Việc chữa răng cho trẻ phải do nha sĩ nhi khoa thực hiện. Răng sữa có ít mô cứng, men và mô hơn so với răng vĩnh viễn. Vì vậy, nha sĩ không khoan các vết sâu mà bôi dung dịch nitrat bạc nếu nó chỉ ở trong phạm vi men răng. Các vật liệu đông cứng hiện đại cũng không được dùng cho răng sữa còn sống (dây thần kinh trong đó chưa chết). Ngoài việc không điều trị răng sữa, các bậc phụ huynh còn hay có những quan niệm sai lầm sau: 1. Trẻ em không cần đánh răng vì răng của chúng thưa, không bị giắt thức ăn Răng trẻ chỉ thưa khi số lượng còn ít. Đến 2 tuổi rưỡi, trẻ đã có đủ 20 chiếc, răng đã khít vào nhau. Răng càng khít, nguy cơ sâu càng cao, nước bọt (chứa chất vô hiệu hóa vi khuẩn) sẽ không rửa hết các mặt răng. Vì vậy, cần dùng bàn chải để làm sạch các chất bám. Hãy mua cho trẻ 2 bàn chải có màu khác nhau (một cho buổi sáng, một cho buổi tối) và để trẻ tự đánh theo cha mẹ. Bàn chải của trẻ phải có phần đầu không lớn và lông mềm. Để lông mềm hơn, có thể luộc qua bàn chải. 2. Thuốc đánh răng có thể gây hại cho trẻ vì chúng chỉ nuốt chứ không nhổ Bạn không cần lo ngại như vậy nếu khi trẻ bắt đầu tập đánh răng, bạn cho dùng loại kem dành cho trẻ em. Loại này có vị ngọt, mùi dễ chịu và nếu trẻ nuốt một chút cũng không sao. Khi trẻ đã quen với việc đánh răng, cần chuyển từ loại kem vệ sinh kể trên sang kem phòng chữa bệnh (chứa canxi, fluor, phốt pho). Trước đó, cần tìm hiểu xem nước vùng bạn ở có nhiều fluor hay không. Nếu nước có nhiều fluor thì không dùng kem đánh răng chứa chất này nữa vì việc thừa fluor sẽ gây hại cho răng. 3. Răng sữa không đau khi bị sâu vì không có dây thần kinh Trong răng sữa cũng có dây thần kinh, vì vậy trẻ cũng sẽ đau khi răng bị bệnh. Ở một số trẻ, răng sữa hỏng rất nhanh nên cảm giác đau không kịp xuất hiện. Việc cảm thấy đau là một điều tốt vì nó là tín hiệu nhắc đến bác sĩ. 4. Chỉ khi răng vĩnh viễn mọc lộn xộn thì mới cần chỉnh hình, còn răng sữa thì không sao Hiện có đến 60% trẻ cần được chỉnh hình răng ở các mức độ khác nhau. Đa số trẻ nhỏ có hàm hẹp. Do số răng vĩnh viễn nhiều gấp rưỡi số răng sữa nên hàm sẽ phải phát triển thêm cả chiều dài lẫn chiều cao. Trẻ 4 tuổi đã phải có khoảng trống giữa các răng sữa. Tuy nhiên, nhiều trẻ không đạt yêu cầu này do không được luyện hàm (ăn thực phẩm quá mềm, nhuyễn). Trẻ cần được bác sĩ chỉnh hình cần xem xét hàm xem răng có mọc sít quá không. Nếu có, chúng phải được chỉnh răng bằng các miếng chất dẻo, chi phí thấp. Nếu để đến khi lớn hơn mới chỉnh răng, bác sĩ phải dùng hệ thống nẹp, rất đắt tiền. Những trường hợp răng thưa quá cũng phải chỉnh. Và dù răng con bạn không có vấn đề gì, bạn vẫn cần cho trẻ đến khám ở bác sĩ nha khoa mỗi năm 2 lần.
Thực ra khi phụ nữ cằn nhằn cũng chỉ muốn mọi việc trở nên tốt đẹp và để người bạn đời của mình hiểu rõ vấn đề, nhận ra những tác hại của việc làm và có hành động tốt hơn.
Em thì không thích cằn nhằn nói nhiều, nhưng đảm bảo em rất yêu ck :3 khi có chx gì bực thì em chỉ có im lặng không nói gì :3
chồng e hay bảo "vợ cái gì cũng nói được", e bảo em mà ko nói thì ai nói chuyện với anh khi về nhà,hihi
nhà e con cũng hay ăn no như vậy có đc ko nhỉ, vì con ăn ít lại ko chịu đc nên mình vẫn hay cho con ăn theo chế đô hàng ngày
-Đã có những trường hợp trẻ sơ sinh bị chết đuối trong bồn tắm vì thế chúng ta cần giữ trẻ trong tầm với và luôn quan sát trẻ. -Không bao giờ đặt bồn tắm dành cho trẻ sơ sinh vào trong nước trong bồn tắm dành cho người lớn hoặc bồn rửa. -Luôn để chỗ thoát nước mở trong bồn tắm người hoặc bồn rửa. -Trẻ sơ sinh có thể chết đuối ngay cả khi mực nước hơn một phân. Luôn tắm cho trẻ sơ sinh ở mức nước càng ít càng tốt. -Không bao giờ để cho những đứa trẻ lớn hơn thay thế chúng ta quan sát trẻ sơ sinh. -Luôn kiểm tra nhiệt độ nước trước khi đặt trẻ vào bồn tắm. Nước tắm từ 32.2 độ C cho tới 37.8 độ C). -Bồn tắm có thể rất trơn khi bị ướt nên đề phòng những chấn thương nghiêm trọng do bị ngã. -Không bao giờ nâng bồn tắm lên khi có trẻ ngồi bên trong. -Ngừng sử dụng khi bồn tắm có bất cứ hỏng hóc, vỡ, hoặc tháo dời. -Không để chậu tắm trên các bề mặt không cân bằng hoặc cao.
Việc lấy máu gót chân của bé trong khoảng 38-48 tiếng sau sinh sẽ giúp xét nghiệm sàng lọc 3 bệnh lý có tỷ lệ cao. Đó là bệnh thiếu men G6PD; suy giáp bẩm sinh; tăng tuyến thượng thận bẩm sinh. Đây là những bệnh lý không nhận thấy khám bằng mắt thường mà phải thử máu. Lấy máu gót chân của bé sơ sinh nhằm xét nghiệm phát hiện bệnh điều trị sớm đã làm giảm thiểu những em bé bị chậm phát triển về thể lực, trí tuệ và nhiều bệnh lý khác. 1. Bệnh thiếu men G6PD Thiếu men G6PD là bệnh di truyền, do nhiễm sắc thể (NST) X bị dị dạng, không còn khả năng tổng hợp được men G6PD. Biểu hiện: - Bé thiếu men G6PD có thể bị vàng da từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 8 sau sinh. Trường hợp nặng là vàng da kéo dài và gây biến chứng vàng da, dẫn tới bệnh lý về não, có thể gây tử vong hay biến chứng về thần kinh, chậm phát triển tâm thần, vận động… - Nếu bé không bị biến chứng vàng da nặng thì qua giai đoạn sơ sinh, bé không có biểu hiện gì bên ngoài mà vẫn phát triển bình thường như những bé khác. Tuy nhiên, khi gặp cơ địa hoặc môi trường thuận lợi; chẳng hạn, khi bé uống một số thuốc có tính oxy hóa như Aspirin, Bactrim, Vitamin K tổng hợp; thuốc giảm đau, thuốc kháng viêm… Hoặc bé ăn một số thực phẩm thuộc họ đậu, bé bị nhiễm trùng như viêm gan, viêm phổi… thì bệnh sẽ bùng phát, vì các gốc tự do trong tế bào hồng cầu tăng lên. Trong khi đó, do thiếu men G6PD nên khả năng đào thải, chuyển hóa các gốc tự do này ở bé kém. Từ đó làm cho hồng cầu bị vỡ, dẫn tới tình trạng tán huyết gây thiếu máu. Điều trị: Việc xét nghiệm sau sinh cho bé là rất cần thiết. Những bé bị bệnh sẽ được điều trị để phòng biến chứng vàng da nặng, dẫn tới tử vong bằng cách chiếu đèn cho bé, hoặc điều trị bằng thuốc hay phải thay máu. Bác sĩ cũng sẽ cung cấp thông tin về bệnh của bé cho cha mẹ để phụ huynh biết cách ngăn ngừa không cho bệnh bùng phát. 2. Suy giáp bẩm sinh Suy giáp bẩm sinh là tình trạng tuyến giáp không sản xuất đủ hormone ở giai đoạn sơ sinh. Nguyên nhân: - Do dị tật bẩm sinh không có hoặc có nhưng tuyến giáp lạc chỗ. - Do dị tật trong quá trình trao đổi chất tuyến giáp hoặc thiếu iốt. Các dấu hiệu lâm sàng: - Chậm phát triển tinh thần vận động. - Bộ mặt đặc biệt (má phị, mắt to, mũi tẹt, lưỡi dày). - Chậm tăng cân. - Lùn không cân đối. - Vàng da kéo dài. - Táo bón kéo dài. - Thoát vị rốn. - Khóc ít và tiếng khóc nhỏ. - Da khô, tóc khô và gãy. Thông thường, bé bị bệnh được mô tả là “bé sơ sinh ngoan” vì bé ít khóc và ngủ hầu hết thời gian. Bệnh phổ biến hơn ở những bé có cân nặng sơ sinh dưới 2kg hoặc trên 4,5kg. Điều trị: - Thay thế lượng hormone thiếu hụt trong máu liên tục và suốt đời. Lượng hormone thiếu hụt tùy vào cân nặng, giới tính và từng bệnh nhi. - Thuốc levothyroxine: Liều dùng tùy bệnh nhi và cần được giám sát chặt chẽ. - Liều tiêm IV / IM: 50-70% của liều uống. Phòng bệnh: - Chế độ ăn bổ sung iốt cho mẹ trong giai đoạn mang thai hạn chế bé sơ sinh mắc bệnh suy giáp. - Các bé bị suy giáp bẩm sinh đều cần được xét nghiệm định kỳ. Trong đó xét nghiệm toàn bộ hormone tuyến giáp hoặc chỉ riêng hormone T4 hoặc TSH mỗi 4-6 tuần sau khi bắt đầu điều trị; sau đó là mỗi 1-3 tháng trong năm đầu tiên; mỗi 2-4 tháng năm thứ hai và thứ ba. Với bé trên 3 tuổi, xét nghiệm có thể tiến hành mỗi 6-12 tháng một lần. 3. Tăng tuyến thượng thận bẩm sinh Tăng tuyến thượng thận bẩm sinh là một chứng rối loạn mang tính di truyền ở tuyến thượng thận. Bệnh này không phổ biến, với tần suất mắc bệnh là 1/12.000-15.000 bé sơ sinh. Khi cơ thể mắc bệnh này, tuyến thượng thận không thể sản xuất hai hormone cortisol và aldosterone theo đúng nhu cầu bình thường của cơ thể. Nguyên nhân dẫn đến tăng tuyến thượng thận bẩm sinh có thể dẫn tới ba tình trạng rối loạn sau: Thiếu cortisol, thiếu hormone giữ muối, thừa androgen. Biểu hiện lâm sàng: Đối với bé gái còn nhỏ tuổi mắc bệnh tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh âm vật phình to ra có thể trông giống dương vật cỡ nhỏ. Ngoài ra, khe hở giữa các môi âm vật có thể hơi đóng lại, che khuất đường vào âm đạo. Thường thì người ta có thể nhìn thấy một lỗ hở. Cả đường tiểu lẫn đường âm đạo đều chung nhau một lỗ này. Tuy nhiên, các cơ quan bên trong lại khá bình thường. Âm đạo, tử cung và buồng trứng đều hoạt động tốt, và bé gái bị bệnh tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh thường vẫn có khả năng sinh con. Khó phát hiện bệnh khi còn là thai nhi: Khi bé bắt đầu hình thành bên trong tử cung người mẹ, người ta không thể phân biệt được giữa bộ phận sinh dục nam với bộ phận sinh dục nữ nên phát hiện bệnh này từ trong bào thai là rất khó. Ở bệnh tăng tuyến thượng thận bẩm sinh, tuyến thượng thận sản xuất androgen, khiến cho bộ phận sinh dục của bé gái bắt đầu phát triển theo hướng nam tính. Chẩn đoán: Ở nhiều nước, người ta áp dụng xét nghiệm mẫu máu lấy ở gót chân bé sơ sinh trong vòng 24-72 tiếng sau sinh để xác định xem bé có mắc bệnh tăng tuyến thượng thận bẩm sinh không trước khi đứa bé có những biểu hiện và triệu chứng của bệnh. Việc chẩn đoán này chỉ là kiểm tra nồng độ của các hormone được sản xuất ở tuyến thượng thận. Người ta có thể chẩn đoán và điều trị sớm những trường hợp bé bị mắc bệnh tăng tuyến thượng thận bẩm sinh để tránh những biến chứng nguy hiểm sau này. Đôi khi ở bé mắc bệnh tăng sản tuyến thượng thận bẩm sinh mới sinh, người ta khó có thể chắc chắn được về giới tính của bé. Có thể cần đến xét nghiệm để xác định các cơ quan nội tạng của bé, cũng như cần các xét nghiệm hormone liên quan đến tuyến thượng thận. Điều trị: Điều trị bệnh tăng tuyến thượng thận bẩm sinh là bệnh kéo dài suốt cuộc đời, không có cách nào chữa dứt điểm được. Không thể thay thế enzyme, phẫu thuật não hoặc phẫu thuật tuyến thượng thận cũng không giúp được gì. Tuy nhiên, có thể điều chỉnh các hormone bị thiếu - cortisol và hormone giữ muối - bằng cách bổ sung chúng dưới các loại thuốc. Những dạng thuốc này cần được uống hằng ngày, suốt đời, kể cả khi bé hoàn toàn khỏe mạnh. Khi bé bị bệnh tăng tuyến thượng thận bẩm sinh không cần phải ăn kiêng. Bé gái bị bệnh thường cần phẫu thuật ở âm đạo khi còn nhỏ, khi lớn sẽ còn lại sẹo mổ. Âm đạo có thể không đủ giãn rộng khi phụ nữ sinh con; do đó, thường cần thủ thuật mổ đẻ.
Các mẹ ơi hãy nhớ đừng cho bé “xơi” những món này trước giờ đi ngủ nếu không muốn bé trằn trọc cả đêm đấy! Nếu thấy bé yêu “vật vã” mỗi lần lên giường đi ngủ, cha mẹ cần xem lại chế độ ăn uống của con vì rất có thể, những đồ ăn sau đây là “thủ phạm” khiến bé mãi không ngủ được: 1. Thực phẩm chứa caffein Cà phê không phải là thứ duy nhất chứa caffein. Chất caffein khiến bé trằn trọc, thao thức còn xuất hiện trong trà, nước cola và sô cô la. Đó là lí do vì sao không nên để bé ăn một lượng lớn kem vị sô cô la hay ăn sô cô la nguyên chất trước giờ đi ngủ. Chất caffein còn có tác dụng lợi tiểu, kích thích cơ thể sản xuất nước tiểu. Vì thế, bé đang thời kì được bố mẹ huấn luyện để tự đi vệ sinh hay tập bỏ thói quen tè dầm càng không nên ăn nhiều đồ có caffeine. Các chuyên gia khuyên rằng trẻ nên tránh xa mọi đồ ăn thức uống chứa caffein trong khoảng 4-6 tiếng đồng hồ trước khi lên giường. 2. Đồ ngọt Kem, kẹo, bánh ngọt,... và tất cả các loại quà vặt có vị ngọt đều chứa nhiều đường, nhiều năng lượng khiến bé “tỉnh như sáo” và thích hoạt động. Đây là những đồ ăn cần tránh trước khi cho bé đi ngủ khoảng vài tiếng đồng hồ. 3. Đồ ăn nhiều mỡ, nhiều muối Một bữa ăn “nặng nề” như vậy sẽ làm dạ dày bé khó tiêu hóa nổi tất cả thức ăn trước khi ngủ và sẽ phải tiếp tục hoạt động trong lúc bé ngủ. 4. Thực phẩm lên men Sữa chua, phô mai, tương, dưa chua,... là những đồ ăn rất quen thuộc hàng ngày nhưng chúng có chứa acid amin tyramine có tác dụng kích thích não bộ, gây hưng phấn và làm bé thức giấc vào ban đêm khiến giấc ngủ chập chờn, không ổn định. Do đó, trước khi đi ngủ nên cho bé tránh xa những thực phẩm này vì chúng sẽ làm bé trằn trọc suốt đêm. 5. Nước lọc Nước lọc rất tốt cho cơ thể và uống đủ nước, nhiều nước mỗi ngày là việc làm cần thiết giúp bảo vệ sức khỏe và làm đẹp hiệu quả. Tuy nhiên, cho bé uống nước trước khi đi ngủ lại là một sai lầm vì nước đi vào cơ thể và được thải ra trong một khoảng thời gian ngắn. Nếu bé uống nhiều nước trước khi đi ngủ thì giấc ngủ ngon yên ổn đúng nghĩa của bé sẽ không được bảo đảm bởi bé sẽ phải thức giấc và đi vào nhà vệ sinh vào lúc nửa đêm. Do đó tốt nhất mẹ không nên để bé uống nước trước khi đi ngủ 90 phút.