BẢN CÁT CÁT Khu du lịch Cát Cát là một trong những điểm đến hấp dẫn của du khách khi tới Sapa, nhất là du khách người Việt chúng ta. Nó hấp dẫn vì nhiều yếu tố: vị trí nằm không xa trung tâm Sapa, cảnh quan đẹp, từ Cát Cát du khách có thể ngước mắt ngắm nhìn dãy Hoàng Liên Sơn và được tham dự giờ diễn văn nghệ đặc sắc của người vùng cao tại khu du lịch gần thác nước. Thôn nữ đang ngược bậc dốc lên Sapa (Ảnh: Internet) Bản Cát Cát nhà của người Hmông đen. Nơi mà văn hóa người dân tộc thiểu số gắn với thiên nhiên hoang sơ, đây là một địa chỉ thích hợp cho những khách du lịch đã mệt mỏi với đời sống đô thị…Từ trung tâm thị trân Sapa quý khách có thể đi bộ hoặc xe máy để đến với Bản Cát Cát, sau hành trình khoảng 3 km thì bạn đến với bản văn hoá Cát Cát và bắt đầu hành trình bộ hành khám phá và trải nghiệm cuộc sống của người dân hai bên đường với những căn nhà nhỏ được xây dựng bên chiền núi. Những ngôi nhà này được xây dựng dựa trên những đặc điểm nổi bật nhất của phong cách kiến trúc cổ kính của người dân địa phương như là: Nhà được làm theo kiểu ba gian, lợp ván gỗ pơmu, bộ khung nhà có vì kèo ba cột ngang, các cột đều được kê trên phiến đá tròn hoặc vuông. Vách được lợp bằng gỗ xẻ, có 3 cửa ra vào: cửa chính ở gian giữa, 2 cửa phụ ở hai đầu nhà. Một mái nhà của người Hmông trong bản (Ảnh: Internet) Cửa chính luôn được đóng kín, chỉ mở khi có việc lớn như đám cưới, tang ma, cúng ma vào dịp lễ Tết. Trong nhà có không gian thờ, sàn gác lương thực dự trữ, nơi ngủ, bếp và nơi tiếp khách… Các ngôi nhà nằm cách nhau bởi những thửa ruộng bậc thang. Đằng sau những ngôi nhà ấy là những bụi tre um tùm hòa màu xanh lá với những cánh đồng hình vòng cung cao thấp lượn lờ. Thích nhất là bắt gặp những chiếc cối giã gạo không dùng sức người. Nước suối khi chảy đầy máng một đầu chài thì đầu chài kia bật cao lên. Khi nước trong máng đổ ra ngoài, đầu chài kia hạ xuống, giã vào cối gạo, cứ vậy cho ra những hột gạo trắng tinh. Đến đây quý khách còn có cơ hội trải nghiệm những hoạt động thường ngày của người dân tộc như: trồng trọt (cấy lúa – nếu vào ngày mùa cấy lúa ) hoặc một số nghề phụ mà người dân thường làm mỗi khi nông nhàn như: Dệt vải, chạm khắc bạc và làm các đồ nông cụ, thủ công mỹ nghệ để bán cho khách du lịch. Ngày nay trước sự phát triển mạnh mẽ của ngành du lịch, du khách đổ về Sapa nói chung và Bản Cát Cát nói riêng càng ngày càng tăng mạnh nên một số thanh niên có xu hướng tách ra làm nghề dịch vụ, một số bạn trẻ còn biết nói tiếng nước ngoài và làm nghề hướng dẫn viên du lịch… có thể nói đây là nét mới của du lịch Sapa. Ngoài những phong tục tập quán mang tính đặc trưng của người dân tộc thiểu số nơi đây còn sở hữu vẻ đẹp riêng biệt của thiên nhiên, ấy vậy mà Bản Cát Cát là điểm Du lịch hấp dẫn ở Sapa ngay từ khi nó được thanh lập…. Bắt đầu đến Bản quý khách sẽ đi qua 1 cây Cầy Si bắc qua Suối Cát Cát và Thác nước Cát Cát thơ mộng. Càng đi sâu vào trong bản quý khách càng ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, Nếu dãy núi Hoàng Liên Sơn – Đỉnh Phanxipăng nóc nhà Đông Đương đem đến cho bạn cảm giác thán phục trước vẻ đẹp của thiên thì những thửa ruộng bậc thang lại mang đến cho bạn sự cảm phục trước sự sáng tạo của con người vùng cao. Họ đã biết khắc phục những nhược điểm của địa hình để tạo lên những thửa ruộng có khả năng canh tác đồng thời còn là một bức tranh kỳ vĩ, một vẻ đẹp hoang sơ trên nền không gian thiên nhiên hùng vĩ của núi đồi vùng cao.. và đây cũng chính là nguồn cảm hững vô tận cho các nhà nhiếp ảnh gia và du khách mỗi khi đến với Sapa nơi gặp gỡ đất trời. Nguồn: www.hiddensapa.com
LAO CHẢI - TẢ VAN Hai bản này tuy tách biệt nhưng thường được xem là một trong các chuong trình tour đi bản. Vì nói tới Lao Chải, thì du khách sẽ nói tiếp Tả Van nữa, hai từ như sánh đôi. Tả Van nằm cách Sapa khoảng 12km đi bộ và là bản của những homestay cho du khách lưu trú. Khi du khách tới Lao Chải – Tả Van, quý khách sẽ đượng gặp gần như hết các sắc màu phong phú của 5 dân tộc anh em tại Sapa: Hmông, Dao, Giáy, Xa Phó và Tày. (Paul Miller) Lao Chải – Tả Van nằm dưới thung lũng, hai bên là hai dãy Hoàng Liên Sơn và núi Hàm Rồng hùng vĩ, bao quanh bản là các thửa ruộng bậc thang trồng lúa nằm ở cấp thấp hơn. Ruộng kéo dài đến tận cửa nhà. Tưởng chừng như đó là những bậc thang nối liền Lao Chải với các ngọn núi để hòa mình vào mây lên tận trời cao… Những thửa ruộng bậc thang này đã có từ hàng trăm năm nay và đều do những đôi bàn tay tài hoa, cần mẫn của những người nông dân dân tộc thiểu số kiến tạo nên và những cánh đồng này rộng hàng trăm ha … trông như những bức tranh phong cảnh khổng lồ với những đường nét uốn lượn tài hoa do các họa sỹ chân đất tạo nên… Cứ đến mùa thu hoạch lúa chín (Tháng 4 và tháng 9 hàng năm ) là cả thôn bản ấm lên cùng sắc vàng tự nhiên của lúa chín. Đây cũng là thời điểm du lịch Sapa nói chung và Lao Chài – Tả Van nói riêng bởi khao khát được một lần ngắm những cánh đồng lúa chín vàng theo từng bậc, từng bậc đó khiến ta có cảm giác được lạc vào chốn bồng lai tiên cảnh…. Người Hmông đen trên đường lên chợ Sapa (Ảnh: Internet) Bên cạnh những khung cảnh ngoạn mục và hùng vĩ của thiên nhiên thì đến Lao Chải – Tả Van có đi bộ mới cảm nhận được hết nét đẹp văn hóa. Nhưng bấy nhiêu thôi chưa đủ. Phải ngủ lại mới cảm nhận và trải nghiệm cuộc sống đúng nghĩa Lao Chải – bản làng hiện ra từ mây. Khi tham gia tour nghỉ đêm tại bản quý khách có cơ hội khám phá một đời sống văn hoá vô cùng đặc sắc quả thực tour du lịch với người dân địa phương thật sự thoải mái và rất hấp dẫn với những ai yêu thích tính giản dị, thích tìm hiểu, khám phá, năng động với điều kiện sống tương đối. Qua đó du khách có thể hiểu rõ hơn cuộc sống bình dị, chân chất của đồng bào dân tộc, vừa được thưởng thức những món ăn dân dã, vừa được hòa mình vào không gian sống của người dân tộc, được tìm hiểu những phong tục truyền thống cũng như tập quán của đồng bào các dân tộc thiểu số ở mọi miền đất nước… Phòng khách gia đình là nơi du khách sinh hoạt, đọc sách, xem truyền hình, được trang trí bằng những tấm thổ cẩm, khèn, chuông gỗ đeo ở cổ trâu bò… Việc trải nghiệm bản sắc văn hoá sẽ thiếu đi phần thi vị và hoàn hảo nếu quý khách không được thưởng thức những món ăn mang đậm chất của người dân địa phương nhưng được chế biến sao cho phù hợp với khẩu vị của các du khách trong đó đặc sắc nhất phải nói đến các món được chế biến từ: Rau tự trồng, lợn, gà bản do người dân tự nuôi… Đặc biệt trong cái không khí se se lạnh và được thưởng thức rượu ngô đặc sản của người dân tộc thiểu số. (Ảnh: Internet) Đêm đến, mỗi người chúng tôi có một chiếc nệm gòn, mền, mùng, gối ấm áp được chủ nhà chuẩn bị ngăn nắp sạch sẽ, sắp xếp sẵn trên khu vực gác lửng bao quanh ngôi nhà, có đèn sáng và không khí thì ấm cúng do không có cửa sổ vì thời tiết ở Sapa luôn lạnh về đêm… Vậy là khi tham gia chuyến đi du lịch Sapa này là bạn đã đạt được hai mục đích đó là: đóng góp trực tiếp cho người dân tại nơi đến bằng cách nghỉ ngơi ở những ngôi nhà dân dã của đồng bào, được tiếp xúc với sự thân thiện mến khách, hòa mình trong không gian sống gần gũi với thiên nhiên và điều thú vị là được thưởng thức những món ăn địa phương của người dân tộc rất lạ miệng, rất ngon và hấp dẫn làm cho chuyến đi rất có ý nghĩa vì trong việc đi chơi nghỉ dưỡng vui thích của riêng mình mà lại giúp được phần nào đó cho người dân tộc ở vùng cao. Nguồn: www.hiddensapa.com
SUỐI MƯỜNG HOA Đi du lịch Sapa (Lào Cai), nhiều người đã từng lên Thác Bạc, được chiêm ngưỡng vẻ hùng vĩ của ngọn thác này và đây chính là ngọn nguồn của con suối với cái tên rất đẹp Mường Hoa. Suối Mường Hoa trải dài khoảng 15 km dọc theo thung lũng Mường Hoa, qua các xã Lao Chải, Tả Van, Hầu Thào và kết thúc ở Bản Hồ. Dòng suối như con trăn khổng lồ ngoằn ngoèo, uốn lượn bên những triền ruộng bậc thang. Vào mùa lúa chín, sắc vàng từ những tràn ruộng soi bóng xuống dòng nước trong xanh làm tôn thêm vẻ đẹp huyền ảo của thung lũng Mường Hoa. Mường Hoa buổi bình minh (Ảnh: Internet) Đổ về dòng suối này có khoảng 22 con suối nhỏ bắt nguồn từ những cánh rừng, khe núi khiến dòng suối này bốn mùa tuôn chảy. Để dễ dàng qua lại đôi bờ, những cư dân ven suối đã làm những chiếc cầu mây vắt ngang dòng suối bên những cây cổ thụ rêu phong. Những chiếc cầu mây đã góp phần điểm tô cho dòng suối và cũng là nơi thu hút khá nhiều khách du lịch. Suốt chiều dài của suối có rất nhiều vực, thác với những phiến đá trắng như được bàn tay vô hình kỳ cọ, xếp đặt công phu. Trước đây, đoạn suối ở Tả Van rộng, bằng phẳng đã trở thành bãi tắm lý tưởng. Vào ngày cuối tuần, từ Sa Pa mọi người đổ về đây để ngụp lặn trong dòng nước mát. Người già kể rằng: Vài chục trăm về trước, hai bên bờ suối có rất nhiều cây cổ thụ, dưới những hốc cây là nơi cư ngụ của họ hàng nhà cá. Cá ở suối Mường Hoa nhiều vô kể, có con nặng tới một yến. Vào mùa tháng 2 – 3 (âm lịch) khi ngọn gió nồm xua tan giá lạnh của vùng cao, trai bản trên gái làng dưới tối tối lại rủ nhau ra suối bắt cá, cả khúc suối huyên náo bởi tiếng nói cười rộn rã. Họ dùng đá ném xuống suối để lũ cá hoảng sợ chạy trốn vào hốc đá rồi xuống suối mò cá. Bắt cá chỉ là cái cớ để các chàng trai nắm tay cô gái. Tay trong tay, ánh mắt trao nhau nồng nàn, đắm đuối và tình yêu bắt đầu từ dòng suối Mường Hoa. Nguồn: www.hiddensapa.com
ĐỈNH FANSIPAN Đỉnh Fansipan nằm trong dãy núi Hoàng Liên Sơn, về phía tây nam thị trấn Sapa, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai. Fansipan là ngọn núi cao nhất trong dãy núi Hoàng Liên Sơn với độ cao 3.143m. Đây là một bảo tàng thiên nhiên kỳ vĩ, ẩn chứa cả một thảm thực vật với nhiều loài đặc hữu Với chiều dài 280km từ Phong Thổ đến Hòa Bình, chiều ngang chân núi rộng nhất khoảng 75km, hẹp là 45km, gồm ba khối, khối Bạch Mộc Lương Tử, khối Fansipan và khối Pú Luông. Cả mái nhà đồ sộ này ẩn chứa bao điều kỳ lạ, nhưng kỳ lạ và bí ẩn nhất, chính là đỉnh Fansipan… Dưới chân núi là những cây gạo, cây mít, cây cơi với mật độ khá dầy tạo nên những địa danh Cốc Lếu (Cốc Gạo), Cốc San (Cốc Mít)… Từ đây đến độ cao 700m là vành đai nhiệt đới có những vạt rừng nguyên sinh rậm rạp, dây leo chằng chịt. Từ 700m trở lên là tầng cây hạt trần như cây pơmu, có những cây ba, bốn người ôm không xuể, cao khoảng 50-60m, tuổi đời tới vài trăm năm. Pơmu (ngọc am) được mệnh danh là mỏ vàng của Lào Cai. Bên cạnh pơmu, còn nhiều loại gỗ quý hiếm khác như: lãnh sam, thiết sam, liễu sam, kim sam, thông đỏ, hoàng đàn…Các cây lá kim ken đầy với cây gỗ nhỏ trụi, thân luôn sũng nước vì càng lên cao, càng hay mưa, có năm cả Fansipan mưa suốt một tháng liền. Xen lẫn với rừng lá kim, là các loại hoa đỗ quyên, phong lan, hoàng anh rực rỡ. Hầu như bốn mùa, cả Sapa đều ngập tràn trong muôn sắc các loài hoa: lay ơn, thược dược, bgônha, estcola… là những thứ hoa dưới đồng bằng hiếm có. Riêng hoa đỗ quyên có tới bốn chi với hai chục loài khác nhau. Có nơi đỗ quyên chi chít, rực rỡ cả núi rừng. Ở nước ta có 111 chi phong lan và 643 loài thì riêng Fansipan có tới 330 loài. Nhìn về Sapa (Ảnh: Internet) Lên cao 2.400m, gió mây quyện hoà với cây rừng, có lúc xòe tay ta tưởng đã nắm được mây. Từ độ cao 2.800m, mây mù bỗng tan biến, bầu trời quang đãng, trong xanh. Chỉ có gió thổi làm cho thảm thực vật phải dán mình vào đá. Phủ kín mặt đất là trúc lùn, những bụi trúc thấp khoảng 25-30cm, cả thân cây trơ trụi, phần ngọn có một chút lá phất phơ, nên loài trúc này gọi là trúc phất trần. Xen kẽ là một số cây thuộc họ cói, họ hoa hồng, họ hoàng liên…Đất xương xẩu trơ cả gốc, gió thổi không ngớt, khí hậu lạnh giá… Trên điểm cao 2.963m có cột mốc đánh dấu năm 1905 người Pháp đã tới chinh phục đỉnh cao. Lên cao nữa là một khối đá khổng lồ, được kê lên bởi những hòn đá nhỏ tựa chiếc bàn. Đỉnh Fansipan đấy! Tiếng địa phương gọi Hua-si-pan, nghĩa là phiến đá lớn khổng lồ nằm chênh vênh. Đỉnh Fansipan cao ngất giữa trời mây được kết cấu bởi những phiến đá như vậy. Fansipan được ví là nóc nhà Việt Nam và của Đông Dương sừng sững đang chinh phục lòng ham mê leo núi của các du khách ưa mạo hiểm. Nguồn: www.hiddensapa.com
ĐÁ VỢ CHỒNG Đá vợ đá chồng nằm trong khu di tích Bãi đá cổ Sa Pa, thuộc thung lũng Mường Hoa, xã Hầu Thào, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Đá vợ đá chồng là một cặp đá có tư thế đang hướng về nhau, đang tìm đến nhau. Hai tảng đá có liên quan đến truyền thuyết về mối tình thủy chung của đôi trai gái vượt lên mọi gian nan, thử thách, mong tìm đến với nhau và được sống hạnh phúc, nhưng khi sắp sửa gặp nhau thì họ đều đã bị hóa đá. Phía đầu bãi đá khắc cổ cạnh con đường trục chính liên xã (cũ) có một tảng đá nằm dưới vùng sình lầy. Hòn đá có hình người nằm phủ phục, đầu quay xuống phía hạ huyện. Ở cuối bãi đá đó, cách chừng 2km, có tảng đá lớn cũng hình người nằm phủ phục, đầu quay lên, hai tảng đá có hình dáng giống nhau. (Ảnh: Internet) Đồng bào Hmông ở quanh vùng Hầu Thào - Tả Van có kể lại: Từ lâu lắm rồi, ở mãi phương Bắc xa xôi đã xảy ra một cuộc chiến thảm khốc giữa hai bộ tộc. Kẻ chiến thắng là một tộc trưởng tàn ác, hắn còn có một tên phù thủy gian manh làm quân sư. Tên quân sư gian manh rắp tâm chiếm đoạt người con gái độc nhất của tộc trưởng. Nàng tiểu thư xinh đẹp - con gái tộc trưởng lại đem lòng yêu chàng trai con tộc trưởng chiến bại trong cuộc chiến tranh vừa qua. Những ngày hai bộ tộc còn chung sống hòa bình thì tình yêu của đôi trai gái đẹp biết bao. Nghe lời xúc xiểm của tên quân sư, chiến tranh giữa hai bộ tộc đã xảy ra. Dù vậy, đôi trai gái vẫn quyết tâm bảo vệ hạnh phúc và họ đã cùng nhau trốn chạy về hướng nam mong rằng sẽ tìm được hạnh phúc ở nơi xa lạ. Được tin, tộc trưởng huy động quân lính đuổi theo. Tên phù thủy quân sư uất ức nguyện rằng: Nếu hai đứa trẻ đến suối Kim Hoa mà thoát vào đêm thứ mười thì hắn sẽ chọn thất bại. Nếu ngày mười một mà chưa qua suối Kim Hoa thì đôi trẻ sẽ hóa đá. Đêm thứ mười đôi trai gái đến thượng nguồn suối Kim Hoa (nay là đất Tả Van - Hầu Thào) thì cô gái không may sa xuống bãi sình lầy còn chàng trai đã vượt qua bãi sình lầy, không thấy cô gái, chàng trai liền quay lại để tìm, chạy được một quãng, mệt quá, chàng gục xuống. Trời sáng, chàng hóa đá đầu vẫn quay về phương Bắc - nơi người vợ còn ở đó. Còn cô gái cũng đã hóa đá đầu quay về hướng nam như cố chạy theo chồng. Vì thế, tảng đá chồng lớn hơn tảng đá vợ và chúng có hình dạng giống nhau. Người già trong vùng nói rằng hai tảng đá hình như vẫn lần tìm đến nhau. Ở phía phải và trái của hai tảng đá vẫn tồn tại hai cánh rừng nhỏ, cả hai cánh rừng đều có những cây cổ thụ và có hai miếu thờ, một của đồng bào Giáy, một của đồng bào Hmông thờ mối tình chung thủy của chàng trai, cô gái. Nguồn: www.hiddensapa.com
CẦU MÂY - TẢ VAN Cầu Mây đang trở thành điểm đến hấp dẫn của nhiều du khách. Nó hấp dẫn vì chính vẻ đẹp đơn thuần của nó. Với những du khách hay bạn trẻ muốn có những kiểu ảnh độc đáo, thì cây cầu này cũng là một trong những điểm thú vị để săn ảnh. Đối ngượi với sự hiện đại của các cây cầu treo hay bê tông là vẻ đẹp đơn sơ và gần gũi của nó. Một cây cầu thân thiên, một cây cầu văn hoá và một cây cầu nối tình du khách với người dân bản địa. Các cô gái và phụ nữ dân tộc Dao đỏ qua cầu (Ảnh: Internet) Cầu Mây cách thị trấn Sapa khoảng 17 km về phía Đông Nam, từ đường lớn, du khách đi theo con đường mới mở tuy hơi dốc và cua nhiều, nhưng đường đến Tả Van giờ đã được mở rộng rất thuận tiện. Cây cầu nổi tiếng làm bằng dây mây này giờ chỉ phục vụ cho du lịch vì đã có một cây cầu bằng gỗ, vững chãi nằm song song với cây cầu cũ an toàn hơn. Xưa kia, Cầu Mây là cây cầu duy nhất nếu muốn đi từ xã Tả Van đến trung tâm huyện Sapa. Nếu bạn đứng từ dưới dòng suối ngước lên ngắm cây cầu sẽ cảm nhận được sự thanh bình của bản làng vùng cao. Thi thoảng vài cô gái người Dao, Giáy trong trang phục truyền thống cầm ô làm mẫu cho những đoàn khách chụp ảnh lưu niệm trên cầu tạo nên cảnh tượng vô cùng đẹp. Để đi qua chiếc cầu này đòi hỏi du khách phải có lòng dũng cảm, vì mỗi ván cách nhau cỡ 20cm. Dù khó khăn là vậy, nhưng nhiều đôi uyên ương hay bạn trẻ từ Hà Nội vẫn lên để chụp những bức ảnh cưới trên Cầu Mây. Giờ đây, Cầu Mây đã trở thành điểm đến lý tưởng không chỉ của du khách trong và ngoài nước, mà còn là nơi hẹn hò của nhiều bạn trẻ bên dòng suối Mường Hoa thì thầm chảy. Nguồn: www.hiddensapa.com
ĐỀN ÔNG HOÀNG BẢY Truyền thuyết về Đền ông Hoàng Bảy, xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, Lào Cai Lào Cai có nhiều khu đền nổi tiếng và linh thiêng cho du khách hành hương thập phương, đặc biệt trong các dịp lễ Tết. Nhắc đến Du lịch tâm linh Sapa, Lào Cai là du khách sẽ nghĩ ngay đến các danh thắng di tích như: Đền ông Hoàng Bảy thuộc xã Bảo Hà (Bảo Yên, Lào Cai), đền Mẫu thượng ngàn thuộc thành phố Lào Cai hay đền hàng phố thuộc thị trấn Sapa. Đền ông Hoàng Bảy – hay còn gọi là đền Bảo Hà – di tích nằm trên ngọn núi Cấm thuộc xã Bảo Hà (Bảo Yên, Lào Cai) là một điểm đến hấp dẫn du khách tour du lich sapa vì nhiều lý do, trong đó có những câu chuyện truyền kỳ khó tin. >>>Xem thêm: Đến Sapa nơi gặp gỡ đất trời Ông Hoàng Bảy thực sự là ai cho đến nay vẫn là một ẩn số, dù trong dân gian có nhiều câu chuyện truyền kỳ khác nhau giải đáp điều này. Người Bảo Hà chỉ biết ông Hoàng Bảy là thần vệ quốc – một vị anh hùng của miền sơn cước từng đánh giặc phương Bắc bảo vệ nhân dân. Khi ông mất, đền thờ ông được xây dựng trên ngọn núi Cấm, quay mặt ra phía sông Hồng, đúng thế “tựa sơn đạp thủy” để trấn yểm cho vùng đất biên giới được bình yên, thịnh vượng. Một trong số các truyền thuyết kể rằng, vào cuối đời Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786) khắp vùng Quy Hóa gồm Châu Thủy Vỹ và Châu Văn Bàn (thuộc Yên Bái, Lào Cai hiện nay) thường xuyên bị giặc phương Bắc tràn sang cướp phá, khắp vùng loạn lạc, cư dân điêu tàn. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Hoàng Bảy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến đấu không cân sức, tướng Hoàng Bảy anh dũng hy sinh. Thi thể ông trôi theo dòng sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng đã vớt xác, an táng ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của vị anh hùng. Đền Bảo Hà lưng tựa vào núi, mặt hướng theo dòng nước sông Hồng và nơi đây còn có sự kết hợp hài hòa giữa cảnh quan thiên nhiên với kiến trúc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam theo thuyết phong thủy. Đến thờ thần vệ quốc Hoàng Bẩy, vị anh hùng miền sơn cước đánh giặc phương Bắc bảo vệ dân làng. >>>Xem thêm: Khám phá tu viện cổ Tả Phìn Truyền thuyết kể rằng, Ông Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, cuối thời Lê. Vào cuối đời Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740 – 1786 ) khắp vùng Qui Hóa gồm Châu Thủy Vĩ và Châu Văn Bàn (thuộc Lào Cai bây giờ) luôn bị giặc phương Bắc tràn sang cướp phá, khắp vùng loạn lạc, cư dân điêu tàn. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Hoàng Bẩy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến đấu không cân sức Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Nhân dân trong vùng đã vớt, an táng thi thể ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của ông. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã, từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội. Sau này khi hiển linh ông được giao quyền cho trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn rất ăn chơi, phong lưu: khi thanh nhàn ông ngả bàn đèn, uống trà mạn Long Tỉnh, ngồi chơi tổ tôm, tam cúc, xóc đĩa… lúc nào cũng có thập nhị tiên nàng hầu cận, ông cũng luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu Trấn An Hiển Liệt và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: Thần Vệ Quốc – Ông Hoàng Bảy Bảo Hà. >>>Xem thêm: Tham quan di tích lịch sử đền Bảo Hà ở Lào Cai Đền thờ Ông Hoàng Bảy được lập tại nơi năm xưa di hài của ông lưu lại là Đền Bảo Hà, nằm ở chân đồi Cấm, bên bờ thượng lưu sông Hồng, ở bên bến phà Trái Hút, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Vì thú chơi phong lưu của ông nên nơi ông ngự còn được mệnh danh là Trái Hút Bảo Hà. Hội đền Bảo Hà được tổ chức vào ngày 17/7 âm lịch hàng năm. Vào ngày này có đông đảo du khách thập phương đến dự. Người ta thường dâng ngựa xám, bàn đèn, thuốc cống, kẹo xìu (kẹo lạc)…. Ngoài những ngày lễ hội, vào những ngày thường (đặc biệt là vào mùa xuân) khách thập phương trong cả nước vẫn thường xuyên tụ họp về đây để thắp hương tưởng niệm, cầu an, cầu lộc. Đến thăm di tích đền Bảo Hà rất thuận lợi vì có nhiều đường giao thông đi lại. Hiện nay, đền đã và đang được đầu tư xây dựng bằng nguồn tiền công đức và ngân sách Nhà nước để địa chỉ du lịch tâm linh này ngày càng hoàn thiện hơn, đáp ứng nhu cầu của du khách gần xa. Nếu có đến Sapa hãy đến đền ông Hoàng Bảy tham quan khu di tích này và tìm hiểu về sự tích đền ông Hoàng Bảy nhé. Chúc quý khách có một chuyến du lịch vui vẻ. >>>Xem thêm: Tham quan di tích lịch sử đền Mẫu thượng ngàn thành Phố Lào Cai. Nguồn: www.hiddensapa.com
BẢN PHỐ Bản Phố là một xã vùng cao thuộc huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Đến đây, du khách vừa được thưởng ngoạn cảnh đẹp núi rừng vùng cao vừa được thưởng thức đặc sản Bản Phố, đặc biệt là rượu ngô Bản Phố. Từ thị trấn Bắc Hà, rong ruổi trên con đường quanh co, uốn lượn bám vào sườn núi Hoàng Liên Sơn khoảng 4km, phía dưới là thung lũng xanh mướt một màu của ngô và lúa non...; hai bên đường là những cánh rừng mận Tam hoa ngút tầm mắt đang mùa trĩu quả, du khách sẽ tới xã Bản Phố. Nhìn từ xa, Bản Phố giống như một bức tranh đẹp và sinh động: Hòa lẫn trong màu xanh bạt ngàn của núi rừng trùng điệp, là những nếp nhà của người Mông giống như những tổ chim bám vào sườn núi. Đường về bản Phố (Ảnh: Internet) Bản Phố là địa danh quần cư lâu đời của người Mông, có khoảng hơn 500 hộ gia đình với trên 3.000 nhân khẩu. Theo tiếng Quan Hoả - thứ ngôn ngữ chung của một số dân tộc sống trên dải biên cương phía bắc, từ “Phố” dùng để chỉ nơi tập trung dân cư và có hàng quán. Người Mông Bản Phố sống ở nhà trệt với cấu trúc theo lối xứ lạnh: Họ làm nhà ở trên cao, bám vào vách đá hay sườn núi, nền nhà của họ thường thấp hơn và kín gió, nguyên liệu làm nhà chủ yếu là bằng gỗ; trong nhà luôn có lò sưởi, có thịt sấy ăn quanh năm, có món "mèn mén", món "thắng cố" độc đáo. Người Mông thích sử dụng nhiều loại nhạc cụ, đặc trưng nhất là khèn và đàn môi. Vào những dịp Tết hay những ngày chợ phiên, các nam thanh nữ tú người Mông thường thổi khèn gọi bạn và cất lên những câu hát giao duyên. Trang phục của người Mông ở Bản Phố khá đặc sắc. Họ may bằng vải lanh tự dệt. Nữ mặc váy xoè rộng, áo xẻ ngực với những họa tiết hoa văn sinh động, tạp dề trước và sau, xà cạp quấn chân. Nam mặc quần, áo chủ yếu là màu đen. Người Mông sống nhờ vào nghề làm nương rẫy du canh, trồng lúa nước trên những ô ruộng bậc thang, trồng lanh lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Bên cạnh đó, người Mông Bản Phố còn sở hữu một loại sản phẩm thủ công đặc trưng, hiện nay đã nổi danh trong cả nước và thu hút nhiều du khách quốc tế, đó là sản phẩm rượu ngô Bản Phố. Bước vào ngôi nhà của người Mông Bản Phố, du khách sẽ thấy ngay một gian bếp nằm ở đầu hồi; đây chính là nơi nấu rượu. Hương ngô, hương rượu thoang thoảng khắp không gian vùng cao, nhất là vào dịp chợ phiên Bắc Hà, Cán Cấu và những ngày giáp Tết. Rượu Bản Phố (Ảnh: Internet) Về phương thức, rượu Bản Phố không cần làm cầu kỳ, phức tạp; tuy nhiên, để có hương vị mang đặc trưng riêng của vùng Bản Phố, loại rượu này cần phải có bí quyết gia truyền mà nếu có đem công thức đến nơi khác làm cũng không tạo được hương vị như ở nơi đây Theo người dân Bản Phố cho biết, để có được rượu ngô Bản Phố; trước tiên, ngô phải được trồng và phát triển nhờ vào khí hậu nơi đây. Khi đến giai đoạn làm rượu, người ta phải lấy nước từ dòng suối Hang Dể, phải ngâm ngô trong sương lạnh nơi Bản Phố và phải dùng hạt Hồng my - loại hạt có hình thù giống hạt kê và có mùi thơm đặc biệt, được trồng xen kẽ trên các nương ngô, dùng để làm men rượu. Dụng cụ dùng để nấu rượu là một chảo gang lớn, được quây xung quanh bằng chiếc thùng gỗ đóng đai rất kín, đặt trên lò đất đắp rộng chừng 3m² và lửa phải cháy liên tục, như vậy mới đảm bảo được chất lượng của rượu. Cứ 3kg ngô là làm được 1 lít rượu khoảng 40-45º, có nhà làm kỹ được loại rượu 60º, mỗi nhà mỗi phiên chợ thường nấu khoảng 20 lít. Điểm đặc biệt khi đến Bản Phố, khi du khách bước vào bếp của người Mông trong lúc họ đang nấu rượu, du khách sẽ thấy ở trên trần bếp treo lủng lẳng nhiều xâu thịt đủ loại: trâu, bò, dê, lợn... Đây là thứ thịt xông khói rượu có hương vị cực kỳ đặc biệt mà có lẽ không đâu có được. Không những thế, chủ nhà còn rất ân cần mời du khách thưởng thức ly rượu vừa mới cất xong vẫn còn hơi ấm với đồ nhằm là đĩa thịt hun khói rượu. Cùng với mận Tam Hoa, lê, đào, rượu ngô Bản Phố đã theo chân du khách khắp mọi miền đất nước, dù chỉ uống một lần hẳn nhớ mãi không quên. Nguồn: www.hiddensapa.com
BẢN PHỐ Bản Phố là một xã vùng cao thuộc huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Đến đây, du khách vừa được thưởng ngoạn cảnh đẹp núi rừng vùng cao vừa được thưởng thức đặc sản Bản Phố, đặc biệt là rượu ngô Bản Phố. Từ thị trấn Bắc Hà, rong ruổi trên con đường quanh co, uốn lượn bám vào sườn núi Hoàng Liên Sơn khoảng 4km, phía dưới là thung lũng xanh mướt một màu của ngô và lúa non...; hai bên đường là những cánh rừng mận Tam hoa ngút tầm mắt đang mùa trĩu quả, du khách sẽ tới xã Bản Phố. Nhìn từ xa, Bản Phố giống như một bức tranh đẹp và sinh động: Hòa lẫn trong màu xanh bạt ngàn của núi rừng trùng điệp, là những nếp nhà của người Mông giống như những tổ chim bám vào sườn núi. Đường về bản Phố (Ảnh: Internet) Bản Phố là địa danh quần cư lâu đời của người Mông, có khoảng hơn 500 hộ gia đình với trên 3.000 nhân khẩu. Theo tiếng Quan Hoả - thứ ngôn ngữ chung của một số dân tộc sống trên dải biên cương phía bắc, từ “Phố” dùng để chỉ nơi tập trung dân cư và có hàng quán. Người Mông Bản Phố sống ở nhà trệt với cấu trúc theo lối xứ lạnh: Họ làm nhà ở trên cao, bám vào vách đá hay sườn núi, nền nhà của họ thường thấp hơn và kín gió, nguyên liệu làm nhà chủ yếu là bằng gỗ; trong nhà luôn có lò sưởi, có thịt sấy ăn quanh năm, có món "mèn mén", món "thắng cố" độc đáo. Người Mông thích sử dụng nhiều loại nhạc cụ, đặc trưng nhất là khèn và đàn môi. Vào những dịp Tết hay những ngày chợ phiên, các nam thanh nữ tú người Mông thường thổi khèn gọi bạn và cất lên những câu hát giao duyên. Trang phục của người Mông ở Bản Phố khá đặc sắc. Họ may bằng vải lanh tự dệt. Nữ mặc váy xoè rộng, áo xẻ ngực với những họa tiết hoa văn sinh động, tạp dề trước và sau, xà cạp quấn chân. Nam mặc quần, áo chủ yếu là màu đen. Người Mông sống nhờ vào nghề làm nương rẫy du canh, trồng lúa nước trên những ô ruộng bậc thang, trồng lanh lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Bên cạnh đó, người Mông Bản Phố còn sở hữu một loại sản phẩm thủ công đặc trưng, hiện nay đã nổi danh trong cả nước và thu hút nhiều du khách quốc tế, đó là sản phẩm rượu ngô Bản Phố. Bước vào ngôi nhà của người Mông Bản Phố, du khách sẽ thấy ngay một gian bếp nằm ở đầu hồi; đây chính là nơi nấu rượu. Hương ngô, hương rượu thoang thoảng khắp không gian vùng cao, nhất là vào dịp chợ phiên Bắc Hà, Cán Cấu và những ngày giáp Tết. Rượu Bản Phố (Ảnh: Internet) Về phương thức, rượu Bản Phố không cần làm cầu kỳ, phức tạp; tuy nhiên, để có hương vị mang đặc trưng riêng của vùng Bản Phố, loại rượu này cần phải có bí quyết gia truyền mà nếu có đem công thức đến nơi khác làm cũng không tạo được hương vị như ở nơi đây Theo người dân Bản Phố cho biết, để có được rượu ngô Bản Phố; trước tiên, ngô phải được trồng và phát triển nhờ vào khí hậu nơi đây. Khi đến giai đoạn làm rượu, người ta phải lấy nước từ dòng suối Hang Dể, phải ngâm ngô trong sương lạnh nơi Bản Phố và phải dùng hạt Hồng my - loại hạt có hình thù giống hạt kê và có mùi thơm đặc biệt, được trồng xen kẽ trên các nương ngô, dùng để làm men rượu. Dụng cụ dùng để nấu rượu là một chảo gang lớn, được quây xung quanh bằng chiếc thùng gỗ đóng đai rất kín, đặt trên lò đất đắp rộng chừng 3m² và lửa phải cháy liên tục, như vậy mới đảm bảo được chất lượng của rượu. Cứ 3kg ngô là làm được 1 lít rượu khoảng 40-45º, có nhà làm kỹ được loại rượu 60º, mỗi nhà mỗi phiên chợ thường nấu khoảng 20 lít. Điểm đặc biệt khi đến Bản Phố, khi du khách bước vào bếp của người Mông trong lúc họ đang nấu rượu, du khách sẽ thấy ở trên trần bếp treo lủng lẳng nhiều xâu thịt đủ loại: trâu, bò, dê, lợn... Đây là thứ thịt xông khói rượu có hương vị cực kỳ đặc biệt mà có lẽ không đâu có được. Không những thế, chủ nhà còn rất ân cần mời du khách thưởng thức ly rượu vừa mới cất xong vẫn còn hơi ấm với đồ nhằm là đĩa thịt hun khói rượu. Cùng với mận Tam Hoa, lê, đào, rượu ngô Bản Phố đã theo chân du khách khắp mọi miền đất nước, dù chỉ uống một lần hẳn nhớ mãi không quên. Nguồn: www.hiddensapa.com
CHỢ CAO SƠN Chợ Cao Sơn nằm trên địa phận xã Cao Sơn, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai, cách Tp. Lào Cai khoảng 80km. Đến đây, du khách sẽ có dịp được giao lưu, trò chuyện và tìm hiểu thêm về đời sống sinh hoạt của đồng bào dân tộc sống ở 4 bản lớn nhất của huyện Mường Khương. Để đến chợ Cao Sơn, du khách có thể đi theo nhiều tuyến đường. Tuy nhiên, nếu du khách muốn có dịp được du thuyền trên sông và hòa mình vào phong cảnh thiên nhiên nên thơ, hữu tình: trên là trời, dưới là nước và hai bên bờ sông là núi rừng tây bắc hùng vĩ xanh mướt một màu, mời du khách tham gia tuyến du lịch trên dòng sông Chảy: Bảo Nhai - Cao Sơn. Từ Tp. Lào Cai, theo quốc lộ 4D, du khách sẽ đến xã Phong Niên, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Tiếp tục đi theo tỉnh lộ 153, du khách sẽ đến bến thuyền chân cầu Bảo Nhai, xã Bảo Nhai, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai. Từ đây, ngược dòng sông Chảy lên phía bắc khoảng 31km, du khách sẽ đến chợ Cao Sơn. Chợ Cao Sơn là chợ của đồng bào dân tộc Mông, Phù Lá, Dao và Hán đen sinh sống ở 4 bản lớn nhất của huyện Mường Khương. Mỗi tuần chợ chỉ họp một phiên vào ngày thứ tư. Khi vào phiên chợ, ngay từ sáng sớm, trên khắp mọi nẻo đường đã thấy người người từ các bản nối tiếp nhau về chợ. Họ đi thành từng đoàn, từng nhóm, từng cặp và có khi là từng người một. Người thì gùi hàng, người thì dùng ngựa để thồ hàng, người thì xuống chợ bằng xe máy, xe đạp… Váy áo xúng xính, những chiếc ô xoè ra như nấm trên đầu các thiếu nữ Mông, Dao... với những hoa văn tinh tế, màu sắc sặc sỡ, tạo nên bức tranh đầy sinh động và quyến rũ. (Ảnh: Internet) Chợ Cao Sơn như đẹp hơn bởi người, hàng hóa và phong cảnh thiên nhiên. Trong không gian bao la, mênh mông của núi rừng, mọi người thật nhỏ bé... Họ vô tư mua, bán, trao đổi hàng hóa lẫn nhau. Người mua gạo, người mua thổ cẩm, người mua rau, củ, quả, người thưởng thức một số món đặc sản vùng cao... Cũng giống như một số phiên chợ vùng cao khác. Chợ Cao Sơn được chia thành nhiều khu: Những mặt hàng mang đậm hương vị núi rừng như: các loại rau quả, thảo dược, nấm hương, mộc nhĩ, mật ong, rượu ngô, gạo nương, đồ dùng gia đình, trang sức... tập trung thành một khu, được sắp xếp đẹp mắt theo từng loại mặt hàng. Trong khung cảnh đa sắc màu ấy, nổi bật lên là dãy bày bán các mặt hàng thổ cẩm với những màu sắc sặc sỡ, họa tiết sinh động. Đây là những sản phẩm tinh tế thể hiện tài năng khéo léo từ việc ươm trồng lanh, ủ sợi, dệt vải, nhuộm đến thêu hoa của người phụ nữ Mông, phụ nữ Phù Lá và phụ nữ Dao. Tuy nhiên gây sự chú ý nhất vẫn là khu bán gia súc, gia cầm như: Trâu, bò, lợn, gà, chó, ngựa... Không khí trong khu vực này thật náo nhiệt, người mua, kẻ bán, đứng, ngồi rải rác và cùng thỏa thuận mua bán với nhau. Cách đó vài trăm mét là khu dành cho các món ăn của người dân tộc. Đến đây, du khách sẽ dễ bị choáng ngợp bởi hương vị quyến rũ từ một số loại ẩm thực như: mùi thơm ngầy ngậy của chảo thắng cố từ thịt trâu, thịt ngựa và thịt bò... của người Mông, hơi men cay cay nồng nồng của một số loại rượu dân tộc như: rượu ngô Cốc Dâm, Cốc Ngù... Trong không khí náo nhiệt và hấp dẫn đó, du khách sẽ phải dừng chân, ngồi xuống và cùng người dân tộc thưởng thức ẩm thực của họ. Đến với chợ phiên Cao Sơn là du khách có dịp tận hưởng sự giao thoa bản sắc văn hóa của một số dân tộc anh em sống ở bản làng ven sông Chảy, trên địa phận huyện Mường Khương. Bên cạnh đó, du khách còn có dịp du thuyền trên sông Chảy và thưởng ngoạn cảnh đẹp ở hai bên bờ sông. Nguồn: www.hiddensapa.com