Đôi khi những điều mà bạn tưởng là tốt cho con lại đang giết chết sự tự tin của con. Hãy cùng tham khảo những việc cần tránh dưới đây để không vô tình làm tổn thương đến chìa khóa thành công của trẻ. 1. Nói rằng ước mơ của con là viển vông Con gái bạn có thể luôn tin rằng cô bé sẽ trở thành một cầu thủ bóng rổ chuyên nghiệp, còn con trai bạn lại tin rằng thằng bé có thể giành giải Oscar. Đôi khi việc bạn bảo vệ chúng lại chỉ khiến chúng nghĩ rằng: “Mình không thể làm được việc này”. Nếu bạn lo lắng con trai mình có những kỳ vọng không thực tế, bạn có thể giải thích cho thằng bé các bước để nhận được giải Oscar, để cu cậu tự nhận ra những gì cần phải làm để đạt được điều đó. Nhưng hãy nhớ khẳng định rằng nếu con thực sự nỗ lực thì con có thể thực hiện được ước mơ. Bởi vì, dù tin hay không thì chắc chắn cũng sẽ có một ai đó ở một nơi nào đó làm được điều này, vậy tại sao lại không phải là thằng bé chứ? 2. Nói với con rằng việc đó dễ lắm Khi con trai bạn đang chật vật để ghi nhớ bảng cửu chương thì bạn có thể nói “nó không khó đâu, con có thể làm được” để khuyến khích con. Còn nếu bạn nói rằng nó dễ lắm thì thằng bé có thể cảm thấy bản thân mình có vấn đề gì đó khi mà một việc “dễ dàng” lại trở nên khó khăn với mình. Thay vào đó, hãy nói rằng “Phép nhân có thể khó đấy, nhưng mẹ biết con có thể làm được mà”. Nếu nói như vậy, khi cu cậu hoàn thành xong, thằng bé sẽ thấy mình là người có thể làm được những việc khó khăn. 3. Chú ý chi tiết đến ngoại hình của mình Hầu hết các bậc cha mẹ đều biết rằng khi bạn nói trẻ nên giảm cân nghĩa là bạn đang làm giảm sự tự tin của con, nhưng có một điều mà nhiều cha mẹ không nhận ra là nếu bạn nói như thế với chính mình, thì điều đó cũng ảnh hưởng tới sự tự tin của đứa trẻ. Khi bạn nhìn vào gương, quắc mắt lên chê cặp đùi của mình thật khủng khiếp, nghĩa là bạn đang gửi đi thông điệp: ngoại hình là quan trọng. Và ngay từ khi còn rất nhỏ, trẻ đã ngấm dần điều này và bắt đầu xác định sự tự tin của mình qua ngoại hình. Hãy làm những gì bạn có thể để đứa trẻ của bạn thấy sự tự tin không phụ thuộc vào ngoại hình. Hãy cho trẻ thấy ngoại hình không phải là thứ quan trọng nhất. 4. Khen trẻ “làm tốt đấy” Khen ngợi là một cách để củng cố sự tự tin của trẻ, nhưng khi nó trở thành thói quen thì tác dụng hoàn toàn ngược lại. Vì thế, khi trẻ chỉ làm được một việc nhỏ mà bạn vẫn khen ngợi thì nó không thực sự hữu ích. Hãy dùng những từ cụ thể hơn để khen ngợi và chỉ khen khi hành vi đó là nỗ lực thực sự của trẻ. 5. So sánh Đừng nghĩ rằng khi bạn khen đứa trẻ khác là bạn đang lấy một tấm gương tốt ra cho đứa trẻ của mình soi vào. So sánh chỉ làm cho con bạn cảm thấy mình không đáp ứng được mong mỏi của bố mẹ và những đứa trẻ khác làm tốt hơn chúng rất nhiều. Hơn hết, khi chúng ta so sánh, nghĩa là chúng ta đang có xu hướng lấy điểm yếu của một người so sánh với điểm mạnh của người khác. Thay vào đó, hãy nhận ra rằng mỗi đứa trẻ là một cá nhân có khả năng riêng và thế mạnh riêng. Hãy chỉ so sánh con bạn với chính bản thân nó và tập trung vào những điểu tích cực. 6. Khen ngợi những đặc điểm bẩm sinh Những đứa trẻ được cho là thông minh thường làm bài thi tệ hơn những đứa trẻ được cho là có sự nỗ lực. Khi chúng ta chuyển sự tập trung từ những thứ mà trẻ có thể kiểm soát – như sự chăm chỉ - sang những thứ mà trẻ không thể kiểm soát – như sự thông minh, thì sự tự tin của trẻ sẽ giảm xuống. Bởi vì trẻ sẽ thấy thất vọng và khó chịu khi chúng không thể kiểm soát được bản thân mình. Thay vì nói với trẻ rằng con là một nghệ sĩ thiên bẩm, thì hãy nói rằng bạn đánh giá cao việc trẻ đầu tư thời gian vào việc nào đó. Bằng cách khen ngợi những thứ mà trẻ có thể kiểm soát, trẻ sẽ tự tin khi biết rằng mình có thể làm được những việc này. Nguyễn Thảo (Theo Family Share)
Mình thấy lỗi phổ biến của bố mẹ là so sánh, nhưng nhìu khi so sánh để con cố gắng hơn cho bằng bạn thôi mà
Kim Trang, một cô bé tham dự hướng đạo sinh muốn thực hiện một cuộc phỏng vấn với một bác sĩ thú y: “Mẹ ơi, mẹ mời bác sĩ cho con.” “Con ơi, sao lại là mẹ phải mời?” “Con không biết nói gì?” “Con muốn gì từ bác sĩ?” “Con muốn nói với bác sĩ về sức khỏe của con ngựa cho đề tài của con.” “Tốt, con hãy nói như thế.” “Nhưng con không biết phải làm cách nào?” Cô bé khóc trong sự chán nản. “Mẹ nghĩ con có thể nghĩ ra cho chính con.” “Mẹ ơi, mẹ mời bác sĩ cho con đi!” Cô bé nài nĩ. “Nhưng mẹ không muốn biết về sức khỏe của con ngựa. Đó không phải là công tác của mẹ. Con có thể làm điều đó. Hãy thử đi.” Cô bé quay đi trong sự chán nản và từ chối gọi điện thoại. Bà mẹ cũng chẳng làm gì cả. Vào buổi họp mặt hướng đạo kế tiếp, trưởng ấu hỏi cô bé kết quả của cuộc phỏng vấn đó thế nào. Cô bé xấu hổ nhận rằng cô đã không gọi điện thoại. “Tại sao bé không làm vào tuần tới bé ơi? Đó là điều mà bé phải làm để hoàn thành công tác của bé!” Chiều hôm đó, cô bé lại xin mẹ gọi điện thoại cho cô bé, và bà mẹ lại từ chối. “Nhưng con không biết số điện thoại.” Bà mẹ đưa cho cô bé cuốn cẩm nang điện thoại với cái cười yêu thương. “Cưng ơi, con có thể tìm được.” Cô bé mất thời gian lâu mới tìm được số, đoạn đứng một hồi lâu nhìn số điện thoại. Trong khi nó lấy can đảm và bắt đầu gọi, bà mẹ rời khỏi phòng. Một lúc sau, cô bé chạy đến với nét mặt phấn khởi: “Mẹ ơi, bác sĩ rất là tử tế. Bác sĩ nói cho con nhiều lắm. Và bây giờ con có thể làm xong công tác của con.” Cái cười của bà mẹ diễn tả niềm thỏa mãn của bà: “Mẹ rất vui thấy con tự làm điều đó cho chính con.” Và bà mẹ đã ôm lấy cô bé. Bà mẹ nhận thức được cảm giác sợ hãi của cô bé khi đối diện với một người không quen biết, làm một yêu sách với một người lạ, và đối phó với một tình trạng hoàn toàn mới mẻ. Động lực đầu tiên của bà mẹ là muốn làm giúp cho cô bé, nhưng cách nhanh chóng bà nhận thức được nhu cầu cần lớn lên của đứa con bà và lợi dụng cơ hội nầy để làm cho cô bé biết giải quyết vấn đề riêng của nó. Bà biết rằng động lực muốn làm xong công việc và muốn được phần thưởng của Hội Hướng Đạo sẽ giúp cô bé hoàn thành. Bà cũng tin tưởng vào khả năng của cô bé và bà muốn tránh ép buộc cô bé hành động. Bà lùi bước để nhường chỗ cho cô bé phát triển. Bà từ chối làm thay cho đứa trẻ điều mà nó có thể làm cho nó. Điều cô bé đạt được là sự tự lập đang triển nở của cô bé, và điều mà bà mẹ được chính là sự thỏa mãn với sự khích động hiệu quả của bà. Đây là tình trạng tế nhị cần đến sự nhạy cảm của một bà mẹ. Chúng ta phải để ý không nên hỏi quá nhiều, nhưng trái lại chúng ta phải có khả năng nhận ra được khả năng của đứa trẻ. Bà mẹ cung cấp cho cô bé thêm sự can đảm bằng cách vững tin rằng cô bé có thể làm được. Khi cô bé bắt đầu gọi điện thoại, bà mẹ bỏ đi ra để cô bé không phải sợ về sự phán xét của bà cũng như cách thức mà nó xếp đặt, và để nó hoàn toàn tự do hướng dẫn cuộc đối thoại theo cách riêng nó. Không có cha mẹ nào muốn làm cho con mình thiếu tự tin. Vì thế, chúng ta phải ý thức về những nguy hiểm của việc bảo vệ quá đáng và cũng phải để ý đến những cơ hội để khuyến khích sự tự lập. Mọi bà mẹ đều ghi nhớ sự hồi hộp đi kèm với những bước chập chững đầu tiên của đứa con mình. Nhiều đoạn phim hoặc nhiều bức hình gia đình đã ghi lại những biến cố hồi hộp ấy. Những cơ hội mang lại cảm giác tự hào hồi hộp đó có thể nói là quá nhiều trong suốt thời gian tuổi thơ nếu cha mẹ để ý đến những giai đoạn khác nhau của sự phát triển. Tiến trình dẫn đến những bước chập chững đầu tiên của đứa trẻ cần được lập đi lập lại trong tất cả những bộ mặt khác của sự lớn lên của đứa trẻ. Bà mẹ lùi bước, cách xa đứa trẻ, và đưa tay ra – ngoài tầm tay của đứa trẻ. Bà chỉ khuyến khích nó. Bà nên cho nó khoảng trống để cử động và một sự độc lập, không lệ thuộc vào sự giúp đỡ của bà. Nó cố gắng thử. Khi nó thành công trong việc vói tới bà mẹ, nó được tán thưởng như một chiến thắng và bà mẹ sung sướng cách hồi hộp với sự hoàn thành của nó. Vì thế, trong mọi lãnh vực chúng ta phải lùi bước để đứa trẻ có khoảng trống để tiến tới và chúng ta hãy cho nó một sự khích lệ. Ts Lê văn Quảng