuốc uống hạ đường huyết. 1.3. Tác dụng phụ của insulin: - Hạ đường huyết - Hạ Kali huyết - Giữ muối, phù; tăng cân. - Loạn dưỡng mô mỡ dưới da tại nơi tiêm - Dị ứng tại chỗ tiêm/ Mẩn ngứa 1.4. Chống chỉ định: Hạ đường huyết 1.5. Các phác đồ tiêm Insulin: Có thể phối hợp Insulin cùng một hoặc nhiều loại thuốc uống hạ đường huyết. Cũng có thể dùng phối hợp nhiều mũi Insulin mỗi ngày (2 mũi, 3 mũi hoặc 4 mũi tiêm insulin mỗi ngày), có hoặc không kết hợp với thuốc uống. Tùy thuộc vào tình trạng bệnh nhân, bác sỹ sẽ có chỉ định phác đồ tiêm insulin và liều dùng cụ thể. 1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thụ insulin: + Vị trí tiêm và đường vào - Đường vào: Tiêm/ truyền tĩnh mạch (hấp thu nhanh, thường dùng trong cấp cứu); tiêm dưới da (thường dùng nhất). - Vị trí tiêm: Các vị trí tiêm Insulin dưới da khác nhau sẽ làm cho Insulin vào máu với tốc độ nhanh chậm khác nhau: * Vùng bụng: Insulin vào máu nhanh nhất. * Vùng cánh tay: Insulin vào máu chậm hơn so với vùng bụng * Vùng mông, đùi: Insulin vào máu chậm nhất Mỗi vùng trên cơ thể được chia ra theo các ô như hình vẽ. Mỗi ô vuông là một vị trí tiêm. + Nhiệt độ môi trường xung quanh: nhiệt độ cao làm tăng hấp thu. + Hoạt động thể lực sau khi tiêm làm tăng tốc độ hấp thu insulin. + Massage nơi tiêm làm tăng tốc độ hấp thu. 1.7. Sử dụng và bảo quản Insulin Tiêm Insulin dưới da nên thay đổi các vị trí tiêm cụ thể (xoay vòng) ngày này qua ngày khác; có thể đổi vị trí tiêm (tay phải sang tay trái) hoặc bằng cách chọn điểm tiêm ngày sau cách 2,5cm so với điểm tiêm ngày trước đó để tránh áp-xe tại nơi tiêm. Bảo quản Insulin: Insulin được bảo quản ở nhiệt độ từ 2oC – 8oC, ở nhiệt độ này thì dù Insulin đã bị mở cũng sử dụng được trong vòng 90 ngày, trong khi ở nhiệt độ thường (15-20oC) chỉ dùng được trong vòng 1 tháng. Nếu để ở nhiệt độ trên 30oC Insulin bị giảm hiệu quả điều trị. 2. Kỹ thuật tiêm Insulin: gồm 4 bước Công đoạn tiêm insulin cho bệnh nhân bệnh tiểu đường gồm 4 bước như sau: + Bước 1: Chọn vị trí tiêm và khử trùng nơi tiêm bằng cồn 70oC + Bước 2: - Làm căng bề mặt da vùng sát trùng - Đâm nhanh kim thẳng đứng vuông góc với mặt da (90o) + Bước 3: Đẩy piston để thuốc vào cơ thể. + Bước 4 : Rút kim nhanh và sát trùng vùng tiêm Nguồn: tri benh tieu duong
Nguyên nhân và cách điều trị bệnh thoái hóa khớp Nguyên nhân và cách điều trị bệnh thoái hóa khớp TPO - Bệnh thoái hoá khớp (còn gọi là bệnh hư khớp) là một bệnh mạn tính, gây thoái hoá và biến dạng khớp do sự phá huỷ sụn khớp và hệ thống bao khớp - dây chằng, thường gặp ở các khớp chịu sức nặng của cơ thể. Các thể bệnh hư khớp Thoái hoá khớp có thể nguyên phát hoặc thứ phát Thoái hoá khớp nguyên phát do lão hoá của mô khớp, hoặc do sụn khớp được tưới máu và nuôi dưỡng kém,… dẫn đến mất tính đàn hồi và khô cứng. Khi hoạt động, sụn chạm vào đầu xương, gây hoại tử ở nơi chịu áp lực mạnh nhất. Bệnh này chỉ gặp ở người trên 4o tuổi. Khác với thoái hoá khớp nguyên phát, thoái hoá khớp thứ phát thường do sự lão hoá sớm của sụn khớp, xuất hiện sau chấn thương làm tổn thương diện khớp, hoặc từ những chấn thương nhỏ nhưng tác động nhiều lần, khớp hoạt động quá tải; do di chứng của viêm khớp nhiễm khuẩn hay dieu tri viem da khop dang thap… Những người béo phì cũng thường mắc chứng hư khớp do quá nặng cân, các khớp luôn trong tình trạng bị sức ép lớn. Những thể thứ phát này thường trầm trọng hơn những thể nguyên phát. Ngoài ra, những yếu tố về thời tiết, khí hậu… cũng là điều kiện thuận lợi cho bệnh xuất hiện. Thoái hoá khớp nguyên phát ở các khớp được xếp theo thứ tự “ưu tiên” như sau: Khớp liên đốt sống (trên dưới 50% các trường hợp), khớp gối (13%), khớp háng (8%), khớp liên đốt ngón tay (6%) và các khớp khác (20%). Tổn thương ở khớp bắt đầu từ những hoại tử của sụn khớp, sau đó là sự phá huỷ hệ thống trượt ở những vùng tỳ đè của xương dưới dạng một dải xơ và đường viền xung quanh khớp, các gai xương ở ngoại vi khớp. Bao hoạt dịch dày lên, hình thành những đường vân, có thể sụn hoá. Sụn hoá của bao hoạt dịch rơi vào ổ khớp gây cản trở cho hoạt động của khớp. Các xơ co kéo gây nên tình trạng cứng khớp. Bệnh thoái hoá khớp nguyên phát hay gặp ở người 40-50 tuổi, và ở phụ nữ sau khi mãn kinh, nhưng điều nguy hiểm là thoái hoá khớp hầu như không có triệu chứng. Các dấu hiệu chỉ xuất hiện khi xương và hệ thống bao khớp hoạt dịch bị tổn thương thực sự. Bệnh thường khởi đầu âm ỉ, tiến triển chậm với những giai đoạn được cải thiện theo cảm nhận chủ quan. Thể điển hình, người bệnh đau khớp vào buổi sáng, sau khi ngủ dậy; đau giảm sau khi khớp được hoạt động và hết đau khi nghỉ ngơi. Khớp không sưng và không có các dấu hiệu toàn thân. Dễ nhầm lẫn với triệu chứng và cách chua benh voi hoa cot song, viêm đa khớp và một số bệnh xương khớp khác. Khi khám, phát hiện các dấu hiệu: Hạn chế cử động, các cơ chi phối hoạt động của khớp bị teo và co cứng tăng trương lực; có tiếng lục cục trong khớp khi cử động; có thể sờ thấy đường viền khớp và gai xương. Xét nghiệm cho thấy: Hoạt dịch trong, quánh, chứa dưới 3.000 bạch cầu/1mm3; và dưới 25% là bạch cầu đa nhân trung tính; tốc độ máu lắng bình thường; chụp Xquang không có sự tương xứng giữa triệu chứng chủ quan và những tổn thương trên phim. Tuỳ theo giai đoạn có thể thấy hình ảnh hẹp khe khớp với sự phá huỷ một phần hay hoàn toàn sụn khớp, ăn mòn diện khớp ở vùng tỳ đè. Các dấu hiệu của loãng xương cũng có thể được phát hiện nếu sử dụng những phương pháp đặc biệt để phát hiện sớm các tổn thương của khớp, như: chụp cắt lớp, cộng hưởng từ, soi ổ khớp… Chẩn đoán thoái hoá khớp dựa vào những yếu tố, như: Đau khớp tăng khi hoạt động và giảm khi nghỉ ngơi; không có triệu chứng toàn thân như sốt…; những dấu hiệu viêm tại chỗ rất ít hoặc không có; dịch ổ khớp không có biểu hiện viêm, không có mủ; chụp Xquang thấy hẹp khớp, ăn mòn diện khớp… Cần lưu ý phân biệt thoái hóa khớp với viêm đa khớp dạng thấp: Viêm khớp tại chỗ rất rõ (sưng, nóng đỏ, đau), dịch ở khớp biểu hiện viêm; tốc độ lắng máu tăng… Điều trị? Nhìn chung tổn thương ổ khớp do hư khớp là không thể thay đổi nhưng tiến triển chậm. Ở những khớp chưa cứng hoàn toàn, việc dieu tri benh thoai hoa khop có thể giảm được nhưng cản trở chức năng. Thoái hoá khớp có thể điều trị bằng hai phương pháp: - Điều trị nội khoa: Ở giai đoạn đau khớp, người bệnh cần phải nghỉ ngơi, tránh tất cả những hoạt động gây đau. Dùng vật lý trị liệu để làm tăng tưới máu tại chỗ cho khớp. Trong giai đoạn đau khớp cấp, bất động khớp, thậm chí bó bột là điều rất cần thiết (chỉ nên bất động trong thời gian ngắn để tránh cứng khớp). Ngay sau khi hết đau cấp, phải tập vận động khớp nhẹ nhàng, phù hợp. Để dự phòng những tư thế xấu (khớp gối vẹo vào trong hoặc quay ra ngoài), hoặc để giảm đau, có thể sử dụng các loại: Băng, nịt, nẹp, khung đỡ,… hay đơn giản như là một chiếc gậy, một chiếc nạng nếu bị hư khớp chi dưới. Sử dụng thuốc, những thuốc cơ bản là thuốc chống viêm giảm đau, như aspirin và thuốc không có steroid (ibuprofen, diclofenac, indometacin…). Những thuốc an thần, đặc biệt nhóm diazepam có thể sử dụng trong trường hợp đau do co cơ, hoặc người bệnh quá lo lắng, nhưng không được dùng dài ngày vì dễ gây nghiện. - Điều trị ngoại khoa: Có ba loại phẫu thuật được áp dụng: Đó là, phẫu thuật dự phòng nhằm lập lại tình trạng bình thường các khớp có nguy cơ bị thoái hoá như trật khớp háng bẩm sinh, tiêu chỏm xương, nhuyễn sụn xương bánh chè, lệch trục đầu gối…; Phẫu thuật bảo tồn khi khớp chưa bị hư hỏng nặng, có thể sửa chữa đưa về điều kiện cơ học của chức năng bình thường; Và phẫu thuật thay thế trong trường hợp khớp quá hư hỏng, không thể phục hồi được, có thể thay thế từng phần, thậm chí toàn bộ khớp bằng khớp nhân tạo. Nguồn: thuoc chua benh thoat vi dia dem
Chữa trị bệnh tiểu đường bằng dầu dừa Chữa trị bệnh tiểu đường bằng dầu dừa Tiểu đường là một bệnh gây nguy cơ lớn cho tim vì máu kém lưu thông và có khuynh hướng phát triển xơ vữa động mạch. Từng tế bào trong cơ thể cần sự tiếp tế không ngừng của đường glucose hay acid béo để cung cấp năng lượng cho sự chuyển hóa và nuôi dưỡng các tế bào. Nếu các tế bào không có đủ glucose thì sẽ suy yếu đi và chết. Khi tế bào chết, mao quản và mạch máu xuống cấp và xơ vữa động mạch hình thành. Nội tiết tố insulin quan trọng vì nó đem glucose và acid béo trong máu đến các tế bào. Không có insulin, glucose không thể vào trong tế bào được. Tế bào của người bị bệnh tiểu đường không thể nhận đủ dinh dưỡng cần thiếtcho chúng. Có hai loại tiểu đường. Loại 1 xảy ra khi tuyến tụy không thể cung cấp đủ insulin cho nhu cầu của cơ thể. Loại 2 tuyến tụy có thể cung cấpmột lượng insulin bình thường, nhưng các tế bào không đáp ứng với insulin. Điều này gọi là đề kháng insulin và hiên nay chưa có thuốc trị bệnh tiểu đường hoàn toàn. Trong cả hai loại tiểu đường, các tế bào bị cướp đi các chất dinh dưỡng. Thiếu dinh dưỡng nên tế bào suy yếu và chết, mạch máu thoái hóa gây vấn đề cho lưu thông máu. Mạch vành bị thương tổn nên phát triển xơ vữa động mạch, dẫn đến nhồi máu cơ tim và đột quỵ - hai nguyên nhân hàng đầu gây tử vong của bệnh tiểu đường. Tổn thương đến mao quản nuôi dây thần kinh sẽ hủy hoại dây thần kinh. Bệnh đau thần kinh do tiểu đường thường ảnh hưởng đến chân và bàn chân, gây tê và đau nhức, nếu không điều trị, sẽ bị viêm loét và hoại tử. Máu không lưu thông đến mắt đủ để nuôi dưỡng mắt dẫn đến mù lòa; không đủ cho thận, sẽ làm suy thận. Dầu dừa là thức ăn tốt nhất cho ngưởi tiểu đường Bác sĩ khuyến cáo người tiểu đường chỉ nên ăn ít chất béo, vì chất béođược cho rằng gây béo phì và bệnh tim, cả hai bệnh này có quan hệ với bệnh tiểu đường. Nhưng dầu dừa lại là một trong những thức ăn tốt nhất cho người tiểu đường. Glucose cũng như acid béo chuỗi dài cần insulin để đi vào trong tế bào. Acid béo chuỗi trung bình (ABctb) trong dầu dừa không cần insulin cũng có thể đi qua màng tế bào cách dễ dàng. ABctb cũng tự thấm qua thể hạt sợi (mitochrondia) nữa. Mitochrondia là cơ quan sản xuất năng lượng của tế bào, chúng nhận glucose hay acid béo rồi chuyển thành năng lượng mà tế bào cần để thi hành tiến trình chuyển hóa vàduy trì sự sống của tế bào. Mitochrondia có hai màng làm cho glucose và acid béo khó đi vào nếu không có sự trợ giúp đặc biệt của chất chuyên chở gọi là carnitine transferase. ABctb có thể thấm qua màng mitochrondia mà không cần sự trợ giúp của enzyme này. Vì vậy ABctb cung cấp chất dinh dưỡng cho tế bào dù có insulin hay không. Khi bạn ăn dầu dừa, bạn làm cho tế bào được tăng năng lượng. Nếu tuyến tụy không sản xuất đủ insulin (tiểu đường loại 1), hay nếu tế bào đề kháng insulin (tiểu đường loại 2), không thành vấn đề. ABctb vẫn có thể nuôi tế bào. Việc này giữ cho mao quản và mạch máu khỏemạnh, sống động, và giúp phòng ngừa xơ vữa động mạch. Vì vậy dầu dừa làm tăng lưu thông máu và tăng sức khỏe tim mạch cho người bị tiểuđường. Vài dẫn chứng cụ thề của Bác Sĩ B.Fife *Sau khi xuất bản cuốn “The Coconut Oil Micracle” (Dầu Dừa Kỳ Diệu),tôi nhận được điện thoại của ông Bill S. ở California. Ông bị bệnh tiểu đường. Ông gọi để cám ơn tôi đã giới thiệu dầu dừa cho ông. Ôngđọc sách và thử uống dầu dừa. Ông nói rằng vì máu huyết kém lưu thông do tiểu đường, hầu như ông đã không còn cảm giác ở chân nữa. Trongnhiều tháng ông thấy chân ông như đã chết, giọng ông trở nên xúc độnghơn “Khi tôi bắt đầu uống dầu dừa, tôi thấy sự sống trở lại nơi haichân .” Sự lưu thông máu của ông đã tăng cường tới mức hai chân ôngdần dần trở lại bình thường *Từ đó tôi nghe nhiều tường trình kể lại kinh nghiệm tương tự như vậy. Edward kể: “Tôi bị tiểu đường loại 2, đường của tôi ở mức 600. Tôi bịmột vết cắt nhỏ ở bàn chân phải cả mấy tháng nay mà vẫn chưa khỏi. Vợtôi nói đó là vết thương đáng sợ. Sáu năm trước tôi bắt đầu bị têchân, ngón chân cái tê trước, và theo năm tháng, chân càng ngày càngtê nhiều hơn. Khi tôi uống 3-4 muỗng canh dầu dừa mỗi ngày, trong vòng10 ngày, vết thương khỏi hoàn toàn. Tôi mừng lắm vì bây giờ chân tôicó cảm giác trở lại, ngày càng khá hơn. Sau này ông kể thêm: “Trongvòng 5 tuần, tôi sụt 20 pounds. Tôi muốn giảm cân thêm nữa. Da tôi đẹpra, chưa bao giờ được như vậy. Da chân chai cứng đã làm tôi xấu hổ vì nó trước đây, nay đã trông khá hơn nhiều rồi.” Dẩu dừa tác dụng ra sao? Rõ ràng dầu dừa tăng cường lưu thông máu. Nó không làm tắc nghẽn,nhưng làm thông mạch máu. Theo như sự hiểu biết của tôi, dầu dừa là thứ duy nhất có thể chữa bệnh đau thần kinh do tiểu đường. Và nó khôngcó hại gì cả vì là sản phẩm tự nhiên. ABctb trong dầu dừa không nhữngcó khả năng nuôi tế bào mà không cần insulin, nó còn giúp tuyến tụy tiết insulin (loại 1), giúp tế bào nhạy cảm với insulin, nên hấp thu glucose (loại 2). Acid lauric và capric là acid chính của dầu dừa, giúp tăng cường khảnăng của tuyến tụy để tiết insulin. Tất cả các ABctb trong dầu dừabkích thích sự chuyển hóa, vì vậy tăng cường việc sản xuất insulin vàgiúp hấp thu glucose vào trong tế bào. Đây là một tin tốt cho nhữngngười bị tiểu đường phải lệ thuộc vào việc chích insulin hàng ngày.Dầu dừa có thể giúp bớt lệ thuộc vào thuốc tiểu đường. Dầu dừa cũng giúp điều hòa lượng đường vì: -dầu dừa làm chậm vic đưa thức ăn ra khỏi bao tử, để đường được đưa vào máu ở tốc độ chậm. -dầu dừa giúp tế bào thu glucose. Nhiều người tiểu đường cho biết rằng khi họ thêm dầu dừa vào thức ăn, lượng đường huyết ở mức ổn định hơn, ngay cả khi họ ăn ngọt nữa.Nếu đường ở mức cao, thay vì uống thêm lượng thuốc, có người đã uống2-3 muỗng canh dầu dừa, và mực đường huyết hạ xuống bình thường trong vòng 30 phút. Yếu tố chính tham dự vào việc phát triển bệnh tiểu đường loại 2 là sự đề kháng insulin. ABctb có thể biến đổi tình trạng này. ABctb giúp duy trì lượng đường huyết ở mức được kiểm soát giúp chữa bệnh tiểu đường, ổn định lượng đường huyết một cách hiệu quả. -Khi glucose không đi vào tế bào được do bị đề khánginsulin, tế bào liền gởi tín hiệu -Đáp lại tín hiệu này, tuuyến tụy sẽ bơm thêm insulin (để giúp đưaglucose vào tế bào), -Vì glucose không được t&##7871; bào hấp thu, nên ở lại trong máu, do đó đường trong máu tăng. -Sự gia tăng của insulin và đường cao trong máu dẫn đến Syndrom X,cũng như nhiều vấn đề sức khỏe khác trong đó có bệnh tim. -Khi ABctb đi vào tế bào, tế bào có chất dinh dưỡng nên không phát tín hiệu “đói”. Tín hiệu cho tuyến tụy sản xuất thêm insulin bị cắt đứt, và mức insulin ổn định. Sự phức tạp và nguy cơ liên quan tới tiểu đường và đường huyết được giảm đi. Lời kết Thức ăn chúng ta ăn được chuyển thành đường glucose, làm tăng lượng đường trong máu. Có loại thức ăn này tăng đường nhiều hơn loại kia. Hệ thống đo chỉ số đường trong máu của thực phẩm gọi là glycemic index(số GI). Thức ăn ngọt và nhiều bột như bánh mì làm bằng bột tẩy trắng và đường trắng có số GI cao, và vì vậy nhanh chóng tăng đường huyết.Ngay cả trái cây ngọt như chuối cũng có số GI cao. Người bị tiểu đường phải biết và giới hạn số lượng thức ăn có chỉ số đường cao. Dầu dừa có số chỉ số GI rất thấp. Khi thêm dầu dừa vào thức ăn, dầu dừa làm hạ chỉ số đường (GI) của thức ăn. Làm hạ GI của những thức ăn nhiều bộ thay ngọt nữa. Như vậy thêm dầu dừa vào bữa ăn là cách tối ưu để hạ mứcGI của thực phẩm và giúp đường trong máu của người tiểu đường ổn định. Dân cư các quần đảo Thái Bình Dương ăn dừa hàng ngày nên không bị tiểu đường. Điều này rất thú vị vì thực phẩm họ ăn có nhiều chất ngọt của trái cây (chuối, dứa) và rau củ nhiều bột, là thức ăn mà người bị tiểu đường cần giới hạn. Dừa giúp quân bình lượng insulin và đường trong máu, và phòng ngừa sự đề kháng insulin. Vì những lý do này, dầu dừa chắc chắn là chất béo tốt nhất cho ngườibị bệnh tiểu đường, và nên là một phần trong thức ăn của bất cứ ngườibị tiểu đường nào. Nguồn: tri benh tieu duong
Thoát vị đĩa đệm và thuốc chữa trị Thoát vị đĩa đệm và thuốc chữa trị Đĩa đệm bị thoát vị thường đè ép lên các rễ thần kinh xung quanh gây đau và phù nề. Độ nặng của triệu chứng giúp xác định loại thuốc cần dùng và có nhiều khả năng để lựa chọn. Nhưng cần phải lưu ý rằng thuoc chua benh thoat vi dia dem chỉ làm giảm đau mà thôi, không có tác dụng chữa bệnh. Cũng như đối với tất cả các loại thuốc khác, bạn nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng. Bạn thường sẽ dùng những thuốc thông dụng trước rồi sau đó mới tiến tới dùng các thuốc được kê toa nếu cần thiết. Nếu bạn vẫn cần phải giảm đau, kỹ thuật tiêm tủy sống sẽ giúp đưa thuốc thẳng đến nơi xuất phát cơn đau. Những thuốc thông dụng - Acetaminophen: chẳng hạn như Panadol, Tylenol là những thuốc phòng vệ đứng hàng đầu. Tuy nhiên, nó không dành cho tất cả mọi người. Tuy acetaminophen giúp giảm đau tốt nhưng nó không làm giảm viêm. - NSAID (thuốc kháng viêm không steroid) thông dụng: khác với Acetaminophen, NSAID giúp làm giảm đau và giảm viêm, cũng được sử dụng trong dieu tri benh thoai hoa khop, chua benh voi hoa cot song... Một số thuốc NSAID thường gặp là aspirin, ibuprofen (Advil) hoặc Aleve. Một số thuốc NSAID không sử dụng được đối với những người bị bệnh tim mạch hoặc loét dạ dày. Những thuốc được kê toa - NSAID được kê toa: được sử dụng nếu các loại NSAID thông dụng không có hiệu quả. Ví dụ như thuốc ức chế COX-2 (Celebrex). - Thuốc giãn cơ: thoát vị đĩa đệm thường đi đôi với co thắt cơ cột sống. Trong những trường hợp này, có thể bác sĩ sẽ cho bạn uống thuốc dãn cơ, chẳng hạn như thuốc Valium. - Corticoid đường uống: có thể giảm phù nề hiệu quả. Những loại thuốc này được cho dùng trong một thời gian ngắn do nếu dùng dài sẽ có nhiều tác dụng phụ xuất hiện. Một số ví dụ của corticoid đường uống là Decadron và methylprednisone. - Thuốc gây nghiện: những thuốc gây nghiện có tác dụng giảm đau như codeine hoặc morphine có tác dụng là dịu bớt những cơn đau nặng. Cũng cần lưu ý rằng có nhiều bệnh nhân sẽ trở nên dung nạp thuốc và cần phải sử dụng liều cao hơn nữa mới cho tác dụng giảm đau. Những thuốc này có tác dụng gây nghiện do đó chỉ được sử dụng dưới sự giám sát chặt chẽ. - Thuốc chống trầm cảm: có tác dụng chặn tín hiệu đau đi lên não và tăng hiệu quả của endorphin (là chất giảm đau tự nhiên cơ bản của cơ thể). Một lợi ích khác của thuốc là giúp bạn ngủ ngon hơn. Tiêm tủy sống Tiêm corticoid ngoài màng cứng: corticoid có tác dụng kháng viêm làm giảm nhanh chóng những cơn đau do các dây thần kinh bị chèn ép. Do được tiêm gần các dây thần kinh tủy sống nên thuốc có thể làm giảm đau đáng kể chỉ với liều đầu tiên, nhưng cần phải mất vài ngày để có tác dụng. Thường không tiêm quá 3 lần trong 1 năm. Cảnh báo Các loại thuốc thường có những tác dụng phụ mà bạn nên quan tâm. Hãy trao đổi với bác sĩ về tất cả những loại thuốc - ngay cả đối với những loại thuốc thông dụng và không cho các nguy cơ nhìn thấy được - trước khi sử dụng. Cũng cần nên nhớ rằng bạn không chỉ đơn thuần dựa vào thuốc giảm đau và tiêm tủy sống để có thể điều trị được thoát vị đĩa đệm mà cần phải phối hợp với vật lý trị liệu và tập thể dục để cho kết quả tốt nhất. Nguồn: dieu tri benh viem da khop dang thap
Bệnh tiểu đường và trái cây ngọt Bệnh tiểu đường và trái cây ngọt Câu hỏi Trước kia anh tôi rất thích ăn trái cây, gần đây anh tôi bị bệnh tiểu đường, bác sĩ khuyên cần phải ăn kiêng ngọt. Nếu anh tôi ăn nhiều trái cây như trước đây có làm sao không? Trả lời Trái cây là loại thức ăn ngon và bổ, nhiều vitamin và khoáng chất, hương vị lại thơm ngon, dễ ăn và có thể ăn được nhiều. Mọi người từ trẻ đến già ăn trái cây đều rất tốt cho sức khỏe. Riêng đối với người đang tri benh tieu duong, ăn trái cây cũng rất cần thiết để bổ sung các chất dinh dưỡng, vitamin và khoáng chất cũng như các yếu tố vi lượng cho cơ thể. Điều cần lưu ý ở đây là người bệnh tiểu đường cần phải ăn uống theo một chế độ ăn “kiêng chất đường”. Trong trái cây ngọt có chứa nhiều đường fructoza và đường glucoza, khi ăn vào được cơ thể hấp thu ngay, dẫn đến hàm lượng đường trong máu tăng cao nhanh chóng. Do đó người đang chữa bệnh tiểu đường nặng không nên ăn quá nhiều trái cây ngọt như xoài, mít, na… Để phòng lượng đường giảm thấp trong khoảng thời gian giữa hai bữa ăn hoặc sau khi vận động, người bệnh có thể ăn một ít trái cây để bảo đảm sức khỏe. Anh của bạn vẫn có thể ăn trái cây theo ý thích nhưng chú ý chọn các loại trái cây ít ngọt như cam, lê, đào, mận, ổi, táo, dưa hấu… Nguồn: thuốc trị bệnh tiểu đường
Nguyên nhân và cách chữa trị vôi hóa cột sống Nguyên nhân và cách chữa trị vôi hóa cột sống Bệnh vôi hóa cột sống hay còn gọi là gai cột sống là bệnh mà phát triển do xương hoặc sụn bị thoái hóa. Bệnh thường gặp ở những người trên 40 tuổi khi cột sống bắt đầu có dấu hiệu thoái hóa. Tỷ lệ nam mắc bệnh cao hơn nữ giới xong phụ nữ ở thời kỹ mãn kinh cũng hay bị vôi hóa cột sống. Nguyên nhân gây bệnh vôi hóa cột sống: - Gai xương có thể là kết quả của việc xương tự tu bổ sau khi liên tục bị chấn thương như sức ép, va chạm, cọ xát. . - Khi đĩa liên sống hư hao, xẹp xuống, dây chằng giữa các đốt sống sẽ chùng giãn, khớp chuyển động nhiều hơn - Phản ứng tự nhiên của cơ thể với sự chùng giãn này là làm cho dây chằng dầy lên để có sức giữ vững cột sống. - Lâu ngày, calci sẽ tụ lại trên dây chằng và tạo ra các gai hoặc chồi xương. - Dây chằng ở trong ống cột sống cũng có thể dày lên, ống thu hẹp, ép vào dây thần kinh và gây ra các dấu hiệu bệnh. - Gai là một diễn tiến của sự lão hóa. Đĩa sụn và xương bị thoái hóa, hao mòn, mặt xương khớp gồ ghề và gai mọc ra. Đó là bệnh viêm xương khớp, thường thấy ở người tuổi cao. Triệu chứng và phương pháp điều trị bệnh vôi hóa cột sống: - Bình thường gai cột sống xuất hiện nhiều hơn ở cạnh hoặc phía trước cột sống cho nên gai không cọ sát với rễ dây thần kinh hoặc với tủy sống ở phía sau, do đó gai ít gây ra các biến chứng nguy hiểm. Tuy nhiên, một số trường hợp hiếm có thể xảy ra là gai gẫy, mảnh gẫy chạy vào giữa khớp xương, gây khó khăn cho sự co ruỗi khớp hoặc khi gai đè vào rễ dây thân kinh và gây ra mất cảm giác ở tay chân. Có rất nhiều bệnh liên quan đến xương khớp, phương pháp điều trị cũng khác nhau tùy loại bệnh, như dieu tri benh viem da khop dang thap hay dieu tri benh thoai hoa khop, bệnh thoát vị đĩa đêm...Đối với vôi hóa cột sống, nếu gai không gây đau, không cần điều trị, nhưng nếu bạn bị đau nặng thì cần lưu ý một số biện pháp sau đây: - Giảm cân để giảm sức nặng lên xương khớp - Nghỉ ngơi khi sưng viêm, chườm nước đá, uống thuốc chống viêm không có steroid như paracetamol, ibuprofen. - Trong trường hợp đau nhiều, bác sĩ có thể chích thuốc steroid tại chỗ để giảm viêm và đau của cơ bắp. Thuốc viên steroid là thuốc chống viêm rất mạnh và rất công hiệu để trị viêm. - Gai cột sống có thể được cắt bỏ với vi phẫu thuật rất chính xác - Châm cứu có thể làm giảm đau một phần nào ở phần mềm nhưng không có tác dụng vào tình trạng viêm sưng cũng như khi gai tác động lên rễ dây thần kinh não tủy. - Vật lý trị liệu, thoa bóp, luyện tập xương khớp, thực hành yoga cũng giúp giảm ảnh hưởng của gai. Việc chua benh voi hoa cot song là rất khó khăn, do đó chúng tôi luôn muốn đưa ra lời khuyên cho các bạn đó là phòng bệnh hơn chữa bệnh, các bạn nên chú ý nhé. Nguồn: thuoc chua benh thoat vi dia dem
Ðề: Nguyên nhân và cách chữa trị vôi hóa cột sống vôi hóa cột sống bệnh của thiếu canxi và khoáng chất...!