Sở hữu ưu điểm vượt trội về công nghệ với chipset 08 nhân thực thụ, cấu hình máy khủng, 02 sim 02 sóng, camera 08 MP, màn hình phân giải chuẩn HD…smartphone BlackView tỏ ra tự tin trong công cuộc tiến chân vào làng công nghệ Việt. Ngày 23/8/2014 vừa qua, trong buổi lễ ra mắt thương hiệu, CEO công ty JEKO - chủ thương hiệu Blackview và CEO công ty Huân Bằng - đại diện nhà phân phối tại Việt Nam cho biết hai bên đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc chinh phục người dùng Việt. Buổi ra mắt nhiều kỳ vọng Tỏ ra am hiểu thị trường smartphone Việt Nam đang sôi động ở cuộc đua phân khúc tầm trung, công ty JEKO đã đưa đến buổi ra mắt với các đại lý từ Bắc đến Nam 04 dòng sản phẩm đầy ấn tượng. Với mức giá từ 03 đến 05 triệu đồng, 04 dòng sản phẩm của BlackView gồm: Crown, DM550, JK900 và JK808 đã gây ấn tượng mạnh cho các đại lý. Đại diện công ty JEKO giới thiệu về các dòng sản phẩm của BlackViewĐiểm nổi trội của BlackView là sở hữu thiết kế thanh lịch, sang trọng với kích thước siêu mỏng cùng công nghệ vượt trội với chipset 08 nhân thực thụ, cấu hình máy khủng khi bộ nhớ lên tới 16GB Ram 02 GB, 02 sim 02 sóng, camera 08 MP, màn hình phân giải chuẩn HD, đặc biệt chống trầy xước…Với ưu điểm đó, BlackView đã giúp 100% đại lý tin tưởng và mạnh dạn ký kết hợp đồng phân phối sản phẩm đến rộng rãi người dùng. Đông đảo các đại lý từ Bắc – Nam tham gia buổi ra mắtCEO của công ty JEKO cũng tự tin cho biết, Việt Nam là thị trường thứ 03 ở Đông Nam Á sau khi dòng sản phẩm này đã tiếp cận thành công người tiêu dùng ở các nước châu Âu, Á như: Nga, Honduras, Dubai, Tây Ban Nha, Philippinnes, Malaysia… Cho đến kế hoạch “lấy lòng” người dùng Việt Với 04 sản phẩm chào sân thị trường Việt, đại diện BlackView khẳng định hãng sẽ bán ra với giá ưu đãi để người dùng Việt trải nghiệm thử sản phẩm mới. Theo đó, Crown là dòng sản phẩm cao cấp nhất trong lần ra mắt này. Cấu hình mạnh với bộ vi xử lý 8 nhân (Octa Core), màn hình 5 inch HD IPS nét, công nghệ OGS tiên tiến và sử dụng kính cường lực chống trầy. Crown có mức giá cạnh tranh với chi phí để sở hữu chiếc điện thoại thời trang này là 4,98 triệu đồng. Hình ảnh 04 sản phẩm đầu tiên ra mắt thị trường ViệtTrong khi đó, DM500 lại được thiết kế với dáng vẻ thanh thoát và hiện đại, cấu hình mạnh tương tự Crown với giá bán hấp dẫn là 4,88 triệu đồng. Ấn tượng hơn hết là JK900 - sản phẩm dành riêng cho các tín đồ thời trang với giá bán 4,08 triệu đồng. Với phân khúc cho người có thu nhập trung bình, Blackview cũng mang đến sản phẩm JK808 với thiết kế thời thượng, chăm chút đến từng chi tiết. Giá bán của sản phẩm này chỉ 3,18 triệu. Đặc biệt, với khách hàng mua sản phẩm Blackview JK900 còn được tặng kèm voucher trị giá 700.000 đồng cho dịch vụ order (đặt hàng) tại website. Hãng cũng cho biết thêm những dòng sản phẩm chất lượng, giá cả cạnh tranh và các chương trình chăm sóc hậu mãi còn tiếp tục được tung ra trong thời gian tới.
Kinh Đô và Dao Heuang có “chen” vào nổi thị trường cà phê hòa tan Việt Nam? Ba tháng sau sự kiện Tập đoàn Dao Heuang Group (Lào) và Công ty cổ phần Blue Star Việt Nam chính thức ký hợp đồng hợp tác kinh doanh cung ứng sản phẩm cà phê mang thương hiệu Dao Coffee tại thị trường Việt Nam, Kinh Đô cũng công bố kế hoạch đầu tư vào Công ty PhinDeli để phát triển thêm lĩnh vực cà phê. Thông tin trên được phía Kinh Đô công bố tại Đại hội cổ đông thường niên 2014, diễn ra vào ngày 30/6/2014. Mặc dù chưa có thông tin chi tiết về kế hoạch hợp tác cũng như thời gian ra mắt sản phẩm, nhưng sự kiện này đủ nóng để khuấy động thị trường cà phê. Đường trường mới biết ngựa hay Thực ra, hai doanh nghiệp này không phải “tay mơ” trong ngành thực phẩm. Dao Heuang Group là một trong những tập đoàn lớn nhất ở Lào, trong đó cà phê – sản phẩm chủ lực của công ty – được xuất khẩu tới nhiều nước như Nhật, Thụy Sĩ, Ý, Trung Quốc… Bởi vậy, khi công ty này công bố sự ra đời của Dao Coffee, họ đồng thời đưa ra một thông điệp đầy tự tin về khả năng cạnh tranh của sản phẩm mới trong bối cảnh các doanh nghiệp cà phê lớn đang thống lĩnh thị trường Việt Nam. Trong khi đó, ông Trần Quốc Việt, Phó Tổng giám đốc Kinh Đô, phân tích rằng, ước tính quy mô thị trường cà phê hòa tan trong nước hiện đạt hơn 4.750 tỷ đồng/năm, với tốc độ tăng trưởng 15-20%/ năm. Lợi thế sẵn có của Kinh Đô – mạng lưới phân phối rộng – là cơ sở để ông Việt tin vào tương lai của sản phẩm này. Về mặt lý thuyết, có thể nói cả Dao Heuang Group và Kinh Đô được dự báo sẽ trở thành các đối thủ nặng ký đối với Trung Nguyên, Nestlé và Vinacafé ở phân khúc cà phê hòa tan. Tuy nhiên, cần nhìn vào cục diện thị trường cà phê hòa tan trước kia, khi các yếu tố: vốn đầu tư, thương hiệu, kênh phân phối…nếu đứng riêng lẻ đều không phải là những “cú hích” lớn nhất mang lại thành công cho các nhà sản xuất. Điều quan trọng nhất có lẽ là sự tổng hòa của tất cả các yếu tố này. Đơn cử như trường hợp của Vinacafé vào cuối những năm 1980 khi các sản phẩm chủ lực của công ty này rất khó tìm được chỗ đứng trên thị trường. Phải đến năm 1993, khi Vinacafé tung ra sản phẩm cà phê hòa tan “3 in 1” với giải pháp thêm đường và bột kem vào cà phê, đóng sẵn từng gói nhỏ và bán ra thì thị trường mới đón nhận, đánh dấu sự khởi đầu của sản phẩm cà phê hòa tan tại Việt Nam. Cùng thời điểm đó, Nestlé cũng đặt chân vào Việt Nam với nguồn vốn đầu tư ban đầu khoảng 75 triệu USD. Với khoản đầu tư này, Nestlé đã phát triển hàng loạt sản phẩm, trong đó có cà phê hòa tan mang nhãn hiệu Nescafé. Với lợi thế là thương hiệu nổi tiếng quốc tế, Nescafé đã trở thành đối thủ đáng gờm của Vinacafé trên thị trường cà phê nội địa. Sau đó không lâu tới lượt Trung Nguyên xuất hiện. Tại thời điểm năm 1996, Trung Nguyên chưa thực sự gây tiếng vang. Hầu hết sản phẩm của doanh nghiệp này đều tập trung vào cà phê rang xay. Mãi đến năm 2003, doanh nghiệp của ông Đặng Lê Nguyên Vũ mới tuyên bố sự hiện diện của mình trên thị trường cà phê hòa tan với dòng sản phẩm cà phê G7. Sản phẩm này đã nhanh chóng chiếm được chỗ đứng trên thị trường và vượt mặt True Coffee – một sản phẩm cà phê hòa tan của đại gia ngành sữa Vinamilk cũng được tung ra trong năm 2003, nhưng không tạo được dấu ấn gì đáng kể. Cần nhắc lại rằng, lợi thế thống trị ngành sữa của Vinamilk với rất nhiều thuận lợi không giúp ích gì cho họ khi lấn sân sang lĩnh vực cà phê hòa tan với những thất bại khó nuốt trôi khi cho ra mắt các sản phẩm Vinamilk Coffee gồm cả cà phê hòa tan và cà phê rang xay (vốn đầu tư 20 triệu USD xây nhà máy sản xuất cà phê ở Bình Dương, công suất 1.500 tấn/năm). Trước đó là cú ngã ngựa nặng nề của cà phê Moment được Vinamilk tung ra năm 2005 với hợp đồng sử dụng hình ảnh của câu lạc bộ bóng đá Arsenal (Anh) để quảng cáo. Đến năm 2008, sản phẩm này chỉ đóng góp vỏn vẹn 1% cho lợi nhuận của Vinamilk, coi như chính thức đặt dấu chấm hết cho tham vọng nhảy vào lĩnh vực cà phê hòa tan của đại gia ngành sữa. “Bạch tuộc” vươn vòi Hai tên tuổi mới có học được gì từ thất bại cay đắng của Vinamilk trước đây? Theo kết quả nghiên cứu của Ipsos Business Consultant về thị trường cà phê Việt Nam, từ năm 2011 trở đi nhu cầu cà phê hòa tan tăng nhanh do xu hướng thưởng thức cà phê của những người trẻ đã thay đổi. Một số người đã bắt đầu chuyển hướng từ cà phê rang xay sang cà phê hòa tan vì sự tiện lợi hơn. Mặt khác, các nhà sản xuất cũng đã thi nhau cung cấp các sản phẩm với mùi vị đa dạng như cà phê hòa tan 2in1, 3in1 và 4in1. Trong đó, 3in1 chiếm 58%; 2in1 chiếm 24%; 4in1 chiếm 6% và các loại khác chiếm 12%. Đứng ở vị trí nhà sản xuất, đại diện Trung Nguyên, bà Võ Thị Hà Giang, Giám đốc Truyền thông – Đối ngoại cho biết, căn cứ từ số liệu nghiên cứu của Trung Nguyên và số liệu thống kê của những công ty nghiên cứu thị trường, đến thời điểm 2013 dòng cà phê hòa tan G7 (G7 và Pasiona G7) của Trung Nguyên vẫn dẫn đầu thị trường với tỷ lệ 37%, Nestlé đứng ngay sau với 35%, Vinacafé và khoảng gần 20 nhãn hàng nội địa, nhập khẩu chiếm 28% còn lại. Đấy là con số từ nhà sản xuất đưa ra, còn hiện tại thì số liệu về thị phần cà phê hòa tan của năm 2013 vẫn chưa được các công ty nghiên cứu thị trường công bố. Song theo cộng đồng khảo sát trực tuyến Vinaresearch (Công ty W&S), nhãn hiệu đang được sử dụng nhiều nhất là Trung Nguyên chiếm 26,3% thị trường; Vinacafé Biên Hòa 22,8% và Nestlé 21,7%. Nhìn chung, 3 vị trí dẫn đầu không có nhiều xáo trộn, nhưng miếng bánh thị phần của 3 ông lớn này đã giảm đáng kể so với năm 2011. Liệu có ai trong số 3 “ông lớn” kể trên tiếp tục suy giảm thị phần trong thời gian tới khi ngày càng có nhiều nhãn hàng ngoại lẫn nội lấn sân vào lĩnh vực này, trong đó có Dao Heuang Group và Kinh Đô? Để chạy đua, các gương mặt cũ và mới đều liên tục đầu tư tiền bạc để khắc sâu hình ảnh của mình trong tâm trí của người tiêu dùng. Điển hình như, năm 2013 sau khi có sự tham gia của Masan, Vinacafé Biên Hòa đã mạnh tay chi cho các hoạt động bán hàng gần 67 tỷ đồng, tăng 1,5 lần so với năm 2012. Ngoài ra, Vinacafé còn đang nhắm đến thị trường miền Tây Nam bộ trong năm 2014. Nestlé Việt Nam dự kiến ngân sách dành cho các hoạt động marketing trong năm nay là gần 20 tỷ đồng, bao gồm cả sản phẩm cà phê hòa tan. Dao Heuang Group dự kiến chi khoảng 5 triệu USD cho chiến dịch quảng bá sản phẩm (cà phê hòa tan) trong thời gian tới. Xét về năng lực sản xuất, các công ty lớn đều có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Tính đến tháng 6/2014, Trung Nguyên đã có 4 dây chuyền sản xuất ở Bắc Giang, TP.HCM, Bình Dương và Đăk Lăk với công suất cung cấp hơn 4.600 tấn cà phê hòa tan và 12.600 tấn cà phê rang xay/năm. Nestlé Việt Nam đưa 2 nhà máy cà phê hòa tan với tổng công suất gần 34.125 tấn/năm đi vào hoạt động vào cuối năm 2013 (70% sản phẩm ở nhà máy thứ hai, công suất 32.500 tấn dành cho xuất khẩu). Còn Vinacafé Biên Hòa cũng đã đưa nhà máy công suất 3.200 tấn/năm ở Long Thành, Đồng Nai vào hoạt động năm 2013. Ai sẽ giành được chỗ đứng? Theo đại diện của Công ty Tư vấn thương hiệu Lantabrand, năm 2013 thị trường cà phê Việt Nam ước đạt doanh số 15.000 tỷ đồng, trong đó 7.000 tỷ đồng là doanh số của nhóm cà phê hòa tan. Tuy nhiên, 80% thị phần đang nằm trong tay ba “ông lớn”: Nestlé, Trung Nguyên và Vinacafé Biên Hòa nên không dễ cho ai giành được thị phần đáng kể. Theo các công ty nghiên cứu thị trường, cà phê hòa tan thực sự đang là cuộc chiến giữa các đối thủ “nặng ký” gồm ba “ông lớn” nói trên và hai doanh nghiệp mới tham gia là Dao – Kinh Đô và MacCoffee (“áo mới” của cà phê nhãn hiệu Con Ó trước đây). Theo dự báo của một chuyên gia trong ngành cà phê, thị trường cà phê hòa tan năm 2014 vẫn xoay quanh trục chính: Nestlé, Trung Nguyên, Vinacafé Biên Hòa. Đến cuối năm 2014, dao động thị phần của những ông lớn sẽ rõ ràng hơn và cơ hội cho người chơi mới vẫn còn. Hãy cùng chờ xem!
Kinh Đô sẽ ẵm trọn PhinDeli ? ới vai trò là cổ đông chiến lược nắm cổ phần chi phối, khả năng Kinh Đô “ẵm trọn” PhinDeli là rất lớn. Màn “song kiếm hợp bích” ăn ý Sau gần 1 năm tung thương hiệu cà phê PhinDeli trên cả hai thị trường Việt Nam và Hoa Kỳ, nhà sáng lập Phạm Đình Nguyên đã chọn Kinh đô làm đối tác chiến lược, với tỷ lệ cổ phần chi phối, nhưng không được tiết lộ cụ thể. Chỉ biết rằng, về với Kinh Đô, ông Nguyên sẽ giữ vai trò Tổng giám đốc (CEO), còn đại diện Kinh Đô giữ vai trò Chủ tịch HĐQT. Ý định chọn CTCP Kinh Đô làm cổ đông chiến lược chỉ đến sau khi Công ty PhinDeli có mặt trên thị trường. Đó là lúc, ông Nguyên cùng các cộng sự lên kế hoạch tung dòng sản phẩm cà phê hòa tan, sau khi ổn định với dòng cà phê rang xay. Riêng với dòng cà phê rang xay, hiện PhinDeli vẫn vận hành êm thấm, vì hệ thống phân phối chỉ xuất hiện ở chuỗi các siêu thị và một số cửa hàng trọng điểm tại những thành phố lớn, chủ yếu ở TPHCM. Thế nhưng, đối với cà phê hòa tan, lại là câu chuyện khác. Nó cần một hệ thống rộng khắp cả nước, với tốc độ nhanh chóng. Và ông Nguyên cảm thấy PhinDeli sẽ khó có thể phát triển nhanh. Hơn nữa, nếu có làm được, cũng ngốn không ít vốn, mà không hiệu quả và tốn nhiều thời gian. Ông Nguyên đã tìm đến với Kinh Đô, một công ty hàng tiêu dùng không xa lạ với ông và có hai anh em ông Trần Lệ Nguyên (Phó chủ tịch HĐQT) và ông Trần Kim Thành (Chủ tịch HĐQT) là những bậc đàn anh luôn gắn bó mật thiết, cho ông những “chiêu” đầu tư táo bạo, nhưng sinh lời. “Muốn có hệ thống phân phối nhanh, rộng và hiệu quả nhất không một công ty hàng tiêu dùng nào có thể giúp chúng tôi đi nhanh hơn là hợp tác với Kinh Đô. Hơn nữa, bánh kẹo đi chung với cà phê sẽ rất hợp”, ông Nguyên bày tỏ. Còn đối với Kinh đô, việc kéo PhinDeli về phía mình có nghĩa là Kinh đô phải phát triển ngay từ đầu thương hiệu này. Vậy đâu là điểm Kinh đô sẽ tận dụng được từ PhinDeli và ngược lại? Trước hết, bản thân Kinh Đô đã xác định, cà phê cùng với mỳ gói và dầu ăn là 3 ngành hàng chiến lược mũi nhọn mà họ muốn tham gia. Tổng giám đốc Kinh Đô, ông Trần Lệ Nguyên cũng không giấu giếm khả năng sẽ gặp khó khăn khi phải xây dựng một thương hiệu ngay từ đầu. Bản thân Kinh Đô cũng mất hơn một thập kỷ mới có thể xây dựng được thương hiệu như hiện nay. Trong khi đó, PhinDeli dù mới khai sinh chưa đầy 1 năm, nhưng nhờ cách nghĩ “không gì không thể”, cũng đủ khiến các tên tuổi lớn không thể làm ngơ. “Khi tôi gặp và trao đổi với anh Trần Lệ Nguyên về kế hoạch hợp tác, anh ấy rất hào hứng. Một bên thì có thương hiệu mạnh và một bên thì có hệ thống phân phối rộng - giống như song kiếm hợp bích vậy. Còn tôi sẽ nhanh chóng có được hệ thống phân phối có sẵn. Nghĩa là, tất cả các sản phẩm của PhinDeli sắp tới sẽ do Kinh Đô phân phối, vừa hiệu quả về chi phí, vừa được phủ khắp hang cùng ngõ hẻm”, ông Phạm Đình Nguyên hồ hởi. Thị trường cà phê hòa tan Việt Nam đang là sân chơi của các tên tuổi lớn như Trung Nguyên, Nestlé, Masan với sức đọ nhau trên từng centimet. Và khi Kinh đô tuyên bố sẽ dấn thân vào cuộc chơi này khiến nhiều người không tin về độ khả thi. Song là người từng gắn bó với Kinh Đô một thời gian, ông Phạm Đình Nguyên vẫn quyết tâm tìm đến Kinh Đô để “trao thân gửi phận”, vì cơ hội cho cả hai là rất lớn. Ông thừa nhận, thị trường cà phê nói chung, cà phê hòa tan nói riêng cạnh tranh rất khốc liệt giữa các thương hiệu mạnh, nên nếu bản thân Kinh Đô phát triển riêng một thương hiệu cà phê ngay từ đầu sẽ mất nhiều thời gian, công sức. Còn nếu PhinDeli tự xây cho mình một hệ thống phân phối cũng sẽ rất vất vả. “Tôi nghĩ, muốn đi nhanh, ta có thể đi một mình. Nhưng muốn đi xa, ta phải đi cùng với bạn”, ông Nguyên chia sẻ. Hiện PhinDeli chỉ có nhóm sản phẩm cà phê rang xay cao cấp được Cục Quản lý dược phẩm và thực phẩm Hoa Kỳ chứng nhận và được bán tại thị trường Hoa Kỳ. Sắp tới, Công ty sẽ tung ra nhóm sản phẩm cà phê hòa tan cho cả thị trường Việt Nam và Hoa Kỳ. Kinh Đô sẽ ẵm trọn PhinDeli? Ông Phạm Đình Nguyên thành lập Công ty PhinDeli vào tháng 4/2013, sau sự kiện gây “rúng động” giới truyền thông trong và ngoài nước với thương vụ mua lại thị trấn Buford thuộc Bang Wyoming (Hoa Kỳ) năm 2012 và đổi tên thành “Thị trấn PhinDeli”. PhinDeli có vốn điều lệ 10 tỷ đồng. Trong đó, ông Nguyên góp 58%, ông Đỗ Quốc Tuấn (hiện là CEO) góp 14%, còn lại là của một đối tác, đại diện cho một quỹ đầu tư mà ông Nguyên không chia sẻ cụ thể. Gần 1 năm qua, ông Nguyên đã đổ vào “Thị trấn PhinDeli” khoảng 500.000 USD để biến nơi đây thành tuyên ngôn cà phê trên đất Hoa Kỳ, giúp ông thực hiện tham vọng mở cánh cửa thị trường tiêu thụ cà phê rang xay ở Việt Nam có quy mô ước tính đạt hơn 500 triệu USD vào năm 2015 (theo Hãng nghiên cứu thị trường toàn cầu Mintel Comperemedia). Tại sao PhinDeli lại chọn cà phê rang xay để phát triển trước, thay vì bắt đầu bằng cà phê hòa tan? Vì theo tìm hiểu của ông Nguyên, ngoại trừ công ty đa quốc gia, lịch sử phát triển của các thương hiệu cà phê hòa tan tại Việt Nam như Trung Nguyên, Vinacafe đều có hậu thuẫn từ cà phê rang xay. Tạm gác lại chuyện vị thế của thương hiệu cà phê này sẽ như thế nào, vì mọi chiến lược vẫn nằm trong vòng bí mật và đó là câu chuyện của tương lai. Tuy nhiên, việc ông Nguyên có trụ được trên thị trường và phát triển cùng với PhinDeli đến giai đoạn đỉnh cao hay không lại được nhiều người quan tâm. Bởi với vai trò là cổ đông chiến lược nắm cổ phần chi phối, khả năng ông Nguyên để Kinh Đô “ẵm trọn” thương hiệu này là rất lớn. Lúc này, giới kinh doanh lại đặt câu hỏi, liệu ông Nguyên có áp dụng chiêu thức sáng lập, xây dựng thương hiệu rồi bán giống như Lý Quý Trung, CEO Phở 24; Đỗ Anh Tú, CEO Diana; Phan Quốc Công, CEO ICP… đã làm rất thành công? “Hiện nay, trong đầu tôi, chỉ có một mục tiêu duy nhất là xây dựng thương hiệu PhinDeli, làm rạng danh cà phê Việt. Có thêm bạn đường tâm đắc Kinh Đô, tôi càng tự tin hơn trong quyết định của mình”, ông Nguyên trả lời. Song là một nhà kinh doanh, nhà đầu tư, thì không gì là không thể, mà lịch sử tên tuổi ông nổi như cồn nhờ vào thương vụ mua bán. Trong đó, ông Trần Lệ Nguyên lại là người tán thành ý định của ông khi muốn tham gia cuộc đấu giá mua thị trấn Buford. Ngoài ra, ông Phạm Đình Nguyên từng làm Phó giám đốc CTCP Hàng gia dụng quốc tế (ICP) của ông Phan Quốc Công. Ông Phạm Đình Nguyên từng chia sẻ, khi làm ở ICP, ông mới biết được mục tiêu là tiêu chí làm việc đầu tiên, sau đó mới đến với phương cách thực hiện, điều mà ông từng tích lũy được khi làm ở các công ty đa quốc gia. Trước đó, năm 2009, ông Nguyên cùng một đối tác ở phía Bắc thành lập CTCP Phân phối dịch vụ tổng hợp (IDS) nay có vốn điều lệ 20 tỷ đồng. IDS hiện phân phối sản phẩm cho ICP, Công ty TNHH Một thành viên Kỹ nghệ súc sản (Vissan). IDS cũng giúp ích nhiều cho PhinDeli ở khâu phân phối khi thâm nhập thị trường. Thế nhưng, đối với cà phê, ông Nguyên cần một hệ thống phân phối hiệu quả ngay tức thời để bảo đảm cho thương hiệu thành công. Đặc biệt, sau khi có sự “nhúng tay” - một dạng thức M&A - của Kinh Đô, ông Nguyên kỳ vọng, PhinDeli sẽ có cơ hội thâm nhập sâu hơn thị trường Hoa Kỳ, Nhật bản và Đài Loan.
PhinDeli bất ngờ bán quyền điều hành cho Kinh Đô (TNĐO) - Thông tin Công ty cổ phần PhinDeli của doanh nhân Phạm Đình Nguyên, người từng mua thị trấn Buford (Mỹ) năm 2012, được bán cho Công ty cổ phần Kinh Đô để phát triển lĩnh vực cà phê khiến nhiều người bất ngờ. Ông Phạm Đình Nguyên, người từng mua một thị trấn của Mỹ vào năm 2012, tuyên bố bán công ty PhinDeli cho Kinh Đô khiến nhiều người bất ngờ. Ảnh: TL. Ông Phạm Đình Nguyên, một doanh nhân Việt từng khiến người Mỹ và cả thế giới ngỡ ngàng khi mua lại thị trấn Buford ở Mỹ vào năm 2012 với cái giá 900.000 USD (khoảng 20 tỉ đồng), trở thành thị trưởng của thị trấn này. Sau đó, ông Nguyên xúc tiến thành lập Công ty cà phê PhinDeli, đồng thời đổi tên cả thị trấn Buford thành PhinDeli với tham vọng quảng bá, kinh doanh loại cà phê pha phin đặc trưng của Việt Nam đến tay người Mỹ. Tuy nhiên, tại đại hội cổ đông vừa qua của Công ty cổ phần Kinh Đô (KDC), lãnh đạo nơi này thông báo việc mua cổ phần của PhinDeli khiến nhiều người ngỡ ngàng. Theo ông Phạm Đình Nguyên, nếu tự mình xây dựng một hệ thống phân phối chỉ để bán cà phê thì mất nhiều thời gian, tiền bạc cũng như công sức. Vì thế, PhinDeli quyết định hợp tác với Kinh Đô vì nơi này đã có sẵn hệ thống phân phối rộng khắp, như: Mỹ, Nhật, Đài Loan…Vì vậy, hợp tác với Kinh Đô là “một mũi tên trúng hai con chim” cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu. Cũng theo ông Nguyên, sau khi Kinh Đô tham gia vào PhinDeli, ông Nguyên giữ chức vụ Tổng Giám đốc (CEO), còn đại diện Kinh Đô giữ vai trò chủ tịch hội đồng quản trị. Còn về giá trị đầu tư cũng như tỉ lệ phần trăm tham gia của Kinh Đô, ông Nguyên “không tiết lộ vì đây là một phần của cam kết bảo mật của hai bên”. Ông Nguyên khẳng định, thị trấn PhinDeli (Buford) vẫn thuộc tài sản cá nhân ông Nguyên nên không nằm trong tài sản của PhinDeli và ông vẫn tiếp tục là Thị trưởng PhinDeli, điều hành các hoạt động ở thị trấn này.
Chi phối Phin Deli, lãnh đạo Kinh Đô sẽ là thị trưởng tại Mỹ? Năm 2012: Tại thị trấn Buford đã diễn ra một buổi đấu giá có một không hai khi thứ được đưa ra đấu giá là thị trấn nhỏ nhất nước Mỹ mà người ta vẫn gọi là nơi “khỉ ho cò gáy” này. Người thắng buổi đấu giá là Phạm Đình Nguyên với mức giá đưa ra là 900.000 USD. Sau khi sở hữu Buford, Phạm Đình Nguyên nghiễm nhiên trở thành thị trưởng của thị trấn có 1 công dân. Năm 2013: Buford được đổi tên thành Phin Deli nhằm quảng cáo thương hiệu của chủ nhân, với ý nghĩa ly cafe ngon, một từ ghép giữa Phin là công cụ pha độc đáo của cà phê Việt và Deli là viết tắt của Delicious, có nghĩa là ngon. 30/6/2014: Tại Đại hội cổ đông của CTCP Kinh Đô (Mã: KDC), mặc dù luôn tránh trả lời trực diện về tỷ lệ sở hữu Phin Deli, nhưng lãnh đạo công ty bánh kẹo hàng đầu Việt Nam cho biết Kinh Đô đang giữ quyền chi phối công ty này. Điều này cũng có nghĩa, Kinh Đô không chỉ sỡ hữu thương hiệu café Phin Deli mà còn sở hữu gián tiếp thị trấn Phin Deli của Mỹ. Quay trở lại việc đổi tên thị trấn Mỹ thành cái tên đầy kiêu hãnh của một thương hiệu café, Phin Deli công bố trên trang chính thức của mình như sau: “Chúng tôi là thương hiệu Phin Deli với sứ mệnh là đem đến cho khách hàng những tách cà phê Việt đúng nghĩa - vừa có hương vị độc đáo và vừa an toàn tuyệt đối. Hôm nay, chúng tôi chính thức giới thiệu “Tuyên ngôn cà phê Việt” ngay trên thị trấn Mỹ Buford - do chính người Việt sở hữu. Và hôm nay, chúng tôi cũng chính thức đổi tên thị trấn Buford với 147 năm lịch sử thành Thị trấn Phin Deli”. Về việc thâm nhập lĩnh vực cafe, Kinh Đô cho biết, ước tính quy mô thị trường cafe trong nước, chỉ riêng cà phê hòa tan đã đạt hơn 4,750 tỷ đồng/năm với tốc độ tăng trưởng 15 - 20%/năm. Thâu tóm Phin Deli, Kinh đô sẽ đưa mặt hàng cafe Việt ra thế giới. Ngoài cafe, Kinh Đô còn tham gia 2 ngành mới là dầu ăn và mỳ ăn liền. Với ngành dầu ăn, Kinh Đô hiện là cổ đông chiến lược của Công ty Dầu ăn Vocarimex. Và, cũng vẫn với chiến lược bí mật như với Phin Deli, tỷ lệ sở hữu và giá mua cổ phần của Vocarimex không được tiết lộ. Với lĩnh vực mỳ ăn liền, Kinh Đô hợp tác toàn diện với Công ty TNHH Sài Gòn Vewong - đối tác có thâm niên và chuyên môn, công nghệ về mì gói với thương hiệu A-one. Sau khi tham gia các mặt hàng mới, Kinh Đô sẽ thực hiện tái cấu trúc thành 6 mảng kinh doanh chính, chuyển lĩnh vực kinh doanh bánh kẹo sang Kinh Đô Bình Dương – BKD (trong đó có Công ty TNHH MTV Kinh Đô Miền Bắc - NKD), kem - sữa chua (Kido), mỳ gói (Saigon Vewong), dầu ăn (Vocarimex), cà phê (Phin Deli) và Kinh Đô Bakery. Về kế hoạch kinh doanh năm 2014, công ty đặt kế hoạch doanh thu thuần 5.150 tỷ và lợi nhuận trước thuế 660 tỷ đồng, tăng lần lượt 13% và 7% so với năm trước. Tỷ lệ cổ tức dự kiến 20% bằng tiền mặt. Trong khi đó, doanh thu thuần và lãi trước thuế năm 2013 của KDC đạt lần lượt 4.561 tỷ và 619 tỷ đồng, tăng 6% và 26% so với năm 2012.
Kinh Đô đầu tư vào Vocarimex, Phin Deli (TBKTSG Online) - Trong chiến lược đa dạng hóa lĩnh vực thực phẩm, sau khi công bố hợp tác với Saigon Vewong để tham gia vào mảng mì gói, nhà sản xuất bánh kẹo Kinh Đô cho biết sẽ đầu tư vào Tổng Công ty Công nghiệp Dầu Thực vật Việt Nam (Vocarimex) và Công ty Phin Deli để tham gia thị trường dầu ăn và cà phê. Tại đại hội cổ đông thường niên năm 2014 của Kinh Đô diễn ra vào ngày 30-6, cổ đông của công ty đã thông qua kế hoạch hợp tác với Saigon Vewong và đầu tư vào Vocarimex và Công ty Phin Deli. Dù đang dẫn đầu thị trường trong nước ở ngành hàng bánh kẹo, Kinh Đô nhận định ngành hàng này hiện không còn cơ hội phát triển như những năm đầu mới thành lập công ty. Do đó lãnh đạo công ty trong 3 năm qua tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư vào một số ngành hàng khác theo chiến lược “thực phẩm và các sản phẩm thiết yếu", nhằm mở rộng chuỗi sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu của mọi người và gia tăng sự hiện diện của các sản phẩm Kinh Đô trong đời sống người dân Những sản phẩm mà Kinh Đô đang nhắm mở rộng sản xuất gồm mì gói, dầu ăn, gia vị, cà phê cùng một số ngành hàng thực phẩm thiết yếu khác. Việc sở hữu một phạm vi rộng về nhóm hàng thực phẩm sẽ giúp Kinh Đô tận dụng tối đa mạng lưới phân phối rộng lớn, đem về lợi ích kinh tế lớn hơn cho công ty. Theo ông Trần Quốc Việt, Phó tổng giám đốc Kinh Đô, trong ngành hàng dầu ăn và cà phê, Kinh Đô sẽ hợp tác, mua cổ phần của hai công ty Vocarimex và Phin Deli. Với Vocarimex, Kinh Đô đã ký hợp tác trở thành cổ đông chiến lược; tuy nhiên lãnh đạo công ty không tiết lộ sẽ mua bao nhiêu cổ phần của Vocarimex và đến thời điểm nào sẽ tung ra thị trường sản phẩm dầu ăn vì bị ràng buộc giữ bí mật thông tin của phía đối tác. Tuy nhiên, giới phân tích đánh giá Vocarimex là một nhà sản xuất dầu ăn lớn ở Việt Nam. Hiện Vocarimex đang sở hữu hai doanh nghiệp chiếm thị phần lớn là Công ty Tường An (thương hiệu Tường An) và Tân Bình (thương hiệu Nakydaco), cũng như có vốn góp trong hai liên doanh là Công ty Cái Lân (thương hiệu Neptune, Simply) và Golden Hope (thương hiệu Marvela). Vocarimex vừa được Nhà nước phê duyệt cổ phần hóa hồi tháng 4-2014. Ông Việt nhận định, thị trường dầu ăn Việt Nam có qui mô hơn 22.300 tỉ đồng, tốc độ tăng trưởng 7-9%. Tương tự, ước tính quy mô thị trường cà phê trong nước chỉ riêng cà phê hòa tan đã đạt hơn 4.750 tỉ đồng/năm với tốc độ tăng trưởng 15-20%/ năm. Với một thị trường rộng lớn và cạnh tranh khốc liệt này, Kinh Đô sẽ mua cổ phần của Công ty Phin Deli - doanh nghiệp nổi tiếng sau khi ông chủ mua quyền sở hữu thị trấn Buford ở Mỹ. Kinh Đô cũng chưa tiết lộ về thời gian cho ra mắt sản phẩm cà phê của mình nhưng cho biết đầu tư vào Phin Deli, nhà sản xuất bánh kẹo này sẽ giữ quyền chi phối. Trước đó, Kinh Đô tiết lộ kế hoạch hợp tác với Saigon Vewong để tham gia thị trường mì ăn liền vào quí 3 năm nay. Khác với đầu tư trực tiếp vào Vocarimex và Phin Deli, với Saigon Vewong, Kinh Đô hợp tác toàn diện. Thông qua doanh nghiệp 100% vốn Đài Loan được biết đến nhiều với thương hiệu A One này, Kinh Đô sẽ mở rộng mặt hàng mì ăn liền và nước chấm. Theo kế hoạch, Saigon Vewong sẽ là đơn vị sản xuất mì gói, cháo, phở ăn liền cho Kinh Đô. Ngược lại, Kinh Đô sẽ giúp Saigon Vewong phân phối các sản phẩm gia vị, bột nêm. Dự kiến Kinh Đô sẽ tung các sản phẩm mì ăn liền, cháo, phở ăn liền ra thị trường trong quí 3-2014. Với quy mô thị trường đạt hơn 22.340 tỉ đồng, dân số trẻ và đứng thứ tư thế giới về nhu cầu tiêu thụ sản phẩm mì ăn liền vào năm 2013, lãnh đạo Kinh Đô đánh giá mì ăn liền được xem là ngành hàng có tiềm năng và tốc độ phát triển tốt tại Việt Nam. Nhìn chung theo ông Việt, đối với 3 ngành hàng mới gồm mì gói, dầu ăn và cà phê, Kinh Đô hướng đến việc tích hợp thế mạnh của Kinh Đô và đối tác để tiếp tục phát triển công ty. Riêng bánh kẹo, Kinh Đô xác định vẫn là mảng kinh doanh chủ lực và đang tiếp tục mở rộng thị trường, trong đó đẩy mạnh thị trường xuất khẩu. Tại đại hội, các cổ đông Kinh Đô đã thông qua kế hoạch kinh doanh năm 2014: doanh thu 5.150 tỉ đồng và lợi nhuận trước thuế 660 tỉ đồng, công ty dự kiến chia cổ tức tiền mặt bằng 20% mệnh giá cổ phần. Năm 2013, Kinh Đô đã đạt doanh thu 4.561 tỉ đồng và lợi nhuận trước thuế 619 tỉ đồng. Tại đại hội, Ban lãnh đạo Kinh Đô cũng trình cổ đông định hướng chiến lược dài hạn, phương án tái cấu trúc mảng kinh doanh bánh kẹo và chiến lược đầu tư của Kinh Đô trong thời gian tới.
Người mua thị trấn Mỹ với chuyện PhinDeli và Kinh Đô PhinDeli hợp tác với Kinh Đô là bởi Kinh Đô làm bánh, PhinDeli làm cà phê, hai sản phẩm này có cùng kênh phân phối. Cách đây gần 2 năm (2012), doanh nhân Phạm Đình Nguyên nổi đình đám với chuyện mua lại Buford, một thị trấn ở Mỹ. Một năm sau khi mua, ông Nguyên đổi tên thị trấn thành PhinDeli, đồng thời ra mắt thương hiệu cà phê rang xay PhinDeli tung vào hai thị trường Việt Nam và Mỹ. Giữa tháng 6.2014, nghĩa là khoảng một năm sau ngày ra mắt PhinDeli, ông Nguyên đã công bố quyết định bán phần không nhỏ công ty cà phê này cho Tập đoàn Kinh Đô với tỷ lệ cao. Hàng loạt câu hỏi đặt ra là vì sao chỉ vừa một năm ra đời, PhinDeli lại “lọt” vào mắt xanh của ông lớn Kinh Đô với giá bán khả quan? Bán PhinDeli, ông Nguyên sẽ làm gì? Và liệu bán công ty cà phê có đồng nghĩa với việc bán luôn thị trấn? Tôi được biết ông từng bỏ ra 20 tỉ đồng để mua thị trấn Buford của Mỹ và cà phê PhinDeli của ông chỉ vừa mới một tuổi. Nhiều lời đồn đoán cho rằng, ông bán hết công ty PhinDeli cho Kinh Đô, rồi sẽ bán luôn thị trấn này? Tôi đâu có ý định bán thị trấn của mình. Còn việc Kinh Đô sở hữu PhinDeli thì là có, tỷ lệ sở hữu là hơn 50%. Tôi không thể công bố chính xác, nhưng chẳng có gì là chi phối cả. Chúng tôi có những hợp đồng ngay từ đầu về sự hợp tác của hai bên. Kinh Đô có kênh phân phối tốt, PhinDeli thì có sản phẩm tốt và tiềm năng. Vì PhinDeli còn quá mới, liệu khi bán cho Kinh Đô, có được cái giá 20 tỉ như số tiền mà ông đã mua thị trấn Buford? Sau này, nếu Kinh Đô trả một khoản tiền lớn để yêu cầu sở hữu toàn bộ PhinDeli thì ông tính sao? Sao chỉ có 20 tỉ đồng, hơn gấp nhiều lần chứ. Dĩ nhiên, tôi không được phép tiết lộ cụ thể. Và tôi sẽ không bán tất cả PhinDeli nếu được đề nghị. Nếu bán hết thì bây giờ tôi đã bán rồi. PhinDeli là tình yêu của tôi mà. Anh Trần Kim Thành, Trần Lệ Nguyên của Kinh Đô cũng hiểu điều đó. Chúng tôi đang là những đối tác trong hợp tác chiến lược. Vậy khi hợp tác, ông có nghĩ về những trường hợp không thành công của Kinh Đô trước đây với Tribeco và Nutifood không? Kinh Đô sẽ giúp PhinDeli làm những gì? Tôi không quan tâm đến những chuyện không phải là của mình. Nhưng như tôi cũng đã nói, chúng tôi đã ngồi lại với nhau để nói về chặng đường hợp tác một cách cụ thể, ngay cả với cách hành xử trong những việc có thể xảy đến, chứ không mơ hồ. Dĩ nhiên, sau này nếu có trục trặc nhỏ thì cũng là chuyện bình thường. Có nhiều doanh nhân thành lập công ty rồi bán kiếm tiền, còn tôi thành lập công ty để phát triển cùng với mình. Nhưng nếu tôi xây dựng kênh phân phối thì quả là rất lâu, trong khi Kinh Đô rất mạnh, có thể giúp chúng tôi tiếp tục phát triển nhanh chóng. Sau khi Kinh Đô hợp tác, PhinDeli sẽ lấn sang mảng cà phê hòa tan đang có thị trường lớn nhưng cạnh tranh cũng khá khốc liệt. Tôi được biết, ông có mối quan hệ thân hữu với ông Phan Quốc Công của ICP, và ngay cả với hai anh em Trần Kim Thành, Trần Lệ Nguyên của Kinh Đô. Nhiều lời đồn đoán cho rằng, cuộc chơi mua thị trấn Buford và bán PhinDeli cho Kinh Đô là có những mối dây liên kết? Nhân đây tôi muốn nói luôn là anh Công, anh Thành, anh Nguyên là những bậc đàn anh cho tôi nhiều lời khuyên, chứ chuyện mua thị trấn của chuyện của riêng tôi. Còn về việc vì sao PhinDeli hợp tác với Kinh Đô, tôi đã tìm kiếm rất nhiều nhà phân phối rồi, cả trong nước và quốc tế. Nhưng Kinh Đô là hợp nhất. Vì Kinh Đô làm bánh, PhinDeli làm cà phê. Hai sản phẩm này có cùng kênh phân phối. Thị trường cà phê hòa tan là một đại dương đỏ cạnh tranh thảm khốc. Ông nghĩ PhinDeli sẽ phát triển như thế nào dưới sự hậu thuẫn của Kinh Đô? Tôi được biết thị trường cà phê hòa tan Việt Nam vào khoảng 5.000 tỉ đồng, thị trường cà phê rang xay cao hơn một chút, với các ông lớn Vinacafe, Trung Nguyên và Nescafe chiếm giữ. Dĩ nhiên, cà phê rang xay mang lại mức sinh lời cao hơn. Nhưng chúng tôi vẫn mở rộng cà phê hòa tan, một sản phẩm rất ưa chuộng của thế giới. Mục tiêu là vừa chiếm lấy thị phần, vừa mở rộng sang những ngách thị trường khác, cũng như xuất khẩu. Kinh Đô khá mạnh khi xuất khẩu vào 5 thị trường Mỹ, Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc, còn PhinDeli thì đã bước đầu “cắm sào” trên đất Mỹ. Tôi tin vào những gì độc đáo của mình trong cuộc chinh phục này. Ông có nghĩ mình tự tin quá chăng khi trên thị trường, có nhiều nhà làm cà phê quốc gia rất lâu đời về uy tín và đã có những công thức sản phẩm đặc biệt để gìn giữ thị trường? Tôi biết rào cản thị trường này là cao. Nhưng tại Việt Nam, nếu sản phẩm tiêu dùng của bạn kém, bạn sẽ rất khó vào siêu thị. Tôi chỉ nói vậy để bạn vào các siêu thị ở Việt Nam và quan sát sự hiện diện của cà phê rang xay PhinDeli. Tôi có 2 đồng sự rất giỏi và có gu đặc biệt về cà phê, một trong số đó đã từng lên kế hoạch lớn cho việc thâm nhập của thương hiệu nổi tiếng Maxwell House vào châu Á. Còn cà phê hòa tan, chúng tôi chưa thể bật mí kế hoạch của mình. Tôi thấy các ông lớn như Trung Nguyên, Vinacafe đã làm khá tốt cà phê rang xay. Họ đã và đang lên dự án xây dựng hàng loạt chuỗi quán cà phê để bán cà phê rang xay, xem như là chiến lược chính. Ông có đi theo con đường của họ? Dĩ nhiên, chiến lược này hay mà! Chúng tôi đang lên ý tưởng cho chuỗi quán của mình tại Việt Nam và toàn cầu luôn. Nhưng tôi vẫn đang chọn lựa ý tưởng độc đáo nhất. Cái này thực sự rất khó, vì nếu giới thiệu ra thị trường mà không được đón nhận thì việc sửa lại sẽ phức tạp lắm. Nhưng theo ý kiến của tôi, kinh doanh quán là không lời. Phần lợi nhuận chủ yếu đến từ việc bán cà phê rang xay. Có nhiều thông tin chưa được kiểm chứng cho rằng, ông dùng thị trấn Buford như một địa điểm giao thương xuất hàng Việt vào thị trường Mỹ. Điều đó có đồng nghĩa với việc, ông sẽ kiêm thêm chuyện hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam xuất hàng vào Mỹ? Cái đó là chuyện nên làm nhưng phải lâu dài. Bây giờ tôi lo cho PhinDeli của mình trước đã. Bạn biết đó, hàng Việt qua Mỹ đâu dễ. Thương hiệu Kềm Nghĩa phải mất gần một thập kỷ mới tạo được chỗ đứng tại thị trường Mỹ. Hàng hóa Việt vào trong các siêu thị ở Mỹ thì càng khó hơn rất nhiều lần, vì hàng hóa nào trên thế giới mà chẳng muốn vào Mỹ. Tôi nghĩ mình mua cái thị trấn Buford đó cũng có cái lợi. Có lần, tôi gặp một doanh nhân Việt sở hữu chuỗi bán lẻ rất lớn tại Mỹ, ông ấy nói với tôi là nếu tôi không sở hữu thị trấn tại Mỹ thì ông ấy sẽ không tiếp tôi! Ông nghĩ cà phê PhinDeli sẽ bán tốt vào Mỹ? Tôi tin là thế. Tôi quan sát nhiều khách hàng Mỹ đi ngang qua thị trấn của tôi và ghé vào uống cà phê. 80% trong số họ thích vị đậm đà của cà phê Việt Nam, ngay cả với những vị khách đến từ Columbia, một quốc gia mạnh về cà phê. Tôi nghĩ Việt Nam thực sự mạnh về sản phẩm này, trong khi người Mỹ thì uống cà phê rất, rất nhiều. Cà phê ở Mỹ thì ít đậm đà hơn. Tuy nhiên, đến lúc này, việc xuất khẩu PhinDeli từ Việt Nam qua Mỹ cũng còn ít. Chúng tôi chỉ mới xuất 3 chuyến hàng, mỗi chuyến khoảng 1 tấn cà phê để thăm dò. Dĩ nhiên, trong tương lai thì là chuyện khác. Ông có ý định sẽ dưỡng già tại thị trấn này hoặc cùng gia đình sống tại đó? Chắc là không. Ở đây buồn lắm, người già và trẻ con thì nhiều. Tôi không thích sống. Mà gia đình tôi thì phải ở cùng tôi. Thị trấn này chỉ để kinh doanh. Hồi trước, sau khi mua lại thị trấn này, tôi có tìm người Việt quản lý hộ, nhưng không bền, vì mọi thứ thật sự khắc nghiệt. Cả thị trấn chỉ có cái nhà, cây xăng, tiệm bán lẻ tiện ích. Ở Mỹ, cứ khoảng 60-100 dặm là phải có cây xăng, còn nhà láng giềng gần nhất của chúng tôi cũng cách xa 15km, đêm đến thì gió lộng thổi, buồn lắm. Vì thế, tôi phải nhờ người chủ cũ ở lại phụ giúp tôi trông coi thị trấn và buôn bán. Chỉ có ông ấy mới hiểu và sống được tốt ở đây. Và điều làm tôi thích nhất là ông ấy tận tụy, chân thành, biết cách tạo nên những điều lợi ích nhất và khá tử tế. Nhưng nhìn chung, láng giềng xung quanh cũng đều như vậy cả. Xin cảm ơn ông
Vì sao Thị trưởng Phạm Đình Nguyên bán PhinDeli cho Kinh Đô? Ông Phạm Đình Nguyên, một doanh nhân Việt từng khiến người Mỹ và cả thế giới ngỡ ngàng khi mua lại thị trấn Buford ở Mỹ vào năm 2012 với cái giá 900.000 USD (khoảng 20 tỉ đồng), trở thành thị trưởng của thị trấn này. Sau đó ông còn xúc tiến thành lập Công ty cà phê PhinDeli, đồng thời đổi tên cả thị trấn thành PhinDeli với tham vọng quảng bá, kinh doanh loại cà phê pha phin đặc trưng của Việt Nam đến tận tay người tiêu dùng Mỹ. Tuy nhiên, tại đại hội cổ động vừa diễn ra của Công ty CP Kinh Đô (KDC), lãnh đạo công ty này thông báo việc mua cổ phần của Công ty CP PhinDeli khiến nhiều người phải ngỡ ngàng. Phóng viên Báo Người Lao Động đã có cuộc trao đổi với ông Phạm Đình Nguyên, Chủ tịch HĐQT Công ty CP PhinDeli về thương vụ này. Phóng viên: Vì sao ông quyết định bán cổ phần của PhinDeli, “đứa con” mà ông đã tạo dựng với nhiều tâm huyết? Ông Phạm Đình Nguyên: Nhiều người cũng đã hỏi tôi câu hỏi này. Tôi nghĩ ai làm kinh doanh cũng đều mang nặng đẻ đau “đứa con” của mình. Ai cũng muốn nó lên hình nên vóc. Thật ra, mình nuôi hay có thêm người nuôi nữa mà để cho con lớn nhanh hơn nữa, thì tại sao ta phải buồn?! Chỉ chưa đầy một năm mà chúng tôi đã tạo dựng thương hiệu PhinDeli được nhiều người biết đến, không phải chỉ ở Việt Nam mà còn ở Mỹ. Đây là điều mà không phải ai cũng có thể làm được. Hiện nay, PhinDeli chỉ có cà phê rang xay, vốn là sản phẩm quốc hồn quốc túy của Việt Nam. Tuy nhiên, cuộc sống công nghiệp không phải ai cũng có đủ thời gian để thưởng thức cà phê phin đúng nghĩa. Ly cà phê hòa tan là điều mà nhiều người mong muốn. Nếu chỉ bán cà phê rang xay thì chúng tôi chưa cần hệ thống rộng. Nhưng nếu phải tung cà phê hòa tan thì chúng tôi nhất thiết cần phải có. Nếu phải tự mình xây dựng một hệ thống phân phối chỉ đế bán PhinDeli thì sẽ rất mất nhiều thời gian, tiền bạc cũng như công sức. Trong cùng một lúc chúng tôi không thể vừa nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, vừa đưa ra những ý tưởng tiếp thị táo bạo và vừa phải lao tâm tổn trí cho việc phân phối sản phẩm. Vì thế, chúng tôi quyết định hợp tác với một công ty đã có sẵn hệ thống phân phối rộng khắp. Kinh Đô là đối tác mà chúng tôi lựa chọn để hợp tác với hy vọng cả hai cùng vươn ra biển lớn. Ông Phạm Đình Nguyên (trái) vẫn là thị trưởng của Thị trấn PhiDeli ở Mỹ sau khi bán cổ phần cho Công ty Kinh Đô. Ảnh: Nhân vật cung cấp- Như vậy cà phê PhinDeli sẽ có sản phẩm hòa tan? Tại sao phải là Kinh Đô mà không là công ty khác để ông bán cổ phần? - Đúng vậy! Cà phê hòa tan là ngành hàng chiến lược mà PhinDeli xác định sẽ tham gia. Dự kiến trong vòng một vài tháng tới, chúng tôi sẽ ra mắt nhóm sản phẩm này. Và như tôi đã nói, PhinDeli cần một công ty có một hệ thống phân phối rộng. Kinh Đô là chọn lựa đầu tiên vì Kinh Đô là tập đoàn số 1 tại Việt Nam về bánh kẹo và nằm trong 5 công ty có hệ thống phân phối rộng nhất nước. Bánh kẹo, cà phê là 2 mặt hàng luôn đi chung với nhau. Vì thế, nếu như một hệ thống mà phân phối 2 nhóm hàng này thì sẽ rất là hiệu quả. Hơn nữa, anh Trần Lệ Nguyên (Phó Chủ tịch HĐQT Kinh Đô) cũng như anh Trần Kim Thành (Chủ tịch HĐQT Kinh Đô) ngoài đời là những bậc đàn anh uy tín. Tôi thường tham khảo ý kiến họ trước khi ra quyết định lớn. Khi tôi định tham gia vào cuộc đấu giá mua thị trấn Buford của Mỹ, anh Trần Lệ Nguyên là một trong những người tôi đã tham vấn. Khi đó, anh Nguyên rất tán thành với kế hoạch của tôi. Vì thế tôi nghĩ những người chia sẻ với mình những chí hướng lớn sẽ là người cùng cùng đi xa để đến đích. - Theo ông, mục đích tham gia đầu tư vào PhinDeli của Kinh Đô là gì? - Anh Trần Lệ Nguyên có chia sẻ với tôi về 3 ngành hàng chiến lược mà Kinh Đô muốn tham gia. Đó là dầu ăn, mì gói và cà phê. Cả ba ngành này đều có một quy mô thị trường lớn. Hiện nay, hệ thống phân phối của Kinh Đô không chỉ phủ rộng trên vi toàn quốc mà còn được quản lý bằng hệ thống tiên tiến. Vì thế, thêm được thương hiệu sản phẩm vào trong hệ thống sẽ cắt giảm thêm chi phí phân phối cho từng ngành hàng. Khi tôi đề cập đến việc hợp tác, anh Nguyên đã gật đầu liền. Hơn ai hết anh ấy biết rõ ý định mua thị trấn của tôi và đánh giá cao cách xây dựng thương hiệu cũng như ý tưởng táo bạo của PhinDeli. Vì thế, chúng tôi tin mọi việc diễn ra rất suôn sẻ. - Ông cũng có một công ty riêng chuyên về phân phối là Công ty IDS, tại sao không để IDS lo về phân phối cho PhinDeli? - Đúng là Công ty IDS của tôi cũng là công ty chuyên về phân phối. Tuy nhiên, những mặt hàng mà IDS đang phân phối hiện nay không cùng trong nhóm cà phê, bánh kẹo. Do vậy, chi phí phân phối PhinDeli của IDS chắc chắn sẽ cao. Ngoài ra, một doanh nghiệp mới ra đời vài năm như IDS không thể so với một công ty thành công lâu đời như Kinh Đô. Đối với PhinDeli, chúng tôi cần một hệ thống phân phối hiệu quả ngay tức thời để bảo đảm cho thương hiệu thành công. Trong khi Kinh Đô lại có một quan hệ đối tác nhập khẩu, bán lẻ rất mạnh tại những thị trường mà PhinDeli đang nhắm tới như Mỹ, Nhật, Đài Loan…Vì vậy, hợp tác với Kinh Đô là “một mũi tên, trúng hai con chim” – cho cả thị trường nội địa và xuất khẩu. - Vai trò của ông sau khi có sự tham gia của Kinh Đô. Tỷ lệ tham gia, cũng như giá trị đầu tư của Kinh Đô vào PhinDeli như thế nào? - Sau khi Kinh Đô tham gia vào PhinDeli, tôi sẽ giữ chức vụ Tổng Giám đốc (CEO), còn đại diện Kinh Đô giữ vai trò chủ tịch hội đồng quản trị. Khác với những thương vụ đầu tư chi phối khác, phía Kinh Đô vẫn mong muốn chúng tôi tiếp tục phát huy tinh thần “không gì không thể” vốn đã làm nên một thành công bước đầu rất khích lệ của PhinDeli. Họ mong một cú tung hàng mới ngoạn mục như lúc chúng tôi đổi tên thị trấn Buford thành thị trấn PhinDeli. Còn về giá trị đầu tư cũng như tỉ lệ phần trăm tham gia của Kinh Đô tôi rất tiếc là không được tiết lộ vì đây là một phần của cam kết bảo mật của cả hai bên. - Có ý kiến cho rằng bán PhinDeli nghĩa là ông bán một phần thị trấn Buford ở Mỹ. Vậy thời gian tới sản phẩm của PhinDeli sẽ phát triển theo hướng nào? - Thực ra không phải như vậy. Thị trấn PhinDeli (Buford) vẫn thuộc tài sản cá nhân nên không nằm trong tài sản của Công ty CP PhinDeli và tôi vẫn tiếp tục là Thị trưởng PhinDeli, điều hành các hoạt động ở thị trấn này. Bên Kinh Đô nhận thấy rằng cách tốt nhất để PhinDeli nhanh chóng đi đến thành công là nó tiếp tục phát huy tinh thần “Không gì không thể”. Đó là tiếp tục đưa ra những ý tưởng táo bạo vốn chỉ có ở những người dám nghĩ dám làm. Do đó, trong thời gian sắp tới, nhóm chuyên trách tiếp thị của PhinDeli sẽ tiếp tục những kế hoạch phát triển sản phẩm mới, quảng cáo tiếp thị. Còn Kinh Đô sẽ tập trung vào những vấn đề quan trọng khác như phân phối, xây dựng hệ thống, quản lý chi phí…
Kỳ vọng vào “nhà phân phối” Kinh Đô, Phin Deli có chọn nhầm “chồng”? Cuộc “hôn phối” trước đó của Kinh Đô với Ezaki Glico cùng giấc mộng doanh số 1.000 tỷ đồng đang đi đến hồi kết với doanh số thực tế chỉ 40 – 50 tỷ đồng. Tại sao chúng tôi nhắc lại cuộc “hôn phối” này? Vì “tình mới” của Kinh Đô - Phin Deli – cũng đang trông đợi vào hệ thống phân phối rộng nhất nước của Kinh Đô – điều mà 2 năm về trước Ezaki cũng mong ngóng. Mới đây, thị trưởng Việt đầu tiên tại Mỹ - ông Phạm Đình Nguyên, cũng là Chủ tịch Hội đồng Quản trị (HĐQT) CTCP Phin Deli, đã trả lời báo giới về kế hoạch hợp tác với CTCP Kinh Đô (Mã: KDC). “Trong cùng một lúc chúng tôi không thể vừa nghiên cứu phát triển sản phẩm mới, vừa đưa ra những ý tưởng tiếp thị táo bạo và vừa phải lao tâm tổn trí cho việc phân phối sản phẩm. Vì thế, chúng tôi quyết định hợp tác với một công ty đã có sẵn hệ thống phân phối rộng khắp. Kinh Đô là đối tác mà chúng tôi lựa chọn để hợp tác với hy vọng cả hai cùng vươn ra biển lớn”, ông Nguyên cho biết. Cuộc hôn nhân rủi ro? Không thể phủ nhận Kinh Đô hiện dẫn đầu ngành sản xuất bánh kẹo trong nước (doanh thu nội địa khoảng 4.500 tỷ so với quy mô thị trường khoảng hơn 26.100 tỷ, theo BMI), cộng với lợi thế rất lớn ở mạng lưới phân phối rộng. Tuy nhiên, với các cuộc “hôn phối” của Kinh Đô, ông Phạm Lê Duy Nhân – Chuyên viên phân tích của CTCP Chứng khoán FPT (FPTS) đánh giá: “Chúng tôi nhận thấy, doanh nghiệp thực sự vẫn chưa bước vào một giai đoạn tăng trưởng ổn định, hoặc chưa đủ ổn định để tăng trưởng đều đặn trong dài hạn. Một sự hợp tác với đối tác chiến lược hoàn toàn mới vẫn còn nhiều rủi ro, khi trước đó KDC đã thất bại với Ezaki Glico”. Cuộc hôn nhân giữa Kinh Đô và Ezaki Glico là thương vụ cả 2 bên cùng ôm mộng lớn với doanh số 1.000 tỷ đồng tại thị trường Việt Nam sau 4 năm, dù trong thương vụ này, Kinh Đô mới chỉ phân phối sản phẩm Pocky của Ezaki Glico. Nhưng trong năm 2013, sản phẩm Pocky chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu doanh thu của Kinh Đô (40 - 50 tỷ đồng). Tuy được giới thiệu ra thị trường vào tháng 09/2012 nhưng đến tháng 02/2013, Pocky mới có quảng cáo đầu tiên và đến tháng 03/2013 mới được phân phối trên tất cả cửa hàng của Kinh Đô. “Chúng tôi cho rằng việc hợp tác chiến lược với Ezaki đã không đem lại hiệu quả kinh doanh như mong muốn cho cả 2 bên sau hơn 2 năm khi đối tác từ phía Nhật Bản này muốn tận dụng mạng lưới bán lẻ rộng lớn của KDC nhằm tiếp cận thị trường và bán sản phẩm của mình một cách nhanh nhất, nhưng những sản phẩm ngoại nhập cao cấp của Ezaki rất khó để gắn liền với Kinh Đô, vốn được biết đến như một thương hiệu bình dân”, FPTS đánh giá . Chia tay tình cũ, Kinh Đô mất gì? Với sản phẩm Pocky, Ezaki chịu hết các chi phí liên quan đến marketing, KDC chịu chi phí bán hàng và hưởng lợi nhuận gộp vào khoảng 25%. Với việc là một trong 5 công ty có hệ thống phân phối rộng nhất nước, cộng thêm việc quản lý bằng hệ thống tiên tiến, thêm được thương hiệu sản phẩm vào trong hệ thống sẽ cắt giảm thêm chi phí phân phối cho từng ngành hàng. Vậy nên, dù với tình cũ Ezaki hay các đối tác mới, về cơ bản, Kinh Đô không mất chi phí khi tận dụng được hệ thống phân phối sẵn có và phân bổ định mức các chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp về cho các công ty con. Với việc hợp tác với một đối tác khác, KDC đang kỳ vọng vào một sự khác biệt so với những gì mà Ezaki Glico đem lại. Các đối tác khác, theo công bố của Kinh Đô tại Đại hội cổ đông (ĐHCĐ) hồi cuối tháng trước gồm Công ty Dầu ăn Vocarimex (với sản phẩm dầu ăn), Công ty TNHH Sài Gòn Vewong (mỳ gói) và CTCP Phin Deli (café). FPTS nhận định: “Những sản phẩm do công ty sản xuất đa phần vẫn không phải là mặt hàng thiết yếu và có nhiều sản phẩm thay thế, nên khi sức mua suy giảm ngay lập tức bị ảnh hưởng và mức độ mạnh hơn so với những mặt hàng tiêu dùng hằng ngày”. “Sự chững lại của nền kinh tế đã khiến dư địa tăng trưởng không còn nhiều như trong quá trình 20 năm phát triển trước đây. KDC đã nhận ra vấn đề này và đã nhắm đến việc phát triển các sản phẩm thuộc ngành hàng tiêu dùng thiết yếu từ lâu, nhưng vẫn phải trì hoãn khi diễn biến thị trường không thuận lợi”. Về hoạt động M&A (Mua bán – sáp nhập) của công ty, chuyên viên Phạm Lê Duy Nhân của Chứng khoán FPT cũng nhìn nhận không lạc quan: Chiến lược M&A để tăng trưởng của doanh nghiệp vẫn chưa cho thấy sự đột phá ngoài những thương vụ mang tính chất tái cơ cấu và những thất bại với Nutifood và TRI.
Ðề: Kinh Đô và Dao Heuang có “chen” vào nổi thị trường cà phê hòa tan Việt Nam? Thị trường ngành cafe nứơc mình thấy cũng bình bình mà nhiều doanh nghiệp cũng tranh nhau làm, chả biết có thúc đẩy kt đi lên ko nưa...