Trước Ngày Em Đến - Me Before You

Thảo luận trong 'Thư giãn, giải trí' bởi doctruyen, 8/6/2016.

  1. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 15

    "Này, tình hình là sao đây Clark? Cô lên kế hoạch làm trò thú vị gì cho tối nay rồi?"

    Chúng tôi đang ở trong vườn. Nathan đang trị liệu cho Will, nhẹ nhàng kéo đầu gối của anh lên xuống ngực, trong khi Will nằm trên một tấm chăn, mặt anh hướng lên trời, hai tay dang ra như đang tắm nắng. Tôi ngồi trên bãi cỏ bên cạnh họ, ăn sandwich. Giờ đây buổi trưa tôi chẳng đi đâu nữa.

    "Có chuyện gì à?"

    "Tò mò thôi. Tôi hứng thú muốn biết khi không ở đây thì cô tiêu thời gian thế nào."

    "À tối nay sẽ ghé xem biểu diễn kungfu một lát, rồi trực thăng sẽ lái tôi tới Monte Carlo để ăn tối. Sau đó trên đường về nhà tôi sẽ ghé qua Cannes làm một ly cocktail. Nếu chừng... ừm... hai giờ sáng, anh nhìn lên trời, tôi sẽ vẫy tay chào khi bay qua," tôi nói. Tôi tách hai miếng vỏ bánh ra để kiểm tra nhân. "Có lẽ tôi sẽ đọc cho xong cuốn sách."

    Will liếc lên nhìn Nathan. "Mười bảng," anh nói, cười tươi rói. Nathan thò tay vào túi. "Lần nào cũng thế," ông nói.

    Tôi nhìn họ chăm chăm. "Lần nào cũng thế cái gì?" tôi nói khi Nathan dúi tờ tiền vào tay Will.

    "Cậu ấy nói cô sẽ đọc sách. Tôi thì bảo cô sẽ xem tivi. Cậu ấy luôn thắng."

    Chiếc sandwich cứng đờ trên môi tôi. "Luôn? Hai người đánh cược xem cuộc sống của tôi tẻ nhạt tới mức nào đấy hả?"

    "Chúng tôi sẽ không dùng từ đó đâu," Will nói. Thoáng có lỗi trong mắt anh nói với tôi điều ngược lại.

    Tôi ngồi thẳng dậy. "Để tôi nói rõ ra nhé. Hai người đánh cược bằng tiền tươi xem vào tối thứ Sáu tôi sẽ ở nhà đọc sách hay xem ti-vi hả?"

    "Không," Will nói. "Chúng tôi còn đoán xem cô có đứng nhìn Ông Chạy tập luyện dưới đường không."

    Nathan thả chân Will ra. Ông kéo tay Will thẳng lên rồi bắt đầu massage từ cổ tay trở lên.

    "Nếu tôi nói tôi sẽ làm một việc hoàn toàn khác thì sao?" "Có bao giờ như thế đâu," Nathan nói.

    "Thật ra tiền này phải là của tôi." Tôi rút tờ tiền ra khỏi tay Will. "Vì tối nay anh sai rồi."

    "Cô đã bảo cô sẽ đọc sách mà!" anh phản đối.

    "Tối nay tôi sẽ đi xem tranh. Thế nhé. Luật hậu quả ngoài ý muốn đấy, hoặc hai người thích gọi sao cũng được."

    Tôi đứng dậy, đút tờ tiền vào túi, nhét phần còn lại của bữa trưa vào cái túi giấy màu nâu của nó. Tôi mỉm cười khi đi khỏi chỗ họ, nhưng thật kỳ lạ, vì một lý do nào đó tôi chưa thể hiểu ra ngay, mắt tôi chợt đẫm nước.

    Sáng đó tôi đã dành một tiếng mần mò bên tờ lịch. Có những ngày tôi cứ ngồi trên giường nhìn nó chăm chăm, chiếc bút lông trên tay, cố nghĩ xem mình có thể đưa Will tới đâu. Tôi chưa dám tin tôi có thể đưa Will đi đâu đó xa xa, và dù có Nathan giúp đỡ đi nữa thì ý nghĩ đi chơi qua đêm cũng khiến tôi thấy nản lòng.

    Tôi xem báo địa phương, liếc nhìn những trận bóng đá và hội chợ trong làng, nhưng sau thất bại hôm đi xem đua ngựa, giờ tôi cứ sợ xe của Will lại bị mắc kẹt trong cỏ. Tôi lo chốn đông người sẽ khiến anh có cảm giác bị phơi bày. Tôi phải bỏ qua mọi trò liên quan tới ngựa, với một vùng như quê chúng tôi thì điều đó đồng nghĩa với việc loại bỏ một lượng lớn bất ngờ những hoạt động ngoài trời. Tôi biết anh sẽ không muốn xem Patrick chạy, còn xem cricket hoặc bóng bầu dục thì anh sẽ bị lạnh. Có những ngày tôi cảm thấy suy sụp vì chẳng nghĩ được ý tưởng gì mới.

    Có lẽ Will và Nathan đúng. Có lẽ tôi thật tẻ nhạt. Có lẽ tôi là người kém khả năng nhất thế giới trong nỗ lực nghĩ ra những thứ có thể thắp lại tình yêu cuộc sống trong Will.

    Sách, hoặc ti-vi...

    Đặt như thế, thật khó tin chúng có gì khác nhau.

    Khi Nathan đi rồi, Will tìm tôi trong bếp. Tôi đang ngồi bên chiếc bàn nhỏ, gọt khoai tây để chuẩn bị bữa tối cho anh, tôi không ngước lên khi anh dừng xe lăn bên khung cửa. Anh nhìn tôi lâu tới nỗi hai tai tôi đỏ ửng lên vì bị quan sát.

    "Anh biết không," cuối cùng tôi lên tiếng, "tôi cũng có thể tàn nhẫn lại với anh đấy. Tôi có thể chỉ ra rằng anh cũng chẳng làm gì cả."

    "Biết đâu Nathan sẽ đánh cược thật cao xem tôi có đi nhảy không thì sao," Will nói.

    "Tôi biết đó chỉ là trò đùa," tôi tiếp tục, bỏ một đoạn vỏ khoai tây dài ngoằng xuống. "Nhưng anh khiến tôi cảm thấy mình thật tầm thường. Nếu anh định đánh cược về cuộc sống buồn tẻ của tôi, sao anh phải cho tôi biết chứ? Anh và Nathan không thể xem nó là một trò đùa riêng tư thôi sao?"

    Anh im lặng một lát. Khi cuối cùng tôi cũng nhìn lên, anh nhìn kỹ gương mặt tôi. "Xin lỗi," anh nói.

    "Trông anh chẳng có vẻ có lỗi gì cả."

    "À... ừ... có lẽ tôi đã muốn cô nghe thấy chuyện đó. Tôi muốn cô nghĩ tới những việc cô sẽ làm."

    "Sao cơ, tôi đang để đời mình trôi đi...?" "Phải, chính thế."

    "Chúa ơi, Will. Tôi mong anh đừng bao giờ nói tôi phải làm gì nữa. Tôi thích xem ti-vi thì sao nào? Tôi không thích làm gì hơn ngoài đọc sách thì sao?" Giọng tôi vút lên. "Tôi thấy mệt mỏi khi về tới nhà thì sao? Tôi không muốn lấp đầy ngày tháng bằng những hoạt động điên rồ thì sao?"

    "Nhưng biết đâu một ngày nào đó cô sẽ ước mình đã sống như thế," anh nói lặng lẽ. "Cô có biết nếu là cô tôi sẽ làm gì không?"

    Tôi đặt dao gọt xuống. "Tôi cho là anh sắp nói với tôi."

    "Phải. Và tôi hoàn toàn không ngượng khi nói ra đâu. Tôi sẽ đi học bổ túc ban đêm. Tôi sẽ học để trở thành thợ may hoặc người thiết kế thời trang hoặc bất cứ việc gì liên quan tới thứ mà cô thực sự yêu thích." Anh ra dấu về phía chiếc váy ngắn của tôi, chiếc váy kiểu Pucci mang phong cách thời trang thập niên sáu mươi, được may từ tấm vải một thời là đôi rèm cửa của ông ngoại tôi.

    Lần đầu tiên nhìn thấy nó, bố tôi đã chỉ vào tôi và la lên, "Này, Lou, tỉnh lại đi nhé!" Mất năm phút bố mới thôi cười được.

    "Tôi sẽ tìm xem tôi có thể làm thứ gì đó không quá đắt đỏ - tham gia lớp thể dục thẩm mỹ, bơi lội, đi tình nguyện, đại loại thế. Tôi sẽ tự dạy mình nghe nhạc, dắt chó nhà người khác đi dạo, hoặc..."

    "Được rồi, được rồi, tôi hiểu ý anh rồi," tôi bực dọc đáp. "Nhưng tôi không phải là anh, Will."

    "May cho cô."

    Chúng tôi ngồi im lặng một lúc. Will đưa xe vào, nâng xe lên để chúng tôi đối diện nhau qua bàn.

    "Được rồi," tôi nói. "Thế trước đây xong việc thì anh làm gì? Chắc việc đó giá trị lắm nhỉ?"

    "Thật ra xong việc thì cũng chẳng còn mấy thời gian, nhưng ngày nào tôi cũng cố làm một việc gì đó. Tôi trèo núi ở một trung tâm trong nhà, chơi bóng quần, đi nghe nhạc, thử thưởng thức nhà hàng mới..."

    "Có tiền thì làm những việc ấy khó gì," tôi phản đối.

    "Tôi cũng chạy nữa. Phải, thật đấy," anh nói, khi tôi nhướng mày.

    "Tôi cố học ngôn ngữ mới của những nơi tôi nghĩ một ngày kia mình sẽ tới. Tôi gặp gỡ bạn bè - hay đúng hơn là những người tôi đã nghĩ là bạn bè tôi..." Anh chùng lại một lát. "Tôi lên kế hoạch cho những chuyến đi. Tôi tìm kiếm những nơi tôi chưa từng tới, những thứ khiến tôi e sợ hoặc đẩy tôi tới giới hạn của mình. Có lần tôi đã bơi ở eo biển Manche. Tôi đi nhảy dù. Tôi đi bộ lên núi rồi lại trượt tuyết xuống. Phải..." anh nói, khi tôi định ngắt lời, "... tôi biết nhiều hoạt động trong số này cần tiền, nhưng cũng nhiều hoạt động đâu cần tiền. Vả lại, cô nghĩ tôi kiếm tiền bằng cách nào?"

    "Lừa tiền người thủ đô à?"

    "Tôi nghĩ xem điều gì khiến mình hạnh phúc, tôi nghĩ xem tôi muốn làm gì, tôi tự học tập để làm một công việc có thể đưa lại hai điều đó."

    "Anh nói nghe dễ quá."

    "Dễ thật mà," anh nói. "Vấn đề là mình cũng phải làm cực kỳ vất vả. Mà con người thường chẳng thích phải làm việc cực nhọc."

    Tôi đã gọt xong khoai tây. Tôi bỏ vỏ vào thùng rác, đặt chảo lên lò sẵn sàng để lát nữa nấu. Tôi quay lại, chống tay đẩy người ngồi lên bàn đối diện anh, hai chân đung đưa.

    "Anh đã có một cuộc sống rất hoành tráng phải không?"

    "Phải, đúng thế." Anh xích lại gần hơn một chút, nâng xe lên để chúng tôi mắt đối mắt. "Đó là lý do vì sao cô bực mình với tôi, Clark. Bởi vì tôi nhìn thấy tất cả tài năng này, tất cả..." Anh nhún vai. "Năng lượng, sự tươi sáng, và..."

    "Đừng nói tiềm năng."

    "... tiềm năng. Đúng thế. Tiềm năng. Thế nên trong chừng mực cuộc đời mình, tôi không thể tưởng tượng làm sao cô có thể hài lòng với cuộc sống chật hẹp này. Cuộc sống này chỉ xoay quanh bán kính năm dặm, ở đó chẳng có ai có thể khiến cô ngạc nhiên, thúc đẩy cô, cho cô thấy những thứ để đến đêm đầu cô quay mòng mòng không sao ngủ được."

    "Anh đang tìm cách nói tôi nên làm một việc gì có ý nghĩa hơn nhiều so với ngồi gọt khoai tây cho anh."

    "Tôi đang nói với cô là cả thế giới còn ở ngoài kia. Nhưng tôi rất biết ơn nếu cô vẫn gọt khoai tây cho tôi trước." Anh mỉm cười với tôi, và tôi không thể không mỉm cười lại.

    "Anh có nghĩ..." tôi cất tiếng, rồi bỏ dở chừng. "Nói đi."

    "Anh không nghĩ anh thực sự phải vất vả hơn rất nhiều để... hòa hợp sao? Vì anh đã làm mọi việc đó?"

    "Cô đang hỏi tôi rằng tôi có ước mình chưa từng làm những việc ấy?"

    "Tôi chỉ tự hỏi nếu thế thì mọi chuyện có dễ dàng hơn với anh không. Nếu anh đã sống một cuộc đời nhỏ hẹp hơn. Sống như cuộc sống ở đây, ý tôi là thế."

    "Tôi sẽ không bao giờ, không bao giờ hối tiếc về những gì tôi đã làm. Vì nếu ta mắc kẹt trong một thứ như thế này, thì hầu hết mọi ngày, tất cả những gì ta có là những miền đất trong ký ức mà ta có thể đi tới." Anh mỉm cười. "Thế nên nếu cô hỏi tôi rằng tôi có muốn nhớ về cảnh tòa lâu đài nhìn từ cửa hàng tạp hóa kia không, hay về dãy cửa hàng xinh xắn dưới con đường quanh co, thì xin thưa là không. Cuộc đời của tôi rất ổn, cảm ơn."

    Tôi trượt xuống khỏi bàn. Tôi không chắc vì sao, nhưng một lần nữa tôi lại cảm thấy mình bị dồn vào chân tường. Tôi với cái thớt trong rổ.

    "Lou à, tôi xin lỗi. Chuyện đánh cược bằng tiền."

    "Ừ." Tôi quay đi, bắt đầu rửa cái thớt dưới bồn. "Đừng nghĩ nói thế thì anh sẽ lấy lại được mười bảng."

    Hai ngày sau Will vào bệnh viện để điều trị nhiễm trùng. Phương pháp phòng ngừa, người ta nói vậy, dù ai cũng thấy rõ là anh đang rất đau. Một số người liệt tứ chi không có cảm giác gì, nhưng với Will thì dù không cảm nhận được nhiệt độ, phía dưới ngực anh vẫn biết đau và biết xúc động. Tôi vào thăm anh hai lần, mở nhạc và đưa món ngon cho anh ăn, đề nghị được ngồi lại bên anh, nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng Will thực sự không muốn có thêm sự quan tâm ở đó nữa. Anh bảo tôi về nhà nghỉ ngơi mấy ngày.

    Nếu là một năm về trước, tôi hẳn sẽ lãng phí những ngày nghỉ ấy, tôi sẽ lê la qua mấy cửa hàng, có thể chạy qua ăn trưa với Patrick. Có lẽ tôi sẽ xem chương trình tivi ban ngày, và dành chút nỗ lực xếp lại quần áo. Chắc tôi sẽ ngủ nướng nữa.

    Nhưng lúc này, tôi cảm thấy bất an và mất phương hướng một cách kỳ lạ. Tôi nhớ cảm giác có một lý do để dậy sớm, một mục đích trong ngày. Mất nửa buổi sáng tôi mới nghĩ ra rằng phải sử dụng thời gian này một cách có ích. Tôi đi tới thư viện và bắt đầu nghiên cứu. Tôi đọc mọi website về người bị liệt tứ chi mà tôi có thể tìm kiếm, cố nghĩ ra những việc chúng tôi có thể làm khi Will khá hơn. Tôi viết ra các danh sách, viết thêm vào từng mục những đồ đạc thiết bị có thể cần xem xét cho mỗi sự việc.

    Tôi phát hiện ra các chat room của người bị tổn thương tủy sống, và nhận ra có hàng ngàn người, cả đàn ông lẫn đàn bà, bị giống như Will - sống ẩn dật ở London, Sydney, Vancouver, hoặc ngay dưới phố này - có người được bạn bè, gia đình giúp đỡ, có người cô đơn đến đau lòng.

    Tôi là người chăm sóc duy nhất tham gia vào những website này. Có những người bạn gái hỏi xem họ phải làm sao để giúp người yêu có lại sự tự tin để đi ra ngoài, có những người chồng tìm tư vấn về dụng cụ y tế mới nhất. Có những mục quảng cáo về xe lăn có thể đi trên cát hoặc đường gồ ghề, về cần cẩu thông minh hoặc nệm tắm có thể bơm phồng.

    Các cuộc thảo luận cung cấp nhiều mật mã. Tôi hiểu ra rằng SCI là chấn thương cột sống, AB là người khỏe mạnh, UTI là bị nhiễm trùng. Tôi nhận biết chấn thương tủy sống mức C4/5 nghiêm trọng hơn nhiều so với mức C11/12, ở mức C11/12 thì hầu hết bệnh nhân vẫn sử dụng được hai tay hoặc bán thân. Có những câu chuyện về tình yêu và mất mát, vợ chồng con cái phải nỗ lực hòa hợp với cuộc sống của người tàn phế. Có những người vợ cảm thấy có lỗi khi trước đây họ cứ cầu trời cho chồng không đánh được họ nữa - để rồi nhận ra giờ đây người chồng ấy sẽ chẳng bao giờ còn làm được thế. Có những người chồng muốn rời bỏ người vợ tàn tật nhưng lại sợ phản ứng của gia đình bè bạn. Có nỗi mệt mỏi rã rời và sự tuyệt vọng, có vô số lời bỡn cợt chua chát - những câu đùa về chuyện vỡ túi đựng nước tiểu, sự nhiệt tình ngu dốt của người khác, hoặc tai nạn bất ngờ do say rượu. Rơi khỏi xe lăn là chuyện xảy ra như cơm bữa. Có nhiều lời dọa tự vẫn - có người muốn làm ngay, có người khích lệ mình cho bản thân thêm một chút thời gian để học cách nhìn cuộc đời mình theo một cách khác. Tôi đọc từng lời đe dọa đó, cảm thấy như thể mình đang âm thầm thấu hiểu cách não bộ của Will vận hành.

    Tới giờ ăn trưa, tôi rời khỏi thư viện và đi bộ một đoạn quanh thị trấn cho thảnh thơi đầu óc. Tôi đãi mình sandwich tôm, rồi ngồi lên bức tường quan sát thiên nga bơi lội trong hồ nước dưới lâu đài. Trời ấm nên tôi bỏ áo khoác, nghênh mặt về phía mặt trời. Cảm giác thật thanh thản lạ thường khi quan sát phần còn lại của thế giới vẫn mải mê bận rộn với việc riêng. Sau khi dành cả buổi sáng ngồi trong một thế giới đóng khung, được đi ra ngoài ăn trưa mới tự do làm sao.

    Khi ăn xong, tôi trở lại thư viện, khởi động lại máy tính. Tôi hít một hơi thật sâu rồi gõ một tin nhắn.

    Chào - Tôi là bạn/người chăm sóc của một anh chàng 35 tuổi liệt tứ chi mức C5/6. Anh ấy rất thành công và năng động trong cuộc sống trước đây nên rất khó thích ứng với cuộc sống mới này. Thật ra, tôi biết anh ấy không muốn sống, và tôi đang nghĩ mọi cách để làm anh ấy thay đổi ý định. Xin mọi người làm ơn chỉ cho tôi cách làm việc này. Có ý kiến gì về những thứ biết đâu anh ấy sẽ thích, hoặc những cách giúp tôi làm anh ấy nghĩ khác đi không ạ? Vô cùng biết ơn trước mọi lời khuyên nhận được.

    Tôi gọi mình là Ong Chăm Chỉ. Rồi tôi dựa lưng ra ghế, nhai móng tay cái một chút, cuối cùng nhấn "Gửi".

    Buổi sáng của hai ngày sau, khi ngồi xuống máy, tôi nhận được mười bốn tin nhắn trả lời. Tôi đăng nhập vào chat room, chớp mắt khi nhìn thấy một loạt cái tên, câu trả lời đến từ mọi người trên khắp thế giới, bất kể ngày đêm. Tin nhắn đầu tiên viết:

    Ong Chăm Chỉ thân mến,

    Chào mừng vào room của chúng tôi. Tôi chắc người bạn của bạn sẽ rất thoải mái khi có một người chăm sóc anh ấy.

    Tôi không dám chắc về điều đó đâu, tôi nghĩ.

    Hầu bết chúng tôi trên đây đều có giai đoạn vô cùng tuyệt vọng trong cuộc sống. Có lẽ anh bạn ấy đang gặp phải giai đoạn này. Đừng để anh ấy đẩy bạn ra xa. Hãy tích cực lên. Nhắc nhở anh ấy rằng cả hai quyết định xuất hiện và biến mất trên thế gian này đều không thuộc về anh ấy, mà thuộc về Chúa. Ngài quyết định thay đổi cuộc sống của anh ấy, bằng ý chí của riêng Ngài, và có lẽ có một bài học trong đó là Ngài...

    Tôi đọc tin nhắn tiếp theo.

    Ong thân mến,

    Chuyện này chẳng có cách gì đâu, bị liệt tứ chi tuyệt vọng lắm. Nếu anh bạn ấy ham mê thể thao thì anh ấy sẽ càng thấy khó khăn hơn. Có một số thứ đã giúp được tôi. Nhiều người bên cạnh, ngay cả khi tôi chẳng thích thú gì điều này. Thức ăn ngon. Bác sĩ giỏi. Thuốc tốt, cả thuốc chống trầm cảm nếu cần. Bạn không nói bạn sống ở đâu, nhưng nếu bạn có thể bảo anh ấy nói chuyện với mọi người trong cộng đồng SCI thì chắc có ích đấy. Dạo đầu tôi chẳng thích thú gì đâu (tôi nghĩ phần nào đó trong tôi không muốn thừa nhận mình thực sự bị liệt tứ chi) nhưng khi biết mình không cô độc trên đời thì quả thực có ý nghĩa lắm.

    À, nhớ ĐỪNG cho anh ấy xem những phim như phim The Diving Bell And The Butterfly (Tiếng chuông lặng và cánh bướm). Thuốc giảm đau nguy hại!

    Cho chúng tôi biết mọi chuyện tiến triển ra sao nhé. Chúc mọi điều tốt đẹp. Richie

    Tôi tìm phim The Diving Bell And The Butterfly. "Câu chuyện kể về một người đàn ông bị liệt sau khi đột quỵ, và nỗ lực của ông để giao tiếp với thế giới bên ngoài," lời giới thiệu phim đề. Tôi viết tên bộ phim vào sổ, không chắc liệu tôi làm thế để đảm bảo Will không xem nó, hay để tôi nhớ mà xem.

    Hai tin nhắn tiếp theo là từ một người theo đạo Cơ đốc Phục lâm An Thất Nhật, và từ một người đàn ông đề xuất những cách thức làm Will vui lên mà chắc chắn không nằm trong hợp đồng lao động của tôi. Tôi đỏ mặt, vội vã lướt xuống, sợ có ai ở sau lưng liếc vào màn hình của tôi. Rồi tôi nán lại tin nhắn tiếp theo.

    Chào Ong Chăm Chỉ,

    Tại sao bạn nghĩ anh bạn/ông chủ/ gì gì đó của bạn cần phải thay đổi ý định? Nếu tôi có thể tìm được một cách chết bảo toàn được phẩm giá, nếu tôi không biết cái chết sẽ khiến cả nhà tôi suy sụp, tôi sẽ chọn nó. Tôi đã mắc kẹt trong xe lăn tám năm nay rồi, cả cuộc đời tôi quẩn quanh mãi trong bẽ bàng tuyệt vọng. Bạn có hiểu thấu nỗi niềm của anh ấy? Bạn có biết người ta cảm thấy thế nào khi đến giải tỏa cái ruột già của mình cũng không làm được nếu chẳng có ai giúp không? Khi biết rằng vĩnh viễn từ đây người ta phải nằm bẹp giường/không thể ăn, mặc, giao tiếp với thế giới bên ngoài mà không có ai giúp đỡ? Khi biết không bao giờ được làm tình nữa? Khi phải đối mặt với những cơn đau tiềm ẩn, bệnh hoạn, và thậm chí là máy trợ thở? Bạn có vẻ là người đáng mến, và tôi tin bạn có ý đồ tốt. Nhưng tuần tới bạn không nên chăm sóc anh ấy. Hãy để việc ấy cho một người thường làm anh ấy khó chịu, hoặc thậm chí một người không ưa gì anh ấy. Chuyện đó, như bao chuyện khác, nằm ngoài kiểm soát của anh ấy. Nhóm người SCI chúng tôi biết rất ít thứ nằm trong tầm kiểm soát của mình - người ta bón cho ăn, mặc quần áo cho, tắm rửa, chuẩn bị thuốc thang nữa. Sống với ý thức đó cơ cực lắm.

    Thế nên tôi nghĩ bạn đang đặt câu hỏi sai rồi. AB là ai mà được quyền quyết định xem cuộc sống của chúng tôi nên thế nào chứ? Nếu đây là cuộc đời không dành cho bạn của bạn, chẳng phải nên đặt câu hỏi thế này ư: Làm sao để giúp anh ấy kết thúc chuyện này?

    Thân ái,

    Gforce, Missouri, US

    Tôi nhìn tin nhắn đó trân trân, ngón tay tôi thõng trên bàn phím một thoáng. Rồi tôi lướt xuống dưới. Mấy tin nhắn tiếp theo đến từ những người bị liệt khác, chỉ trích Gforce vì lời lẽ yếm thế của anh ta, phản pháo rằng họ đã tìm được con đường để đi tiếp, rằng cuộc đời của họ đáng sống. Cuộc tranh luận tiếp diễn một hồi chừng như chẳng liên quan gì tới chuyện của Will.

    Thế rồi topic tự nó kéo mình trở lại câu hỏi của tôi. Có mấy người gợi ý về thuốc chống suy nhược, massage, những cuộc phục hồi thần diệu, câu chuyện về những cuộc đời được trao gửi giá trị mới. Có ít người gợi ý những việc cụ thể: thưởng rượu, âm nhạc, nghệ thuật, đặc biệt là bàn phím lắp đặt.

    "Một người yêu," Grace 31 ở Birmingham viết. "Nếu anh ấy có người yêu, anh ấy sẽ đi tiếp được. Không có người yêu, tôi hẳn đã tuyệt vọng gấp ngàn lần."

    Dòng chữ ấy cứ vang vọng trong đầu tôi rất lâu sau khi tôi rời khỏi thư viện.

    Thứ Năm, Will ra viện. Tôi đón anh bằng chiếc xe hơi đa dụng, đưa anh về nhà. Anh nhợt nhạt và kiệt sức, bơ phờ nhìn ra cửa kính trong suốt chuyến đi.

    "Không ngủ được ở những chỗ đó," anh giải thích khi tôi hỏi xem anh có ổn không. "Lúc nào giường bên cũng có người rên rỉ."

    Tôi bảo anh sẽ có hai ngày cuối tuần để hồi phục, nhưng sau đó tôi có một loạt buổi đi chơi đã lên kế hoạch. Tôi nói tôi đang nghe theo lời khuyên của anh mà thử những thứ mới, và anh sẽ phải đi cùng tôi. Đó là sự thay đổi tinh vi về vị trí người trung tâm, nhưng tôi biết đó là cách duy nhất tôi có thể bắt anh đi cùng mình.

    Thật tình, tôi đã lập ra một bản danh sách chi tiết cho hai tuần tới. Từng sự kiện được đánh dấu cẩn thận bằng mực đen trên tờ lịch của tôi, vạch ra những thứ nên đề phòng bằng mực đỏ, và ghi lại phụ kiện cần mang theo bằng mực xanh. Mỗi lần nhìn vào phía sau cánh cửa tôi lại thấy lòng dâng lên thoáng phấn khích, vừa vì thấy mình thật tài tổ chức, vừa vì ý nghĩ biết đâu một trong những sự kiện đó sẽ thực sự là thứ thay đổi cái nhìn của Will với thế giới.

    Như bố tôi luôn nói, em gái tôi là bộ não của cả nhà.

    Chuyến đi tới khu triển lãm tranh kéo dài chưa tới hai mươi phút. Mà đó là bao gồm cả chạy xe ba vòng quanh tòa nhà để tìm chỗ đỗ thích hợp. Chúng tôi vào khu triển lãm, và tôi vừa đóng cửa lại sau lưng anh thì anh đã bảo tác phẩm ở đây tệ hại quá. Tôi hỏi tại sao thì anh đáp nếu tôi chẳng nhận ra điều đó thì anh có giải thích cũng vô ích. Chúng tôi phải bỏ qua rạp chiếu phim sau khi nhân viên ở đó cho biết với vẻ có lỗi rằng thang máy bị hỏng. Những kế hoạch khác ví như nỗ lực đi bơi bất thành, cần nhiều thời gian hơn và phải sắp xếp trước - gọi tới bể bơi trước, đề nghị Nathan làm thêm giờ, rồi khi chúng tôi tới đó, Will lặng lẽ uống sô-cô-la nóng trong bình chân không ở bãi đỗ xe vắng tanh rồi kiên quyết từ chối vào trong.

    Tối thứ Tư tiếp theo, chúng tôi đi nghe một ca sĩ anh từng nghe ở New York. Buổi hôm đó rất trôi chảy. Khi nghe nhạc, nét mặt anh luôn biểu lộ sự tập trung cao độ. Hầu như khi nào Will cũng để một phần hồn ở đẩu đâu, như thể anh đang phải chống chọi với cơn đau, với ký ức, với những ý nghĩ tăm tối. Nhưng với âm nhạc thì khác hẳn.

    Sang thứ Năm, tôi đưa anh đi nếm rượu, một phần của sự kiện quảng bá do một chủ vườn nho tổ chức tại một cửa hàng rượu đặc biệt. Tôi phải hứa với Nathan là không để anh say. Tôi nâng từng ly lên cho Will ngửi, và chưa uống anh đã biết hết tên loại rượu. Tôi cố không khịt mũi khi Will nhổ rượu vào ly bê-se (chuyện đó buồn cười chết đi được), còn anh thì trợn mắt nhìn tôi và bảo tôi đúng là đồ trẻ con. Ông chủ quán thoạt đầu thấy bối rối lạ lùng khi có một anh chàng ngồi trên xe lăn trong cửa hàng của mình, sau đó thì tỏ ra rất ấn tượng. Khi chiều sang, ông ngồi xuống và bắt đầu mở những chai khác, thảo luận về vùng miền và các loại nho với Will, trong khi tôi lang thang, nhìn xuống những miếng nhãn dán, và nói thật ra là thấy hơi chán.

    "Lại đây Clark. Nghe giảng giải này," anh nói, gật đầu ra hiệu cho tôi ngồi xuống bên anh.

    "Không được đâu. Mẹ tôi bảo nhổ như thế là thô lỗ."

    Hai người đàn ông nhìn nhau như thể tôi là kẻ điên. Thế nhưng anh không nhổ rượu liên tục nữa. Tôi quan sát anh. Anh nói nhiều một cách kỳ lạ suốt phần còn lại buổi chiều - hay cười, thậm chí hiếu chiến hơn thường lệ. Thế rồi, trên đường về nhà, chúng tôi lái xe qua một thị trấn mà chúng tôi ít tới, rồi khi chúng tôi ngồi bất động vì kẹt xe, tôi liếc sang thì thấy Cửa hàng xăm.

    "Tôi luôn thích có một hình xăm," tôi nói.

    Lẽ ra tôi phải biết là không được nói những thứ như thế trước mặt Will. Anh không tán gẫu hay chuyện trò đôi chút về chuyện đó. Anh lập tức muốn biết vì sao tôi chưa từng xăm.

    "Ôi... Tôi không biết. Vì nghĩ tới chuyện mọi người sẽ nói gì, tôi nghĩ thế." "Sao chứ? Họ sẽ nói gì nào?"

    "Bố tôi ghét hình xăm." "Thế cô mấy tuổi rồi?"

    "Patrick cũng ghét hình xăm."

    "Và anh ấy chưa từng làm việc gì cô không thích nhỉ."

    "Có thể khi xăm tôi sẽ bị chứng sợ không gian hẹp. Có thể khi nào hết sợ tôi sẽ thay đổi ý định."

    "Rồi sau đó cô sẽ xóa vết xăm bằng tia laser, phải chứ?" Tôi nhìn anh qua gương chiếu hậu. Mắt anh vui lấp lánh. "Thôi nào," anh nói. "Cô định xăm gì?"

    Tôi nhận ra mình đang mỉm cười. "Tôi không biết nữa. Không phải rắn.

    Không phải tên ai đó."

    "Tôi không nghĩ sẽ là hình một trái tim với chữ 'mẹ' bên trong đâu." "Anh hứa không cười chứ?"

    "Cô biết tôi không thể làm thế mà. Ôi Chúa ơi, cô không định xăm một câu tục ngữ bằng tiếng Phạn hay đại loại thế đấy chứ? Cái gì không khuất phục được tôi sẽ khiến tôi mạnh lên."

    "Không. Tôi sẽ xăm một chú ong. Một chú ong nghệ nhỏ sọc vàng sọc đen.

    Tôi thích nó."

    Anh gật đầu, như thể muốn một hình xăm như thế là cực kỳ có lý. "Thế cô muốn xăm vào đâu? Hay tôi không được phép hỏi đây?"

    Tôi nhún vai. "Chẳng biết. Ở vai chăng? Môi dưới?" "Dừng xe lại," anh nói.

    "Sao, anh có ổn không?"

    "Cứ dừng lại đi. Có một chỗ trống kia kìa. Nhìn xem, phía bên trái đó." Tôi tấp xe vào vỉa hè và liếc nhìn lại anh.

    "Nào, đi đi," anh nói. "Hôm nay chúng ta không cần gì khác nữa." "Đi đâu?"

    "Tới cửa hàng xăm."

    Tôi phá lên cười. "À. Phải." "Sao không?"

    "Anh đã nuốt rượu chứ không nhổ." "Cô chưa trả lời câu hỏi của tôi."

    Tôi quay người trên ghế. Anh đang rất nghiêm túc. "Tôi không thể cứ thế đi xăm được. Chỉ vậy thôi." "Sao không?"

    "Vì..."

    "Vì bạn trai cô nói không. Vì cô vẫn là gái ngoan, mới mười bảy tuổi. Vì xăm thì kinh khủng lắm. Thôi nào Clark. Sống một chút đi. Cái gì ngăn cản cô vậy?"

    Tôi nhìn xuống khoảng đất trước cửa hàng xăm ven đường. Trên ô cửa sổ hơi cáu bẩn có hình trái tim lớn gắn đèn nê-ông, ngoài ra còn có khung ảnh của Angelina Jolie và Mickey Rourke.

    Giọng Will cắt ngang dòng suy tính của tôi. "Được rồi. Nếu cô xăm, tôi cũng xăm."

    Tôi quay lại nhìn anh. "Anh định xăm hả?"

    "Nếu điều đó thuyết phục được cô, dù chỉ một lần, vượt qua giới hạn nhỏ hẹp của mình."

    Tôi tắt máy. Chúng tôi ngồi đó, lắng nghe động cơ lịm dần, tiếng rì rì của những chiếc xe lướt qua chúng tôi trên đường.

    "Vết xăm gần như là vĩnh cửu." "Không phải 'gần như' đâu."

    "Patrick sẽ ghét lắm." "Cô cứ nói mãi thế nhỉ."

    "Và có thể chúng ta sẽ bị nhiễm trùng vì mũi kim bẩn. Và chết một cái chết từ từ, rùng rợn, đau đớn." Tôi quay sang Will. "Có khi giờ họ không thể xăm được. Không thể làm ngay lúc này."

    "Có thể là không. Nhưng chúng ta cứ đi vào kiểm tra xem sao chứ?"

    Hai giờ sau đó, chúng tôi rời khỏi cửa hàng xăm, tôi như nhẹ mất ba chục ký và đang phải chịu đựng vết thương trên hông, nơi mực đang dần khô. Kích thước của nó tương đối nhỏ, tay nghệ sĩ xăm hình nói, nên tôi có thể xăm rồi tô màu luôn một lần, thế nên tôi chọn nó. Xong xuôi. Đã xăm. Hay như về sau Patrick có nói, vết sẹo cuộc đời. Dưới chiếc áo đầm trắng là một chú ong nghệ nhỏ mũm mĩm, được chọn ra từ trong một tập bìa còng nhựa màu chứa hình ảnh mà tay nghệ sĩ xăm đưa cho chúng tôi khi chúng tôi bước vào. Tôi cứ lật tới lật lui để lén nhìn nó cho tới khi Will bảo tôi thôi lật, nếu không tôi sẽ làm hỏng mọi thứ.

    Thật lạ lùng là Will cảm thấy rất thư giãn và thoải mái khi ở đó. Họ chẳng nhìn ngó gì anh. Họ bảo họ đã từng xăm cho mấy người bị liệt tứ chi, thế nên họ đối xử với anh hết sức thoải mái. Họ ngạc nhiên khi Will nói anh cảm nhận được mũi kim. Sáu tuần trước đó họ đã tô mực cho một người bị liệt yêu cầu vẽ kiểu tranh như thật lên những bộ phận điện tử lắp ráp trên suốt một bên chân của anh ta.

    Người xăm có xăm hình tia chớp trên tai đã đưa Will tới phòng tiếp theo, và với sự giúp đỡ của người xăm cho tôi, anh ta đặt Will nằm trên một chiếc bàn đặc biệt, thế nên tất cả những gì tôi có thể thấy qua cánh cửa để mở là cẳng chân của anh. Tôi nghe thấy tiếng hai người đàn ông rì rầm trò chuyện cười đùa qua tiếng sột soạt của kim xăm, mùi chất khử trùng vảng vất trong cánh mũi tôi.

    Khi mũi kim đầu tiên đâm vào da tôi, tôi cắn môi, quyết không để Will nghe tôi la. Tôi để tâm trí nghĩ xem anh đang làm gì trong cánh cửa mé bên, cố nghe lỏm cuộc trò chuyện của anh, tự hỏi anh đang xăm cái gì. Khi cuối cùng anh cũng xuất hiện trở lại, sau khi hình xăm của tôi đã hoàn thành, anh không chịu cho tôi xem. Tôi ngờ nó là thứ gì đó liên quan tới Alicia.

    "Anh ảnh hưởng xấu tới tôi lắm đấy nhé, Will Traynor," tôi nói, mở cửa xe rồi hạ thấp đường trượt. Tôi không thể không cười rạng rỡ.

    "Cho tôi xem nào."

    Tôi liếc xuống đường rồi kéo miếng gạc xuống khỏi hông.

    "Tuyệt quá. Tôi thích con ong nhỏ của cô. Thật đấy."

    "Tôi sẽ phải mặc quần cạp cao trước mặt bố mẹ tôi suốt phần đời còn lại." Tôi giúp anh chỉnh xe lên đường trượt rồi nâng nó lên. "Nhắc anh nhé, nếu mẹ anh có nghe nói anh cũng có một..."

    "Tôi sẽ nói với bà rằng cô gái ở lâu đài đã dụ tôi lầm lạc." "Được rồi, Traynor, cho tôi xem hình xăm của anh."

    Anh nhìn tôi nghiêm trang, hơi mỉm cười. "Về đến nhà là cô phải thay gạc mới cho tôi đấy."

    "Được rồi. Cứ như tôi chưa bao giờ làm việc đó không bằng. Thôi nào. Anh chưa cho tôi xem là tôi không lái xe đâu."

    "Thì kéo áo tôi lên. Bên phải ấy. Bên phải của cô."

    Tôi vươn người qua hàng ghế trước, kéo áo anh lên, giở tấm gạc bên dưới ra. Ở đó, nổi bật trên làn da tái xanh của anh là một hình chữ nhật tô mực đen mực trắng, nhỏ tới nỗi tôi phải nhìn hai lần mới nhận ra nó viết gì:

    Đẹp nhất trước: 19 tháng Ba 2007

    Tôi nhìn nó trân trân. Tôi phì cười, nhưng rồi mắt tôi đẫm lệ. "Đó là..." "Ngày tôi bị tai nạn. Đúng thế." Anh ngước mắt lên trời. "Ôi vì Chúa, đừng mau nước mắt thế Clark. Chỉ cho vui thôi mà."

    "Cho vui. Cách này chẳng hấp dẫn tẹo nào."

    "Nathan sẽ thích nó. Ôi, thôi nào, đừng như thế. Có phải tôi đang phá hủy cơ thể hoàn hảo của mình đâu nào phải không?"

    Tôi kéo áo Will xuống rồi quay lên, khởi động xe. Tôi chẳng biết phải nói gì. Tôi không biết chuyện này có nghĩa là gì. Có phải điều này có nghĩa anh đã bắt đầu chấp nhận tình trạng của mình? Hay chỉ là một cách khác để thể hiện nỗi ghê sợ của anh với cơ thể của chính mình?

    "Này Clark, giúp tôi một chút," anh nói, ngay khi tôi định lái xe đi. "Tìm trong ba-lô cho tôi. Trong ngăn có khóa ấy."

    Tôi liếc nhìn vào gương chiếu hậu rồi lại bật thắng tay lên. Tôi vươn người qua hàng ghế trước, thò tay vào chiếc ba-lô, lục lọi theo hướng dẫn của anh.

    "Anh cần thuốc giảm đau à?" Tôi cách mặt anh dăm phân. Từ hôm ở bệnh viện về, chưa hôm nào anh hồng hào như hôm nay. "Tôi có mấy viên trong..." .

    "Không. Cứ tìm đi."

    Tôi lôi một mảnh giấy ra rồi ngồi ngay ngắn lại. Đó là một tờ mười bảng gấp gọn.

    "Tìm đúng rồi đó. Tờ mười bảng khẩn cấp." "Để làm gì?"

    "Nó là của cô." "Vì điều gì?"

    "Vì hình xăm đó." Anh cười tươi với tôi. "Cho tới ngay trước khi cô ngồi vào chiếc ghế đó, tôi không hề nghĩ cô sẽ xăm thật."
     
    Đang tải...


  2. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 16

    Không có cách nào giải quyết được việc này. Chuyện sắp xếp chỗ ngủ thật chẳng đâu vào đâu cả. Cuối tuần nào Treena về là cả nhà Clark lại bắt đầu trò chơi xếp giường ồn ào bất tận về đêm. Sau bữa khuya tối thứ Sáu, bố mẹ sẽ mời Treena sử dụng giường của họ, nó sẽ nhận, sau khi họ cam đoan với nó rằng không, họ không thấy phiền hà chút nào cả, và Thomas sẽ ngon giấc hơn nhiều khi được ngủ trong căn phòng quen thuộc. Điều đó có nghĩa cả nhà ai cũng ngủ ngon, bố mẹ giải thích như thế.

    Nhưng mẹ ngủ dưới lầu có nghĩa là bố mẹ cần mang theo chăn, gối của họ, thậm chí cả ga, vì mẹ không thể ngủ yên nếu giường chọng không như ý. Thế nên sau bữa khuya, mẹ và Treena sẽ lột ga giường bố mẹ ra, trải ga mới lên, thêm một mảnh nệm chống thấm đề phòng Thomas đái dầm. Trong khi đó, chăn nệm của bố mẹ sẽ được gấp lại, đưa xuống đặt ở một góc phòng khách, rồi Thomas sẽ chui vào đống chăn ấy, nhảy bùm bùm lên đó, và trải ga lên ghế ăn làm thành cái lều.

    Ông ngoại bảo mọi người sử dụng phòng ông, nhưng không ai dám nhận. Phòng ông có mùi như báo Racing Post giấy vàng hòa với mùi thuốc lá Old Holborn, chắc phải mất cả hai ngày cuối tuần mới lau chùi xong. Khi đó tôi sẽ cảm thấy có lỗi - nói cho cùng tất cả là lỗi của tôi - khi biết mình không bao giờ có ý định trở lại gác lửng. Căn phòng bé tí teo ngột ngạt không cửa sổ ấy đã trở thành bóng ma ám ảnh đối với tôi. Ý nghĩ quay lại ngủ ở đó khiến ngực tôi như thắt lại. Tôi đã hai mươi bảy tuổi. Tôi là người kiếm tiền chính trong gia đình. Tôi không thể ngủ trong cái nơi chẳng khác gì chạn bát ấy.

    Một dịp cuối tuần, tôi bảo sẽ tới nhà Patrick ngủ, cả nhà ai cũng âm thầm nhẹ nhõm. Nhưng khi tôi đi rồi, Thomas bôi cả hai bàn tay dính bẩn lên khắp tấm rèm cửa mới và lấy bút bi vẽ vời lên tấm chăn lông vịt mới trong phòng tôi, tới lúc đó bố mẹ tôi quyết định là tốt nhất bố mẹ sẽ ngủ ở phòng tôi, còn Treena và Thomas ngủ ở phòng hai mẹ con nó, ở đó mọi thứ cũ kỹ rồi nên thằng bé có chọc phá gì cũng không sao.

    Tuy nhiên mẹ tôi thừa nhận, nếu tính tới chuyện phải dọn dẹp giặt giũ chăn gối thì việc tôi ngủ lại ở nhà Pat vào thứ Sáu và thứ Bảy cũng chẳng giúp được gì nhiều.

    Lại còn vấn đề Patrick. Giờ đây Patrick là một người bị ám ảnh. Anh ăn, uống, sống, thở như đội thi Xtreme Viking. Căn hộ của anh, vốn thường rất ít đồ và gọn ghẽ, giờ chằng chịt lịch luyện tập và lịch ăn kiêng. Anh có một chiếc xe đạp siêu nhẹ mới đặt giữa sảnh, tôi không được phép chạm vào nó vì không chừng tôi sẽ làm hỏng khả năng đua siêu nhẹ cân bằng tuyệt hảo của nó.

    Anh hiếm khi ở nhà, kể cả tối thứ Sáu và thứ Bảy. Với thời gian luyện tập của anh và thời gian làm việc của tôi thì có vẻ như thời gian này chúng tôi ít gặp nhau hơn bao giờ hết. Tôi có thể theo anh xuống đường để xem anh chạy vòng quanh cho tới khi anh hoàn thành số dặm cần thiết, hoặc tôi cứ ở nhà tự xem ti- vi, cuộn mình trên chiếc trường kỷ bằng da rộng thênh thang của anh. Tủ lạnh chẳng có gì ăn ngoài mấy miếng ức gà tây và thứ nước tăng lực kinh tởm dày đặc trứng ếch. Có lần Treena và tôi đã thử một chai, chúng tôi phun ra ngay, bịt miệng la thét om sòm như con nít.

    Vấn đề quan trọng nhất là tôi không thích căn hộ của Patrick. Anh mua nó cách đó một năm, khi cuối cùng anh cũng cảm thấy mẹ anh sẽ ổn khi sống một mình. Công việc kinh doanh của anh hoạt động tốt, anh bảo tôi chuyện một trong hai chúng tôi có một bước tiến mới trong vấn đề nhà cửa đất cát là hết sức quan trọng. Tôi tưởng câu đó là lời gợi ý thảo luận xem khi nào chúng tôi sẽ về sống cùng nhau, nhưng chẳng hiểu sao không có cuộc trò chuyện nào cả, mà cả hai chúng tôi đều không phải kiểu người khơi ra những chủ đề gây cảm giác không thoải mái dù chỉ chút ít. Hệ quả là chẳng có cái gì thuộc về tôi trong căn hộ đó, dù chúng tôi đã bên nhau ngần ấy năm. Tôi chưa bao giờ đủ khả năng nói ra với anh, nhưng quả tình tôi thích sống ở nhà mình với tất cả ồn ào huyên náo ấy hơn là sống trong cái không gian vô hồn vô cảm này với chỗ để xe chia phần và khung cảnh cố định buộc phải nhìn ra lâu đài.

    Vả lại, ở đây tôi thấy hơi cô đơn.

    Nếu tôi có kêu ca thì anh sẽ nói, "Phải tuân thủ lịch tập nghiêm ngặt chứ, em yêu. Nếu giai đoạn này mà anh tập ít hơn hai mươi ba dặm mỗi ngày thì anh sẽ không bao giờ thực hiện đúng kế hoạch được." Rồi anh sẽ cập nhật cho tôi thông tin mới nhất về tình trạng tổn thương xương ống do áp lực của anh và bảo tôi đưa cho anh bình xịt giảm đau.

    Khi không tập luyện, anh triền miên đi gặp gỡ những thành viên khác trong đội để so sánh dụng cụ luyện tập và hoàn thành các kế hoạch chu du. Ngồi giữa họ thật chẳng khác gì ngồi giữa nhóm người nói tiếng Hàn Quốc. Tôi chẳng hiểu họ nói gì mà cũng chẳng có khao khát nhấn mình lụt trong mớ bòng bong đó.

    Anh nghĩ bảy tuần nữa tôi sẽ đi cùng đội của anh tới Na Uy. Tôi chưa biết làm sao để nói với Patrick rằng tôi chưa xin nhà Traynor cho nghỉ phép. Làm sao mà tôi xin nghỉ được cơ chứ? Khi đội Xtreme Viking lên đường, hợp đồng của tôi chỉ còn có một tuần thôi. Có thể tôi đang từ chối đối diện với mọi chuyện một cách rất trẻ con, nhưng thật lòng tất cả những gì tôi nhìn thấy trước mắt là Will và chiếc đồng hồ kêu tích tắc. Dường như chẳng có nhiều thứ khác lọt được vào tâm trí tôi.

    Điều mỉa mai nhất trong tất cả chuyện này là tôi thậm chí ngủ không yên giấc trong nhà Patrick. Tôi không biết tại sao, nhưng sau đêm ngủ ở nhà Patrick, khi đi làm tôi cảm thấy hai tai ù đặc, còn hai mắt thì thâm tím như bị ai đánh. Tôi đã phết một đống kem che khuyết điểm lên vùng mắt thăm quầng như quét sơn.

    "Có chuyện gì thế Clark?" Will hỏi.

    Tôi mở mắt. Anh ở ngay bên cạnh, đầu nghiêng nghiêng, quan sát tôi. Tôi có cảm giác anh đã đứng đó được một lát rồi. Tay tôi tự động lướt xuống miệng vì sợ mình đang rỏ dãi.

    Bộ phim mà lẽ ra tôi đang xem giờ chỉ còn là những hình ảnh quay chậm. "Không có gì. Xin lỗi. Chỉ tại trong này ấm áp quá." Tôi ngồi dậy thẳng thớm.

    "Đây là lần thứ hai cô ngủ gật trong ba ngày lại đây." Anh nhìn kỹ mặt tôi. "Trông cô bơ phờ kinh khủng."

    Thế là tôi kể với anh. Tôi kể cho anh về em gái tôi, về những cuộc sắp xếp chỗ ngủ, về chuyện tôi không muốn làm ầm lên vì mỗi lần nhìn khuôn mặt bố tôi thấy nỗi tuyệt vọng lộ rõ vì ông đã không mua nổi một căn nhà để cả gia đình có thể ngủ ngon trong đó.

    "Bố cô vẫn chưa tìm được việc gì à?"

    "Chưa. Tôi nghĩ vì tuổi tác của bố. Nhưng chúng tôi không nói về điều đó.

    Chuyện ấy..." Tôi nhún vai. "Chuyện ấy khiến ai cũng vô cùng khó xử."

    Chúng tôi chờ cho tới khi bộ phim kết thúc, tôi đi lại đầu đĩa, lấy chiếc DVD ra rồi đặt lại vào vỏ đĩa của nó. Tôi cảm thấy không phải sao đó khi kể với Will những khó khăn của mình. Những chuyện ấy dường như nhỏ bé đến đáng xấu hổ bên cạnh những vấn đề của anh.

    "Tôi sẽ quen thôi," tôi nói. "Mọi chuyện sẽ ổn. Thật đấy."

    Cả buổi chiều hôm đó Will tỏ ra rất băn khoăn lo nghĩ. Tôi rửa chén đĩa, rồi đi tới bật máy tính cho anh. Khi tôi mang một ly nước tới, anh quay xe về phía tôi.

    "Đơn giản lắm," anh nói, như thể nãy giờ chúng tôi đang trò chuyện. "Cô có thể ngủ lại đây vào cuối tuần. Còn một phòng trống đấy, cứ dùng có sao đâu."

    Tôi khựng lại, ly bê-se trên tay. "Tôi không thể làm thế."

    "Sao không? Tôi sẽ không trả tiền làm thêm giờ khi cô ở đây đâu."

    Tôi đặt ly nước xuống chỗ đặt ly trên xe. "Nhưng mẹ anh sẽ nghĩ gì chứ?"

    "Tôi chẳng biết."

    Khi nhìn thấy vẻ mặt tôi băn khoăn, anh nói thêm, "Không sao đâu. Tôi ngoan lắm."

    "Là sao?"

    "Nếu cô lo lắng rằng tôi đang âm thầm lập kế hoạch thiếu đoan chính để quyến rũ cô, cô chỉ cần đẩy tôi ra là được mà." "Ối trời."

    "Thật đấy. Suy nghĩ đi. Ít nhất đó cũng là một lựa chọn tạm thời. Mọi chuyện có thể thay đổi nhanh hơn cô nghĩ. Biết đâu rồi em gái cô sẽ không muốn cuối tuần nào cũng về nhà nữa. Hoặc có thể cô ấy sẽ gặp được ai đó. Hàng triệu thứ có thể thay đổi."

    Và có thể hai tháng nữa anh sẽ không còn ở đây, tôi thầm nói trong đầu với anh, và lập tức thấy ghét mình vì đã nghĩ tới điều đó.

    "Nói tôi nghe chuyện này được không," anh nói khi sắp rời khỏi phòng. "Sao Ông Chạy không bảo cô sang nhà anh ta?"

    "À, có chứ," tôi nói.

    Anh nhìn tôi như thể sắp tiếp tục câu chuyện.

    Nhưng rồi chừng như anh thay đổi ý định. "Như tôi đã nói." Anh nhún vai. "Lời đề nghị luôn ở đó."

    Đây là những thứ Will thích.

    1. Xem phim, đặc biệt là phim nước ngoài với phụ đề. Thỉnh thoảng anh cũng chịu xem phim hành động, thậm chí là phim tâm lý, nhưng phim hài lãng mạn thì bỏ qua. Nếu tôi dám thuê phim đó về xem, anh sẽ dành nguyên 120 phút thốt ra những tiếng xì nho nhỏ đầy vẻ chán nản thất vọng, hoặc chỉ ra những điểm sáo mòn trong cốt truyện, cho tới khi tôi thấy phim chẳng hài hước chút nào nữa.

    2. Nghe nhạc cổ điển. Anh biết cực kỳ nhiều về mảng này. Anh cũng thích một số dòng nhạc hiện đại, nhưng anh nói nhạc jazz về căn bản là thứ rỗng tuếch khoe mẽ. Một chiều khi xem nội dung MP3 của tôi, anh cười dữ dội tới nổi suýt làm bục một ống thông tiểu.

    3. Ngồi trong vườn, khi giờ đây khí trời rất ấm. Đôi khi tôi đứng trong khung cửa sổ quan sát anh, đầu anh ngửa ra, mê mải thưởng thức ánh nắng trên mặt mình. Khi tôi nhận xét anh thật tài ngồi yên hưởng thụ nắng trời - đó là một điều tôi chẳng bao giờ làm được - thì anh chỉ ra rằng với một người không thể cử động chân tay thì thật tình chẳng có gì nhiều để lựa chọn.

    4. Bắt tôi đọc sách hoặc tạp chí, rồi nói về chúng. Tri thức là sức mạnh, Clark, anh thường nói thế. Dạo đầu tôi rất ghét chuyện này; tôi cảm thấy mình như thể đang ở trường, bị vấn đáp bài cũ. Nhưng sau một thời gian tôi nhận ra rằng, trong mắt Will, chẳng có câu trả lời nào là sai cả. Anh thực sự thích tôi tranh luận với anh. Anh hỏi tôi về những chuyện trên báo, không đồng tình với tôi về các nhân vật trong sách. Hầu như với chuyện gì anh cũng có chính kiến - những việc chính phủ đang làm, chuyện doanh nghiệp nào đó có mua thêm công ty khác không, chuyện ai đó đáng lẽ phải bị bỏ tù rồi mới đúng. Nếu cho rằng tôi quá lười biếng hoặc đang nói theo ý kiến của bố mẹ tôi hoặc của Patrick, anh sẽ nói thẳng băng, "Không. Nói vậy chưa được." Anh sẽ tỏ ra vô cùng thất vọng khi nghe tôi nói tôi chẳng biết gì về vấn đề đó; giờ đây tôi đã đoán trước được tâm lý của anh nên thường đọc báo khi đi xe buýt sang nhà anh để cảm thấy sẵn sàng trao đổi với anh. Khi anh nói, "Ý kiến hay lắm, Clark," tôi sẽ nở nụ cười tươi roi rói. Để rồi sau đó tôi tự đá mình một cái vì lại để cho Will đối xử kẻ cả với mình.

    5. Cạo râu. Giờ đây cứ hai ngày một lần, tôi thoa bọt xà phòng lên cằm anh, làm cho anh trở nên chỉn chu. Nếu vào một ngày tâm trạng dễ chịu, anh sẽ ngửa người trên ghế, nhắm mắt lại, nét gì đó gần giống như nỗi vui sướng thể xác nhất mà tôi thấy sẽ tỏa ra trên gương mặt anh. Có thể đó là điều tôi tưởng tượng ra. Có thể tôi thấy điều tôi muốn thấy. Nhưng anh sẽ lặng thinh khi tôi lướt nhẹ lưỡi lam qua cằm anh, cạo nhẵn thín, và khi anh mở mắt ra, nét mặt anh đã dịu lại, giống như vừa thức giấc sau một giấc ngủ vô cùng ngon lành. Dạo này mặt anh hồng hào hơn vì chúng tôi hay ra ngoài chơi; da anh rất dễ bắt nắng. Tôi để dao cạo ở ngăn tủ trên cao trong phòng tắm, dấu sau chai dầu xả lớn.

    6. Là một anh bạn. Đặc biệt là với Nathan. Thường thường, trước những việc cần làm lúc chiều tối, họ sẽ ra ngồi ở cuối vườn và Nathan sẽ mở hai lon bia. Đôi khi tôi nghe họ tranh luận về môn bóng bầu dục, hoặc đùa giỡn về một cô gái nào đó họ đã thấy trên ti-vi, khi ấy nghe thật chẳng giống Will chút nào. Nhưng tôi hiểu anh cần điều này; anh cần có một người mà với người ấy, anh được làm một cậu bạn, được làm những thứ mà đám bạn trai thường làm. Đó là một chút "bình thường" trong cuộc sống tách biệt, lạ lùng của anh.

    7. Bình luận về tủ quần áo của tôi. Thực ra, câu bình luận ấy thường là một cái nhướng mày khi nhìn thấy quần áo của tôi. Ngoại trừ chiếc quần bó sọc vàng đen. Hai lần tôi mặc cái quần ấy, anh chẳng nói gì, chỉ khẽ gật đầu, như thể đó là một thứ đúng đắn trên đời.

    "Hôm nọ cô thấy bố tôi trong thị trấn."

    "À phải." Tôi đang treo đồ mới giặt lên dây phơi. Cái dây này ẩn ở nơi mà bà Traynor gọi là Vườn Bếp. Tôi nghĩ bà không muốn một thứ tầm thường như quần áo làm ô nhiễm khung cảnh bờ rào hoa cỏ của bà. Mẹ tôi luôn kẹp đồ trắng ra giữa sân như một niềm tự hào. Nó giống như một lời thách thức với hàng xóm láng giềng: Thử đi, thưa các bà! Bố tôi phải làm hết sức mới ngăn được mẹ không đặt cái giá phơi thứ hai ra sân.

    "Bố tôi hỏi cô có nói gì về chuyện đó không."

    "Ồ." Tôi cố giữ vẻ mặt bình thản. Rồi vì anh tỏ ra chờ đợi, tôi nói thêm. "Rõ là không mà."

    "Ông ấy đi với ai à?"

    Tôi bỏ chiếc kẹp cuối cùng vào túi đựng kẹp. Tôi cuộn cái túi lại, đặt vào giỏ đựng đồ giặt trống không. Tôi quay sang anh.

    "Phải."

    "Một phụ nữ." "Phải."

    "Tóc đỏ."

    "Phải."

    Will ngẫm nghĩ một phút.

    "Tôi xin lỗi nếu anh nghĩ lẽ ra tôi đã phải kể với anh," tôi nói. "Nhưng đó... đó có vẻ không phải nhiệm vụ của tôi."

    "Và nói về chuyện đó cũng chẳng dễ dàng gì." "Đúng thế."

    "Nếu nói thế này có thể trấn an cô thì Clark à, đây không phải lần đầu tiên đâu," anh nói rồi hướng trở lại vào nhà.

    Deirdre Bellows gọi tên tôi hai lần tôi mới ngước lên. Tôi đang nguệch ngoạc vào sổ tay mấy địa danh và những thắc mắc, khó khăn và thuận lợi, và tôi hầu như quên bẵng mình đang ở trên xe buýt. Tôi đang cố nghĩ ra cách đưa Will tới nhà hát. Chỉ mất một hai tiếng lái xe, và đó là vở nhạc kịch Oklahoma! Thật khó tưởng tượng ra Will gật gù khi nghe bài hát mở màn "Oh What A Beautiful Girl", nhưng mọi nhà hát tử tế đều ở London. Mà London thì dường như vẫn nằm ngoài khả năng.

    Về cơ bản, giờ tôi có thể đưa Will ra khỏi nhà, nhưng chúng tôi đã đi hết sạch mọi địa điểm trong vòng bán kính một giờ lái xe, và tôi chẳng biết phải làm sao để đưa anh đi xa hơn.

    "Thế giới chật hẹp quá nhỉ, Louisa?"

    "Ôi. Chào cô Deirdre." Tôi nhích người trên ghế để tạo chỗ trống cho cô.

    Cô Deirdre là bạn thiếu thời của mẹ tôi. Cô có một cửa hàng đồ trang trí nội thất, cô đã ly dị ba lần. Cô có mái tóc đủ dày để làm một bộ tóc giả, gương mặt bầu bĩnh u buồn khiến cô trông như vẫn còn bâng khuâng mơ mộng chàng hiệp sĩ áo trắng sẽ tới cuỗm cô đi.

    "Cô chẳng mấy khi đi xe buýt nhưng hôm nay cô mang xe đi sửa. Cháu thế nào? Mẹ cháu có kể với cô mọi điều về công việc của cháu. Nghe thú vị lắm."

    Lớn lên ở một thị trấn nhỏ là như thế đấy. Mọi chi tiết trong cuộc sống của bạn đều trở thành chuyện chung. Chẳng có gì bí mật riêng tư - ai cũng biết lần tôi bị bắt quả tang hút thuốc ở bãi đỗ xe của siêu thị ngoại vi thị trấn năm mười bốn tuổi, chuyện bố tôi lát lại nhà vệ sinh dưới lầu cũng thế. Những chi tiết vụn vặt của cuộc sống hằng ngày rất được các bà các chị như cô Deirdre ưa chuộng.

    "Vâng, tốt ạ." "Lương cao nhỉ." "Vâng."

    "Cô thấy thật nhẹ lòng cho cháu sau chuyện xảy ra với quán Bánh Bơ. Họ đóng cửa quán cà-phê như vậy đáng tiếc quá. Chúng ta đã mất mọi cửa hiệu có ích trong thị trấn này rồi. Cô nhớ cái thời chúng ta còn có một người bán tạp phẩm, một người nướng bánh, một người bán thịt trên đường lớn. Chúng ta chỉ thiếu mỗi người làm giá để nến thôi!"

    "Ừm." Tôi thấy cô liếc nhìn danh sách của tôi nên vội đóng sổ tay lại. "Vâng. Ít nhất chúng ta cũng có một nơi để mua rèm mà. Cửa hàng thế nào rồi cô?"

    "À, ổn... phải... Này, đó là gì vậy? Thứ gì đấy liên quan tới công việc à?" "Cháu chỉ nghĩ xem Will thích làm gì thôi ấy mà."

    "Anh chàng tàn tật ấy hả?"

    "Vâng. Ông chủ của cháu."

    "Ông chủ của cháu. Nói vậy nghe cũng hay đấy." Cô huých tay tôi. "Thế cô em gái thông minh của cháu học hành ở trường đại học thế nào?"

    "Nó ổn lắm. Thomas cũng thế."

    "Nó sẽ không sống ở làng quê này nữa đâu, con bé đó ấy mà. Nhưng cô phải nói, Louisa ạ, cô rất ngạc nhiên tại sao cháu không thoát ly trước nó. Mọi người đã luôn nghĩ cháu là cô bé sáng dạ. Tất nhiên không phải bây giờ mọi người không nghĩ thế nữa."

    Tôi trưng lên một nụ cười lịch sự. Tôi chẳng biết mình có thể làm được gì hơn thế.

    "Nhưng cũng phải. Ai đó phải làm việc ấy chứ nhỉ? Mà mẹ cháu cũng sướng hơn khi một trong hai đứa cháu vui lòng sống gần nhà."

    Tôi muốn phản bác lại cô, nhưng rồi chợt nhận ra rằng suốt bảy năm qua tôi chẳng làm gì để cho thấy tôi có tham vọng nào đó hoặc khao khát được đi đâu đấy xa hơn cuối ngõ nhà mình. Tôi ngồi lặng lẽ, động cơ cũ xì của chiếc xe buýt gầm gừ rung lắc phía dưới chúng tôi, và đột nhiên cảm thấy sự câu thúc của thời gian, thấy mình đã đánh mất quá nhiều năm tháng vào những hành trình nhỏ đi đi về về cùng một quãng đường. Vòng qua vòng lại quanh lâu đài. Xem Patrick chạy loanh quanh con đường. Cũng những nỗi lo lắng tầm thường đó. Cùng những nhịp điệu hằng ngày.

    "A, đây rồi. Tới điểm cô xuống rồi." Cô Deirdre nặng nề nhấc người dậy bên cạnh tôi, nâng cái túi xách xinh xắn lên vai. "Cô gửi lời thăm mẹ cháu nhé. Bảo với mẹ cháu là mai cô sẽ qua."

    Tôi ngước lên, chớp mắt. "Cháu có một hình xăm," đột nhiên tôi nói. "Một con ong."

    Cô nán lại, nắm tay vào một thành ghế.

    "Trên hông cháu. Một hình xăm thật sự. Vĩnh cửu," tôi nói thêm.

    Deirdre liếc ra cửa xe buýt. Cô tỏ vẻ hơi bối rối, rồi nở một nụ cười mà có lẽ cô nghĩ đó là nụ cười an ủi.

    "Ồ, hay lắm, Louisa. Nhớ nhé, nói với mẹ cháu là mai cô sang chơi."

    Hằng ngày, khi Will xem ti-vi, hoặc bận rộn với thứ gì đó khác, tôi sẽ ngồi trước máy tính của anh, cố vắt óc nghĩ ra sự kiện thần diệu nào có thể khiến Will Hạnh Phúc. Nhưng khi thời gian trôi qua, tôi nhận ra rằng danh sách những thứ chúng tôi không thể làm, những nơi chúng tôi không thể tới, đã vượt quá xa so với ý tưởng của tôi về những nơi chúng tôi có thể tới. Khi một việc không thể làm thắng thế việc có thể làm, tôi trở lại các chat-room để xin lời khuyên.

    Ha! Ritchie nói. Chào mừng tới thế giới của chúng tôi, Ong.

    Từ những cuộc nói chuyện sau đó, tôi biết được rằng ngồi xe lăn mà say rượu thì có rất nhiều nguy cơ, bao gồm tai nạn với ống thông tiểu, ngã xuống vỉa hè, bị những gã say khác dẫn về lầm nhà. Tôi biết được rằng với người không bị liệt thì chẳng có nơi nào có ích hơn nơi nào cả, nhưng với người ngồi xe lăn thì Paris quả là nơi kém tiện ích nhất trên trái đất. Chuyện này thật đáng thất vọng, vì một phần nhỏ bé lạc quan trong tôi vẫn hy vọng rằng chúng tôi có thể tới đó.

    Tôi bắt đầu xây dựng một danh sách mới - những thứ không thểvlớàm i người bị liệt tứ chi.

    1. Đi tàu điện ngầm (hầu hết ga tàu điện ngầm không có thang máy), như thế là đã loại bỏ hoạt động ở một nửa London, trừ phi ta chịu trả tiền taxi.

    2. Đi bơi mà không có người trợ giúp và khi nhiệt độ không đủ ấm để sớm ngăn cơn run thụ động. Ngay cả phòng thay đồ dành cho người khuyết tật cũng khó sử dụng nếu không có cần cẩu bể bơi. Nói như vậy không có nghĩa Will sẽ chịu để mình vào cần cẩu bể bơi.

    3. Đi tới rạp chiếu phim, trừ phi đảm bảo có chỗ ở hàng đầu, và trừ phi hôm đó chứng co thắt do kích động của Will ở mức thấp. Hôm đi xem phim Rear Window (Án mạng ở nhà bên), tôi đã mất ít nhất hai mươi phút bò dưới đất nhặt chỗ bắp rang bơ mà cơn co giật đầu gối bất ngờ của Will đã thảy lên không trung.

    4. Đi biển, trừ phi xe lăn có lắp "bánh lớn". Xe của Will không lắp.

    5. Đi máy bay khi "hạn mức" dành cho người khuyết tật đã hết.

    6. Đi shopping, trừ phi tất cả cửa hàng đều có đường trượt đúng chỗ theo quy định của luật pháp. Nhiều cửa hàng xung quanh lâu đài đã dựa vào tình trạng công trình đã được xếp hạng để tuyên bố họ không thể đáp ứng đường trượt. Thật tình một số cửa hàng nói đúng sự thật.

    7. Đi tới một nơi quá nóng hoặc quá lạnh (vấn đề thời tiết).

    8. Đi chơi ngẫu hứng (phải sắp xếp giỏ đồ, phải kiểm tra đường sá hai lần trước khi tới).

    9. Đi ăn nhà hàng, nếu xấu hổ vì phải ăn đút, hoặc có vấn đề với ống thông tiểu mà phòng vệ sinh của nhà hàng lại nằm ở lầu dưới.

    10. Đi chơi xa bằng tàu hỏa (mệt mỏi, quá khó để đưa chiếc xe lăn nặng nề lên tàu nếu không có người giúp.)

    11. Cắt tóc phải hôm trời mưa (tóc sẽ bám hết vào bánh xe Will. Lạ lùng là chuyện này khiến cả hai chúng tôi thấy buồn nôn.)

    12. Đi sang nhà bạn chơi, trừ phi họ có đường trượt dành cho xe lăn. Hầu như nhà nào cũng có bậc tam cấp. Nhưng hầu như chẳng nhà nào có đường trượt. Nhà chúng tôi là một ngoại lệhhoiiế. mDù sao Will b ảo anh cũng chẳng muốn gặp ai cả.

    13. Đi từ lâu đài xuống đồi khi mưa to (phanh xe lăn không phải khi nào cũng an toàn, mà cái xe thì quá nặng, tôi giữ không nổi.)

    14. Đi tới nơi có khả năng có nhiều gã say. Will là thỏi nam châm với đám say xỉn. Hễ thấy anh là họ sà lại, thở phì phò hơi bia rượu vào người anh, tròn xoe đôi mắt thương hại. Đôi khi họ còn thật tình cố gắng đẩy xe cho anh.

    15. Đi tới nơi dễ có đông người. Khi hè sang thì điều đó có nghĩa việc đi chơi loanh quanh lâu đài trở nên khó khăn hơn, và một nửa số nơi tôi nghĩ chúng tôi có thể tới - hội chợ, hòa nhạc, kịch ngoài trời - bị loại bỏ.

    Khi nỗ lực tìm ý tưởng, tôi hỏi những người bị liệt trên mạng xem họ muốn làm việc gì nhất đời, thì hầu như luôn nhận được câu trả lời, "Làm tình." Họ tự nguyện cung cấp cho tôi rất nhiều chi tiết liên quan tới ý tưởng đó.

    Nhưng thực tình đó không phải một sự giúp đỡ hữu ích. Còn tám tuần nữa, mà tôi đã cạn ý tưởng rồi.

    Hai ngày sau hôm chúng tôi nói chuyện dưới dây phơi, tôi về nhà thì thấy bố đang đứng ở sảnh. Chuyện này lẽ ra là rất lạ (mấy tuần lại đây ban ngày bố dường như luôn vùi mình trên sofa, được cho là để bầu bạn với ông ngoại), nhưng lúc này bố đang mặc áo sơ-mi phẳng phiu, râu cạo nhẵn nhụi, và cả sảnh ngát mùi Old Spice. Tôi khá chắc ông mua chai nước hoa cạo râu đó từ năm 1974.

    "Con về rồi."

    Tôi đóng cửa lại sau lưng. "Con đây."

    Tôi đang cảm thấy mệt mỏi lo âu. Trên cả chuyến xe buýt về nhà, tôi nói chuyện điện thoại với một nhân viên ở đại lý du lịch bàn xem có thể đưa Will đi đâu, nhưng cả hai chúng tôi đều bế tắc. Tôi cần phải đưa anh ấy đi chơi xa nhà. Nhưng dường như chẳng có nơi nào bên ngoài bán kính năm dặm quanh tòa lâu đài mà anh thực sự muốn viếng thăm.

    "Tối nay con tự lo cho mình được không?"

    "Được ạ. Lát nữa con có thể tới quán rượu với Patrick. Mà sao thế ạ?" Tôi treo áo khoác lên một cái móc trống.

    Cột treo đồ thoáng hơn rất nhiều khi Treena và Thomas đã lấy áo khoác đi. "Bố đưa mẹ đi ăn tối."

    Tôi suy đoán thật nhanh trong đầu. "Bố quên sinh nhật mẹ à?"

    "Không. Bố mẹ ăn mừng." Ông hạ thấp giọng, như thể đó là một bí mật. "Bố c"ó việc rồi.

    "Không thể nào!" Giờ tôi mới nhận ra cả cơ thể ông như bừng sáng. Ông lại đứng thẳng thớm, gương mặt cười rạng rỡ. Trông ông trẻ hơn cả chục tuổi. "Bố, kỳ diệu quá."

    "Bố biết. Mẹ con như bay lên cung trăng. Mà con biết đấy, mấy tháng nay mẹ con khổ sở vì chuyện Treena đi, rồi chuyện ông ngoại, đủ thứ. Thế nên tối nay bố muốn đưa mẹ đi chơi, đãi mẹ một bữa."

    "Thế công việc gì vậy ạ?"

    "Bố sẽ là trưởng ban bảo trì. Trên tòa lâu đài ấy mà." Tôi chớp mắt. "Nhưng đó là..."

    "Ông Traynor. Đúng thế đấy. Ông ấy gọi cho bố nói rằng ông ấy đang tìm người, và anh chàng của con, cậu Will đó, đã bảo với ông ấy là bố đang cần việc. Chiều nay bố qua đnóh tbràìy cho ông ấy những việc bố có thể làm, giờ bố thử việc một tháng. Bắt đầu từ thứ Bảy này." "Bố sẽ làm việc cho bố Will?"

    "Ừ, ông ấy bảo họ phải thử việc một tháng, để hoàn thành các thủ tục hợp lệ, nhưng ông ấy bảo ông ấy chẳng nghĩ có lý do gì mà bố không được nhận vào làm chính thức cả."

    "Thật... thật tuyệt," tôi nói. Tôi cảm thấy chao đảo lạ kỳ trước thông tin này. "Con không hề biết bố sắp có việc."

    "Bố cũng thế. Nhưng chuyện này thật tuyệt vời. Ông ấy là kẻ rất biết giá trị, Lou ạ. Bố nói với ông ấy về gỗ sồi xanh, và ông ấy chỉ cho bố một phần công việc mà người trước bố đã làm. Con không tin nổi đâu. Ngạc nhiên lắm. Ông ấy bảo ông ấy rất ấn tượng với khả năng của bố."

    Bố đầy sinh khí, sôi nổi hơn nhiều so với mấy tháng qua.

    Mẹ đã xuất hiện sau lưng bố. Mẹ thoa son môi, đi đôi giày cao gót xinh xắn. "Có một chiếc xe tải. Bố con có xe tải riêng. Lương cũng tốt lắm, Lou ạ. Thậm chí còn nhiều hơn lương bố con nhận được ở xưởng đồ gỗ gia dụng một chút cơ."

    Mẹ ngước nhìn bố như thể bố là một người hùng chiến trận. Khi mẹ quay sang tôi, gương mặt mẹ nói với tôi rằng tôi cũng nên làm điều tương tự. Gương mặt mẹ có thể chứa hàng triệu thông điệp, và gương mặt lúc này bảo tôi rằng bố cần được tưởng thưởng trong khoảnh khắc này.

    "Tuyệt quá bố ạ. Thật sự đấy." Tôi bước tới ôm bố.

    "À, con phải cảm ơn Will đấy nhé. Thật là một anh bạn cừ. Bố vô cùng biết ơn khi cậu ấy nghĩ cho bố."

    Tôi nghe tiếng họ rời khỏi nhà, tiếng mẹ lầm rầm trước gương trong sảnh, tiếng bố liên tục đảm bảo rằng trông mẹ rất đẹp, rằng mẹ lúc nào cũng xinh tươi. Tôi nghe tiếng bố vỗ túi chìa khóa, ví, tiền xu, rồi sau đó là thoáng tiếng cười giòn tan. Rồi cánh cửa sập lại, tôi nghe tiếng xe lái đi và chỉ còn lại tiếng ti-vi xa xa trong phòng ông ngoại. Tôi ngồi trên cầu thang. Rồi tôi rút điện thoại ra ấn số của Will.

    Mất một lúc anh mới nghe máy. Tôi tưởng tượng anh tiến lại chiếc điện thoại không dây, dùng ngón cái ấn nút.

    "Xin chào."

    "Anh làm phải không?"

    Một thoáng im lặng. "Là cô à, Clark?" "Anh xin việc cho bố tôi à?"

    Tiếng anh nghe hơi hụt hơi. Tôi lơ đãng tự nghĩ không biết anh có đang ngồi ngay ngắn không.

    "Tôi tưởng cô sẽ vui cơ đấy."

    "Tôi rất vui. Chỉ có điều... tôi không biết nữa. Tôi cảm thấy kỳ cục."

    "Cô đừng thấy thế. Bố cô cần việc. Bố tôi cần một người thợ bảo trì công trình có tay nghề cao."

    "Thật ư?" Tôi không thể loại bỏ nỗi hoài nghi khỏi giọng nói của mình.

    "Sao cơ?"

    "Chuyện này không liên quan gì tới chuyện hôm trước anh hỏi tôi hả? Về ông ấy với người phụ nữ khác?"

    Anh im lặng hồi lâu. Tôi như thấy anh ở đó, trong phòng khách khu nhà phụ, nhìn ra những ô cửa sổ kiểu Pháp.

    Khi cất tiếng, giọng anh rất thận trọng. "Cô nghĩ tôi đã hăm dọa bố tôi bắt giao việc cho bố cô à?"

    Nói như thế nghe thật cường điệu.

    Tôi lại ngồi xuống. "Xin lỗi. Tôi không biết. Chỉ là hơi kỳ cục thôi. Vấn đề thời điểm. Còn lại thì mọi thứ rất tốt."

    "Vậy thì hãy vui lên, Clark. Đó là tin tốt lành. Bố cô sẽ làm giỏi. Và điều đó có nghĩa..." Anh ngần ngừ.

    "Có nghĩa là gì?"

    "... một ngày nào đó cô có thể ra đi, dang rộng đôi cánh của mình, mà không còn phải lo lắng làm sao bố mẹ cô có thể chăm sóc bản thân."

    Câu nói ấy cứ như một cú thọi vào tôi. Tôi cảm thấy phổi mình cạn kiệt không khí.

    "Lou?"

    "Vâng?"

    "Cô im lặng quá."

    "Tôi..." Tôi nuốt khan. "Xin lỗi. Lơ đãng một chút. Ông ngoại vừa gọi. Nhưng vâng. Cảm ơn vì... vì đã nói giúp bố tôi một tiếng." Tôi phải gác máy. Bởi vì bỗng nhiên cổ họng tôi nghẹn đắng, tôi chẳng biết mình có thể nói gì khác nữa.

    Tôi tản bộ tới quán rượu. Không gian ngào ngạt mùi hoa, mọi người mỉm cười với tôi khi lướt qua trên phố. Tôi chẳng thể chào đáp lại lấy một lần. Tôi chỉ biết tôi không thể ở trong nhà một mình với bao ý nghĩ bộn bề. Tôi thấy cả hội Triathlon Terrors đang ngồi trong quán rượu ngoài trời quanh hai cái bàn kéo sát lại nhau trong một góc lâm râm hoa nắng. Có mấy người lịch sự gật đầu chào tôi (không có ai trong số đó là phụ nữ) và Patrick đứng lên, tạo một khoảng trống nhỏ cho tôi ngồi bên anh. Tôi nhận ra tôi thực sự mong có Treena bên cạnh.

    Khu vườn của quán rượu đông nghẹt người, với sự hòa trộn kỳ cục đặc trưng của nước Anh của đám sinh viên ồn ào náo nhiệt và đám doanh nhân tan sở đã cởi bỏ áo khoác. Quán rượu này là địa điểm ưa thích của du khách, thế nên ngoài giọng Anh còn rất nhiều thứ tiếng khác - Ý, Pháp, Mỹ. Qua bức tường phía Tây, người ta có thể thấy tòa lâu đài, thế nên như bao mùa hè khác, du khách đang xếp hàng chụp ảnh với hình lâu đài xa xa phía sau lưng.

    "Anh không nghĩ em tới. Em uống gì nhé?"

    "Đợi lát nữa." Tôi chỉ muốn ngồi đó, ngả đầu lên vai Patrick. Tôi muốn có cảm giác như trước đây - bình thường, không vướng bận. Tôi không muốn nghĩ về cái chết.

    "Hôm nay anh phá kỷ lục thời gian của mình đấy. Mười lăm dặm chỉ mất 79.2 phút." "Tuyệt quá."

    "Có công mài sắt có ngày nên kim nhỉ, Pat?" một người đế vào. Patrick đấm hai tay vào không trung và hú lên.

    "Tuyệt diệu quá. Thật đó." Tôi cố tỏ ra vui sướng vì anh.

    Tôi uống một ly, rồi một ly nữa. Tôi nghe họ nói về tổng số dặm đường đi được, những vụ ngã trầy gối và những lần cơ thể bị giảm nhiệt khi bơi. Tôi quay ra, nhìn những người trong quán rượu, tự hỏi cuộc đời họ ra sao. Mỗi người họ sẽ có bao nhiêu sự kiện trong gia đình riêng - tình yêu và mất mát với con cái, những bí mật đen tối, hạnh phúc vô bờ và thử thách khắc nghiệt. Nếu họ có thể gác nó lại, nếu họ có thể bình thản thưởng thức hoàng hôn vàng nắng trong quán rượu ngoài trời, thì hẳn nhiên tôi cũng nên làm thế.

    Tôi kể với Patrick về công việc của bố. Mặt anh có cái vẻ mà tôi nghĩ hơi giống nét mặt tôi khi nghe chuyện này. Tôi phải nhắc lại để anh tin chắc anh đã nghe đúng.

    "Thế thì... ấm áp quá. Cả hai bố con đều làm cho anh chàng ấy."

    Tôi muốn kể với anh, tôi thật sự muốn. Tôi muốn giải thích mọi điều mắc kẹt trong cuộc chiến giữ cuộc sống của Will. Tôi muốn kể với anh rằng tôi đang vô cùng sợ hãi vì có cảm giác Will đang cố mua sự tự do cho tôi. Nhưng tôi biết mình chẳng thể nói gì. Nếu nói ra, có thể tôi sẽ làm hỏng hết mọi điều còn lại.

    "Ừm... đó không phải chuyện duy nhất. Anh ấy bảo khi cần em có thể ở lại đó, trong phòng trống. Để vượt qua vấn đề giường chọng ở nhà."

    Patrick nhìn tôi chằm chằm. "Em định sống trong nhà anh ta?"

    "Có thể. Đó là một lời đề nghị dễ chịu, Pat. Anh biết chuyện ở nhà em rồi đấy. Mà anh thì có bao giờ ở đây đâu. Em thích đến nhà anh, nhưng... à, thật lòng, em không thấy giống như ở nhà."

    Anh vẫn nhìn tôi chằm chằm. "Thì hãy biến nó thành nhà mình." "Là sao?"

    "Chuyển tới. Biến nó thành nhà mình. Chuyển đồ đạc của em vào. Mang quần áo sang. Đến lúc chúng ta sống chung rồi còn gì."

    Mãi về sau, khi nghĩ lại chuyệnmđó, tôi ới nhận ra khi nói những lời ấy trông anh thực sự không vui. Không giống một người đàn ông khi cuối cùng cũng nhận ra anh ta không thể sống thiếu bạn gái bên cạnh, và muốn tạo nên sự hòa hợp đầy vui sướng của hai cuộc đời. Trông anh như kẻ bị chơi khăm.

    "Anh thực sự muốn em chuyển tới sống cùng chứ?"

    "Phải. Tất nhiên rồi." Anh xoa tai. "Ý anh là, anh không nói chúng ta cưới xin hay gì cả. Nhưng chúng ta nên sống chung mới phải lẽ, đúng không?"

    "Anh lãng mạn quá."

    "Anh nói thật đấy, Lou. Đến lúc rồi. Lẽ ra phải thế từ nhiều năm rồi, nhưng anh nghĩ chỉ tại anh cứ bận bịu việc này việc nọ. Chuyển tới đi. Mọi chuyện sẽ tốt."

    Anh ôm tôi. "Mọi chuyện sẽ thực sự rất tốt."

    Xung quanh chúng tôi đội Triathlon Terrors đang rì rầm trò chuyện. Có tiếng reo khẽ ồ lên khi một nhóm du khách Nhật Bản chụp được bức hình ưng ý. Chim chóc hót ca, mặt trời lặn xuống, thế gian chuyển màu. Tôi muốn hòa mình vào thế gian ấy, không muốn vùi mình trong căn phòng lặng lẽ, lo lắng cho một chàng trai ngồi xe lăn.

    "Phải," tôi nói. "Rồi sẽ tốt cả."

     
  3. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 17

    Điều tồi tệ nhất trong việc làm người chăm sóc không phải là những điều bạn nghĩ đâu. Đó không phải là nâng đặt hay dọn dẹp, không phải chuyện thuốc thang hay lau chùi, hay mùi thuốc tẩy trùng dù chỉ thoang thoảng nhưng không hiểu sao lúc nào cũng hiện hữu. Thậm chí cũng chẳng phải chuyện mọi người cho rằng bạn làm việc đó chỉ vì bạn thực sự không đủ thông minh để làm việc gì khác. Mà là thực tế khi bạn thật sự gần gũi ai đó suốt cả ngày, bạn sẽ không có cách nào thoát khỏi tâm trạng của họ. Hay đúng hơn là của chính bạn.

    Suốt buổi sáng kể từ lúc tôi nói ra kế hoạch của mình, Will luôn tỏ ra xa lánh tôi. Đó là một thái độ mà người ngoài cuộc không dễ gì hiểu được, nhưng quả thực anh ít nói đùa hơn, bớt đi những lời trò chuyện ngẫu nhiên. Anh chẳng hỏi han gì tôi về nội dung của báo ra hôm nay.

    "Đó là... điều cô muốn làm?" Mắt anh chớp chớp, nhưng mặt anh chẳng biểu lộ điều gì.

    Tôi nhún vai. Rồi tôi gật đầu thật mạnh. Tôi cảm thấy cách phản ứng của mình có vẻ thoái thác một cách trẻ con. "Thật sự tới lúc rồi," tôi nói. "Tôi đã hai bảy."

    Anh nhìn mặt tôi chăm chú. Cằm anh nghiến lại.

    Đột nhiên tôi cảm thấy mệt mỏi không tả nổi. Tôi cảm thấy một khao khát kỳ lạ muốn nói lời xin lỗi mà chẳng hiểu vì điều gì.

    Anh khẽ gật đầu, trưng lên một nụ cười. "Chúc mừng cô đã nghĩ thông mọi sự," anh nói, rồi lăn xe vào nhà bếp.

    Tôi bắt đầu cảm thấy thực sự bực anh. Tôi chưa bao giờ cảm thấy bị ai phán xét như tôi cảm thấy bị Will phán xét lúc này. Cứ như thể tôi trở nên kém thú vị đối với anh khi tôi quyết định ổn định với bạn trai. Kiểu như tôi không còn là dự án phụ ưa thích của anh nữa. Tất nhiên tôi chẳng thể nói ra những điều này, nhưng tôi cũng tỏ thái độ lạnh nhạt với anh như anh đang lạnh nhạt với tôi.

    Nhưng nói thật, điều này quả là mệt mỏi.

    Buổi chiều, có người gõ cửa sau. Tôi vội vã đi xuống hành lang, tay còn ướt nước xà phòng, và mở cửa ra thì thấy một ông mặc suit đen đứng đó, tay xách ca táp.

    "Ồ không. Chúng tôi là Phật tử," tôi nói quả quyết, rồi đóng sầm cửa lại thì ông ta cất tiếng phản đối.

    Hai tuần trước đó, hai người theo đạo Chứng nhân Jehovah đã giữ Will ở cửa sau gần mười lăm phút, trong khi anh cố quay xe trở qua tấm thảm chùi chân. Khi cuối cùng tôi cũng đóng cửa được, họ đã mở hòm thư để viết lại rằng "hơn bất kỳ ai khác Will" nên hiểu điều gì đang chờ đợi ở kiếp sau.

    "À... Tôi tới để gặp ông Traynor, được chứ?" ông ta nói, và tôi thận trọng mở cửa ra. Suốt thời gian tôi làm việc ở dinh thự Granta, chưa từng có ai tới thăm Will qua cửa sau.

    "Để ông ấy vào," Will lên tiếng từ phía sau tôi. "Tôi mời ông ấy tới đấy." Khi thấy tôi vẫn không nhúc nhích, anh nói tiếp, "Không sao đâu, Clark... ông ấy là bạn."

    Ông ta bước qua bậc cửa, đưa tay ra bắt tay tôi. "Michael Lawler," ông nói.

    Ông định nói thêm điều gì thì Will đã lăn xe vào giữa hai chúng tôi, cắt đứt cuộc trò chuyện để nó không thể tiến xa hơn. "Chúng tôi sẽ ở trong phòng khách. Cô có thể pha cà-phê rồi cho chúng tôi ở riêng một lát được không?"

    "Ờ... được."

    Ông Lawler mỉm cười với tôi, một cách hơi kỳ quặc, rồi theo Will đi vào phòng khách. Mấy phút sau, khi tôi mang khay cà-phê vào, họ đang trò chuyện về cricket. Cuộc trò chuyện về chân cẳng, về tốc độ tiếp diễn cho tới khi tôi không còn lý do gì để nấn ná nữa.

    Phủi đám bụi vô hình trên váy, tôi đứng thẳng lên rồi nói, "Được rồi. Tôi sẽ để hai người lại với nhau nhé."

    "Cảm ơn Louisa."

    "Anh chắc anh không muốn thêm gì chứ? Bánh quy chăng?" "Không đâu, cảm ơn Louisa."

    Will chẳng bao giờ gọi tôi là Louisa. Anh chưa bao giờ xua tôi khỏi bất cứ điều gì trước đó.

    Ông Lawler lưu lại khoảng một giờ. Tôi làm việc nhà, rồi quanh quẩn trong bếp, tự hỏi mình có đủ dũng cảm đi nghe lén không. Không. Tôi ngồi xuống, ăn hai cái bánh quy bơ Bourbon, cắn móng tay, nghe tiếng họ rì rầm, tự hỏi tới mười lăm lần là tại sao Will đề nghị ông này không đi cửa trước.

    Ông ấy không giống một bác sĩ hay người tư vấn. Ông ấy có thể là một cố vấn tài chính, nhưng chẳng hiểu sao cảm giác cũng không phải thế. Hiển nhiên ông ấy không giống một nhà vật lý trị liệu, nhà trị liệu hoạt động hay chuyên gia về dinh dưỡng - hoặc một trong những kẻ do chính quyền địa phương thuê ghé qua để tiếp nhận những nhu cầu bất thường của Will. Những người như thế thì có đứng xa cả dặm cũng nhận ra. Trông họ luôn mệt mỏi, nhưng cứ cố tỏ ra hết sức vui tươi. Họ mặc đồ len tối màu, đi giày lười, lái những chiếc xe đóng bụi chở đầy giấy tờ và hộp thiết bị. Ông Lawler thì đi xe BMW màu xanh hải quân. Chiếc xe dòng số 5 láng coóng của ông không phải kiểu xe của chính quyền địa phương.

    Cuối cùng ông Lawler cũng ra về. Ông đóng ca táp, vắt áo khoác lên tay. Vẻ mặt ông không còn tỏ ra lạ lùng nữa.

    Tôi lưu lại trong sảnh vài giây.

    "À. Cô có thể chỉ cho tôi nhà vệ sinh được không?"

    Tôi lặng lẽ chỉ cho ông, rồi đứng đó bồn chồn lo lắng, cho tới khi ông xuất hiện trở lại.

    "Rồi. Mọi việc xong xuôi cả rồi."

    "Cảm ơn Michael." Will không nhìn tôi. "Tôi chờ nghe phản hồi từ ông." "Tôi sẽ liên lạc lại muộn nhất là tuần sau," ông Lawler nói.

    "Email sẽ tốt hơn là thư tay đấy... ít nhất là thời điểm này." "Vâng. Tất nhiên rồi."

    Tôi mở cửa sau cho ông đi ra. Rồi khi Will biến mất trở vào phòng khách, tôi theo ông đi ra sân và nói khẽ, "Thế... ông có phải đi xa không?"

    Quần áo ông được cắt may rất đẹp mắt; nó mang đường cắt sắc sảo của thợ may thành phố, mỗi đường kim mũi chỉ là cả một đống tiền.

    "London, khổ thế đấy. Dù sao cũng mong là giao thông không quá tệ vào giờ này buổi chiều."

    Tôi bước ra theo sau ông. Mặt trời lên cao thế nên tôi phải nheo mắt mới nhìn được ông. "Thế... à... ông sống ở đâu trên London."

    "Phố Regent."

    "Phố Regent ấy hả? Hay nhỉ."

    "Phải. Không phải là một nơi tệ đâu. Đúng thế đấy. Cảm ơn về cà-phê, cô..." "Clark. Louisa Clark."

    Khi đó ông dừng khựng lại nhìn tôi một lát, tôi tự hỏi phải chăng ông đã đoán ra tôi đang nỗ lực một cách vô lý dò xét xem ông là ai.

    "À. Cô Clark," ông nói, nụ cười chuyên nghiệp của ông lại nhanh chóng trưng lên. "Cảm ơn cô nhé."

    Ông cẩn thật đặt ca táp lên ghế sau, trèo vào xe rồi đi mất.

    Tối hôm đó, trên đường từ nhà tôi sang nhà Patrick, tôi ghé vào thư viện. Tôi có thể sử dụng máy tính của anh, nhưng tôi vẫn cảm thấy tôi nên xin phép trước, thế nên cách này có vẻ dễ dàng hơn. Tôi ngồi xuống trước một chiếc máy tính, gõ "Michael Lawler" và "Phố Regent, London" vào công cụ tìm kiếm. Tri thức là sức mạnh, Will, tôi thầm nói với anh trong đầu.

    Có 3290 kết quả, ba kết quả đầu tiên tiết lộ một "Michael Lawler, hành nghề luật sư, chuyên gia về di chúc, thanh toán di sản và ủy quyền luật sư" sống ở trên đúng con phố đó. Tôi nhìn màn hình trân trân mấy phút, rồi tôi gõ lại tên ông, lần này lên công cụ tìm kiếm hình ảnh, và kia là ông, tại một hội nghị bàn tròn nào đó, mặc bộ suit đen - Michael Lawler, chuyên gia về di chúc và thanh toán di sản, đúng người đàn ông đã ngồi nói chuyện một giờ với Will.

    Tối đó tôi chuyển đồ tới nhà Patrick, trong khoảng một tiếng rưỡi từ khi tôi xong việc cho tới khi anh đi chạy. Tôi mang theo mọi thứ trừ cái giường và cái rèm cửa mới. Anh lái xe tới, chúng tôi chất đồ vào bịch ni-lông. Chỉ đi hai chuyến là hết đồ, trừ sách vở hồi học sinh tôi để lại trên gác xép.

    Mẹ khóc; mẹ nghĩ bà đã ép tôi phải đi.

    "Vì Chúa, em yêu. Đã đến lúc con bước đi rồi. Nó đã hai bảy tuổi," bố nói với mẹ.

    "Nó vẫn là con của em," mẹ nói, ấn hai hộp bánh trái cây và một giỏ đựng đồ phòng tắm vào tay tôi.

    Tôi chẳng biết phải nói gì với mẹ. Tôi thậm chí không thích bánh trái cây.

    Xếp đặt đồ đạc của tôi vào nhà Patrick dễ đến kỳ lạ. Nói cho cùng, anh hầu như chẳng có đồ đạc gì, và tôi cũng chẳng có là bao sau chừng ấy năm sống trên gác lửng. Thứ duy nhất chúng tôi tranh cãi là bộ sưu tập CD của tôi, rõ ràng nó chỉ có thể để chung với bộ sưu tập của anh một khi tôi đã dán nhãn lên bìa sau và sắp xếp theo alphabet.

    "Tự nhiên như ở nhà nhé," anh luôn miệng nói, như thể tôi là khách. Chúng tôi căng thẳng, ngượng nghịu với nhau một cách kỳ lạ, giống như hai người mới hẹn hò lần đầu. Khi tôi mở đồ, anh mang tới cho tôi một tách trà rồi nói, "Anh nghĩ đây sẽ là tách của em." Anh chỉ cho tôi chỗ để mọi thứ trong bếp rồi nói đi nói lại, "Tất nhiên em thích để đồ đạc sao thì để. Anh không thấy phiền gì đâu."

    Anh đã dọn hai tủ ngăn kéo và tủ quần áo trong phòng ngủ phụ. Hai tủ ngăn kéo còn lại đựng đầy đồ tập của anh. Tôi không biết anh có nhiều đồ tập hãng Lycra và áo nỉ tới vậy. Đống đồ sắc màu rực rỡ của tôi chỉ chiếm một khoảng nhỏ trong tủ ngăn kéo, và đám móc sắt trống trơn ủ dột đu đưa trong tủ áo.

    Tôi vừa nhìn tủ đồ vừa nói, "Em phải mua thêm quần áo thì mới mong lấp đầy được."

    Anh cười căng thẳng. "Cái gì đó?"

    Anh nhìn tờ lịch của tôi treo trên tường trong phòng ngủ phụ, với những ý tưởng ghi bằng mực xanh và những việc đã lên kế hoạch chỉn chu ghi bằng mực đen. Với những việc đã hoàn thành (nghe nhạc, nếm rượu), tôi vẽ một mặt cười bên cạnh. Với những việc thất bại (xem đua ngựa, khu triển lãm tranh), nó vẫn trống trơn. Hai tuần tiếp theo chỉ có mấy ngày được đánh dấu - Will đã chán ngấy những nơi lân cận, mà tôi vẫn chưa thuyết phục được anh đi đâu xa xa. Tôi liếc sang Patrick. Tôi thấy anh đang săm soi ngày 12 tháng Tám, lúc này nó được gạch chân cùng một loạt dấu chấm cảm màu đen.

    "À... chỉ là để nhắc nhở em về công việc thôi mà." "Em không nghĩ họ sẽ ký tiếp hợp đồng với em à?" "Em không biết, Patrick."

    Patrick lấy cây bút trong hộp ra, nhìn sang tháng tiếp theo, rồi nguệch ngoạc xuống dưới tuần 28: "Tới lúc bắt đầu tìm việc."

    "Như thế em sẽ chuẩn bị được tinh thần cho dù có điều gì xảy ra," anh nói.

    Anh hôn tôi rồi bỏ tôi lại một mình.

    Tôi đặt đồ vào phòng tắm thật cẩn thận, để dao cạo, kem dưỡng ẩm, tampon vào tủ gương của anh. Tôi xếp mấy cuốn sách thành hàng gọn ghẽ dọc sàn nhà bên dưới cửa sổ phòng ngủ phụ, kể cả những cuốn mới tinh mà Will vừa đặt hàng trên Amazon cho tôi. Patrick hứa sẽ đặt mua giá sách khi có chút thời gian rỗi.

    Thế rồi khi anh đi chạy, tôi ngồi xuống, nhìn qua khu công nghiệp, về phía tòa lâu đài, luyện tập nói từ nhà thật khẽ.

    Tôi chẳng bao giờ biết giữ bí mật. Treena luôn bảo tôi vừa toan nói dối thì đã lộ hết rồi. Bố mẹ tôi tới giờ vẫn còn châm chọc lần tôi viết đơn xin nghỉ học cho chính mình sau khi cúp giờ. "Thưa Cô Trowbridge," bố mẹ đọc. "Xin phép cô cho Louisa Clark nghỉ phép hôm nay vì em đang vô cùng khổ sở với vấn đề phụ nữ." Hôm đó bố đã phải cố giữ nét mặt đạo mạo dù trong lòng ông rất muốn mắng cho tôi một trận.

    Giữ kín kế hoạch của Will với gia đình tôi là một chuyện - tôi giỏi giữ bí mật với bố mẹ tôi (nói cho cùng đó là kỹ năng ai cũng học được từ những năm thiếu thời) - nhưng che giấu nỗi lo lắng trong lòng lại là một điều hoàn toàn khác.

    Mấy đêm sau đó, tôi cố nghĩ xem Will đang định làm gì, và tôi phải làm gì để ngăn anh, đầu óc tôi căng ra ngay cả khi Patrick và tôi đang nói chuyện, hay đang nấu ăn với nhau trong gian bếp nhỏ. (Tôi đã khám phá ra một số điều mới về anh - ví như, anh thực sự đã biết hàng trăm cách chế biến ức gà tây khác nhau.) Tới đêm, chúng tôi làm tình - việc này gần như là cưỡng ép, như thể chúng tôi phải tận dụng cho hết mọi tiện ích khi được tự do. Nhưng ngay khi anh chìm vào giấc ngủ, tôi lại đắm trong những suy nghĩ của riêng mình.

    Chỉ còn lại bảy tuần nữa thôi.

    Và Will đang lên kế hoạch, dù tôi chẳng có kế hoạch gì.

    Tuần tiếp theo, không rõ Will có để ý thấy tôi đang lo lắng không, nhưng anh chẳng nói gì. Chúng tôi nhịp nhàng làm những công việc thường ngày - tôi chở anh dạo quanh đồng quê, nấu ăn cho anh, trông coi anh khi chúng tôi ở nhà. Anh không bao giờ trêu đùa về Ông Chạy nữa.

    Tôi nói với anh về những cuốn sách anh mới giới thiệu lần gần đây nhất: chúng tôi đã đọc The English Patient (Bệnh nhân người Anh) (tôi mê cuốn này), và một cuốn trinh thám của Thụy Điển (tôi không thích nó). Chúng tôi quan tâm tới nhau theo kiểu cực kỳ lịch sự. Tôi nhớ những lời nói khó nghe, nhớ tính gắt gỏng của anh - sự vắng mặt của những điều này chỉ làm gia tăng thêm cảm giác đe dọa đang treo lù lù trên đầu tôi.

    Nathan quan sát cả hai chúng tôi, như thể ông đang quan sát một loài sinh vật mới lạ.

    "Hai người cãi nhau đấy à?" một hôm ông hỏi tôi trong bếp, khi tôi đang gỡ hàng tạp phẩm mới mua.

    "Tốt nhất ông nên hỏi anh ấy," tôi nói. "Cậu ấy nói y như vậy."

    Ông nhìn nghiêng sang tôi, rồi đi vào phòng tắm mở tủ thuốc của Will.

    Trong khi đó, tôi trù trừ ba ngày sau chuyến viếng thăm của ông Michael Lawler rồi mới gọi cho bà Traynor. Tôi hỏi liệu tôi có thể gặp bà ở đâu đó ngoài ngôi nhà này không, và chúng tôi thỏa thuận gặp nhau tại quán cà-phê nhỏ mở ở sân lâu đài. Mỉa mai thay, đó chính là quán cà-phê đã cướp đi công việc của tôi.

    Quán này sang trọng hơn quán Bánh Bơ nhiều - tất cả bàn ghế đều làm bằng gỗ sồi ép và gỗ trắng. Họ phục vụ súp đặc sản nấu bằng rau tươi, còn bánh ngọt thì tuyệt ngon. Ở đây không có cà-phê thường, chỉ có latte, cappuccino và macchiato. Khách hàng chẳng có ai là thợ xây hay những cô gái ở tiệm làm đầu. Tôi ngồi nhấm nháp tách trà, thầm nghĩ về Quý bà Bồ công anh, tự hỏi không biết bà có thấy thoải mái không nếu ngồi đọc báo ở đây mọi buổi sáng.

    "Louisa, xin lỗi tôi tới muộn." Camilla Traynor bước nhanh vào, túi xách cắp dưới tay, mặc áo lụa xám và quần xanh hải quân.

    Tôi chống lại ý định đứng lên. Xưa nay chưa có khi nào nói chuyện với bà mà tôi không cảm thấy giống như mình đang đi phỏng vấn.

    "Tôi bận bịu ở tòa quá."

    "Xin lỗi. Vì đã làm bà mất công mất buổi, ý tôi là thế. Tôi chỉ... à, tôi nghĩ việc này không chần chừ được."

    Bà đưa tay lên, nói gì đó với cô phục vụ, ngay lập tức cô mang tới một ly cappuccino. Rồi bà ngồi xuống đối diện với tôi. Tôi cảm thấy bà cứ nhìn chằm chằm như thể tôi trong suốt.

    "Will đã mời một luật sư tới nhà," tôi nói. "Tôi tìm hiểu ra ông ấy là chuyên gia trong vấn đề di chúc và thanh toán di sản." Tôi chẳng nghĩ được cách nào nhẹ nhàng hơn để mào đầu.

    Trông bà như thể vừa bị ăn bạt tai. Tôi nhận ra một cách muộn màng rằng có thể thực tình bà ấy đã nghĩ tôi có điều gì đó tốt đẹp cần kể.

    "Một luật sư? Cô chắc chứ?"

    "Tôi đã tìm hiểu về ông ấy trên internet. Ông ấy sống ở phố Regent. Ở London," tôi nói thêm một cách không cần thiết. "Tên ông ấy là Michael Lawler."

    Bà chớp mắt liên hồi, như thể cố để tiêu hóa chuyện này. "Will nói với cô chuyện này à?"

    "Không. Tôi không nghĩ anh ấy muốn tôi biết. Tôi... tôi biết tên ông ấy, rồi tìm kiếm thông tin thôi."

    Cà-phê của bà tới. Cô phục vụ đặt tách cà-phê lên bàn trước mặt bà, nhưng bà chừng như không để ý thấy.

    "Bà có muốn gì nữa không ạ?" cô gái hỏi. "Không, cảm ơn."

    "Hôm nay chúng tôi có món đặc biệt là bánh cà-rốt. Chúng tôi tự làm tại đây. Nó được phủ kem tươi rất ngon..." "Không." Bà Traynor gắt. "Cảm ơn cô."

    Cô gái đứng đó đủ lâu để cho chúng tôi biết rằng cô bực mình, rồi cô bỏ đi, cuốn sổ tung tẩy liên hồi trên tay.

    "Tôi xin lỗi," tôi nói. "Bà đã bảo từ trước là tôi nên kể cho bà bất cứ chuyện gì quan trọng. Tôi thức suốt nửa đêm cố nghĩ xem mình có nên nói gì không."

    Mặt bà cắt không ra giọt máu. Tôi biết bà cảm thấy thế nào.

    "Nó cảm thấy trong người thế nào? Cô đã... cô đã nghĩ được thêm ý tưởng gì chưa? Đi chơi ấy?"

    "Anh ấy không thích." Tôi kể với bà về chuyện Paris, về danh sách những thứ tôi đã soạn ra.

    Trong suốt quá trình tôi kể, tôi thấy trí óc bà luôn làm việc nhanh hơn tôi, tính toán, ước định.

    "Bất cứ nơi nào," cuối cùng bà nói. "Tôi sẽ chi trả. Cô muốn đi đâu cũng được. Tôi sẽ trả cho cô. Cả Nathan nữa. Chỉ cần... chỉ cần xem cô có thể làm nó đồng ý không thôi."

    Tôi gật đầu.

    "Có điều này cô có thể suy nghĩ... hãy tìm cách cho chúng tôi thêm thời gian.

    Tôi sẽ trả lương cho cô trước sáu tháng, chắc chắn đấy." "Đó... đó thật tình không phải vấn đề."

    Chúng tôi lặng lẽ uống nốt tách cà-phê, cả hai cùng chìm trong những suy nghĩ riêng tư. Khi lén quan sát bà, tôi để ý thấy mái tóc hoàn mỹ của bà giờ đã ngả hoa râm, đôi mắt bà cũng thâm quầng như mắt tôi. Tôi nhận ra tôi chẳng hề cảm thấy dễ chịu hơn sau khi kể chuyện với bà, sau khi trút nỗi lo âu chất ngất trong lòng tôi sang bà - nhưng tôi có lựa chọn nào khác đâu? Bức tường thành ngày qua ngày lại cao lên. Tiếng đồng hồ điểm đúng hai giờ dường như lôi bà ra khỏi cảm giác chết lặng.

    "Tôi phải quay lại đi làm đây. Hãy nói cho tôi biết bất cứ điều gì mà cô... cô có thể nghĩ ra, Louisa. Chắc sẽ tốt hơn nếu chúng ta nói những chuyện này bên ngoài khu nhà phụ ấy."

    Tôi đứng dậy. "À," tôi nói, "bà cần lấy số mới của tôi. Tôi vừa chuyển nhà." Khi bà thò tay vào túi lấy bút, tôi nói thêm, "Tôi chuyển sang ở với Patrick... bạn trai tôi."

    Tôi không biết tại sao tin này khiến bà vô cùng ngạc nhiên. Bà tỏ vẻ kinh ngạc, mãi mới đưa cây bút cho tôi.

    "Tôi không biết cô có bạn trai đấy." "Tôi không biết tôi cần nói với bà."

    Bà đứng đó, một tay đặt trên bàn. "Hôm trước Will bảo với tôi rằng cô... nó nghĩ cô sẽ chuyển tới sống ở khu nhà phụ. Vào dịp cuối tuần."

    Tôi nguệch ngoạc số nhà Patrick.

    "À, tôi nghĩ mọi người sẽ thấy dễ hiểu hơn khi tôi chuyển tới sống cùng Patrick." Tôi đưa cho bà mảnh giấy. "Nhưng tôi ở không xa đâu. Ngay bên cạnh khu công nghiệp thôi. Chuyện này không ảnh hưởng gì tới thời gian làm việc. Cả chuyện đi làm đúng giờ nữa."

    Chúng tôi đứng im lặng. Bà Traynor có vẻ rất bối rối, tay vuốt tóc liên hồi, rồi lướt xuống chiếc dây chuyền trên cổ. Cuối cùng chừng như chẳng đặng đừng, bà thốt ra lời, "Cô có phiền hà gì không nếu chờ đợi một chút? Chỉ mấy tuần thôi?"

    "Sao cơ ạ?"

    "Will... Tôi nghĩ Will rất thích cô." Bà cắn môi. "Tôi thấy... tôi thấy chuyện này khiến mọi chuyện xấu đi."

    "Khoan đã. Bà đang nói rằng lẽ ra tôi không nên chuyển tới sống cùng bạn trai?"

    "Tôi chỉ nói rằng thời điểm này là không lý tưởng. Will đang trong trạng thái hết sức dễ tổn thương. Tất cả chúng ta đang làm hết sức để khiến nó lạc quan... thế mà cô..."

    "Tôi làm sao cơ?" Tôi thấy cô phục vụ đang quan sát chúng tôi, cuốn sổ vẫn còn trên tay. "Tôi làm sao chứ? Dám có một cuộc sống khác ngoài công việc ư?"

    Bà hạ giọng. "Tôi đang làm mọi thứ có thể, Louisa, để ngăn... chuyện này. Cô biết nhiệm vụ chúng ta đang đối diện rồi đấy. Và tôi chỉ nói rằng dựa trên thực tế là nó rất thích cô, tôi ước gì cô chờ đợi thêm một chút nữa trước khi cô quẳng... niềm hạnh phúc của cô vào mặt nó."

    Tôi không tin nổi vào tai mình nữa. Tôi thấy mặt mình nóng bừng, tôi phải hít một hơi thật sâu rồi mới nói tiếp được.

    "Sao bà dám bảo tôi có thể làm việc gì đó làm tổn thương tình cảm của Will. Tôi đã làm hết khả năng," tôi rít lên. "Tôi đã làm mọi việc tôi có thể nghĩ ra. Tôi đã nghĩ bao ý tưởng, đưa anh ấy ra ngoài, nói chuyện với anh ấy, đọc cho anh ấy nghe, chăm sóc anh ấy." Những lời cuối cùng như bùng nổ trong ngực tôi. "Tôi đã chùi rửa cho anh ấy. Tôi đã thay ống thông tiểu cho anh ấy. Tôi làm anh ấy cười. Tôi làm nhiều hơn cả gia đình chết giẫm nhà bà làm."

    Bà Traynor đứng sững sờ. Bà kéo người thẳng thớm lại, cắp túi xách vào tay. "Tôi nghĩ có lẽ cuộc nói chuyện này kết thúc rồi, cô Clark."

    "Phải. Phải đấy bà Traynor. Tôi nghĩ có lẽ là thế thật." Bà quay đi, bước nhanh ra khỏi quán cà-phê.

    Khi cánh cửa đóng sầm lại, tôi nhận ra mình đang run lẩy bẩy.

    Cuộc nói chuyện với bà Traynor cứ đeo bám tôi suốt mấy ngày sau. Tôi cứ nghe văng vẳng bên tai lời bà nói, cái ý tưởng rằng tôi đã ném hạnh phúc của mình vào mặt anh. Tôi không nghĩ Will có thể thấy tổn thương trước bất cứ việc gì tôi làm. Khi anh không tán thành quyết định chuyển tới sống cùng Patrick của tôi, tôi đã nghĩ đó là vì anh không thích Patrick chứ không phải vì tình cảm nào đó anh dành cho tôi. Quan trọng hơn, tôi nghĩ mình chẳng tỏ ra sung sướng chút nào.

    Ở nhà, tôi không thể xóa bỏ cảm giác lo âu. Nó giống như một một dòng suối nhỏ róc rách chảy qua tôi, lan tỏa vào mọi thứ tôi làm. Tôi hỏi Patrick, "Chúng ta có sống thế này không nếu em gái em không cần phòng của em nhỉ?"

    Anh nhìn tôi như thể tôi là đứa mất trí. Anh vươn người tới kéo tôi vào lòng, hôn lên đỉnh đầu tôi. Rồi anh liếc xuống. "Em có nhất thiết phải mặc pyjama không? Anh chẳng thích em mặc pyjama."

    "Nó thoải mái mà."

    "Trông nó như quần của mẹ anh vậy."

    "Không có chuyện đêm nào em cũng mặc áo nịt chỉ để làm anh hài lòng đâu nhé. Anh chưa trả lời câu hỏi của em."

    "Anh không biết. Có lẽ. Có."

    "Nhưng chúng ta chưa bao giờ nói về chuyện này, phải không?"

    "Lou, hầu hết mọi người tới sống cùng nhau vì đó là chuyện hiển nhiên. Đó là vì ta yêu ai đó và vì những lợi ích tài chính và thực tế."

    "Em chỉ... không muốn anh nghĩ em làm nên chuyện này. Em không muốn cảm thấy như thể em làm ra chuyện này."

    Anh thở dài, thẳng người dựa lưng vào ghế. "Sao phụ nữ cứ phải nói đi nói lại một chuyện cho tới khi nó trở thành vấn đề trầm trọng thế nhỉ. Anh yêu em, em yêu anh, chúng ta đã ở bên nhau gần bảy năm, nhà bố mẹ em lại không có phòng ngủ. Mọi chuyện đơn giản có thế thôi."

    Nhưng cảm giác lại chẳng đơn giản chút nào.

    Cảm giác như tôi đang sống một cuộc đời mà trước đây tôi chưa từng nghĩ tới.

    Thứ Sáu đó trời mưa cả ngày - những màn mưa nặng hạt ấm áp như thể chúng tôi đang ở miền nhiệt đới, làm cho máng nước chảy ồng ộc và thổi dạt những cánh hoa yếu ớt như đang nghiêng ngả cầu xin. Will nhìn trân trân ra ngoài cửa sổ như chú cún chẳng chịu đi chơi. Nathan đến rồi đi, một chiếc túi nhựa che trên đầu. Will xem một bộ phim tài liệu về chim cánh cụt, rồi sau đó, khi anh vào máy tính, tôi cũng cố làm ra vẻ bận rộn để chúng tôi không phải nói chuyện với nhau. Cảm giác khó chịu giữa chúng tôi thật nặng nề, và việc hai đứa cứ phải ở trong một gian phòng suốt ngày khiến điều đó càng tệ hại hơn.

    Cuối cùng tôi cũng đã bắt đầu hiểu được cảm giác khuây khỏa mà việc lau chùi mang lại. Tôi quét dọn, lau cửa sổ, thay chăn màn. Tôi luôn tay luôn chân. Không có hạt bụi nào thoát khỏi mắt tôi, không mẩu rác nào lọt qua được phân tích pháp y của tôi. Tôi đang dùng bọt tuyết nhúng dấm (mẹ tôi chỉ) để cọ vết gỉ trên vòi nước trong phòng tắm thì nghe thấy Will dừng xe sau lưng tôi.

    "Cô đang làm gì thế?"

    Tôi cúi thấp xuống bồn tắm. Tôi không quay lại. "Tôi đang cọ vòi nước nhà anh."

    Tôi cảm giác anh đang quan sát tôi.

    Sau một lát, anh nói, "Nói lại xem nào." "Gì cơ?"

    "Nói lại điều đó."

    Tôi ngồi thẳng dậy. "Sao, tai anh có vấn đề à? Tôi đang cọ vòi nước nhà anh."

    "Tôi chẳng làm sao cả, tôi chỉ muốn tự cô nghe lại những gì cô nói thôi. Chẳng có lý do gì phải cọ vòi nước nhà tôi cả, Clark. Mẹ tôi không để ý chuyện đó, tôi không bận tâm, mà nó chỉ làm cho phòng tắm tanh như ở cửa hàng cá và khoai tây chiên thôi. Vả lại, giờ tôi muốn đi ra ngoài."

    Tôi hất một lọn tóc ra khỏi mặt. Đúng thật. Không khí rõ là nghe như có mùi cá tuyết.

    "Thôi nào. Cuối cùng trời cũng tạnh mưa rồi. Tôi vừa nói chuyện với bố tôi. Ông bảo ông sẽ đưa chìa khóa cho chúng ta vào lâu đài sau năm giờ, khi du khách đã về hết."

    Tôi không cảm thấy ý tưởng hai chúng tôi nói chuyện phải phép với nhau suốt chặng đường đi dạo quanh sân lâu đài có gì thú vị. Nhưng ý nghĩ được ra khỏi khu nhà phụ này thì quả là hấp dẫn.

    "Được rồi. Cho tôi năm phút. Tôi phải cố tẩy mùi dấm khỏi tay đã."

    Điểm khác nhau giữa một người lớn lên như tôi và một người lớn lên như Will là ít nhiều anh luôn mang ý thức quyền uy. Tôi nghĩ với một người sinh trưởng như anh, có bố mẹ giàu sang, sống trong ngôi nhà lộng lẫy, được đi học ở những trường danh giá, đi ăn ở nhà hàng hạng sang thì người đó luôn có cảm quan rằng mọi thứ tốt đẹp sẽ tới tay mình, rằng vị trí của người đó trên thế gian hiển nhiên là vị trí cao quý.

    Will kể suốt thời thơ ấu anh hay lỉnh vào những khoảng sân trống trơn của tòa lâu đài. Bố anh cho anh nhởn nha ở đó, miễn là không được chạm vào bất cứ thứ gì. Sau 5.30 chiều, khi du khách cuối cùng đã ra về, khi những người làm vườn bắt đầu tỉa cây dọn lá, lao công đi gom rác, quét dọn hộp giấy đồ uống rỗng và vụn kẹo bơ lạc, nó trở thành sân chơi bí mật của riêng anh.

    Khi nghe anh kể chuyện này, tôi tưởng tượng rằng nếu Treena và tôi được tự do trong lâu đài, chỉ riêng hai đứa, thì chúng tôi sướng điên người vì không tin nổi chuyện đó và sẽ xới tung cả chỗ này lên.

    "Tôi đã hôn cô gái đầu tiên trên cây cầu treo kia," anh nói, chậm lại để nhìn cây cầu khi chúng tôi đi dọc lối đi trải sỏi.

    "Khi ấy anh có nói với cô ta nơi này thuộc về anh không?"

    "Không. Có lẽ đáng ra tôi nên nói. Một tuần sau đó cô ấy đã bỏ rơi tôi để chạy theo một anh chàng làm việc trong minimart."

    Tôi quay sang ngạc nhiên nhìn anh. "Không phải Terry Rowlands đấy chứ? Anh chàng có mái tóc đen vuốt keo bóng mượt, có hình xăm trên khuỷu tay ấy?"

    Anh nhướng mày. "Đúng anh ta đấy."

    "Anh ấy vẫn làm ở đó, anh biết không. Ở minimart. Nếu điều đó khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn."

    "Tôi không chắc anh ta có ghen tị gì không với kết cục của tôi," Will nói, và tôi lại thôi không nói gì nữa.

    Thật kỳ lạ khi nhìn tòa lâu đài như thế này, trong lặng lẽ, hai chúng tôi là những người duy nhất ở đó ngoại trừ một người làm vườn lập dị đang ở phía xa xa. Thay vì nhìn chăm chú những vị du khách, bị sao nhãng bởi tiếng nói và đời sống lạ kỳ của họ, tôi thấy có lẽ đây là lần đầu tiên mình nhìn vào chính tòa lâu đài, lần đầu tiên biết đam mê một phần lịch sử của nó. Những bức tường sừng sững đã đứng đó hơn 800 năm. Bao thế hệ đã sinh ra rồi chết đi, bao trái tim đong đầy và mất mát. Giờ đây trong yên lặng, ta hầu như có thể nghe thấy tiếng nói của họ, tiếng bước chân của chính họ trên lối mòn này.

    "Nào, tới lúc tự thú rồi," tôi nói. "Anh đã bao giờ đi bộ quanh đây và giả vờ như mình là một hoàng tử chiến binh chưa?"

    Will nhìn nghiêng sang tôi. "Nói thực ư?" "Tất nhiên rồi."

    "Có chứ. Thậm chí có lần tôi còn mượn một thanh gươm treo trên tường tòa thị chính. Nó nặng cả tấn. Tôi nhớ mình đã sợ chết khiếp rằng tôi sẽ không thể nhấc nó đặt lại lên giá."

    Chúng tôi đã tới mỏm đồi, và từ đây, phía trước con hào, chúng tôi có thể nhìn xuống dải cỏ dài tới tận bức tường phế tích, nơi đánh dấu ranh giới của khuôn viên lâu đài. Phía bên kia mốc ấy là thị trấn, những bảng hiệu sáng đèn neon, xe cộ nối đuôi nhau, tiếng rì rầm báo hiệu thị trấn nhỏ đang vào giờ cao điểm. Trên này không gian vô cùng tĩnh lặng, chỉ có tiếng chim chóc và tiếng rì rì khe khẽ phát ra từ xe của Will.

    Anh thoáng dừng xe lại, quay xe để chúng tôi cùng nhìn xuống sân. "Tôi ngạc nhiên là chúng ta chưa từng gặp nhau đấy," anh nói. "Ý tôi là dạo tôi còn nhỏ ấy mà. Lối đi của chúng ta phải giao nhau chứ nhỉ."

    "Sao lại phải thế? Tôi và anh không sống cùng cộng đồng. Và khi anh tha lôi thanh gươm đi qua chiếc xe đẩy, thì tôi mới là đứa trẻ nằm trong đó."

    "À nhỉ. Tôi quên mất - so với cô thì tôi đã già cóc đế rồi."

    "Tám năm cách biệt xứng đáng để tôi gọi anh là 'chú' rồi," tôi nói. "Ngay từ thời niên thiếu bố tôi đã không bao giờ cho phép tôi đi chơi với một ông chú."

    "Ngay cả khi ông chú ấy sở hữu một tòa lâu đài ư?" "Ồ, hẳn nhiên điều đó sẽ thay đổi mọi thứ chứ."

    Mùi cỏ ngọt ngào dâng lên xung quanh khi chúng tôi tản bộ, bánh xe lăn kin kít qua những vũng nước nhỏ trên lối đi. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm. Cuộc trò chuyện của chúng tôi không được như trước đây, nhưng có lẽ như thế cũng là ngoài mong đợi rồi. Bà Traynor nói đúng - Will luôn cảm thấy thật khó khăn khi chứng kiến người khác bước tiếp đời mình. Tôi lưu ý mình phải suy nghĩ cẩn thận hơn về chuyện những hành động của tôi có thể ảnh hưởng thế nào tới cuộc đời anh. Tôi không muốn tức giận nữa.

    "Tìm đường trong mê cung đi. Bao nhiêu năm rồi tôi chưa đi vào đó."

    Tôi bị lôi tuột lại những ý nghĩ ngày xưa. "Ôi. Không đâu, cám ơn." Tôi liếc nhìn, đột nhiên nhận ra chúng tôi đang ở đâu.

    "Sao chứ, cô sợ lạc à? Thôi nào, Clark. Đó là một thử thách dành cho cô. Thử xem liệu cô có nhớ nổi con đường cô đi vào không, rồi chọn một con đường đi ngược trở lại. Tôi sẽ tính thời gian cho cô. Hồi trước tôi hay chơi trò này lắm."

    Tôi ngoái cổ liếc nhìn lại ngôi nhà. "Thật tình tốt hơn tôi không nên vào." Chỉ nghĩ tới mê cung thôi cũng đủ khiến ruột tôi thắt lại rồi.

    "À. Lại sợ làm liều chứ gì." "Không phải thế."

    "Không sao. Chúng ta sẽ tiếp tục chặng đường nho nhỏ buồn tẻ rồi trở về khu nhà phụ bé tí buồn tẻ."

    Tôi biết anh đang nói đùa. Nhưng có điều gì đó trong giọng nói của anh thực sự chạm vào tim tôi. Tôi nghĩ tới cô Deirdre trên xe buýt, lời bình luận rằng thật tốt khi một trong hai chị em tôi ở lại gia đình. Cuộc đời của tôi luôn nhỏ bé, tham vọng của tôi luôn tầm thường.

    Tôi liếc sang mê cung, bóng tối phủ dày và bờ rào rậm rạp. Tôi đang sống rất lố bịch. Có lẽ bao năm nay tôi đã cư xử một cách lố bịch. Rốt cuộc mọi chuyện cũng qua rồi. Và tôi đang bước tiếp.

    "Chỉ cần nhớ cô rẽ ở đâu, rồi khi ra thì đi ngược lại. Không khó như có vẻ thế đâu. Thật đấy."

    Tôi rời khỏi lối mòn trước khi kịp nghĩ kỹ điều gì. Tôi hít một hơi, bước qua tấm biển cảnh báo "Không dẫn theo trẻ em", bước nhanh vào giữa những bờ giậu tối đen ướt đẫm vẫn còn lưu lại những giọt mưa.

    Chuyện này không quá khó đâu, chuyện này không quá khó đâu, tôi nghe tiếng mình thì thào. Nó chỉ là một dãy hàng rào cũ kỹ. Tôi rẽ phải, rồi rẽ trái qua một ngõ cụt. Tôi lại rẽ phải rồi rẽ trái, và vừa đi tôi vừa nhẩm trong đầu chiều ngược lại của góc tôi vừa rẽ. Phải. Trái. Ngõ cụt. Phải. Trái.

    Tim tôi bắt đầu đập nhanh lên một chút, tôi có thể nghe thấy tiếng mạch máu thùm thụp trong tai. Tôi bắt mình nghĩ tới Will ở phía bên kia hàng rào đang liếc nhìn đồng hồ. Đây là một bài kiểm tra ngu ngốc. Tôi không còn là cô gái ngây thơ ngày ấy nữa. Tôi đã hai bảy tuổi. Tôi sống cùng bạn trai. Tôi có một công việc có trách nhiệm. Tôi là một con người hoàn toàn khác.

    Tôi rẽ, đi thẳng, rồi lại rẽ.

    Thế rồi đột ngột, nỗi sợ hãi trào dâng trong tôi. Tôi nghĩ tôi thấy một ông chạy vụt qua cuối hàng rào. Dù tự nhủ đó chỉ là tưởng tượng, khoảnh khắc trấn an bản thân ấy khiến tôi quên mất lời chỉ dẫn đảo ngược của mình. Phải. Trái. Ngõ cụt. Phải. Phải? Có phải tôi nhớ sai rồi không? Hơi thở tôi thắt lại trong cổ họng. Tôi ép mình đi tiếp, chỉ để nhận ra rằng tôi đã hoàn toàn mất phương hướng. Tôi dừng lại, liếc nhìn bóng đổ xung quanh, cố nghĩ xem hướng tây nằm đâu.

    Khi đứng đó, tôi sực nhận ra rằng tôi không thể làm thế. Tôi không thể cứ đứng yên như vậy. Tôi nhìn quanh, rồi bắt đầu đi vào lối mà tôi nghĩ dẫn về hướng nam. Tôi sẽ ra được. Tôi hai mươi bảy tuổi rồi. Mọi chuyện sẽ ổn. Nhưng rồi tôi nghe thấy giọng họ, tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa châm chọc. Tôi thấy họ, chạy vù vù tới lui ở những khúc cua bờ rào, thấy chân mình chao đảo vì say xỉn trên đôi dép cao gót, cảm giác nhói đau không lẫn vào đâu được khi ngã vào hàng rào, chới với cố đứng cho ngay ngắn.

    "Tôi muốn ra ngoài ngay," tôi đã bảo với họ như vậy, giọng tôi khàn đặc, run rẩy. "Tôi thấy đủ lắm rồi, các cậu."

    Thế rồi họ biến mất cả. Mê cung im lìm, chỉ còn tiếng thì thầm xa xa, có lẽ là tiếng họ ở phía bên kia hàng rào - mà cũng có thể là tiếng gió xào xạc lá.

    "Tôi muốn ra ngoài ngay," tôi đã nói thế, giọng tôi nghe lạ lùng ngay cả với tai tôi. Tôi đã nhìn lên trời cao, đột nhiên choáng váng trước không gian đen ngòm bao la sâu thẳm trên đầu. Rồi tôi giật nảy mình khi một người ôm lấy eo tôi - anh chàng tóc đen. Giờ cậu ta đã đi tới châu Phi.

    "Em chưa được đi," anh ta nói. "Em sẽ làm hỏng trò chơi mất."

    Lúc này tôi đã hiểu rồi, từ cảm giác bàn tay anh ta đặt trên eo tôi. Tôi nhận ra rằng có chút cân bằng đã chao đảo, chút cẩn trọng trong hành vi đã bắt đầu bốc hơi. Thế là tôi phá lên cười, đẩy tay anh ta ra như thể nó là trò đùa, không để lộ cho anh ta biết rằng tôi đã hiểu. Tôi nghe anh ta hú gọi bạn bè. Tôi vùng khỏi anh ta, đột ngột tháo chạy, cố hết sức tìm lối ra, chân tôi lún vào cỏ ướt. Tôi nghe thấy cả đám bọn họ ùa đến quanh tôi, giọng họ gào rú, cơ thể chập chờn, cổ họng tôi thít lại vì hoảng sợ. Tôi quá mất phương hướng, chẳng biết mình đang ở đâu nữa. Những dãy hàng rào cao vút cứ chao đảo, nghiêng ngả về phía tôi. Tôi tiếp tục chạy, lê mình quanh những góc cua, chệnh choạng, lao vào những khoảng trống, cố thoát khỏi tiếng họ. Nhưng chẳng bao giờ thấy được lối ra. Rẽ ở đâu tôi cũng chỉ thấy một hàng rào bất tận khác, một giọng chế giễu khác.

    Tôi loạng choạng lao vào một khoảng trống, thoáng sung sướng vì đã gần tới tự do. Nhưng rồi tôi thấy mình đã trở lại trung tâm mê cung, quay lại đúng nơi mình bắt đầu bỏ chạy. Tôi choáng váng khi thấy tất cả bọn họ đang đứng đó, như thể họ đang chờ tôi.

    "Em đây rồi," một gã nói khi đưa tay chộp lấy tay tôi. "Tớ đã bảo các cậu là em ấy sẵn sàng lắm mà. Lại đây nào, Lou-lou, hôn anh một cái rồi anh chỉ đường ra cho." Giọng gã õng ợt lè nhè.

    "Hôn bọn anh mỗi thằng một cái rồi bọn anh sẽ chỉ đường ra cho." Mặt họ lờ mờ nhân ảnh.

    "Tôi chỉ... tôi chỉ muốn các anh..."

    "Thôi nào, Lou. Em thích anh phải không nào? Em đã ngồi trong lòng anh suốt cả buổi tối. Một nụ hôn thôi. Làm gì mà khó khăn thế?"

    Tôi nghe một tiếng cười khẩy.

    "Thế rồi anh sẽ chỉ cho tôi cách ra chứ?" Giọng tôi nghe thật đáng thương, ngay cả với lỗ tai tôi.

    "Chỉ một nụ thôi." Gã xích lại gần hơn.

    Tôi cảm nhận thấy miệng gã trên miệng mình, một bàn tay bóp đùi tôi. Gã lùi ra, tôi nghe thấy tiếng hơi thở gã quay đi. "Tới lượt Jake."

    Tôi chẳng nhớ lúc ấy mình nói gì nữa. Ai đó nắm cánh tay tôi. Tôi nghe tiếng cười, cảm thấy một bàn tay trên tóc mình, một khuôn miệng nữa trên môi, liên tục, xâm phạm, thế rồi...

    "Will..."

    Lúc này tôi đang khóc thổn thức, vòng tay ôm người. "Will," tôi gọi tên anh, gọi mãi, giọng tôi lạc đi, thoát ra từ đâu đó trong lồng ngực. Tôi nghe giọng anh từ đâu đó xa xa, bên kia hàng rào.

    "Louisa? Louisa, cô ở đâu? Có chuyện gì thế?"

    Tôi đang ở trong góc, xa cái hàng rào ngày xưa ấy hết mức có thể. Nước mắt nhạt nhòa trên mi, vòng tay ôm chặt quanh mình. Tôi không ra ngoài được. Tôi sẽ mắc kẹt ở đây mãi mãi. Sẽ chẳng ai tìm ra tôi.

    "Will..." "Cô ở đâu?"

    Anh xuất hiện ở đó, ngay trước mặt tôi.

    "Tôi xin lỗi," tôi nói, ngước lên, gương mặt tôi vẹo vọ. "Tôi xin lỗi. Tôi không... làm được."

    Anh nhấc cánh tay lên dăm phân - mức cao nhất mà anh xoay xở được. "Ôi Chúa ơi, có chuyện gì...? Lại đây, Clark." Anh tiến tới, rồi liếc nhìn xuống cánh tay với ánh mắt tuyệt vọng.

    "Thứ vô dụng này... Được rồi. Thở đi nào. Lại đây. Thở đi. Chậm thôi."

    Tôi lau mắt. Nhìn thấy anh, nỗi sợ hãi bắt đầu tan biến. Tôi lảo đảo đứng lên, cố tươi tỉnh lại. "Tôi xin lỗi. Tôi... không biết chuyện gì đã xảy ra nữa."

    "Cô bị chứng sợ không gian hẹp à?" Gương mặt anh gần sát bên mặt tôi, khắc khoải lo lắng. "Tôi đã thấy cô không muốn vào đây. Tôi chỉ... tôi chỉ nghĩ cô đang..."

    Tôi nhắm mắt. "Giờ tôi chỉ muốn ra ngoài thôi." "Nắm tay tôi. Chúng ta cùng ra."

    Anh dẫn tôi ra trong ba phút. Anh biết mặt sau của mê cung, anh nói với tôi thế khi chúng tôi ra, giọng anh điềm tĩnh, trấn an. Khi anh còn là một cậu bé, tìm cách ra khỏi mê cung là một thách thức. Tôi siết mấy ngón tay vào các ngón tay anh, cảm thấy hơi ấm của bàn tay anh như thứ gì đầy an ủi. Tôi thấy mình thật ngớ ngẩn khi nhận ra rằng lối đi vào mà tôi thường qua lại bấy nay thật sự rất gần.

    Chúng tôi dừng lại bên cạnh một chiếc ghế dài ngay bên ngoài mê cung, tôi lục sau lưng ghế anh lấy một tờ khăn giấy. Chúng tôi ngồi im lặng, tôi ngồi ở mép ghế, bên cạnh anh, cả hai chúng tôi chờ đợi cho tôi hết nấc.

    Anh ngồi đó, len lén nhìn tôi.

    "Nào...?" cuối cùng anh lên tiếng, khi tôi đã tỏ ra có thể cất tiếng mà không òa khóc nữa. "Cô muốn kể cho tôi nghe có chuyện gì chứ?"

    Tôi vò khăn giấy trong tay. "Tôi không thể." Anh mím môi.

    Tôi nuốt vào. "Không phải vì anh đâu," tôi vội nói. "Tôi chưa từng nói với ai về... Chuyện đó... chuyện đó thật ngu ngốc. Xảy ra lâu lắm rồi. Tôi đã không nghĩ... tôi sẽ..."

    Tôi thấy anh nhìn mình chăm chú, và ước anh đừng nhìn nữa. Tay tôi sẽ không ngừng run lẩy bẩy, và ruột tôi như triệu lần thắt lại.

    Tôi lắc đầu, cố nói với anh rằng có những điều tôi không thể kể ra. Tôi muốn lại được nắm tay anh, nhưng tôi không dám. Tôi cảm nhận được cái nhìn khắc khoải của anh, nghe được những câu hỏi không cất thành lời.

    Phía dưới chúng tôi, hai chiếc xe tấp lại bên cổng. Hai người bước ra rồi ôm nhau, từ đây thì không thể nhìn ra họ là ai. Họ đứng đó vài phút, có lẽ chuyện trò với nhau, rồi ai lên xe nấy lái về hai hướng. Tôi quan sát họ nhưng chẳng nghĩ được gì. Tâm trí tôi như ngưng đọng. Tôi chẳng biết phải nói gì thêm nữa.

    "Được rồi. Có một điều này," cuối cùng anh nói. Tôi quay sang, nhưng anh không nhìn tôi. "Tôi sẽ kể với cô một điều mà tôi chưa bao giờ kể với ai. Được chưa?"

    "Được." Tôi vò tờ khăn giấy tròn xoe trong tay, chờ đợi. Anh hít một hơi thật sâu.

    "Tôi vô cùng, vô cùng sợ hãi khi nghĩ chuyện này sẽ đi tới đâu." Anh để câu nói ấy lơ lửng trong không khí giữa chúng tôi, rồi với giọng trầm thấp, bình tĩnh, anh nói tiếp. "Tôi biết hầu hết mọi người đều nghĩ sống như tôi là điều tồi tệ nhất có thể xảy ra rồi. Nhưng mọi chuyện có thể trở nên tồi tệ hơn. Sau này tôi có thể không tự mình thở được nữa, không nói được nữa. Tôi có thể gặp vấn đề lưu thông máu dẫn đến phải cắt cụt chân tay. Tôi có thể phải nằm viện vô thời hạn. Thế này chẳng thể gọi là sống được, Clark. Nhưng khi nghĩ mọi chuyện còn có thể tồi tệ hơn bao nhiêu - nhiều đêm nằm trên giường mà tôi không sao thở nổi."

    Anh nuốt vào. "Và cô biết không? Chẳng ai muốn nghe những điều này cả. Chẳng ai muốn nghe người khác nói về nỗi lo âu, cơn đau, nỗi sợ chết trong một đợt nhiễm trùng ngớ ngẩn bất thần nào đó. Không ai muốn biết cảm giác thế nào khi biết ta không bao giờ làm tình được nữa, không bao giờ được ăn món ăn do chính tay mình nấu nữa, không bao giờ được ôm con cái trong tay. Không ai muốn biết đôi khi tôi cảm thấy chứng sợ không gian hẹp hành hạ khủng khiếp khi ngồi trong chiếc ghế này, tôi chỉ muốn tru lên như một gã điên khi nghĩ lại phải ngồi thêm một ngày nữa trên nó. Mẹ tôi thì rày nắng mai mưa, bà không thể tha thứ cho tôi vì tôi vẫn yêu bố. Em gái tôi căm thù tôi vì một lần nữa tôi lại phủ bóng lên cuộc đời nó - và vì bệnh tình của tôi khiến nó không thể ra mặt ghét tôi, như nó vẫn ghét từ hồi nhỏ. Bố tôi chỉ muốn mọi chuyện tan biến hết. Rốt cuộc, họ muốn nhìn vào mặt tươi sáng. Họ cần tôi nhìn vào mặt tươi sáng."

    Anh ngừng lại. "Họ muốn tin rằng thật sự có một mặt tươi sáng." Tôi chớp mắt trước màn đêm. "Tôi có như thế không?" tôi nói khẽ.

    "Cô, Clark," anh nhìn xuống đôi tay, "là người duy nhất tôi có thể nói chuyện kể từ khi tôi rơi vào chuyện khốn kiếp này."

    Thế là tôi kể với anh.

    Tôi nắm tay anh, bàn tay đã đưa tôi ra khỏi mê cung, tôi nhìn xuống chân, hít một hơi, rồi kể với anh mọi chuyện đêm đó, kể rằng họ đã cười nhạo tôi, trêu chọc tôi vì quá say xỉn và phê thuốc, tôi không biết trời đất gì nữa và sau này em gái tôi nói có khi như thế lại tốt, tôi chẳng nhớ họ đã làm gì, nhưng nửa giờ đồng hồ vô thức ấy lại ám ảnh tôi mãi mãi. Tôi làm đầy nó, đúng thế. Tôi làm đầy khoảng thời gian ấy bằng tiếng cười của bọn họ, cơ thể và lời lẽ. Tôi làm đầy bằng nỗi xấu hổ của chính tôi. Tôi nói với anh rằng đi đâu trong thị trấn tôi cũng nhìn thấy mặt họ, rằng tôi thấy dễ chịu với Patrick và bố mẹ tôi cùng cuộc sống nhỏ bé này, bất chấp bao nhiêu vấn đề tồn đọng và giới hạn. Tất cả khiến tôi cảm thấy an toàn.

    Khi chúng tôi ngừng lời, trời đã tối sẫm, có mười bốn tin nhắn trong điện thoại của tôi hỏi xem chúng tôi đang ở đâu.

    "Cô không cần tôi phải bảo đó không phải lỗi của cô," anh nói khẽ. Trên cao, bầu trời trở nên bao la vô định.

    Tôi vò khăn giấy trong tay. "Vâng. Ừm. Tôi vẫn cảm thấy... mình có trách nhiệm. Tôi uống quá nhiều để phô trương ra đám đông như thế. Tôi đã tán tỉnh thái quá. Tôi..."

    "Không. Trách nhiệm thuộc về họ."

    Chưa một ai từng nói to những lời ấy với tôi. Ngay cả ánh mắt thương cảm của Treena cũng thầm ẩn chứa đôi lời trách móc. Ôi trời, nếu chị có thể say xỉn và lố bịch với những gã chẳng quen biết thì...

    Mấy ngón tay anh siết chặt tay tôi. Một cử chỉ yếu ớt, nhưng lại rất rõ ràng. "Louisa. Đó không phải lỗi của cô."

    Giờ tôi lại khóc. Nhưng lần này không phải tiếng thổn thức. Lần này nước mắt tôi rơi lặng lẽ, nhưng giọt nước mắt ấy nói cho tôi biết có điều gì nữa đang rời khỏi tôi. Tội lỗi. Nỗi sợ. Mấy điều nữa mà tôi chưa thể gọi tên. Tôi nhẹ nhàng ngả đầu lên vai anh và anh nghiêng đầu cho tới khi nó đặt được lên đầu tôi.

    "Rồi. Cô đang nghe tôi đấy chứ?" Tôi lầm bầm một chữ có.

    "Thế tôi sẽ kể cho cô một chuyện vui," anh nói, rồi chờ đợi, như thể anh muốn chắc tôi đã chú ý đến anh.

    "Một số sai lầm... có hậu quả hơn những sai lầm khác. Nhưng cô không được để đêm ấy trở thành một thứ định hình con người mình." Tôi cảm nhận đầu anh tựa lên đầu tôi.

    "Nếu được lựa chọn thì cô, Clark, sẽ không để điều đó xảy ra."

    Tôi thở hắt ra, run rẩy. Chúng tôi cùng ngồi yên lặng, để lời anh thấm vào lòng. Tôi có thể ngồi như thế suốt đêm, bên trên toàn thể thế gian, hơi ấm của tay Will trong tay tôi, cảm thấy phần tồi tệ nhất trong con người mình từ từ tan biến.

    "Chúng ta nên về thôi," cuối cùng anh nói. "Trước khi họ gọi một đội tìm kiếm."

    Tôi thả tay anh ra rồi đứng dậy, hơi miễn cưỡng, cảm thấy gió lạnh thổi qua da mình. Thế rồi, thật khoa trương, tôi giơ hai tay lên trời cao. Tôi để các ngón tay duỗi thẳng trong gió đêm, nỗi căng thẳng của bao tuần, bao tháng, có lẽ là bao năm, nhẹ đi phần nào, rồi tôi hít một hơi thật sâu.

    Phía dưới tôi, ánh đèn thị trấn nhấp nháy, một vòng tròn sáng giữa bao la đồng quê đen thẫm bên dưới chúng tôi. Tôi quay lại phía anh. "Will này?" "Sao cơ?"

    Tôi chẳng thấy rõ anh trong ánh sáng mờ ảo, nhưng tôi biết anh đang nhìn tôi. "Cảm ơn anh. Cảm ơn anh vì đã đến tìm tôi."

    Anh lắc đầu rồi quay xe lên lối mòn.

     
  4. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 18

    "Công viên Disneyland được đấy."

    "Tôi đã nói với anh rồi mà, không trò chơi mạo hiểm."

    "Tôi biết cô đã nói thế, nhưng đâu phải chỉ có trò chơi cảm giác mạnh và đu quay hình cái tách. Ở Florida còn có nhiều rạp chiếu phim và các trung tâm khoa học. Nó thật sự có tính giáo dục."

    "Tôi chẳng nghĩ một người 35 tuổi từng là lãnh đạo công ty lại cần được giáo dục nữa."

    "Góc nào cũng có nhà vệ sinh cho người khuyết tật. Và có nhân viên chăm sóc đặc biệt. Sẽ không gặp vấn đề gì rắc rối."

    "Anh sắp nói là có cả xe chuyên dụng cho người khuyết tật nữa chứ gì, đúng không?"

    "Họ hỗ trợ tất cả mọi người. Tại sao cô lại không muốn đến Florida nhỉ, cô Clark? Nếu cô không thích ở đó cô vẫn có thể đến công viên đại dương SeaWorld. Thời tiết thì rất tuyệt vời."

    "Trong cuộc chiến giữa Will với cá voi ăn thịt người tôi nghĩ tôi biết ai sẽ thua rồi."

    Anh ta dường như không nghe tôi nói. "Và đó là một trong những công ty hàng đầu trong vấn đề người khuyết tật. Cô có biết họ làm rất nhiều cho Quỹ Một Ước Mơ dành cho những người sắp chết?"

    "Anh ấy không phải người sắp chết." Tôi ngắt cuộc điện thoại với bên đại lý du lịch đúng lúc Will vào. Tôi lóng ngóng đặt chiếc ống nghe, cố gắng gác nó lại trên giá và đóng cuốn sổ tay lại.

    "Mọi thứ ổn cả chứ, cô Clark?" "Ổn." Tôi mỉm cười vui vẻ.

    "Tốt. Cô có chiếc váy đẹp nào không?" "Cái gì cơ?"

    "Thứ Bảy này cô định làm gì?"

    Anh chờ đợi đầy hy vọng. Đầu tôi vẫn đang loanh quanh với ý nghĩ về con cá voi ăn thịt người và gã ở đại lý du lịch.

    "Ừm... chẳng làm gì cả. Patrick phải đi luyện tập suốt cả ngày. Có chuyện gì vậy?"

    Anh im lặng vài giây trước khi lên tiếng, như thể anh thật sự cảm thấy vui thích khi làm tôi ngạc nhiên.

    "Chúng ta sẽ đi đám cưới."

    Sau này tôi vẫn không hiểu rõ tại sao Will thay đổi ý định của anh về lễ cưới của Alicia và Rupert. Tôi đoán rằng phần lớn trong quyết định của anh là do bản tính thích làm điều trái ngược - không ai hy vọng anh sẽ đi, có lẽ người ít mong mỏi nhất chính là Alicia và Rupert. Có thể anh đến là để khép lại mọi chuyện. Nhưng tôi nghĩ mấy tháng vừa qua cô ấy đã mất quyền năng làm tổn thương anh.

    Chúng tôi quyết định sẽ xoay xở mà không cần sự giúp đỡ của Nathan. Tôi gọi để chắc chắn hội trường tiệc cưới phù hợp với xe lăn của Will, tiếng Alicia nghe rất bối rối khi được biết chúng tôi hẳn nhiên không từ chối lời mời, khi đó một ý nghĩ lóe ra trong đầu tôi là vỏ bọc bên ngoài của cô thực ra chỉ để giấu đi cảm xúc thật trong cô.

    "À... ờ... chỉ có một bậc rất nhỏ đi vào hội trường tiệc cưới thôi, nhưng tôi nghĩ là những người tổ chức có nói họ sẽ cung cấp một đường ván trượt..." cô nói nhỏ dần.

    "Vậy thì tốt rồi. Cảm ơn cô," tôi nói. "Chúng tôi sẽ gặp cô vào ngày cưới."

    Chúng tôi lên mạng để chọn một món quà cưới. Will bỏ ra 120 bảng để mua một khung ảnh bằng bạc và thêm 60 bảng nữa cho một chiếc bình mà anh gọi là "hàng chất". Tôi rất ngạc nhiên khi thấy anh bỏ ra số tiền lớn như vậy cho một người mà anh thậm chí không thật sự thích, nhưng sau nhiều tuần làm việc cho nhà Traynor tôi đã hiểu ra rằng họ có những quan niệm rất khác về tiền bạc. Họ viết những tấm ngân phiếu bốn con số mà không chút đắn đo. Tôi đã từng xem tài khoản ngân hàng của Will khi nó được đặt trên bàn bếp để anh kiểm tra. Số tiền đó đủ mua hai ngôi nhà như nhà chúng tôi - mà đó chỉ là tài khoản vãng lai của anh.

    Tôi quyết định mặc chiếc váy đỏ - một phần bởi vì tôi biết Will thích nó (và giờ đây tôi nhận ra rằng anh cần tất cả những gia tăng giá trị dù nhỏ nhất mà anh có thể có) - nhưng cũng bởi vì tôi thật sự chẳng còn chiếc váy nào khác mà mình đủ dũng cảm để mặc tới một nơi đông người như vậy. Will chẳng nói gì về nỗi sợ của tôi trước ý nghĩ phải đi đến một đám cưới thượng lưu, nhất là trong vai trò "người giúp việc". Tôi cứ suy nghĩ liên hồi đến những giọng nói bàn tán, những ánh nhìn dò xét về phía chúng tôi, tôi thà ngồi cả ngày xem Patrick chạy vòng quanh còn hơn. Có thể tôi thật nông cạn khi vẫn còn quan tâm đến chuyện đó nhưng tôi không thể thôi băn khoăn được. Ý nghĩ những vị khách ấy xem thường cả hai chúng tôi làm ruột tôi thắt lại.

    Tôi không nói gì với Will, nhưng tôi lo lắng cho anh. Tới dự đám cưới của người yêu cũ đã là một hành động đau khổ ngay cả trong hoàn cảnh tốt nhất, nhưng đến một nơi đông người, nơi có thể có rất nhiều bạn bè và đồng nghiệp trước đây, để xem cô ấy cưới bạn cũ của mình thì đối với tôi dường như là một con đường chắc chắn dẫn đến chỗ bị xem thường thảm hại. Tôi cố hết sức giải thích với anh trước ngày chúng tôi lên đường nhưng anh đã gạt phắt đi.

    "Clark này, nếu tôi không có gì lo lắng về chuyện đó, tôi nghĩ cô không cần phải như vậy," anh nói.

    Tôi gọi cho Treena và kể với nó.

    "Kiểm tra xem xe của anh ấy có giấu vi khuẩn lây bệnh hay đạn không," là tất cả những gì nó nói.

    "Đây là lần đầu tiên chị đưa anh ấy đi xa khỏi nhà như thế và nó sẽ là một thảm họa chết tiệt cho xem."

    "Có thể chỉ là anh ấy muốn nhắc cho chính mình biết rằng trên đời này còn có những thứ kinh khủng hơn cái chết?"

    "Thật hài hước."

    Đầu óc nó chỉ để phân nửa vào cuộc điện thoại. Nó đang chuẩn bị cho khóa học một tuần dành cho "những nhà lãnh đạo kinh tế trong tương lai" nên cần mẹ và tôi chăm sóc Thomas giúp. Khóa học sẽ cực kỳ thú vị, nó nói. Sẽ có một vài tên tuổi hàng đầu trong ngành công nghiệp có mặt ở đấy. Thầy giáo của nó rất đề cao nó và nó là người duy nhất trong cả lớp không phải nộp tiền học phí. Tôi chắc chắn là khi nói chuyện với tôi, nó cũng đang làm gì đó trên máy tính. Tôi có thể nghe thấy tiếng nó gõ tay trên bàn phím.

    "Em được vậy thì tốt rồi," tôi nói.

    "Khóa học này ở một trường đại học thuộc Oxford. Thậm chí không phải đại học bách khoa đâu. Nó thật sự là 'đỉnh cao mơ ước' của Oxford đấy."

    "Tuyệt vời."

    Nó ngưng lại một chút. "Anh ấy sẽ không tự sát phải không?"

    "Will hả? Không thay đổi gì cả."

    "Rồi, đó là vấn đề đấy." Tôi nghe tiếng ping của một email vừa được gửi. "Chị phải đi đây, Treen."

    "Okay. Chúc chị vui vẻ. À mà này đừng có mặc cái váy đỏ đấy nhé. Nó xẻ ngực hơi sâu."

    Buổi sáng ngày đám cưới bắt đầu đầy tươi sáng và thơm mát, đúng như tôi đã thầm nghĩ nó sẽ như vậy. Những cô gái như Alicia luôn luôn có cách riêng của họ. Có lẽ đã có ai đó cầu khấn các vị thần thời tiết cho họ.

    "Nói nghe chua chát quá đấy cô Clark," Will trả lời khi tôi nói với anh điều đó

    "Ô, thật mà, tôi đã biết từ trước rồi."

    Nathan đến từ sớm để chuẩn bị sẵn sàng cho Will nên chúng tôi có thể rời nhà anh vào lúc chín giờ. Chuyến đi sẽ kéo dài hai giờ đồng hồ chạy xe và tôi đã phải chuẩn bị cho những đoạn nghỉ, lên kế hoạch cả chặng đường thật tỉ mỉ để đảm bảo chúng tôi có đầy đủ những phương tiện tốt nhất. Tôi sửa soạn trong phòng tắm, kéo tất lên đôi chân vừa được cạo sạch, trang điểm rồi sau đó lại tẩy đi vì e sợ những vị khách sang trọng nghĩ tôi trông giống như gái gọi. Tôi không dám quàng khăn quanh cổ nhưng tôi đã mua một chiếc áo choàng có thể dùng làm khăn nếu cảm thấy lạnh quá.

    "Không tệ đấy chứ?" Nathan lùi lại để tôi thấy Will, trong bộ suit sẫm, áo sơ-mi màu xanh da trời đậm và một chiếc cà-vạt. Anh đã được cạo râu sạch sẽ và bôi một lớp kem màu nâu nhạt trên da mặt. Chiếc áo làm cho đôi mắt anh trông sáng rực đầy sức sống. Đôi mắt ấy, đột nhiên, giống như chứa đựng ánh sáng lấp lánh của mặt trời.

    "Không tệ chút nào," tôi nói - bởi vì, thật kỳ lạ, tôi không muốn nói ra thực sự là trông anh rất điển trai. "Dù sao thì cô ấy chắc chắn sẽ phải hối tiếc vì đã cưới cái thùng mỡ lợn kêu be be ấy."

    Will ngước mắt lên. "Nathan, chúng tôi đã có đủ mọi thứ trong túi chưa?" "Rồi. Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng để lên đường." Ông quay lại phía

    Will. "Hôm nay không được ôm hôn các cô phù dâu đâu đấy."

    "Cứ như thể anh ấy muốn làm vậy không bằng," tôi nói. "Các cô ấy tất tật sẽ mặc áo kín cổng cao tường và có mùi phát kinh lên được cho xem."

    Bố mẹ Will ra tiễn anh. Tôi đoán là họ vừa mới cãi nhau vì bà Traynor không thể đứng cách chồng xa hơn được nữa trừ phi họ thật sự đang ở hai địa điểm cách biệt. Bà khoanh chặt hai cánh tay đến cả khi tôi đã quay xe để Will vào. Bà không hề nhìn tôi lấy một lần.

    "Đừng để nó uống nhiều quá nhé, Louisa," bà nói, đưa tay phủi sợi xơ vải tưởng tượng trên vai Will.

    "Tại sao chứ?" Will hỏi. "Con có lái xe đâu."

    "Con nói đúng đấy, Will," bố anh nói. "Bố khi nào cũng phải có một vài ly rượu mạnh mới kết thúc được một cái đám cưới."

    "Kể cả trong đám cưới của chính anh," bà Traynor lầm bầm, rồi nói to lên, "Con trông đẹp trai lắm, con yêu." Bà ngồi thụp xuống, chỉnh mép quần cho Will. "Thật đấy, rất bảnh bao."

    "Cả cô cũng vậy." Ông Traynor hướng mắt về phía tôi tán thưởng khi tôi bước ra khỏi ghế lái. "Rất hấp dẫn. Cô phải quay một vòng cho mọi người xem, cô Louisa."

    Will quay bánh xe lăn. "Cô ấy không có thời gian đâu bố. Lên đường thôi, cô Clark. Tôi nghĩ sẽ rất khiếm nhã nếu cô đến sau cô dâu đấy."

    Tôi bước trở lại vào xe hơi cảm thấy như được giải thoát. Với chiếc xe lăn của Will đặt an toàn phía sau, áo ngoài treo cẩn thận trên lưng ghế để tránh bị nhăn, chúng tôi khởi hành.

    Tôi có thể mô tả ngôi nhà của bố mẹ Alicia trông như thế nào trước cả khi tôi tới đó. Sự thật là tưởng tượng của tôi gần như chính xác đến nỗi Will phải hỏi tôi tại sao tôi lại cười phá lên khi cho xe chạy chậm lại. Một tòa lâu đài cổ rộng lớn kiểu Georgia, các cửa sổ cao vút được che phủ một phần bởi những chùm dây leo tím nhạt, đường chạy xe trải đá màu caramel, đó đúng là ngôi nhà hoàn hảo của một gia đình thượng lưu.

    Tôi cũng có thể mô tả lại hình ảnh cô ấy trưởng thành trong ngôi nhà đó, tóc cô tết hai bím vàng hoe gọn gàng trong khi cưỡi con ngựa con mập mạp đầu tiên của mình trên bãi cỏ xanh.

    Hai người thanh niên mặc áo phản quang đang hướng dẫn khách cho xe vào bãi cỏ giữa ngôi nhà và nhà thờ ngay cạnh đó. Tôi hạ cửa kính xe. "Xin hỏi có chỗ đỗ xe bên cạnh nhà thờ không?

    "Lối này dành cho khách thưa cô."

    "Chúng tôi có xe lăn, nếu dừng ở đây xe sẽ bị lún vào cỏ," tôi nói. "Chúng tôi cần đỗ ngay bên cạnh nhà thờ. Kia kìa, tôi sẽ đỗ chỗ kia."

    Hai người thanh niên nhìn nhau và thì thầm gì đó. Trước khi họ kịp nói gì thêm tôi lái xe tiến lên rồi đỗ xe ở một điểm tách biệt sát bên nhà thờ. Và mọi thứ đã bắt đầu, tôi tự nhủ, tôi bắt gặp ánh mắt của Will trong gương đúng lúc ấn nút mở cửa.

    "Thoải mái đi, cô Clark. Mọi thứ sẽ ổn thôi," anh nói.

    "Tôi hoàn toàn thoải mái mà. Sao anh lại nghĩ tôi không thoải mái chứ?" "Cô thể hiện rõ rành rành ra đó thôi. Lại còn cắn hết bốn cái móng tay trong khi lái xe nữa."

    Tôi đỗ xe lại, bước ra ngoài, trùm chiếc áo choàng quanh người rồi ấn nút điều khiển để hạ đường trượt cho xe lăn xuống. "Tốt rồi," tôi nói khi xe lăn của Will chạm tới đất. Phía bên kia con đường trên bãi cỏ, mọi người đang bước ra từ những chiếc xe hơi đồ sộ của Đức, những người phụ nữ trong những chiếc váy rực rỡ đang than vãn với chồng khi gót giày của họ bị lún vào cỏ. Tất cả họ đều là các cô gái có cặp chân dài mịn màng với tông màu trầm nhạt. Tôi vuốt tóc, băn khoăn không biết mình có bôi nhiều son quá không. Tôi đoán trông tôi giống như một trong những quả cà chua chín mọng đã bị người ta nặn hết nước.

    "Thế... hôm nay chúng ta sẽ thể hiện như thế nào đây?" Will dõi theo hướng tôi nhìn. "Trả lời thật hả?"

    "Thật. Tôi cần phải biết. Và đừng có nói với tôi sẽ là Ngạc nhiên và Kinh hãi đấy nhé. Anh đã vạch kế hoạch khủng khiếp gì rồi?"

    Đôi mắt Will nhìn vào mắt tôi. Xanh thẳm, bí ẩn khó đoán định. Trong tôi như có một đàn bươm bướm tung bay.

    "Chúng ta sẽ cư xử lịch thiệp ngoài mức tưởng tượng, cô Clark."

    Cánh của đàn bướm bắt đầu đập loạn xạ như thể muốn thúc gãy mạn sườn tôi. Tôi định lên tiếng nhưng anh đã ngắt lời.

    "Nghe này, chúng ta sẽ chỉ làm những gì tạo ra không khí vui vẻ thôi," anh nói.

    Vui vẻ. Nói giống như dự đám cưới của người yêu cũ ít đau hơn giải phẫu tủy răng ấy. Nhưng đó là lựa chọn của Will. Là ngày của Will. Tôi hít một hơi thật sâu, cố gắng hòa mình vào đó.

    "Một ngoại lệ," tôi nói, chỉnh tấm áo choàng trên vai mình lần thứ mười bốn. "Gì cơ?"

    "Anh không được là Christy Brown đâu đấy. Nếu anh mà là Christy Brown tôi sẽ lái xe về nhà và để mặc anh mắc kẹt trong đám người ma mãnh này."

    Khi Will quay xe đi và bắt đầu cho xe lăn chạy về phía nhà thờ, tôi nghe tiếng anh lầm bầm, "Làm mất hứng."

    Chúng tôi ngồi suốt giờ hành lễ mà không có chuyện gì bất ngờ xảy ra. Alicia trông vô cùng xinh đẹp đúng như tôi hình dung, cô đánh một lớp phấn màu caramel nhạt, chiếc váy lụa trắng cắt xéo lướt trên thân hình mảnh mai của cô như thể không dám đậu lên đó khi chưa được cho phép. Tôi nhìn cô nhẹ nhàng bước trên lối đi giữa các dãy ghế, tự hỏi không biết cảm giác sẽ như thế nào nếu mình cao ráo, chân dài và trông giống như cô gái mà hầu hết chúng ta chỉ có thể thấy trên những bức tranh sơn phun như thế. Tôi băn khoăn không biết có phải có cả một dàn chuyên gia thiết kế tóc và trang điểm cho cô. Tôi tự hỏi liệu cô có mặc đồ lót nẹp bụng không. Chắc chắn là không rồi. Cô đang mặc những loại quần lót bé xíu bằng ren - loại đồ lót có giá cao hơn một tuần lương của tôi, dành cho những phụ nữ không cần bất kỳ sự hỗ trợ nào.

    Trong lúc cha xứ tuyên bố buổi lễ và những đôi giày phù dâu xinh xắn di chuyển ở khu vực dành riêng cho chúng, tôi liên tục nhìn xung quanh ngắm những vị khách khác. Hầu như chẳng có vị khách nữ nào ở đây mà trông không giống như đang xuất hiện trên những trang tạp chí thời thượng. Giày của họ, tất cả đều cùng tông màu với trang phục, trông như thể chưa bao giờ đi tới. Những cô gái trẻ hơn trang nhã trong những đôi giày có gót cao mươi mười lăm phân để lộ ra bộ móng chân được cắt tỉa hoàn hảo. Những người phụ nữ nhiều tuổi hơn đi giày đế thấp, mặc những bộ suit sang trọng, độn vai với những lớp lụa lót có sắc màu đối lập, và đội những chiếc mũ trông như thể họ đang coi thường trọng lực.

    Cánh đàn ông kém thú vị hơn để chiêm ngưỡng nhưng hầu hết những người đó đều sở hữu một bầu không khí mà đôi khi tôi có thể cảm nhận thấy từ Will - không khí của giàu sang và quyền quý, một nhận thức bản năng rằng cuộc sống sẽ luôn luôn dễ dàng quanh họ. Tôi tự hỏi về những công ty mà họ điều hành, những thế giới mà họ ngự trị. Tôi băn khoăn không biết họ có để tâm đến những người như tôi, những người bảo mẫu cho con cái họ hay phục vụ họ trong các nhà hàng. Hay múa cột cho các đối tác kinh doanh của họ xem, tôi nghĩ vậy khi nhớ lại những cuộc phỏng vấn của tôi tại Trung tâm Giới thiệu Việc làm.

    Những đám cưới mà tôi từng tham dự luôn phải phân cách khu vực dành cho gia đình cô dâu và chú rể vì lo sợ ai đó sẽ phá vỡ lời cam kết.

    Will và tôi chọn chỗ ngồi ở phía sau cùng của nhà thờ, xe lăn của Will đặt ngay bên cạnh dãy ghế cuối cùng nơi tôi ngồi. Anh thoáng ngước lên nhìn khi Alicia bước xuống lối đi, nhưng ngoài cái thoáng nhìn đó ra, anh nhìn thẳng về phía trước, biểu hiện khó đoán định. Bốn mươi tám người trong đội hợp xướng (tôi đã đếm được) hát vang một bài gì đó bằng tiếng Latin. Rupert toát mồ hôi trong chiếc áo suit đuôi tôm, anh ta nhướng mày lên như thể vừa cảm thấy hạnh phúc vừa có đôi chút ngạc nhiên. Không ai vỗ tay hoặc reo hò khi họ được tuyên bố đã trở thành vợ chồng. Rupert trông hơi lúng túng, vươn người về phía cô dâu của mình như người ta chơi trò đớp táo dưới nước rồi khẽ trượt qua môi cô. Tôi băn khoăn không biết có phải những người thuộc tầng lớp trên thường cảm thấy hơi "khó chịu" khi thật sự phải tham gia các hoạt động hành lễ trong nhà thờ.

    Rồi cuối cùng buổi lễ cũng kết thúc. Will đã cho xe lăn chạy ra ngoài cửa nhà thờ. Tôi nhìn phía sau đầu anh, thẳng và trang nghiêm kỳ lạ, tôi muốn hỏi anh có phải đến đây là một sai lầm. Tôi muốn hỏi xem anh có còn tình cảm với cô ấy. Tôi muốn nói cho anh biết rằng anh quá tốt so với cô nàng caramel ngớ ngẩn này, bất kể hình thức bên ngoài thể hiện điều gì, và nói rằng... tôi không biết tôi muốn nói gì thêm nữa.

    Tôi chỉ muốn làm mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn. "Anh ổn chứ?" tôi nói khi bước kịp anh.

    Anh nháy mắt hai cái. "Tốt cả," anh nói. Anh thở ra khe khẽ như thể anh đã kìm nén từ nãy tới giờ. Rồi anh ngước lên nhìn tôi. "Đi nào, ra tìm chút gì để uống chứ."

    Rạp cưới chăng trong một khu vườn có tường bao quanh, chiếc cổng sắt chạm trổ hoa văn được quấn những vòng hoa màu hồng nhạt. Quầy bar đặt ở xa phía cuối rạp đang đông nghịt người, vậy nên tôi bảo Will ngồi chờ ở bên ngoài để tôi vào lấy cho anh một ly nước. Tôi đi len lỏi giữa những chiếc bàn phủ khăn bằng vải lanh trắng muốt và được xếp nhiều dao dĩa, ly cốc hơn tôi từng nhìn thấy ở bất cứ nơi nào trước đây. Những chiếc ghế được thiếp vàng phía sau giống như loại ghế người ta vẫn thấy trong các buổi trình diễn thời trang, những chiếc đèn lồng trắng treo ngay trên mỗi bình trang trí giữa bàn cắm đầy hoa lan và hoa loa kèn. Không khí tràn ngập mùi hương của các loại hoa đến nỗi tôi cảm thấy gần như ngột ngạt khó thở.

    "Một ly Pimm's nhé?" người phục vụ hỏi khi tôi đến trước mặt.

    "Ờ..." tôi nhìn quanh quầy, nhận ra đây thật sự là loại đồ uống duy nhất được phục vụ. "Ồ. Được rồi. Cho tôi hai ly."

    Anh ta mỉm cười với tôi. "Các loại đồ uống khác sẽ được đưa ra sau, chắc chắn là vậy. Nhưng cô Dewar muốn tất cả mọi người bắt đầu với Pimm's." Ánh mắt anh ta nhìn tôi hơi bí ẩn. Cái nhướng một bên mày thoáng qua của anh ta đã nói với tôi điều anh ta nghĩ.

    Tôi nhìn chằm chằm vào loại nước ép chanh màu hồng. Bố tôi đã nói những người giàu có nhất là những người bủn xỉn nhất nhưng tôi đã rất ngạc nhiên khi thấy họ thậm chí không thể bắt đầu tiệc cưới với một loại rượu. "Tôi nghĩ là loại này được rồi," tôi nói và nhận hai ly nước từ tay anh ta.

    Khi tôi đến chỗ Will, có một người thanh niên đang nói chuyện với anh. Trẻ trung, đeo kính, anh ta hơi cúi người xuống, một tay đặt lên tay ghế của Will. Mặt trời bây giờ đã lên cao và tôi phải nheo mắt để thấy họ rõ hơn. Đột nhiên lúc này tôi mới hiểu được giá trị của những chiếc mũ rộng vành của những người phụ nữ đó.

    "Thật quá vui khi thấy anh lại đi ra ngoài, anh Will," anh ta nói. "Vắng anh văn phòng không còn giống như trước nữa. Tôi không thể nói nó như thế nào... nhưng khác lắm. Khác lắm."

    Anh ta trông có vẻ là một kế toán viên trẻ tuổi - kiểu đàn ông chỉ thật sự cảm thấy thoải mái khi khoác trên mình một bộ suit.

    "Cậu thật tốt khi nói vậy."

    "Mọi việc xảy ra quá kỳ lạ. Giống như anh đã bị rơi xuống khỏi vách đá. Mới ngày hôm nay anh còn ở đó, quản lý mọi việc, ngày hôm sau chúng tôi chỉ còn tin là..."

    Anh ta liếc nhìn lên khi nhận ra tôi đã đứng đó. "Ồ," anh ta nói rồi thả cặp mắt chăm chăm vào ngực tôi. "Chào cô."

    "Cô Louisa Clark, đây là Freddie Derwent."

    Tôi đặt cốc nước của Will lên ghế của anh và bắt tay người thanh niên. "Ồ," anh ta lại lên tiếng. "Và..."

    "Tôi là một người bạn của Will," tôi nói, rồi sau đó, cũng không hoàn toàn chắc chắn vì sao, tôi đặt bàn tay mình chạm nhẹ lên vai Will.

    "Thế đấy, cuộc sống cũng đâu phải tất cả đều là tồi tệ," Freddie Derwent nói, với một tiếng cười gần giống như tiếng ho. Giọng anh ta có vẻ hơi xúc động. "Dù sao... phải có nọ có kia. Anh biết những điều này rồi đấy - rõ ràng, chúng ta phải sẵn sàng đón nhận chúng giống như với những cơ hội kinh doanh. Dù sao cũng thật vui khi được gặp anh, anh Will. Thật sự là như vậy. Và... cả cô nữa, cô Clark."

    "Cậu ấy có vẻ tốt nhỉ," tôi nói khi chúng tôi đi ra chỗ khác. Tôi rút tay khỏi vai Will và uống một ngụm Pimm's dài. Nó đúng là ngon hơn rất nhiều so với hình thức bên ngoài. Tôi đã từng được cảnh báo sơ qua về hiện tượng xanh vỏ đỏ lòng.

    "Phải. Đúng vậy, cậu ấy rất dễ thương."

    "Bây giờ thì đừng có quá ngại ngùng nữa đấy." "Không." Hai mắt Will liếc lên nhìn vào mắt tôi. "Không, cô Clark, không có gì là ngại ngùng cả."

    Như thể đã cảm thấy thoải mái từ khi nhìn thấy Freddie Derwent trò chuyện với Will, suốt cả giờ đồng hồ sau đó có thêm nhiều người nữa đến chào hỏi anh. Một vài người đứng hơi cách xa anh, như thể hành động ấy giúp họ thoát khỏi tình thế phải bắt tay, trong khi những người khác kéo đầu gối quần lên và ngồi xổm xuống quanh chân anh. Tôi đứng bên cạnh Will và nói đôi câu. Tôi nhìn thấy anh thoáng căng thẳng trước sự xuất hiện của hai trong số những người đó.

    Người thứ nhất - một người đàn ông cao to, béo tốt đang hút xì gà - ông ta dường như không biết phải nói gì khi đứng ngay trước mặt Will nên đành nói, "Đám cưới quá tuyệt, đúng không? Cô dâu trông lộng lẫy nhỉ." Tôi đoán ông ta không hề biết gì về lịch sử tình ái của Alicia.

    Người thứ hai là một người trông giống như đối thủ kinh doanh của Will, nói năng những lời nghe ngoại giao hơn, nhưng có cái gì đó trong cái nhìn hết sức trực diện cùng với những câu hỏi thẳng thắn của anh ta về tình trạng của Will khiến tôi nhận ra nó làm Will căng thẳng. Hai người họ giống như hai con chó đuổi nhau vòng quanh, do dự không biết có nên kìm không nhe răng ra hay không.

    "Tổng giám đốc điều hành mới công ty cũ của tôi," Will nói khi người đàn ông cuối cùng cũng đi chỗ khác với một cái vẫy chào. "Tôi nghĩ anh ta lại đây chỉ để chắc chắn rằng tôi sẽ không nỗ lực làm một cuộc truất ngôi."

    Ánh nắng càng lúc càng gay gắt, khu vườn trở thành một cái hầm có hương thơm, mọi người đứng nấp dưới những tán cây xanh. Tôi đưa Will vào trong cửa rạp cưới vì lo anh sẽ bị sốt. Bên trong rạp cưới những chiếc quạt lớn đã được bật lên, quay nhè nhẹ trên đầu chúng tôi. Cách đó một quãng, dưới mái che của một gian nhà, một nhóm tứ tấu đàn dây đang chơi nhạc. Thật giống như cảnh tượng trong phim.

    Alicia, lướt nhẹ quanh khu vườn - một hình ảnh hết sức thanh tao, hôn gió và reo mừng - nhưng không đi lại chỗ chúng tôi.

    Tôi nhìn Will uống cạn hai ly Pimm's và mừng thầm.

    Tiệc cưới sẽ được bày vào lúc 4 giờ. Tôi nghĩ đó là một thời gian khá kỳ lạ cho việc phục vụ tiệc trưa nhưng, như Will đã nói, đây là một đám cưới. Thời gian dường như cần phải kéo dài và trở nên không còn nhiều ý nghĩa, dù sao những lối đi trong tiệc cưới sẽ được dọn vô số loại đồ uống để mọi người đi loanh quanh trò chuyện. Tôi không biết đó là vì thời tiết nóng bức hay vì không khí nhưng đến lúc chúng tôi đến ngồi vào bàn thì tôi đã cảm thấy ngà ngà. Khi tôi nhận ra mình đang nói chuyện lắp bắp rời rạc với một người đàn ông đứng tuổi ngồi phía bên trái, tôi mới nhận ra điều đó.

    "Có tí chất cồn nào trong nước trái cây Pimm's ấy không vậy?" tôi hỏi Will sau khi loay hoay làm đổ muối ở trong lọ lên vạt váy.

    "Khoảng một ly rượu thôi. Trong mỗi ly nước đó."

    Tôi nhìn anh chằm chằm đầy kinh hãi. Tôi thấy anh thành hai người. "Anh đùa đấy chứ. Có trái cây ở trong đó mà! Tôi nghĩ như thế có nghĩa là nó không có chất cồn chứ. Tôi làm sao lái xe đưa anh về nhà được đây?"

    "Cô thật cẩn thận quá," anh nói. Anh nhướng một bên lông mày. "Tôi sẽ được gì nếu không nói ra chuyện này với mẹ tôi nhỉ?"

    Tôi đã rất kinh ngạc với cư xử của Will suốt ngày hôm đó. Tôi cứ nghĩ tôi sẽ phải đón nhận Will Lầm Lì, Will Mai Mỉa. Hoặc chí ít cũng là Will Im Lặng. Nhưng anh lại thể hiện rất cuốn hút với tất cả mọi người. Ngay cả khi món súp được đưa ra vào bữa trưa cũng không làm anh phiền. Anh chỉ hỏi rất lịch sự xem có ai muốn đổi bánh mì lấy món súp của anh không, và hai cô gái ở phía xa của bàn tiệc - những người tự xưng là "không chứa chấp bột mì" - gần như đã quẳng ngay những ổ bánh mì của họ vào anh.

    Tôi càng căng thẳng về việc làm thế nào để tỉnh rượu bao nhiêu, Will càng vui vẻ và vô tư lự bấy nhiêu. Người phụ nữ đứng tuổi ngồi bên tay phải anh không ngờ trước đây từng là một nghị sĩ tham gia chiến dịch về quyền lợi của người khuyết tật, bà là một trong số ít người tôi nhận thấy đã nói chuyện với Will chẳng chút ngại ngần.

    Có lúc tôi còn thấy bà ấy đút cho Will một lát bánh ngọt. Khi bà đi ra khỏi bàn trong chốc lát, anh quay sang thì thầm với tôi là bà ấy đã từng một lần leo lên ngọn núi Kilimanjaro. "Tôi thích những người phụ nữ như vậy," anh nói. "Tôi có thể tưởng tượng ra bà ấy cùng với một con la và một giỏ bánh sandwich. Quá sức mạnh mẽ."

    Tôi thì kém phần may mắn với người đàn ông ngồi bên trái mình. Ông ta mất khoảng bốn phút đồng hồ - cho bài trắc nghiệm nhanh nhất về việc tôi là ai, tôi sống ở đâu, tôi quen biết với ai trong đám cưới này - để nhận ra rằng chẳng có cái gì trong số những điều tôi trả lời thuộc phạm vi những thứ ông ta thích thú. Ông ta quay sang người phụ nữ ngồi bên trái, để mặc tôi lặng lẽ đánh vật với tất cả những món còn lại cho bữa trưa của mình. Một lúc sau khi tôi bắt đầu cảm thấy hết sức lúng túng, tôi thấy cánh tay của Will phía gần tôi trượt khỏi xe lăn, rồi bàn tay ấy đặt trên cánh tay tôi. Tôi liếc nhìn lên và anh nháy mắt với tôi.

    Tôi nắm lấy tay anh và siết chặt nó, cảm kích vì anh đã nhận ra sự bối rối của tôi. Sau đó anh cho xe lăn lùi ra sau chừng mười lăm phân để tôi nhập cuộc trò chuyện cùng bà Mary Rawlinson.

    "Will nói với tôi là cô chăm sóc cho cậu ấy," bà nói. Bà có cặp mắt xanh sắc sảo với những nếp nhăn cho thấy một cuộc đời không hề đón nhận những tác dụng của hoạt động chăm sóc da thường xuyên.

    "Tôi đang cố gắng," tôi nói, liếc nhìn anh.

    "Cô đã bao giờ làm việc trong lĩnh vực này chưa?"

    "Chưa. Trước đây tôi từng làm việc trong một... quán cà-phê." Tôi không chắc lắm tôi đã nói với bất kỳ ai khác nữa trong cái đám cưới này về sự thật đó chưa, nhưng Mary Rawlinson gật đầu tán thưởng.

    "Tôi luôn luôn nghĩ đó hẳn phải là một công việc rất thú vị. Nếu cô thích nhiều người và ưa chuyện phiếm thì rất giống tôi." Bà cười tươi.

    Will thu tay lại trên xe lăn. "Tôi đang cố gắng để khuyến khích Louisa làm thêm một cái gì đó khác, để mở rộng tầm mắt của cô ấy đôi chút."

    "Cô đã nghĩ ra được gì rồi?" bà hỏi tôi.

    "Cô ấy không biết đâu," Will nói. "Louisa là một trong những người thông minh nhất mà tôi biết nhưng tôi không thể làm cho cô ấy nhận ra được tất cả khả năng của chính mình."

    Mary Rawlinson nhìn anh bằng một ánh nhìn nghiêm khắc. "Đừng có kẻ cả với cô ấy thế chứ. Cô ấy đủ khả năng để tự trả lời."

    Tôi chớp mắt.

    "Tôi nghĩ rằng hơn ai hết cậu phải hiểu điều đó," bà nói thêm.

    Will trông như thể muốn nói điều gì nữa nhưng rồi lại im lặng. Anh nhìn chằm chằm vào bàn tiệc và lắc đầu khe khẽ, nhưng anh vẫn mỉm cười.

    "Này, Louisa, tôi hình dung ra công việc của cô hiện tại đòi hỏi cực kỳ nhiều năng lượng thần kinh. Và tôi không nghĩ anh bạn trẻ này là một vị khách hàng dễ dàng gì."

    "Bà nói hoàn toàn chính xác."

    "Nhưng Will đã nói khá đúng về việc nhìn thấy các khả năng. Đây là danh thiếp của tôi. Tôi đang làm trong ban lãnh đạo một tổ chức từ thiện nhằm khuyến khích các hoạt động đào tạo nghề. Có thể cô sẽ quan tâm đến một công việc gì đó khác trong tương lai?"

    "Tôi rất hạnh phúc được làm việc cho Will, cảm ơn bà."

    Tôi nhận tấm danh thiếp bà đưa cho mà không hề để tâm tới nó, thoáng chút ngạc nhiên khi thấy người phụ nữ này có chút lưu ý tới những gì tôi đã làm trong cuộc đời mình. Nhưng ngay cả lúc đã cầm tấm danh thiếp, tôi vẫn cảm thấy mình giống một kẻ dối trá. Chẳng thể nào tôi sẽ từ bỏ công việc của tôi, dù cho tôi đã biết tôi muốn học thêm cái gì. Chưa có ai nói với tôi rằng tôi thuộc kiểu người phù hợp với việc đào tạo thêm. Ngoài ra, giữ cho Will cuộc sống là ưu tiên hàng đầu của tôi. Tôi đã trôi vào những ý nghĩ của riêng mình tới nỗi thoáng chốc không còn nghe thấy hai người bên cạnh tôi trò chuyện.

    "... thật quá may mắn khi cậu đã vượt qua thời khắc khó khăn nhất, phải nói là như vậy. Tôi biết sẽ vô cùng gian nan để thích nghi cuộc sống thay đổi quá đột ngột trước bao nhiêu kỳ vọng như thế."

    Tôi nhìn chằm chằm vào phần còn lại của món cá hồi hấp trong đĩa của mình. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói với Will như vậy.

    Anh cau mày nhìn vào bàn rồi sau đó quay về phía bà. "Tôi không chắc tôi đã vượt qua thời khắc khó khăn nhất," anh nói khẽ.

    Bà ấy nhìn anh trong giây lát rồi liếc sang nhìn tôi.

    Tôi băn khoăn tự hỏi không biết nét mặt tôi có đang phản bội tôi không. "Mọi thứ cần phải có thời gian Will ạ," bà nói, thoáng đặt bàn tay lên cánh tay anh. "Và đó là một thứ mà thế hệ cậu cảm thấy khó khăn để thích ứng. Cậu đã lớn lên với kỳ vọng mọi điều sẽ đi theo cách cậu muốn ngay lập tức. Các cậu hy vọng sẽ sống cuộc đời đúng như các cậu lựa chọn. Đặc biệt là với một thanh niên thành đạt giống như cậu. Nhưng nó cần thời gian."

    "Bà Rawlinson - Mary - Tôi không có hy vọng phục hồi," anh nói.

    "Tôi không nói về thể xác," bà nói. "Tôi đang nói về việc học cách để đón nhận một cuộc sống mới."

    Rồi sau đó, đúng lúc tôi chờ để nghe xem Will sẽ nói tiếp điều gì, có tiếng gõ mạnh chiếc thìa vào một cái cốc thủy tinh và cả căn phòng im phắc để nghe cuộc tung hứng.

    Tôi hầu như chẳng nghe thấy họ nói gì. Tôi chỉ thấy một người đàn ông mặc suit đuôi tôm trông rất khoa trương theo sau một người khác, họ đang nói về những con người và địa danh mà tôi không biết, khiến khán giả khẽ cười lịch thiệp. Tôi vẫn ngồi ăn những chiếc kẹo sô-cô-la đen để trong các giỏ bạc trên bàn rồi uống ba cốc cà-phê liên tục vậy nên tôi cảm thấy vừa say vừa bồn chồn, căng thẳng. Trái lại, Will chỉ yên lặng hoàn toàn. Anh nhìn khách khứa vỗ tay khen ngợi người yêu cũ của mình và nghe Rupert tán dương cô nàng thật là một người đẹp hoàn hảo. Không ai để ý đến anh. Tôi không biết đó là vì họ muốn tránh làm tổn thương cảm xúc của anh, hay bởi vì sự có mặt của anh ở đây thật sự là một điều ái ngại. Thi thoảng Mary Rawlinson nghiêng người thì thầm cái gì đó vào tai anh và anh gật đầu khe khẽ vẻ như đồng tình.

    Khi cuộc tung hứng cuối cùng đã kết thúc, một đám đông người phục vụ xuất hiện và bắt đầu dọn khu vực giữa phòng để mọi người nhảy. Will nghiêng người về phía tôi. "Mary nhắc tôi là trên đường này có một khách sạn rất tốt. Gọi cho họ xem chúng ta có thể ở lại đó được không."

    "Gì cơ?"

    Mary trao cho tôi tên và số điện thoại viết nguệch ngoạc trên một tờ giấy ăn. "Được rồi, cô Clark," anh nói khẽ để bà ấy không thể nghe thấy. "Tôi sẽ trả tiền. Gọi cho họ đi, và cô có thể thôi không cần lo lắng về việc cô đang rất say nữa. Lấy thẻ tín dụng của tôi sau túi đi. Có thể họ sẽ yêu cầu số thẻ."

    Tôi lấy thẻ, cầm điện thoại rồi đi ra góc xa của khu vườn. Còn hai phòng trống, họ nói - một phòng đơn và một phòng đôi ở tầng trệt. Vâng, nó rất phù hợp cho người khuyết tật ra vào. "Tuyệt hảo," tôi nói, rồi sau đó phải cố ngậm lại một tiếng kêu khe khẽ khi nghe họ thông báo giá. Tôi đọc cho họ số thẻ tín dụng của Will, cảm thấy như phát ốm khi phải đọc loạt số.

    "Sao rồi?" anh hỏi khi tôi xuất hiện trở lại.

    "Xong rồi, nhưng..." tôi nói với anh mức giá của hai căn phòng đó.

    "Tốt thôi," anh nói. "Giờ thì gọi cho anh chàng của cô để báo cho anh ta biết là đêm nay cô sẽ không về đi, rồi sau đó hãy uống tiếp. Chính xác là phải uống sáu ly. Tôi sẽ vô cùng thích thú được thấy cô chất gánh nặng lên hóa đơn thanh toán của bố Alicia."

    Và tôi đã làm như vậy.

    Có những điều đã xảy ra vào buổi tối hôm đó. Đèn được tắt bớt vì thế chiếc bàn tiệc nhỏ của chúng tôi trở nên mờ ảo, hương thơm ngào ngạt của hoa cỏ trong vườn hòa quyện trong làn gió đêm và âm nhạc, rượu và những điệu nhảy khiến cho ở một nơi không thích hợp nhất, cả hai chúng tôi đều bắt đầu thật sự cảm thấy vui thích. Will ở trong trạng thái thư giãn nhất mà tôi từng thấy. Ngồi giữa tôi và Mary, anh nói chuyện và cười với bà, và có cái gì đó trong hình ảnh hạnh phúc thoáng chốc đó của anh đã đẩy lùi những con người nhìn anh bằng ánh mắt nghi ngờ hay thương hại. Anh làm tôi phải buông chiếc áo choàng ngoài và ngồi thẳng dậy. Tôi cởi áo ngoài và nới lỏng cà-vạt cho anh, cả hai chúng tôi đều cố gắng để không bật ra tiếng cười khi nhìn theo điệu nhảy. Tôi không thể diễn tả được tôi cảm thấy phấn khích lên đến mức nào khi lần đầu được ngồi xem những người thượng lưu nhảy. Cánh đàn ông trông như thể bị điện giật, những người phụ nữ trỏ những ngón tay búp măng lên trời và trông e ấp khủng khiếp ngay cả khi họ làm động tác xoay.

    Mary Rawlinson nhiều lần khẽ kêu lên, "Chúa ơi." Bà liếc nhìn qua phía tôi. Giọng nói của bà trở nên ngọt ngào hơn sau khi đã uống rượu. "Cô không muốn lên trình diễn một điệu cho mọi người xem sao, cô Louisa?"

    "Chúa ơi, không."

    "Cô thật là. Tôi đã nhìn thấy những màn nhảy còn đẹp hơn nhiều ở một câu lạc bộ disco Thanh niên Nông thôn rồi đấy."

    Đến chín giờ, tôi nhận được một tin nhắn từ Nathan.

    Ổn cả chứ?

    Vâng. Vui lắm, tin hay không là tùy ông. Will đang có một ngày rất tuyệt.

    Quả tình anh thật sự rất vui. Tôi nhìn anh cười lớn khi nghe Mary nói chuyện, một cái gì đó trỗi lên trong tôi lạ lùng và tha thiết. Nó chỉ cho tôi thấy rằng điều đó có thể xảy ra. Anh có thể hạnh phúc, nếu ở bên anh là những con người phù hợp, nếu anh được là Will chứ không phải là Người đàn ông ngồi xe lăn, là danh sách những triệu chứng bệnh, là đối tượng để thương cảm.

    Sau đó đến 10 giờ tối, những điệu nhảy lãng mạn bắt đầu. Chúng tôi ngồi xem Rupert quay vòng Alicia quanh sàn nhảy, khách khứa nhìn theo vỗ tay tán thưởng một cách lịch sự. Mái tóc của cô bắt đầu rũ xuống, cô choàng cánh tay qua cổ anh ta như thể cần được nâng đỡ. Hai cánh tay Rupert vòng quanh người cô, buông ngang hông. Cô thật xinh đẹp và quyền quý, tôi cảm thấy một chút tiếc nuối cho cô. Tôi nghĩ có thể cô sẽ không nhận ra mình đã đánh mất thứ gì cho đến khi đã quá muộn.

    Được một nửa bản nhạc, những cặp đôi khác hòa vào điệu nhảy nên cô dâu chú rể phần nào bị che khuất đi và tôi cũng bị phân tâm bởi chuyện Mary đang nói về chính sách dành cho những người chăm sóc người khuyết tật, thế rồi đột nhiên tôi ngước nhìn lên, cô ấy đang ở đó, đứng ngay trước mặt chúng tôi, thân hình siêu mẫu trong chiếc váy cưới bằng lụa trắng. Tim tôi như nhảy ra khỏi cổ họng.

    Alicia gật đầu chào Mary rồi cúi người xuống một chút để Will có thể nghe thấy cô nói qua tiếng nhạc. Gương mặt cô hơi căng thẳng, như thể cô đã phải ép bản thân mình đi lại đây.

    "Cảm ơn anh đã đến dự, Will. Thật lòng đấy." Cô liếc sang nhìn tôi nhưng không nói gì cả.

    "Vui lắm," Will nói giọng đều đều. "Em trông rất xinh đẹp Alicia. Một ngày tuyệt vời."

    Một thoáng ngạc nhiên lướt qua mặt cô. Rồi sau đó là nét buồn tiếc mơ hồ. "Thật sao? Anh thật sự nghĩ vậy sao? Em nghĩ... ý em là, em có rất nhiều điều muốn nói..."

    "Thật đấy," Will nói. "Không cần phải nói gì đâu. Em có nhớ Louisa không?"

    "Em nhớ."

    Một thoáng im lặng trôi qua.

    Tôi có thể nhìn thấy Rupert đang đi đi lại lại ở phía góc khuất, nhìn tất cả chúng tôi đầy cảnh giác. Cô liếc nhìn lại phía anh ta rồi sau đó giơ cánh tay ra gần như vẫy vẫy. "Dù sao cũng cảm ơn anh, Will. Anh đúng là tuyệt vời khi đã đến đây. Cảm ơn anh vì..."

    "Chiếc gương soi."

    "Dĩ nhiên rồi. Em chắc chắn là rất thích chiếc gương." Cô đứng dậy và quay lại bên chồng mình, anh ta siết lấy cánh tay cô quay đi.

    Chúng tôi nhìn họ đi qua sàn nhảy. "Anh đâu có mua gương cho cô ấy." "Tôi biết."

    Hai người họ vẫn tiếp tục nói chuyện, ánh nhìn chòng chọc của Rupert lóe về phía chúng tôi. Như thể anh ta không thể tin rằng Will thật sự đến đây vì mục đích tốt. Phải nói là cả tôi cũng không tin.

    "Anh có cảm thấy... phiền không?" tôi hỏi anh.

    Anh quay mặt lại không nhìn về phía họ nữa. "Không," anh nói và mỉm cười với tôi. Nụ cười của anh hơi trĩu xuống vì đã uống nhiều, lúc ấy hai mắt anh trông buồn bã, suy tư.

    Thế rồi đúng khi sàn nhảy đang vắng lặng chờ đợi điệu nhảy tiếp sau, tôi nghe thấy tiếng mình đang nói, "Anh nghĩ sao Will? Hãy xoay tôi một vòng?"

    "Gì cơ?"

    "Đi nào. Hãy để cho những kẻ đáng ghét này có cái gì đó mà nói." "Ồ tuyệt lắm," Mary nói, nâng ly rượu lên. "Cực kỳ tuyệt vời."

    "Nhanh nào. Khi nhạc đang còn chậm. Vì tôi không nghĩ anh sẽ vào nhạc thật nhanh được đâu."

    Tôi không để anh có sự lựa chọn. Tôi ngồi nhẹ nhàng vào lòng Will, choàng hai cánh tay quanh cổ anh để ngồi thật vững. Anh nhìn vào mắt tôi trong giây lát như thể đang cố nghĩ xem liệu anh có thể từ chối tôi. Rồi, thật kinh ngạc, Will ấn xe lăn đưa cả hai chúng tôi ra giữa sàn nhảy và bắt đầu di chuyển thành những vòng tròn nhỏ dưới ánh sáng lấp lánh của những chiếc đèn màu.

    Cùng một lúc tôi cảm thấy vừa e ngại vừa đôi chút kích động. Tôi đang ngồi nghiêng có nghĩa là chiếc váy đã bị kéo cao lên đến nửa đùi.

    "Mặc kệ nó đi," Will thì thầm vào tai tôi. "Cái váy..."

    "Tiếp tục đi Clark. Không được bỏ rơi tôi lúc này."

    Tôi nhắm hai mắt lại và siết chặt hai cánh tay quanh cổ anh, ép ngực vào ngực anh, thưởng thức hương cam trong nước hoa cạo râu của anh. Tôi có thể cảm nhận tiếng anh thở mạnh hòa theo tiếng nhạc.

    "Tất cả bọn họ đã khiếp sợ chưa?" anh hỏi. Tôi mở một bên mắt, nhìn về phía ánh sáng mờ mờ.

    Có đôi người đang cười khích lệ, nhưng hầu hết dường như không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Mary nâng ly rượu lên chào tôi. Và tôi thấy Alicia đang nhìn hai chúng tôi chằm chằm, gương mặt cô thoáng suy sụp. Khi cô thấy tôi đang nhìn, cô quay mặt đi và thì thầm điều gì đó với Rupert. Anh ta lắc lắc đầu như thể chúng tôi đang làm một điều gì đó đáng hổ thẹn.

    Tôi cảm thấy một nụ cười tinh quái đang lướt ngang qua mặt mình. "Ồ, thế đấy," tôi nói.

    "Ha ha. Nép sát gần chút nữa đi. Mùi hương của cô tuyệt lắm."

    "Anh cũng vậy đấy. Nhưng mà, nếu anh cứ tiếp tục quay vòng về tay trái có thể tôi sẽ nôn thốc ra đấy."

    Will đổi hướng quay. Hai cánh tay tôi níu quanh cổ anh, tôi ngã người ra sau một chút để nhìn anh, không còn chút ngại ngần nào nữa. Anh liếc xuống ngực tôi. Công bằng mà nói, với vị trí như tôi đang ngồi, anh cũng không thể nhìn vào chỗ nào khác được nữa. Anh đưa ánh mắt ra khỏi khe ngực tôi rồi nhướng một bên mày. "Cô thừa biết, cô sẽ không bao giờ ép bộ ngực sát vào tôi đến mức này nếu tôi không ngồi trên một cái xe lăn," anh lẩm bẩm.

    Tôi nhìn lại anh chằm chằm. "Anh sẽ chẳng bao giờ nhìn vào ngực tôi nếu anh không ngồi trên xe lăn."

    "Sao cơ? Dĩ nhiên là có nhìn rồi."

    "Không. Anh sẽ quá bận rộn nhìn những cô nàng chân dài tóc vàng với những đôi chân bất tận và mái tóc thổi bồng bềnh, những cô nàng có thể đánh hơi thấy một anh chàng ga lăng từ cách bốn mươi bước. Mà dù sao, tôi cũng sẽ không ở đây. Tôi có thể đã là một người phục vụ trong số kia. Một trong những người vô danh trước mắt anh."

    Anh nháy mắt.

    "Sao? Tôi nói đúng đấy chứ, phải không?"

    Will liếc nhìn về phía quầy rượu rồi nhìn lại tôi. "Đúng. Nhưng theo tôi được biết, cô Clark, tôi là một kẻ tạp ăn."

    Tôi bật cười vang lên đến nỗi nhiều người hơn nữa phải quay lại nhìn về hướng chúng tôi.

    Tôi cố giữ cho gương mặt nghiêm trang lại. "Xin lỗi," tôi lẩm bẩm. "Tôi nghĩ tôi đang bị quá khích."

    "Cô có biết gì không?"

    Lẽ ra tôi đã phải nhìn gương mặt anh suốt buổi tối nay. Khóe mắt nheo nheo.

    Hõm xương giữa cổ và vai. "Gì cơ?"

    "Đôi khi, cô Clark, cô chính xác là điều duy nhất khiến tôi muốn tỉnh dậy vào mỗi sớm mai."

    "Vậy chúng ta hãy đi đâu đó." Lời nói của tôi đã bay ra gần như trước khi tôi kịp hiểu tôi muốn nói gì.

    "Sao cơ?"

    "Chúng ta hãy đi đến một nơi nào đó. Hãy sống một tuần nơi chúng ta chỉ có niềm vui thôi. Anh và em. Không có bất kỳ ai trong số những..."

    Anh chờ đợi. "Thằng tồi?"

    "... thằng tồi. Nói ừ đi, Will. Đi." Hai mắt anh không rời khỏi mắt tôi.

    Tôi không biết mình đang nói gì nữa. Tôi không biết những lời nói đó từ đâu đến. Tôi chỉ biết nếu tôi không khiến anh nhận lời trong đêm nay, cùng với những tia sáng đèn màu, những bình hoa lan, với những tiếng cười và Mary, tôi sẽ không còn cơ hội nào nữa cả.

    "Đi mà."

    Những giây phút trước khi anh trả lời tôi kéo dài như vô tận. "Đồng ý," anh nói.
     
  5. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 19

    Nathan

    Họ nghĩ chúng tôi không biết. Cuối cùng gần trưa ngày hôm sau họ cũng đi đám cưới về, bà Traynor giận tới nỗi không nói nên lời. "Lẽ ra cô phải gọi chứ," bà nói.

    Bà đã không rời khỏi nhà chỉ để biết chắc họ về ổn cả. Từ lúc 8 giờ sáng khi tôi đến, tôi cứ nghe thấy tiếng bà đi lên đi xuống dãy hành lang bên cạnh.

    "Tôi đã gọi và nhắn tin cho cả hai người tới mười tám lần. Chỉ khi tôi xoay xở gọi được tới nhà Dewar và có người bảo tôi rằng 'ông ngồi xe lăn' vừa tới khách sạn thì tôi mới thở phào là hai người không bị tai nạn nghiêm trọng trên đường."

    "'Ông ngồi xe lăn'. Hay ghê," Will nhận xét.

    Nhưng rõ ràng là cậu chẳng bận tâm. Cậu đang hoàn toàn thảnh thơi thư giãn, khoe dấu tích rượu chè với vẻ hài hước, dù tôi có cảm giác cậu đang đau. Chỉ khi mẹ cậu bắt đầu quát Louisa thì nụ cười mới tắt trên môi cậu. Cậu nhảy vào nói rằng nếu có điều gì cần nói thì cô ấy chỉ cần nói với cậu, vì cậu là người quyết định ngủ lại qua đêm, và Louisa chỉ làm theo thôi.

    "Mẹ à, theo ý con thì là một người đàn ông 35 tuổi, con không nhất thiết phải báo cáo với bất kỳ ai trong chuyện chọn cách ngủ lại qua đêm ở khách sạn. Kể cả với bố mẹ mình."

    Bà nhìn chúng tôi trân trân, lẩm bẩm gì đó về "phép lịch sự tối thiểu" rồi ra khỏi phòng.

    Louisa hơi run, nhưng cậu ấy đã tiến lại nói thầm gì đó với cô, đó chính là khi tôi nhận ra chân tướng. Má cô chợt đỏ bừng, rồi cô cười phá lên, đó là tiếng cười của một người biết mình không nên cười nhưng chẳng ngừng được. Đó là tiếng cười ẩn chứa sự thông đồng. Rồi Will quay sang bảo cô nghỉ hết ngày hôm đó đi cho thoải mái. Về nhà, thay quần áo, có thể đánh một giấc.

    "Anh không thể đi dạo quanh lâu đài với một cô nàng rõ là vừa đi hoang đêm qua," cậu nói.

    "Đi hoang?" Tôi không giấu nổi vẻ ngạc nhiên.

    "Không phải đi hoang như ông nghĩ đâu," Louisa nói, phất khăn quàng cổ vào tôi, rồi chộp lấy áo khoác và bỏ về.

    "Lấy xe mà đi," cậu gọi với ra. "Như thế em sẽ về nhà chóng hơn." Tôi nhìn ánh mắt Will dõi theo cô trên đường ra cửa sau.

    Chỉ dựa vào ánh mắt ấy thôi tôi cũng dám đánh cược bảy ăn bốn với các bạn rồi.

    Khi cô ấy đi rồi, cậu hơi xịu xuống. Có vẻ như cậu đã phải gồng mình cho tới khi mẹ cậu và Louisa rời khỏi khu nhà phụ. Lúc này tôi quan sát cậu rất kỹ, tôi nhận ra mình không thích vẻ mặt cậu khi nụ cười biến mất khỏi gương mặt ấy.

    Da cậu hơi tấy, cậu đã nhăn mặt hai lần khi cậu nghĩ không có ai nhìn, và thậm chí đứng từ đây tôi cũng có thể thấy cậu đang run. Một hồi chuông cảnh báo nho nhỏ bắt đầu vang lên trong đầu tôi, xa xa nhưng nhức nhối.

    "Cậu có ổn không Will?" "Tôi ổn. Đừng lo."

    "Cậu muốn nói cho tôi biết cậu đau ở đâu chứ?"

    Vẻ mặt cậu hơi cam chịu, vì cậu biết tôi đi guốc trong dạ cậu. Chúng tôi đã hợp tác với nhau lâu rồi.

    "Được rồi. Hơi đau đầu. Và... ừm... tôi cần thay ống thông tiểu. Có lẽ hơi đầy rồi."

    Tôi đã chuyển cậu từ xe lên giường, giờ tôi bắt đầu gom ống thông lại. "Sáng nay Lou thay cho cậu lúc mấy giờ?"

    "Cô ấy không thay." Cậu nhăn nhó. Vẻ mặt cậu tỏ ra có lỗi. "Đêm qua cũng không."

    "Cái gì?"

    Tôi bắt mạch cho cậu, rồi gắn máy đo huyết áp. Quả nhiên huyết áp cao vọt. Khi tôi đặt tay lên trán cậu, cậu quay đi để lại một lớp mồ hôi mỏng. Tôi đi tới tủ đựng thuốc, lấy mấy viên thuốc giãn mạch. Tôi hòa thuốc vào nước rồi đưa cho cậu, ép cậu uống tới giọt cuối cùng. Rồi tôi dựng cậu dậy, để chân cậu thõng xuống giường, rồi vừa thay ống thông thật nhanh vừa quan sát cậu cẩn thận.

    "AD à?"

    "Ừ. Không phải là bước đi khôn ngoan nhất đâu Will."

    Tăng phản xạ tự phát (Autonomic Dysreflexia) là ác mộng khủng khiếp nhất của chúng tôi. Đó là sự phản ứng dữ dội của cơ thể Will chống lại cơn đau, sự khó chịu - hoặc ứ tiểu - hệ thống thần kinh đã suy yếu của cậu tuyệt vọng và mất phương hướng trong nỗ lực điều khiển. Nó đột ngột xuất hiện và khiến cơ thể cậu suy sụp. Vẻ mặt cậu nhợt nhạt, hơi thở nặng nhọc.

    "Da cậu thế nào?" "Hơi râm ran." "Thị lực."

    "Ổn."

    "Này anh bạn. Cậu có nghĩ chúng ta cần giúp đỡ?"

    "Cho tôi mười phút, Nathan. Tôi chắc ông vừa làm mọi thứ chúng ta cần rồi. Cho tôi mười phút nhé."

    Cậu nhắm mắt. Tôi lại đo huyết áp cho cậu, tự hỏi mình nên để yên thế này bao lâu trước khi gọi xe cứu thương. AD khiến tôi sợ đến phát khùng vì chẳng ai biết nó sẽ biến chứng ra sao. Trước đây cậu ấy đã bị một lần hồi tôi mới tới làm việc với cậu, cuối cùng cậu ấy đã phải vào nằm viện hai ngày.

    "Thật đấy, Nathan. Tôi sẽ báo với ông nếu tôi nghĩ chúng ta đang gặp chuyện."

    Cậu thở dài, tôi giúp cậu ngả lưng, dựa người vào thành giường.

    Cậu kể với tôi rằng Louisa đã quá say nên cậu không muốn liều mạng để cô thay ống thông tiểu. "Chúa mới biết cô ấy có thể nhét mấy cái ống chết giẫm vào đâu." Khi nói vậy, cậu hơi phì cười. Cậu nói Louisa phải mất gần nửa tiếng mới đưa được cậu ra khỏi xe để nằm lên giường. Cả hai bọn họ hít sàn hai phát. "May là khi ấy cả hai chúng tôi đều say nên chẳng biết trời đất gì nữa." Cô ấy vẫn còn tí trí khôn nên đã gọi xuống quầy tiếp tân, thế là người ta bảo một ông gác cổng lên giúp nâng đỡ cậu. "Thằng cha tử tế. Tôi nhớ láng máng là tôi cứ khăng khăng bảo Louisa boa cho y năm mươi bảng. Tôi biết cô ấy say mềm rồi vì cô ấy cũng đồng tình."

    Khi cuối cùng cô rời khỏi phòng Will, cậu lo sợ cô không biết đường về phòng của cô. Cậu cứ tưởng tượng ra cảnh cô nằm co ro như một trái bóng đỏ nhỏ bé trên cầu thang.

    Chỉ riêng trong thời điểm ấy, quan điểm của tôi về Louisa Clark có hơi kém rộng lượng một chút. "Will, anh bạn này, tôi nghĩ lần tới cậu nên lo lắng nhiều hơn cho bản thân một chút, được không?"

    "Tôi ổn mà, Nathan. Tôi khỏe. Giờ cảm thấy tốt hơn rồi."

    Tôi cảm thấy cậu nhìn mình chăm chú khi tôi bắt mạch cho cậu. "Thật đấy. Không phải lỗi của cô ấy đâu."

    Huyết áp của cậu đã giảm. Sắc mặt cậu đang trở lại bình thường trước mắt tôi. Khi thở hắt ra tôi mới biết mình đã kìm nén nãy giờ.

    Chúng tôi trò chuyện một chút, giết thời gian khi mọi thứ dần ổn định lại, bàn tán về những sự kiện của ngày hôm qua. Cậu có vẻ chẳng chút bận lòng về cô người yêu cũ. Cậu không nói nhiều, nhưng dù mệt mỏi thấy rõ, cậu vẫn tỏ ra rất ổn.

    Tôi thả cổ tay cậu ra. "Mà này, hình xăm hay đấy." Cậu nhìn tôi với ánh mắt châm biếm.

    "Phải đảm bảo cậu không hoàn tất bằng 'kết thúc ngày...' đấy nhé."

    Dù người đổ mồ hôi và đau đớn vì nhiễm trùng, lần đầu tiên trông cậu có vẻ như đang nghĩ tới một điều gì đó khác cái điều thường trực thiêu đốt cậu bấy nay. Tôi không thể không nghĩ rằng nếu bà Traynor biết được điều này, có lẽ bà đã không giận dữ tới thế.

    Chúng tôi không hé răng với Lou những chuyện ban trưa - Will bắt tôi hứa im lặng - nhưng khi trở lại vào buổi chiều, cô khá lặng lẽ. Trông cô xanh xao, mái tóc mới gội buộc ra sau như thể cô đang cố gắng tỏ ra vui vẻ. Tôi đoán xem cảm giác của cô bây giờ ra sao; sau cơn say hôm trước, đôi khi bạn vẫn cảm thấy khỏe mạnh vào buổi sáng, nhưng thật ra đó chỉ là vì ta vẫn còn hơi say. Cảm giác cồn cào của cơn say lúc trước đang giỡn mặt bạn, nghĩ xem nên xuất chiêu lúc nào. Tôi nghĩ nó đã ra tay hành hạ cô vào buổi trưa.

    Nhưng một lát sau, chúng tôi mới hay không chỉ có cảm giác cồn cào đang làm cô khó chịu.

    Will cứ hỏi mãi xem vì sao cô im lặng thế, cuối cùng cô nói, "À, ờ, em vừa phát hiện ra ngủ qua đêm ở ngoài khi vừa mới chuyển tới sống với bạn trai không phải là một việc làm khôn ngoan cho lắm."

    Khi nói vậy cô mỉm cười, nhưng đó là một nụ cười gượng gạo, thế nên cả tôi và Will đều biết chắc chắn họ đã cãi nhau to.

    Tôi không thể trách anh chàng đó được. Tôi không muốn bà xã qua đêm với gã nào sất, kể cả y bị liệt tứ chi. Mà đó là anh ta còn chưa thấy cách Will nhìn cô ấy đấy.

    Chiều hôm đó chúng tôi không làm gì nhiều. Louisa soạn đồ trong ba-lô của Will ra, để lộ mọi món đồ miễn phí của khách sạn mà cô có thể chôm về như dầu gội, dầu xả, hộp nhỏ đựng đồ may vá, mũ chụp đầu. ("Đừng cười," cô nói. "Với giá phòng ở đó Will đã trả cho cả một công ty sản xuất dầu gội ấy chứ.") Chúng tôi xem một bộ phim hoạt hình Nhật Bản mà Will bảo là nói rất hay về chứng say rượu, rồi tôi cứ lưu lại quẩn quanh - một phần vì tôi muốn để mắt tới huyết áp của cậu, còn một phần nữa thì nói thật là vì tôi đang láu cá một tí. Tôi muốn xem phản ứng của cậu khi tôi tuyên bố sẽ xem phim cùng cả hai bọn họ.

    "Thật á?" cậu thốt lên. "Ông thích đạo diễn Miyazaki à?"

    Cậu biết mình hớ ngay, nên cậu nói rằng tất nhiên tôi sẽ rất thích cho mà xem... nó là một bộ phim tuyệt vời... blah, blah, blah. Nhưng lộ tẩy rồi. Tôi mừng cho cậu, trong một chừng mực nào đó. Anh chàng ấy đã nghĩ về một thứ duy nhất quá lâu rồi.

    Thế là chúng tôi cùng xem phim. Kéo rèm xuống, gác điện thoại bàn, và xem bộ phim hoạt hình ngộ nghĩnh kể về một cô gái lãng du vào một vũ trụ song song, nơi có vô khối sinh vật kỳ quặc, một nửa trong số đó chẳng rõ là kẻ tốt hay kẻ xấu. Lou ngồi ngay ngắn bên cạnh Will, đưa nước cho cậu, rồi có khi còn chùi mắt cho cậu vì có bụi bay vào. Tình cảm ấy thật quá đỗi ngọt ngào, dù một góc nhỏ trong tôi tự hỏi chuyện này sẽ dẫn tới chỗ quái quỷ nào.

    Sau đó, khi Louisa kéo rèm cửa lên và pha trà cho cả ba người, họ nhìn nhau như thể hai con người đang tự hỏi có nên cho người thứ ba tham dự vào bí mật của mình không, rồi họ kể với tôi rằng họ sắp đi chơi xa. Mười ngày. Chưa biết sẽ đi đâu, nhưng đó sẽ là một chuyến đi xa và sẽ rất tuyệt. Họ hỏi tôi có thể tới giúp một tay không?

    Dĩ nhiên rồi!

    Tôi phải ngả mũ trước cô gái ấy. Nếu bốn tháng trước có ai bảo tôi rằng chúng tôi sẽ đưa được Will đi chơi xa - Chúa ơi, chỉ là chúng tôi sẽ đưa được cậu ấy ra khỏi căn nhà này - tôi sẽ nói với người đó rằng hắn bị hâm. Thật tình, tôi vừa nói riêng với cô ấy về việc chăm sóc y tế cho Will trước khi chúng tôi lên đường. Chúng tôi không thể trả giá cho một cuộc đi chơi không tính toán trước gây nguy hại nghiêm trọng như chuyến đi vừa rồi nữa nếu chúng tôi bị mắc kẹt ở nơi đồng không mông quạnh.

    Họ thậm chí đã nói với bà T khi bà ghé qua, ngay trước khi Louisa ra về. Will nói điều đó, như thể nó chẳng ghê gớm gì hơn chuyện cậu ấy dạo chơi quanh lâu đài.

    Phải nói là tôi rất mừng. Trang web đánh bài trên mạng chết tiệt đã ngốn hết tiền của tôi, thế nên năm nay tôi còn chẳng có kế hoạch đi nghỉ ở đâu cả. Tôi thậm chí cũng tha lỗi cho Louisa vì đã ngốc nghếch nghe lời Will khi cậu bảo không muốn cô thay ống thông tiểu. Và tin tôi nhé, lúc trước tôi đã giận sôi người về chuyện đó đấy. Mọi chuyện lúc này có vẻ thật tuyệt vời, và tôi vừa huýt sáo vừa xốc áo choàng vào vai, đã bắt đầu mơ về cát trắng biển xanh. Tôi thậm chí còn nghĩ xem liệu mình có thể tạt về thăm nhà ở Auckland được không.

    Thế rồi tôi thấy họ - bà Traynor đứng bên cửa sau, còn Lou thì nán lại chưa bước xuống đường. Tôi không biết họ có thể nói chuyện gì, nhưng cả hai đều tỏ vẻ căng thẳng.

    Tôi chỉ nghe được câu cuối, nhưng thực tình thế là đủ với tôi. "Tôi hy vọng cô biết mình đang làm gì, Louisa."

     
  6. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88

    "Em nói gì?"

    Chúng tôi đang leo lên những ngọn đồi ngay ngoại ô thị trấn khi tôi nói với anh điều đó. Patrick đã chạy được một nửa trong chặng đường dài mười sáu dặm, anh muốn tôi đạp xe theo sau để tính giờ cho anh. Tôi kém trong môn xe đạp còn hơn cả trong môn vật lý hạt nhân, chính vì vậy mà tôi cứ chửi thề và đi chệch choạc liên tục còn anh thì hét lên giận dữ không biết bao nhiêu lần. Thật ra anh muốn làm một cuốc chạy hai mươi tư dặm, nhưng tôi đã nói với anh rằng tôi không nghĩ cái mông của tôi có thể chịu đựng được, và hơn nữa một trong hai người chúng tôi cần phải tới cửa hàng sau khi chúng tôi về nhà. Trong nhà đã hết sạch kem đánh răng và cà-phê hòa tan. Mặc dù chỉ có mình tôi cần tới cà- phê. Patrick chỉ dùng trà thảo mộc.

    Khi hai chúng tôi lên đến đỉnh ngọn đồi Sheepcote, tôi thở phì phò, hai chân nặng như chì, tôi quyết định phải nói ra ngay ở đoạn này. Tôi đã tính chúng tôi sẽ còn mười dặm quay trở về nhà để anh phục hồi tâm trạng.

    "Em sẽ không đến chỗ cuộc thi Xtreme Viking."

    Anh vẫn không dừng lại nhưng anh chạy đến gần tôi. Anh quay mặt lại nhìn tôi, hai chân vẫn di chuyển liên tục, trông anh kinh ngạc tới nỗi tôi suýt chút nữa đâm chệch vào một cái cây.

    "Cái gì cơ? Tại sao?" "Em phải... làm việc."

    Anh quay trở lại đường chạy và tăng tốc. Chúng tôi lên tới đỉnh đồi, tôi phải siết phanh đôi chút để không vượt trước anh.

    "Thế em đã quyết định việc này từ khi nào?" Những giọt mồ hôi chảy ròng ròng trên trán và chi chít đường gân nổi lên trên bắp chân anh. Tôi không dám nhìn chúng quá lâu hay là tôi đã bắt đầu do dự.

    "Từ hôm cuối tuần. Em muốn để chắc chắn đã."

    "Nhưng bọn anh đã đặt vé máy bay và mọi thứ khác cho em."

    "Chỉ là hàng không giá rẻ thôi mà. Em sẽ trả anh 39 bảng nếu anh thấy băn khoăn."

    "Không phải vấn đề tiền bạc. Anh đã nghĩ là em sẽ đến cổ vũ anh. Em nói là em sẽ đến cổ vũ anh rồi còn gì."

    Patrick, anh khá dễ sưng sỉa mặt mày. Hồi mới yêu, tôi thường trêu chọc anh về chuyện đó. Tôi gọi anh là Ngài Cau Có. Điều đó làm tôi bật cười, còn anh thì bực mình đến nỗi anh thường thôi nhăn nhó chỉ vì muốn tôi không trêu cợt nữa.

    "Ôi, thôi nào. Chẳng phải em đang cổ vũ anh đây sao? Em ghét đạp xe, Patrick. Anh biết là em ghét mà. Nhưng em vẫn luôn ủng hộ anh."

    Chúng tôi đi thêm một dặm nữa thì anh nói tiếp. Có thể chỉ là với lỗ tai tôi, nhưng tiếng bước chân huỳnh huỵch của Patrick trên đường nghe cứ rầm rầm như đang trút giận. Bây giờ chúng tôi đã lên rất cao so với thị trấn nhỏ bé, tôi thở phì phò với những quãng đường leo đồi, cố gắng bất thành trong việc ngăn trái tim không nhảy tưng lên mỗi khi có một chiếc xe hơi chạy ngang qua. Tôi đang đạp chiếc xe đạp cũ của mẹ (Patrick chẳng bao giờ cho tôi bén mảng lại gần con xe đua quái vật của anh) và nó không có líp nhiều tầng nên tôi thường xuyên bị bỏ lại sau lưng anh.

    Anh liếc nhìn ra phía sau rồi chạy chậm lại một chút để tôi đạp xe lên ngang hàng. "Thế tại sao họ không thuê một người từ trung tâm dịch vụ?" anh hỏi.

    "Một người từ trung tâm dịch vụ?"

    "Đến nhà Traynor. Ý anh là nếu em làm ở đấy sáu tháng thì em phải có quyền có một ngày nghỉ phép chứ."

    "Không đơn giản như vậy đâu."

    "Anh chẳng hiểu vì sao lại không. Nói cho cùng thì em đã tới đó làm việc mà không biết một cái gì cả."

    Tôi nín thở. Điều này thật không dễ vì tôi đã hết hơi sau cuốc xe. "Bởi vì anh ấy cần có một chuyến du lịch." "Cái gì cơ?"

    "Anh ấy phải đi du lịch. Vì thế họ cần em và Nathan ở đó để giúp đỡ anh ấy."

    "Nathan nào? Nathan là ai?"

    "Người chăm sóc y tế của anh ấy. Là người đàn ông mà anh đã gặp hôm Will đến nhà mẹ em."

    Tôi biết Patrick đang nghĩ ngợi về chuyện đó. Anh gạt mồ hôi rớt trên hai mắt.

    "Và để em trả lời luôn trước khi anh phải hỏi," tôi nói thêm, "không, em không có hẹn hò gì với Nathan hết."

    Anh chạy chậm lại, liếc nhìn xuống mặt đường, cho đến khi anh chỉ còn giậm chân tại chỗ. "Chuyện này là gì hả Lou? Bởi vì... bởi vì anh cảm thấy ở đây có một ranh giới đang bị xóa nhòa đi giữa cái gì là công việc và cái gì là..." anh nhún vai, "... đời thường."

    "Đó không phải một công việc bình thường. Anh biết vậy mà."

    "Nhưng giờ đây Will Traynor dường như được ưu tiên trên tất cả mọi thứ." "Ôi, thế cái này thì không sao?" Tôi rút một tay khỏi ghi-đông và chỉ về phía đôi chân anh đang nâng lên hạ xuống.

    "Đó là chuyện khác. Anh ta cần là em đi liền." "Thì anh chạy, còn em đi." Tôi cố mỉm cười. "Quá nực cười." Anh quay mặt đi.

    "Sáu tháng thôi, Pat. Chỉ sáu tháng. Rốt cuộc anh là người đã nghĩ em nên nhận công việc này còn gì. Anh không thể bắt bẻ em vì em xem chuyện này là quan trọng được."

    "Anh không nghĩ... Anh không nghĩ đó là vì công việc... Anh chỉ... Anh cứ nghĩ là có điều gì đó em không nói với anh."

    Tôi im lặng, trong một lúc rất lâu. "Không phải thế đâu." "Nhưng em sẽ không đến cuộc thi Viking."

    "Em đã nói với anh rồi, em..."

    Anh lắc lắc đầu nhè nhẹ, giống như anh không thể nghe rõ điều tôi nói. Rồi anh bắt đầu chạy trở xuống con đường, bỏ xa phía trước tôi. Nhìn cơ lưng anh, tôi biết anh đang tức giận tới mức nào.

    "Ôi, thôi nào, Patrick. Chúng ta không thể dừng lại một phút để bàn luận chuyện này sao?"

    Giọng nói của anh rất ngang ngạnh. "Không. Nó sẽ làm mất thời gian của anh."

    "Thì chúng ta hãy dừng đồng hồ đếm giờ lại. Chỉ năm phút thôi." "Không. Anh phải chạy trong đúng những điều kiện thực."

    Anh bắt đầu chạy nhanh hơn như thể anh vừa có thêm động lượng mới.

    "Patrick?" tôi nói, đột nhiên cố gắng hết sức để bắt kịp anh. Hai chân tôi trượt khỏi bàn đạp, rồi tôi chửi thề, hất bàn đạp trở lại rồi tiếp tục tiến tới. "Patrick? Patrick!"

    Tôi nhìn chằm chằm vào phía sau đầu anh và những lời nói bay ra khỏi miệng tôi hầu như trước cả khi tôi biết mình đang nói gì. "Được rồi. Will muốn chết. Anh ấy muốn tự tử. Và chuyến đi này là nỗ lực cuối cùng của em để thay đổi ý định đó."

    Sải chân của Patrick ngắn dần rồi chậm lại. Anh dừng ở phía trước, thẳng lưng, vẫn ngoảnh mặt đi chỗ khác. Anh từ từ quay người. Cuối cùng anh thôi không giậm chân nữa.

    "Nói lại xem."

    "Anh ấy muốn đến Dignitas. Vào tháng Tám. Em đang cố gắng để thay đổi ý định của anh ấy. Đây là cơ hội cuối cùng mà em có."

    Anh nhìn chằm chằm vào tôi như thể anh không biết chắc có thể tin lời tôi không.

    "Em biết chuyện này nghe rất điên rồ. Nhưng em phải thay đổi ý định đó. Vì thế... vì thế em không thể tham dự cuộc thi Viking được."

    "Tại sao trước đây em không nói với anh?"

    "Em phải cam đoan với gia đình anh ấy là không nói với bất kỳ ai. Sẽ thật khủng khiếp cho họ nếu chuyện này lộ ra ngoài. Khủng khiếp. Anh nghe này, ngay cả anh ấy cũng không biết là em biết chuyện. Tất cả chuyện này đều rất... bí mật. Em xin lỗi." Tôi đưa tay chạm vào anh. "Lẽ ra em đã nói với anh nếu em được phép."

    Anh không trả lời. Trông anh tan nát, giống như tôi đã làm một điều gì đó rất tồi tệ. Có một nếp nhăn mờ trên gương mặt anh, rồi anh nuốt khan hai lần, đầy khó nhọc.

    "Pat..."

    "Không. Chỉ là... bây giờ anh chỉ cần chạy thôi, Lou. Một mình anh." Anh lùa một bàn tay lên tóc. "Được chứ?"

    Tôi nuốt. "Được rồi."

    Anh nhìn quanh trong chốc lát như thể thậm chí đã quên mất tại sao chúng tôi đến chỗ này. Sau đó anh tiếp tục lao đi, tôi nhìn anh biến mất trên con đường trước mặt, đầu anh hoàn toàn hướng thẳng về phía trước, hai chân dộng liên tục lên nền đường.

    Tôi đã viết một yêu cầu lên diễn đàn ngay sau hôm chúng tôi trở về từ đám cưới.

    Có ai chỉ cho tôi một địa điểm mà người bị liệt tứ chi có thể thực hiện những cuộc phiêu lưu được không? Tôi đang tìm kiếm những thứ mà một người khỏe mạnh có khả năng làm được, những thứ có thể làm người bạn khổ đau của tôi quên đi trong giây lát rằng cuộc sống của anh hơi hạn chế. Tôi thật không biết mình đang hy vọng vào điều gì nhưng tôi đón nhận mọi gợi ý với lòng biết ơn sâu sắc. Mong mỏi này rất cấp thiết.

    Ong Chăm Chỉ.

    Khi đăng nhập vào diễn đàn tôi nhìn chằm chằm vào màn hình không tin nổi. Có tám mươi chín câu trả lời. Tôi cuộn lên cuộn xuống thanh trượt màn hình, ban đầu không chắc lắm có phải tất cả họ chỉ trả lời câu hỏi của tôi hay không. Sau đó tôi liếc quanh những người đang sử dụng máy tính khác trong thư viện, tuyệt vọng chờ đợi một người nào đó nhìn lại mình để tôi có thể nói cho họ biết. Tám-mươi-chín câu trả lời! Cho một câu hỏi duy nhất!

    Có những câu chuyện về trò nhảy bungee cho những người bị liệt tứ chi, những câu chuyện về bơi lội, chạy ca-nô, thậm chí là cưỡi ngựa, với sự trợ giúp của một loại khung nẹp đặc biệt. (Khi xem video mà họ gửi kèm, tôi hơi thất vọng vì Will đã từng nói với tôi rằng anh thật sự không thể chịu được lũ ngựa. Cảnh trong video quá tuyệt vời.)

    Có những cuộc bơi với cá heo hoặc lặn bằng bình dưỡng khí cùng mấy người hỗ trợ. Có những chiếc xe lăn tự nổi giúp anh đi câu cá và những loại xe mô-tô bốn bánh phù hợp mà anh có thể tham gia các cuộc chạy xe mạo hiểm. Một vài người trong số họ đã đăng những tấm hình và video mà chính họ đã tham dự vào những hoạt động đó. Vài ba người, trong đó có Ritchie, nhớ ra những bài tôi đăng trên diễn đàn trước đây và muốn biết hiện giờ anh bạn tôi ra sao.

    Tất cả điều này nghe như là tin vui. Cậu ấy đã cảm thấy tốt hơn chưa?

    Tôi đánh máy một câu trả lời nhanh:

    Có thể. Nhưng tôi đang hy vọng chuyến đi thật sự tạo ra điều khác biệt.

    Ritchie nhắn lại:

    Một cô gái tuyệt vời! Nếu cô có kinh phí để thực hiện thì chẳng có giới hạn nào hết!

    Scootagirl viết:

    Nhớ đăng những tấm hình anh ấy mang đai nhảy bungee lên nhé. Rất thích nhìn khuôn mặt của những chàng trai khi họ lộn ngược đầu xuống!

    Tôi yêu họ - những người bị liệt tứ chi này và người chăm sóc của họ - vì sự khích lệ, tính phóng khoáng và trí tưởng tượng của họ. Tôi mất hai giờ đồng hồ đêm hôm đó viết ra những gợi ý của họ, dõi theo những đường link họ gửi dẫn đến các website liên quan mà họ đã từng thử và kiểm nghiệm, thậm chí còn tham gia vào một số chat-room. Đến khi rời khỏi thư viện tôi đã tìm được điểm đến; chúng tôi sẽ đến California, đến trang trại Four Winds, một trung tâm điều trị đặc biệt có hỗ trợ chuyên môn "theo một cách khiến bạn quên đi rằng bạn cần đến sự hỗ trợ", theo như trung tâm này ghi trên website của nó. Bản thân trang trại này, một tòa nhà gỗ lâu đời ngự trong một khoảng rừng trống gần vườn quốc gia Yosemite, được dựng lên bởi một người từng làm nghề diễn viên đóng thế, ông đã không chịu để cho chấn thương cột sống của mình hạn chế những điều ông có thể làm được, và trong quyển lưu niệm trên mạng dành cho khách tham quan tràn ngập niềm vui và lòng biết ơn của những người đã đến đây du lịch, những người thề rằng ông đã thay đổi cách họ cảm nhận về khiếm khuyết của mình - và về chính họ. Ít nhất có sáu thành viên trong diễn đàn này đã từng tới đó, và tất cả đều nói rằng nơi ấy đã biến đổi hoàn toàn cuộc sống của họ.

    Trang trại này rất tiện với việc sử dụng xe lăn, lại có những thiết bị như trong một khách sạn sang trọng. Có nhiều bồn tắm chìm ngoài trời với những chiếc ghế nâng bên trong và những nam chuyên gia xoa bóp trị liệu. Trong khuôn viên trang trại có dịch vụ chăm sóc y tế và một rạp chiếu phim với những khoảng trống dành cho người dùng xe lăn bên cạnh những dãy ghế thông thường. Có một bể nước nóng tiện sử dụng ở ngoài trời để mọi người ngồi ngắm sao. Chúng tôi sẽ ở đấy một tuần, rồi sau đó sẽ ở vài ngày trong khu liên hợp khách sạn sát bờ biển để Will bơi lội và ngắm nhìn bãi đá dọc bờ biển. Tuyệt nhất là tôi đã tìm được trò cực đỉnh cho kỳ nghỉ mà Will không bao giờ có thể quên được - một cuộc nhảy dù, với sự hỗ trợ của những huấn luyện viên đã được đào tạo để giúp người liệt tứ chi thực hiện màn nhảy. Họ có các thiết bị đặc biệt để quấn Will vào đó (rõ ràng, điều quan trọng nhất là phải buộc chặt chân của người chơi lại để đầu gối không thể bay ngược lên và đập vào mặt họ).

    Tôi sẽ cho anh xem sách bướm của khách sạn, nhưng tôi sẽ không nói gì với anh về những chuyện này. Tôi sẽ cứ thế đến đó cùng anh và rồi xem anh thực hiện các trò mạo hiểm. Trong những giây phút hiếm hoi và quý giá đó Will sẽ được tự do không trọng lượng. Anh sẽ thoát khỏi cái xe lăn đáng nguyền rủa. Thoát khỏi áp lực của cơ thể.

    Tôi in ra tất cả các thông tin và đặt trang viết về trò nhảy dù lên trên cùng. Bất cứ khi nào nhìn vào đó tôi đều cảm thấy một chút hứng khởi đang nhen nhóm hình thành - cả vì ý nghĩ đó là chuyến du lịch dài ngày đầu tiên của tôi, lẫn ý nghĩ đó có thể chính là giải pháp.

    Đó có thể chính là thứ sẽ thay đổi quyết định của Will.

    Sáng hôm sau tôi đưa cho Nathan xem, hai chúng tôi lúi húi bên tách cà-phê trong bếp như thể đang làm việc gì bí mật lắm. Ông liếc nhanh qua những trang giấy tôi đã in ra.

    "Tôi đã nói chuyện với những người bị liệt tứ chi khác về nhảy dù. Không có lý do y tế nào anh ấy không thể làm được việc đó. Cả nhảy bungee nữa. Họ có những loại khung nẹp chuyên dụng để loại bỏ tất cả áp lực tiềm năng lên xương sống của anh ấy."

    Tôi quan sát gương mặt ông một cách lo lắng. Tôi biết Nathan không đánh giá cao khả năng của tôi trong vấn đề liên quan đến tình trạng sức khỏe của Will. Với tôi việc ông hài lòng trước những gì tôi định làm là vô cùng quan trọng.

    "Ở đó có tất cả những thứ chúng ta cần. Họ cho biết nếu chúng ta gọi đến trước và đưa cho họ một đơn thuốc của bác sỹ, họ thậm chí có thể cung cấp bất kỳ loại thuốc nào, như vậy chúng ta sẽ không bao giờ bị hết thuốc."

    Ông cau mày. "Nghe có vẻ hay đấy," cuối cùng ông nói. "Cô đã làm một việc rất cừ."

    "Ông có nghĩ là anh ấy sẽ thích không?"

    Ông nhún vai. "Tôi không biết nữa. Nhưng..." ông đưa lại cho tôi tập giấy "... bấy nay cô vẫn làm chúng tôi rất ngạc nhiên, Lou ạ." Nụ cười của ông có vẻ ranh mãnh lóe lên từ gương mặt nhìn nghiêng của ông. "Không có lý do gì cô không thể làm lại như vậy nữa."

    Tôi đưa cho bà Traynor xem trước khi tôi ra về vào buổi tối.

    Bà vừa cho xe chạy vào ngõ, tôi nấn ná, tránh khỏi tầm nhìn từ cửa sổ của Will rồi đi lại chỗ bà. "Tôi biết thực hiện chuyến đi này rất đắt đỏ," tôi nói. "Nhưng... tôi nghĩ nó rất thú vị. Tôi thật sự nghĩ Will có thể tận hưởng cuộc sống. Nếu... nếu bà hiểu ý tôi muốn nói."

    Bà lặng lẽ liếc nhìn xuống tập giấy rồi phân tích những con số tôi đã soạn ra.

    "Tôi sẽ trả cho phần của tôi, nếu bà muốn. Chi phí ăn ở của tôi. Tôi không muốn bất cứ ai phải nghĩ..."

    "Tốt rồi," bà nói, cắt ngang lời tôi. "Cứ làm những việc mà cô cho là cần thiết. Nếu cô nghĩ cô có thể đưa nó đi thì hãy đặt lịch."

    Tôi hiểu điều bà đang nói. Không còn thời gian cho bất cứ thứ gì nữa. "Cô có nghĩ cô có thể thuyết phục được nó không?" bà nói.

    "Ờ... nếu tôi... nếu tôi tỏ ra với anh ấy đó là..." tôi nuốt khan, "... một phần vì lợi ích của tôi. Anh ấy nghĩ tôi chưa bao giờ sống cuộc đời mình một cách đầy đủ. Anh ấy cứ nói rằng tôi nên đi đây đi đó. Rằng tôi nên... thử nhiều trò."

    Bà nhìn tôi hết sức thận trọng. Bà gật đầu. "Rồi. Nghe đúng giọng Will." Bà đưa lại cho tôi tập giấy.

    "Tôi..." tôi hít vào một hơi, rồi sau đó, thật lạ lùng, tôi thấy mình không thể nói nên lời nữa. Tôi nuốt vào khó nhọc, hai lần. "Những điều bà đã nói trước đây. Tôi..."

    Bà dường như không muốn chờ tôi lên tiếng. Bà gật mạnh, những ngón tay mảnh dẻ của bà đưa lên cầm sợi giây chuyền trên cổ. "Phải. Rồi, tốt hơn tôi nên vào nhà. Tôi sẽ gặp cô vào ngày mai. Hãy cho tôi biết nó nói gì."

    Tối hôm đó tôi không trở lại nhà Patrick. Tôi đã định đến nhưng có một cái gì đó kéo tôi rời xa khu công nghiệp và thay vào đó tôi băng qua đường đón chuyến xe buýt về nhà. Tôi bước 180 bước chân về đến ngôi nhà của chúng tôi rồi đi vào trong. Đó là một buổi tối ấm áp, tất cả các cửa sổ đều mở để đón gió. Mẹ tôi đang nấu ăn, hát vọng ra từ trong bếp. Bố ngồi trên sofa bên một cốc trà đầy, ông ngoại gà gật trên chiếc ghế quen thuộc, đầu ông nghiêng về một bên. Thomas đang hí hoáy vẽ bút dạ đen lên đôi dép của nó. Tôi chào mọi người rồi đi ngang qua phòng khách, băn khoăn tự hỏi sao mọi thứ có vẻ thay đổi nhanh vậy, cứ như tôi không còn thuộc về nơi này nữa.

    Treena đang làm việc trong phòng của tôi. Tôi gõ cửa rồi bước vào trong thì thấy nó đang ngồi bên bàn, cúi người bên một chồng sách vở, cặp kính treo trên mũi nó tôi chưa thấy bao giờ. Thật lạ lùng khi nhìn cảnh nó ngồi giữa những thứ đồ tôi đã chọn mua cho mình, khi nhìn tranh ảnh của Thomas đã che kín bức tường mà tôi sơn rất cẩn thận, nét chì nguệch ngoạc của nó chi chít góc bức mành cửa của tôi. Tôi phải cố hết sức bình tĩnh để không phẫn nộ như một phản ứng tự nhiên nữa.

    Nó liếc nhìn tôi ngang qua vai. "Mẹ gọi em à?" nó hỏi, nhìn lên đồng hồ. "Em cứ nghĩ mẹ sắp làm bữa lửng cho Thomas."

    "Mẹ làm rồi. Nó đang ăn cá tẩm bột rán."

    Nó nhìn tôi rồi bỏ cặp kính ra. "Chị ổn chứ? Trông chị thê thảm vậy." "Em cũng thế."

    "Em biết. Em đã thực hành chế độ ăn kiêng chết tiệt này. Nó làm em bị phát ban." Nó đưa tay lên cằm.

    "Em đâu cần phải ăn kiêng."

    "Phải. Ờ... là vì em thích một gã trong lớp Kế toán 2. Em đã nghĩ có lẽ em nên nỗ lực thử xem. Một đống nốt to đùng trên mặt cũng đẹp đấy chứ, phải không?"

    Tôi ngồi xuống giường. Đó là tấm ga của tôi. Tôi biết Patrick sẽ ghét nó vì những họa tiết hình học phá cách trên đó. Nhưng tôi thật ngạc nhiên vì Katrina lại không ghét.

    Nó gập cuốn sách lại và tựa người ra sau ghế. "Có chuyện gì vậy?" Tôi cắn chặt môi cho đến khi nó lên tiếng hỏi lại.

    "Treen, em có nghĩ chị có thể đi học nghề không?" "Học nghề? Ví dụ như nghề gì?"

    "Chị không biết. Nghề gì đó về thời trang. Thiết kế chẳng hạn. Hoặc có thể chỉ là thợ may."

    "Ờ... hiển nhiên là có những khóa học như thế rồi. Em chắc chắn ở trường em cũng có đấy. Để em tìm hiểu cho, nếu chị muốn."

    "Nhưng họ có nhận người như chị không? Người chẳng trình độ ấy mà?"

    Nó tung bút lên không rồi tóm lấy. "Ồ, họ thích sinh viên lớn tuổi. Đặc biệt là sinh viên lớn tuổi có đạo đức nghề nghiệp rõ ràng. Có thể chị sẽ phải học một khóa giao tiếp, nhưng em thấy không có lý do gì lại không được cả. Mà sao? Có chuyện gì à?"

    "Chị không biết. Chỉ là một điều Will có nhắc tới cách đây ít lâu. Về... về điều chị nên làm với cuộc đời mình."

    "Và?"

    "Và chị cứ nghĩ... có lẽ đã đến lúc chị làm việc em đang làm. Giờ bố lại lo được cho bản thân rồi, có lẽ em không phải người duy nhất có thể làm được một điều gì đó cho bản thân nhỉ?"

    "Chị phải trả học phí đấy." "Chị biết. Chị sẽ dành dụm."

    "Em nghĩ có lẽ sẽ tốn hơn mức chị xoay xở dành dụm được một chút đấy."

    "Chị có thể xin trợ cấp. Hoặc là một khoản nợ. Và chị cũng có một khoản đủ để sống tạm một thời gian. Chị đã gặp một nghị sĩ quốc hội, bà ấy bảo có link về một tổ chức nào đó có thể giúp chị. Bà ấy đã cho chị danh thiếp của bà ấy."

    "Chờ chút," Katrina nói, xoay ghế lại, em không hiểu lắm. Em cứ tưởng chị muốn ở với Will. Em tưởng toàn bộ ý nghĩa của chuyện này là chị muốn giữ anh ấy sống và làm việc cùng anh ấy."

    "Chị muốn lắm... nhưng..." Tôi nhìn lên trần nhà. "Nhưng sao?"

    "Phức tạp lắm."

    "Vấn đề nới lỏng tiền tệ cũng thế. Nhưng em vẫn hiểu được nó có nghĩa là phải in thêm tiền."

    Nó đứng dậy khỏi ghế, đi ra đóng cửa phòng. Nó hạ giọng để bên ngoài không ai nghe thấy.

    "Chị nghĩ chị sẽ thất bại à? Chị nghĩ anh ấy sẽ...?"

    "Không," tôi vội nói. "À, chị hy vọng là không. Chị có kế hoạch. Kế hoạch quan trọng. Mấy bữa nữa chị sẽ cho em xem."

    "Nhưng..."

    Tôi vươn vai, đan hai bàn tay vào nhau. "Nhưng, chị thích Will. Rất nhiều."

    Nó nhìn tôi chăm chú. Nó khoác lên vẻ mặt đăm chiêu điển hình. Chẳng có gì đáng sợ hơn gương mặt đăm chiêu của em gái tôi khi gương mặt ấy chiếu thẳng vào ai đó.

    "Ôi trời." "Đừng..."

    "Thế thì chuyện này thú vị đây," nó nói. "Chị biết." Tôi thả tay xuống.

    "Chị muốn một công việc. Để..."

    "Đó là điều mà những người bị liệt tứ chi khác nói với chị. Những người mà chị hay nói chuyện trên các diễn đàn. Ta không thể đảm nhiệm cả hai việc được. Ta không thể vừa là người chăm sóc, vừa là..." Tôi đưa hai tay lên ôm mặt.

    Tôi thấy nó nhìn tôi chằm chằm. "Anh ấy biết không?"

    "Không. Chính chị cũng chẳng chắc với mình. Chị chỉ..." Tôi thả phịch người xuống giường, úp sấp. Giường mang mùi của Thomas. Và thoảng mùi nước xốt Marmite. "Chị chẳng biết mình nghĩ gì nữa. Tất cả những gì chị biết là hầu như lúc nào chị cũng muốn ở cạnh anh ấy hơn bất kỳ ai chị biết."

    "Kể cả Patrick?"

    Vấn đề nằm ở đó. Đây là sự thật mà tôi chỉ dám thừa nhận với chính mình. Tôi thấy má nóng bừng. "Ừ," tôi nói với tấm chăn. "Đôi khi phải."

    "Chết tiệt," nó nói, sau một phút. "Thế mà em cứ tưởng mình em thích làm cho đời mình phức tạp."

    Nó nằm xuống cạnh tôi, chúng tôi cùng nhìn chằm chằm lên trần nhà. Dưới tầng chúng tôi nghe thấy ông ngoại huýt sáo lạc điệu, cộng với tiếng Thomas lái chiếc ôtô điều khiển từ xa đâm tới đâm lui một tấm gỗ viền chân tường rầm rầm. Chẳng hiểu vì sao mắt tôi đầy lệ. Sau một phút, tôi thấy cánh tay em gái vòng qua người tôi.

    "Chị điên mất rồi," nó nói, và cả hai chúng tôi phá lên cười. "Đừng lo," tôi nói, lau mắt. "Chị không làm gì ngu ngốc đâu."

    "Tốt. Vì càng nghĩ tới chuyện này, em càng nghĩ tới sự khắc nghiệt của hoàn cảnh đó. Nó không thực, nó giống như phim vậy."

    "Sao?"

    "Nói cho cùng, đây thực sự là chuyện sống hay chết, và chị đang khóa mình từng ngày vào cuộc đời của người đàn ông ấy, khóa mình vào bí mật kỳ lạ của anh ta. Nó sẽ tạo ra một kiểu quan hệ thân mật sai lạc. Hoặc là thế, hoặc là chị đang dấn chân vào chuyện phức tạp kỳ quái kiểu Florence Nightingale1."

    "Hãy tin chị, chuyện đó không phải vậy đâu." Chúng tôi nằm yên, nhìn lên trần nhà.

    "Nhưng hơi điên rồ, nghĩ tới chuyện yêu một người không thể... chị biết đấy, yêu lại mình. Có lẽ đây chỉ là phản ứng lo âu trước chuyện cuối cùng chị và Patrick cũng đã về sống chung."

    "Chị biết. Em nói đúng."

    "Và hai người đã ở bên nhau quá lâu. Chị tự nhiên thấy say nắng những người khác."

    "Đặc biệt trong khi Patrick bị ám ảnh với việc trở thành Ông Chạy."

    "Và có thể một khi nào đó chị lại khó chịu với Will. Ý em là, em nhớ có dạo chị nghĩ anh ấy là kẻ thô lỗ khó ưa."

    "Giờ đôi khi chị vẫn nghĩ thế."

    Em gái tôi với tay lấy một tờ giấy ăn chấm mắt cho tôi. Rồi nó vỗ cái gì đó trên má tôi.

    "Tất cả điều đó cho thấy, học đại học là một ý tưởng hay. Vì - nói thẳng nhé - dù mọi chuyện trở nên thảm hại với Will hay không, chị vẫn sẽ cần một công việc phù hợp. Chị sẽ không muốn làm một người chăm sóc mãi mãi."

    "Mọi chuyện với Will sẽ không 'thảm hại' như em gọi đâu. Anh ấy... anh ấy sẽ ổn cả."

    "Tất nhiên rồi."

    Mẹ đang gọi Thomas. Chúng tôi nghe tiếng mẹ hát phía dưới, trong phòng bếp. "Thomas. TomtomtomtomThomas..."

    Treena thở dài và dụi mắt. "Tối nay chị trở lại nhà Patrick à?" "Ừ."

    "Chị muốn tạt qua uống chút gì ở Spotted Dog và cho em xem các kế hoạch đó không? Em sẽ nhờ mẹ cho Thomas đi ngủ giúp em. Thôi nào, chị phải đãi em chứ, vì xem ra giờ chị có đủ tiền học đại học cơ mà."

    Mười giờ kém mười lăm tôi mới về tới nhà Patrick.

    Thật ngạc nhiên là kế hoạch đi nghỉ của tôi được Katrina tán thưởng nhiệt liệt. Nó thậm chí còn không đế thêm câu nói quen thuộc của nó, "Được, nhưng chắc sẽ tốt hơn nếu chị..." Có lúc tôi tự hỏi không biết có phải nó chỉ đang tỏ ra tử tế hay không, vì rõ ràng chính tôi còn thấy mình hơi lẩm cẩm. Nhưng nó cứ nói những câu kiểu như, "Oa, em không tin nổi chị đã tìm ra chỗ này! Chị phải chụp thật nhiều ảnh cảnh anh ấy nhảy bungee đấy nhé." Và, "Tưởng tượng mặt anh ấy khi chị kể cho anh ấy về nhảy dù xem! Nó sẽ sáng bừng lên." Bất cứ ai trong quán rượu quan sát chúng tôi đều nghĩ rằng chúng tôi là hai người bạn cực kỳ quý nhau.

    Vẫn còn say sưa với chuyện này, tôi vào nhà thật khẽ. Bên ngoài căn hộ tối om và tôi băn khoăn không biết có phải Patrick đang luyện tập vào buổi tối như một phần của việc tăng cường luyện tập của anh không. Tôi thả túi xách xuống sàn hành lang, đẩy cửa phòng khách, thầm nghĩ anh thật tốt khi để lại một ngọn đèn cho tôi.

    Rồi tôi nhìn thấy anh. Anh đang ngồi bên một cái bàn hai chỗ ngồi, một ngọn nến lập lòe ở giữa. Khi tôi đóng cửa lại, anh đứng dậy. Ngọn nến đã chảy phân nửa xuống đế.

    "Anh xin lỗi," anh nói. Tôi nhìn anh chằm chằm.

    "Lúc sáng anh ngốc quá. Em đúng. Công việc này của em chỉ trong vòng sáu tháng thôi, và anh đã cư xử quá trẻ con. Anh nên tự hào vì em đang làm một việc rất có ý nghĩa và coi trọng nó mới phải. Anh chỉ hơi... mệt mỏi. Thế nên anh xin lỗi. Thật lòng."

    Anh đưa bàn tay ra. Tôi bắt lấy.

    "Thật tốt là em đang giúp đỡ anh ta. Rất đáng khâm phục." "Cảm ơn anh." Tôi siết tay anh.

    Khi anh nói lại, sau một hơi thở ngắn, có cảm giác như anh đã xoay xở thành công một diễn văn đã được chuẩn bị từ trước. "Anh làm bữa tối rồi. Anh e lại là salad đấy." Anh đi qua tôi tới tủ lạnh, lôi ra hai cái đĩa. "Anh hứa chúng ta sẽ đi đâu đó ăn một bữa thịnh soạn khi cuộc thi Viking kết thúc. Hoặc có thể là khi anh được ăn đồ có chứa carbohydrate. Anh chỉ..." Anh vỗ vỗ hai má. "Anh nghĩ gần đây anh đã không thể nghĩ nhiều về điều gì. Anh nghĩ đó là một phần rắc rối. Và em đúng. Không có lý do gì em phải theo anh. Đó là việc của anh. Em hoàn toàn có quyền được làm việc thay vì đi cùng anh."

    "Patrick..." tôi cất tiếng.

    "Anh không muốn tranh cãi với em, Lou. Tha lỗi cho anh nhé?"

    Ánh mắt anh đầy vẻ lo lắng và anh có mùi rượu. Hai điều đó từ từ đè lên tôi nặng trịch. "Dù sao cứ ngồi xuống đi," anh nói. "Ăn thôi, rồi... anh không biết nữa. Chúng ta cùng thư giãn. Nói chuyện gì khác. Không phải chuyện chạy." Anh gượng cười.

    Tôi ngồi xuống và nhìn xuống bàn.

    Rồi tôi mỉm cười. "Nhìn ngon quá," tôi nói. Patrick thực sự có thể làm 101 món với ức gà tây.

    Chúng tôi ăn salad rau, salad pasta, salad hải sản và một loại salad trái cây nhập khẩu mà anh đã chuẩn bị để làm món tráng miệng, tôi uống rượu trong khi anh nhất định uống nước suối. Mất một lúc lâu chúng tôi mới bắt đầu thư giãn. Ở đó, trước mặt tôi, là một Patrick mà tôi đã quen biết từ lâu. Anh vui tính, quan tâm. Anh cảnh cáo bản thân nghiêm khắc tới độ anh không nói một từ nào về chạy hoặc marathon, anh phì cười mỗi khi nhận ra câu chuyện đang lái về hướng đó. Tôi cảm thấy bàn chân anh chạm bàn chân tôi dưới gầm bàn, chân chúng tôi quấn vào nhau, và dần dần tôi thấy những cảm giác nặng nề khó chịu bắt đầu tan khỏi lồng ngực.

    Em gái tôi nói đúng. Cuộc đời tôi đã trở nên kỳ lạ và mất liên kết với tất cả mọi người tôi quen - hoàn cảnh éo le của Will và những bí mật của anh đã phủ chụp lấy tôi. Tôi phải đảm bảo rằng tôi không đánh mất phần còn lại của mình.

    Tôi bắt đầu cảm thấy có lỗi khi nghĩ tới cuộc nói chuyện ban chiều với em gái. Patrick sẽ không để tôi đứng dậy chứ đừng nói gì tới giúp anh rửa đĩa. Mười một giờ mười lăm anh đứng dậy, đưa bát đĩa vào khu vực bếp và bắt đầu bật máy rửa bát. Tôi ngồi yên, nghe anh nói chuyện với tôi qua lối cửa nhỏ. Tôi xoa nắn bả vai, cố xóa tan những nặng nhọc dường như đã đè chặt lên đó. Tôi nhắm mắt, cố thả mình vào việc đó, thế nên phải mất mấy phút tôi mới nhận ra cuộc trò chuyện đã kết thúc.

    Tôi mở mắt ra. Patrick đang đứng bên cửa, cầm tập tài liệu về kỳ nghỉ của tôi. Anh giơ mấy tờ giấy lên. "Cái gì đây?"

    "Đó là chuyến đi. Chuyến du lịch mà em đã bảo với anh đấy."

    Tôi quan sát anh giở đống giấy tờ tôi đã đưa cho em gái xem, để ý tới hành trình, tranh ảnh, bãi biển California.

    "Anh nghĩ..." Khi anh cất tiếng, giọng nghèn nghẹt lạ thường. "Anh nghĩ em đã nói về thánh địa Lourdes." "Sao?"

    "Hoặc... anh không biết... bệnh viện Stoke Mandeville... hoặc chỗ nào đó. Khi em nói em không thể đi cùng anh vì phải giúp đỡ anh ta, anh cứ nghĩ đó là một công việc thực sự." Anh lắc đầu không tin nổi. "Đây xem ra là một kỳ nghỉ tuyệt nhất trên đời."

    "À... nói thế cũng đúng. Nhưng không phải cho em. Mà là cho anh ấy."

    Patrick cau mặt. "Không..." anh nói, lắc đầu. "Em sẽ chẳng thưởng thức chuyến đi này tí nào đâu. Bể nước nóng dưới ngàn sao, bơi cùng cá heo... Ồ, xem nào, 'sang trọng năm sao' và 'phục vụ phòng suốt hai bốn giờ'." Anh ngước lên nhìn tôi. "Đây không phải một chuyến công tác. Đây là một tuần trăng mật chết tiệt."

    "Nói vậy không công bằng!"

    "Thế cái này là gì? Em... em thực sự mong anh cứ ngồi yên ở đây trong khi em lang thang cùng gã khác trong một kỳ nghỉ như thế này hả?"

    "Người chăm sóc anh ấy cùng đi."

    "Ồ. Ồ phải, Nathan. Thế là ổn cả, nhỉ." "Patrick, thôi nào... chuyện này phức tạp lắm."

    "Thì giải thích cho anh đi." Anh quăng đống giấy tờ về phía tôi. "Giải thích cho anh, Lou. Giải thích nó theo một cách mà anh đủ khả năng hiểu được ấy nhé."

    "Chuyện Will muốn sống, thấy được những điều tốt đẹp ở tương lai, rất quan trọng với em."

    "Và điều quan trọng ấy bao gồm cả em?"

    "Nói thế không công bằng. Nghe này, em đã bao giờ yêu cầu anh dừng công việc mà anh yêu thích chưa?"

    "Công việc của anh không dính dáng gì tới bồn nước nóng với đàn ông lạ cả."

    "À, em không phiền nếu nó có dính dáng. Anh có thể tắm bồn nước nóng với đàn ông lạ! Bao nhiêu tùy thích! Nhé!" Tôi cố mỉm cười, hy vọng anh cũng cười.

    Nhưng anh không hề cười. "Em sẽ cảm thấy thế nào, Lou? Em sẽ cảm thấy thế nào nếu anh nói anh sẽ thực hiện một chuyến luyện tập thể hình riêng với - anh không biết nữa - chẳng hạn như Leanne của đội Terrors vì cô ấy cần an ủi?"

    "An ủi?" Tôi nghĩ tới Leanne, mái tóc vàng óng ả và đôi chân tuyệt đẹp của cô, và lơ đễnh nghĩ tại sao anh lại nghĩ ra tên cô ấy đầu tiên.

    "Và em sẽ cảm thấy thế nào nếu anh nói trong suốt thời gian đó cô ấy và anh sẽ đi ăn cùng nhau, có thể còn ngồi trong bồn nước nóng và đi chơi cùng nhau nữa. Ở một nơi nào đó cách đây sáu ngàn dặm, chỉ vì cô ấy hơi buồn. Chuyện đó thực sự không khiến em suy nghĩ gì sao?"

    "Anh ấy không phải 'hơi buồn', Pat ạ. Anh ấy muốn tự sát. Anh ấy muốn đưa thân tới Dignitas, và kết liễu cuộc sống khốn khổ của anh ấy." Tôi nghe mạch máu đập thùm thụp. "Anh không thể ví von như thế. Anh chính là người đã gọi Will là người tàn tật. Anh là người đã khẳng định anh ấy không thể là mối đẹ dọa với anh. 'Ông chủ hoàn hảo,' anh đã nói thế. Một người thậm chí không đáng ngại."

    Anh đặt tập hồ sơ xuống bàn bếp. "À, Lou... Giờ anh đang lo."

    Tôi vùi mặt xuống tay và để yên như vậy một phút. Bên ngoài hành lang, tôi nghe một cánh cửa thép chống cháy cọt kẹt, và tiếng người mất hút dần khi cánh cửa mở ra rồi khép lại sau lưng họ.

    Patrick từ từ lướt bàn tay tới lui trên gờ tủ bếp. Cơ hàm anh giật giật. "Em biết chuyện này có cảm giác thế nào không Lou? Nó gây cảm giác rằng đúng là anh hay chạy, nhưng ở lĩnh vực này anh thấy như mình vĩnh viễn chỉ là một đốm nhỏ bị bỏ lại phía sau tất cả. Anh thấy như..." Anh hít một hơi thật sâu, như thể đang cố để trấn tĩnh bản thân. "Anh thấy như có điều gì đó khuất tất, và dường như ai ai cũng biết đó là gì, ngoại trừ anh."

    Anh đưa mắt nhìn vào mắt tôi. "Anh không nghĩ mình đang quá đáng. Anh không muốn em đi. Anh không giận nếu em không muốn đi xem cuộc đua Viking, nhưng anh không muốn em tham gia kỳ... kỳ nghỉ này. Với anh ta."

    "Nhưng em..."

    "Gần bảy năm, chúng ta đã ở bên nhau. Còn em mới biết gã đó, công việc đó, trong năm tháng. Năm tháng thôi. Nếu bây giờ em đi với anh ta, tức là em đang nói với anh điều gì đó về mối quan hệ của chúng ta. Về cảm nhận của em về chúng ta."

    "Thật không công bằng. Nó chẳng thể nói lên điều gì về chúng ta," tôi phản đối.

    "Có đấy, nếu anh đã nói ra thế này mà em vẫn cứ đi."

    Căn hộ nhỏ dường như thật im ắng xung quanh chúng tôi. Anh đang nhìn tôi với vẻ mặt tôi chưa từng thấy.

    Khi tôi cất tiếng, nó thoát ra như lời nói thầm. "Nhưng anh ấy cần em."

    Tôi nhận ra ngay khi tôi nói điều ấy, nghe những lời đó và cảm nhận chúng xoắn quyện vào nhau trong không gian, biết sẵn rằng mình sẽ cảm thấy thế nào nếu anh nói với mình điều tương tự.

    Anh nuốt khan, khe khẽ lắc đầu một chút như thể đang khó nhọc thẩm thấu điều tôi nói. Bàn tay anh thả bên cạnh bàn bếp, rồi anh ngước lên nhìn tôi. "Dù anh nói gì đi nữa cũng chẳng thay đổi được gì, phải không?"

    Đó là một đặc điểm của Patrick. Anh luôn thông minh hơn tôi tưởng. "Patrick, em..."

    Anh nhắm mắt lại, chỉ trong một lát, rồi anh quay người bước ra phòng khách, bỏ mặc những chiếc đĩa trống trơn cuối cùng trên chạn bát.

    Chú thích:

    1. Florence Nightingale (1820 - 1910): Xuất thân giàu có, nhưng bà tình nguyện trở thành y tá chăm sóc cho binh sĩ. Bà được xem là người sáng lập ra ngành y tá hiện đại.
     
  7. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 21

    Steven

    Cuối tuần đó, cô gái chuyển tới. Will không nói gì với Camilla và tôi, nhưng sáng thứ Bảy khi tôi đi vào khu nhà phụ để xem Will có cần gì không vì Nathan xin nghỉ thì thấy cô ở đó, đang đi trong hành lang, một tay bưng bát bột ngô, một tay cầm tờ báo. Khi thấy tôi, mặt cô đỏ bừng. Tôi không biết tại sao - tôi đang mặc áo choàng dài, hết sức lịch sự. Về sau tôi cứ nghĩ đã có một thời chuyện bắt gặp những cô gái trẻ trung xinh đẹp cuộn mình trên giường Will vào buổi sáng là chuyện hết sức bình thường.

    "Mang đồ ăn cho Will nhé," tôi nói, xua chuyện kia đi.

    "Anh ấy chưa dậy. Ông có muốn tôi đánh thức anh ấy không?" Cô đưa tay lên ngực, che chắn cơ thể bằng tờ báo. Cô đang mặc áo phông in hình chuột Mickey và chiếc quần thêu mà người ta thường thấy phụ nữ người Hoa mặc ở Hồng Kông.

    "Không, không. Nó đang ngủ thì đừng gọi. Cứ để nó nghỉ ngơi."

    Khi kể với Camilla, tôi cứ nghĩ bà ấy sẽ vui mừng. Nói cho cùng bà ấy đã bực bội khổ sở về chuyện cô gái chuyển tới sống với bạn trai. Nhưng bà ấy chỉ tỏ ra hơi ngạc nhiên, rồi lại khoác lên vẻ mặt căng thẳng cố hữu báo cho biết rằng bà đã tưởng tượng ra mọi hậu quả tích cực và tiêu cực của chuyện này. Tôi biết bà không ưa Louisa Clark dù bà chẳng nói ra. Điều đó có nghĩa, tôi không hiểu dạo này Camilla tán thưởng ai. Có lẽ cơ chế mặc định của con người bà mắc kẹt ở ô Không tán thưởng.

    Chúng tôi chưa bao giờ hiểu thấu chuyện gì xúi giục Louisa lưu lại đây - Will chỉ nói "vấn đề gia đình" - nhưng cô đúng là cô gái nhỏ luôn tay luôn chân. Khi không chăm sóc Will, cô sẽ đảo tới đảo lui, lau chùi dọn rửa, qua qua lại lại đại lý du lịch và thư viện. Tôi có thể biết ngay cô ấy đang ở đâu trong thị trấn vì cô ấy rất dễ bị phát hiện. Cô ăn mặc rất sặc sỡ, khác hẳn người sống ngoài vùng nhiệt đới - những chiếc váy màu mạnh và những đôi giày kỳ cục.

    Tôi muốn nói với Camilla rằng cô gái đó làm bừng sáng cả khu nhà phụ.

    Nhưng tôi không thể bình luận những câu kiểu đó với Camilla nữa rồi.

    Rõ ràng Will đã từng nói cô có thể sử dụng máy tính của nó, nhưng cô từ chối vì thích dùng máy tính ở thư viện hơn. Tôi không biết đó là vì cô sợ bị xem là kẻ lợi dụng, hay vì cô không muốn nó biết cô đang làm gì.

    Dù sao đi nữa, Will dường như hạnh phúc hơn một chút khi có cô ở bên. Đôi lần tôi nghe tiếng cả hai trò chuyện lọt qua khung cửa sổ để mở của phòng mình, và tôi dám chắc có nghe thấy Will cười. Tôi nói chuyện với Bernard Clark, chỉ để chắc chắn ông hài lòng với sự sắp xếp đó, ông nói mọi thứ hơi khó khăn vì con bé chia tay bạn trai quen đã lâu, rồi mọi thứ cứ lộn tùng phèo lên trong nhà họ. Ông còn nói cô đã nộp đơn vào một khóa trao đổi định hướng để đi học tiếp. Tôi quyết định không nói với Camilla chuyện đó. Tôi không muốn bà nghĩ điều đó có nghĩa là gì. Will nói cô định học ngành thời trang hay đại loại thế. Quả thực cô cũng ưa nhìn, thân hình dễ coi - nhưng nói thật, tôi chẳng chắc có ai trên đời chịu bỏ tiền mua những thứ đồ cô mặc.

    Tối thứ Hai, cô hỏi xem Camilla và tôi có qua khu nhà phụ cùng Nathan được không. Cô đã trải ra bàn các tập sách bướm, thời gian biểu in sẵn, tài liệu bảo hiểm và những thứ khác mà cô in từ internet. Chúng tôi nhận mỗi tài liệu một bản để chung trong bìa nút. Mọi thứ sắp xếp chẳng đâu vào với đâu.

    Cô nói, cô muốn trình bày cho chúng tôi kế hoạch cho kỳ nghỉ. (Cô đã cảnh báo trước với Camilla rằng cô muốn tỏ ra mình là người hưởng mọi lợi ích từ chuyến đi, nhưng tôi có thể thấy ánh mắt Camilla trở nên hơi hà khắc khi cô trình bày chi tiết mọi thứ cô đặt sẵn cho họ.)

    Đó là một chuyến đi đặc biệt liên quan tới đủ loại hoạt động lạ thường, những hoạt động mà tôi không thể tưởng tượng Will sẽ làm kể cả trước khi nó bị tai nạn. Nhưng mỗi khi đề cập tới một trò - chèo thuyền đổ thác, hoặc nhảy bungee hay đại loại thế - cô lại đưa ra một tập tài liệu chứng minh có những thanh niên trẻ tàn phế đã từng tham dự, rồi nói. "Nếu em thử tất cả những trò mà anh cứ nói em nên thử, thì anh phải chơi cùng em."

    Tôi phải thừa nhận tôi thầm thấy ấn tượng hơn về cô. Cô quả là một cô gái mưu mô.

    Will lắng nghe cô nói, và tôi thấy nó chịu đọc những tài liệu cô để xuống trước mặt nó.

    "Em tìm những thông tin này ở đâu ra vậy?" cuối cùng nó phải thốt lên. Cô nhướng mày lên với nó. "Kiến thức là sức mạnh, Will," cô nói.

    Con trai tôi mỉm cười, như thể cô vừa nói điều gì thông minh lắm.

    "Thế..." Louisa nói khi đã nghe xong mọi câu hỏi. "Chúng tôi sẽ đi tám ngày. Bà có hài lòng không, bà Traynor?" Có một thoáng thách thức trong câu nói của cô, như thể cô đang thách Camilla dám nói không.

    "Nếu đó là điều mà mọi người muốn làm thì tôi thấy ổn cả thôi," Camilla nói.

    "Nathan? Ông vẫn sẵn sàng lên đường đấy chứ?" "Dĩ nhiên."

    "Còn... Will?"

    Tất cả chúng tôi nhìn nó. Có một thời, cách đó chưa bao xa, khi bất kỳ hoạt động nào trong số này đều chẳng đáng để lăn tăn. Có một thời Will có thú vui nói không chỉ để làm phiền lòng mẹ nó. Thằng con trai của chúng tôi, nó luôn như thế đấy - luôn có khả năng làm ngược lại những gì đúng đắn, đơn giản chỉ vì nó không muốn bị xem là đứa dễ bảo theo một khía cạnh nào đó. Tôi không biết cái tính ưa làm trái lời người khác ấy từ đâu mà ra. Có lẽ đó chính là phẩm chất biến nó thành một nhà thương thuyết tài ba.

    Nó ngẩng lên nhìn tôi, đôi mắt thật khó dò, và tôi thấy cơ hàm mình căng ra.

    Rồi nó nhìn con bé và mỉm cười.

    "Sao không nhỉ?" nó nói. "Con rất muốn xem cô Clark quẳng mình vào con thác."

    Người cô gái hơi thả lỏng ra một chút - với cảm giác nhẹ nhõm - như thể cô đã có nửa phần ngờ rằng nó sẽ nói không.

    Thật buồn cười - tôi phải thừa nhận là thế, khi cô mới bước chân vào cuộc sống của chúng tôi, tôi hơi nghi ngờ cô. Trước đây dù rất hay cáu kỉnh, nhưng thực tình Will rất dễ bị tổn thương. Tôi hơi sợ nó có thể bị điều khiển. Bất chấp tất cả, nó vẫn là một thanh niên giàu có, thế nên chuyện cô nàng Alicia tàn nhẫn đó chạy theo bạn nó khiến nó cảm thấy bản thân thật vô giá trị, ai ở vị trí của nó cũng cảm thấy vậy thôi.

    Nhưng tôi thấy cách Louisa nhìn nó khi đó, một sự kết hợp lạ lùng giữa tự hào và biết ơn tỏa trên nét mặt cô, và bỗng nhiên tôi vô cùng mừng rỡ khi có cô ở đó. Dù chẳng bao giờ nhắc nhở tới chuyện này, nhưng chúng tôi đều biết Will đang ở trong tình trạng hầu như không trụ nổi nữa. Bất kể Louisa đang làm gì đi nữa thì điều ấy dường như cũng đang tạo cho nó một khoảng thời gian dù là nhỏ bé thoát khỏi tình trạng đó.

    Trong mấy ngày, không khí trong nhà mang hơi hướng hân hoan dù chỉ dịu nhẹ nhưng có thật. Camilla chừng như âm thầm hy vọng, dù bà không chịu thừa nhận với tôi bà cảm thấy như thế. Tôi biết ẩn ý của bà: chúng ta đã có gì trong tay đâu mà ăn mừng chứ, sau tất cả những gì đã nói và làm? Đêm muộn hôm đó tôi nghe thấy bà nói chuyện điện thoại với Georgina, phân trần về những việc bà đã đồng ý cho thực hiện. Georgina đúng là đứa mẹ nào con nấy, nó cũng bới móc mọi hướng xem coi biết đâu Louisa đang lợi dụng tình trạng của Will để tiến thân.

    "Cô ta đề nghị tự trả cho mình, Georgina ạ," Camilla nói. Rồi tiếp, "Không, con yêu. Mẹ nghĩ chúng ta không có lựa chọn nào khác. Chúng ta có rất ít thời gian và Will đã đồng ý với chuyến đi, thế nên mẹ chỉ biết hy vọng điều tốt đẹp nhất thôi. Mẹ nghĩ giờ cả con nữa cũng phải cầu nguyện như thế."

    Tôi biết bà phòng vệ Louisa cỡ nào dù luôn tỏ ra tử tế với cô. Bà chịu đựng cô gái đó là vì bà biết rõ không kém gì tôi rằng Louisa là cơ hội duy nhất giữ cho con trai chúng tôi dù chỉ nửa phần hạnh phúc.

    Dù chúng tôi chẳng ai nói thành lời, nhưng Louisa Clark đã trở thành cơ hội duy nhất của chúng tôi để giữ cho nó sống.

    Đêm qua tôi đi uống với Della. Camilla đi thăm em gái, thế nên chúng tôi đi dạo bên bờ sông trên đường về nhà.

    "Will sắp đi chơi," tôi nói. "Tuyệt quá," em đáp.

    Tội nghiệp Della. Tôi biết em đang cố kiềm chế khao khát bản năng được hỏi tôi về tương lai của chúng tôi - ngẫm xem bước tiến bộ bất ngờ này có thể tác động tới tương lai ấy không - nhưng tôi cho rằng em sẽ không bao giờ hỏi. Em sẽ không hỏi chừng nào chuyện này được giải quyết đâu vào đó.

    Chúng tôi thả bộ ngắm bầy thiên nga, mỉm cười với những du khách đang ì ạch chèo thuyền vòng quanh trong ánh nắng đầu buổi hoàng hôn, và em nói rằng chuyện này thực sự tuyệt diệu biết bao với Will và có lẽ nó cho thấy Will đang tập làm quen với tình trạng của mình. Em thật ngọt ngào khi nói vậy vì tôi biết về nhiều mặt, có lẽ em đã hy vọng một cách chính đáng rằng chuyện này sớm kết thúc. Nói cho cùng, chính tai nạn của Will đã tước bỏ kế hoạch về cuộc sống chung của chúng tôi. Hẳn em vẫn âm thầm hy vọng một ngày kia trách nhiệm của tôi với Will sẽ chấm dứt để tôi được tự do.

    Tôi bước đi bên em, cảm nhận bàn tay em đặt nhẹ trên cánh tay mình, lắng nghe giọng em ríu rít. Tôi không thể kể cho em nghe sự thật - sự thật mà chỉ một ít người chúng tôi biết. Rằng nếu cô gái ấy thất bại với kế hoạch đi chơi nông trại, nhảy bungee và tắm bồn sục nước nóng hay đại loại thế, thì thật nghịch lý là cô ấy đang mở đường tự do cho tôi. Bởi vì con đường duy nhất để một lúc nào đó tôi được rời khỏi gia đình là khi rốt cuộc Will vẫn khẳng định rằng nó quyết tâm đi tới nơi chết chóc ở Thụy Sĩ đó.

    Tôi biết điều ấy, và Camilla biết điều ấy. Dù chẳng ai trong hai người thừa nhận với bản thân. Chỉ khi con trai chết rồi tôi mới tự do sống cuộc sống mà mình lựa chọn.

    "Đừng," em nói khi nhận ra nét mặt tôi.

    Della thương yêu. Em luôn biết tôi đang nghĩ gì, ngay cả khi bản thân tôi chẳng biết.

    "Đó là tin tốt lành, Steven ạ. Thật đó. Anh không bao giờ biết được đâu, chuyện này có thể là khởi đầu cho cả một cuộc đời độc lập mới cho Will."

    Tôi đặt tay lên đôi tay em. Một kẻ dũng cảm hơn có lẽ đã dám nói ra điều tôi thực lòng đang nghĩ. Một kẻ dũng cảm hơn hẳn đã để em đi từ lâu lắm rồi - em, và có lẽ cả vợ tôi nữa.

    "Em nói đúng," tôi nói, gượng cười. "Hãy hy vọng nó sẽ mang về thật nhiều câu chuyện về dây thừng nhảy bungee hay bất cứ thứ rùng rợn gì mà đám thanh niên thích dội vào đầu nhau."

    Em thúc vào người tôi. "Có khi cậu ấy sẽ bắt anh làm một trò gì đó trong lâu đài cũng nên."

    "Chèo thuyền đổ thác trong hào hả?" tôi nói. "Anh sẽ làm trò đó để tạo điểm nhấn thu hút du khách cho mùa hè tới."

    Say sưa với bức tranh không có thực đó, chúng tôi rảo bước, thỉnh thoảng lại cười đùa khe khẽ trên suốt con đường xuống nhà thuyền.

    Thế rồi Will bị viêm phổi.
     
  8. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 22

    Tôi chạy ào vào phòng Cấp cứu. Kiến trúc trải dài theo chiều ngang của bệnh viện và khả năng tìm đường nội bộ kém cỏi của tôi dẫn đến việc phải mất rất nhiều thời gian tôi mới tới được khu điều trị đặc biệt. Tôi phải hỏi ba lần mới có người chỉ cho tôi đúng hướng. Cuối cùng tôi mở tung cánh cửa khu C12 - hết hơi, hổn hà hổn hển - thì thấy Nathan đang ngồi trong hành lang đọc báo. Ông ngước lên khi tôi lại gần.

    "Anh ấy thế nào?"

    "Đang thở oxy. Ổn định."

    "Tôi không hiểu. Tối thứ Sáu anh ấy vẫn khỏe. Sáng thứ Bảy anh ấy hơi ho một chút, nhưng... nhưng còn chuyện này? Chuyện gì xảy ra vậy?"

    Tim tôi đập thình thịch. Tôi ngồi xuống một lát, cố lấy hơi. Tôi đã chạy hộc tốc từ khi nhận được tin nhắn của Nathan cách đó một tiếng. Ông ngồi thẳng dậy, gấp tờ báo lại.

    "Đây không phải lần đầu đâu Lou. Phổi cậu ấy bị nhiễm khuẩn, cơ chế ho của cậu ấy không bình thường, cậu ấy suy nhược khá nhanh. Chiều thứ Bảy tôi cố thực hiện vài kỹ thuật lọc khuẩn trên cơ thể cậu ấy nhưng cậu ấy đau quá. Bỗng nhiên cậu ấy bị sốt, rồi ngực đau buốt. Tối thứ Bảy chúng tôi phải gọi xe cứu thương."

    "Khốn thật," tôi nói, cúi người xuống. "Chết tiệt, chết tiệt, chết tiệt. Tôi vào trong được không?"

    "Cậu ấy đang mê man. Không chắc cậu ấy có nói được gì với cô không. Bà T đang ở với cậu ấy."

    Tôi để túi xách lại cho Nathan, rửa tay bằng dung dịch diệt khuẩn, rồi đẩy cửa bước vào.

    Will nằm giữa giường bệnh viện, người đắp một tấm chăn xanh, tay gắn ống chuyền, bủa vây xung quanh là nhiều loại máy móc kêu bíp bíp liên hồi. Một phần gương mặt anh bị mặt nạ oxy che khuất và đôi mắt anh nhắm nghiền. Da anh tái nhợt như màu tuyết xám khiến trái tim tôi thổn thức. Bà Traynor ngồi bên anh, một tay đặt nhẹ lên cánh tay phủ chăn của anh. Bà đang nhìn trân trân vô định vào bức tường đối diện.

    "Bà Traynor," tôi lên tiếng.

    Bà giật mình ngước lên. "Ồ. Louisa."

    "Anh ấy... anh ấy sao rồi ạ?" Tôi muốn tới nắm bàn tay kia của Will, nhưng cảm thấy mình không được ngồi xuống. Vẻ chán chường vô tận trên mặt bà khiến tôi thấy sự có mặt của mình trong phòng này đã là một sự xâm phạm.

    "Khá lên một chút. Họ cho nó uống mấy liều kháng sinh rất mạnh." "Có... việc gì tôi làm được không?"

    "Không, tôi nghĩ là không. Chúng ta... chúng ta chỉ cần phải đợi. Khoảng một tiếng nữa bác sĩ sẽ đảo qua. Hy vọng khi đó ông ấy sẽ cho chúng ta thêm thông tin."

    Thế giới chợt như dừng lại. Tôi đứng đó thêm một lát nữa, để tiếng bíp bíp đều đều của máy móc đánh động tâm trí mình.

    "Bà có muốn tôi trực thay cho một lát không? Để bà còn nghỉ ngơi?" "Không. Tôi nghĩ tôi sẽ ở lại, thật đấy."

    Một phần nhỏ trong tôi hy vọng rằng Will sẽ nghe thấy tiếng tôi. Một phần nhỏ trong tôi hy vọng mắt anh sẽ mở phía trên cái mặt nạ nhựa trong đó, và anh sẽ nói khẽ, "Clark. Vì Chúa hãy tới đây ngồi xuống. Em làm chỗ này trông lộn xộn quá."

    Nhưng anh chỉ nằm bất động.

    Tôi đưa tay vuốt mặt. "Bà có... có muốn tôi mang cho một ly nước không?" Bà Traynor ngước lên. "Mấy giờ rồi?"

    "Mười giờ kém mười lăm."

    "Thật sao?" Bà lắc đầu, như thể bà thấy không tin nổi. "Cảm ơn Louisa.

    Được thế thì... được thế thì rất tốt. Có vẻ như tôi đã ngồi đây khá lâu rồi."

    Hôm thứ Sáu tôi nghỉ - một phần vì nhà Traynor cứ khăng khăng rằng họ nợ tôi một ngày nghỉ, nhưng chủ yếu là vì tôi không thể có hộ chiếu nếu không đi tàu tới London rồi xếp hàng trên phố Petty France. Tối thứ Sáu trên đường về tôi ghé qua nhà họ để cho Will xem chiến lợi phẩm của tôi và để đảm bảo hộ chiếu của anh vẫn còn thời hạn. Tôi nghĩ hôm đó anh hơi lặng lẽ, nhưng chuyện đó cũng chẳng có gì quá bất thường. Có những ngày anh thấy khó ở hơn những ngày khác. Tôi nghĩ hôm đó là một ngày khó ở như thế. Mà thật tình lúc ấy tâm trí tôi tràn ngập kế hoạch cho chuyến đi tới nỗi chẳng còn mấy chỗ trống để nghĩ thêm chuyện gì khác.

    Sáng thứ Bảy tôi cùng bố tới thu dọn đồ đạc của tôi ở nhà Patrick, rồi tới chiều tôi với mẹ đi shopping trên phố chính để sắm một bộ đồ bơi và mấy thứ cần thiết cho chuyến đi, rồi tôi ngủ lại nhà bố mẹ đêm thứ Bảy và Chủ nhật. Nhà cửa rất chật chội vì cả Treena và Thomas cũng ở nhà. Sáng thứ Hai tôi tỉnh dậy lúc bảy giờ, sẵn sàng để có mặt ở nhà Traynor lúc tám giờ. Khi tới nơi, tôi thấy toàn bộ căn nhà đóng im ỉm, cửa trước cửa sau đều khóa. Chẳng có dòng nhắn nào. Tôi đứng dưới thềm trước gọi điện cho Nathan ba lần mà ông không trả lời. Gọi điện cho bà Traynor thì cuộc gọi chuyển vào hộp thư thoại. Cuối cùng, khi tôi ngồi trên bậc tam cấp được khoảng bốn lăm phút thì tin nhắn của Nathan tới.

    Chúng tôi đang ở bệnh viện hạt. Will bị phiêm phổi. Khu C12.

    Nathan về, và tôi ngồi ngoài phòng Will thêm hơn một tiếng nữa. Tôi lật giở mấy tờ tạp chí mà hẳn ai đó đã bỏ quên trên bàn từ năm 1982, rồi lôi một cuốn sách bìa mềm từ trong túi ra cố đọc, nhưng không tài nào tập trung nổi.

    Bác sĩ điều trị tới, nhưng tôi thấy mình không thể theo ông vào trong khi mẹ Will đang ở đó. Mười lăm phút sau ông quay ra, bà Traynor theo sau ông. Tôi không chắc có phải bà nói chuyện với tôi chỉ vì bà phải nói với một ai đó mà tôi lại là người duy nhất ở đấy hay không, nhưng bà nói với giọng vô cùng nhẹ nhõm rằng bác sĩ điều trị khá tự tin là họ đã kiểm soát được đợt nhiễm trùng. Đó là một loại vi khuẩn đặc biệt độc hại. May là Will đã tới bệnh viện kịp thời. Phần "nếu không..." trong câu nói của bà treo lơ lửng trong không gian im lặng giữa chúng tôi.

    "Thế giờ chúng ta phải làm gì ạ?" tôi nói. Bà nhún vai. "Chờ đợi thôi."

    "Tôi đi kiếm chút gì cho bà ăn trưa nhé? Hay để tôi ngồi với Will cho bà đi ăn?"

    Đôi khi giữa tôi và bà Traynor dường như có chút hiểu nhau. Mặt bà giãn ra một chút - không còn vẻ cứng nhắc, nặng nề cố hữu - và tôi đột nhiên nhận ra bà mệt mỏi kiệt cùng tới mức nào. Giờ đây tôi nghĩ chỉ trong khoảng thời gian tôi ở bên gia đình họ, bà đã già đi tới mười tuổi.

    "Cảm ơn, Louisa," bà nói. "Tôi rất muốn tạt về nhà thay quần áo, nếu cô không phiền ngồi lại với nó. Tôi thật sự không muốn Will phải ở một mình lúc này."

    Sau khi bà về, tôi đi vào, đóng cửa lại rồi ngồi xuống bên anh. Anh dường như xa vắng đến lạ lùng, như thể Will mà tôi biết đã có chuyến đi ngắn tới một nơi nào khác, chỉ để lại đây một tấm thân. Trong một thoáng tôi tự hỏi có phải khi người ta chết cũng thế không. Rồi tôi tự nhủ mình thôi nghĩ về cái chết.

    Tôi ngồi quan sát đồng hồ tích tắc, nghe tiếng rì rầm chuyện trò và tiếng giày nện khe khẽ trên vải sơn lót sàn thỉnh thoảng đưa vào từ bên ngoài. Một cô y tá ghé qua hai lần để kiểm tra các loại ống khác nhau, ấn vài cái nút, lấy nhiệt kế của Will, nhưng anh vẫn nằm yên bất động.

    "Anh ấy vẫn... ổn phải không ạ?" tôi hỏi cô.

    "Anh ấy đang ngủ," cô nói với giọng trấn an. "Có lẽ đó là thứ tốt nhất cho anh ấy lúc này. Cố gắng đừng lo lắng nhé."

    Nói vậy thì dễ lắm. Nhưng ở trong căn phòng bệnh viện ấy, tôi có quá nhiều thời gian để nghĩ ngợi. Tôi nghĩ về Will, về tốc độ ngã bệnh nặng nhanh đáng sợ của anh. Tôi nghĩ về Patrick, về sự thật là dù tôi đã thu dọn mọi thứ của mình khỏi phòng anh, gỡ tấm lịch treo tường xuống rồi cuộn lại, gấp và đóng gói những món quần áo tôi để rất gọn gàng trong tủ ngăn kéo của anh, nhưng nỗi buồn không phải cái gì ghê gớm như tôi tưởng. Tôi không có cảm giác tan nát hay đau khổ ngập ngụa, hay bất cứ tâm trạng nào người ta thường gặp phải khi chia tay một mối tình lâu năm. Tôi cảm thấy khá bình tĩnh, buồn một chút và có lẽ hơi có lỗi, nhưng sự thật là tôi không hề thấy những cảm xúc đáng ra phải thấy. Tôi gửi cho anh hai tin nhắn để nói tôi vô cùng, vô cùng xin lỗi, và tôi hy vọng anh sẽ thể hiện thật tốt trong đội Xtreme Viking. Nhưng anh không trả lời.

    Một tiếng sau, tôi cúi xuống, nhấc tấm chăn ra khỏi cánh tay Will, bàn tay anh xám nhợt tương phản với tấm ga trắng muốt. Một ống thông dán vào mu bàn tay anh bằng băng dán y tế. Khi tôi trở tay anh, những vết sẹo ấy vẫn tím bầm trên cổ tay. Trong một thoáng tôi tự hỏi không biết có bao giờ chúng mờ đi, hay chúng sẽ mãi mãi ở đó để gợi nhắc về việc anh đã cố làm.

    Tôi nhẹ nhàng nắm những ngón tay anh trong tay tôi, khép tay lại quanh chúng. Chúng thật ấm, những ngón tay của một người từng vô cùng giàu sinh lực. Cảm giác ấm áp của những ngón tay anh trong tay tôi khiến tôi thấy được an ủi lạ lùng tới nỗi tôi cứ nắm chúng mãi, nhìn ngắm chúng, nhìn ngắm những vết chai tiết lộ một cuộc đời không chịu ngồi yên sau bàn giấy, nhìn ngắm bộ móng tay cứng chắc hồng hào luôn phải nhờ người khác cắt tỉa cho. Will có đôi bàn tay nam tính rất đẹp - hấp dẫn và cân đối, với những ngón tay đều đặn. Nhìn đôi tay ấy thật khó mà tin rằng chúng chẳng có chút sức mạnh nào, rằng chúng sẽ không bao giờ nhặt được thứ gì từ bàn lên nữa, không bao giờ có thể giơ lên hay nắm lại.

    Tôi đưa ngón tay ve vuốt khớp ngón tay anh. Một phần nhỏ trong tôi tự hỏi không biết tôi có xấu hổ không nếu Will mở mắt ngay lúc này, nhưng câu trả lời là không. Tôi cảm thấy khá chắc chắn là sẽ tốt cho anh khi để tay anh trong tay tôi. Thầm hy vọng rằng bằng cách nào đó, qua ngăn trở của giấc ngủ sâu vì thuốc an thần, anh cũng biết điều này, tôi nhắm mắt chờ đợi.

    Cuối cùng Will cũng thức giấc sau bốn giờ chiều. Tôi đang ở trong hành lang, nằm vắt qua mấy cái ghế, đọc một tờ báo bỏ đi, và tôi giật bắn người khi bà Traynor ra bảo với tôi. Trông bà tươi hơn một chút khi bà bảo anh đang nói và anh muốn gặp tôi. Bà nói bà sẽ đi xuống lầu gọi cho ông Traynor.

    Thế rồi như thể không cưỡng được, bà nói thêm, "Đừng làm nó mệt." "Tất nhiên là không rồi ạ," tôi nói.

    Tôi nở nụ cười quyến rũ.

    "Chào," tôi nói khi ló đầu vào cửa.

    Anh chầm chậm quay mặt về phía tôi. "Chào em."

    Giọng anh lào khào, như thể ba mươi sáu tiếng qua anh không ngủ mà chỉ gào thét vậy. Tôi ngồi xuống nhìn anh. Mắt anh liếc xuống dưới.

    "Anh muốn em nhấc mặt nạ ra một lát không?"

    Anh gật đầu. Tôi cầm cái mặt nạ và cẩn thận nhấc qua đầu anh. Có một lớp hơi ẩm dày nơi mặt nạ chụp lên da anh, thế nên tôi lấy khăn giấy nhẹ nhàng lau quanh mặt anh.

    "Anh cảm thấy thế nào?" "Tốt hơn rồi."

    Một cục nghẹn to đùng trỗi lên chắn ngang họng tôi, tôi khó nhọc cố nuốt nó xuống. "Em không biết đâu. Anh sẽ làm bất cứ thứ gì để được chú ý, Will Traynor. Em đánh cược tất cả chuyện này chỉ là một..."

    Anh nhắm mắt lại, bỏ ngang câu nói của tôi. Khi anh mở mắt ra, đôi mắt anh thoáng vẻ có lỗi. "Xin lỗi, Clark. Hôm nay anh nghĩ anh không nói đùa được."

    Chúng tôi ngồi. Tôi nói chuyện, để giọng mình náo hoạt căn phòng xanh lơ bé nhỏ, kể với anh chuyện tôi thu dọn đồ đạc từ nhà Patrick - việc lấy CD của tôi ra khỏi bộ sưu tập của anh dễ hơn rất nhiều, vì anh luôn xếp đĩa theo một hệ thống liệt kê cẩn thận.

    "Em ổn chứ?" anh lên tiếng khi tôi nói xong. Mắt anh đầy vẻ thương cảm, chừng như anh nghĩ chuyện đó gây đau đớn hơn thực tế.

    "Vâng. Ổn cả." Tôi nhún vai. "Chẳng có gì buồn lắm. Dù sao em cũng có nhiều thứ khác phải nghĩ."

    Will im lặng. "Vấn đề là," cuối cùng anh nói, "anh không chắc anh có thể nhảy bungee sớm đâu."

    Tôi biết điều đó. Tôi đã thoáng nghĩ tới chuyện ấy ngay khi vừa nhận được tin nhắn của Nathan. Nhưng nghe những lời ấy thốt ra từ miệng anh vẫn mang lại cảm giác thật chua xót.

    "Đừng lo," tôi nói, cố giữ giọng bình thản. "Ổn mà. Chúng ta sẽ đi vào lúc khác."

    "Anh xin lỗi. Anh biết em rất mong chờ nó."

    Tôi đặt tay lên trán anh, vuốt tóc anh ra sau. "Suỵt. Thật đấy. Không quan trọng đâu. Chỉ cần anh khỏe."

    Anh nhắm mắt lại với một thoáng cau mặt. Tôi biết những điều chúng nói - những nếp nhăn quanh mắt anh đó, vẻ mặt cam chịu đó. Chúng nói chẳng cần đi vào lúc khác nữa đâu. Chúng nói anh nghĩ anh sẽ không bao giờ khỏe lại nữa.

    Tôi dừng lại tại Dinh thự Granta trên đường trở về nhà từ bệnh viện. Bố Will để tôi vào, trông ông cũng mệt mỏi như bà Traynor. Ông mặc chiếc áo khoác phao mòn cũ, như thể đang chuẩn bị đi ra. Tôi nói với ông là bà Traynor lại ở bên Will, và thuốc kháng sinh có vẻ như đang có tác dụng tốt, nhưng bà bảo tôi nói với ông rằng bà vẫn qua đêm ở bệnh viện. Tại sao bà không tự nói với ông, tôi không biết nữa. Có lẽ bà có quá nhiều thứ phải nghĩ.

    "Trông nó thế nào?"

    "Hơi khá hơn lúc sáng," tôi nói. "Khi tôi ở đó anh ấy có uống nước dinh dưỡng. À, anh ấy còn nói một câu rất bướng với một cô y tá."

    "Vẫn cái tính ngang ngạnh của nó."

    "Vâng, vẫn cái tính ngang ngạnh của anh ấy."

    Chỉ trong một khoảnh khắc, tôi thấy miệng ông Traynor mím chặt và hai mắt ông long lanh. Ông quay mặt ra cửa sổ rồi quay lại nhìn tôi. Tôi không biết ông có muốn tôi quay đi chỗ khác không.

    "Lần thứ ba. Trong hai năm."

    Phải mất một phút tôi mới hiểu ra. "Viêm phổi ạ?"

    Ông gật đầu. "Thứ kinh khủng ấy. Nó rất dũng cảm, cô biết đấy. Trước tất cả đe dọa đó." Ông nuốt khan rồi gật đầu, như gật với chính mình. "Thật tốt khi cô có thể chứng kiến chuyện ấy, Louisa."

    Tôi chẳng biết phải làm gì. Tôi đưa bàn tay chạm vào cánh tay ông. "Tôi thấy rõ mà."

    Ông khẽ gật đầu với tôi, rồi lấy chiếc mũ rộng vành từ giá treo áo khoác trên sảnh. Lẩm bẩm gì đó nghe như cảm ơn hoặc tạm biệt, ông Traynor đi qua tôi ra cửa chính.

    Vắng Will, khu nhà phụ lặng lẽ đến lạ kỳ. Tôi nhận ra mình đã quá quen với tiếng rì rì của động cơ xe lăn chạy tới chạy lui, tiếng anh rì rầm trò chuyện với Nathan ở phòng kế bên, tiếng đài đều đều khe khẽ. Lúc này khu nhà phụ lặng như tờ, không gian quanh tôi như một vùng chân không.

    Tôi đóng một túi đựng tất cả những thứ đồ có thể anh cần cho ngày hôm sau, bao gồm quần áo sạch, bàn chải đánh răng, lược, thuốc thang, và cả tai nghe trong trường hợp anh đủ khỏe để nghe nhạc. Khi xếp đồ, tôi phải ra sức ngăn cảm giác sợ hãi lạ lùng trào lên trong lòng. Một giọng nhỏ gây suy sụp cứ dâng lên trong lòng tôi, nói rằng, Nếu anh ấy chết đi, cảm giác cũng thế này đây. Để xua nó đi, tôi bật đài, cố đưa cuộc sống trở lại với khu nhà phụ. Tôi lau chùi nhà, trải ga mới lên giường Will, hái ít hoa từ ngoài vườn vào cắm trong phòng khách. Thế rồi khi làm xong mọi thứ, tôi liếc qua thì thấy tập hồ sơ về ngày nghỉ đang nằm trên bàn.

    Tôi sẽ dành cả ngày mai để lo liệu mọi việc giấy tờ, hoãn mọi chuyến đi, mọi cuộc tham quan tôi đã đặt trước. Chẳng ai biết khi nào Will sẽ khỏe lên để thực hiện một hành trình nào trong số đó. Bác sĩ điều trị đã nhấn mạnh là anh ấy phải nghỉ ngơi, để đợt kháng sinh phát huy hết tác dụng, phải sống ở nơi ấm áp và khô thoáng. Chèo thuyền đổ thác và lặn với bình dưỡng khí không phải là một phần trong kế hoạch hồi phục của anh.

    Tôi nhìn trân trân vào tập hồ sơ, vào tất cả nỗ lực, việc làm và tưởng tượng đã đổ vào để xây dựng nó. Tôi nhìn trân trân vào tấm hộ chiếu tôi đã phải xếp hàng để lấy, nhớ lại cảm giác phấn khích không ngừng dâng lên ngay cả khi phải ngồi trên tàu lên thủ đô, và lần đầu tiên kể từ khi bắt tay vào kế hoạch, tôi cảm thấy vô cùng nản chí. Chỉ còn hơn ba tuần nữa thôi, và tôi đã thất bại. Hợp đồng của tôi đang tới hồi kết, thế mà tôi chẳng làm được gì để thay đổi đáng kể tâm trí của Will. Tôi sợ cả phải hỏi bà Traynor xem chuyện này sẽ dẫn tới đâu. Đột nhiên tôi thấy tan nát. Tôi vùi đầu vào tay, và trong căn nhà nhỏ tĩnh mịch, tôi buông xuôi tất cả.

    "Chào."

    Tôi ngẩng đầu lên. Nathan đang đứng đó, choán gian bếp bé xíu bằng thân hình cao lớn của mình. Trên vai ông đeo ba-lô.

    "Tôi chỉ ghé qua để đưa một số thuốc theo toa cho cậu ấy dùng khi trở về.

    Cô... ổn chứ?"

    Tôi vội lau mắt. "Vâng. Xin lỗi. Chỉ là... chỉ là hơi lo sợ khi phải hoãn cái đống này."

    Nathan bỏ ba-lô ra khỏi vai rồi ngồi xuống đối diện với tôi. "Chuyện đó thật đáng thất vọng, tất nhiên rồi." Ông cầm tập hồ sơ lên và bắt đầu lật giở. "Mai cô có cần tôi giúp không? Họ không cần tôi tới bệnh viện, thế nên tôi có thể ghé qua chừng một tiếng vào buổi sáng. Giúp cô gọi điện."

    "Ông tốt quá. Nhưng không cần đâu. Tôi sẽ ổn. Có lẽ sẽ đơn giản hơn nếu một mình tôi làm hết."

    Nathan pha trà, và chúng tôi ngồi đối diện nhau uống trà. Tôi nghĩ đây là lần đầu tiên Nathan và tôi thật sự nói chuyện với nhau - ít nhất là lần đầu tiên không có Will bên cạnh. Ông kể cho tôi về khách hàng trước đây của ông, một người bị liệt C3/4 luôn phải dùng máy hô hấp nhân tạo, bị ốm ít nhất một tháng một lần trong suốt thời gian ông làm việc ở đó. Ông kể với tôi về những đợt viêm phổi trước của Will, lần đầu tiên đã suýt cướp mạng anh, sau lần đó anh mất mấy tuần mới lại sức.

    "Cái nhìn đó thường trực trong mắt cậu ấy..." ông nói. "Khi cậu ấy ốm nặng. Nó thật đáng sợ. Như thể cậu ấy đang... rút lui. Như thể cậu ấy hầu như đã hồn lìa khỏi xác."

    "Tôi biết. Tôi ghét cái nhìn ấy."

    "Cậu ấy là một..." ông cất tiếng. Rồi đột nhiên ông đưa mắt khỏi tôi mà miệng ông mím lại.

    Chúng tôi siết chặt tách trà. Từ khóe mắt, tôi theo dõi Nathan, nhìn gương mặt thân thiện cởi mở của ông dường như tạm thời khép lại. Và tôi biết mình sắp hỏi một câu mà tôi đã sẵn biết câu trả lời.

    "Ông biết, đúng không?" "Biết gì?"

    "Về chuyện anh ấy muốn làm."

    Căn phòng đột nhiên im ắng nặng nề.

    Nathan nhìn tôi thận trọng, như thể ông đang cân nhắc xem phải trả lời thế nào.

    "Tôi biết," tôi nói. "Vô tình thôi, nhưng tôi biết. Vì thế mà... vì thế mà mới có kế hoạch đi chơi. Vì thế mà mới có những buổi dã ngoại. Tôi đang cố gắng thay đổi ý định của anh ấy."

    Nathan đặt tách lên bàn. "Tôi đã rất thắc mắc," ông nói. "Trông cô có vẻ như... đang mang nhiệm vụ."

    "Đã là thế. Đang."

    Ông lắc đầu, như muốn nói tôi không nên bỏ cuộc, hay để bảo rằng chẳng ích gì đâu, tôi không chắc.

    "Chúng ta sẽ làm gì, Nathan?"

    Mất một lúc ông mới cất tiếng lại. "Cô biết không, Lou? Tôi thực sự quý Will. Tôi không ngại nói với cô đâu, tôi yêu mến anh chàng ấy. Tới nay tôi đã ở bên cậu ấy được hai năm rồi. Tôi đã thấy cậu ấy trong trạng thái tồi tệ nhất, cũng đã thấy cậu ấy vào những ngày yên ổn, và tất cả những gì tôi có thể nói với cô là tôi không bao giờ muốn thấy cậu ấy thất vọng."

    Ông nhấp một ngụm trà. "Có nhiều đêm ngủ lại, tôi thấy cậu ấy thức giấc và la hét vì trong mơ cậu ấy thấy mình vẫn đi được, vẫn có thể trượt tuyết và làm mọi thứ, thế rồi chỉ trong mấy phút ấy thôi, khi lớp vỏ ngụy trang sụp đổ và mọi thứ trở nên thực tế tới phũ phàng, cậu ấy thật sự không chịu đựng nổi ý nghĩ không bao giờ làm được như thế nữa. Cậu ấy không chịu đựng được. Tôi ngồi đó với cậu ấy, tôi chẳng thể nói gì, không điều gì có thể khiến mọi chuyện tốt lên dù chỉ một chút. Cậu ấy đang phải đối mặt với những lá bài bi kịch nhất của số phận. Và cô biết gì không? Đêm qua khi nhìn cậu ấy, tôi nghĩ về cuộc đời của cậu ấy và nghĩ rồi đây nó sẽ ra sao... và dù trên đời này tôi chẳng khao khát gì hơn được thấy anh chàng cừ khôi ấy hạnh phúc, nhưng tôi... tôi không thể phán xét cậu ấy về điều cậu ấy muốn. Đó là lựa chọn của cậu ấy. Đó nên là lựa chọn của cậu ấy."

    Hơi thở của tôi bắt đầu nghẹn lại trong cổ họng. "Nhưng... đó là trước đây. Tất cả mọi người đều thừa nhận đó là chuyện trước khi tôi tới. Giờ anh ấy đã khác. Anh ấy rất khác với tôi phải không?"

    "Đúng thế, nhưng..."

    "Nhưng nếu chúng ta không tin anh ấy có thể cảm thấy dễ chịu hơn, thậm chí khỏe hơn, thì làm sao lại muốn anh ấy giữ niềm tin rằng những điều tốt đẹp có thể xảy ra?"

    Nathan đặt tách trà lên bàn. Ông nhìn thẳng vào mắt tôi. "Lou. Cậu ấy sẽ không khỏe lên."

    "Làm sao ông biết được."

    "Tôi biết. Trừ phi có một bước đột phá to lớn nào đó trong nghiên cứu tế bào gốc, Will sẽ phải đối mặt với cả thập kỷ nữa trên chiếc xe lăn ấy. Ít nhất là chừng đó. Cậu ấy biết điều đó, dù cha mẹ cậu ấy không muốn thừa nhận. Và đây là một nửa của rắc rối. Bà T muốn giữ cậu ấy sống bằng mọi giá. Ông T thì nghĩ tới một thời điểm nào đó chúng ta phải để cho cậu ấy quyết định."

    "Tất nhiên là anh ấy được quyết định, Nathan. Nhưng anh ấy phải xem xét coi quyết định chính xác của bản thân là gì."

    "Cậu ấy rất thông minh. Cậu ấy biết chính xác lựa chọn của mình là gì."

    Giọng tôi trở nên gay gắt trong căn phòng nhỏ đó. "Không. Ông sai rồi. Ông đang nói với tôi là trước khi tôi tới anh ấy giẫm chân tại chỗ. Ông đang nói với tôi là anh ấy không hề thay đổi tâm ý dù chỉ một chút trong suốt thời gian tôi ở đây."

    "Tôi không thể đọc được suy nghĩ của cậu ấy, Lou." "Ông thừa biết tôi đã thay đổi cách nghĩ của anh ấy."

    "Không, tôi biết cậu ấy sẽ làm mọi thứ để khiến cô hạnh phúc."

    Tôi nhìn ông trân trân. "Ông nghĩ anh ấy đang làm những việc đó chỉ để khiến tôi hạnh phúc?" Tôi thấy giận Nathan, giận điên người với tất cả bọn họ. "Thế nếu ông không tin chuyện này có thể làm được chút gì tốt đẹp, sao ông còn tới làm gì? Sao ông thậm chí còn muốn tham gia chuyến đi này? Chỉ là một kỳ nghỉ thú vị thôi phải không?"

    "Không. Tôi muốn cậu ấy sống." "Nhưng..."

    "Nhưng tôi muốn cậu ấy sống nếu cậu ấy muốn sống. Nếu cậu ấy không muốn mà cứ ép buộc cậu ấy tiếp tục, thì cô, tôi - dù chúng ta yêu thương cậu ấy tới thế nào - chúng ta chỉ trở thành một nhóm người khốn kiếp nữa cướp đi quyền lựa chọn của cậu ấy."

    Những lời Nathan nói vang vọng trong không gian yên ắng. Tôi gạt một giọt nước mắt lăn tròn trên má và cố hạ nhịp tim xuống mức bình thường. Nathan, rõ ràng là ngại ngùng khi thấy tôi khóc, đưa tay gãi gãi trên cổ, rồi một phút sau lặng lẽ đưa cho tôi một mẩu khăn giấy.

    "Tôi không thể cứ thế để chuyện đó xảy ra được, Nathan." Ông không nói gì.

    "Tôi không thể."

    Tôi nhìn trân trân tấm hộ chiếu của tôi đặt trên bàn bếp. Trên đó dán một bức ảnh khủng khiếp. Trông nó như một người hoàn toàn khác. Một người mà cuộc đời và cách sống có lẽ thật sự chẳng có gì giống với cuộc đời và cách sống của tôi. Tôi nhìn nó chằm chằm, suy nghĩ.

    "Nathan?"

    "Sao?"

    "Nếu tôi có thể sửa thành một kiểu đi du lịch khác, một kiểu mà bác sĩ sẽ cho phép, ông vẫn đi cùng chứ? Ông vẫn giúp tôi chứ?"

    "Tất nhiên tôi sẽ giúp." Ông đứng dậy, rửa tách rồi quàng ba-lô lên vai. Ông quay mặt lại phía tôi khi sắp ra khỏi bếp. "Nhưng tôi phải nói thật, Lou. Tôi không chắc thậm chí liệu cô có thể tìm ra một kiểu đi du lịch như thế hay không."
     
  9. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 23

    Đúng mười ngày sau, bố Will lái xe thả chúng tôi xuống sân bay Gatwick, Nathan chất hành lý lên xe đẩy, còn tôi kiểm tra liên tục xem Will có thoải mái không - tới mức đến anh cũng phải bực mình.

    "Mọi người chăm sóc bản thân nhé. Đi chơi vui vẻ," ông Traynor nói, đặt tay lên vai Will. "Đừng có quậy phá quá đấy." Ông nháy mắt với tôi khi nói câu ấy.

    Bà Traynor không thể nghỉ việc để tới cùng. Tôi ngờ rằng thật ra bà không muốn ngồi suốt hai tiếng đồng hồ trên xe cùng chồng.

    Will gật đầu nhưng không nói gì. Anh đã im lặng suốt lúc đi trên xe, nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ với cái nhìn vô định cố hữu, không để ý tới Nathan và tôi chuyện trò miên man về giao thông và về những thứ chúng tôi phát hiện ra mình đã bỏ quên.

    Ngay cả khi đang đi giữa phi trường, tôi vẫn không chắc chúng tôi đang làm một việc đúng đắn hay không. Bà Traynor không hề muốn anh đi. Nhưng từ hôm anh đồng ý với kế hoạch chỉnh sửa của tôi, tôi biết bà e ngại phải nói với anh là anh không nên đi. Đúng hơn, suốt cả tuần qua bà e ngại phải nói chuyện với chúng tôi. Bà lặng lẽ ngồi bên Will, chỉ nói về vấn đề thuốc thang. Hoặc loay hoay mua việc ngoài vườn, cắt tỉa cây cối với năng suất đáng sợ.

    "Hãng hàng không sẽ tới đón chúng ta. Họ sẽ tới đón chúng ta," tôi nói khi chúng tôi di chuyển tới quầy check-in, lật tới lật lui tập giấy tờ.

    "Bình tĩnh nào. Họ không tới đón khách ở cửa đâu," Nathan nói.

    "Nhưng chiếc xe lăn phải vận chuyển dưới dạng 'thiết bị y tế dễ vỡ'. Tôi đã kiểm tra thông tin với cô trực điện thoại ba lần rồi. Và chúng ta cần phải đảm bảo rằng họ sẽ không làm rối tung thiết bị y tế vận chuyển trên máy bay của Will."

    Cộng đồng người bị liệt tứ chi trên mạng đã cung cấp cho tôi hàng loạt thông tin, lời cảnh báo, quyền lợi hợp pháp và danh sách những việc cần làm. Sau đó tôi kiểm tra ba lần với hãng hàng không rằng chúng tôi sẽ được nhận những ghế trong khoang có vách ngăn, và Will sẽ được lên máy bay đầu tiên, không chuyển anh khỏi xe lăn điện trước khi chúng tôi tới tận cửa máy bay. Nathan sẽ lưu lại dưới đất, rút cần điều khiển để chuyển sang chế độ đẩy tay, rồi cẩn thận buộc và chèn lót cho xe lăn nhằm bảo vệ bàn đạp. Ông sẽ trực tiếp giám sát người ta đưa xe lên máy bay để tránh bị hư hỏng. Chiếc xe sẽ được dán nhãn hồng để cảnh báo với những người xếp đồ đó là thứ cực kỳ dễ hỏng. Chúng tôi đã được cấp ba ghế cùng hàng để Nathan có thể trợ giúp y tế ngay khi Will cần mà không ai bị tọc mạch. Hãng bay đảm bảo với chúng tôi rằng tay ghế đã được nâng lên để chúng tôi không làm trầy hông Will trong khi chuyển anh từ xe lăn sang ghế. Chúng tôi sẽ giữ anh ngồi giữa trong suốt hành trình. Và chúng tôi sẽ được phép xuống máy bay đầu tiên.

    Tất cả những thứ này nằm trong danh sách "việc cần kiểm tra với máy bay" của tôi. Danh sách đó nằm trước danh sách "việc cần kiểm tra ở khách sạn" nhưng sau danh sách "việc cần kiểm tra vào ngày trước hôm đi" và lịch trình. Dù với tất cả những thứ đảm bảo an toàn sắp xếp đâu ra đó này, tôi vẫn cảm thấy lo phát ốm.

    Mỗi lần nhìn Will tôi tự hỏi liệu việc mình đang làm có đúng đắn không. Will chỉ mới được bác sĩ đa khoa của anh cho phép đi du lịch vào đêm trước. Anh ăn ít, hầu như ngủ suốt ngày. Trận ốm dường như không làm anh suy yếu, nhưng anh kiệt quệ với cuộc sống, mệt mỏi với sự can thiệp của chúng tôi, với nỗ lực gợi chuyện đầy lạc quan và sự quyết tâm không mệt mỏi của chúng tôi cố làm cho cuộc sống của anh tốt lên. Anh vẫn chịu đựng tôi, nhưng tôi có cảm giác anh thường muốn ở một mình. Anh không biết rằng đó là việc duy nhất tôi không thể làm.

    "Một cô tiếp viên tới kìa," tôi nói, khi cô gái mặc đồng phục có nụ cười rạng rỡ với bìa kẹp hồ sơ trên tay bước nhanh về phía chúng tôi.

    "Ồ, cô ấy sẽ có ích trong công tác vận chuyển lắm đây," Nathan lầm bầm. "Trông cô ấy có vẻ như không nhấc nổi một con tôm đông lạnh."

    "Chúng ta sẽ xoay sở được," tôi nói. "Chúng ta với nhau sẽ xoay sở được thôi."

    Câu đó đã trở thành câu nói cửa miệng của tôi, kể từ khi tôi nghiệm ra mình muốn làm gì. Từ hôm nói chuyện với Nathan trong khu nhà phụ, tôi chất chứa cảm giác hăng hái mới muốn chứng minh cho tất cả mọi người thấy họ đã sai. Chúng tôi không thực hiện được kỳ nghỉ mà tôi đã lên kế hoạch không có nghĩa Will không thể làm gì.

    Tôi lên các diễn đàn, đặt nhiều câu hỏi. Nơi nào có thể là một nơi tốt để Will hồi phục khỏi tình trạng ốm yếu hiện nay? Có ai khác biết chúng tôi có thể đến chỗ nào không? Nhiệt độ là mối quan tâm chính của tôi - thời tiết ở Anh thay đổi chóng mặt (chẳng có gì tồi tệ hơn một khu resort ven biển ở Anh chìm trong mưa gió). Phần lớn châu Âu quá nóng vào tháng Bảy, ngoại trừ Ý, Hy Lạp, miền Nam nước Pháp và những vùng ven biển khác. Tôi có một mơ tưởng, đúng thế. Tôi thấy Will trước mắt, thư giãn bên bãi biển. Vấn đề là chỉ có mấy ngày để lập kế hoạch và lên đường, thế nên cơ hội để biến điều đó thành sự thật là rất nhỏ.

    Những người khác tỏ ra thương hại, vô số câu chuyện về chứng viêm phổi được kể ra. Nó dường như đã trở thành bóng ma ám ảnh tất cả mọi người. Có đôi người gợi ý những địa điểm mà chúng tôi nên đi, nhưng chẳng chỗ nào khiến tôi hứng thú. Hay quan trọng hơn, tôi nghĩ chẳng chỗ nào trong số đó làm Will hứng thú. Tôi không thích spa, hay những nơi mà anh có thể thấy người khác đang ở đúng vị trí anh từng có. Tôi không biết rõ điều tôi muốn, nhưng tôi trượt qua hết lượt danh sách đề xuất của họ và biết không có ý kiến nào hợp lý.

    Cuối cùng Ritchie, thành viên tích cực của chat-room, chính là người trợ giúp được tôi. Chiều hôm Will xuất viện, anh ta gõ:

    Cho tôi địa chỉ của bạn. Anh họ là nhân viên đại lý du lịch. Anh ấy giải quyết được vấn đề.

    Tôi gọi vào số điện thoại anh ta cho tôi và nói chuyện với một người đàn ông trung niên có chất giọng Yorkshire khỏe khoắn. Khi ông nói với tôi điều ông nghĩ sẵn trong đầu, một tiếng chuông thức tỉnh khẽ vang lên đâu đó trong tiềm thức của tôi. Và trong vòng hai tiếng, chúng tôi đã sắp đặt xong. Tôi biết ơn ông tới mức tôi suýt khóc.

    "Đừng nghĩ gì cả, cưng," ông nói. "Cưng chỉ cần đảm bảo anh bạn của cưng có khoảng thời gian vui vẻ."

    Điều đó có nghĩa khi chúng tôi lên đường, tôi cũng mệt không kém gì Will. Tôi đã dành nhiều ngày vật lộn tìm ra những điều kiện tốt nhất khi đi du lịch cho người liệt tứ chi, và đến tận buổi sáng khởi hành tôi vẫn chưa tin chắc Will đủ khỏe để lên đường. Lúc này, ngồi bên đống hành lý, khi nhìn anh, xa lánh và nhợt nhạt giữa sân bay náo nhiệt, tôi lại tự hỏi có phải mình đã sai lầm. Đột nhiên tôi hoảng sợ. Anh lại ốm thì sao? Sẽ thế nào nếu anh ghét từng phút trong cả hành trình, như hôm đi xem đua ngựa? Sẽ thế nào nếu tôi đã nhầm về toàn bộ tình huống này, và cái Will cần không phải là một chuyến đi anh dũng, mà là mười ngày nằm ở nhà trên giường của chính anh?

    Nhưng chúng tôi không có mười ngày nào nữa cả. Vấn đề là ở đó. Đây là cơ hội duy nhất của tôi.

    "Họ đang gọi tới chuyến bay của chúng ta," Nathan nói khi quay lại từ khu bán đồ miễn thuế. Ông nhìn tôi, nhướng mày, và tôi hít một hơi thật sâu.

    "Được rồi," tôi đáp. "Đi thôi."

    Ngoại trừ việc phải ngồi mười hai tiếng trên máy bay, bản thân chuyến bay không phải là một thách thức như tôi đã e sợ. Nathan chứng tỏ bản thân hết sức khéo léo khi thay đồ cho Will dưới một tấm chăn. Tiếp viên chuyến bay rất quan tâm và kín đáo, và rất cẩn thận với chiếc xe. Như đã hứa, họ cho Will lên đầu tiên, chuyển anh vào chỗ ngồi mà không gây bầm dập và ổn định giữa hai chúng tôi.

    Trong vòng một tiếng bay tôi nhận ra rằng thật kỳ lạ là khi ở trên mây trời, với điều kiện ghế ngồi của Will được ngả ra sau và anh được chèn cẩn thận để ngồi vững, anh chẳng khác gì mọi người trong khoang. Ngồi lỳ trước một màn hình, không đi đâu và chẳng làm gì, trên độ cao hơn mười nghìn mét, chẳng có gì nhiều phân tách anh với những hành khách khác. Anh ăn và xem phim, phần lớn thời gian dành cho ngủ.

    Nathan và tôi lén mỉm cười với nhau và cố tỏ vẻ như thể chuyện này ổn thỏa, tốt đẹp cả. Tôi nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ, ý nghĩ của tôi náo động như những đám mây dưới kia, nhưng tôi vẫn chưa dám nghĩ tới sự thật rằng với tôi đây không phải là một thử thách về mặt hậu cần mà là một chuyến phiêu lưu - rằng tôi, Lou Clark, đang thẳng tiến tới nửa kia của bán cầu. Tôi không nghĩ nổi về chuyện đó. Lúc ấy tôi không nghĩ được ngoài Will. Tôi cảm thấy mình giống em gái, khi nó mới sinh Thomas. "Cảm giác giống như em đang nhìn qua một cái phễu vậy," nó nói khi nhìn hình hài đứa con đỏ hỏn. "Thế giới co lại chỉ còn có em với nó."

    Nó đã nhắn tin cho tôi khi tôi ở sân bay.

    Chị làm được mà. Em vô cùng tự hào về chị xxx

    Lúc này tôi mở lại tin nhắn đó, chỉ để nhìn nó, đột nhiên thấy cảm động, có lẽ là vì cách lựa chọn từ ngữ của nó. Hoặc có lẽ vì tôi đang mệt mỏi và sợ hãi, tôi vẫn cảm thấy khó tin rằng tôi đã đưa chúng tôi đi xa tới thế này. Cuối cùng để xóa những dòng suy nghĩ miên man, tôi bật màn hình ti-vi nhỏ lên, nhìn không chú tâm vào bộ phim truyền hình hài nào đó của Mỹ cho tới khi bầu trời xung quanh tối thẫm.

    Khi tỉnh giấc, tôi nhận ra cô tiếp viên đang đứng bên cạnh phục vụ bữa sáng, Will đang nói chuyện với Nathan về bộ phim họ vừa xem cùng nhau, và thật ngạc nhiên - bất chấp mọi khó khăn này - ba chúng tôi chỉ còn chưa đầy một tiếng nữa là hạ cánh xuống quốc đảo Mauritius.

    Mãi tới khi chúng tôi chạm chân xuống sân bay quốc tế Sir Seewoosagur Ramgoolam, tôi mới dám tin chuyện này đã thật sự xảy ra. Chúng tôi chếnh choáng đi qua phòng chờ, vẫn còn đờ đẫn vì ngồi lâu trên máy bay, và tôi suýt khóc vì nhẹ nhõm khi thấy chiếc taxi chuyên dụng xuất hiện. Buổi sáng đầu tiên ấy, khi người tài xế lướt nhanh chở chúng tôi tới khu resort, tôi ngắm nhìn hòn đảo một chút. Quả nhiên, màu sắc ở đây có vẻ tươi sáng hơn ở Anh, bầu trời sống động hơn, một màu xanh nhạt vừa biến mất, thay thế bằng một sắc xanh sâu thẳm hơn đang trải ra vô tận. Tôi thấy hòn đảo xanh mơn căng tràn nhựa sống, viền quanh là bạt ngàn vựa mía, biển hiện ra như một dải thủy ngân rót xuống từ những ngọn núi lửa. Không gian thoảng màu sương khói và vị cay nồng, mặt trời chói chang tới nỗi tôi phải nheo mắt trước ánh nắng sáng lòa. Trong trạng thái mệt mỏi lúc này, khung cảnh ấy chẳng khác gì có ai đánh thức tôi bằng những trang tạp chí lộng lẫy.

    Nhưng dù tâm trí tôi xao động với cảnh trí xa lạ, tôi vẫn liên tục quay lại nhìn Will, nhìn gương mặt xanh xao yếu ớt của anh, nhìn cách đầu anh rụt sâu đến lạ lùng vào giữa hai vai. Rồi xe chúng tôi rẽ vào con ngõ rợp bóng dừa, dừng lại bên ngoài một tòa nhà thấp và người tài xế đã xuống xe dỡ đồ cho chúng tôi.

    Chúng tôi từ chối lời mời uống trà lạnh và dạo một vòng quanh khách sạn. Chúng tôi tìm phòng Will, bỏ hành lý của anh xuống, đặt anh lên giường, và chưa kịp hạ rèm thì anh đã thiếp đi. Thế là chúng tôi đã tới nơi. Tôi đã thực hiện được. Tôi đứng bên ngoài phòng anh, cuối cùng cũng thở phào, trong khi Nathan chăm chú hướng ra cửa sổ nhìn những con sóng bạc đầu trên bãi san hô ngoài kia. Tôi không biết vì hành trình, hay vì đây là nơi đẹp nhất tôi từng thấy trong đời, nhưng bất chợt tôi muốn khóc.

    "Không sao đâu," Nathan nói khi thấy vẻ mặt của tôi. Rồi thật bất ngờ, ông bước tới bao bọc tôi trong một cái ôm ghì. "Thư giãn nào Lou. Mọi chuyện sẽ ổn cả. Thật đấy. Cô làm tốt lắm."

    Mất gần ba ngày tôi mới bắt đầu tin lời ông. Bốn mươi tám tiếng đầu, Will hầu như chỉ ngủ - và rồi thật ngạc nhiên, anh bắt đầu trông khỏe hơn. Da anh thắm lại và những quầng thâm quanh mắt tan dần. Những cơn co thắt giảm đi và anh bắt đầu ăn lại, chạy xe chầm chậm dọc theo dãy đồ buffet sang trọng dài bất tận và bảo với tôi món anh muốn có trên đĩa của mình. Tôi biết anh lại trở về là chính anh hơn khi bắt tôi thử những thứ lẽ ra tôi không bao giờ ăn - cà-ri creole và những món hải sản tôi không biết tên. Anh hòa hợp với nơi này nhanh hơn tôi. Điều đó cũng không có gì lạ. Tôi phải thừa nhận với bản thân rằng trong phần lớn cuộc đời Will, đây vốn là lãnh địa của anh - quả địa cầu này, những bãi biển mênh mông này - chứ không phải cái khu nhà phụ bé tin hin nấp dưới bóng tòa lâu đài.

    Như đã hứa hẹn, khách sạn mang tới xe lăn đặc biệt với bánh xe lớn, hầu hết buổi sáng Nathan chuyển Will vào chiếc xe đó rồi cả ba chúng tôi đi xuống bãi biển, tôi cầm theo ô để có thể bảo vệ anh nếu ánh nắng trở nên quá gay gắt. Nhưng nắng không bao giờ chói chang; phía nam của hòn đảo này nổi tiếng với những ngọn gió biển, và mới đầu mùa hè nên nhiệt độ ở khu resort hiếm khi lên tới hai lăm. Chúng tôi thường dừng lại ở một bãi biển nhỏ gần một vách đá, thoát khỏi tầm mắt của tòa khách sạn chính. Khi đó tôi sẽ mở ghế của mình ra, ngồi xuống bên cạnh Will dưới bóng dừa, và chúng tôi sẽ xem Nathan cố lướt ván buồm hoặc lướt ván tàu kéo, thỉnh thoảng từ trên bãi cát chúng tôi lại hét to khích lệ hoặc chửi thề.

    Thoạt đầu nhân viên khách sạn chăm sóc Will quá kỹ, luôn đề nghị được đẩy xe cho anh, thường xuyên mang đồ uống lạnh tới. Chúng tôi giải thích những việc chúng tôi không cần họ làm, thế là họ vui vẻ rút lui. Nhưng những lúc tôi không ở bên anh thì thật tốt khi người gác cửa hoặc nhân viên tiếp tân ghé lại nói chuyện với anh, hoặc chia sẻ với anh về những nơi mà họ nghĩ chúng tôi nên đến. Có một cậu thanh niên mảnh khảnh tên là Nadil tự nhận nhiệm vụ làm người chăm sóc không chính thức của Will khi Nathan không ở bên anh. Một hôm tôi đi ra thì thấy cậu cùng một người bạn đang nhẹ nhàng nhấc Will ra khỏi ghế hạ xuống chiếc ghế sưởi nắng dài bọc nệm mà cậu đã đặt sẵn bên cạnh cái cây "của chúng tôi".

    "Thế này tốt hơn đấy," cậu nói, giơ ngón cái lên với tôi khi tôi băng qua bãi cát. "Cô chỉ cần gọi tôi khi Ngài Will muốn trở lại xe."

    Tôi toan phản đối, và nói với họ rằng họ không nên chuyển dời anh như thế. Nhưng Will đã nhắm mắt lại và nằm yên với vẻ mặt vui thú lạ lùng, thế là tôi im bặt và gật đầu.

    Về phần tôi, khi nỗi lo lắng cho sức khỏe của Will dịu xuống, tôi bắt đầu từ từ ngờ rằng mình thực sự đang ở thiên đường. Trong chừng ấy năm cuộc đời tôi chưa bao giờ tưởng tượng mình sẽ được tới một nơi như thế này. Sáng sáng tôi thức giấc với tiếng sóng biển vỗ bờ êm ái, tiếng những loài chim lạ gọi nhau trên những tàng cây. Tôi nhìn lên trần nhà, quan sát ánh nắng vờn hoa lá, và tiếng rì rầm trò chuyện từ phòng bên cạnh đưa sang báo cho tôi biết Will và Nathan đã thức giấc từ lâu. Tôi mặc đồ bơi và quấn xà-rông, thưởng thức cảm giác của nắng ấm sưởi trên vai và lưng. Da tôi bắt đầu rám nắng, móng tay hồng hào, và tôi bắt đầu cảm nhận được chút hạnh phúc hiếm hoi của niềm vui sướng giản đơn khi được sống ở đây - của dạo bộ trên bãi biển, ăn món lạ, bơi trong nước ấm trong vắt nơi có loài cá đen e dè nhìn ngó từ bên dưới những phiến đá mác-ma, hoặc ngắm mặt trời đỏ ối lặn xuống chân mây. Chầm chậm, mấy tháng qua bắt đầu tan biến. Thật xấu hổ nhưng tôi chẳng nghĩ tới Patrick bao giờ.

    Ngày của chúng tôi hình thành nhịp điệu. Cả ba chúng tôi ăn sáng cùng nhau, ở những chiếc bàn trong bóng râm quanh bể bơi. Will thường ăn salad trái cây, món mà tôi đút cho anh bằng tay, thỉnh thoảng nếu ngon miệng anh ăn thêm bánh chuối. Rồi chúng tôi đi xuống bãi biển và ngồi ở đó - tôi đọc sách, Will nghe nhạc - trong khi Nathan luyện tập kỹ năng các môn thể thao dưới nước. Will cứ bảo tôi thử tập môn gì đó đi, nhưng thoạt đầu tôi nói không. Tôi chỉ muốn ngồi bên anh. Khi Will khăng khăng quá, một sáng tôi cũng thử lướt sóng và chèo thuyền, nhưng tôi chỉ hạnh phúc nhất khi được quanh quẩn bên anh.

    Thỉnh thoảng nếu Nadil tới, và khi resort vắng vẻ, cậu và Nathan sẽ đẩy Will xuống hồ bơi nhỏ có nước ấm, Nathan đỡ dưới đầu anh để anh nổi được. Anh không nói nhiều khi họ làm thế, nhưng trông anh lặng lẽ hài lòng, như thể cơ thể anh đang hồi nhớ về những cảm giác đã quên lãng từ lâu. Tấm thân nhợt nhạt bấy lâu của anh trở nên rám nắng. Những vết sẹo trắng ra rồi từ từ thắm lại. Anh dần thấy thoải mái khi không mặc áo.

    Tới bữa trưa, chúng tôi sẽ đi tới một trong ba nhà hàng của khu resort. Bề mặt của toàn bộ khu nhà đều được lát gạch, chỉ vài nơi có mấy bậc tam cấp và đường trượt nhỏ, thế nên Will có thể di chuyển xe lăn một cách hoàn toàn tự chủ. Đây là một chuyện nhỏ, nhưng việc anh có thể tự mình chọn đồ uống mà không cần ai trong hai chúng tôi đi cùng không có ý nghĩa về mặt tạo thời gian nghỉ ngơi cho tôi và Nathan bằng khía cạnh rũ bỏ được trong chốc lát một trong những nỗi thất vọng thường trực của Will - đó là phải phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Nói thế chứ chúng tôi cũng chẳng phải di chuyển nhiều. Dường như cứ khách xuất hiện ở đâu, trên bãi biển hay bên bể bơi, hay thậm chí trong khu spa, là lại có một người phục vụ tươi cười mang tới thức uống mà họ nghĩ khách thích, thường được trang trí với một bông hoa màu hồng thanh nhã. Ngay cả khi khách nằm trên bãi biển, một chiếc xe đẩy cũng sẽ lướt tới, và người phục vụ vui vẻ sẽ mời khách dùng nước suối, nước ép trái cây, hoặc đồ uống mạnh.

    Vào buổi chiều, khi nhiệt độ lên cao nhất, Will sẽ về phòng ngủ vài giờ. Tôi sẽ bơi trong bể, hoặc đọc sách, rồi tới chiều tối tất cả chúng tôi sẽ gặp lại nhau để ăn tối ở nhà hàng ven biển. Tôi nhanh chóng tăng hứng thú với cocktail. Nadil phát hiện ra rằng nếu cậu đưa cho Will ống hút đúng cỡ và đặt một ly cao vào khay để ly trên xe lăn, Nathan và tôi sẽ không phải nhúng tay vào nữa. Khi hoàng hôn buông xuống, ba chúng tôi sẽ kể chuyện thời thơ ấu, kể về bạn trai bạn gái đầu đời, công việc đầu tiên, về gia đình và những kỳ nghỉ chúng tôi từng trải qua, và tôi dần dần thấy Will lại là Will.

    Chỉ có điều đây là một Will khác lạ. Dường như nơi này đã mang tới cho anh cái cảm giác thanh bình không thấy tăm hơi ở đâu trong suốt thời gian tôi quen anh.

    "Cậu ấy khá lên quá nhỉ?" Nathan nói khi gặp tôi bên bàn buffet. "Vâng, tôi nghĩ đúng là thế."

    "Cô biết không..." Nathan ghé lại gần tôi, e ngại Will thấy chúng tôi đang nói chuyện về anh "... tôi cứ nghĩ đi chơi nông trang và phiêu lưu sẽ rất tuyệt. Nhưng nhìn cậu ấy lúc này xem, tôi không thể không nghĩ nơi này đã làm được nhiều hơn."

    Tôi không nói với ông điều tôi đã quyết định hôm đầu tiên, khi chúng tôi nhận phòng, lòng tôi thắt lại vì lo lắng, cứ tính toán xem được mấy ngày thì tôi phải trở về nhà. Tôi phải cố từng ngày trong mười ngày ấy để quên đi tại sao chúng tôi lại ở đây - hợp đồng sáu tháng, tờ lịch đánh dấu cẩn thận, mọi thứ đã xảy ra trước đó. Tôi phải sống trọn vẹn cho khoảnh khắc này và cố khích lệ Will sống tương tự. Tôi phải thật hạnh phúc, với hy vọng Will cũng cảm thấy như thế.

    Tôi lấy cho mình thêm một miếng dưa nữa, và mỉm cười. "Thế lát nữa chúng ta làm gì? Karaoke nhé? Hay tai ông chưa hồi phục sau đêm qua?"

    Vào tối thứ tư ở đây, Nathan thông báo với chỉ một chút xíu ngượng ngùng rằng ông có cuộc hẹn hò. Karen là một phụ nữ người New Zealand trú ở khách sạn kế bên, và ông đã đồng ý đi xuống phố với cô.

    "Chỉ để canh chừng cho cô ấy thôi. Cô cậu biết đấy... Tôi không chắc đây là một nơi hợp lý để cô ấy đi một mình."

    "Không," Will nói, gật đầu ra chiều hiểu biết. "Ông mới nghĩa hiệp làm sao, Nate."

    "Tôi nghĩ làm thế là rất có trách nhiệm. Rất có tinh thần công dân," tôi đồng tình.

    "Tôi luôn khâm phục Nathan về tính rộng lượng. Đặc biệt là với phái đẹp." "Bố khỉ hai người," Nathan cười nhăn nhở rồi biến mất.

    Karen nhanh chóng trở thành kẻ bám càng. Hầu như tối nào Nathan cũng đi cùng cô, dù ông luôn trở về vệ sinh cho Will vào buổi đêm, nhưng chúng tôi âm thầm dành cho ông tối đa thời gian đi giải trí.

    Vả lại, tôi cũng mừng thầm. Tôi thích Nathan, và tôi mừng vì ông đi cùng, nhưng tôi vẫn thích những lúc chỉ có Will và tôi hơn. Tôi thích lối nói ẩn ý giữa chúng tôi khi không có ai xung quanh, thích cảm giác thân mật dễ dàng đã chăng mắc bấy nay giữa chúng tôi. Tôi thích cách anh quay mặt sang nhìn tôi với vẻ thích thú, như thể không ngờ tôi lại hay hơn anh tưởng nhiều đến vậy.

    Vào đêm cuối, tôi nói với Nathan là tôi không phiền nếu ông muốn đưa Karen về khách sạn. Ông đã ngủ nhiều đêm ở khách sạn của cô, và tôi biết điều đó gây khó khăn cho ông vì cứ phải đi bộ hai mươi phút mỗi chiều để chăm sóc những việc cuối cùng trong ngày cho Will.

    "Tôi không phiền đâu. Nếu như... ông biết đấy... làm kín đáo một tí nhé."

    Ông rất vui, mê mẩn khi nghĩ tới buổi đêm trước mắt nên vô cùng phấn chấn với tôi, "Cảm ơn, cô bạn."

    "Em thật tốt," Will nói khi nghe tôi kể chuyện.

    "Ý anh là anh thật tốt phải không," tôi nói. "Em đã dâng tặng phòng anh mà."

    Đêm đó chúng tôi đưa anh vào phòng tôi, Nathan đỡ anh lên giường và cho anh thuốc trong khi Karen chờ trong quán bar. Tôi vào phòng tắm thay quần lót và áo sơ-mi, rồi mở cửa phòng tắm, cắp gối dưới nách và phóc lên ghế sofa. Tôi có cảm giác Will đang nhìn mình chăm chú, đột nhiên tôi thấy ngượng khi nghĩ suốt một tuần trước tôi cứ mặc bikini lượn lờ trước mặt anh. Tôi thả gối xuống tay ghế sofa.

    "Clark?"

    "Sao cơ?"

    "Em không phải ngủ ở đó đâu. Cái giường này đủ rộng cho cả một đội bóng đấy."

    Vấn đề là tôi thậm chí không nghĩ tới chuyện đó. Nhưng sự tình quả là như thế. Có lẽ những ngày dài gần như trần trụi trên bãi biển đã khiến chúng tôi thả lỏng hơn một chút. Có thể đó là vì ý nghĩ ở bên kia tường Nathan và Karen đang cuộn vào nhau như một cái kén. Có thể chỉ là tôi muốn gần anh. Tôi bước tới bên giường, rồi bỗng nhiên một tiếng sét vang lên. Những tia chớp lóe sáng, ai đó ré lên bên ngoài. Chúng tôi nghe thấy từ phòng bên kia, Nathan và Karen cười phá lên.

    Tôi đi lại cửa sổ kéo rèm xuống, cảm thấy gió bất ngờ nổi lên, nhiệt độ bỗng nhiên hạ thấp. Ngoài biển bão đang đổ xuống. Những tia chớp chói lòa chiếu sáng cả bầu trời trong thoáng chốc, thế rồi chừng như để tỏ rõ hơn, mưa rào rào như trút nước xuống mái căn nhà gỗ nhỏ của chúng tôi, dữ dội tới mức thoạt đầu tôi chẳng còn nghe được tiếng gì khác.

    "Để em kéo cửa chớp lại," tôi nói. "Không, đừng."

    Tôi quay người lại.

    "Mở cửa kính ra." Will hất đầu ra phía ngoài trời. "Anh muốn nhìn."

    Tôi chần chừ, rồi từ từ mở cửa kính ra sân hiên. Mưa xối rầm rầm xuống khu khách sạn, đổ xuống từ mái nhà chúng tôi, chảy như thác từ sân hiên ra phía biển. Tôi cảm nhận được hơi ẩm trên mặt mình và tĩnh điện trong không khí. Lông măng trên cánh tay tôi dựng đứng lên.

    "Em cảm nhận thấy không?" anh hỏi sau lưng tôi. "Giống như tận thế vậy."

    Tôi đứng đó, để cho dòng điện chay qua cơ thể, để ánh chớp trắng xóa in dấu trên bờ mi. Khung cảnh ấy khiến tôi như ngừng thở.

    Tôi quay người đi lại giường, ngồi xuống mép giường. Anh cứ nhìn chăm chú, tôi cúi xuống kéo cái cổ rám nắng của anh về phía tôi. Giờ tôi đã biết cách di chuyển anh, cách điều khiển cơ thể nặng và rắn chắc của anh. Giữ anh sát bên mình, tôi cúi xuống đặt một chiếc gối lớn màu trắng dưới vai anh rồi thả anh lên chỗ bồng bềnh mềm mại ấy. Anh mang mùi nắng, như thể nắng đã ăn sâu vào da anh, và tôi âm thầm hít vào hương thơm ấy, như anh là một thức gì rất ngon lành.

    Rồi với cơ thể còn hơi ẩm, tôi trèo lên bên cạnh anh, sát tới nỗi chân tôi chạm chân anh, và chúng tôi cùng nhau ngắm vùng sáng xanh lòa khi tia chớp xẹt ngang con sóng, ngắm muôn dòng mưa bạc, ngắm khối ngọc lam khổng lồ lắc lư nhẹ nhàng cách chúng tôi chỉ chừng ba chục mét.

    Thế gian xung quanh chúng tôi như co lại, đến độ chỉ còn tiếng bão, biển xanh tím sẫm, và những bức mành sa phập phồng nhè nhẹ. Tôi ngửi thấy mùi hoa sen trong gió đêm, nghe thấy từ xa tiếng tách chén va lanh canh, tiếng kéo ghế vội vã, tiếng nhạc từ một buổi lễ xa xăm nào đó, cảm nhận thấy sự phóng điện của tự nhiên. Tôi với tay cầm tay Will, siết trong tay mình. Tôi thoáng nghĩ mình sẽ chẳng bao giờ có sự kết nối với thế gian, với một con người nào khác mạnh mẽ như lúc này.

    "Không tệ nhỉ, Clark?" Will phá vỡ im lặng. Dù bão nổi, gương mặt anh vẫn bình thản và phẳng lặng. Anh quay sang mỉm cười với tôi, lúc ấy có điều gì đó trong mắt anh, điều gì như cảm giác chiến thắng.

    "Không," tôi nói. "Không hề tệ."

    Tôi nằm yên, nghe tiếng anh thở chậm và sâu, nghe tiếng mưa chìm trong tiếng thở, cảm nhận những ngón tay ấm áp của anh siết lấy tay tôi. Tôi không muốn về nhà. Tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ về nhà. Ở đây Will và tôi được an toàn, khép mình trong thiên đường nhỏ bé của chúng tôi. Cứ nghĩ tới việc trở lại Anh là nỗi sợ kinh hoàng lại cào xé ruột gan tôi và bắt đầu siết chặt lồng ngực.

    Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Tôi cố nhắc lại với mình lời của Nathan. Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi.

    Cuối cùng, tôi nằm nghiêng, quay lưng ra biển, ngắm nhìn Will. Anh quay đầu để nhìn tôi trong ánh sáng lờ mờ, và tôi có cảm giác như anh sắp nói điều gì. Mọi chuyện sẽ ổn cả thôi. Lần đầu tiên trong đời, tôi cố không nghĩ về tương lai. Tôi cố trấn tĩnh, cố để cho những cảm xúc đêm nay lan tỏa trong lòng. Tôi không biết chúng tôi sẽ nằm yên, chỉ nhìn vào nhau như thế này được bao lâu thì mí mắt Will từ từ trĩu xuống, cho tới khi anh lẩm bẩm xin lỗi rằng anh nghĩ có lẽ anh... Hơi thở anh nặng dần, anh vùi vào lõm gối và chìm vào giấc ngủ, rồi chỉ còn mình tôi ngắm gương mặt anh, ngắm hàng mi anh chia thành những khoảng nhỏ ở gần khóe mắt, ngắm tàn nhang trên mũi anh.

    Tôi tự nhủ mình đã làm đúng. Tôi đã làm đúng.

    Cuối cùng cơn bão cũng tự tan vào khoảng một giờ đêm, biến mất đâu đó ngoài biển khơi, những ánh chớp nhạt dần rồi mất dạng, mang cơn bão dữ tới một nơi nào không rõ. Không gian quanh chúng tôi trở nên yên tĩnh, rèm cửa đứng yên, nước rút hết ra biển với tiếng kêu ùng ục. Tôi thức dậy lúc trời còn mờ đất, nhẹ nhàng thả tay ra khỏi tay Will, khép những cánh cửa sổ kiểu Pháp lại, bao bọc căn phòng trong sự tĩnh lặng. Will ngủ - một giấc ngủ ngon lành, thanh bình anh hiếm khi có ở nhà.

    Tôi không ngủ được. Tôi nằm đó quan sát anh, cố ép mình không được suy nghĩ gì.

    Có hai thứ đã xảy ra vào ngày cuối cùng. Một là dưới sự ép buộc của Will, tôi đã đồng ý thử lặn biển. Mấy ngày qua anh cứ ì xèo suốt với tôi, bảo rằng tôi không thể đi chừng ấy chặng đường tới đây mà không chịu lặn xuống nước. Tôi đã thất bại trong trò lướt ván buồm, không tài nào nhấc nổi ván lên khỏi sóng, và tôi cứ liên tục cắm mặt xuống nước dọc con vịnh trọn thời gian thử chơi trò lướt ván. Nhưng hôm trước anh cứ khăng khăng bắt tôi lặn, rồi khi đi ăn trưa về anh tuyên bố đã đặt cho tôi một khóa học lặn nửa ngày dành cho người bắt đầu.

    Sự khởi đầu không mấy suôn sẻ. Will và Nathan ngồi bên thành bể bơi trong khi ông thầy dạy lặn cố làm tôi tin rằng người ta vẫn thở được dưới nước, nhưng cảm giác họ đang ngồi quan sát mình khiến tôi trở nên vô tích sự. Tôi không dốt - tôi hiểu những bình oxy trên lưng sẽ giúp tôi thở, tôi biết mình không chìm - nhưng cứ hễ đầu chúi xuống nước là tôi lại hoảng hốt trồi lên mặt nước. Cứ như thể cơ thể tôi không chịu tin rằng nó vẫn có thể thở dưới vài ngàn ga-lông nước khử bằng clo sạch nhất của quốc đảo Mauritius.

    "Tôi nghĩ tôi chẳng chơi được trò này đâu," tôi nói khi mò lên khỏi nước lần thứ bảy, thở phì phò.

    James, ông thầy dạy lặn của tôi, liếc nhìn về phía Will và Nathan. "Tôi không làm được," tôi cáu kỉnh. "Không phải kiểu của tôi."

    James quay lưng về phía hai người đàn ông, vỗ vai tôi rồi hất đầu ra phía biển. "Nhiều người thấy dễ hơn ở ngoài kia," ông nói khẽ.

    "Ở biển á?"

    "Nhiều người dễ lặn ở vùng nước sâu hơn. Thôi nào. Lên thuyền ra ngoài kia."

    Bốn lăm phút sau, tôi nhìn chăm chú vào cảnh trí tươi sáng rực rỡ chìm trong lòng nước, quên mất nỗi sợ rằng bình oxy có thể bị hỏng, rằng tôi sẽ chìm xuống đáy biển và chết sặc, thậm chí tôi không hề thấy sợ nữa. Tôi thả tâm trí vào những bí mật của một thế giới mới. Trong cái im lặng chỉ thi thoảng bị phá vỡ bởi tiếng thở phì phò khá to của chính tôi, tôi quan sát từng đàn cá con đủ sắc, và những con cá mình trắng pha đen lớn hơn cứ nhìn tôi với vẻ mặt dò hỏi ngơ ngác, và những đám hải quỳ dập dờn nhè nhẹ. Tôi ngắm cảnh trí xa xa, rực rỡ và phong phú gấp hai lần trên mặt đất. Tôi thấy những hang hốc nơi sinh vật không rõ tên ẩn nấp, những hình dáng xa xôi sáng mập mờ trong ánh nắng. Tôi không muốn quay trở lên. Tôi muốn ở đó mãi, trong thế giới yên ả ấy. Chỉ tới khi James chỉ vào đồng hồ trên bình oxy của ông, tôi mới nhận ra mình không có quyền lựa chọn.

    Khi cuối cùng cũng rảo bước trên bãi biển về phía Will và Nathan, tôi nói không ra hơi, chỉ cười sung sướng. Tâm trí tôi vẫn còn ong ong với những hình ảnh vừa nhìn thấy, chân tay vẫn khua khoắng như còn dưới nước.

    "Thích nhỉ?" Nathan nói.

    "Sao anh không nói với em?" tôi càm ràm Will, thả đôi chân vịt xuống cát trước mặt anh. "Sao anh không bảo em chơi trò này sớm hơn? Hay thế cơ mà! Tất cả hiện hữu, thường trực! Ngay trước mũi em!"

    Will nhìn tôi tha thiết. Anh không nói gì, nhưng anh từ từ mỉm cười hết cỡ. "Anh không biết, Clark. Chỉ là một số người sẽ không được bảo phải làm gì."

    Đêm qua tôi đã để mình say xỉn. Không phải chỉ vì ngày mai chúng tôi sẽ về. Mà đó là vì lần đầu tiên tôi cảm thấy rõ ràng rằng Will đang khỏe và tôi có thể "thả ga". Tôi mặc một chiếc váy cotton trắng (lúc này da tôi đã rám nắng thế nên mặc đồ trắng không khiến tôi trông giống tử thi quấn vải liệm) và đi đôi xăng-đan dây màu bạc, và khi Nadil đưa cho tôi một bông hoa màu đỏ rồi hướng dẫn tôi cài lên tóc, tôi không cáu kỉnh với cậu như tôi đã như vậy cách đó một tuần.

    "Ô, chào Carmen Miranda," Will nói khi chúng tôi gặp nhau ở quầy bar. "Em quyến rũ quá."

    Tôi toan đáp lại một câu châm chọc thì nhận ra anh đang nhìn tôi với vẻ yêu thích chân thành.

    "Cảm ơn anh," tôi nói. "Anh cũng đâu quá bệ rạc."

    Có tiệc nhảy ở khu khách sạn chính, thế nên gần mười giờ đêm - khi Nathan đã đi chơi với Karen - chúng tôi dạo xuống bãi biển với tiếng nhạc trong tai và cảm giác lâng lâng mà ba ly cocktail mang lại làm cho mỗi bước đi của tôi trở nên thật dịu dàng.

    Ồ, bãi biển quả là tuyệt đẹp. Đêm rất ấm, vương theo làn gió là hương thơm của những bữa tiệc barbecue xa xa, của tinh dầu ấm dưỡng thể, của muối biển nhạt nhòa. Will và tôi dừng lại bên cái cây yêu thích. Ai đó đã chụm một ngọn lửa trên biển, có lẽ là để nấu ăn, và tất cả những gì còn lại là một đống tàn tro bập bùng.

    "Em không muốn về nhà," tôi nói, hướng mặt về bóng đêm. "Xa nơi này thật khó."

    "Em không nghĩ có những nơi như thế này tồn tại bên ngoài phim ảnh," tôi nói, quay mặt lại nhìn anh. "Nó thực sự khiến em tự hỏi không biết có phải anh đã nói thật về tất cả những thứ khác."

    Anh mỉm cười. Cả gương mặt anh thư giãn và hạnh phúc, mắt anh nhìn tôi lấp lánh. Tôi nhìn anh, và lần đầu tiên trong đời cái nhìn ấy không gợi lên thoáng sợ hãi nào gặm nhấm tâm can.

    "Anh vui vì đã đến đây, phải không?" tôi ngập ngừng hỏi. Anh gật đầu. "Tất nhiên rồi."

    "Haha!" Tôi thở phào.

    Thế rồi, khi ai đó bật nhạc bên quầy bar, tôi đá giày ra và bắt đầu nhảy. Nghe thì thật ngớ ngẩn - đó là kiểu hành động mà vào một ngày khác có lẽ sẽ khiến ta thấy xấu hổ. Nhưng khi đó, trong trời đêm tối như mực, chếnh choáng vì thiếu ngủ, bên ánh lửa trại và biển bất tận và màn đêm vô định, với âm nhạc trong tai và Will mỉm cười bên cạnh và trái tim tôi vỡ òa với một cảm xúc không gọi thành lời, tôi chỉ cần được nhảy. Tôi nhảy, cười, không e ngại, không lo sợ liệu có ai nhìn thấy chúng tôi. Tôi cảm thấy Will ngắm mình và tôi biết anh biết - rằng đây chỉ là phản ứng tất nhiên đối với mười ngày qua. Ôi không, với sáu tháng qua mới đúng.

    Bản nhạc kết thúc, tôi hổn hển ngồi phịch xuống bên chân anh. "Em..." anh nói.

    "Sao ạ?" Nụ cười của tôi méo mó. Tôi cảm thấy chao đảo, chếnh choáng.

    Tôi không điều khiển nổi mình nữa.

    Anh lắc đầu.

    Tôi từ từ đứng dậy trên đôi chân trần, đi tới ngay bên cạnh chiếc xe lăn rồi sà vào lòng anh, để mặt tôi gần sát mặt anh. Sau buổi tối hôm trước, chẳng hiểu sao đây dường như không phải một việc miễn cưỡng.

    "Em..." Đôi mắt lấp lánh ánh lửa của anh khóa mắt tôi. Anh mang mùi nắng, mùi lửa, và hương cam đậm đặc.

    Tôi thấy lòng mình trào lên cảm giác gì đó. "Em... thật khác, Clark."

    Tôi làm điều duy nhất tôi có thể nghĩ ra. Tôi vươn người tới, đặt môi lên môi anh. Anh chần chừ, chỉ trong một giây, rồi anh hôn tôi. Và trong thoáng chốc tôi quên bẵng mọi thứ trên đời - một triệu lẻ một lý do tôi không nên làm thế, nỗi sợ hãi, nguyên nhân chúng tôi ở đây. Tôi hôn anh, hít vào hương thơm trên da anh, cảm nhận làn tóc anh mềm mại dưới các ngón tay mình, rồi khi anh hôn lại tôi thì tất cả điều này đều biến mất, chỉ còn lại Will và tôi, trên một hòn đảo giữa địa cầu, dưới muôn ngàn vì sao lấp lánh.

    Rồi anh rụt lại. "Anh... anh xin lỗi. Không..."

    Tôi mở bừng mắt. Tôi đưa một tay lên mặt anh, lướt trên bầu mặt đẹp đẽ. Tôi thấy như có lớp muối nham nhám dưới ngón tay mình. "Will..." tôi cất tiếng. "Anh có thể. Anh..."

    "Không." Nó mang một vẻ khắc nghiệt, cái từ đó. "Anh không thể." "Em không hiểu."

    "Anh không muốn vào đó." "Ưm... Em nghĩ anh phải vào đó."

    "Anh không thể làm việc này vì anh không thể..." anh nuốt khan. "Anh không thể làm người đàn ông anh muốn ở bên cạnh em. Và điều đó có nghĩa là chuyện này..." anh ngước lên nhìn mặt tôi "... chuyện này chỉ trở thành... một lời nhắc nhở khác về con người mà anh không được làm."

    Tôi không để anh quay mặt đi. Tôi nghiêng trán chạm vào trán anh, để hơi thở chúng tôi hòa trộn, và tôi nói thật khẽ để chỉ một mình anh nghe thấy lời tôi, "Em không quan tâm anh... anh nghĩ anh có thể và không thể làm gì. Chuyện này đâu tách bạch như trắng và đen. Thật ra... em đã nói chuyện với nhiều người trong hoàn cảnh tương tự và... và có nhiều thứ có thể làm lắm. Nhiều cách để cả hai ta cùng hạnh phúc..." Tôi đã bắt đầu hơi lắp bắp. Chỉ nói tới chuyện này thôi cũng đủ khiến tôi thấy kỳ cục. Tôi ngước lên nhìn sâu vào mắt anh. "Will Traynor," tôi nói khẽ. "Đây là vấn đề. Em nghĩ chúng ta có thể làm..."

    "Không, Clark..." anh cất tiếng.

    "Em nghĩ chúng ta có thể làm mọi thứ. Em biết đây không phải một chuyện tình dễ dàng. Em biết có đủ thứ lý do mà em thậm chí không nên nói ra suy nghĩ của mình. Nhưng em yêu anh. Chân thành. Em biết điều đó khi em rời bỏ Patrick. Và em nghĩ có lẽ anh cũng yêu em một chút."

    Anh không nói gì. Anh nhìn sâu vào mắt tôi, có nỗi buồn thật nặng nề trong đôi mắt ấy. Tôi vuốt tóc anh khỏi thái dương, như thể bằng cách nào đó tôi có thể lấy đi nỗi buồn của anh, và anh nghiêng đầu ngả vào lòng bàn tay tôi, để nó nghỉ trên đó.

    Anh nuốt vào. "Anh phải nói với em một điều." "Em biết," tôi thì thầm. "Em biết hết."

    Will im lặng giữa chừng. Không khí quanh chúng tôi chừng như đông đặc lại.

    "Em biết về Thụy Sỹ. Em biết... vì sao em được thuê với hợp đồng sáu tháng."

    Anh nghiêng đầu khỏi bàn tay tôi. Anh nhìn tôi, rồi ngước lên trời. Vai anh so lại.

    "Em biết cả, Will. Em biết mấy tháng rồi. Và Will, hãy nghe em..." Tôi nắm bàn tay phải của anh trong tay tôi, áp lên má mình. "Em biết chúng ta có thể làm chuyện này. Em biết đây không phải cuộc đời anh đã chọn, nhưng em biết em có thể khiến anh hạnh phúc. Và tất cả những gì em có thể nói là anh biến em... anh biến em thành một người em thậm chí chưa từng tưởng tượng ra. Anh khiến em hạnh phúc, dù anh rất nhiêu khê. Em muốn ở bên anh - dù đó là con người mà dường như anh nghĩ là rất vô dụng - hơn bất kỳ ai trên thế giới."

    Tôi cảm thấy các ngón tay anh hơi siết lại quanh tay mình, điều đó cho tôi dũng khí.

    "Nếu anh nghĩ chuyện em làm việc cho anh quá kỳ cục, thì em sẽ đi làm việc ở chỗ khác. Em muốn nói với anh - Em vừa nộp đơn theo học một đại học. Em đã nghiên cứu rất kỹ trên internet, nói chuyện với rất nhiều người liệt tứ chi và người chăm sóc cho họ, và em đã học được rất nhiều, rất nhiều về việc làm thế nào để chuyện này êm đẹp. Em làm được, và sẽ chỉ ở bên anh. Giờ em là con người như thế đấy. Đó là lỗi của anh. Anh đã thay đổi em." Tôi thoáng cười. "Anh đã biến em thành em gái em. Chỉ có điều có thẩm mỹ thời trang tốt hơn."

    Anh đã nhắm mắt lại. Tôi ấp đôi tay quanh tay anh, nâng những khớp ngón tay anh lên môi và hôn chúng. Tôi cảm thấy da anh áp vào da mình, và tôi biết rất rõ rằng tôi sẽ không bao giờ để anh đi.

    "Anh nghĩ sao?" tôi thì thầm.

    Tôi nhìn vào mắt anh chừng như cả thế kỷ.

    Anh đáp rất nhỏ, tới nỗi trong một hồi lâu tôi không dám chắc mình có nghe chính xác.

    "Gì cơ?" "Không, Clark." "Không?"

    "Anh xin lỗi. Thế không đủ."

    Tôi thả tay anh xuống. "Em không hiểu."

    Anh chờ rất lâu mới cất tiếng, như thể anh đang đánh vật một cách khó nhọc để tìm từ ngữ chính xác. "Thế là không đủ với anh. Thứ này - thế giới của anh - kể cả khi có em trong đó. Hãy tin anh, Clark, cả cuộc đời anh đã tốt lên từ khi em đến. Nhưng vẫn không đủ với anh. Đây không phải cuộc đời anh muốn."

    Giờ đến lượt tôi co người lại.

    "Vấn đề là, anh hiểu đây có thể là một cuộc sống tốt. Anh hiểu rằng với em ở bên, có thể đây thậm chí còn là một cuộc đời rất đẹp. Nhưng nó không phải cuộc đời của anh. Anh không giống những người em nói tới. Cuộc đời này chẳng hề giống cuộc đời anh muốn có. Dù chỉ một chút." Giọng anh đứt quãng, vỡ òa. Gương mặt anh khiến tôi thấy sợ.

    Tôi nuốt khan, lắc đầu. "Anh... anh có lần đã nói với em rằng đừng để cái đêm trong mê cung ấy định hình con người em. Anh đã nói em có thể lựa chọn cái gì làm nên con người mình. Ôi, anh không được để cái... cái xe lăn ấy định hình anh."

    "Nhưng nó định hình anh, Clark ạ. Em không biết về anh, không biết rõ. Em chưa bao giờ thấy anh trước khi bị như thế này. Anh yêu cuộc đời anh, Clark. Yêu vô cùng. Anh yêu công việc, du lịch, yêu con người anh trước đây. Anh yêu cảm giác được làm người khỏe mạnh. Anh muốn thắng thế người ta trong hợp đồng làm ăn. Anh thích làm tình. Làm tình thật nhiều. Anh đã sống một cuộc đời rộng lớn." Giờ đây giọng anh trở nên gay gắt. "Anh không sinh ra để tồn tại trong thứ này - và bất chấp mọi ý định và mục đích, giờ đây cái xe này định hình con người anh. Nó là thứ duy nhất định hình anh."

    "Nhưng anh thậm chí không cho nó một cơ hội," tôi thì thầm. Giọng tôi chừng như không cất lên nổi khỏi lồng ngực. "Anh không cho em cơ hội."

    "Đây không phải vấn đề cho em cơ hội. Anh đã quan sát em sáu tháng qua để thấy em trở thành một con người hoàn toàn khác, một con người chỉ vừa mới bắt đầu nhận ra nhiệm vụ của mình. Em không biết điều đó khiến anh vui sướng bao nhiêu đâu. Anh không muốn em bị trói buộc vào anh, vào những cuộc thăm khám ở bệnh viện, vào những hạn chế của cuộc đời anh. Anh không muốn em bỏ lỡ biết bao nhiêu thứ mà một ai đó khác có thể mang lại cho em. Và thật ích kỷ, anh không muốn một ngày nào đó em nhìn anh và cảm thấy dù chỉ một chút xíu hối hận hay tiếc nuối vì..."

    "Em sẽ không bao giờ nghĩ thế."

    "Em không biết được đâu, Clark. Em làm sao biết được chuyện này sẽ dẫn tới đâu. Em không biết dù chỉ sáu tháng nữa thôi em sẽ cảm thấy thế nào. Và anh không muốn nhìn thấy em mỗi ngày, nhìn em trần truồng, nhìn em lang thang trong khu nhà phụ với những bộ đồ kỳ cục mà không... không thể làm điều anh muốn làm với em. Ôi, Clark, giá em biết ngay lúc này anh muốn làm gì với em. Anh... anh không thể sống được với suy nghĩ đó. Anh không thể. Đó không phải là anh. Anh không phải kiểu người cứ thế... chấp nhận..."

    Anh liếc nhìn xuống xe lăn, giọng anh vỡ vụn. "Anh sẽ không bao giờ chấp nhận thứ này."

    Tôi đã khóc. "Làm ơn đi Will. Làm ơn đừng nói thế. Cho em một cơ hội. Cho chúng ta một cơ hội thôi."

    "Suỵt. Nghe nào. Em, hơn bất kỳ ai khác. Hãy nghe điều anh đang nói. Thứ này... đêm nay... là thứ tuyệt diệu nhất em có thể làm cho anh. Điều em vừa nói với anh, điều em đã làm là đưa anh tới đây... biết được điều đó - từ con người anh ban đầu vốn rất tệ bạc, em đã khai quật được chút gì đó để yêu - chẳng hiểu sao khiến anh rất ngạc nhiên. Nhưng..." Tôi cảm thấy tay anh khép lại quanh tay mình "... anh cần kết thúc ở đây. Không xe lăn nữa. Không còn viêm phổi. Không còn lửa thiêu đốt chân tay. Không còn đau đớn và mệt mỏi, không còn mỗi sáng thức giấc với khao khát mọi chuyện đã chấm dứt. Khi chúng ta trở về, anh vẫn sẽ đi Thụy Sỹ. Nếu em thực lòng yêu anh như lời em nói, Clark, một điều em có thể khiến anh hạnh phúc hơn mọi điều là đi cùng anh."

    Tôi ngửa đầu ra. "Gì?"

    "Anh sẽ không bao giờ khá lên cả. Vấn đề là anh sẽ chỉ ngày càng ốm yếu và cuộc đời anh, vốn đang đà lao dốc, sẽ ngày một hạn hẹp hơn. Các bác sĩ đã nói đại ý như thế. Sẽ có hàng đống chuyện tệ hại xảy ra với anh. Anh cảm nhận được điều đó. Anh không muốn đau đớn thêm chút nào nữa, hay mắc kẹt trong thứ này, hay dựa dẫm vào mọi người, hay sợ hãi. Thế nên anh đề nghị em - nếu em thực lòng cảm thấy điều em nói rằng em đã cảm thấy - thì hãy làm điều ấy. Ở bên anh. Cho anh cái kết mà anh mong chờ."

    Tôi nhìn anh sợ hãi, mạch máu đập thình thịch. Tôi không tiếp nhận nổi chuyện này.

    "Sao anh có thể đề nghị em điều đó." "Anh biết, nó..."

    "Em nói với anh rằng em yêu anh và muốn xây dựng tương lai cùng anh, thế mà anh lại đề nghị em tới xem anh tự vẫn?"

    "Anh xin lỗi. Anh không muốn tỏ ra vô tình. Nhưng anh không có thời gian để hoang phí."

    "Sao... cơ? Ôi, anh đã đặt chỗ rồi à? Có cuộc hẹn nào anh sợ bị lỡ sao?"

    Tôi biết người trong khách sạn đang dừng lại, có lẽ vì nghe thấy chúng tôi cao giọng, nhưng tôi không quan tâm.

    "Phải," Will nói, sau một thoáng ngập ngừng. "Phải, đúng thế. Anh đã nhận được giấy hội chẩn. Bệnh viện đó cho rằng anh là trường hợp phù hợp với họ. Bố mẹ anh đã đồng ý chọn ngày mười ba tháng Tám. Bọn anh đặt vé bay tới đó trước một ngày."

    Tim tôi chao đảo. Chỉ còn chưa đầy một tuần nữa. "Em không tin nổi..."

    "Louisa..."

    "Em cứ nghĩ... Em cứ nghĩ em đã thay đổi được quyết định của anh."

    Anh nghiêng đầu nhìn tôi. Giọng anh êm ái, mắt anh dịu dàng. "Louisa, chẳng có gì từng thay đổi ý định của anh. Anh hứa cho bố mẹ anh sáu tháng, và anh cho họ đúng chừng ấy. Em đã biến thời gian ấy thành khoảng thời gian quý giá hơn em tưởng. Em đã biến nó thành bài kiểm tra sức chịu đựng..."

    "Đừng!"

    "Sao?"

    "Đừng nói gì nữa." Tôi nghẹn ngào. "Anh quá ích kỷ, Will. Quá ngu ngốc. Làm như có khả năng dù nhỏ nhất rằng em sẽ đi cùng anh tới Thụy Sỹ vậy... làm như anh nghĩ em là người làm được điều đó, sau tất cả những gì em làm cho anh, đó là tất cả những gì anh có thể nói với em sao? Em đã móc trái tim ra trước mặt anh. Thế mà tất cả những gì anh có thể nói là, 'Không, em không đủ với anh. Và giờ anh muốn em đi xem điều khủng khiếp nhất mà em có thể tưởng tượng.' Cái điều em khiếp đảm kể từ ngày em phát hiện ra. Anh có biết anh đang yêu cầu em điều gì không vậy?"

    Giờ tôi đang giận điên người. Đứng trước mặt anh, la hét như người điên. "Khốn kiếp, Will Traynor. Khốn kiếp. Em ước em chưa bao giờ nhận công việc kinh khủng này. Em ước em chưa bao giờ gặp anh." Tôi òa khóc nức nở, chạy trên bãi biển về phòng khách sạn, rời khỏi anh.

    Giọng anh gọi tên tôi ngân trong tai tôi rất lâu sau khi tôi khép cửa.
     
  10. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 24

    Chẳng có điều gì khiến người qua lại phiền lòng bằng việc nhìn một người đàn ông ngồi xe lăn cầu xin một cô gái lẽ ra phải là người chăm sóc anh ta. Rõ ràng tức giận với ông chủ tàn phế không phải là một điều hay ho.

    Đặc biệt khi hẳn nhiên anh ta không thể di chuyển, và cứ gọi rất dịu dàng, "Clark. Làm ơn. Lại đây nào. Xin em đấy."

    Nhưng tôi không thể. Tôi không thể nhìn anh. Nathan đã xếp đồ cho Will, và tôi gặp cả hai người họ vào sáng hôm sau - Nathan vẫn còn chếnh choáng sau cơn say - và từ khi chúng tôi lại phải đi cạnh nhau, tôi từ chối làm bất cứ việc gì cùng anh. Tôi tức giận và tuyệt vọng. Có một giọng nói cuồng nộ liên tục vang lên trong đầu tôi, ra lệnh cho tôi phải xa cách Will hết mức. Trở về nhà. Không bao giờ gặp lại anh.

    "Cô ổn chứ?" Nathan hỏi, xuất hiện sau lưng tôi.

    Ngay khi tới sân bay, tôi đã rời khỏi hai người để đi tới quầy soát vé. "Không," tôi nói. "Và tôi không muốn nói về chuyện đó."

    "Mệt vì say à?" "Không."

    Có một khoảng im lặng ngắn.

    "Là điều tôi nghĩ sao?" Nét mặt ông đột nhiên sa sầm.

    Tôi không nói được. Tôi gật đầu, và tôi thấy quai hàm Nathan siết lại trong một thoáng. Nhưng ông mạnh mẽ hơn tôi. Nói cho cùng, ông là người chuyên nghiệp. Mấy phút sau ông quay lại chỗ Will, chỉ cho anh thứ gì đó ông vừa thấy trong một cuốn tạp chí, đặt câu hỏi về tương lai của một đội bóng nào đó mà cả hai cùng biết. Quan sát họ, người ta sẽ không thấy biểu hiện của thông tin mà tôi vừa thông báo.

    Tôi cố làm mình bận rộn trong cả lúc chờ đợi ở sân bay. Tôi tìm ra một nghìn công việc lặt vặt để làm - luôn tay luôn chân với nhãn dán hành lý, mua cà-phê, chăm chú đọc báo, đi vệ sinh - tất cả việc gì có thể khiến tôi không phải nhìn anh. Tôi không phải nói chuyện với anh. Nhưng thỉnh thoảng Nathan lại biến mất và chúng tôi chỉ còn lại một mình, ngồi bên cạnh nhau, khoảng cách ngắn giữa chúng tôi vang lên chát chúa những mâu thuẫn không nói thành lời.

    Mỗi lần như vậy anh lại cất tiếng, "Clark."

    Còn tôi sẽ cắt lời anh, "Đừng. Em không muốn nói chuyện với anh."

    Tôi cũng phải ngạc nhiên với chính mình về khả năng tỏ ra lạnh nhạt. Tôi đã làm các cô tiếp viên ngạc nhiên. Tôi thấy họ trên máy bay, thì thầm với nhau về cái cách tôi quay phắt người khỏi Will, nhét tai nghe hoặc quay hẳn mặt ra ngoài cửa sổ.

    Vấn đề là, anh không giận. Đó có lẽ là phần tồi tệ nhất của chuyện này. Anh không giận, và anh không tỏ ra thô lỗ, anh chỉ trở nên lặng lẽ hơn rồi chẳng nói gì nữa. Chỉ còn lại Nathan cố gắng gợi chuyện suốt dọc đường, ông cứ hỏi xem có ai dùng trà hay cà-phê hay những túi đậu phộng rang miễn phí không, hoặc hỏi xem hai chúng tôi thấy phiền không nếu ông trèo qua chúng tôi để đi vệ sinh.

    Nói thế này có lẽ hơi trẻ con, nhưng đây không chỉ là vấn đề lòng tự trọng. Tôi không chịu đựng nổi. Tôi không chịu được ý nghĩ rằng tôi sẽ buông tay anh, rằng anh quá cứng đầu, quá kiên quyết không thèm biết cái gì là tốt, cái gì sẽ tốt, rằng anh sẽ không thay đổi ý định. Tôi không tin được rằng anh vẫn bám lấy cái ngày đó, như thể nó là một thứ bất di bất dịch. Một triệu câu hỏi thầm nhao nhác trong đầu tôi. Tại sao thế này không đủ với anh? Tại sao em không đủ với anh. Tại sao anh không tin cậy em? Nếu chúng ta có thêm thời gian, chuyện này có khác đi không? Thỉnh thoảng tôi đưa mắt lén nhìn đôi tay rám nắng của anh, những ngón tay vững chãi ấy, chỉ cách tay tôi dăm phân, và tôi lại nhớ cảm giác khi chúng tôi siết tay nhau - hơi ấm của anh, ảo giác về một sức mạnh ngầm ẩn, dù trong sự tĩnh tại - rồi cục nghẹn dâng lên cổ tôi cho tới khi tôi nghĩ mình không thở nổi nữa và tôi phải chui vào nhà vệ sinh, gục xuống lặng lẽ khóc bên bồn rửa dưới ánh đèn nê-ông. Thỉnh thoảng khi nghĩ tới điều Will vẫn quyết tâm thực hiện, tôi thực sự phải kìm nén để không gào lên; tôi cảm thấy ngập lụt trong cảm giác điên rồ và nghĩ tôi có thể ngồi phịch xuống giữa hai hàng ghế mà hú mà hét cho tới khi ai đó ngăn lại. Cho tới khi ai đó đảm bảo rằng anh ấy sẽ không làm điều đó.

    Thế nên dù trông tôi có vẻ trẻ con - tuy với tiếp viên trong khoang này thì tôi có vẻ là người phụ nữ tàn nhẫn nhất thế gian (vì tôi từ chối nói chuyện với Will, không nhìn anh, không cho anh ăn) - nhưng tôi biết giả vờ như anh không ở đó là cách duy nhất giúp tôi ứng phó được với những giờ gần như quá sức chịu đựng này. Nếu tin Nathan có thể một mình xoay xở thì tôi đã đổi chuyến bay, thậm chí còn biến mất cho tới khi biết chắc giữa hai chúng tôi là cả một lục địa chứ không chỉ có mấy phân ngắn ngủi.

    Hai người đàn ông ngủ, điều đó tạo cảm giác nhẹ nhõm - một quãng nghỉ thoát khỏi nỗi căng thẳng. Tôi nhìn lên màn hình ti-vi, và cứ mỗi dặm về, tôi lại cảm thấy trái tim mình nặng nề hơn, nỗi căng thẳng càng tăng lên. Tôi bắt đầu nghĩ ra rằng thất bại này không chỉ của riêng tôi; bố mẹ Will sẽ vô cùng tuyệt vọng. Có thể họ sẽ đổ lỗi cho tôi. Có thể em gái Will sẽ đi kiện tôi. Và đó cũng là nỗi thất bại của tôi với Will. Tôi đã không thuyết phục được anh. Tôi đã trao cho anh mọi thứ tôi có thể trao, kể cả bản thân mình, thế nhưng chẳng có điều gì tôi trao anh thuyết phục nổi anh rằng có một lý do để sống.

    Tôi thầm nghĩ, có lẽ anh xứng đáng với một người tốt hơn tôi. Ai đó thông minh hơn. Một người như Treena hẳn sẽ nghĩ những việc hay hơn để làm. Có thể họ sẽ tìm ra một thông tin về nghiên cứu y học hiếm hoi nào đó hoặc một thứ có thể giúp anh. Có thể họ sẽ thay đổi được ý định của anh. Sự thật là tôi sẽ phải sống với suy nghĩ đó suốt phần đời còn lại khiến tôi gần như lịm đi.

    "Uống chút gì nhé Clark?" Giọng Will phá vỡ dòng suy nghĩ của tôi. "Không. Cảm ơn."

    "Khuỷu tay anh có chiếm nhiều chỗ để tay của em quá không?"

    "Không. Ổn cả."

    Chỉ trong mấy giờ cuối cùng ấy, trong màn đêm, tôi mới cho phép mình nhìn anh. Ánh mắt tôi chầm chậm đảo nghiêng từ màn hình ti-vi đang sáng của tôi cho tới khi lén nhìn được anh trong ánh sáng lờ mờ của khoang máy bay nhỏ bé. Và khi tôi nhìn gương mặt anh, rám nắng và điển trai, vô cùng bình yên trong giấc ngủ, một dòng nước mắt lăn trên má tôi. Có lẽ vô thức cảm nhận được tôi đang quan sát, Will cựa quậy nhưng không tỉnh giấc. Tránh mắt tiếp viên trong khoang và Nathan, tôi từ từ kéo chăn lên quanh cổ anh, dém cẩn thận, để đảm bảo dưới gió điều hòa, Will không thấy lạnh.

    Họ đang chờ ở Cổng Ra. Chẳng hiểu sao tôi biết họ sẽ tới. Tôi đã thoáng có cảm giác nôn nao lan tỏa trong lòng ngay khi chúng tôi đẩy xe Will qua khu kiểm tra hộ chiếu, được thông qua nhanh chóng bởi một viên chức tốt bụng dù tôi cứ cầu nguyện rằng chúng tôi sẽ bị buộc phải chờ, phải đứng xếp hàng hàng tiếng đồng hồ, mấy ngày ròng càng tốt. Nhưng không, chúng tôi băng qua sàn nhà lót thảm rộng lớn, tôi đẩy hành lý, Nathan đẩy Will, và khi cửa kính mở, họ ở đó, ngay bên rào chắn, đứng cạnh nhau với vẻ gần gũi hiếm thấy. Tôi thấy gương mặt bà Traynor thoáng bừng lên khi bà nhìn thấy Will và tôi lơ đãng thầm nghĩ, Tất nhiên rồi - trông anh ấy rất tuyệt. Và xấu hổ, tôi đeo kính râm lên - không phải để che giấu nét mệt mỏi, mà để bà không thấy ngay biểu hiện lộ rõ của tôi về điều tôi sẽ phải nói với bà.

    "Nhìn con kìa!" bà kêu lên. "Will, trông con tuyệt quá. Rất tuyệt."

    Bố Will cúi xuống, vỗ lên xe lăn của con trai và đầu gối anh, gương mặt ông rạng rỡ. "Bố không tin nổi khi nghe Nathan kể ngày nào con cũng đi xuống biển. Bơi nữa chứ! Nước thế nào con - thích và ấm lắm phải không? Ở đây thì mưa như trút suốt. Tháng Tám điển hình!"

    Tất nhiên. Nathan đã nhắn tin hoặc gọi điện cho họ. Cứ như thể họ có thể để chúng tôi đi chừng ấy thời gian mà không hỏi han gì vậy.

    "Đó... đó là một nơi rất đẹp," Nathan nói. Ông cũng đã trở nên lặng lẽ, nhưng lúc này ông cố mỉm cười để tỏ ra bình thường.

    Tôi thấy máu đông đặc, tay nắm chặt hộ chiếu như thể sắp đi một nơi nào khác. Tôi phải nhắc mình nhớ thở.

    "À, bố mẹ nghĩ có lẽ con thích một bữa tiệc đặc biệt," bố Will nói. "Có một nhà hàng rất đẹp đẽ vui nhộn ở khu Intercontinental. Có sâm-banh nữa. Con nghĩ sao? Mẹ con và bố nghĩ có lẽ ở đó ăn ngon."

    "Được ạ," Will nói. Anh mỉm cười với bà và bà nhìn lại anh như thể muốn níu giữ nụ cười ấy. Sao anh có thể làm thế? Tôi muốn hét lên với anh. Sao anh có thể nhìn bà ấy như thế khi mà anh đã biết điều anh sắp làm với bà?

    "Thế thì đi nào. Bố để xe trong bãi đỗ dành cho người khuyết tật. Từ đây lại đó mất một chút thôi. Bố chắc ai cũng hơi say máy bay. Nathan, ông có muốn tôi mang bớt giỏ cho không?"

    Giọng tôi vang lên cắt ngang câu chuyện. "Thật ra," tôi nói - tôi đã rút hành lý của mình xuống khỏi xe kéo - "tôi nghĩ tôi phải về. Dù sao cũng cảm ơn."

    Tôi mải mê nhìn xuống giỏ xách của mình, cương quyết không nhìn lên họ, nhưng ngay trong không khí ồn ào ở sân bay, tôi vẫn cảm nhận thấy thoáng yên lặng mà những từ tôi nói gây ra.

    Ông Traynor cất tiếng phá tan khoảng lặng đó. "Thôi nào, Louisa. Chúng ta cùng chúc mừng một chút. Chúng tôi muốn nghe mọi chuyện phiêu lưu của cả ba người. Tôi muốn biết thật nhiều về hòn đảo đó. Và tôi hứa cô sẽ không phải kể hết cho chúng tôi đâu." Ông gần như phì cười.

    "Phải đấy." Giọng bà Traynor nghe thoáng gay gắt. "Đi cùng đi, Louisa." "Không đâu." Tôi nuốt khan, cố mỉm cười hòa nhã. Cặp kính là tấm khiên che chắn. "Cảm ơn ông bà. Tôi thật sự muốn về hơn."

    "Về đâu?" Will hỏi.

    Tôi nhận ra điều anh đang nói. Tôi thật tình chẳng có nơi nào để đi. "Em sẽ về nhà bố mẹ. Mọi chuyện sẽ ổn."

    "Đi với bọn anh," anh nói. Giọng anh thật dịu dàng. "Đừng về, Clark. Làm ơn."

    Khi ấy tôi muốn khóc. Nhưng tôi biết vô cùng chắc chắn rằng tôi không thể ở gần anh. "Không. Cảm ơn anh. Chúc anh một bữa ngon miệng." Tôi hất túi xách qua vai, rồi trước khi có ai kịp lên tiếng, tôi bước khỏi chỗ họ, biến mất vào giữa biển người ở sân bay.

    Sắp tới bến xe buýt thì tôi nghe tiếng bà. Camilla Traynor, đôi guốc cao gót lạch cạch trên vỉa hè, nửa đi nửa chạy về phía tôi.

    "Dừng lại. Louisa. Làm ơn dừng lại."

    Tôi quay lại, bà đang luồn lách qua một nhóm du khách, gạt đám choai choai vai đeo ba-lô qua một bên như Moses rẽ sóng. Ánh đèn sân bay sáng rạng trên mái tóc bà, biến nó thành màu đồng sẫm. Bà choàng khăn pashmina xám thanh lịch, vắt rất khéo qua một bên vai. Tôi lơ đễnh nghĩ có lẽ vài năm trước bà đã vô cùng xinh đẹp.

    "Làm ơn. Làm ơn dừng lại."

    Tôi dừng lại, liếc nhìn ra phía sau đường, mong sao xe buýt đến ngay, mong nó sẽ hút tôi lên và cuỗm tôi đi. Mong một chuyện gì đó sẽ xảy đến. Một trận động đất nhỏ chẳng hạn.

    "Sao vậy Louisa?"

    "Anh ấy đã có khoảng thời gian vui vẻ." Giọng tôi nghe vụn vỡ. Giống giọng bà một cách lạ lùng, tôi thầm nghĩ.

    "Nhìn nó tuyệt lắm. Tuyệt lắm mà." Bà nhìn tôi trân trân, đứng chôn chân giữa vỉa hè. Bỗng nhiên bà như hóa đá, bất chấp biển người như thác lũ quanh bà.

    Chúng tôi im lặng.

    Rồi tôi cất tiếng, "Bà Traynor, tôi sẽ gửi đơn thôi việc. Tôi không thể... tôi không thể làm gì trong mấy ngày còn lại. Tôi sẽ bồi thường khoản tiền tôi nợ. Quả thực, tôi không muốn nhận tiền tháng này. Tôi chẳng muốn gì cả. Tôi chỉ..."

    Lúc ấy bà trở nên tái nhợt. Tôi thấy mặt bà thất sắc, thấy bà hơi chao đảo trong ánh nắng mai. Tôi thấy ông Traynor đi tới phía sau bà, bước chân vội vã, một tay giữ chặt chiếc mũ rộng vành trên đầu. Ông lẩm bẩm xin lỗi khi lách qua đám đông, mắt ông nhìn về phía tôi và vợ ông khi chúng tôi đứng lặng như tờ cách nhau vài bước.

    "Cô... cô đã nói cô nghĩ nó hạnh phúc. Cô nói cô nghĩ chuyện này có thể thay đổi quyết định của nó." Giọng bà thấm nỗi tuyệt vọng, như thể bà đang cầu xin tôi nói điều gì đó khác, cho bà một kết luận khác.

    Tôi chẳng biết nói gì. Tôi nhìn bà trân trân, và tôi chỉ biết lắc đầu khe khẽ. "Tôi xin lỗi," tôi thì thầm, khẽ tới nỗi bà chẳng nghe thấy.

    Ông tới vừa kịp lúc bà ngã khuỵu xuống. Chân bà cứ thế sụm xuống, và ông Traynor đưa tay trái ra đỡ bà khi bà gục ngã, miệng bà há hốc, cơ thể bà đổ vào người ông.

    Chiếc mũ của ông bay xuống vỉa hè. Ông liếc lên nhìn tôi, nét mặt bối rối, vẫn chưa tiếp nhận nổi chuyện vừa xảy ra.

    Tôi không thể nhìn. Tôi quay người, đờ đẫn, rồi tôi bắt đầu bước đi, chân này tới chân kia, đôi chân bước đi trước khi bộ não kịp nghĩ xem chúng định làm gì, rời khỏi sân bay, thậm chí chẳng biết mình định đi đâu.

     
  11. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 25

    Katrina

    Trong vòng ba mươi sáu tiếng kể từ khi trở về từ kỳ nghỉ, Louisa không ra khỏi phòng. Chị từ sân bay về vào chiều muộn ngày Chủ nhật, nhợt nhạt như bóng ma dù làn da rám nắng - và thoạt đầu chúng tôi không hiểu vì sao, khi chị nói chắc chắn rằng chị sẽ gặp chúng tôi ngay sáng thứ Hai. Con chỉ cần ngủ thôi, chị nói, rồi nép mình trong phòng và nằm bẹp trên giường. Chúng tôi cũng nghĩ trông chị hơi lạ, nhưng chúng tôi biết làm gì được chứ? Nói cho cùng từ lúc sinh ra, Lou đã lạ tính lạ nết rồi.

    Sáng thứ Hai, mẹ pha một tách trà nhưng Lou không động đến. Tới bữa tối, mẹ lo lắng lên lay chị, kiểm tra xem chị còn sống không. (Mẹ hơi cường điệu một chút nhưng công bằng mà nói, mẹ đã làm chả cá nên có lẽ mẹ chỉ muốn đảm bảo rằng Lou không bỏ lỡ nó). Nhưng Lou không ăn, không nói mà cũng không xuống lầu. Con chỉ muốn nằm đây một lát thôi mẹ, chị nói, đầu vẫn vùi trong gối. Cuối cùng, mẹ để chị yên.

    "Nó không còn là nó nữa," mẹ nói. "Mọi người có nghĩ đây là phản ứng muộn về chuyện với Patrick không?"

    "Nó chẳng quan tâm gì tới Patrick đâu," bố nói. "Anh đã kể với nó là Patrick gọi điện thông báo với chúng ta rằng nó về thứ 157 trong cuộc thi Viking gì đó, mà nó có thèm để ý tí nào đâu." Bố nhấp một ngụm trà. "Thật ra cũng phải công bằng với nó, ngay cả anh cũng khó lòng thấy hào hứng với vị trí 157."

    "Anh có nghĩ con nó ốm không? Da thì rám nắng nhưng trông nó vẫn nhợt nhạt kinh khủng. Lại ngủ triền miên như thế. Chẳng giống nó tí nào. Hay nó bị một căn bệnh nhiệt đới đáng sợ nào đó."

    "Chị ấy chỉ say máy bay thôi," tôi nói. Tôi nói với giọng cả quyết, vì vốn biết bố mẹ thường xem tôi là chuyên gia của mọi vấn đề mà không ai trong chúng tôi hiểu rõ.

    "Say máy bay! Ôi, nếu đi chơi xa mà bị như thế thì bố nghĩ bố cứ ở lì trong Tenby thôi. Em nghĩ sao, Josie, em yêu?"

    "Em không biết nữa... ai nghĩ được đi nghỉ lại khiến người ta mệt mỏi tới vậy?" Mẹ lắc đầu.

    Sau bữa tối tôi đi lên lầu. Tôi không gõ cửa. (Rốt cuộc, nói một cách thẳng thắn thì đây vẫn là phòng tôi.) Không khí nặng nề ngột ngạt, tôi kéo mành lên và mở cửa sổ, thế là Lou bơ phờ chui ra từ dưới chăn, đưa tay che ánh sáng, bụi bay tả tơi xung quanh chị.

    "Chị sẽ kể với em có chuyện gì chứ?" Tôi đặt một tách trà xuống bàn ngủ. Chị chớp mắt nhìn tôi.

    "Mẹ nghĩ chị bị virus Ebola. Mẹ đang hối hả cảnh báo mấy nhà hàng xóm đã đặt vé tới câu lạc bộ Bingo ở công viên PortAventura, Tây Ban Nha."

    Chị không nói gì. "Lou?"

    "Chị từ bỏ rồi," chị nói khẽ. "Sao cơ?"

    "Em nghĩ là sao nào?" Chị ngồi thẳng dậy, lóng ngóng với tách trà, nhấp một ngụm dài.

    Vừa đi nghỉ hai tuần ở Mauritius mà trông chị phờ phạc không tả nổi. Mắt híp lại và đỏ hoe, da dẻ nổi nhiều tàn nhang hơn. Tóc chị vất qua một bên. Trông chị như đã thức suốt mấy năm trời. Nhưng biểu hiện rõ ràng nhất là nỗi buồn. Tôi chưa bao giờ thấy chị buồn tới vậy.

    "Chị nghĩ chuyến đi này sẽ giúp anh ấy vượt qua?" Chị gật đầu. Rồi chị nuốt vào nặng nhọc.

    "Chết tiệt. Ôi, Lou. Em thực sự rất lấy làm tiếc."

    Tôi bảo chị ngồi xích vào, rồi tôi trèo lên giường bên cạnh chị. Chị uống một ngụm trà nữa, rồi ngả đầu lên vai tôi. Chị đang mặc áo phông của tôi. Tôi không nói gì về chuyện đó. Điều đó cho tôi thấy chị đang rất buồn.

    "Chị phải làm gì, Treen?"

    Giọng chị thật nhỏ, như giọng Thomas, khi nó làm mình đau và đang cố tỏ ra dũng cảm. Bên ngoài, chúng tôi nghe thấy tiếng con chó nhà hàng xóm chạy tới chạy lui dọc hàng rào quanh vườn, đuổi theo lũ mèo nhà hàng xóm. Thỉnh thoảng chúng tôi nghe thấy tiếng sủa; giờ thì đầu con chó đã ngóc qua hàng rào, hai mắt nó căng ra với vẻ thất vọng.

    "Em không chắc chị có làm được gì không. Chúa ơi. Tất cả mọi thứ chị đã thay đổi cho anh ấy. Mọi nỗ lực đó..."

    "Chị nói với anh ấy chị yêu anh ấy," chị nói, giọng chị hạ xuống nghe như tiếng thì thầm. "Thế mà anh ấy bảo vậy vẫn không đủ." Đôi mắt chị trũng sâu, hốc hác. "Làm sao chị sống nổi với chuyện này?"

    Trong gia đình, tôi là người biết mọi thứ. Tôi đọc nhiều hơn bất cứ ai khác.

    Tôi học đại học. Tôi được cho là người có mọi câu trả lời.

    Nhưng tôi nhìn chị gái tôi, rồi lắc đầu. "Em chẳng biết nữa," tôi nói.

    Ngày hôm sau, cuối cùng chị cũng xuất đầu lộ diện, tắm táp và mặc đồ sạch sẽ, và tôi bảo bố mẹ đừng nói một lời nào. Tôi ám chỉ đó là chuyện rắc rối với bạn trai, và bố nhướng mày cau mặt như thể điều đó giải thích mọi thứ và Chúa biết chúng tôi đã đẩy bản thân vào một mớ bòng bong ra trò. Mẹ vội chạy đi gọi cho câu lạc bộ Bingo để bảo họ rằng bà đã nghĩ lại về mối nguy hiểm của du lịch bằng máy bay.

    Lou ăn một lát bánh mì nướng (chị không muốn ăn trưa) rồi chị đội một chiếc mũ mềm rộng vành và chúng tôi cùng Thomas thả bộ lên lâu đài cho vịt ăn. Tôi nghĩ chị không muốn đi nhưng mẹ cứ khăng khăng rằng cả mấy đứa chúng tôi đều cần chút không khí trong lành. Trong ngôn ngữ của mẹ tôi, điều này có nghĩa là bà đang rất muốn vào phòng ngủ lau dọn cho thoáng đãng và thay chăn ga. Thomas nhảy lóc cóc phía trước chúng tôi, tay nắm chiếc túi nhựa đựng đầy mẩu bánh, còn hai chúng tôi luồn lách qua biển du khách đông đúc một cách thành thạo, rẽ lối giữa những chiếc ba-lô đung đưa, chia tách quanh những cặp đôi đang tạo dáng chụp hình rồi gặp lại nhau khi đã đi qua. Tòa lâu đài rám mình dưới cái nóng đỉnh điểm của mùa hè, đất nứt nẻ và cỏ lưa thưa như những sợi tóc còn sót lại trên đầu ông hói. Hoa lá trong các bồn đều tàn tạ, như thể chúng đã nửa phần chuẩn bị sang thu.

    Lou và tôi không nói nhiều. Mà biết phải nói gì đây?

    Khi chúng tôi đi qua khu đỗ xe của du khách, tôi thấy dưới vành mũ, chị liếc nhìn về phía nhà Traynor. Nó đứng đó, thanh lịch một màu gạch đỏ, những ô cửa sổ trơn cao vút đang che giấu một màn kịch đầy biến động đang diễn ra ở đấy, có khi vào ngay chính lúc này.

    "Chị có thể tới nói chuyện với anh ấy, chị biết đấy," tôi nói. "Em sẽ đợi ở đây."

    Chị nhìn xuống đất, khoanh tay trước ngực, và hai chúng tôi cứ bước tiếp. "Chẳng ích gì đâu," chị nói. Tôi biết phần còn lại của câu nói đó, cái phần mà chị không nói to lên. Có khi anh ấy chẳng còn ở đó nữa cũng nên.

    Chúng tôi chầm chậm dạo quanh lâu đài, quan sát Thomas mò xuống bậc thang trên đồi để cho lũ vịt ăn, nhưng vào mùa này chúng no béo tới độ chẳng mấy con thèm bơi lại nhặt mẩu bánh nhạt. Tôi quan sát chị gái khi chúng tôi sóng bước, nhìn tấm lưng nâu lộ ra từ chiếc áo yếm, đôi vai khom của chị, tôi nhận ra rằng dù chị chưa hay biết, nhưng cuộc đời chị đã thay đổi hoàn toàn. Chị không thể ở lại đây, dù có chuyện gì xảy ra với Will Traynor đi nữa. Có một bầu không khí mới bao quanh chị, không khí mới của tri thức, của những điều đã thấy, những nơi đã đến. Cuối cùng chị tôi đã gặp những chân trời mới.

    "À," tôi lên tiếng khi chúng tôi quay trở lại cổng, "chị có thư. Từ trường đại học, trong thời gian chị đi vắng. Xin lỗi nhé - em mở rồi. Em cứ tưởng nó là của em."

    "Em mở rồi hả?"

    Tôi đã hy vọng có thêm tiền trợ cấp. "Chị có một buổi phỏng vấn."

    Chị chớp mắt, như thể đang nhận tin từ một quá khứ xa xăm nào đó.

    "Phải. Và thông tin quan trọng là nó diễn ra vào ngày mai," tôi nói. "Thế nên em nghĩ có lẽ tối nay chúng ta nên tập dượt một số câu dễ bị hỏi."

    Chị lắc đầu. "Mai chị không đi phỏng vấn được." "Chị định làm gì khác à?"

    "Chị không thể, Treen," chị nói với giọng buồn rầu. "Làm sao chị nghĩ được cái gì vào một thời điểm như thế này?"

    "Nghe này, Lou. Người ta không mời phỏng vấn như mời vịt ăn bánh mì đâu, ngốc ạ. Đây là một cơ hội lớn. Họ biết chị là một sinh viên nhiều tuổi, chị đang nộp đơn vào một thời điểm không thuận lợi trong năm, vậy mà họ vẫn muốn gặp chị. Chị không thể làm họ thất vọng như thế được."

    "Chị không quan tâm. Chị không thể nghĩ tới chuyện đó." "Nhưng chị..."

    "Để chị yên, Treen. Được chứ? Chị không làm được."

    "Này," tôi nói. Tôi bước lên chặn đường để chị không đi tiếp được. Thomas đang nói chuyện với một chú bồ câu cách chúng tôi vài bước về phía trước. "Đây chính là lúc chị phải nghĩ về chuyện đó. Đây là lúc mà dù thích hay không, rốt cuộc chị vẫn phải định hướng xem chị định làm gì với phần còn lại của cuộc đời."

    Chúng tôi đang đứng ngáng đường. Giờ đây du khách phải chia ra đi quanh chúng tôi - có người cứ thế đi thẳng xuống đồi, có người hơi tò mò nhìn hai chị em đang cãi nhau.

    "Chị không thể."

    "Ồ, khó khăn đấy. Bởi vì, để em nhắc kẻo chị quên, giờ chị không còn việc nữa. Không còn Patrick làm nguồn an ủi. Và nếu chị bỏ lỡ cuộc phỏng vấn này, thì trong vòng hai ngày chị sẽ phải quay trở lại Trung tâm Giới thiệu việc làm để quyết định xem chị muốn làm công nhân mổ gà hay vũ công khiêu dâm hay chùi đít cho người ta để kiếm sống. Chị tin hay không thì tùy nhé, vì chị cũng đã sắp ba mươi, cuộc đời của chị được an bài rồi. Và tất cả những thứ này - mọi thứ chị học được trong sáu tháng qua - sẽ chỉ là một sự lãng phí thời gian. Tất cả mọi thứ."

    Chị nhìn tôi chằm chằm, mang cái vẻ mặt tức giận câm nín thường thấy khi chị biết tôi đúng và chị chẳng thể đáp lại điều gì. Lúc này Thomas tới bên chúng tôi và kéo tay tôi.

    "Mẹ... mẹ nói đít."

    Chị gái tôi vẫn nhìn tôi với ánh mắt giận dữ. Nhưng tôi biết chị đang suy nghĩ.

    Tôi quay sang con trai. "Không đâu con yêu, mẹ nói mít. Giờ chúng ta về uống trà - phải không Lou? - và coi ở nhà có mít không nhé. Sau đó, khi ông ngoại tắm cho con, mẹ sẽ giúp dì Lou làm việc nhà."

    Ngày hôm sau tôi tới thư viện, mẹ trông Thomas, và khi thấy Lou xuống đón xe buýt tôi biết tới tận giờ uống trà tôi mới gặp lại chị. Tôi không kỳ vọng nhiều vào buổi phỏng vấn, nhưng thật ra từ khi rời khỏi chị, tôi không nghĩ gì về chị nữa.

    Nói thì có vẻ hơi ích kỷ, nhưng tôi không muốn làm trễ khóa luận, và tôi cũng thấy nhẹ nhõm phần nào khi được thoát khỏi nỗi buồn khổ của Lou trong một lát. Ở bên cạnh một người tuyệt vọng chừng ấy quả là hơi có cảm giác kiệt quệ. Có thể ta thấy thương cho họ, nhưng ta cũng không thể không muốn bảo họ hãy xốc lại tinh thần. Tôi nhét gia đình, chị gái, mớ hỗn độn bi thương mà chị tự dẫn xác tới, vào một ngăn trong óc, đóng ngăn kéo lại, và tập trung chú ý vào vấn đề miễn thuế VAT. Tôi đạt điểm cao thứ nhì cả năm trong khóa Kế toán 1, và tôi chẳng thể nào để mình tụt hạng chỉ vì những thay đổi bất thường của hệ thống thuế suất đồng loạt của Cục Thuế và Hải quan Anh.

    Tôi về nhà vào khoảng sáu giờ kém mười lăm, thả tài liệu xuống chiếc ghế bành ở sảnh, khi đó mọi người đã ngồi vào quanh bàn ăn, và mẹ bắt đầu đưa đồ ăn lên. Thomas phóc lên người tôi, đung đưa hai chân quanh hông tôi, tôi hôn nó, hít vào mùi sữa đáng yêu trên cơ thể trẻ con.

    "Ngồi xuống, ngồi xuống nào," mẹ nói. "Bố vào rồi."

    "Sách của con dạo này thế nào rồi?" bố nói rồi treo áo khoác lên thành ghế. Bố luôn gọi việc học của tôi là "sách của con". Như thể nó có đời sống riêng của nó và phải được sắp xếp cho ngăn nắp.

    "Tốt ạ, cảm ơn bố. Con hoàn thành được ba phần tư môn Kế toán 2 rồi. Mai con sẽ học luật doanh nghiệp." Tôi thả Thomas xuống chiếc ghế bên cạnh tôi, đặt một tay trên mái đầu mềm mại của nó.

    "Nghe không, Josie? Luật doanh nghiệp đấy." Bố chôm một miếng khoai tây trong đĩa và cho vào miệng trước khi mẹ kịp nhìn thấy. Bố nói từ đó như thể bố mê mẩn âm thanh của nó. Tôi nghĩ có lẽ bố mê mẩn thật. Chúng tôi trò chuyện một chút về những thứ liên quan tới môn học của tôi. Rồi chúng tôi nói về công việc của bố - chủ yếu là về chuyện du khách làm hỏng mọi thứ. Rõ ràng là ta không nên tin vào việc trùng tu. Đến cả những cây cột gỗ trên lối vào bãi đỗ xe cũng phải thay vài tuần một lần vì những kẻ ngu ngốc không biết cách lái xe qua khúc cua bốn mét. Nếu là tôi, tôi sẽ tăng giá vé để bảo vệ nó - nhưng đó chỉ là suy nghĩ của tôi thôi.

    Mẹ bưng đồ lên xong và cuối cùng cũng ngồi xuống. Thomas ăn bốc khi nó nghĩ không ai để ý và nói thầm từ đít kèm một nụ cười tủm tỉm, ông ngoại thì vừa ăn vừa nhìn trân trân lên trần nhà, như thể ông thực sự đang nghĩ về một điều gì đó hoàn toàn khác. Tôi liếc sang Lou. Chị cúi gằm xuống đĩa, đẩy miếng gà nướng vòng quanh như thể đang cố giấu nó đi. U ô, tôi thầm nghĩ.

    "Con không đói à, con yêu?" mẹ nói khi dõi theo ánh mắt tôi. "Không đói lắm ạ," chị đáp.

    "Ăn gà trời này thì hơi nóng," mẹ thừa nhận. "Mẹ chỉ nghĩ con cần bồi bổ một chút."

    "Thế... con sẽ kể cho cả nhà nghe xem con đi phỏng vấn thế nào chứ?" Bố đưa đĩa lên miệng giữa chừng thì dừng lại.

    "Ồ, chuyện đó." Trông chị ngơ ngác, như thể bố vừa lôi lên một việc chị đã làm từ năm năm trước.

    "Phải, chuyện đó."

    Chị xiên một mẩu gà bé xíu. "Ổn cả ạ." Bố liếc nhìn tôi.

    Tôi khẽ nhún vai. "Ổn cả thôi à? Người ta phải nhận xét gì đó về cách chị trả lời phỏng vấn chứ."

    "Chị qua rồi." "Sao?"

    Chị vẫn cúi gằm xuống đĩa. Tôi ngừng nhai.

    "Họ nói chị đúng là ứng viên họ đang tìm kiếm. Chị phải học một khóa kiến thức nền, mất một năm, sau đó chị có thể chuyển tiếp."

    Bố ngồi thẳng dậy. "Quả là một tin tuyệt diệu."

    Mẹ đưa tay vỗ vai chị. "Ôi, làm tốt lắm, con yêu. Thông minh quá." "Không hẳn vậy đâu. Con không nghĩ con đủ tiền trả cho bốn năm học."

    "Ít nhất trong lúc này, đừng lo lắng về chuyện đó. Thật đấy. Xem Treena xoay xở thế nào kìa. Nào..." bố huých tay chị "... chúng ta sẽ tìm ra cách. Chúng ta luôn tìm ra cách phải không nào?" Bố cười rạng rỡ với cả hai chúng tôi. "Bố nghĩ giờ mọi thứ rất suôn sẻ với chúng ta, các con gái. Bố nghĩ đây sẽ là thời điểm tốt đẹp của gia đình mình."

    Thế rồi đột nhiên, chị òa khóc. Nước mắt lưng tròng. Chị khóc như Thomas khóc, gào thét, nức nở, không bận tâm có ai nghe thấy, tiếng khóc của chị như lưỡi dao xé ngang không gian tĩnh lặng của căn phòng bé nhỏ.

    Thomas nhìn chị chằm chằm, miệng há hốc, tôi phải kéo nó vào lòng và đánh lạc hướng nó để nó không khóc theo. Trong khi tôi mải bận đút khoai tây cho con, làm trò với món đậu và pha giọng nhí nhố, chị kể cho bố mẹ nghe.

    Chị kể cho bố mẹ tất cả mọi thứ - về Will và hợp đồng sáu tháng và chuyện xảy ra khi họ đi Mauritius. Nghe chị nói, mẹ đưa tay lên miệng. Ông ngoại tỏ ra u sầu. Món thịt gà nguội ngoặm, nước xốt đông lại trên đĩa.

    Bố lắc đầu không tin nổi. Rồi khi chị tôi kể tỉ mỉ về chuyến bay về nhà từ Ấn Độ Dương, giọng chị hạ xuống thành tiếng thì thầm khi chị kể đến những lời cuối cùng chị nói với bà Traynor, bố kéo ghế đứng dậy. Ông từ từ đi quanh bàn rồi ôm chị trong tay, như ông vẫn làm thời chúng tôi còn nhỏ. Ông đứng đó, ghì chị thật chặt.

    "Ôi Chúa ôi, tội nghiệp anh chàng ấy. Tội nghiệp con. Ôi Chúa ôi." Tôi không chắc đã bao giờ thấy bố sốc tới vậy chưa.

    "Sao mà lung tung quá thế này."

    "Con phải trải qua tất cả chuyện này? Mà chẳng nói một lời sao? Và tất cả những gì bố mẹ nhận được là một tấm bưu thiếp về trò lặn biển?" Mẹ tỏ vẻ hoài nghi. "Cả nhà cứ nghĩ con đang có một kỳ nghỉ tuyệt nhất trần đời."

    "Con không một mình. Treena biết," chị nói, nhìn tôi. "Treena giỏi lắm."

    "Em đâu có làm được gì," tôi nói rồi ôm Thomas. Giờ nó không còn để ý tới cuộc nói chuyện nữa vì mẹ tôi đã để hộp kẹo sô-cô-la Celebrations mở sẵn trước mặt nó. "Em chỉ nghe thôi. Chị đã làm hết. Chị đã nghĩ ra mọi ý tưởng."

    "Thật là ý với chả tưởng." Chị dựa người vào bố, giọng như lạc đi.

    Bố nâng cằm chị để chị phải nhìn vào mắt bố. "Nhưng con đã làm mọi việc có thể."

    "Và con đã thất bại."

    "Ai nói con thất bại?" Bố vuốt tóc khỏi mặt chị. Ông cúi mặt sát hơn. "Bố chỉ đang nghĩ về những điều bố biết về Will Traynor, những điều bố biết về những người như cậu ấy. Và bố sẽ nói điều này với con. Bố không chắc trên thế gian này đã từng có ai thuyết phục được anh chàng ấy chưa, một khi cậu ta đã quyết định điều gì. Con người cậu ấy là vậy đấy. Con không thể thay đổi bản tính con người được đâu."

    "Nhưng bố mẹ cậu ấy! Họ không thể để cậu ấy tự vẫn," mẹ nói. "Họ là kiểu người gì vậy?"

    "Họ là những người bình thường mẹ ạ. Chỉ có điều bà Traynor không biết bà ấy có thể làm gì khác nữa."

    "Ồ, không mang cậu ấy tới bệnh viện đó sẽ là một khởi đầu đấy." Mẹ giận dữ. Hai má mẹ đỏ hồng. "Mẹ sẽ đấu tranh vì hai con, vì Thomas tới tận hơi thở cuối cùng."

    "Ngay cả khi anh ấy đã từng cố tự sát ư?" tôi nói. "Bằng những cách rất khốn khổ?"

    "Cậu ấy bị bệnh, Katrina. Cậu ấy tuyệt vọng. Không nên để những người dễ tổn thương có cơ hội làm một việc mà họ sẽ..." Mẹ im bặt trong cơn giận câm lặng và đưa khăn ăn chấm mắt. "Người đàn bà đó hẳn rất tàn nhẫn. Tàn nhẫn quá. Cứ nghĩ tới chuyện họ để Louisa dính tới tất cả chuyện này xem. Bà ấy là một quan tòa, lạy Chúa. Người ta cứ nghĩ quan tòa sẽ biết đúng sai. Ai cũng nghĩ thế. Mẹ chỉ muốn xuống đó ngay bây giờ để đưa cậu ấy về lại đây."

    "Mọi chuyện phức tạp lắm mẹ à."

    "Không. Không hề. Cậu ấy dễ bị tổn thương, và bà ấy không thể nào khuyến khích một ý nghĩ như thế. Mẹ kinh ngạc quá. Anh chàng tội nghiệp. Anh chàng tội nghiệp." Mẹ đứng lên khỏi bàn, mang phần còn lại của món gà theo, rồi đi thẳng vào bếp.

    Louisa nhìn mẹ đi, nét mặt chị hơi choáng váng. Mẹ chưa bao giờ nổi giận.

    Tôi nghĩ lần cuối cùng tôi nghe mẹ cao giọng là năm 1993.

    Bố lắc đầu, tâm trí hẳn đã ở một nơi nào khác. "Bố chỉ nghĩ - chẳng trách gì bố không thấy ông Traynor. Bố cứ tự hỏi không biết ông ấy đi đâu. Bố nghĩ họ đã lên đường đi nghỉ cả gia đình hay sao đó."

    "Họ... họ đi rồi?"

    "Hai hôm nay không thấy ông ấy tới." Lou ngồi xuống, thụp người trong ghế.

    "Ôi trời," tôi thốt lên, rồi đưa tay chụp quanh tai Thomas. "Ngày mai."

    Lou nhìn tôi, và tôi liếc lên lịch trên tường. "Ngày mười ba tháng Tám. Đó là ngày mai."

    Ngày cuối cùng ấy Lou không nói gì. Chị dậy trước tôi, ngồi nhìn chăm chú ra ngoài cửa sổ gian bếp. Trời mưa, rồi tạnh, rồi lại mưa. Chị nằm trên sofa với ông ngoại, rồi chị uống trà mẹ pha cho, và cứ khoảng nửa tiếng tôi lại để ý thấy ánh mắt chị lặng lẽ liếc về phía bệ lò sưởi để kiểm tra đồng hồ. Chứng kiến chuyện này thật là kinh khủng. Tôi đưa Thomas đi bơi và tôi cố kéo chị theo cùng. Tôi nói mẹ sẽ trông thằng bé nếu lát nữa chị muốn đi mua sắm với tôi. Tôi nói tôi sẽ đưa chị đi uống rượu, chỉ hai chúng tôi thôi, nhưng chị khước từ mọi lời đề nghị.

    "Nếu chị mắc sai lầm rồi thì sao, Treen?" chị nói thật khẽ để chỉ mình tôi nghe thấy.

    Tôi liếc nhìn ông ngoại, nhưng ông chỉ để mắt vào cuộc đua ngựa trên ti-vi. Tôi nghĩ ông vẫn âm thầm *** từng lượt đua cho mình, dù ông chối chuyện đó với mẹ.

    "Ý chị là sao?"

    "Nếu đúng ra chị nên đi cùng anh ấy thì sao?" "Nhưng... chị đã nói chị không thể."

    Bên ngoài, trời xám ngắt. Chị đưa mắt qua những ô cửa sổ trống trơn nhìn vào một ngày sầu thảm.

    "Chị biết mình nói gì chứ. Nhưng chỉ là chị không chịu được khi biết chuyện gì đang diễn ra." Mặt chị hơi mếu máo. "Chị không chịu được khi biết cảm giác của anh ấy. Chị không chịu được ý nghĩ rằng chị thậm chí không bao giờ tới tạm biệt."

    "Giờ chị không đi được nữa à? Thử mua vé máy bay xem sao?"

    "Muộn quá rồi," chị nói. Rồi chị nhắm mắt lại. "Chị không bao giờ tới đó kịp. Chỉ còn hai tiếng nữa là tới lúc... là kết thúc chuyện đó trong ngày hôm nay. Chị đã tìm hiểu. Trên internet."

    Tôi chờ đợi.

    "Họ không... làm... chuyện đó... sau năm giờ ba mươi." Chị lắc đầu với vẻ đau đớn. "Liên quan tới cảnh sát Thụy Sỹ, những người phải chứng giám. Họ không thích... chứng nhận... sau giờ hành chính."

    Tôi suýt phì cười. Nhưng tôi không biết phải nói gì với chị. Tôi không hình dung nổi cảm giác phải chờ đợi, như chị đang chờ đợi lúc này, thầm biết chuyện gì đang xảy ra ở một nơi xa lắc. Tôi chưa bao giờ yêu một người như kiểu chị yêu Will. Tôi đã thích nhiều chàng, tất nhiên, và muốn ngủ với họ, nhưng đôi khi tôi tự hỏi có phải mình thiếu mất mạch đa cảm đa sầu hay không. Tôi chẳng hình dung được cảnh mình khóc vì ai đó mà mình cặp kè. Chỉ có một chuyện tương đương là khi tôi nghĩ ra cảnh Thomas chờ chết ở một đất nước xa lạ nào đó, và ngay khi ý nghĩ đó đến trong đầu, tôi thấy cả lòng mình chao đảo, ý nghĩ ấy thật quá gớm guốc. Thế nên tôi vùi luôn nó vào sâu trong khoang cảm xúc trong não bộ tôi, dưới ngăn kéo dán nhãn: Không được nghĩ tới.

    Tôi ngồi xuống bên chị trên ghế sofa và chúng tôi lặng lẽ xem đợt đua Maiden Stakes vào lúc ba giờ rưỡi, rồi tới đợt đua có chấp vào lúc bốn giờ, rồi bốn đợt đua tiếp theo, với cảm xúc mãnh liệt không đổi của những người hẳn đã thật sự đặt hết tiền bạc trên đời vào kẻ thắng cuộc.

    Rồi chuông cửa reo.

    Louisa phóc khỏi sofa, lao ra sảnh trong chớp mắt. Chị mở cửa, và cái cách chị bật tung cánh cửa khiến cả tim tôi cũng phải ngừng đập.

    Nhưng người đứng trên bậc thềm không phải là Will. Đó là một phụ nữ trẻ, trang điểm đậm và hoàn hảo, tóc ngắn gọn gàng ôm quanh cằm. Cô ta gập ô lại rồi mỉm cười, thò tay vào lục chiếc túi lớn đeo trên vai. Trong một thoáng tôi tự hỏi đây có phải là em gái Will Traynor.

    "Louisa Clark phải không?" "Sao?"

    "Tôi từ The Globe. Tôi muốn trao đổi vài lời được không?" "The Globe hả?"

    Tôi nghe giọng Lou rất ngơ ngác.

    "Tờ báo hả?" Tôi bước tới sau lưng chị gái. Tôi đã thấy cuốn sổ trên tay cô ta.

    "Tôi vào được không? Tôi chỉ muốn trò chuyện một chút với chị về William Traynor. Chị làm việc cho William Traynor phải không?"

    "Miễn bình luận," tôi nói. Rồi trước khi cô ta có cơ hội nói thêm lời nào, tôi đóng sầm cửa trước mặt cô ta.

    Chị tôi đứng ngơ ngác giữa sảnh. Chị chần chừ khi thấy chuông cửa lại reo. "Đừng trả lời," tôi rít lên.

    "Nhưng làm sao...?"

    Tôi bắt đầu lôi chị lên cầu thang. Chúa ơi, chị chậm chạp không chịu nổi. Cứ như thể chị đang ngủ gật vậy. "Ông ngoại, đừng mở cửa nhé!" tôi hét lên. "Chị đã nói với ai rồi?" tôi hỏi khi chúng tôi lên tới chiếu nghỉ. "Hẳn đã có ai đó tấu với họ. Ai biết?"

    "Cô Clark," giọng cô gái lọt qua hòm thư. "Chỉ cần cô cho tôi mười phút thôi... chúng tôi biết đây là vấn đề nhạy cảm. Chúng tôi muốn cô đưa ra ý kiến về chuyện này..."

    "Như thế nghĩa là anh ấy chết rồi à?" Mắt chị tràn lệ.

    "Không, nó chỉ có nghĩa bọn tồi đang cố nhúng mũi vào." Tôi ngẫm nghĩ một phút.

    "Ai vậy các con?" Giọng mẹ vang lên tầng trên. "Không ai cả, mẹ ạ. Chỉ cần không mở cửa."

    Tôi ngó qua lan can cầu thang. Mẹ đang cầm một chiếc mù-soa trên tay, nhìn chăm chú bóng người hiện rõ trên tấm kính của cửa trước.

    "Không mở cửa à?"

    Tôi nắm khuỷu tay chị gái. "Lou... chị không nói gì với Patrick đấy chứ?" Chị chẳng cần phải nói gì. Vẻ mặt bàng hoàng của chị đã nói lên tất cả.

    "Được rồi. Đừng làm ầm lên. Chỉ cần không lại gần cửa. Không nghe điện thoại. Không nói lời nào với họ, được chưa?"

    Mẹ không vui. Mẹ càng phiền lòng hơn sau khi điện thoạt bắt đầu reo. Sau cuộc điện thoại thứ năm, chúng tôi cho mọi cuộc gọi chuyển vào chế độ trả lời tự động, nhưng chúng tôi vẫn phải nghe họ, giọng nói của bọn họ xâm chiếm hành lang bé nhỏ nhà chúng tôi. Cùng lúc có tới bốn, năm người. Tất cả đều đề nghị Lou nêu quan điểm về "câu chuyện đó", như đúng lời bọn họ. Như thể giờ đây Will Traynor đã trở thành một mặt hàng mà tất cả bọn họ muốn viết đến. Điện thoại reo, chuông cửa reo. Chúng tôi buông rèm ngồi trong nhà, lắng nghe đám nhà báo đi lại trên vỉa hè ngay cạnh cổng nhà chúng tôi, trò chuyện với nhau và í ới trên điện thoại di động.

    Thật chẳng khác gì bị vây hãm. Mẹ khoa tay múa chân và hét qua lỗ nhét thư để đuổi họ ra khỏi vườn mỗi khi có ai trong số bọn họ dám thò chân qua cổng. Thomas nhìn ra từ cửa sổ phòng tắm trên tầng vì muốn biết tại sao lại có nhiều người trong vườn nhà chúng tôi. Bốn nhà hàng xóm gọi sang, muốn biết xem có chuyện gì xảy ra. Bố đỗ xe ở phố Ivy rồi về nhà qua ngả vườn sau, và chúng tôi có một cuộc nói chuyện khá nghiêm túc về pháo đài và dầu đun sôi.

    Rồi khi nghĩ kỹ hơn, tôi gọi cho Patrick để hỏi xem anh ta được bao nhiêu từ phi vụ bần tiện này. Thoáng ngập ngừng trước khi anh ta chối bỏ mọi chuyện đã nói cho tôi mọi điều tôi cần biết.

    "Đồ khốn nạn," tôi hét lên. "Tôi sẽ đá gãy đôi ống quyển chạy marathon ngu xuẩn của anh để anh phải nghĩ rằng xếp thứ 157 là kết quả tốt lắm rồi."

    Lou chỉ ngồi trong bếp và khóc. Không phải khóc nức nở, chỉ là những giọt nước mắt lặng thầm lăn trên má, rồi chị đưa lòng bàn tay lau đi. Tôi không nghĩ ra phải nói gì với chị.

    Thế cũng ổn. Tôi có rất nhiều thứ để nói với mọi người khác.

    Tới bảy rưỡi, quanh nhà không còn bóng một phóng viên nào. Tôi không biết họ đã từ bỏ hẳn, hay chỉ là vì Thomas cứ ném những mảnh đồ chơi Lego qua khe nhét thư mỗi lần có ai thả câu hỏi vào nhà làm họ thấy chán. Tôi bảo Louisa tắm cho Thomas giúp tôi, chủ yếu là vì tôi muốn chị nhấc mình khỏi bếp, nhưng cũng vì như thế tôi mới có thể nghe hết lời nhắn trong hộp thư thoại và loại bỏ lời nhắn của đám báo chí trong khi chị không nghe thấy. Hai mươi sáu. Hai mươi sáu lời nhắn của đám chết tiệt. Ai ai cũng tỏ ra vô cùng tử tế, vô cùng thông cảm. Một số người thậm chí còn đề nghị đưa tiền.

    Tôi nhấn nút xóa từng lời nhắn một. Cả những tin nhắn đề nghị đưa tiền cũng vậy, dù phải thừa nhận là tôi hơi tò mò không biết họ định đưa bao nhiêu. Trong lúc đó, tôi nghe Lou nói chuyện với Thomas trong phòng tắm, tiếng thằng bé đưa chiếc Batmobile thả bom soàn soạt xuống chậu đầy bọt xà phòng mười lăm phân. Đó là một điều ở trẻ con mà người không có con thì không biết được - giờ tắm, đồ chơi Lego và món cá tẩm bột chiên giòn không cho phép người ta tắm cho lũ trẻ quá lâu. Thế rồi tôi nghe tới tin nhắn cuối cùng.

    "Louisa à? Camilla Traynor đây. Cô gọi cho tôi nhé? Càng sớm càng tốt."

    Tôi nhìn trân trân máy trả lời tự động. Tôi bật lại. Rồi tôi chạy vù lên cầu thang và lôi tuột Thomas ra khỏi chậu tắm nhanh tới nỗi thằng bé còn chẳng biết cái gì lôi mình. Nó đứng đó, khăn tắm quấn chặt quanh người như băng cuốn, còn Lou, loạng choạng và bối rối, đã xuống tới nửa cầu thang chợt quay lại nắm vai tôi.

    "Nếu bà ấy ghét chị thì sao?"

    "Giọng bà ấy không có vẻ gì là ghét chị."

    "Nhưng nếu đám nhà báo đang vây họ ở đó thì sao? Nếu họ nghĩ tất cả là lỗi của chị thì sao?" Mắt chị mở to sợ hãi. "Sẽ thế nào nếu bà ấy gọi để bảo anh ấy đã thực hiện xong rồi?"

    "Ôi, vì Chúa, Lou. Một lần trong đời thôi, hãy bình tĩnh. Chị chưa gọi thì làm sao biết được điều gì. Gọi cho bà ấy. Cứ gọi đi. Chị chẳng có lựa chọn chết tiệt nào nữa đâu."

    Tôi quay lại phòng tắm để giải phóng cho Thomas. Tôi nhét nó vào bộ pyjama, bảo với nó rằng bà ngoại có một chiếc bánh quy cho nó nếu nó chạy thật nhanh vào bếp. Rồi tôi ló đầu ra khỏi cửa phòng tắm để nhìn chị tôi nghe điện thoại dưới sảnh.

    Chị quay lưng lại phía tôi, một bàn tay vuốt tóc sau đầu. Chị đưa một bàn tay ra để trấn an bản thân.

    "Vâng," chị nói. "Tôi hiểu." Rồi nói thêm, "Được rồi." Sau một khoảng ngừng, "Vâng."

    Chị nhìn xuống chân cả một phút sau khi gác máy. "Sao rồi?" tôi nói.

    Chị ngước nhìn lên như thể chị chỉ vừa mới nhìn thấy tôi ở đó, rồi chị lắc đầu.

    "Không có chuyện gì liên quan tới báo chí cả," chị nói, giọng chị vẫn đờ đẫn vì kinh ngạc. "Bà ấy đề nghị chị - cầu xin chị - tới Thụy Sỹ. Bà ấy đã đặt cho chị chuyến bay cuối cùng vào đêm nay."
     
  12. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 26

    Nói cách khác, tôi nghĩ đây dường như là một con người khác của tôi, Lou Clark, cô gái mà trong hai mươi năm chẳng đi đâu xa hơn một chặng xe buýt ở thị trấn quê nhà, giờ đây sắp bay tới đất nước thứ ba trong vòng chưa đầy một tuần. Nhưng tôi xếp đồ vào chiếc túi du lịch nhỏ với tốc độ nhanh chóng hiệu quả của một nữ tiếp viên, chỉ mang theo những thứ thiết yếu nhất. Treena lặng lẽ chạy loanh quanh để bỏ vào những thứ khác mà nó nghĩ tôi sẽ cần, rồi chúng tôi đi xuống cầu thang. Chúng tôi dừng lại giữa đường. Bố mẹ đã có mặt sẵn trong hành lang, đứng cạnh nhau với vẻ đáng ngại thường thấy mỗi khi chúng tôi lẻn về nhà sau một đêm đi chơi khuya.

    "Có chuyện gì vậy?" Mẹ nhìn chằm chằm vào chiếc túi của tôi. Treena đã dừng lại trước mặt tôi.

    "Lou đang đi Thụy Sỹ," nó nói. "Chị ấy cần đi ngay bây giờ. Hôm nay chỉ còn một chuyến bay thôi."

    Chúng tôi chuẩn bị bước đi thì mẹ tiến lên.

    "Không." Miệng bà mím lại với vẻ kỳ cục, tay khoanh lại một cách khó chịu. "Thật sự đấy. Mẹ không muốn con liên đới. Nếu đây đúng là điều mẹ đang nghĩ thì không được."

    "Nhưng..." Treena cất tiếng, liếc nhìn lại phía tôi.

    "Không được," mẹ nói, giọng mẹ cứng rắn lạ thường. "Không nhưng gì hết. Mẹ đã nghĩ nhiều về chuyện này, về mọi điều con kể với mẹ. Nó sai trái. Sai đạo đức. Và nếu con mắc vào mớ bòng bong ấy, nếu con định giúp một người tự vẫn, thì có thể cuối cùng con sẽ vướng vào đủ thứ rắc rối."

    "Mẹ con nói đúng đấy," bố nói.

    "Bố mẹ đã xem trên bản tin. Chuyện này có thể ảnh hưởng tới cả cuộc đời con đấy, Lou. Việc phỏng vấn vào đại học, mọi thứ. Nếu con có tiền án, con sẽ không bao giờ có được bằng đại học hay công việc tốt hay bất cứ thứ gì..."

    "Anh ấy đã đề nghị chị ấy tới. Chị ấy không thể cứ thế lờ anh ấy đi được," Treena ngắt lời mẹ.

    "Có chứ. Có, nó có thể. Nó đã dành sáu tháng cuộc đời cho cái gia đình ấy. Và chuyện ấy đã cho nó bao nhiêu lợi lộc xét trên tình cảnh hiện nay. Chuyện ấy đã cho nhà này bao nhiêu lợi lộc, với đám người đập cửa và hàng xóm ai ai cũng nghĩ chúng ta đã lừa phỉnh được nhiều tiền bạc hay đại loại thế. Không, cuối cùng nó đã có cơ hội để làm việc gì đó cho bản thân, thế mà giờ họ lại muốn nó đi tới chốn chết chóc ấy ở Thụy Sỹ và dính dáng tới chuyện có trời mới hiểu. Mẹ nói không. Không, Louisa."

    "Nhưng chị ấy phải đi," Treena nói.

    "Không, nó không phải làm thế. Nó làm đủ rồi. Chính nó đã nói vậy đêm qua, nó đã làm mọi việc có thể." Mẹ lắc đầu. "Bất kể rắc rối nào mà nhà Traynor định rước vào khi đi tới chỗ... chỗ... chỗ gì đó mà họ định đưa cậu con đẻ của họ tới, mẹ không muốn Louisa dính dáng tới. Mẹ không muốn nó phá hủy cả cuộc đời mình."

    "Con nghĩ con có thể tự quyết định," tôi nói.

    "Mẹ không chắc con có thể. Đó là bạn con, Louisa. Đó là một thanh niên với cả cuộc đời phía trước. Con không thể tham gia vào chuyện này được. Mẹ... mẹ kinh ngạc khi con thậm chí dám nghĩ đến nó." Giọng mẹ gay gắt lạ thường. "Mẹ không nuôi dạy con để con giúp người khác tự vẫn! Con sẽ kết liễu cuộc đời ông ngoại ư? Con nghĩ chúng ta cũng nên xua ông ngoại tới Dignitas hả?"

    "Ông ngoại là chuyện khác."

    "Không, chẳng khác gì. Ông không thể làm những việc ông vẫn làm. Nhưng cuộc đời ông quý giá. Cuộc đời Will cũng quý giá y như vậy."

    "Đây không phải là quyết định của con, mẹ ạ. Đây là quyết định của Will. Ý nghĩa của tất cả chuyện này là để ủng hộ Will."

    "Ủng hộ Will? Mẹ chưa bao giờ nghe cái gì ngu xuẩn như vậy. Con còn bé lắm, Louisa. Con chưa từng thấy gì, chưa làm được gì. Và con đâu biết chuyện này sẽ ảnh hưởng tới con thế nào. Nhân danh Chúa, làm sao con còn có thể ngủ mỗi đêm nếu con giúp cậu ấy làm chuyện này? Con sẽ giúp một người tìm đến cái chết đấy. Con có hiểu rõ điều đó không? Con sẽ giúp Will, cậu thanh niên thông minh lịch lãm ấy, tìm đến cái chết."

    "Con sẽ ngủ được vì con tin Will biết cái gì hợp lý với anh ấy, và vì điều tồi tệ nhất với anh ấy là đánh mất khả năng đưa ra một quyết định dù nhỏ nhất, tự làm một việc cho bản thân dù nhỏ nhất..." Tôi nhìn bố mẹ, cố làm họ hiểu. "Con không còn nhỏ nữa. Con yêu anh ấy. Con yêu anh ấy, và con không nên để anh ấy một mình, con không chịu được ý nghĩ không có mặt ở đó và không biết việc... việc anh ấy sắp..." Tôi nuốt khan. "Vậy đấy. Con đi đây. Con không cần bố mẹ thông cảm hay hiểu con. Con sẽ đối mặt với mọi chuyện. Nhưng con sẽ đi Thụy Sỹ - dù bố hay mẹ có nói gì đi nữa."

    Gian sảnh bé nhỏ trở nên yên lặng. Mẹ nhìn tôi chằm chằm như thể mẹ không hay biết tôi là ai. Tôi bước một bước tới gần bà, cố làm cho bà hiểu. Nhưng khi tôi lại gần, bà lùi lại một bước.

    "Mẹ à? Con nợ Will. Con nợ anh ấy chuyện đi tới đó. Mẹ nghĩ ai đã khiến con phải nộp đơn vào đại học? Mẹ nghĩ ai đã khuyến khích con làm điều gì đó cho chính bản thân, đi du lịch, có tham vọng? Ai đã thay đổi cách con nghĩ về mọi thứ? Thậm chí cả về bản thân con? Là Will đấy. Sáu tháng qua con đã làm được nhiều hơn, sống được nhiều hơn cả hai mươi bảy năm trước gộp lại. Thế nên nếu anh ấy muốn con đi Thụy Sỹ thì được, con sẽ đi. Bất kể hậu quả thế nào."

    Mọi người im lặng hồi lâu.

    "Nó chẳng khác gì cô Lily cả," bố nói khẽ.

    Tất cả chúng tôi đứng yên, nhìn nhau chằm chằm. Bố và Treena liếc nhìn nhau, như thể mỗi người đang chờ người kia nói gì đó.

    Nhưng mẹ phá vỡ im lặng. "Nếu con đi, Louisa, con không cần về nữa."

    Những từ ấy bay ra khỏi miệng bà như sỏi đá. Tôi nhìn mẹ kinh ngạc. Ánh mắt bà cứng rắn. Ánh mắt ấy căng lên khi bà quan sát phản ứng của tôi. Cứ như thể một bức tường tôi chưa bao giờ thấy chợt dựng đứng lên giữa chúng tôi.

    "Mẹ à?"

    "Mẹ nói thật đấy. Thế này chẳng khác gì sát nhân cả." "Josie..."

    "Đó là sự thật, Bernard. Em không thể tham gia vào chuyện này."

    Tôi lơ đãng nghĩ rằng tôi chưa bao giờ thấy Katrina tỏ ra nao núng như lúc này. Tôi thấy bố đưa tay nắm cánh tay của mẹ, để chỉ trích hay để an ủi thì tôi không biết. Trong một thoáng đầu tôi trống rỗng. Rồi hầu như chẳng biết mình đang làm gì, tôi từ từ đi xuống cầu thang, lướt qua bố mẹ rồi ra cửa. Một giây sau, em gái đi theo tôi.

    Khóe miệng bố xịu xuống, như thể bố đang cố kìm nén mọi thứ. Rồi bố quay sang mẹ, đặt một tay lên vai bà. Mắt bà kiếm tìm gương mặt ông, như thể bà đã biết ông sắp nói gì.

    Rồi ông liệng chìa khóa của Treena. Nó bắt lấy bằng một tay.

    "Này," ông nói. "Đi ra bằng cửa sau, qua vườn nhà bà Doherty, lấy chiếc xe tải. Ngồi trong xe tải người ta không thấy được đâu. Nếu đi ngay và giao thông không quá tệ thì con sẽ tới kịp đấy."

    "Chị có biết tất cả chuyện này rồi sẽ dẫn tới đâu không?" Katrina nói. Nó liếc ngang sang tôi khi chúng tôi phóng vù vù trên đường cao tốc. "Không."

    Tôi không thể nhìn nó lâu - tôi đang sục sạo cái túi, cố nghĩ xem mình đã bỏ quên gì. Tôi cứ nghe vang vọng trong tai tiếng của bà Traynor. Louisa? Cô làm ơn tới nhé? Tôi biết chúng tôi rất lạ lùng, nhưng làm ơn... Cô đến ngay là chuyện vô cùng quan trọng.

    "Chết tiệt. Em chưa bao giờ thấy mẹ như thế," Treena tiếp tục.

    Hộ chiếu, ví, chìa khóa. Chìa khóa? Để làm gì? Tôi đâu còn nhà nữa.

    Katrina liếc sang tôi. "Ý em là giờ mẹ đang giận, nhưng chỉ tại mẹ sốc quá. Chị biết rồi mẹ sẽ ổn cả thôi mà, phải không? Dạo em về nhà nói với mẹ rằng em có bầu, em cứ nghĩ mẹ sẽ không bao giờ nói chuyện với em nữa. Nhưng chỉ mất - mấy nhỉ - hai ngày là mẹ lại làm lành rồi."

    Tôi nghe nó nói lao xao bên cạnh, nhưng tôi không thật sự để ý. Tôi không tập trung được vào cái gì. Đầu mút dây thần kinh của tôi chừng như bật cả lên; chúng náo loạn với hình ảnh dự báo. Tôi đang tới gặp Will. Bất kể còn gì khác, đó vẫn là sự thật. Tôi hầu như có thể cảm thấy những dặm đường giữa chúng tôi rút lại, như thể chúng tôi đang ở hai đầu của một sợi dây đàn hồi vô hình nào đó.

    "Treena?"

    "Sao ạ?"

    Tôi nuốt khan. "Đừng để chị lỡ chuyến bay này nhé."

    Em gái tôi quyết tâm hết sức. Chúng tôi giành đường, tăng tốc ở làn ngoài cùng, vượt quá tốc độ tối đa, và nghe đài để biết bản tin giao thông, rồi cuối cùng sân bay cũng hiện ra trong tầm mắt. Nó phanh két lại và tôi đang xuống xe thì nghe nó nói.

    "Này! Lou!"

    "Xin lỗi." Tôi quay lại, chạy vài bước về phía nó.

    Nó ôm tôi, thật chặt. "Chị đang làm đúng đấy," nó nói. Nó nhìn như sắp khóc. "Giờ thì đi đi. Nếu chị lỡ chuyến bay chết tiệt đó sau khi em nhận sáu lỗ trên bằng lái thì em sẽ không bao giờ nói chuyện với chị nữa."

    Tôi không quay lại. Tôi chạy như bay tới bàn của hãng Hàng không Thụy Sỹ, và tôi phải nói tên ba lần mới đủ rõ ràng để được nhận vé.

    Quá nửa đêm một chút, tôi tới Zurich. Vì đêm quá khuya, bà Traynor làm đúng như đã hứa là thuê cho tôi một phòng khách sạn trong sân bay và bảo bà sẽ đưa xe đến đón tôi vào chín giờ sáng. Tôi đã nghĩ tôi sẽ không ngủ được, nhưng tôi ngủ - một giấc ngủ chập chờn mộng mị quỷ quái suốt nhiều giờ, rồi thức dậy lúc bảy giờ sáng mà chẳng biết mình đang ở đâu.

    Tôi chếnh choáng nhìn quanh căn phòng xa lạ, nhìn những tấm rèm nặng trịch màu đỏ đun được thiết kế để chặn hết ánh sáng, nhìn chiếc ti-vi màn hình phẳng lớn, nhìn chiếc túi du lịch mà tôi thậm chí không buồn dỡ ra. Tôi kiểm tra đồng hồ, lúc này theo giờ Thụy Sỹ là bảy giờ hơn. Và khi nhận ra mình đang ở đâu, tôi đột nhiên thấy lòng mình thắt lại vì sợ hãi.

    Tôi bò ra khỏi giường vừa kịp lúc để nôn trong phòng tắm nhỏ. Tôi khuỵu xuống sàn gạch, tóc tôi bê bết quanh trán, má tôi áp vào tấm sứ lạnh lẽo. Tôi nghe thấy tiếng mẹ, sự phản đối của bà, và tôi cảm thấy một nỗi sợ tăm tối lan tỏa trong lòng. Tôi không sẵn sàng đối mặt với chuyện này. Tôi không muốn thất bại lần nữa. Tôi không muốn phải nhìn Will chết. Tôi lại gượng dậy, nôn thốc tháo ầm ĩ.

    Tôi không ăn được. Tôi cố gắng nuốt được một tách cà-phê đen, tắm rồi mặc đồ, tới tám giờ thì xong xuôi. Tôi nhìn bộ váy xanh lá nhạt tôi nhét vào túi tối qua và tự khỏi không biết nó có phù hợp với nơi tôi sắp tới. Mọi người sẽ mặc đồ đen cả à? Tôi có nên mặc thứ gì đó tươi sáng và sống động hơn, ví như chiếc váy đỏ mà tôi biết Will rất thích? Sao bà Traynor lại gọi tôi tới đây? Tôi kiểm tra điện thoại di động, băn khoăn không biết có nên gọi cho Katrina không. Giờ ở nhà là bảy giờ sáng. Nhưng có lẽ nó đang mặc đồ cho Thomas, và ý nghĩ nói chuyện với mẹ thật quá sức chịu đựng. Tôi trang điểm một chút, rồi ngồi xuống bên cửa sổ, thời gian chầm chậm trôi qua.

    Chưa bao giờ tôi cô đơn tới vậy trong đời.

    Khi không chịu đựng được phải ngồi trong căn phòng bé tí này thêm nữa, tôi quẳng mọi thứ còn lại vào túi rồi đi ra. Tôi định mua một tờ báo và đứng đợi ở hành lang. Như thế không thể tệ hơn ngồi trong căn phòng tối đen sau những tấm rèm với sự im ắng hoặc với tiếng từ kênh thông tin vệ tinh. Tôi sắp đi qua quầy tiếp tân thì thấy chiếc máy tính, đặt gọn gàng trong một góc. Trên đó có đề: Cho khách sử dụng. Vui lòng hỏi ở quầy tiếp tân.

    "Tôi dùng máy tính được không?" tôi nói với cô tiếp tân.

    Cô gật đầu, và tôi mua vé dùng một giờ. Đột nhiên tôi biết rất rõ mình muốn nói chuyện với ai. Từ trong lòng tôi biết anh là một trong số ít những người tôi có thể tin tưởng nói chuyện trên mạng vào lúc này. Tôi đăng nhập vào chat room và gõ vào ô tin nhắn:

    Ritchie. Anh có đó không?

    Chào buổi sáng. Ong. Hôm nay cô lên mạng sớm thế?

    Tôi chần chừ một chút rồi gõ tiếp:

    Tôi sắp bắt đầu một ngày kỳ lạ nhất trong đời. Tôi đang ở Thụy Sỹ.

    Anh ấy hiểu điều đó có nghĩa gì. Tất cả bọn họ đều hiểu điều đó có nghĩa gì.

    Bệnh viện đó là chủ đề của rất nhiều cuộc tranh luận nóng bỏng. Tôi gõ:

    Tôi sợ lắm.

    Thế tại sao cô lại ở đấy?

    Vì tôi không thể không tới. Anh ấy yêu cầu tôi. Tôi đang ở trong khách sạn chờ tới gặp anh ấy.

    Tôi ngập ngừng, rồi gõ tiếp:

    Tôi không biết ngày hôm nay sẽ kết thúc thế nào. Ôi, Ong.

    Tôi phải nói gì với anh ấy? Làm sao tôi thay đổi được quyết định của anh ấy?

    Trì hoãn một lúc lâu anh mới gõ tiếp. Chữ của anh xuất hiện trên màn hình chậm hơn bình thường, như thể anh đang rất thận trọng.

    Nếu anh ấy đã ở Thụy Sĩ, Ong, tôi không nghĩ anh ấy sẽ thay đổi quyết định đâu.

    Tôi thấy cục nghẹn to tướng dâng lên trong cổ, tôi vội nuốt xuống. Richie đang gõ tiếp.

    Đó không phải lựa chọn của tôi. Đó không phải lựa chọn của hầu hết chúng tôi trong website này. Tôi yêu cuộc sống của mình, dù tôi mong nó đã khác. Nhưng tôi hiểu tại sao bạn cô lại thấy thế là đủ rồi. Mệt mỏi lắm, khi phải sống cuộc đời này, mệt mỏi theo cái cách mà AB không bao giờ hiểu thấu. Nếu anh ấy đã quyết định, nếu anh ấy đã thực sự không thể thấy một con đường để mọi thứ tốt lên với anh ấy, thì tôi nghĩ điều tốt nhất cô làm được chỉ là có mặt ở đó. Cô không phải nghĩ xem anh ấy có đúng không. Nhưng cô phải có mặt ở đó.

    Tôi nhận ra mình đang nín thở.

    Chúc may mắn, Ong. Sau đó tới thăm tôi nhé. Sau chuyện ấy, có thể mọi thứ sẽ trở nên hơi khó khăn cho cô. Dù có chuyện gì đi nữa, tôi vẫn muốn có một người bạn như cô.

    Ngón tay tôi vẫn lơ lửng trên bàn phím. Tôi gõ:

    Tôi sẽ tới.

    Đúng lúc đó cô tiếp tân bảo tôi rằng xe của tôi đã tới bên ngoài.

    Tôi không biết mình mong đợi gì - có lẽ là một tòa nhà trắng đứng bên hồ hoặc trên ngọn núi tuyết phủ. Có lẽ là một mặt tiền ốp đá đúng kiểu bệnh viện với một tấm biển mạ đồng treo trên tường. Tôi không ngờ là phải lái xe qua một khu công nghiệp cho tới khi đến một nơi trông chẳng khác gì một ngôi nhà bình thường, bao bọc xung quanh là nhà máy, và thật kỳ lạ là cả một sân bóng. Tôi băng qua thềm, vượt qua một bể cá vàng, rồi vào trong.

    Người phụ nữ mở cửa biết ngay tôi tới tìm ai. "Anh ấy ở đây. Cô có muốn tôi chỉ cho không?"

    Khi đó tôi đứng chôn chân. Tôi nhìn trân trân vào cánh cửa đóng im ỉm, giống một cách lạ lùng với cánh cửa trong khu nhà phụ của Will mà tôi đã đứng bên ngoài suốt mấy tháng qua, tôi hít một hơi thật sâu. Rồi gật đầu.

    Tôi thấy chiếc giường trước khi thấy anh; nó choán lấy căn phòng bằng chất gỗ gụ, bằng đống chăn gối in hoa lạ mắt chẳng hề ăn nhập gì với nó. Ông Traynor ngồi một bên, bà Traynor ngồi bên kia.

    Trông bà xanh xao phờ phạc, bà đứng dậy khi trông thấy tôi. "Louisa."

    Georgina ngồi trên chiếc ghế gỗ trong góc phòng, cúi gập xuống đầu gối, hai tay áp vào nhau như đang cầu nguyện. Cô nhấc mắt lên khi tôi bước vào, để lộ đôi mắt thâm quầng, đỏ ngầu nỗi buồn đau, và trong một thoáng tôi thấy thương cảm cho cô.

    Tôi sẽ làm gì nếu Katrina cứ khăng khăng rằng nó có quyền làm việc tương tự?

    Căn phòng sáng sủa thoáng đãng, giống như một phòng sinh hoạt của gia đình thượng lưu. Sàn nhà lát gạch, trải thảm đắt giá, cuối phòng có một bộ sofa hướng ra khu vườn nhỏ. Tôi chẳng biết phải nói gì. Quả là một cảnh tượng trần tục vô cùng kỳ quái, ba người họ ngồi đó, như thể là một gia đình đang cố nghĩ xem hôm nay nên đi tham quan ở đâu.

    Tôi quay về phía giường. "À," tôi nói, túi xách vẫn ở trên vai, "tôi cho rằng dịch vụ phòng không được tốt lắm phải không?"

    Ánh mắt Will khóa mắt tôi, và bất chấp mọi thứ, bất chấp mọi nỗi sợ hãi, sự thật rằng tôi đã nôn hai lần, rằng tôi cảm thấy như đã không ngủ cả năm nay, tôi bất chợt thấy vui vì đã đến. Không phải vui, mà là nhẹ nhõm. Như thể tôi đã cắt bỏ được phần đau đớn, muộn phiền trong bản thân, vứt nó đi.

    Rồi anh mỉm cười. Thật đáng yêu, nụ cười của anh - chầm chậm, đầy nhận thức.

    Thật kỳ lạ, tôi thấy mình mỉm cười lại. "Phòng đẹp quá," tôi nói, rồi đột nhiên nhận ra đó là một bình luận ngớ ngẩn. Tôi thấy Georgina Traynor nhắm mắt, và tôi đỏ mặt.

    Will quay sang mẹ anh. "Con muốn nói chuyện với Lou. Được không ạ?"

    Bà cố mỉm cười. Tôi thấy một triệu điều trong ánh mắt bà nhìn tôi khi ấy - nhẹ nhõm, biết ơn, một thoáng cay đắng vì phải đứng ngoài trong những phút ngắn ngủi ấy, có lẽ thậm chí còn có chút hy vọng rằng sự xuất hiện của tôi sẽ mang ý nghĩa gì đó, rằng số phận này có thể sẽ rẽ ngoặt.

    "Tất nhiên rồi."

    Bà đi qua tôi ra hành lang, và khi tôi đứng tránh cửa để bà đi qua, bà đưa tay ra chạm vào bắp tay tôi, chỉ thật nhẹ. Mắt chúng tôi chạm nhau, đôi mắt bà thật dịu tới nỗi trong một thoáng trông bà giống như một người hoàn toàn khác, rồi bà quay đi.

    "Đi nào, Georgina," bà nói, khi thấy cô con gái không nhúc nhích.

    Georgina từ từ đứng dậy và lặng lẽ đi ra, chính tấm lưng cô cho thấy sự miễn cưỡng của cô. Rồi chỉ còn lại hai chúng tôi.

    Will được kê cao người trên giường, đủ để nhìn được ra ô cửa sổ bên trái, nơi đài phun trong khu vườn nhỏ róc rách tuôn một dòng nước sạch xuống cái bể bên dưới. Trên tường treo một bức tranh hoa thược dược đóng trong cái khung xộc xệch. Tôi nghĩ đó quả là bức tranh quá nhếch nhác khi phải ngắm vào những giờ cuối của cuộc đời.

    "Thế..."

    "Em không định..."

    "Em không định thay đổi quyết định của anh."

    "Em tới đây tức là em đã chấp nhận lựa chọn của anh. Đây là điều đầu tiên nằm trong tầm kiểm soát của anh kể từ vụ tai nạn."

    "Anh hiểu."

    Thế đấy. Anh hiểu, và tôi cũng hiểu. Chẳng còn gì để tôi làm.

    Bạn có biết không nói gì là chuyện khó khăn tới mức nào không? Khi mà từng tế bào trong cơ thể khao khát làm điều ngược lại? Tôi đã luyện để không nói gì trên suốt cả chặng bay, thế mà giờ đây điều ấy vẫn bóp ngạt tôi. Tôi gật đầu. Khi cuối cùng cũng cất tiếng, giọng tôi thều thào, vụn vỡ. Câu thốt ra là câu duy nhất tôi có thể nói một cách an toàn.

    "Em nhớ anh."

    Khi ấy anh có vẻ thư giãn. "Lại đây em." Rồi khi tôi lưỡng lự. "Làm ơn. Lại đây nào. Ngay đây, trên giường. Ngay bên cạnh anh."

    Lúc ấy tôi nhận ra rằng có sự nhẹ nhõm thật sự trong biểu hiện của anh. Anh vui khi nhìn thấy tôi theo cách mà anh sẽ không bao giờ có thể nói ra. Và tôi tự nhủ phải xem như vậy là đủ. Tôi sẽ làm điều anh đã yêu cầu. Và sẽ phải xem như thế là đủ.

    Tôi nằm xuống bên cạnh anh, vòng tay qua người anh. Tôi ngả đầu lên ngực anh, để cơ thể mình tiếp nhận từng đợt dâng lên hạ xuống nhẹ nhàng của nó. Tôi có thể cảm nhận đầu ngón tay Will ấn nhẹ vào lưng mình, hơi thở anh ấm áp trên mái tóc. Tôi nhắm mắt lại, hít vào hương cơ thể anh, vẫn giống mùi gỗ tuyết tùng đắt đỏ, bất chấp không khí mới lạ dịu nhẹ của căn phòng, mùi nước tẩy trùng thoang thoảng bên dưới. Tôi cố không nghĩ tới điều gì. Tôi chỉ cố hết sức, cố thẩm thấu qua khứu giác người đàn ông tôi yêu, cố in dấu những gì tôi bỏ sót ở anh lên cơ thể mình. Tôi không nói. Rồi tôi nghe tiếng anh. Tôi gần sát anh tới nỗi tiếng nói của anh dường như nhẹ nhàng thẩm thấu qua cơ thể tôi.

    "Này, Clark," anh nói. "Kể anh nghe chuyện gì vui vui."

    Tôi đưa mắt ra ngoài cửa sổ nhìn bầu trời Thụy Sỹ xanh sáng và tôi kể anh câu chuyện về hai người. Hai người không nên gặp nhau, hai người chẳng ưa gì nhau khi mới gặp, nhưng họ thấy mỗi người trong họ là người duy nhất trên đời có thể hiểu được người kia. Và tôi kể với anh về những chuyến phiêu lưu của họ, về những nơi họ từng đến, về những thứ tôi được tận mắt nhìn thấy mà tôi chưa bao giờ dám mơ tưởng đến. Tôi gợi cho anh nhớ lại những bầu trời đầy sấm chớp và những vùng biển long lanh ngũ sắc và những đêm ngập tiếng cười cùng những câu đùa ngộ nghĩnh. Tôi vẽ ra trước mắt anh một thế giới, một thế giới cách xa một khu công nghiệp Thụy Sỹ, một thế giới mà trong đó ít nhiều anh vẫn là con người như anh hằng mong ước. Tôi vẽ ra thế giới anh đã vạch đường cho tôi, đầy những điều kỳ diệu và khả năng. Tôi để anh biết một nỗi đau đã được chữa lành theo một cách mà anh không bao giờ biết được, và chỉ riêng điều đó thôi cũng đủ khiến một phần trong tôi luôn mang nợ anh. Khi nói, tôi biết đây sẽ là những lời quan trọng nhất tôi từng nói trong đời, và điều quan trọng đó là những lời chân thật, chúng không mang tính truyền bảo, không phải một nỗ lực thay đổi quyết định của anh, mà chỉ để bày tỏ lòng trân trọng với những điều Will từng nói.

    Tôi kể cho anh chuyện vui vui.

    Thời gian chậm lại, cô đọng. Chỉ còn hai chúng tôi, và tôi lẩm bẩm trong căn phòng trống trơn ngập nắng. Will không nói nhiều. Anh không trả lời, không bình luận châm chọc, cũng không cười giễu. Thỉnh thoảng anh gật đầu, đầu anh áp vào đầu tôi, và thì thầm, hoặc khẽ thốt lên một tiếng thể hiện niềm thỏa mãn trước một ký ức đẹp đẽ nữa.

    "Đó đã là," tôi nói với anh, "sáu tháng tốt đẹp nhất trong cuộc đời em." Im lặng hồi lâu.

    "Buồn cười thật, Clark, với anh cũng thế."

    Thế rồi, chỉ vậy thôi, trái tim tôi tan vỡ. Mặt tôi nhăn nhúm, sự bình tĩnh tan biến, tôi ghì chặt anh, tôi không còn bận tâm rằng anh có thể cảm nhận cơn thổn thức từ cơ thể tôi bởi lẽ nỗi đau đã phủ chụp lấy tôi. Nó nhấn chìm tôi, xé nát trái tim, cõi lòng và trí não tôi, nó đè nghiến tôi, và tôi không chịu nổi. Tôi thực sự nghĩ tôi không chịu nổi.

    "Đừng, Clark," anh thì thầm. Tôi cảm thấy môi anh trên tóc tôi. "Ôi, xin em. Đừng. Nhìn anh này."

    Tôi nhắm nghiền mắt và lắc đầu. "Nhìn anh đi. Xin em đấy."

    Tôi không thể.

    "Em đang giận. Làm ơn. Anh không muốn làm em đau hay khiến em..." "Không..." Tôi lại lắc đầu. "Không phải thế. Em không muốn..." Tôi áp má vào ngực anh. "Em không muốn thứ cuối cùng anh nhìn thấy là khuôn mặt khổ sở vẹo vọ đầy tàn nhang của em."

    "Em vẫn không hiểu, phải không Clark?" Tôi nghe thấy nụ cười trong tiếng anh. "Đây không phải lựa chọn của em."

    Một hồi lâu sau tôi mới bình tĩnh lại. Tôi hỉ mũi, hít một hơi thật sâu. Cuối cùng, tôi chống người lên khuỷu tay, và tôi nhìn lại anh. Đôi mắt anh, vốn nhọc nhằn và bất hạnh quá lâu, trông bình thản và thư thái lạ thường.

    "Em đẹp vô cùng." "Buồn cười thật."

    "Lại đây," anh nói. "Ngay cạnh anh."

    Tôi lại nằm xuống, đối mặt với anh. Tôi thấy chiếc đồng hồ phía trên cánh cửa và đột nhiên có cảm giác thời gian đã hết. Tôi cầm cánh tay anh, vòng thật chặt quanh tôi, siết chân tay tôi quanh người anh để hai chúng tôi quấn nhau thật chặt. Tôi cầm tay anh - bàn tay phải cử động được - và cài các ngón tay tôi vào các ngón tay anh, hôn những khớp tay khi tôi cảm thấy anh siết tay mình. Giờ đây cơ thể anh đã quá thân thuộc với tôi. Tôi quen với nó theo cách mà tôi chưa bao giờ quen với cơ thể Patrick - sức mạnh cũng như sự dễ tổn thương ở nó, những vết sẹo và mùi hương. Tôi để mặt mình sát mặt anh đến mức đường nét của anh trở nên mờ ảo, và tôi lại bắt đầu lạc mình trong đó. Tôi đưa mấy đầu ngón tay nhẹ nhàng vuốt tóc anh, da anh, chân mày anh, nước mắt vô tình rơi xuống má tôi, mũi tôi áp vào mũi anh, và trong khi đó anh lặng lẽ nhìn tôi, quan sát tôi một cách chăm chú như thể đang cất giữ từng tế bào trên cơ thể tôi. Anh đã rút lui, ẩn vào một nơi tôi không với tới.

    Tôi hôn anh, cố đưa anh trở lại. Tôi hôn anh và đặt môi tôi thật yên trên môi anh để hơi thở của chúng tôi hòa quyện và dòng lệ từ mắt tôi trở thành muối trên da anh, tôi tự nhủ rằng ở một nơi nào đó, những mảnh nhỏ xíu của anh sẽ trở thành những mảnh nhỏ xíu của tôi, nhai, nuốt, sống động, vĩnh hằng. Tôi muốn ấn từng chút một của cơ thể mình lên anh. Tôi muốn áp đặt thứ gì đó vào anh. Tôi muốn cho anh từng mảnh sự sống tôi cảm nhận và bắt anh phải sống.

    Tôi nhận ra mình sợ phải sống thiếu anh. Sao anh lại có quyền phá hủy cuộc sống của em, tôi muốn gặng hỏi anh, mà em lại không được nhúng tay vào cuộc sống của anh?

    Nhưng tôi đã hứa.

    Thế nên tôi ôm anh, Will Traynor, thần đồng thành phố một thời, tay đua xe cự phách một thời, vận động viên, nhà du thám, người yêu. Tôi ôm ghì anh, không nói gì, nhưng lại lặng thầm nói mãi với anh rằng anh được yêu. Ôi, nhưng anh được yêu.

    Tôi không biết chúng tôi nằm như thế bao lâu. Tôi lờ mờ nghe cuộc trò chuyện khe khẽ bên ngoài, nghe tiếng giày sột soạt, tiếng chuông nhà thờ ngân từ một nơi nào xa xăm. Cuối cùng tôi nghe anh thở hắt ra, gần như rùng mình, rồi anh ngửa đầu ra một chút để chúng tôi có thể nhìn rõ nhau.

    Tôi chớp mắt nhìn anh.

    Anh khẽ mỉm cười với tôi, gần như một lời xin lỗi.

    "Clark," anh nói khẽ. "Em gọi bố mẹ anh vào được không?"
     
  13. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Chương 27

    HỘI ĐỒNG CÔNG TỐ HOÀNG GIA

    Kính gửi: Viện trưởng Viện Công tố Báo cáo mật

    Về: William John Traynor 4.9.2009

    Cảnh sát điều tra đã phỏng vấn mọi người liên đới tới trường hợp kể trên, và tôi đính kèm theo đây hồ sơ chứa mọi tài liệu liên quan.

    Đối tượng trung tâm của cuộc điều tra là ông William Traynor, 35 tuổi, cựu thành viên của hãng Madingley Lewins, trụ sở đặt tại thành phố London. Ông Traynor bị tổn thương cột sống sau tai nạn giao thông năm 2007 và đã được chẩn đoán bị liệt tứ chi mức C5/6 với cử động hạn chế, chỉ ở một cánh tay, cần được chăm sóc 24/24. Bệnh sử của ông được đính kèm.

    Hồ sơ cho thấy rằng ông Traynor đã nỗ lực tối đa để hợp thức hóa tình trạng pháp lý trước khi ông đi sang Thụy Sỹ. Chúng tôi đã được luật sư của ông, ông Michael Lawler, chuyển tiếp một đơn bày tỏ nguyện vọng có chữ ký và chứng nhận của nhân chứng, cùng với bản photo của mọi tài liệu làm bằng chứng thích hợp có liên quan tới những thảo luận từ trước của ông với bệnh viện Dignitas.

    Cả gia đình và bạn bè ông Traynor đều bày tỏ sự phản đối với ước nguyện đã tuyên bố của ông về việc kết thúc vĩnh viễn cuộc sống, nhưng vì bệnh sử và những nỗ lực trước đó với cuộc sống của chính ông (chi tiết trong bệnh án đính kèm), tính cách thông minh và mạnh mẽ của ông, họ rõ ràng đã không thể can ngăn ông, ngay cả trong giai đoạn sáu tháng kéo dài vốn được đặc biệt thỏa thuận với ông vì mục đích này.

    Lưu ý rằng một trong những người hưởng tài sản theo di chúc của ông Traynor là người chăm sóc được ông thuê, cô Louisa Clark. Vì thời gian hợp tác ngắn ngủi giữa cô với ông Traynor, có thể sẽ có một số câu hỏi được đặt ra liên quan tới sự hào phóng của ông đối với cô, nhưng tất cả các bên đều cho biết họ không muốn tranh luận về những mong muốn đã công bố của ông Traynor, đó là những tài liệu hợp pháp. Cô đã được phỏng vấn nhiều lần và cảnh sát hài lòng khi biết cô đã nỗ lực hết sức để ngăn cản ý định của ông (hãy xem 'lịch phiêu lưu' đính kèm làm bằng chứng).

    Cũng cần phải lưu ý rằng bà Camilla Traynor, mẹ ông, vốn là một quan tòa đáng kính trong nhiều năm, đã trình đơn thôi việc trước dư luận xung quanh vụ việc. Dễ hiểu vì sao bà và ông Traynor sớm chia tay sau cái chết của con trai.

    Dù sử dụng dịch vụ trợ tử ở bệnh viện nước ngoài không phải là điều CPS (Hội đồng Công tố Hoàng gia) xem xét khuyến khích, nhưng đánh giá những bằng chứng đã thu thập được, rõ ràng là hành động của gia đình và những người chăm sóc ông Traynor phù hợp với những nguyên tắc hiện hành đã được đặt ra liên quan tới vấn đề trợ tử và vấn đề truy tố những người liên quan tới người đã chết.

    1. Ông Traynor được đánh giá là có đủ năng lực pháp lý và có một mong muốn "tự nguyện, trong sạch, kiên quyết, và được thông tin đầy đủ" để thực hiện quyết định đó.

    2. Không có bằng chứng về bệnh lý tâm thần, cũng như về sự ép buộc dù ở mức độ nào.

    3. Ông Traynor đã bày tỏ một cách rõ ràng rằng ông mong muốn tự tử.

    4. Bệnh tình của ông Traynor rất nặng và vô phương cứu chữa.

    5. Những hành động hộ tống ông Traynor chỉ là những hỗ trợ hoặc tác động không đáng kể.

    6. Những hành động hộ tống ông Traynor có thể được xem là hỗ trợ miễn cưỡng khi phải đối mặt với ý muốn kiên định từ phía nạn nhân.

    7. Tất cả các bên liên quan đều đã hỗ trợ hết sức cho cảnh sát điều tra vụ việc này.

    Vì những điều đã liệt kê trên đây, vì phẩm chất tốt vốn có của tất cả các bên, và vì bằng chứng đính kèm, tôi đề nghị không phục vụ tính hiếu kì của báo chí bằng cách theo đuổi kiện cáo trong vụ việc này.

    Tôi gợi ý rằng nếu có tuyên bố công khai nào được đưa ra nhằm mục đích kể trên, Giám đốc Viện Kiểm sát Anh hãy làm rõ rằng vụ Traynor không đặt ra tiền lệ nào, và CPS sẽ tiếp tục đánh giá từng trường hợp với những sự kiện và hoàn cảnh riêng của nó.

    Trân trọng

    Sheilagh Mackinnon

    Hội đồng Công tố Hoàng Gia
     
  14. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,381
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Trước Ngày Em Đến - Me Before You
    Phần Kết

    Tôi đang theo đúng chỉ dẫn.

    Tôi ngồi dưới bóng mái hiên xanh thẫm của quán cà-phê, nhìn ra con đường Rue des Francs Bourgeois thênh thang, ánh nắng nhạt nhòa của mùa thu Paris sưởi ấm một bên mặt tôi. Trước mặt tôi, người phục vụ mang phong cách Gô- loa đặt xuống một đĩa bánh sừng bò và một tách cà-phê pha phin lớn. Cách hai trăm mét dưới đường, hai người đi xe đạp dừng lại gần đèn tín hiệu giao thông và bắt chuyện với nhau. Một người đeo chiếc ba-lô màu xanh thò ra hai cái bánh mì dài lớn tạo thành những góc ngộ nghĩnh. Không khí tĩnh và nồm mang hương cà-phê và bánh ngọt và mùi thuốc lá hăng hăng của ai đó.

    Tôi đọc xong thư của Treena (nó bảo lẽ ra nó phải gọi điện, nhưng nó không trả được tiền cước quốc tế). Nó xếp thứ nhất cả năm lớp Kế toán 2 và có bạn trai mới, Sundeep, anh chàng đang cố nghĩ xem có nên làm cho công ty xuất nhập khẩu của bố cậu ở Heathrow, và cậu có gu âm nhạc còn dở tệ hơn cả Treena. Thomas sướng như điên khi được lên lớp ở trường. Bố chúng tôi vẫn làm việc rất tốt, ông nhắn gửi tình yêu thương đến tôi. Nó khá chắc là mẹ sẽ sớm tha thứ. Mẹ chắc chắn đã nhận được thư chị, nó nói. Em biết mẹ đọc rồi. Cho mẹ thêm thời gian.

    Tôi nhấp một ngụm cà-phê, chợt nhớ về phố Renfrew và một mái gia đình chừng như cách xa hàng triệu dặm. Tôi ngồi đó, hơi nheo mắt trước ánh nắng nhẹ, quan sát một phụ nữ đeo kính râm đang sửa sang mái tóc trước tấm gương là khung kính của một cửa hiệu. Cô mím môi trước hình ảnh phản chiếu của mình, thẳng người lên một chút, rồi tiếp tục bước xuống đường.

    Tôi đặt tách xuống, hít một hơi thật sâu rồi cầm lá thư khác lên, lá thư tôi mang bên mình tới nay đã gần sáu tuần.

    Trên mặt trước phong bì, dưới tên tôi là dòng chữ in hoa:

    CHỈ ĐỌC Ở QUÁN CÀ-PHÊ MARQUIS, RUE DES FRANCS BOURGEOIS, BÊN CẠNH LÀ BÁNH SỪNG BÒ

    VÀ MỘT TÁCH CAFÉ CRÈME CỠ ĐẠI

    Tôi đã bật cười, dù nước mắt rơi lã chã, khi lần đầu đọc chiếc phong bì này - tính cách điển hình của Will, ông chủ tới phút cuối cùng.

    Người bồi bàn - một anh chàng cao ráo nhanh nhẹn có cả tá mẩu giấy nhớ dán trên phần ngực chiếc tạp dề quay lại và bắt gặp mắt tôi. Cái nhướng mày của anh như muốn hỏi, Ổn cả chứ?

    "Vâng," tôi nói. Rồi hơi e dè, "Oui."

    Bức thư được đánh máy. Tôi nhận ra phông chữ trên tấm thiệp anh đã gửi cho tôi dạo trước. Tôi dựa lưng vào ghế và bắt đầu đọc.

    Clark,

    Tới lúc em đọc lá thư này thì chắc đã qua mấy tuần rồi (dù với những kỹ năng tổ chức mới có của em, anh ngờ là em không thể tới được Paris trước đầu tháng Chín). Anh hy vọng cà-phê ngon và mạnh còn bánh sừng bò thì tươi, và thời tiết vẫn đủ nắng để ngồi bên ngoài trên một trong những chiếc ghế kim loại không bao giờ phẳng mặt đặt ngoài vỉa hè. Nó không tệ đâu, quán Marquis ấy mà. Bít-tết bò cũng ngon, nếu em thích quay lại ăn trưa. Và nếu em nhìn xuống đường về phía bên trái, hi vọng rằng em sẽ nhìn thấy L'Artisan Parfumeur, sau khi đọc xong lá thư này em nên tới đó để thử mùi hương hình như mang tên Papillons Extrême (không nhớ rõ nữa). Anh cứ luôn nghĩ em mà xức mùi ấy thì tuyệt lắm.

    Được rồi, chỉ dẫn chừng ấy thôi. Lúc trước có nhiều điều anh muốn nói với em và đã nói trực tiếp với em, nhưng a) em bực bội lắm và b) em sẽ không chịu để anh nói ra hết tất cả những điều này đâu. Em lúc nào cũng nói quá nhiều.

    Thế nên nghe này: tờ ngân phiếu em nhận trong chiếc phong bì đầu tiên từ Michael Lawler không phải là toàn bộ tiền đâu, đó chỉ là một món quà nhỏ, để giúp em vượt qua những tuần thất nghiệp đầu tiên, và để đưa em tới Paris.

    Khi trở lại Anh, em mang lá thư này tới cho Michael tại văn phòng của ông ấy ở London và ông ấy sẽ đưa cho em những giấy tờ liên quan để em nhận được một tài khoản mà ông ấy đã lập cho anh dưới tên em. Tài khoản này đủ cho em mua một chỗ nào đó xinh đẹp để sống, cho em trả tiền học phí và trang trải cuộc sống trong khi dành hết thời gian vào việc học.

    Bố mẹ anh sẽ được thông báo đầy đủ về chuyện đó. Anh hy vọng rằng điều này, cộng với công việc pháp lý của Michael Lawler, sẽ đảm bảo có ít rắc rối nhất có thể.

    Clark, từ đây anh có thể nghe thấy em bắt đầu thở dài thườn thượt. Đừng sợ hãi, cũng đừng cố vứt bỏ nó đi - nó không đủ để em ngồi chơi xơi nước suốt phần đời còn lại đâu. Nhưng có lẽ nó mua được cho em sự tự do, vừa thoát khỏi cái thị trấn nhỏ xíu ngột ngạt mà hai ta cùng gọi là quê nhà ấy, vừa thoát khỏi những kiểu lựa chọn mà em luôn cảm thấy mình phải đưa ra.

    Anh đưa tiền cho em không phải vì anh muốn em biết ơn, hay mang nợ anh, hay cảm thấy nhớ nhung hoài niệm gì hết.

    Anh đưa cho em thứ này vì nó chẳng còn làm anh hạnh phúc được chút nào nữa, nhưng với em thì có.

    Anh biết rằng quen biết anh khiến em đau đớn, muộn phiền, anh hy vọng rằng một ngày nào đó khi em bớt giận anh và bớt buồn, em sẽ không chỉ nghĩ tới chuyện anh chỉ có thể làm cái việc anh đã làm, mà em còn nghĩ rằng thứ này sẽ giúp em có một cuộc đời thật tốt, một cuộc đời tốt hơn so với cuộc đời mà em không gặp anh.

    Em sẽ cảm thấy không thoải mái trong thế giới mới của em trong một thời gian. Bao giờ bị bắn ra khỏi không gian quen thuộc của mình ta cũng cảm thấy thế thôi. Nhưng anh hy vọng em cũng cảm thấy một chút vui sướng. Gương mặt em khi em đi lặn về hôm đó đã nói với anh tất cả: có một nỗi khao khát trong em. Clark. Một lòng dũng cảm. Chỉ có điều em đã vùi chôn nó, như hầu hết mọi người.

    Anh không định bảo em nhảy xuống từ những tòa nhà chọc trời, hay bơi cùng cá voi hay đại loại thế (dù anh thầm thích nghĩ rằng em sẽ làm những trò ấy), mà hãy sống thật mạnh mẽ. Nâng mình lên. Đừng dừng lại. Mặc những chiếc quần sọc ấy với niềm kiêu hãnh. Và nếu em cứ nhất định sống đời với một gã lố bịch nào đấy, hãy đảm bảo những chuyện này đã được cất giấu vào đâu đó. Biết em vẫn có những khả năng là một điều vô cùng quý giá. Biết có lẽ anh đã mang lại những khả năng ấy cho em đã làm dịu vợi tâm hồn anh.

    Và chính là như vậy. Em đã chiếm trọn trái tim anh. Em đã làm được điều đó ngay từ ngày đầu em bước chân vào, với bộ đồ kỳ cục và những câu đùa ngốc nghếch và khả năng che giấu cảm xúc trong lòng bằng con số không. Em đã thay đổi cuộc đời anh nhiều hơn rất nhiều so với khoản tiền này có thể thay đổi cuộc đời em.

    Đừng nghĩ về anh quá nhiều. Anh không muốn nghĩ tới cảnh em sụt sùi sướt mướt. Hãy sống tốt nhé.

    Hãy sống. Yêu em, Will

    Một giọt nước mắt rơi xuống chiếc bàn mỏng manh trước mặt tôi. Tôi đưa lòng bàn tay lau má rồi đặt lá thư xuống bàn. Mất mấy phút mắt tôi mới nhìn lại rõ ràng được.

    "Một tách cà-phê nữa nhé?" anh bồi bàn hói, anh vừa xuất hiện trước mặt tôi.

    Tôi chớp mắt nhìn anh. Anh trẻ hơn tôi nghĩ ban đầu, anh đã rũ bỏ thoáng vẻ kiêu kỳ lúc trước. Có lẽ dân bồi bàn Paris đã được huấn luyện phải tỏ ra tử tế với những cô gái đang khóc trong quán cà-phê của họ.

    "Hay... một ly cognac?" Anh liếc vào lá thư rồi mỉm cười với vẻ thông hiểu. "Không," tôi nói, mỉm cười lại. "Cảm ơn anh. Tôi có... tôi có việc phải làm." Tôi thanh toán hóa đơn, bỏ lá thư cẩn thận vào túi.

    Rồi bước ra khỏi bàn, tôi vuốt thẳng chiếc túi trên vai và bước xuống đường về phía hiệu nước hoa với cả Paris xung quanh.

    HẾT
     
  15. thienbinh_83

    thienbinh_83

    Tham gia:
    3/5/2014
    Bài viết:
    18,522
    Đã được thích:
    4,100
    Điểm thành tích:
    2,113
    Hình như truyện này có phim đang chiếu rạp phải không các mẹ. Đánh dấu topic này để đọc.
     
  16. kieuhaiopentour

    kieuhaiopentour Thành viên mới

    Tham gia:
    20/11/2013
    Bài viết:
    41
    Đã được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    8
    sao không có phim anh vẫn ngồi đây đợi em đến nhỉ
     
  17. gumgum

    gumgum Thành viên tập sự

    Tham gia:
    10/6/2016
    Bài viết:
    5
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    1
    dạo này đang hot phim này ạ =))) mình định đi xem nhưng bạn đi xem bảo không hay như đồn nên thôi
     
  18. lilila_lalili

    lilila_lalili Thành viên tập sự

    Tham gia:
    11/6/2016
    Bài viết:
    2
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    1
    Mình thấy film Love Rosie cũng do anh này đóng lại hay hơn í! ;)
     

Chia sẻ trang này