(Loi phat day) Hôn nhân là đại sự cả đời, hôn nhân của đời này là được định sẵn bởi nhân duyên của đời trước, hôn nhân là sự giao ước lập ra trước mặt Thần linh và trời đất, là điều không thể muốn bỏ là bỏ, muốn không trung thì không trung được. Cổ nhân xem hôn nhân là điều căn bản nhất của đạo lí làm người trong Đạo của trời đất. Vậy nên kết hôn cần phải bái thiên địa, bái phụ mẫu, phu thê đối bái. Mục đích của bái thiên địa chính là coi trời đất là người chứng hôn của mình, phát thệ gánh vác trách nhiệm cả đời với đối phương, để cho trời đất thần linh cùng làm chứng, giám sát hành vi của chính mình, nếu như làm trái, sẽ nhận lấy sự trừng phạt từ chư Thần. “Hậu Hán Thư – Tào Thúc Thê truyện” có ghi chép: “Đạo vợ chồng, giống như phối hợp âm dương, hiểu rõ ý thần linh, tin vào sự rộng lớn của trời đất, cũng như sự to lớn của đạo lý làm người”. Tống Tôn Giác trong “Xuân Thu giải kinh” viết rằng: “Chỉ có dương thì không sinh sôi được, chỉ có âm thì không hình thành được. Vì thế có Thiên ắt có Địa, có nhật ắt có nguyệt, phép tắc giữa nam nữ, chuẩn tắc của hôn nhân, là đạo của trời đất, cũng là điều căn bản của đạo lý làm người”. Nho gia nhìn nhận rằng, có thiên địa âm dương, thì mới có hôn nhân nam nữ; có hôn nhân nam nữ thì mới có phụ tử, mới có quân thần, tức là luân thường lễ nghĩa và sự hình thành xã hội đều dựa vào hôn nhân. Hôn nhân là điều cần thiết để duy trì xã hội nhân loại, cũng là lời hứa đối với thần linh, trời đất, cha mẹ, vợ hoặc chồng của mình. Tập tục và lễ nghi trong hôn lễ phương đông và phương tây đều là thể hiện ý nghĩa thần thánh này. Trong quá trình hôn nhân, đòi hỏi nam nữ phải chung thủy, bất kể là bần cùng, ốm đau, bệnh tật, hoạn nạn, sống chết cũng không được ruồng bỏ hay phản bội, đều phải hết lòng tuân thủ thệ ước với Thần, tương kính lẫn nhau, thương yêu lẫn nhau, gắn bó trọn đời, thực hiện lời thệ ước của chính mình. Vào thời cổ đại, theo loi phat day hôn nhân là chuyện cả đời, bởi vì con người tin tưởng rằng ruồng bỏ và phản bội lời thề chính là sẽ gặp phải báo ứng. câu chuyện thứ nhất: Người vợ tào khang không thể bỏ Đại văn hào Tô Đông Pha thời Tống từng nói rằng “Cư phú quý giả bất dịch tào khang”, nghĩa là dù cho phú quý cũng không được ruồng bỏ tào khang. tào khang trong câu nói này, chính là chỉ người vợ. “Người vợ tào khang” sỡ dĩ được dùng làm cách xưng hô khác của người vợ, là bắt nguồn từ “Hậu Hán thư”: “Thần nghe nói, người bạn thuở hàn vi không nên quên, người vợ tào khang không thể bỏ”. Đây chính là câu nói trích dẫn trong câu chuyện Quang Vũ đế thời Đông hán và đại thần của ông Tống Hoằng. Tống Hoằng, tự Trọng Tử, vị quan nổi tiếng vào những năm đầu của triều đại Đông Hán, ông không chỉ được người đời ca tụng là bậc thanh liêm, đức độ, mà những việc ông làm trong việc xử lý mối quan hệ vợ chồng, cũng được người đời sau ca tụng. Sau khi Quang Vũ Đế lên ngôi, Tống Hoằng được bái làm Thái Trung Đại phu, về sau lại làm đến chức Tư Mã. Ông là vị quan thanh liêm, dám đưa ra những lời khuyên thẳng thắn, rất được Quang Vũ Đế trọng dụng, sau được phong là Tuyên Bình hầu. Một năm nọ, chồng của công chúa Hồ Dương, chị của Quang Vũ Đế mất. Quang Vũ Đế muốn thăm dò ý kiến của chị gái mình, thế là liền đem quần thần trong triều ra bàn luận. Công chúa nói: “Tống Hoằng tướng mạo trang nghiêm, phẩm đức và tài trí đều xuất chúng, đại thần trong triều quả thật không ai sánh bằng”. Điều này thật là đúng với tâm ý của Quang Vũ Đế. Sau đó, Quang Vũ Đế liền triệu kiến Tống Hoằng, rồi bảo công chúa Hồ Dương ngồi phía sau tấm bình phong. Quang Vũ đế nói với Tống Hoằng: “Tục ngữ có nói, con người ta khi đã tôn quý liền đổi bạn bè, giàu có rồi thì sẽ đổi vợ, đây là chuyện thường tình của nhân gian, phải vậy không?”. Tống Hoằng nói: “Thần cũng có nghe nói rằng, bạn thuở hàn vi không nên quên, vợ tào khang không thể bỏ”. Lời của Tống Hoằng hàm ý rằng những người bạn mà ta đã kết giao lúc còn hoạn nạn khó khăn không thể quên, người vợ kết tóc xe tơ lúc bần hàn khốn cùng với mình thì không thể ruồng bỏ. Thế là, Quang Vũ Đế đành phải thôi.