Hậu quả của thoái hóa khớp là gây đau, hạn chế hoặc mất chức năng khớp. Nguyên nhân dẫn đến thoái hóa khớp cho đến nay vẫn chưa rõ ràng, tuy nhiên người ta thấy có nhiều yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến tình trạng này Bệnh thoái hóa khớp (Degenerative Joint Disease), hay còn được gọi là viêm xương khớp (Osteoarthritis-OA) bản chất là do mòn sụn khớp do rối loạn giữa hai quá trình sinh tổng hợp và hủy hoại sụn. Bệnh thường xuất hiện ở các khớp chịu tải bởi trọng lượng cơ thể như khớp háng, gối, cột sống…Hậu quả của thoái hóa khớp là gây đau, hạn chế hoặc mất chức năng khớp. Nguyên nhân dẫn đến thoái hóa khớp cho đến nay vẫn chưa rõ ràng, tuy nhiên người ta thấy có nhiều yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến tình trạng này.Hãy cùng OSSC - Đại diện các bệnh viện Singapore - Chuyên khoa chấn thương chỉnh hình tìm hiểu 1 số bệnh lý và nguyên nhân dẫn tới triệu chứng này ! Trước đây mọi người vẫn cho rằng thoái hóa khớp chỉ do tuổi cao, sụn khớp bị lão hóa. Tuy nhiên cho đến nay thì tuổi tác cũng chỉ là một trong số các yếu tố làm xuất hiện bệnh. Béo phì, chấn thương khớp, hoạt động khớp thường xuyên…cũng là những yếu tố gây nên bệnh thoái hóa khớp. Thoái hóa khớp gặp ở nữ nhiều hơn nam, gặp nhiều hơn ở những người trong gia đình có người bị thoái hóa khớp. Thoái hóa khớp Tất cả các khớp đều có thể bị thoái hóa Thoái hóa khớp không phải là bệnh lý nhiễm khuẩn (nhiễm trùng) nên không có tính lây lan. Bác sỹ có thể chẩn đoán bệnh bằng khai thác tiền sử, thăm khám vùng khớp, chỉ định chụp Xquang thông thường. Biểu hiện của thoái hóa khớp trên phim Xquang thông thường là hẹp khe khớp, xuất hiện các gai xương rìa khớp (gai mâm chầy, gai cột sống…), đặc xương dưới sụn. Trong thoái hóa khớp, xét nghiệm máu cho kết quả bình thường. Các biểu hiện lâm sàng: Triệu chứng đầu tiên của hầu hết người bị thoái hóa khớp là đau và cứng (khó vận động) khớp, hay gặp nhất là khớp vùng cổ bàn tay, gối, háng và cột sống. Đau khớp thường tăng lên khi vận động và ở thời điểm cuối ngày. Cứng khớp thường xuất hiện vào buổi sáng, sau ngủ dậy. Thoái hóa khớp có thể ảnh hưởng đến vận động cổ gáy, bàn chân. Tình trạng đau và cứng khớp làm cho bệnh nhân bị hạn chế một số động tác như xoay cổ, đứng lên ngồi xuống, lên xuống cầu thang, gấp cổ tay hoặc đưa với tay sang bên đối diện…Tình trạng mới đầu không nghiêm trọng, thường chỉ cần uống vài liều thuốc giảm đau chống viêm, tập luyện nhẹ các triệu chứng sẽ giảm dần. Vấn đề điều trị: Điều trị thoái hóa khớp gồm nhiều biện pháp bao gồm giảm cân, vật lý trị liệu, thuốc và phẫu thuật. Các loại thuốc giảm đau thông thường dòng NSAIDs có thể giảm triệu chứng đau và cứng khớp nhanh nhưng cần lưu ý đến tác dụng phụ của thuốc nếu dùng kéo dài như viêm, chảy máu dạ dày, táo bón hoặc ỉa chảy…Các tác dụng phụ khác hiếm gặp hơn như đau đầu, hoa mắt chóng mặt, nghe khó, nổi mẫn đỏ trên da. Các thuốc dòng NSAIDs nên uống trong bữa ăn. Corticoid là thuốc chống viêm mạnh, nên giúp người bệnh giảm triệu chứng nhanh, nhưng tác dụng phụ nhiều hơn nếu lạm dụng và sử dụng không đúng cách. Corticoid có thể sử dụng bằng đường uống hoặc tiêm trực tiếp vào khớp. Bơi lội là bài tập tốt nhất cho thoái hóa khớp vì khi bơi lội dưới nước, áp lực lên khớp sẽ giảm, trong khi đó hệ thống cơ, đặc biệt cơ quanh khớp hoạt tích cực làm tăng sức khỏe cho cơ. Phẫu thuật thay khớp được chỉ định (đối với thoái hóa khớp háng, khớp gối) khi tình trạng đau không còn được cải thiện mặc dù đã được điều trị bằng thuốc và tập luyện đúng phác đồ, trên phim chụp Xquang không còn nhìn thấy khe khớp giữa hai đầu xương. Những việc nên làm đối với người bị thoái hóa khớp: Uống thuốc đều đặn theo đơn bác sĩ Hỏi kỹ bác sĩ các loại thuốc mà bạn được kê đơn (liều lượng, cách dùng, chống chỉ định) Thực hiện chế độ ăn và tập luyện hợp lý để giảm cân nếu bạn thừa cân Tập đều đặn các bài tập do bác sĩ phục hồi chức năng hướng dẫn Những việc không nên làm: Chờ tác dụng phụ của thuốc tự mất Ăn quá nhiều trong khi lười luyện tập Tiếp tục thực hiện các động tác tập luyện gây đau tăng lên cho khớp Đến khám bác sĩ ngay khi: Gặp tác dụng phụ của thuốc Tình trạng đau không giảm mặc dù đã được điều trị bằng thuốc và tập luyện đúng mức Cần tìm một bác sỹ vật lý trị liệu
Một trong các bệnh liên quan tới chấn thương chỉnh hình thường thấy trong thực tiễn lâm sàng thì các vấn đề về cơ xương là một vấn đề rất nghiêm trọng. Rất nhiều bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi các bệnh về cơ xương vẫn đang trong độ tuổi lao động và sự vắng mặt của họ tại nơi làm việc gây ra một tổn thất không nhỏ. Theo như ghi nhận thì tại Mỹ, có 2% lực lượng lao động bị các bệnh liên quan tới các tổn thương ở lưng và gây thiệt hại về kinh tế lên tới 25 triệu USD mỗi năm. Phòng bệnh hơn chữa bệnh và đặt giảm bớt tỉ lệ đau lưng dưới tại nơi làm việc, việc giáo dục và hướng dẫn nhân viên có tư thế ngồi làm việc đúng là rất quan trọng. Hiện nay các bác sĩ chuyên về chấn thương chỉnh hình đang đảm bảo bằng an lao động tại nơi làm việc được tập huấn y khoa về vệ sinh lao động tại Singapore, họ đang đóng một vai trò cực kì quan yếu trong chỉ dẫn và giáo dục công nhân của họ về điều này. Ngay từ trước kia đã có quan niệm làm cho nhân viên thích nghi với môi trường làm việc. Họ có những tính toán, đo đạc đánh giá trước khi làm việc, và thường đánh giá và áp dụng các chương trình tập thể dục. Cách tiếp cận này đang cố gắng đặt mang lại cho công chúng thích nghi phù hợp trước khi khởi đầu công việc. Hiện nay, khái niệm về công năng thái học đang được đưa vào môi trường làm việc để phù hợp với mỗi công nhân đang giúp họ làm việc bình yên hơn và hơn nhờ đó giảm tai nạn lao động và qua đó làm tăng năng suất lao động. Các yếu tố nguy cơ gây nguy hiểm cho lưng dưới bao gồm tuổi tác (30-40 tuổi), giới tính: nam (dựa trên sự liên quan với số ngày nghỉ làm), sự ăn nhập thể chất và các vấn đề tâm lý. Một số kiểu công việc có nguy cơ mất an ninh lao động cao hơn bao gồm các công việc đòi hỏi thể chất quá cao, di chuyển nhiều Các yếu tố ảnh hưởng trong khi nâng vật bao gồm phương thức nâng vật, vị trí nằm ngang của tải trọng, chiều cao và kích thước của vật nâng, đặc tính của vật và mức độ thường xuyên nâng vật. Nâng trên vai đòi hỏi nhiều về thể chất và được thân thể thích nghi ít nhất. Nâng hiệu quả nhất chính là nâng cách sàn 1 – 1,5m. Các yếu tố nguy cơ trong nâng vật bao gồm thời kì nâng quá dài và hoặc lực khi mang kéo, đẩy, nâng máy móc thô sơ, tư thế lưng dưới khó thay đổi, trọng lượng vật nâng không phù hợp, mặt bằng làm việc không bằng an, không gian làm việc hạn chế và các công cụ làm việc lỗi xây dừng không phù hợp với công tác. Theo như Viện quốc gia về sức khỏe và bình yên lao động tại Mỹ chỉ dẫn cách nâng vật thì 23kg là giới hạn bình yên cho 75% thanh nữ, 90% nam giới. Công nhân nên được chỉ dẫn để tránh kéo bất cứ khi nào có thể và nên sử dụng cách đẩy để thay thế, và đây chính là cách tiếp cận thân thiện của công năng thái học. lần, có độ rung và các tư thế khác thường. Trong số các công việc liên quan đến chứng rối loạn lưng dưới, 50% do nâng vật nặng, 9% liên quan tới kéo và đẩy vật, 6% liên quan tới cầm nắm và ném vật. Để hiểu được các vấn đề trên và thực hiện tốt hơn, chúng ta cần biết những điều chủ công sau đây: khi áp lực nén lên đĩa đệm cột sống không đồng đều có thể gây ra hiện tượng nén trọng lực không đều và tải xoắn trên đĩa đệm, ngược lại việc duy trì áp lực trên đĩa đảm bảo cách thức sinh học trong hoạt động của đĩa và đảm bảo tính toàn vẹn hình học của đĩa đệm. Với ghế ngồi – một ghế ngồi được thiết kế lý nghĩ đó là có kích thước ăn nhập, đệm ngồi cũng như xoay các tư thế thoải mái (xoay ngược lại hay nghiêng người), chỗ tựa lưng, và tư thế ngồi . Các yếu tố tiềm ẩn đối với ghế ngồi tại nơi làm việc như là tư thế lưng gian nan, gian truân trong điều chỉnh tư thế cũng như chức năng, chiều cao ghế ngồi làm việc không phù hợp, không gian làm việc chật hẹp, vị trí tư thế và đòi hỏi công việc không ăn nhập. Đứng nhiều tại nơi làm việc được khuyến cáo khi thường xuyên cầm nắm các vật nặng hay bị di chuyển tay hoặc di chuyển cả cơ thể, với tay cầm nắm vật hoặc công việc đòi hỏi di chuyển nhiều và đòi hỏi phải dùng lực xuống. Một câu hỏi thường trực chính là vấn đề phân biệt nghề nghiệp với các bệnh không liên quan tới lưng dưới. Hướng dẫn phát hiện sự liên quan giữa các rối loạn cột sống với công tác: triệu chứng phát triển sau khi làm cùng một công việc trong cùng một thời gian dài, các triệu chứng biến mất sau khi thôi làm công tác đó Nhìn chung, chúng ta cần phải đánh giá sự liên quan giữa công việc với các chấn thương chỉnh hình dưới một cách nghiêm túc, và quan trọng phải hướng dẫn người lao động một cách nghiêm ngặt. Một khi các chấn thương xảy ra, mục đích của quá trình điều trị là phục hồi sức khỏe đặt họ có thể quay về làm việc càng sớm càng tốt và theo như nghiên cứu đã được chỉ ra rằng sự vắng mặt trong công tác của họ kéo dài quá sáu tháng thì khả năng quay trở lại với công tác là rất thấp.