Quá trình tiêu hóa thức ăn trong cơ thể Trong quá trình sống chúng ta ăn, uống đủ các loại thức ăn như chất đạm, đường, mỡ, các loại vitamin muối khoáng…vậy thức ăn được tiêu hóa như thế nào?. Hiểu biết về quá trình tiêu hóa, hấp thụ thức ăn của cơ thể sẽ giúp cho con người biết cách ăn uống hợp lý giúp cho quá trình tiêu hóa được tốt hơn. Hệ thống cơ quan tiêu hóa ở con người bao gồm miệng-thực quản-dạ dày- ruột ( non-đại tràng-trực tràng)-hậu môn. Bên cạnh đó là các loại dịch tiêu hóa, men tiêu hóa ( enzyme) có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tiêu hóa thức ăn. I. Miệng Miệng có chức năng tiếp nhận thức ăn, nghiền xé, nhào trộn thức ăn với nước bọt để tạo thành viên nuốt. Phản xạ muối là tự động nên khi ăn phải nhai kỹ để khỏi bị nghẹn. Dịch tiêu hóa ở miệng là nước bọt, do các tuyến nước bọt tiết ra gồm men amylase, chất nhầy ( mucine), men khử khuẩn lysozym và rất ít men maltase. Trong nước bọt không có men tiêu hóa lipid và protid. Men amylase có tác dụng biến tinh bột chín thành đường dextrin, maltriose và maltose. Men maltase trong nước bọt biến maltose thành glucose. Kết quả tiêu hóa ở khoang miệng các chất protid, lipid chưa được phân giải chỉ có một phần tinh bột chín được phân giải thành đường maltoza. Tuy vậy, thời gian thức ăn lưu ở khoang miệng rất ngắn ( 15-18 giây) nên sự phân giải đó không đáng kể và chưa có hiện tượng hấp thu. II.Dạ dày Trong dạ dày có nhiều loại men tiêu hóa: men pepsin tiêu hóa protid, remin ( chymosin, presure) có tác dụng chuyển chất caseinogen thành casein và kết hợp với canxi tạo thành chất như váng sữa. Men này có tác dụng với trẻ em. Men lipase tiêu hóa lipid, men này hoạt động tốt ở môi trường kiềm, nhưng ở dạ dày hoạt động yếu, chỉ có tác dụng thủy phân những lipid đã nhũ tương hóa ( lipid của sữa, lòng đỏ trứng) biến chúng thành acid béo, monoglycerid, glycerol. Ở người lớn men này có tác dụng không đáng kể. Tác dụng của acid HCL dạ dày là hoạt hóa men pepsin, làm trương protid tạo điều kiện cho việc phân giải dễ dàng, kích thích nhu động dạ dày, tham gia vào cơ chế đóng tâm vị và đóng mở tâm vị, có tác dụng sát khuẩn chống lên men thối ở dạ dày, tham gia điều hòa bài tiết dịch vị, dịch tụy, dịch mật và dịch ruột thông qua sự kích thích bài tiết các loại men tiêu hóa của dạ dày, ruột. Dạ dày có 2 loại chất nhầy hòa tan trong dịch vị và không hòa tan cùng bicarbonat tạo nên một màng dai phủ kín toàn bộ niêm mạc dạ dày và hành tá tràng. Cả hai loại chất nhầy cùng bicarbonat có tác dụng trung hòa dịch acid, che chở bảo vệ niêm mạc dạ dày không bị phá hủy. Khi sự bài tiết chất nhầy và bicarbonat bị rối loạn, khả năng bảo vệ niêm mạc bị giảm, tạo điều kiện thuận lợi cho viêm loét dạ dày. Tá tràng phát triển đặc biệt là do xoắn khuẩn Helicobacteur lylori. Để tránh tác hại này không nên ăn rau sống, thức ăn tái, sống vì xoắn khuẩn sẽ xâm nhập qua thức ăn vào dạ dày gây loét. Một số loại thuốc aspirin, salyxilat, corticoid cũng dễ làm tổn thương niêm mạc dạ dày gây loét ( bệnh thiếu máu ác tính). Kết quả tiêu hóa ở dạ dày là thức ăn được biến thành một chất nhuyễn trong đó protid ( 10-20%) được phân giải thành các poly peptid ngắn hơn. Một phần lipid được nhũ hóa, phân giải thành mono glycerid và acid béo. Còn glucid hầu như chưa được tiêu hóa vì ở dạ dày không có men tiêu hóa glucid. III. Ruột non Tiêu hóa ở ruột non là giai đoạn quan trọng nhất. Ở ruột non, các chất thức ăn được phân giải tới mức đơn giản nhất nhờ tác dụng của các dịch tiêu hóa ( dịch tụy, dịch ruột, dịch mật). Dịch tụy tiêu hóa protid, lipid, glucid trong đó thủy phân tới trên 80% lượng glucid thức ăn. Thiếu dịch tụy sẽ gây rối loạn tiêu hóa và suy dinh dưỡng. Các acid mật , tồn tại dưới dạng muối mật ( với natri, kali) làm nhũ hóa lipid giúp tiêu hóa lipid. Dịch ruột có đủ các loại men tiêu hóa protid, glucid. Các men này thực hiện giai đoạn cuối cùng của quá trình tiêu hóa, biến các chất dinh dưỡng còn lại ở ruột non thành các phần tử đơn giản và hấp thu chúng. Sau quá trình tiêu hóa ở ruột non, thức ăn được biến thành dạng chất đặc sền sệt gọi là dưỡng chất trong đó protid biến thành acid béo, glycerol và một số chất khác, glucid ( hơn 90%) thủy phân thành glucose, fructose… Tất cả các chất này có thể hấp thu được vào cơ thể. Còn lại các chất xơ…( xellulose) và một phần nhỏ các chất chưa được tiêu hóa sẽ được đưa xuống ruột già và thải ra ngoài cơ thể. Lưu ý: Khi cơ thể khỏe mạnh, trạng thái hưng phấn, lạc quan, vui vẻ… các loại dịch, men tiết ra nhiều, tiêu hóa tốt hơn. Ngược lại khi ốm đau, lo lắng sợ hãi… mọi dịch tiết và men tiêu hóa đều suy giam, quá trình tiêu hóa sẽ chậm và kém hơn. Ths. Đỗ Hữu Hanh, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng chất lượng cao, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội - 70 Nguyễn Chí Thanh
Phát triển chiều cao của trẻ Chiều cao của trẻ là mối quan tâm hàng đầu của các bậc cha mẹ. Trong các giai đoạn phát triển của trẻ, để tăng trọng lượng cho bé là vấn đề không khó chỉ cần đảm bảo chế độ chăm sóc về dinh dưỡng, khẩu phần ăn uống và chăm sóc y tế…thật tốt là khắc phục được tình trạng gầy yếu của trẻ. Thậm chí, chăm sóc quá đà còn có thể dẫn tới tình trạng thừa cân béo phì cho trẻ. Các yếu tố ảnh hưởng đến chiều cao của trẻ bao gồm: Di truyền, dinh dưỡng, môi trường và một sốt yếu tố khác. Trong đó dinh dưỡng (31%-32%), di truyền (23%), rèn luyện thể lực (20%), môi trường sống, bệnh tật (25%-26%). Ngoại trừ yếu tố di truyền, con trẻ không thể cao lớn dược nếu thiếu dinh dưỡng, sống trong môi trường ô nhiễm ( khói thuốc lá, bụi, khói xe, than…) cũng như thường xuyên bị ốm đau và suốt ngày nhốt trong nhà. Sự tăng trưởng chiều cao của trẻ có 03 giai đoạn quan trọng nhất: Giai đoạn trong bào thai Giai đoạn dưới 02 tuổi Giai đoạn tiền dậy thì ( bé trai 13-16 tuổi), bé gái ( 10-13 tuổi). Nếu trẻ bị suy dinh dưỡng bào thai khi sinh ra nhẹ cân thiếu chiều cao thì sau này cũng rất khó cao được. Giai đoạn dưới 02 tuổi, trẻ bị suy dinh dưỡng nhất là suy dinh dưỡng thể thấp còi thì nguy cơ thấp lùn cũng rất lớn vì chiều cao lúc trẻ 02 tuổi bằng ½ chiều cao của trẻ lúc trưởng thành. Giai đoạn dậy thì rất quan trọng, ở giai đoạn này trẻ có thể cao được 10-15cm/ năm. Nếu trẻ được quan tâm chăm sóc dinh dưỡng tốt, tập các môn thể dục thể thao thích hợp ( chạy, bơi, tập xà….) thì có thể cải thiện đáng kể về chiều cao. Sữa là nguồn cung cấp canxi quan trọng, nhất là trẻ được nuôi đủ bằng sữa mẹ thì có cơ hội cao lớn hơn trẻ không có sữa mẹ vì canxi trong sữa mẹ dễ hấp thu hơn trong sữa bò, dê…Khi đã cai sữa mẹ, trẻ cần được bổ sung các loại sữa bột công thức theo tuổi hoặc uống sữa tươi khi bé đã lớn hơn 1 tuổi. Trẻ cần phải có chế độ dinh dưỡng hợp lý: ăn đủ năng lượng, đủ 04 nhóm với đa dạng các loại thực phẩm, cân đối thành phần các chất dinh dưỡng, cung cấp đủ các vitamin, khoáng chất nhất là các vi chất dinh dưỡng có liên quan đến phát triển chiều cao ( vitamin A, D, lysin, canxi, sắt, kẽm, iod…). Trẻ cần được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường sống sạch sẽ, trong lành, thoáng mát, thực phẩm sạch không bị ô nhiễm, hạn chế ốm đau, bệnh tật. Để xương phát triển tốt, cần cho bé tắm nắng hàng ngày, giúp da tổng hợp vitamin D giúp chuyển hóa canxi tạo điều kiện cho hormone tăng trưởng hoạt động tốt. Ths. Đỗ Hữu Hanh, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng chất lượng cao, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội - 70 Nguyễn Chí Thanh
Trẻ đi ngoài phân sống Đi ngoài phân sống là một trong những nguyên nhân khiến trẻ chậm tăng cân. Nếu hiện tượng này kéo dài lâu ngày, bé có thể bị còi xương, suy dinh dưỡng do hệ tiêu hóa hoạt động kém hiệu quả, không hấp thu đủ dưỡng chất cần thiết cho cơ thể phát triển toàn diện. I. Nguyên nhân trẻ đi ngoài phân sống. 1. Chế độ ăn không khoa học, thiếu cân bằng chất dinh dưỡng, dư thừa nhiều chất. Các bà mẹ thường cho con ăn nhiều chất đạm, béo…để con lớn nhanh. Tuy nhiên, chế độ ăn của con cần được xây dựng khoa học, cân bằng giữa các nhóm chất dinh dưỡng, giúp hệ tiêu hóa hoạt động ổn định. Nếu chế độ ăn của con quá nhiều chất đạm ( sữa, cá, thịt…) dư thừa chất béo ( dầu, mỡ), hoặc quá nhiều rau, củ, quả dẫn đến bé có thể bị rối loạn tiêu hóa ( táo bón, tiêu chảy). Mặt khác do không hấp thụ hết nên đi ngoài phân sống. 2. Dùng thuốc kháng sinh liên tục khiến hệ tiêu hóa bị tổn thương, tiêu diệt hệ lợi khuẩn đường ruột làm giảm khả năng hấp thu dưỡng chất của đường ruột dẫn đến tình trạng bé bị chậm tăng cân, còi xương, suy dinh dưỡng. 3. Môi trường sống không đảm bảo vệ sinh là nguyên nhân khiến hệ miễn dịch của trẻ giảm công suất hoạt động, suy giảm khả năng chống đỡ bệnh tật khiến bé hay bị ốm và phải điều trị bằng kháng sinh. Từ đó khiến hệ tiêu hóa của bé bị tổn thương và mắc phải các hiện tượng đi ngoài phân sống. II. Dấu hiệu cho thấy trẻ bị đi ngoài phân sống 1. Phân của bé rắn, lúc sền sệt hoặc nước riêng, phân riêng. 2. Trong phân lợn cợn hạt, nhầy bọt hoặc có cả những đồ ăn chưa tiêu hóa được. 3. Có màu ngả xanh ( màu dưa cải). III. Các mẹ phải làm gì khi bé đi ngoài phân sống. 1. Cho con đến bệnh viện khám, xét nghiệm để xác định chính xác nguyên nhân gây hiện tượng rối loạn tiêu hóa của bé. 2. Căn cứ vào kết quả xét nghiệm, kết luận tư vấn của bác sĩ, các mẹ thực hiện đúng chỉ dẫn trong việc sử dụng thuốc, các chế phẩm có ích cho đường ruột cùng chế độ ăn uống hợp lý sẽ giúp bé mau khỏi bệnh. 3. Áp dụng chế độ ăn uống, nghỉ ngơi và uống thuốc cho bé. Theo dõi tình trạng phân đi ngoài của con thường xuyên cho tới lúc khỏi bệnh. IV. Chế độ dinh dưỡng cho trẻ đi ngoài phân sống. 1. Ăn các thực phẩm giàu chất dinh dưỡng, dễ tiêu hóa như cháo ninh nhừ hoặc cháo xay với thịt gà, bò…, cà rốt, khoai tây, bí đỏ, giảm bớt lượng dầu mỡ ăn trong 1-2 tuần. 2. Tạm thời ngừng cho đồ ăn tanh ( tôm, cua, cá, lươn…) cho tới khi phân trở lại bình thường. 3. Hạn chế ăn đồ ăn khó tiêu: Ngô, đỗ, nước ngọt, nước có gas, đồ ăn nhanh. 4. Thức ăn cho con nấu nhừ băm nhỏ để dễ tiêu hóa. Không nên cho bé ăn quá nhiều trong một bữa. Khi đường ruột hoạt động bình thường trở lại, mẹ nên cho con ăn từ từ ít một. 5. Trong quá trình điều trị mẹ thường xuyên theo dõi phân của bé để có cách điều chỉnh chế độ ăn kịp thời. 6. Cho bé ăn thêm sữa chua hàng ngày, hoặc có thể bổ sung thêm các chủng vi khuẩn có lợi cho tiêu hóa của con bằng cốm vi sinh, vitamin, acid amin và các khoáng chất thiết yếu cho đường ruột khỏe mạnh giúp giải quyết hiệu quả tình trạng rối loạn tiêu hóa và kích thích trẻ ăn ngon một cách tự nhiên. BS. Hoàng Ngọc Anh, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng chất lượng cao, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội - 70 Nguyễn Chí Thanh
Cách sử dụng “váng sữa” trong quá trình chăm sóc trẻ nhỏ. Hiện nay các bà mẹ có con nhỏ thường xuyên lựa chọn các loại váng sữa nhập khẩu đang được bán rộng rãi trên thị trường. Họ cho rằng đây là sản phẩm tốt nhất, tinh túy nhất được chắt lọc từ sữa, có tác dụng tối ưu trong quá trình phát triển của trẻ. Trên thực tế, mọi suy nghĩ…của các mẹ là hoàn toàn sai lầm. Váng sữa là gì. Khi đun nóng sữa hoặc để yên sữa trong bình ( không đậy nắp) trong một khoảng thời gian nhất định sẽ nổi lên một lớp váng (milk scum) đó là một lớp phân tử chất béo nổi lên, kết thành một mảng lớn trên bề mặt của sữa. Lớp váng sữa này còn được gọi là kem sữa ( milk cream), sau khi tách đi lớp váng sữa này sẽ thu được sữa tách béo. Váng sữa còn gọi là “ kem chua” vì cứ để nguyên cho sữa tự đóng váng, trong thời gian đó vi khuẩn acid lactic có trong sữa sẽ lên men khiến cho váng sữa có vị chua ( vị chua nhẹ). Váng sữa sau khi tách khỏi sữa sẽ được đun nóng để tiệt trùng, sau đó được dùng để sản xuất các chế phẩm khác như bơ, phomat, kem tươi… Loại váng sữa có hàm lượng béo cao nhất ( 35%-50%) là váng sữa nguyên chất, ít khi dùng ăn trực tiếp vì nó rất béo mà chỉ dùng làm nguyên liệu để chế biến các món ăn khác như nấu súp, trộn salat, làm các món ăn tráng miệng. Thông thường, váng sữa được sử dụng phổ biến ở dạng có hàm lượng chất béo từ 10-30%. Các loại váng sữa đang bán rộng rãi trên thị trường là sản phẩm được chế biến từ váng sữa với lượng chất béo từ 6-15%. Đó là các sản phẩm đã được chế biến và thêm vào các thành phần phụ như hương liệu tạo màu, các loại hạt, chất làm đặc, chất ổn định…nên tên gốc không còn gọi là váng sữa mà là “ món tráng miệng làm từ sữa”, đó chỉ là chế phẩm từ váng sữa. Người ta đã quảng cáo một cách quá mức về hiệu quả của dòng sản phẩm váng sữa nhập khẩu về giúp trẻ chóng lớn, tăng cân, bổ sung năng lượng dồi dào, hàm lượng canxi khoáng chất cao…giúp trẻ phát triển chiều cao vượt trội. Điều này khiến các bậc cha mẹ lầm tưởng sản phẩm này là những gì tốt nhất được chắt lọc từ sữa. Thậm chí còn cho con ăn thay sữa. Trong thực tế, thành phần chính của sản phẩm này là chất béo, một lượng vừa phải chất đạm và canxi. Các vitamin (A,E,B2,B12,C,PD) và các khoáng chất (magie, sắt, kẽm, iot, đồng…) chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể, cho nên chỉ sử dụng như một dạng thực phẩm bổ sung năng lượng cho trẻ vậy nên không được dùng thay thế cho sữa mẹ và sữa công thức. Loại váng sữa nguyên chất có hàm lượng chất béo quá cao và không phù hợp với trẻ em, nếu dùng phải được chế biến, bổ sung thêm các nguyên liệu khác để dễ tiêu hóa. Các loại chế phẩm với hàm lượng chất bé từ 7-15% chỉ nên dùng cho trẻ sau 01 tuổi để tránh ảnh hưởng tới hệ tiêu hóa còn non yếu của trẻ. Nếu cho trẻ sau 01 tuổi ăn cũng chỉ nên dùng váng sữa làm bữa ăn phụ với hàm lượng hợp lý khoảng 1 hộp/ngày hoặc dùng cách nhật. BS. Hoàng Ngọc Anh, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng chất lượng cao, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội - 70 Nguyễn Chí Thanh
Nhu cầu năng lượng và khẩu phần ăn hợp lý cho cơ thể I. Nhu cầu năng lượng · Nhu cầu năng lượng của một cá thể là năng lượng do thức ăn cung cấp tương đương với năng lượng tiêu hao. - Nhu cầu năng lượng trung bình như sau: - Người lớn: 50kcal/kg trọng lượng cơ thể/ngày - Trẻ em : 100kcal/kg trọng lượng cơ thể/ngày II. Các chất sinh năng lượng - Protein: chức năng chủ yếu của protein trong cơ thể là tạo hình, ngoài ra còn bị đốt cháy để sinh ra năng lượng khi cơ thể thiếu năng lượng. Nhu cầu protein tùy thuộc vào lứa tuổi, chất lượng protein của thực phẩm ăn vào. Tuổi càng nhỏ nhu cầu protein càng cao. Protein động vật có giá trị sinh học cao hơn thực vật. - Lipid : là nguồn năng lượng cao, thành phần cấu trúc của nhiều tổ chức trong cơ thể đặc biệt là cấu trúc màng. Nhu cầu lipid vào khoảng 15%-30% năng lượng khẩu phần. Nếu dư chất béo trong thức ăn có thể dự trữ ở dạng TG (Tryaxyl Glycerol), cũng như với glucid cơ thể người có thể thích ứng với sự thay đổi lớn lượng thức ăn đưa vào cơ thể. Tuy nhiên, nếu bổ sung thiếu lipid, dẫn đến thiếu hụt các acid béo cần thiết. Nếu dư thừa chất béo trong thức ăn sẽ làm tăng mỡ máu dẫn đến nguy cơ bệnh tim mạch, đái tháo đường và đột tử. - Glucid: Vai trò chính là tạo năng lượng. Nếu quá nhu cầu về năng lượng, glucid được dự trữ ở dạng glucogen và TG dự trữ. Glucid cần có tới 60%-70% năng lượng khẩu phần. Nếu quá thừa glucid thường tăng nguy cơ sâu răng, đái tháo đường ( nhất là glucid tinh chế). - Chất xơ: cơ thể cần khoảng 30-40g/kg/ngày là an toàn. Nếu quá nhiều sẽ ảnh hưởng đến hấp thu các chất dinh dưỡng, nếu quá ít cũng không có lợi cho cơ thể. - Chất khoáng: Các loại Ca, P, Mg có nhu cầu hàng ngày ≥ 100mg. Các loại khác như sắt, iod, fluor, kẽm , selen… cần ≤ 15mg. Cơ thể thiếu các chất khoáng vi lượng dễ có biểu hiện lâm sàng như thiếu máu mắt, thiếu iod gây bướu cổ, thiếu fluor gây thiếu sản men răng. - Vitamin: + Vitamin tan trong nước (B1, B2, PP, C) có vai trò chủ yếu trong các phản ứng oxy hóa ở trong tế bào là yếu tố phòng bệnh, khi thiếu hụt sẽ gây các bệnh Scorbut, xuất huyết vết thương lâu liền… + Vitamin tan trong chất béo ( Vitamin A, D, E, K) có vai trò hết sức quan trọng. Thiếu vitamin A sẽ gây các bệnh thị giác ( quàng gà, mù…). Vitamin D tạo điều kiện cho việc hấp thu canxi ở tá tràng, vitamin E là chất chống oxy hóa tự nhiên, vitamin K cần cho quá trình đông máu… III. Xây dựng khẩu phần ăn hợp lý - Bữa ăn hợp lý dựa trên nhu cầu dinh dưỡng của cơ thể, nhằm đáp ứng được các yêu cầu: Cung cấp cho cơ thể đủ các chất dinh dưỡng theo nhu cầu, lứa tuổi, khả năng lao động, môi trường, khí hậu. + Đảm bảo bữa ăn hàng ngày cân đối, đủ dinh dưỡng + Thức ăn đảm bảo an toàn vệ sinh , không được là nguồn gây bệnh. + Đem lại cho người ăn sự hứng thú, phù hợp với khẩu vị và chi phí hợp lý. - Nguyên tắc xây dựng khẩu phần ăn + Cung cấp đủ năng lượng + Đủ 04 nhóm thực phẩm + Đảm bảo tính cân đối giữa các chất dinh dưỡng. + Đa dạng hóa thực đơn. + Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. BS. Hoàng Ngọc Anh, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng chất lượng cao, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội - 70 Nguyễn Chí Thanh
Giấc ngủ của trẻ nhỏ Thời gian ngủ và chất lượng giấc ngủ có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển trí tuệ của trẻ nhỏ. Thời gian ngủ dài, ngắn không phải là yếu tố quyết định chất lượng giấc ngủ mà việc bé ngủ có ngon giấc hay không mới ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ. Vậy trẻ ngủ bao nhiêu lâu là đủ và làm thế nào để bé ngủ đủ và ngon giấc? I. Nhu cầu ngủ của trẻ Nhu cầu ngủ của trẻ rất cao, cứ một giờ hoạt động phải bù lại bằng 02 giờ ngủ ( gấp 04 lần người lớn). Thời gian ngủ mỗi ngày thay đổi theo cơ địa của trẻ và nhiều yếu tố khác, trong đó tuổi của trẻ là quan trọng nhất. Nhu cầu ngủ giảm dần theo độ tuổi của trẻ. - Trẻ sơ sinh ( 1-04 tuần tuổi): Ngủ 16-18h/ngày. Ngủ cả ban ngày và ban đêm. Mỗi giấc ngủ kéo dài từ 2-4 giờ. - Trẻ từ 1-04 tháng tuổi. Từ 06 tuần tuổi trở đi, trẻ ngủ ít đi ( 14-15 giờ mỗi ngày). Tuy nhiên, mỗi giấc ngủ kéo dài từ 4-6 giờ và có xu hướng ngủ nhiều hơn vào buổi tối. - Trẻ từ 04 tháng-01 tuổi: ngủ đêm nhiều hơn ngủ ngày ( thường có 02 giấc ngủ vào ban ngày), tổng số giờ ngủ khoảng 14-15 giờ/ngày. Khi trẻ được 01 tuổi, giấc ngủ buổi sáng mất dần đi và thường chỉ có giấc ngủ ngắn buổi trưa. - Trẻ từ 1-03 tuổi : ngủ 12-14 giờ/ngày vẫn cần có giấc ngủ trưa ( 30 phút-60 phút). Buổi tối trẻ thường ngủ từ 7-9 giờ tối và thức dậy khoảng 6-8 giờ sáng. - Trẻ 03-06 tuổi: ngủ 10-12 giờ/ngày. Trẻ thường ngủ khoảng 7-9 giờ tối, dậy lúc 6-8 giờ sáng. Khi được 05 tuổi trẻ hầu như không ngủ trưa nữa. Thời gian ngủ trưa ngắn sẽ tốt cho trẻ. Lưu ý: từ 03 tuổi trở đi phần lớn trẻ đã hình thành thói quen ngủ một mình. - Trẻ từ 06-12 tuổi: cần ngủ 10-11 giờ/ngày. Giai đoạn này trẻ đã có những hoạt động ở trường, xã hội, gia đình nên buổi tối trẻ ngủ muộn hơn ( ngủ lúc 9 giờ) và thức dậy từ 7-8 giờ sáng. Tuy vậy, trung bình trẻ ngủ được khoảng 9 giờ /ngày là vừa đủ. - Trẻ từ 12-18 tuổi: Trẻ hoạt động nhiều nên giấc ngủ rất quan trọng để lấy lại sức khỏe. Do đó, các mẹ cần để ý tới giấc ngủ của con khi 16 tuổi, trẻ chỉ ngủ 8 giờ/ngày như người lớn. II. Vai trò của giấc ngủ - Đối với trẻ em, giấc ngủ có tầm quan trọng như thức ăn, nước uống hàng ngày. Giấc ngủ sâu cần cho sự phát triển toàn diện về cả thể chất, trí tuệ của trẻ. Thiếu ngủ, ngủ không ngon giấc sẽ khiến trẻ trở nên cáu gắt, quấy khóc, không tập trung, mệt mỏi. Tình trạng này kéo dài dẫn đến trẻ chậm phát triển, không nhanh nhẹn, giảm thông minh…ảnh hưởng đến sức khỏe. - Khi ngủ, cơ thể tiết ra hormone tăng trưởng nhiều gấp 04 lần khi thức ( đạt đỉnh vào lúc 22h đến khoảng 1 giờ đêm). Do vậy, trẻ không ngủ đúng giờ sẽ bỏ lỡ quãng thời gian hormone tăng trưởng tiết ra nhiều nhất và ảnh hưởng tới sự sinh trưởng của trẻ. - Ngủ là thời điểm não bộ nạp lại năng lượng . Do vậy, giấc ngủ sâu sẽ giúp tăng cường trí nhớ, độ tập trung và khả năng học tập của trẻ. - Giấc ngủ giúp duy trì và cân bằng quá trình tiết của một số hormone, bao gồm cả hormone kiểm soát cơn thèm ăn. Do vậy, tình trạng mất ngủ có nguy cơ làm tăng cơn thèm ăn gây nên chứng thừa cân, béo phì ở trẻ. - Giấc ngủ ngon sẽ hỗ trợ hệ thống miễn dịch, giúp cơ thể chống lại các bệnh nhiễm khuẩn và trẻ ít bị ốm hơn. Ths. Đỗ Hữu Hanh, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng chất lượng cao, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội - 70 Nguyễn Chí Thanh
BỆNH LIÊN CẦU KHUẨN LỢN Liên cầu khuẩn lợn là loại vi khuẩn gây bệnh cho người và lợn. Đây là bệnh truyền nhiễm xảy ra thường xuyên quanh năm và có nguy cơ thành dịch nếu không có biện pháp phòng chống và điều trị. Bệnh thường lây từ lợn sang người và gây tử vong. Người nhiễm bệnh có triệu chứng viêm não, xuất huyết , viêm phổi, viêm cơ tim và viêm khớp. Tỷ lệ tử vong khoảng 7%. Đường lây truyền từ lợn sang người thường qua các vết thương ở da, đường hô hấp, tiếp xúc với máu hoặc các dịch tiết ở lợn bị nhiễm bệnh hoặc qua đường ăn uống. Đây là bệnh nguy hiểm, nếu không được chữa trị kịp thời người bệnh sẽ bị viêm màng não, nhiễm trùng huyết gây choáng và có thể để lại di chứng nặng nề với 60% bị giảm thính lực, 20% điếc hoàn toàn, 95%-98% bệnh nhân nhiễm vi khuẩn liên cầu lợn thường bị viêm màng não. I. Triệu chứng lâm sàng. Bệnh do liên cầu khuẩn lợn gây ra diễn biến đột ngột, nhanh chóng, dễ dẫn đến tử vong nếu không được điều trị kịp thời. 1. Thể cấp tính: Bệnh nhân bị nhiễm trùng huyết, sốt cao, xuất huyết và hoại tử toàn thân, suy tuần hoàn, suy hô hấp, suy chức năng gan thận…và tử vong rất nhanh. 2. Thể viêm màng não: Bệnh nhân sốt cao, đau đầu, nôn mửa và hôn mê. Nếu không điều trị sớm bệnh nhân sẽ có di chứng thần kinh như ngớ ngẩn, mất trí nhớ, liệt…Bệnh nhân liên cầu khuẩn lợn thường gặp ở các thể bệnh viêm màng não và nhiễm trùng huyết ( hoặc kết hợp cả 2 thể bệnh). Bệnh diễn biến nhanh, chỉ trong vòng 12>24h đã có thể rất nguy hiểm, bệnh nhân rơi vào sốc do nhiễm trùng huyết. 3. Biểu hiện: - Vi khuẩn liên cầu lợn khi xâm nhập cơ thể người gây biểu hiện ban đầu là sốt rất cao ( lạnh chân tay, rét run, sốt trên 39ᵒC), đau đầu dữ dội, đau cứng cổ gáy sau đó tri giác lơ mơ, li bì, hôn mê sau đó sốc, tụt huyết áp, suy hô hấp, xuất hiện các ban hoại tử trên da ( xuất huyết rất to, màu xám đen…). Một số bệnh nhân phát ban trên da kéo dài tới trên 5 ngày kèm theo mệt mỏi. Tiếp theo đó bệnh nhân có dấu hiệu viêm màng não như nhức đầu, buồn nôn, nôn vọt, cứng cổ, sốt cao…Viêm phổi, suy gan , suy đa phủ tạng, môi khô, lưỡi bẩn, hơi thở hôi… - Ở lợn, thường có triệu chứng sốt cao ( 40-41,5ᵒC), ủ rũ, biếng ăn, run rẩy, liệt. II. Biện pháp phòng ngừa. 1. Người tiếp xúc với lợn ( đặc biệt là lợn bệnh) phải được trang bị bảo hộ lao động, rửa tay chân sạch sẽ sau khi tiếp xúc. 2. Thịt lợn...phải được nấu chín trước khi sử dụng, tuyệt đối không ăn tiết canh lợn, thịt lợn còn sống, gỏi thịt lợn. 3. Sau khi tiếp xúc với lợn…nếu thấy có triệu chứng sốt cao, nhức đầu, nôn nhiều, đau họng cần nhập viện ngay. 4. Không nên mua bán, giết thịt, ăn thịt lợn bệnh và chết. 5. Vi khuẩn liên cầu lợn có thể sống 02 tuần trong các chất thải của lợn ngoài môi trường và chỉ chết ở nhiệt độ cao hoặc trong các chất sát khuẩn. 6. Các cơ sở chăn nuôi cần tẩy trùng, vệ sinh chuồng trại sạch sẽ 7. Người tiêu dùng chỉ nên mua thịt lợn ở nơi tin cậy, có đóng dấu kiểm dịch, tuyệt đối không ăn thịt lợn, nội tạng…chưa nấu kỹ. Không ăn thịt lợn bệnh hay đã chết. Ts. Nguyễn Công Tảo
NHỮNG THỰC PHẨM CẦN TRÁNH ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ SỎI THẬN Tôi bị sỏi thận, đã mổ lần thứ 2. Có nhiều người bảo tôi cần phải tránh ăn những thực phẩm có nhiều canxi, sau khi mổ lần thứ nhất tôi đã thực hiện kiêng khem, nhưng sau đó một thời gian tôi vẫn bị sỏi trở lại, nếu tình trạng kiêng như người ta nói thì tôi cảm thấy rất mệt mỏi, dường như cơ thể thiếu chất. Xin bác sĩ tư vấn giúp tôi để tôi biết được bị sỏi thận cần tránh ăn gì? Xin cảm ơn bác sĩ. Đó là lời than phiền của một người bệnh nữ 53 tuổi. Xin mời chị tham khảo bài viết sau để có sự lựa chọn cho mình tránh kiêng khem quá mà ảnh hưởng đến sức khỏe. Sỏi thận là căn bệnh thuộc đường tiểu – sinh dục phổ biến thứ 3 sau các bệnh viêm nhiễm và tuyến tiền liệt. Nguyên nhân gây bệnh là do rối loạn trao đổi chất khoáng, những cái lẽ ra phải tan lại không tan mà kết tủa và tích tụ trong cơ thể, dần dần hình thành sỏi. Sỏi thận có nhiều loại hay gặp nhất (80-90%) là sỏi calci oxalate, calci phosphate và calci oxalate phosphate. Ngoài ra những loại sỏi ít gặp hơn là sỏi struvit, sỏi acid uric, sỏi cystin. Vì đa số sỏi thận là sỏi calci nên nhiều người nghĩ rằng kiêng ăn hoàn toàn canci để tránh bị sỏi thận, thật sự không phải vậy. Quá trình hình thành sỏi thận là một quá trình phức tạp do nhiều yếu tố gây ra chứ không phải chỉ do bị dư calci. Nhiều người ăn uống kham khổ kiêng cữ calci vẫn bị sỏi thận, ngược lại nhiều người uống nhiều nước, ăn nhiều tôm cua nhưng đâu có bị sỏi thận. Vậy chế độ ăn uống như thế nào ở một người đã từng có sỏi để tránh tái phát? Dưới đây là những điều cần ghi nhớ về chế độ ăn mà các bệnh nhân cần lưu ý. Các thực phẩm nên tránh khi bị sỏi Ăn ít thịt động vật: Ăn thực phẩm chứa ít muối, ăn ít các loại thịt. Có thể ăn cá thay cho thịt. Tôm cua có thể ăn vừa phải được. Giảm các thực phẩm chứa nhiều oxalate: Bao gồm các loại đậu, đậu phộng, bột cám, sôcôla, cà phê và trà đặc. Trong khi cố gắng để loại bỏ các thực phẩm có chứa oxalate từ thịt thì cũng lưu ý một số loại rau quả có thể là “tòng phạm” gây nên sỏi thận. Ví dụ như rau bina, rau muống được cho là tạo nhiều oxalate nhất. Hạn chế muối và mỡ: Nên cố gắng ăn nhạt vì những nghiên cứu cho thấy việc giảm lượng muối trong chế độ ăn cũng có thể cắt giảm lượng oxalate trong nước tiểu. Tránh ăn nhiều thực phẩm chứa chất purin gây sỏi thận như: Cá khô, tôm khô, lạp sườn, các loại mắm, lòng lợn, lòng bò. Chế độ ăn được khuyến khích dùng các thực phẩm sau Uống nhiều nước (đây là điều quan trọng nhất): Nên uống khoảng 2,5 – 3 lít nước lọc mỗi ngày (chia ra uống nhiều lần trong ngày) hoặc ăn uống làm sao để có lượng nước tiểu đạt trên 2,5 lít nước tiểu màu trắng trong chứng tỏ uống đủ lượng nước. Uống nhiều nước vừa giúp tránh bị sỏi thận vừa giúp tống xuất những viên sỏi nhỏ nếu có. Ăn uống điều độ thực phẩm chứa nhiều calci như sữa , phomai: Mỗi ngày có thể dùng khoảng 3 ly sữa tươi hoặc một lượng tương đương các sản phẩm từ sữa như: bơ, phomai (khoảng 800 – 1,300mg calci). Không nên kiêng cữ quá mức những thực phẩm chứa calci vì như thế sẽ gây mất cân bằng trong hấp thụ calci khiến cơ thể hấp thu oxalate nhiều hơn từ ruột và sẽ tạo sỏi thận, ngoài ra kiêng cữ thực phẩm chứa calci sẽ bị loãng xương. Trường hợp bị sỏi thận tái phát nhiều lần, sau khi xét nghiệm kiểm tra có bằng chứng đa calci niệu do tăng hấp thu calci từ ruột thì cần kiêng calci không những phải kiêng hoàn toàn mà ăn khoảng 400mg/ngày, tương đương 1,5 ly sữa tươi. Nên uống nhiều nước cam, chanh, bưởi tươi: những loại thuốc uống này chứa nhiều citrate giúp chống tạo sỏi. Nên ăn nhiều rau tươi: Giúp tiêu hóa nhanh, giảm hấp thụ các chất gây sỏi thận. BSCKII. Mai Thị Lệ Tịch
THỰC PHẨM NÀO DỄ GÂY DỊ ỨNG? Tôi có cơ địa dị ứng. Tôi mới sinh con được 5 tháng, cháu sắp đến thời kỳ ăn dặm. Tôi đang lo lắng không biết con có giống mình là cơ địa dị ứng hay không, đặc biệt là với các thực phẩm. Xin bác sĩ cho biết loại thực phẩm nào dễ gây dị ứng? Dị ứng thực phẩm là phản ứng dị ứng miễn dịch của cơ thể với một loại protein trong thức ăn đó. Có nhiều yếu tố nguy cơ gây dị ứng thức ăn như: Protein và các phân tử không thay đổi khi đi vào tuần hoàn. Hệ miễn dịch tại ruột và tính miễn dịch của niêm mạc ruột. Một số chất gây tăng tính thấm của niêm mạc ruột như rượu, aspirin, nhiễm virut, ký sinh trùng, nấm. Sau khi ăn thức ăn gây dị ứng mà làm công việc gắng sức có thể dẫn đến sốc phản vệ…Ở người lớn, thực phẩm dễ gây dị ứng là: Cá (đặc biệt là cá biển như cá nóc chảng hạn) và các loại đồ biển như tôm, cua, sò, ốc, lạc, quả óc chó, trứng…Ở trẻ em, thường dị ứng với trứng, sữa (đặc biệt ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ), lạc, đậu nành, lúa mì, quả óc chó…Có thể nói tất cả các thực phẩm đều có thể gây dị ứng, đặc biệt là thực phẩm giàu đạm (90% nguyên nhân). Dị ứng chéo xảy ra ở các thực phẩm có thành phần giống nhau. Như sữa, nếu đã dị ứng với sữa bò thì cũng có thể dị ứng với sữa dê, cừu, trâu, thịt bò. Nếu đã dị ứng với trứng gà thì cũng có thể dị ứng với cả thịt gà, Các loại bánh có sử dụng trứng…Một số yếu tố làm tăng nguy cơ dị ứng: Di truyền (nếu cha/mẹ bị dị ứng thì 20 - 30% con cũng có khả năng dị ứng, nếu cả cha cùng mẹ bị dị ứng thì tỷ lệ này đến 50 -60%), một số diều kiện kết hợp như đang nhiễm siêu vi, tổn thương niêm mạc ruột…Thời gian xảy ra dị ứng có thể trong vòng vài phút hoặc vài giờ sau ăn. Nhưng cũng có trường hợp phản ứng chậm, xảy ra sau vài ngày với những biểu hiện không rõ ràng như bứt rứt, khó chịu, mẩn ngứa, nôn ói, đau bụng, tiêu lỏng và phân lẫn máu. Vì thế, bạn nên cho cháu ăn thử từ từ, ít một để theo dõi.
Hiện tượng lạnh tay, chân ở trẻ Vào mùa đông, mặc dù nhiều trẻ đã được mặc quần áo ấm nhưng bàn tay, bàn chân vẫn bị lạnh cóng. Nhiều bà mẹ đã cho biết trong những ngày giá lạnh đã mặc cho con rất cẩn thận, áo len, áo choàng kín cổ, đội mũ che tai, đi tất, đi giầy, đeo găng tay len…Nhưng bé vẫn bị lạnh tay, chân trong khi đó lưng, bụng thì lại ấm. Thậm chí bé kêu la vì mặc nóng quá không chịu được, bắt cởi bớt đồ, lưng toát mồ hôi…nhưng tay, chân thì vẫn lạnh. Các bác sĩ cho biết: mặc dù bé lạnh tay, chân không phải là bệnh lý nhưng cha mẹ không nên bỏ qua mà phải chú ý chăm sóc con tốt hơn. Bởi vì, trẻ lạnh tay chân ( dù đã được mặc quần áo ấm…) thường có sức đề kháng kém và có thể dễ mắc các bệnh như cảm lạnh, nhiễm trùng đường hô hấp, viêm phổi và các bệnh truyền nhiễm. Đối với trẻ nhỏ, ngón chân, tay, đầu gối, vai, ngón tay là các bộ phận thường xuyên vận động nhiều nên có ít chất béo hơn, không giữ được nhiệt lâu. Các mạch máu ít chất béo nên càng dễ bị lạnh. Ngoài ra, các triệu chứng hạ đường huyết và huyết áp thấp cũng dễ khiến chân, tay, bị ngấm lạnh. Để khắc phục tình trạng này ở trẻ, trong quá trình chăm sóc, bên cạnh việc cho bé mặc đủ quần áo và giữ nhiệt độ phòng ở mức độ ổn định, các mẹ có thể cải thiện bằng chế độ ăn uống thường xuyên được bổ sung thực phẩm giàu chất sắt cụ thể: lòng đỏ trứng gà, thịt bò, cừu, cá, gan động vật, đậu nành, rau chân vịt, lạc, đậu phụ, tỏi, hẹ tây, hạt tiêu…Đồng thời, cho con ăn nhiều trái cây tươi để ngăn chặn tình trạng thiếu vitamin. Ngoài ra, bên cạnh việc bổ sung dinh dưỡng đúng cách, các mẹ nên cho bé uống nước thường xuyên tăng cường vận động cơ thể , có thể sử dụng phòng tắm xông hơi để thúc đẩy tuần hoàn máu ở chân, tay. Duy trì tập thể dục đều đặn hàng ngày cũng là phương pháp tốt để tăng cường sức đề kháng và cải thiện khả năng thích ứng của cơ thể bé trong mùa đông. Bs. Hoàng Ngọc Anh, Phòng khám tư vấn dinh dưỡng chất lượng cao, Trung tâm y tế dự phòng Hà Nội - 70 Nguyễn Chí Thanh
Bé biếng ăn có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến hiện tượng này, có thể do món ăn không hợp khẩu vị hoặc thực đơn nhàm chán khiến bé lười ăn, ngoài ra, có thể do bé bị thiếu 1 số vi chất giúp bé ăn ngon hơn
Mình k áp lực chuyện cân nặng của con, miễn sao con có đề kháng tốt và chạy nhảy bình thường là được nên cũng k áp lực chuyện ăn uống. Mình chu trong bổ sung thêm dha bằng sữa công thức để con phát triển trí não trong 3 năm đầu đời
nếu thiếu chất thì các mẹ dùng thêm sữa bột vào bữa phụ cho các con nhé. sữa bột giờ họ tính toán dữ lắm, ko lo thiếu chất gì đâu, thậm chí còn nghiên cứu thêm cả mấy vấn đề như phát triển não bộ nữa dó
các mẹ nếu có bé hay bị đi ngoài , thì tốt nhất các me nên xin lời khuyên của bác sĩ nhé , vì bản thân nhà em cũng có bé tuy bổ sung đủ chất , nhưng cơ thể vẫn không khỏe , em đã thay đổi sữa đang uống thành enfa cho bé , mỗi ngày em cho uống từ từ 500ml rồi bé có hợp sữa hay k thì em mới tăng liều lượng sữa , bản thân em đã tìm hiểu thông tin từ enfa vì sữa có hàm lượng cao DHA, để phát triển trí não cho trẻ .
đúng đó, các mẹ cứ nghĩ rằng bắt con ăn cho mập là con khỏe , thật ra con tuy ốm , nhưng vui đùa , với chạy nhảy , học hỏi nhanh , thì cũng tốt , em là em vẫn cho con uống sữa đều đặn mỗi ngày vì bản thân em biết dù có kĩ tới đâu thì sữa công thức cũng sẽ bổ sung những chất tốt cho con như DHA, choline , chất xơ , MFGM , đều là các chất tốt cho trí não của trẻ và cũng bổ sung thêm các chất cho hệ tiêu hóa , khả năng nhận thức , học hỏ của con
các mẹ đừng ép bé ăn , ép riếc tụi nhỏ sợ , rồi k ăn gì lun , với lại bản thân mình cũng đâu thích ai ép ai đánh , nhà hàng xóm mình mõi lần cho con ăn là phải đánh phải la , điều này rất ảnh hưởng tâm lý nha các mẹ ơi
kinh nghiệm của em là thử nhiều loại thức ăn, sữa bột khác nhau, loại nào bé thích thì dùng tiếp. Thay đổi món liên tục. sữa cũng dùng 4-5 loại cho đến khi gặp loại enfa bé mới chịu à, ko trớ ko khóc, ngoan lắm.
Các loại sữa bột, sữa công thức muốn tập cho bé mới cai sữa thế nào nhỉ? Nhóc nhà em cứ quấy khóc, nhất quyết đòi ti mẹ thôi.