Tam Sinh Tam Thế

Thảo luận trong 'Thư giãn, giải trí' bởi doctruyen, 20/2/2017.

  1. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88

    Ta còn nhớ Tiểu Chúc Âm ở thủy phủ cạnh nhà mình, năm đó nàng ta được gả đi, mẹ chồng chẳng vừa lòng, bị mẹ chồng hiếp đáp. Cha nàng biết được, tức giận đùng đùng làm loạn nhà chồng nàng lên cả ngày. Mẹ chồng nàng đấu không lại cha nàng, mà lại nuốt không trôi cục tức này, đã đâm đơn đến trước động Hồ Ly, muốn nhờ cha ta ra mặt làm chủ, thay mặt nhà họ bỏ Tiểu Chúc Âm. Vì cha của Tiểu Chúc Âm đã đả thương người khác trong địa bàn của nhà chồng Tiểu Chúc Âm, dù sao cũng đuối lý, để tránh sau này xảy ra đại họa, cha ta đã suy tính trước sau, định y chuẩn cho lá đơn của mẹ chồng Tiểu Chúc Âm, cắt đứt quan hệ hai nhà.

    Mẹ ta nhìn thấy Tiểu Chúc Âm thì động lòng trắc ẩn, còn thay nàng cầu xin cha ta, nói nàng ta không xinh đẹp, lại được chiều chuộng quen, nếu như bị nhà chồng bỏ, chắc chắn không lấy được chồng lần nữa. Làm sao mà chuyện nhà họ lại nhiều khúc mắc vậy, cha ta xưa nay chí công vô tư, thế nên cuối cùng Tiểu Chúc Âm vẫn bị chồng bỏ.

    Khi ấy ta và tứ ca trong lòng cũng có chút đồng tình với Tiểu Chúc Âm, cảm thấy nhân duyên sao mà thảm đạm. Tứ ca còn nâng mặt ta lên nhìn một lượt, rồi rút ra kết luận “Ta tuy được chiều chuộng giống Tiểu Chúc Âm, nhưng xinh đẹp hơn nhiều, cho dù là nhà chồng bỏ thì vẫn không đến nỗi không lấy được chồng nữa”, sau đó mới thấy an tâm. Nhưng tứ ca cũng đã an tâm quá sớm. Sau một vạn tám nghìn năm, ta bỗng ngộ ra chân lý: Trong số mệnh, đường nhân duyên có tốt hay không cũng chẳng quan hệ gì tới dáng vẻ bề ngoài.

    Trong mấy vạn năm sau đó, nàng Tiểu Chúc Âm bị mẹ ta cho rằng không xinh đẹp thì hoa đào(39) lại nhặt hết giỏ này đến giỏ khác, đám nam thần tiên đến động Chúc Âm cầu thân dường như đã giẫm phẳng động phủ Chúc Âm nhà họ. Nhờ phúc của những nam thần tiên này, Tiểu Chúc Âm cũng tự học thành tài, lột xác thành cao nhân một đời về khoản chơi đùa nam thần tiên.

    Trong mấy vạn năm ấy, bản thượng thần ta được tứ ca gửi gắm bao hy vọng, được đánh giá là dung mạo xinh đẹp, thì tình duyên chỉ đếm trên đầu ngón tay, vỏn vẹn gặp đúng năm đóa hoa đào.

    Đóa thứ nhất chính là cửu hoàng tử của tộc Bỉ dực điểu(40). Khi hắn cùng cha mình đến làm khách ở Thanh Khâu, hắn đã yêu tiểu nha đầu hai vạn tuổi là ta ngay từ cái nhìn đầu tiên, lúc gần đi, hắn còn giấu cha mẹ ta lén kéo ta sang một bên, nhổ hai chiếc lông vũ làm vật đính ước, nói đợi hắn lớn thêm một chút nữa, rồi sẽ cưỡi mây ngũ sắc đến cưới ta về làm vợ. Lông vũ trên người hắn có hai màu, một xanh một đỏ, ta thấy màu mè sặc sỡ thì rất thích, bèn nhận lấy, bụng nghĩ gả cho tộc Bỉ dực điểu kể cũng không đến nỗi nào. Nhưng mãi sau, lại nghe Mê Cốc buôn chuyện rằng, người trong tộc Bỉ dực điểu của hắn không thể kết hôn với người ngoại tộc, cửu hoàng tử của tộc Bỉ dực điểu lại nhất quyết đòi lấy ta, nào là tuyệt thực, nào là nhảy sông, làm náo loạn cả lên. Cha mẹ hắn không chịu được phiền phức, một đêm nhân lúc hắn say ngủ cho hắn uống hai viên tình dược, rồi đưa hắn lên giường một cô nương có vai vế trong tộc Bỉ dực điểu. Híc, hắn tự thấy mình đã làm chuyện có lỗi với ta, không còn mặt mũi nào cưỡi mây ngũ sắc đến cưới ta nữa. Ta đem hai chiếc lông vũ hắn tặng, cùng mấy chiếc lông gà rừng làm thành chiếc chổi lông gà, đem quét bụi cũng rất tốt.

    Đóa thứ hai chính là nhị hoàng tử Ly Kính của Quỷ tộc. Xem ra ta và hắn cũng ngọt ngào bên nhau được ít ngày, sau này lại gây oan nợ với hắn do Huyền Nữ giật dây bắc cầu.

    Đóa thứ ba là con trai thứ hai Tang Tịch của Thiên Quân. Đây cũng coi như là mối nhân duyên do cha mẹ ép ta nhận lấy. Nhưng số ta không thể nhận được mối nhân duyên này, cho nên Tang Tịch vừa đến Thanh Khâu một chuyến đã có duyên tình với tỳ nữ của ta, rồi hai người bỏ trốn.

    Đóa thứ tư là vật cưỡi của tứ ca – Tất Phương. Nhưng Tất Phương giấu giếm tình cảm của hắn cũng hơi sâu một chút, dường như chưa từng nhiệt tình sôi sục như đám nam thần tiên ngưỡng mộ Tiểu Chúc Âm, khó khăn lắm mới đợi đến được lúc hắn nghĩ thông suốt để cuồng nhiệt theo đuổi một lần, thì lúc đó ta đã được đính hôn rồi.

    Bốn đóa hoa đào ấy, có ba đóa là hoa héo, chỉ còn một đóa đẹp hơn cả, nhưng chỉ được vẻ bên ngoài mà thôi.

    Đóa cuối cùng trong năm đóa chính là Dạ Hoa.

    Phu quân tương lai Dạ Hoa của ta, ta tiếc rằng mình đã không thể gặp chàng trong những năm tháng đẹp nhất của cuộc đời.

    Từ Tây Hải mù mịt ráng khói, ta cưỡi mây lên Cửu Trùng Thiên, vì giữa đường bị ngã từ trên mây xuống một lần thành ra lôi thôi lếch thếch, lúc đến Nam Thiên Môn, ta bị hai thiên tướng canh cổng không khách khí ngăn lại.

    Đầu tóc áo quần của ta quả thực không lịch sự cho lắm, làm giảm uy nghi của Thanh Khâu, nhưng vì nóng lòng muốn gặp Dạ Hoa, nên bất đắc dĩ lại phải mượn đến đại danh của Chiết Nhan, giả mạo là tiên sứ của lão, phụng lệnh lão đến thăm hỏi thái tử điện hạ của Thiên Đình – Dạ Hoa Quân.

    Hai thiên tướng này đúng là làm việc cẩn thận, hết sức khách khí bảo ta đứng chờ một bên, tự mình đến Tẩy Ngô cung bẩm báo. Lòng ta nóng như lửa đốt, nhưng lại thấy họ đến Tẩy Ngô cung bẩm báo mà không phải là đến Lăng Tiêu điện bẩm báo, nên đoán rằng Dạ Hoa không sao cả, lòng cũng nhẹ nhõm ít nhiều.

    Vị thiên tướng đi trước bẩm báo đi khoảng được chừng nửa tuần trà mới quay về, theo sau là một tiểu tiên nga tới dẫn đường cho ta. Ta cũng có chút ấn tượng về tiểu tiên nga này, hình như chính là nô tỳ trong thư phòng của Dạ Hoa. Nhìn thấy ta, nàng ta giương mắt tròn xoe, nhưng rốt cuộc vẫn là nô tỳ trong thư phòng của Dạ Hoa, nên hiểu biết, đôi mắt tuy trợn lên tròn như một cái bánh rán, nhưng miệng vẫn không mấp máy. Chỉ nghiêm chỉnh cúi chào ta một cái, rồi run rẩy chăm chú đi trước dẫn đường.

    Hôm nay gió mát phe phẩy, ta ngửi thấy trong đó thoang thoảng hương sen thơm ngát.

    Đã sắp đến Tẩy Ngô cung, ta hắng giọng hỏi: “Quân thượng các ngươi, chàng gần đây thế nào? Bây giờ có đang làm việc không?”.

    Tiểu tiên nga dẫn đường quay đầu lại, cung kính thưa: “Gần đây quân thượng rất khỏe. Vừa cùng mấy vị tinh quân như Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh bàn bạc công chuyện xong, bây giờ đang ở thư phòng đợi thượng thần giá đáo”.

    Ta gật đầu một cái.

    Nửa tháng trước chàng mới mất đi tu vi hơn vạn năm, bây giờ có thể ngồi đây bàn công chuyện, khôi phục cũng khá nhanh.

    Tiểu tiên nga đó dẫn ta đi một mạch đến thư phòng của Dạ Hoa, rồi cung kính lui gót.

    Ta vội vàng đẩy cánh cửa thư phòng, vội vàng bước qua bậc cửa, vội vàng vén bức rèm bên trong. Những hành động vội vàng ấy tuy nhìn vẫn rất đẹp mắt, nhưng vì lo lắng trong lòng nên khó tránh không chú ý va phải hai bình hoa cổ, gây ra tiếng động nho nhỏ.

    Dạ Hoa đang vùi đầu trong đống giấy tờ, bỗng ngẩng lên nhìn ta nửa cười nửa không, day day góc trán nói: “Hôm nay nàng còn đặc biệt đến chỗ ta sao?”. Trên chiếc bàn đầy công văn còn có vài cuốn sổ đang mở.

    Bề ngoài nhìn chàng không nhợt nhạt như khi ở Thủy Tinh cung Tây Hải lần trước, nhưng ta vẫn nhận ra chàng xanh xao đi rất nhiều.

    Bây giờ ta đã không còn vô tâm như thuở nhỏ, dần dần hiểu rằng một người nếu muốn giấu bạn những điều không tốt của mình, thì bạn sẽ nhìn ngay ra những điểm không tốt của người đó.

    Ta vội bước lên hai bước đến trước mặt chàng, định bắt mạch cho chàng. Thì chàng đột nhiên ngưng bặt nụ cười, vòng qua giữ chặt vạt áo của ta, cau mày hỏi: “Cái gì đây?”.

    Ta cúi đầu xuống nhìn: “À, không có gì, khi sử dụng truy hồn thuật với Tây Hải đại hoàng tử một canh giờ trước, không để ý kinh động thần thức, nôn ra hai ngụm máu nhỏ mà thôi”.

    Chàng đứng dậy, bưng chén lên xoay người rót thêm trà, vừa rót vừa nói: “Tuy nàng hết lòng chăm sóc Mặc Uyên nhưng cũng phải chăm sóc cho chính mình, nếu khi Mặc Uyên tỉnh lại mà nàng lại quỵ ra đó, thì không tốt đâu”.

    Ta nhìn bóng lưng chàng, nhẹ nhàng nói: “Chàng đoán xem khi ta đi vào nguyên thần của Tây Hải đại hoàng tử, ta đã nhìn thấy gì?”.

    Chàng quay người lại, đưa chén trà cho ta, nghiêng đầu hỏi: “Mặc Uyên à?”.

    Ta đón lấy chén trà, thở dài đáp: “Dạ Hoa, bốn con ác thú canh giữ cỏ Thần Chi ở Doanh Châu, hình dáng ra sao? Viên tiên đan Chiết Nhan đưa cho ta là do chàng luyện phải không? Bây giờ trên người chàng còn lưu lại được tu vi bao nhiêu năm?”.

    Chàng bưng chén trà đứng lặng, sắc mặt vẫn u ám, sau đó lại mỉm cười, nói: “Haizz, chuyện là như thế này. Trước đây Thiên Quân có sai ta đến Đông Hải trông coi, lúc ghé qua Doanh Châu bỗng nhớ đến nàng cần tới cỏ Thần Chi, nên nhân thể lấy mấy nhành. Còn mấy con ác thú mà nàng nói, hình dáng xấu xí, nếu như chúng dễ coi một chút, thì có thể bắt một con về cho nàng huấn luyện, lúc rảnh rỗi giải sầu. Nàng cũng hay rảnh rỗi mà”.

    Chàng nói những lời này sao quá nhẹ nhàng, còn ta vẫn nhớ khi cha ta từ Doanh Châu trở về mình đầy thương tích. Ta nghe thấy tiếng của mình vang lên khô khốc: “Vậy viên tiên đan đó đã làm mất tu vi bao nhiêu năm của chàng? Lúc chàng nhờ Chiết Nhan đem đến cho ta sao còn phải giấu ta?”.

    Chàng nhíu mày ra vẻ ngạc nhiên, nói: “A? Có chuyện vậy sao? Chiết Nhan không nói với nàng viên tiên đan đó là do ta luyện ư?”. Rồi lại cười, tiếp lời: “Đúng là không nên nhờ lão ta làm hộ, để lão cướp không công lao của ta”. Rồi lại vừa giở công văn trên bàn vừa nói, “Ta bẩm sinh tu vi đã cao hơn những thần tiên bình thường, trước đây Thiên Quân cũng độ cho ta không ít. Luyện viên tiên đan này cũng chỉ là chuyện vặt thôi”.

    Ta nhìn cánh tay phải giấu trong tay áo của chàng, dịu dàng hỏi: “Lúc chàng rót trà, giở công văn, sao chỉ dùng tay trái, còn tay phải thì không dùng tới?”.

    Cánh tay trái đang giở công văn của chàng khựng lại.

    Nhưng cũng chỉ khựng lại trong giây lát, rồi lại thong thả giở tiếp, miệng vẫn nói: “Haizz, lúc lấy cỏ Thần Chi không cẩn thận để con Thao Thiết cắn một phát, đúng ngay tay phải, cho nên mới không được cử động. Cũng không có gì đáng lo ngại, Dược Quân cũng đã khám rồi, nói dưỡng thương một tháng là sẽ hồi phục”.

    Nếu như ta trẻ hơn chàng, thì không chừng cũng tin những lời dối trá này. Nhưng ta đã sống ngần này tuổi, đương nhiên biết rằng chàng nói dối.

    Chàng nói Thiên Quân độ tu vi cho chàng, tất nhiên Thiên Quân không vô duyên vô cớ mà độ tu vi cho chàng, hẳn là cái lần chàng nhảy xuống Tru Tiên đài, mất tu vi, tính mạng cũng sắp mất, Thiên Quân mới độ tu vi cho chàng. Ví dụ như bảy vạn năm trước mẹ ta cứu ta, cũng vì lẽ ấy. Thiên Quân độ cho chàng tu vi tất nhiên chỉ là bù lại phần đã mất, tổng cộng cũng không thể vượt quá tu vi năm vạn năm của chàng. Ta nhẩm tính tiên khí dùng để điều dưỡng cho Mặc Uyên chí ít cũng phải mất tu vi bốn, năm vạn năm.

    Chàng nói Thao Thiết cắn một miếng vào cánh tay phải của chàng, chỉ là một vết thương nhỏ, chỉ cần dưỡng thương là khỏi. Thần tiên thời viễn cổ chúng ta đều hiểu, ác thú Thao Thiết vô cùng hung tợn, nó đã cắn cái gì thì thứ đó từ da đến xương đều bị nuốt trôi, xưa nay chưa từng có ai dám nói Thao Thiết cắn một miếng chỉ là vết thương nhỏ.

    Những lời nói dối này rõ ràng là để an ủi ta. Để chàng khỏi thất vọng, tuy trái tim nhói từng cơn đau buốt nhưng cũng chỉ có thể giả vờ an tâm, nhẹ nhõm thở phào nói: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt, ta yên tâm rồi”.

    Chàng nhíu mày, cười cười, nói: “Ta có gì khiến nàng không yên tâm chứ? Có điều, Tây Hải đại hoàng tử mới dùng tiên đan chưa lâu, sợ còn phản ứng. Lúc này nàng lại lên Thiên Cung, chỉ sợ xảy ra sơ suất”.

    Những lời này rất khéo léo nhưng rõ ràng có ý tiễn khách. Nhìn vẻ ngoài sắc mặt vẫn tốt, nhưng cũng hơi tiều tụy, chàng gắng gượng như vậy có lẽ cũng chẳng được bao lâu nữa. Để giữ thể diện cho chàng, ta đành tỏ vẻ giật mình vì được chàng nhắc nhở, tặc lưỡi kêu: “Ai da, suýt nữa thì quên, vậy ta về trước, chàng cũng chịu khó dưỡng thương nhé”.

    Lúc nói ra câu đó, ta cảm thấy vừa đau lòng vừa buồn bã.

    Ta quyết định về Thanh Khâu hỏi Chiết Nhan, xem xem thương thế của Dạ Hoa rốt cuộc ra sao.

    Lòng nóng như lửa đốt, ta vội vã quay về, nhưng Chiết Nhan lại không còn ở Thanh Khâu nữa.

    Tứ ca miệng ngậm cây cỏ đuôi chó đang nằm phơi nắng trên bãi cỏ bên ngoài động Hồ Ly, nói với ta: “Mấy hôm trước Chiết Nhan về rừng đào rồi. Nghe nói gần đây hắn làm một chuyện sai trái, vì đã bao năm không làm chuyện sai trái, nên cảm thấy cắn rứt lương tâm, phải quay về rừng đào ăn năn”.

    Ta chán nản rủa một tiếng, lại cưỡi mây đi thẳng về rừng đào mười dặm.

    Lúc tìm Chiết Nhan ở Bích Dao trì sau rừng đào, vẫn là giờ Ngọ mặt trời còn treo trên đỉnh đầu, nhưng miệng lão cứ ngậm chặt, đến khi lão mở miệng kể về chuyện của Dạ Hoa đã là giờ Tý trăng treo ngang trời.

    Kể rằng vào hơn nửa tháng trước, đêm mười sáu tháng sáu, lão cùng tứ ca ta ngắm trăng trong rừng trúc bên ngoài động Hồ Ly, bỗng một đôi tiên quân từ trên trời xuất hiện. Đôi tiên quân này vâng mệnh của Thiên Quân, cấp tốc tới cửa cốc Thanh Khâu, mời lão lên Cửu Trùng Thiên một chuyến, cứu một người. Trên trời xưa nay đã có Dược Quân phụ trách, Thiên Quân lại chẳng quản ngàn dặm xa xôi vời lão, chắc chắn người này tính mạng nguy cấp, thuốc thang vô phương cứu chữa, đến Dược Quân cũng phải bó tay. Lão vốn không có mấy thiện cảm với Thiên Quân hiện giờ, nhưng vốn bản thân cũng muốn để Thiên Quân nợ mình một món ân tình, thế nên vẫn theo hai tiên quân kia lên trời.

    Sau khi lên Cửu Trùng Thiên, lão mới hiểu người mà Thiên Quân chẳng quản nghìn dặm xa xôi mời lão về cứu chữa, chính là con rể tương lai của nhà họ Bạch chúng ta – Dạ Hoa. Khi lão gặp Dạ Hoa, tình hình của Dạ Hoa tuy không đến mức thuốc thang vô phương cứu chữa, nhưng cũng vô cùng hiểm nghèo, toàn bộ cánh tay phải bị Thao Thiết nuốt hết, chỉ còn lại một tay áo phơ phất, tu vi trên người cũng chỉ còn một, hai vạn năm mà thôi. Kể đến đây, lão hơi thương cảm, nói: “Phu quân của ngươi tuy tuổi còn nhỏ nhưng suy tính chu toàn, nói mấy ngày trước đã dâng sớ lên lão già Thiên Quân, chính là ngày thứ hai ngươi đi Tây Hải, trong sớ nói rằng cỏ Thần Chi mọc ở Doanh Châu, Đông Hải đã vi phạm pháp chế của tiên giới ra sao, viện ra hàng loạt lý lẽ, xin Thiên Quân ân chuẩn cho hắn đi nhổ sạch cỏ Thần Chi ở Doanh Châu Đông Hải. Thiên Quân thấy rất chí lý bèn ân chuẩn. Hai ngày sau khi hắn đến Doanh Châu, tin tức báo về rằng Doanh Châu đã chìm vào Đông Hải, Thiên Quân cả mừng, lại qua một ngày nữa sau khi hắn quay về, thì thương tích nặng nề. Thiên Quân cho rằng cháu mình bị như vậy đều là do bốn con ác thú canh giữ cỏ Thần Chi làm hại, vô cùng hối hận mình đã đánh giá cao đứa cháu, lúc đầu đã không phái thêm mấy trợ thủ cho hắn. Ta cũng tưởng tu vi trên người hắn bị bốn con súc sinh đó ăn hết lúc hủy cỏ Thần Chi ở Doanh Châu. Sau này hắn giao viên tiên đan cho ta, ta mới hiểu rằng, bốn con súc sinh đó ngoài ăn mất một cánh tay của hắn, thì không được lợi nửa phân, ngược lại hắn còn một nhát kiếm chém sạch bọn chúng. Hắn tiều tụy bơ phờ như vậy là do sau khi lấy được cỏ Thần Chi lại lập tức dùng tu vi của mình để luyện đan. Ta đã đắp thuốc cho vết thương của hắn, ngươi không cần lo lắng, dần dần sẽ khỏi thôi, còn cánh tay kia là tàn phế rồi. A, mà cũng chưa hẳn tàn phế, ngươi xem cánh tay ta làm cho hắn, bây giờ tuy chưa sử dụng được nhưng sau một vạn, tám nghìn năm sẽ dần dần linh hoạt, biết đâu lại dùng được”.

    Ánh trăng chiếu chênh chếch trên đầu, mặt trăng lớn tròn vành vạnh tỏa sáng lạnh lẽo biết bao.

    Chiết Nhan thở dài, than: “Hắn không an tâm về ngươi, mới nhờ ta đưa viên tiên đan cho ngươi. Hắn cảm thấy hắn đã là phu quân tương lai của ngươi, những gì ngươi nợ Mặc Uyên, hắn sẽ thay ngươi trả tất cả, còn đòi ta giấu ngươi, là sợ ngươi bướng bỉnh, biết được là do hắn chia hơn một nửa tu vi để luyện thì sẽ không chịu dùng. Cũng sợ ngươi lo lắng nữa. Đâu ngờ ngươi xưa nay luôn qua loa đại khái, lần này sau khi cho Tây Hải đại hoàng tử uống tiên đan xong lại đi vào nguyên thần của y để xem xét. Có điều tính cách chuyện gì cũng một mình gánh vác của Dạ Hoa, khiến ta bội phục, quả là mạnh mẽ ngoan cường”. Rồi lão lại thở dài một tiếng, ngậm ngùi nói “Hắn mới năm vạn tuổi đã một kiếm giết chết bốn con ác thú Thao Thiết, Cùng Kỳ…, tiền đồ rộng mở. Nhưng tu vi tinh túy toàn thân, hắn nói chia là chia, đáng tiếc lắm thay”.

    Cổ họng ta nghẹn lại, trái tim bỗng chùng xuống.

    Chiết Nhan giữ ta ở lại, ta cảm ơn ý tốt của lão, rồi lấy ở chỗ lão mấy viên đan dược bổ khí dưỡng sinh, nhân lúc trăng sáng cưỡi mây mà đi. Dạ Hoa đã được Chiết Nhan điều trị, đúng như những gì lão khuyên nhủ ta, cho dù ta lập tức quay lại bên chàng cũng chẳng giúp được gì hơn, chỉ có thể nhìn chàng mà thôi. Nhưng cho dù ta chỉ có thể làm được một việc rất, rất nhỏ, thì ta vẫn muốn quay về bên chàng ngay lập tức.

    Ta bắt quyết biến thành một con thiêu thân, bay vòng qua mấy thiên tướng và mấy con hổ canh gác Thiên Nam Môn, lần theo tuyến đường rất khó nhớ đã đi ban trưa, bay thẳng đến điện Tử Thần của Dạ Hoa.

    Điện Tử Thần của chàng được sơn màu đen, khi ta chạm đất, chẳng may va phải một chiếc ghế. Chiếc ghế vừa “cạch” một tiếng, cả tòa điện đã sáng trưng lên. Dạ Hoa mặc một chiếc áo bào lụa trắng, ngồi dựa vào thành giường, ánh mắt nhìn ta vô cùng sâu xa khó hiểu. Ta mới chỉ thấy chàng lúc mặc áo bào màu đen và lúc không mặc quần áo, giờ chàng mặc một chiếc áo bào lụa trắng mỏng manh này, hừ, đẹp không tả xiết, mái tóc đen như mun buông xõa, hừ, cũng đẹp không thể tả xiết.

    Chàng nhìn ta chằm chằm một lát, rồi nhíu mày hỏi: “Không phải nàng đang chăm sóc Tây Hải đại hoàng tử ở Tây Hải sao? Sao nửa đêm canh ba lại vội vội vàng vàng chạy đến phòng ta, chẳng nhẽ Điệp Ung xảy ra chuyện gì sao?”. Dáng vẻ nhíu mày của chàng, vẫn rất đẹp.

    Ta cười khan hai tiếng, thong thả nói: “Điệp Ung không sao, việc của ta ở Tây Hải xong rồi, nhớ đến vết thương trên tay chàng, sợ chàng đến cầm chén rót trà cũng không vững, nên ta tới đây chăm sóc chàng”.

    Dạ Hoa, chàng đã mất công giấu ta, không muốn ta lo lắng, để chàng yên tâm, ta cảm thấy mình vẫn nên tiếp tục giả vờ không biết gì là hơn.

    Chàng lại nhìn ta càng khó hiểu hơn, rồi mỉm cười, ngồi dịch qua một bên giường, nói: “Thiển Thiển, nàng qua đây”.

    Giọng chàng rất trầm, dái tai ta đỏ ửng lên, ho khẽ nói: “Không được sao? Ta đến chỗ cục bột ở lại cùng nó, chàng cứ yên tâm nghỉ ngơi đi, ngày mai ta lại đến thăm chàng”, nói đoạn quay người bước đi. Nhưng chưa ra khỏi phòng Dạ Hoa, trong điện lại vụt tối thui. Chân ta còn chưa thu về kịp, theo đà lại va vào chiếc ghế.

    Dạ Hoa ở phía sau ôm lấy ta. Chàng nói: “Bây giờ ta chỉ có dùng một tay để ôm nàng, nếu nàng không muốn thì có thể gỡ ra”.

    Trước đây mẹ ta từng dạy ta khi đi làm dâu phải như thế nào, nói đến chuyện trong khuê phòng của hai vợ chồng, đặc biệt nhấn mạnh chuyện này. Mẹ nói con gái lúc mới làm vợ, khi phu quân đòi hỏi, phải theo truyền thống mà từ chối nhẹ nhàng khéo léo, thể hiện được sự giữ gìn khép nép của con gái.

    Ta cảm thấy cái ho ban nãy của ta, đã thể hiện ý từ chối một cách khéo léo, nhưng rõ ràng là Dạ Hoa không thèm để ý. Nhưng buồn thay mẹ ta lại không hề dạy ta rằng khi phu quân không chấp nhận sự từ chối khéo léo của vợ, thì người con gái phải làm thế nào mới thể hiện được sự giữ gìn khép nép.

    Mái tóc buông xõa của Dạ Hoa cọ vào dái tai ta nhột nhột, ta bối rối chẳng biết làm sao, lặng im quay sang ôm lấy chàng, nói: “Ta chỉ chiếm một nửa cái giường của chàng, được không?”.

    Chàng ho nhẹ một cái, cười nói: “Tầm vóc của nàng cũng không thể chiếm được nửa cái giường của ta”.

    Ta ngượng ngập đẩy chàng ra, rồi mò mò đến mép giường, ngẫm nghĩ rồi cởi áo, tung chăn chui vào. Ta cuộn mình trong một góc giường, cuốn chăn quanh người, đợi Dạ Hoa lên giường, lại cuộn mình nhích vào bên trong. Chàng quờ quạng kéo ta, kéo chăn của ta ra, túm được một góc chăn rồi kéo về phía chàng. Nhưng chiếc chăn này hơi nhỏ, chàng vừa kéo một cái đã kéo tuột hết chăn của ta. Tuy giờ là đêm hè tháng bảy, nhưng trên Cửu Trùng Thiên vẫn rất lạnh, ta lại cởi áo khoác ngoài, nếu cứ như vậy ngủ suốt đêm, ngày mai chắc chắn không phải ta chăm sóc Dạ Hoa, mà là chàng sẽ phải chăm sóc ta.

    Mất thể diện cũng chẳng sao, ta nhích lại gần chàng một chút, lại nhích thêm một chút. Chàng nằm sát mép giường, ta lại nhích qua tiếp. Ta liên tiếp nhích sang ba lần, nhưng đến mép chăn mà vẫn chưa chạm đến, đành tiếp tục nhích sang nữa, chàng liền quay người lại, thành ra ta nằm gọn trong lòng chàng. Chàng dùng tay trái ôm lấy ta, nói: “Đêm nay nàng nằm yên trong lòng ta đắp chăn ngủ, hay là nằm trong góc tường không đắp chăn ngủ?”.

    Ta sững người, nói: “Hai chúng ta có thể cùng nằm trong góc tường đắp chăn ngủ”. Ta thấy mình chưa kịp suy nghĩ đã nói.

    Chàng ôm lấy ta khẽ cười: “Ý này rất hay”.

    Đêm nay, chúng ta giống như một đôi chim liền cánh, ôm nhau nằm trong góc tường ngủ say.

    Tuy rằng ôm nhau, ta dựa vào lồng ngực Dạ Hoa nhưng ngủ vẫn rất ngon. Trong khi mơ màng hình như nghe thấy chàng nói, nàng biết cả rồi à, tính cách của nàng quả vẫn như trước đây, không chịu nợ ân tình người khác. Chàng nói không sai, xưa nay ta không thích nợ ân tình của ai, nên trong lúc mơ màng đã nói đồng ý với chàng, Nhưng vì ta thấy chàng cũng mơ màng ngủ say, nên cũng không nhớ đã đồng ý với chàng điều gì.

    Giữa đêm, bỗng nghe thấy chàng ho một tiếng, ta liền giật mình. Chàng nhẹ nhàng xuống giường, đắp chăn lại cho ta, rồi rón rén đẩy cửa bước ra ngoài. Ta chăm chú lắng nghe bên ngoài điện vang lên một tràng ho, tiếng ho cố nén xuống thật khẽ, nếu không phải loài hồ ly nhà ta tai rất thính, ta lại chăm chú lắng nghe thì cũng không thể nghe thấy âm thanh ấy. Ta sờ chỗ chàng nằm bên cạnh, trong lòng trào dâng một nỗi đau buồn khôn xiết.

    Chàng ở bên ngoài một lúc mới quay lại, ta giả vờ ngủ rất giống, lúc chàng lật chăn vào nằm, không hề phát hiện ra ta đã tỉnh. Dường như ta ngửi thấy thoang thoảng mùi máu tanh, nằm sát người chàng, đoán rằng chàng đã ngủ mới lại chui vào lòng chàng, giang tay ôm lấy chàng, đau xót biết bao, rồi ta cùng dần dần thiếp đi. Sáng hôm sau tỉnh dậy, trông chàng không có vẻ gì là bệnh tật cả, khiến ta cũng ngờ rằng đêm qua chỉ là do ta quá buồn quá vui quá lo quá sợ nên đã nằm mơ mà thôi.

    Nhưng ta biết rằng, đó không phải là giấc mơ.

    Ta vừa ở bên Dạ Hoa vừa hơi nhớ cục bột nhỏ. Nhưng nghe nói mấy hôm nay trên Linh Sơn mở pháp hội, Phật Tổ đăng đàn thuyết pháp, giáo hóa chúng sinh, cục bột nhỏ được Thành Ngọc Nguyên Quân đưa đi xem.

    Ta lo lắng Tây Thiên đất Phật, cảnh thiền sâu đậm, cục bột còn nhỏ như vậy sẽ sinh ra buồn chán. Dạ Hoa lại không nghĩ thế, nói: “Nó đi Tây Thiên chẳng qua chỉ là ăn quả ăn mía ở Linh Sơn, huống hồ còn có Thành Ngọc đi theo, đám thần tiên dưới đàn tràng đều buồn chán đến mức ngủ gật, nó cũng không buồn chán lắm đâu”. Ta nghĩ một lát, cảm thấy cũng có lý.

    Khí sắc của Dạ Hoa không được tốt. Chiết Nhan nói cánh tay phải của chàng không còn dùng được, mỗi ngày ta đều chăm sóc chàng rất cẩn thận, nhưng chàng lại chẳng hề để ý. Vì chuyện chàng bị thương hết thảy thần tiên – từ thần tiên nhất phẩm đến cửu phẩm đều biết, cũng không có ai dám đem những chuyện cỏn con đến quấy nhiễu chàng, cho nên chàng cũng khá rảnh rỗi.

    Ta lo lắng cho vết thương của Dạ Hoa, muốn ở gần chàng. “Nhất Lãm Phương Hoa” lại cách điện Tử Thần khá xa, không gần bằng điện Khánh Vân, hơn nữa lại là nơi phu nhân trước của Dạ Hoa ở, nên tạm thời ta ở điện Khánh Vân của cục bột nhỏ. Hình như Thiên Cung của chàng không có quy định này, nhưng châm chước ta ở chốn quê mùa Thanh Khâu xa xôi đến, nên vẫn sắp xếp giường chiếu ở chỗ điện Khánh Vân.

    Mấy ngày đầu, ngày nào ta cũng dậy rất sớm, khi trời vẫn còn chưa sáng, đi một mạch sang điện Tử Thần của Dạ Hoa, giúp chàng mặc áo, cùng chàng ăn sáng. Vì mấy vạn năm nay ta không dậy sớm như vậy, nên thi thoảng cũng ngái ngủ ngáp mấy cái.

    Mấy hôm sau, có một hôm ta đang cố gắng tỉnh ngủ, trong lúc lơ mơ định vội vàng chạy qua điện Tử Thần, thì vừa mở mắt đã thấy Dạ Hoa đang nửa nằm nửa ngồi bên cạnh ta đọc sách rồi.

    Đầu ta gối lên cánh tay phải bất động của chàng, cánh tay trái đang cầm một cuốn bản đồ tác chiến, nhìn thấy ta đã tỉnh, chàng lật sang trang, nói: “Trời vẫn chưa sáng, nàng ngủ thêm đi, đến giờ Thìn ta sẽ gọi nàng dậy”.

    Nói ra thật xấu hổ, từ đó, ta không cần ngày ngày dậy sớm đến điện của chàng, mà mỗi sáng sớm chàng đến điện của cục bột nhỏ, bữa sáng đương nhiên cũng chuyển từ điện Tử Thần sang điện Khánh Vân.

    Những ngày ở Thiên Cung này không giống với những ngày ở Thanh Khâu, ở Thanh Khâu sau khi ăn sáng đều đi dạo, đi dạo xong thì cùng về thư phòng, trong thư phòng pha hai bình trà, chàng làm việc của chàng, ta làm việc của ta, đến đêm thì chong đèn đánh mấy ván cờ.

    Dược Quân thi thoảng qua qua lại lại Tẩy Ngô cung, lúc ta ở đó, ông ta hầu hết chẳng nói được gì. Nhìn thấy ông ta là ta lại nhớ đến vết thương trên người Dạ Hoa, vì thế ta chẳng muốn gặp ông ta chút nào. Ngoại trừ điều đó, hết thảy ta đều vừa ý cả. Ta sống đến ngần này tuổi, những chuyện thuở nhỏ nay đã không còn nhớ rõ, nhưng vẫn còn có thể phân biệt được, cho dù là những năm tháng ở bên Ly Kính cũng chưa bao giờ có cảm giác hạnh phúc như bây giờ.

    Tuy ta tuổi có cao một chút, khi còn thiếu nữ tuy hoa đào ít ỏi, chẳng có ôm ấp mối tình giống như trong thơ, đến nay, cảm nhận được xúc động của tình yêu, thi thoảng cũng muốn cùng Dạ Hoa “Dưới trăng trước hoa”(41) một phen. Nhưng vị trí của Tẩy Ngô cung còn cao hơn trăng rất nhiều, nếu muốn ngắm trăng thì chỉ có thể không ngừng nhìn xuống chân, hơn nữa phải may mắn lắm mới nhìn thấy, chứ đừng mong ánh trăng dịu dàng dát trên người chúng ta, tạo nên khung cảnh mông lung huyền ảo, cho nên đành nuốt hận mà thôi. May mà trong lúc đi dạo cùng Dạ Hoa, cũng có thể ngắm hoa cỏ, miễn cưỡng cũng coi là “trước hoa” được mấy lần.

    Lúc trước ở Thanh Khâu, hễ sáng sớm là bị Dạ Hoa lôi đi dạo, đi vòng quanh đầm nước, rừng trúc gần động Hồ Ly mấy vòng, hầu hết là chàng hỏi ta bữa trưa muốn ăn gì, chúng ta cứ bàn tới bàn lui, khi đi đến nhà tranh của Mê Cốc, thì tiện thể bảo Mê Cốc chuẩn bị ít thức ăn tươi.

    Còn ở trên Thiên Cung, bữa cơm chẳng cần Dạ Hoa nhọc công, chàng cũng không có sở thích nào khác, may mà lúc đi dạo nghe ta kể những chuyện đã đọc được. Xưa nay ta đọc những truyện đó là để giết thời gian, đọc hết quyển này đến quyển khác, đến bây giờ không còn nhớ tên của các tiểu thư, thư sinh, chỉ nhớ mang máng là chuyện gì.

    Nhưng Dạ Hoa lại rất thích thú, ta đọc lại những cuốn sách này cố gắng nhớ thật kỹ, để ngày hôm sau có thể kể cho chàng nghe. Mấy hôm sau, tự ta cũng cảm thấy mình có năng khiếu đọc sách.

    Ngày mùng bảy tháng bảy, pháp hội trên Linh Sơn cũng kết thúc. Xem ra cục bột nhỏ cũng sắp quay về Thiên Cung rồi.

    Đêm mùng bảy tháng bảy, gió mát hiu hiu, hoa quế trên cung trăng nở sớm, mùi hoa quế thơm ngát lan tỏa khắp Cửu Trùng Thiên.

    Ta cùng Dạ Hoa ngồi trong một ngôi đình bên cạnh Bích Dao trì, trên nóc đình có treo mấy chiếc đèn lồng, trên mặt bàn bằng đá cũng thắp mấy ngọn đèn dầu. Tay trái Dạ Hoa cầm bút, vẽ một bức trận đồ trên đèn lồng.

    Năm xưa khi ta bái sư ở Côn Luân, khi học nghệ với Mặc Uyên, môn trận pháp này đã từng học tới hai vạn năm, còn khó hơn cả môn Đạo pháp, Phật pháp, là môn hóc búa nhất trong những môn hóc búa mà ta đã từng học. Ta hễ nhìn thấy hình trận pháp là không chỉ đau đầu, mà còn đau toàn thân, cho nên chỉ đứng bên cạnh thưởng thức tài nghệ của Dạ Hoa, làm điệu bộ mỹ nhân nhắm mắt dưỡng thần mà thôi.

    Vừa mới nhắm mắt liền nghe thấy tiếng cục bột lanh lảnh gọi ta từ xa: “Mẫu thân, mẫu thân”.

    Ta đứng dậy nhìn, quả đúng là cục bột.

    Nó mặc một chiếc áo màu xanh ngọc bích, đôi tay nhỏ đang giữ một tay nải trên vai trái, tay nải đó nhìn có vẻ rất nặng. Nó khoác tay nải chạy xiêu xiêu vẹo vẹo, Dạ Hoa ngừng bút, đi đến bên bậc thềm nhìn nó, ta cũng ngưng dáng vẻ mỹ nhân dưỡng thần nhìn nó. Nó chạy lại gần chừng trăm bước, miệng gọi to mẫu thân, ta liền đáp lời. Nó từ từ hạ thân hình mũm mĩm ngồi xuống, rồi cẩn thận gỡ tay nải trên vai đặt xuống đất, giơ cánh tay bé nhỏ lên vừa lau mồ hôi vừa liến láu: “Mẫu thân, mẫu thân, A Ly mang mía trên Linh Sơn về cho người đây, là A Ly tự tay chặt đó…”, nghĩ gì đó lại nói, “A Ly toàn chọn những cây to nhất để chặt, hi hi hi”, cười xong thì quay người bụm miệng, cố hết sức kéo tay nải kia nhích từng bước đến chỗ chúng ta.

    Ta định qua đó giúp nó, nhưng bị Dạ Hoa ngăn lại: “Kệ nó kéo một mình đi”.

    Sự chú ý của ta dồn cả vào cục bột, nên không để ý sau bụi hoa vô danh đột nhiên lộ ra một bóng người. Trong tay bóng người này cũng có một tay nải, so ra còn nhỏ hơn nhiều tay nải của cục bột.

    Hắn rảo bước đến trước mặt chúng ta, dưới ánh sáng nhàn nhạt của đèn lồng, khuôn mặt thư sinh trắng trẻo đờ ra.

    Cục bột nhỏ tiến lên phía trước, nói: “Thành Ngọc, Thành Ngọc, đây là mẫu thân của ta, ngươi xem, mẫu thân ta rất đẹp phải không?”.

    Hóa ra tên thư sinh mặt trắng kia là chính là Thành Ngọc Nguyên Quân – kẻ rất giỏi trò vuốt râu cọp, chuyên bày ra những trò to gan lớn mật.

    Thành Ngọc đờ đẫn nhìn ta, nhìn một lúc lâu, mới giơ tay ra nhéo vào đùi mình, đau đến mức xuýt xoa, trong lúc xuýt xoa, hắn bật ra một câu: “Quân thượng, tiểu tiên có thể sờ vào nương nương một cái được không?”.

    Dạ Hoa ho một cái. Còn ta sững sờ.

    Tuy Thành Ngọc mặc áo choàng rộng, mặc đồ nam giới, nhưng giọng nói lại “nhão nhoét”, trước ngực cũng phập phồng, nhấp nhô, chẳng giống nam tử chút nào. Theo kinh nghiệm sáng suốt của bản thượng thần đã nhiều năm giả nam, thì Thành Ngọc Nguyên Quân này hẳn là một nữ nguyên quân.

    Dạ Hoa còn chưa nói gì, cục bột đã nhảy dựng lên, chắn trước mặt ta, vênh mặt nói: “Cái tính vừa nhìn thấy gì lạ là muốn sờ một cái của ngươi còn chưa bị Tam gia gia của ta trị sao, mẫu thân ta là của phụ quân ta, chỉ có phụ quân ta được sờ, ngươi sờ cái gì mà sờ?”. Dạ Hoa khẽ cười một tiếng, ta ngước lên nhìn chiếc đèn lồng treo trên nóc đình.

    Thành Ngọc mặt xám ngoét, ấm ức nói: “Ta đã lớn ngần này, lần đầu tiên mới nhìn thấy một nữ thượng thần. Sờ một cái cũng không được sao?”.

    Cục bột nhỏ nói: “Hừ”.

    Thành Ngọc tiếp tục ấm ức nói: “Ta chỉ sờ một cái thôi, chỉ một cái thôi, cũng không được sao?”.

    Cục bột nhỏ tiếp tục nói: “Hừ”.

    Thành Ngọc rút một chiếc khăn từ trong tay áo ra, chấm chấm nước mắt nói: “Ta tuổi trẻ, vô ý bị đưa lên Thiên Đình làm thần tiên, ngày ngày bị tam điện hạ sai bảo, bao năm qua thê thảm biết bao, ta cũng chẳng dám trông mong gì, nguyện vọng bình sinh chỉ là, khi gặp một nữ thượng thần có thể chạm một cái, ý nghĩ nhỏ nhoi này cũng không thể thỏa nguyện, Ti Mệnh thật tàn nhẫn với ta”.

    Dáng vẻ buồn bã của nàng ta đúng là như cha chết mẹ chết. Ta bỗng “à” ra, vị Tam điện hạ mà nàng ta nhắc đến, chính là Tam gia gia mà cục bột nói, tức là đệ đệ của Tang Tịch, tam thúc của Dạ Hoa – Liên Tống Quân.

    Cục bột nhỏ nhệch miệng, hết nhìn ta lại nhìn phụ quân nó, mãi lâu sai cuối cùng mới nói: “Được rồi, ngươi sờ đi, nhưng chỉ cho sờ một cái thôi”.

    Dạ Hoa lườm Thành Ngọc một cái, quay lại với bức họa trên bàn đá, nhấc bút lên khẽ nói: “Dám trêu ghẹo vợ ta, lừa gạt con ta trước mặt ta, Thành Ngọc, gần đây ngươi càng ngày càng tiến bộ đấy”.

    Thành Ngọc đang hí hửng giơ tay lên, còn chưa chạm vào vạt áo ta, đã vội buông tay xuống.

    Cục bột nhỏ kéo tay nải nặng trịch kia vào trong đình, rồi mở ra, quả nhiên là mía đã chặt thành từng tấm. Nó chọn ra một tấm to nhất rồi đưa cho ta, sau đó lại chọn một tấm to không kém đưa cho phụ quân nó. Nhưng tay trái Dạ Hoa đang cầm bút, tay phải đã hỏng rồi, nên không thể cầm lấy.

    Cục bột nhỏ chạy qua, kiễng chân ôm lấy cánh tay phải không còn tri giác của Dạ Hoa, chun mũi sụt sịt, hai giọt nước mắt long lanh lăn xuống, rồi òa lên: “Tay phụ quân không khỏi sao, bao giờ thì phụ quân mới có thể bế A Ly đây”.

    Sống mũi ta cay cay. Chiết Nhan nói cánh tay của chàng một vạn, tám nghìn năm nữa mới có thể khỏi, chàng đang giấu cục bột, đang giấu ta, muốn ra sao thì ra thế ấy, cũng không thèm coi trọng. Ta vì phối hợp diễn xuất với chàng, nên cũng đành không coi trọng. Nhưng trong lòng ta vẫn canh cánh chuyện này, có điều ván đã đóng thuyền, đau buồn hơn nữa cũng không giải quyết được, ta thầm tính toán, từ giờ về sau, ta sẽ là cánh tay phải của chàng.

    Dạ Hoa đặt bút xuống, một tay giang ra ôm lấy cục bột, nói: “Ta chỉ cần một tay vẫn ôm được con, con trai không nên hơi tý là rơi nước mắt, sẽ ra thể thống gì”. Ánh mắt lướt qua ta, nửa cười nửa không: “Tuy ta luôn cảm thấy mỹ nhân u sầu có vẻ đẹp rất riêng, nhưng nàng u sầu thế này nhìn khổ sở quá. Mấy hôm trước ta cảm thấy cánh tay này đã có chút tri giác, nàng chớ nên lo lắng”.

    Ta thầm than một tiếng, ngoài mặt vẫn tỏ ra vui mừng, nói: “Ta đương nhiên biết rằng cánh tay của chàng không lâu nữa sẽ khỏi, nhưng không biết sau khi khỏi rồi có linh hoạt như xưa không. Chàng vẽ rất đẹp, nếu vì thế mà không vẽ nữa, sau này ta và cục bột nhỏ muốn vẽ tranh lại phải phiền đến người khác, thì không được tiện cho lắm”.

    Chàng cúi đầu khẽ cười, buông cục bột ra rồi nói: “Tay trái ta còn linh hoạt hơn tay phải, cho dù tay phải không khỏi thì cũng không sao. Nhưng bây giờ vẽ luôn cho nàng một bức có được không?”.

    Ta nhếch môi cười. Quả không hổ là người được Thiên Quân chọn để kế vị, ngoài đánh giết ra, chàng còn có bản lĩnh này.

    Thành Ngọc đứng im thin thít từ nãy giờ lập tức xí xớn bước tới, nói: “Nương nương phong thái trác việt, họa sĩ tầm thường đâu dám hạ bút, e rằng chỉ có quân thượng mới có thể vẽ lại được tiên thế của nương nương, tiểu tiên đi trước lấy bút mực, giá vẽ cho quân thượng”.

    Mấy câu nói này của Thành Ngọc thật làm người ta vui vẻ, ta liền đồng ý.

    Thành Ngọc chạy tới chạy lui như một cơn gió mang bút mực giấy nghiên, giá vẽ về, theo ý của Dạ Hoa, ta ôm cục bột nhỏ ngồi nghiêng nghiêng, thấy Thành Ngọc ngồi không bên cạnh, nên cũng gọi nàng ấy qua, ngồi xuống bên cạnh ta, để Dạ Hoa nhân thể vẽ cho nàng ấy một bức.

    Cục bột nhỏ nép trong lòng ta vặn vẹo mấy cái.

    Dạ Hoa mỉm cười nhíu mày, không nói gì, lúc hạ bút còn khẽ cười với ta một cái, nụ cười này của chàng phản chiếu nền trời đen thăm thẳm sau lưng chàng, ánh nến bập bùng, giống như ánh sáng từ ba nghìn thế giới hội tụ, lòng ta hễ xao động là dái tai đã nóng bừng.

    Cho dù tay phải không thể cử động, nhưng tư thế vẽ của chàng vẫn rất đẹp mắt, tự nhiên. Ta tự cảm thấy con mắt chọn chồng của mình quả không tồi chút nào.

    Lúc hoàn thành bức tranh, ta thấy chưa mất một canh giờ, cục bột nhỏ đã ngủ say trong lòng ta. Thành Ngọc chạy qua nhìn, chỉ dám than mà không dám giận, miệng méo xệch: “Tiểu tiên ngồi bao lâu như thế, quân thượng thánh minh, xấu đẹp gì cũng phải vẽ một góc áo của tiểu tiên chứ”.

    Ta ôm cục bột nhỏ cũng bước qua xem sao.

    Bức tranh do Dạ Hoa dùng tay trái vẽ, cũng đẹp chẳng kém so với dùng tay phải. Nếu để nhị ca ta biết được tài năng này của chàng, hẳn sẽ coi chàng là tri kỷ.

    Ta cử động làm cục bột tỉnh dậy, chớp chớp mắt rồi từ trên đầu gối ta nhảy xuống. Nó nhìn bức tranh, chậc chậc hai tiếng hỏi: “Thành Ngọc, sao không có ngươi?”.

    Thành Ngọc ai oán liếc nó một cái.

    Ta thấy Thành Ngọc đáng thương, vỗ vỗ lên vai nàng ấy, an ủi: “Mấy hôm nay thể lực của Dạ Hoa có suy giảm một chút, vẽ bằng một tay đã đủ mệt rồi, ngươi nên thông cảm cho chàng”.

    Tay phải Thành Ngọc bưng miệng, khụ khụ: “Thể, thể lực suy giảm”.

    Động tác nhúng bút vào chậu rửa bút của Dạ Hoa khựng lại, ta nhìn thấy cây bút lông thỏ cán bạch ngọc trong tay chàng gãy làm đôi.

    Khụ khụ, nói sai rồi.

    Cục bột nhỏ ngây ngô nhìn Thành Ngọc, chất giọng non nớt cất lên: “Thể lực suy giảm là ý gì? Có phải tuy phụ quân ôm được A Ly nhưng lại không ôm được mẫu thân không?”. Ta cười ha ha hai tiếng, lùi về sau một bước. Chân còn chưa chạm đất, trời đất đã xoay mòng mòng. Sau khi ta định thần lại thì người đã bị Dạ Hoa vác trên vai.

    Ta kinh ngạc.

    Chàng nhẹ nhàng dặn dò Thành Ngọc: “Thu dọn những thứ trên bàn, ngươi đưa A Ly về điện của nó nghỉ ngơi”.

    Thành Ngọc rũ tay áo thưa “vâng”, cục bột nhỏ đưa hai tay bịt mắt, lại kêu lên “đồ háo sắc, đồ háo sắc” với chàng, Thành Ngọc vội vàng đưa tay ra bịt miệng cục bột nhỏ.

    Năm vạn năm trước khi ta và Tang Tịch đính ước, cha mẹ dạy ta cách làm dâu là phải theo Thiên Cung, nhưng khi cùng Dạ Hoa thì lại chẳng hề theo quy định của Thiên Cung, trước đây cùng Ly Kính vì tuổi nhỏ trong sáng, những chuyện trong khuê phòng chưa hề dám làm gì, ta đắn đo trong lòng, cảm thấy chuyện đã như thế này, thì chỉ có thể theo tập tục của Thanh Khâu nhà ta.

    Tam ca Bạch Kỳ của ta từng viết một bài hát, rằng: “Muội muội cứ can đảm đi về phía trước, nhắm chuẩn rồi lập tức ra tay, dùng dây thừng mà trói, dùng cần câu mà câu, nếu muội chỉ chậm một chút, thì ca ca trong lòng đã bị người khác bắt đi rồi”. Tam ca của ta, huynh ấy là một nhân tài, bài hát đó tuy giản dị nhưng đã phản ánh được phong tục của Thanh Khâu nhà ta.

    Ánh đèn vàng nhạt chiếu khắp cung phản chiếu bóng ta và Dạ Hoa hòa làm một, chàng sải bước rất nhanh, ta nằm sấp trên vai chàng, nhìn thấy sắp ngoặt ra khỏi hành lang, rẽ sang Tẩy Ngô cung, đầu óc ta choáng váng mụ mị, nói: “Thiên Cung nhà chàng luôn để ý tới thể thống, chàng vác ta như thế này, còn ra thể thống gì nữa?”.

    Chàng cúi đầu khẽ cười, đáp: “Lúc nào cũng để ý đến thể thống, khó tránh sẽ mất nhiều hứng thú, thi thoảng ta cũng muốn không cần để ý thể thống một phen”.

    Thế là hai người chúng ta đã rẽ sang điện Tử Thần của chàng một cách cực kỳ không ra thể thống như vậy. Một tay chàng vác bản thượng thần vừa bất tài vừa “lớn xác”, bước đi vững vàng, không hề thở dốc lấy một hơi. Tiểu tiên nga trong điện của chàng thấy vậy liền hiểu ý lui ra, bước cuối cùng hai gò má nàng ta đỏ ửng cả lên, giúp chúng ta đóng cửa lớn lại.

    Việc ta và Dạ Hoa làm hết sức đường hoàng, tiểu tiên nga này đỏ mặt hẳn do chưa từng trải mà thôi.

    Lần trước ở Thủy Tinh cung ở Tây Hải, Dạ Hoa hết sức dịu dàng, tinh tế, chẳng hiểu vì sao đêm nay, ôi, chàng lại hơi thô bạo.

    Chàng thả ta xuống giường, đầu ta gối lên cánh tay phải của chàng, tay trái chàng ôm ghì lấy ta, tìm đôi môi ta, khẽ cười cắn lấy một cái. Tuy rằng không đau, nhưng ta cảm thấy không thể để chàng được lợi, định bụng sẽ cắn trả, thì bờ môi chàng đã lướt đến tai ta.

    Dái tai bị miệng chàng ngậm chặt, mút đi mút lại, bị mút đến phát đau, chàng lại cắn khẽ một cái nữa, một cảm giác tê giật lập tức chạy dọc toàn thân ta, ta nghe thấy mình thở hổn hển nhỏ như tiếng muỗi.

    Giữa tiếng thở hổn hển của ta, môi chàng dần dần trượt xuống dưới, chẳng may lại gặp vật cản, chính là chiếc váy đỏ trên mình ta. Đây là chiếc váy mà khi xưa ta còn nhỏ, lúc về động Hồ Ly nhị tẩu đã tặng ta, nói là đồ quý dùng thứ tơ gì đó dệt thành. Đối với kẻ hiểu biết nông cạn như ta, chỉ biết rằng chiếc váy này mặc vào đã khó, cởi ra càng khó hơn. Lần này chàng chỉ có một cánh tay còn cử động được, lại cởi chiếc váy vô cùng khó cởi của ta một cách suôn sẻ, trong nháy mắt ta thấy chiếc váy vừa nãy còn bận trên người ta, chàng chỉ cần vung tay lên một cái đã rơi xuống đất.

    Chàng cởi xiêm y của ta dễ dàng như vậy, nhưng đến lúc cởi y phục của mình lại lóng nga lóng ngóng. Ta nhìn không thuận mắt, bèn đứng dậy giúp chàng, chàng chỉ cười một tiếng. Tay ta giơ lên cởi áo choàng của chàng, chàng liền sáp đến, đôi môi du ngoạn trên cổ ta, ta chẳng thể làm gì được, tay cũng mềm nhũn, đành cố gắng kéo y phục của chàng ra.

    Ta không thể không khâm phục bản thân, kéo kéo co co như vậy cũng cởi được y phục của chàng.

    Chàng vùi đầu vào lồng ngực ta, mút mát vết sẹo trên ngực. Vết sẹo ấy đã lành được hơn năm trăm năm, vốn đã chẳng còn cảm giác gì, nhưng khi chàng hôn lên đó, không hiểu tại sao, từ đầu đến chân ta bỗng mềm đi, trái tim giống như bị mèo cào, không rõ là cảm xúc gì, chỉ cảm thấy vô cùng khó chịu. Hai tay ta vòng lên ôm cổ chàng, mái tóc đen nhánh của chàng buông xõa, xổ trên tay ta, hễ cử động là tóc lại quét nhẹ vào tay, ta ngẩng đầu lên hổn hển. Chàng ghé sát tai ta, thì thầm: “Khó chịu à?” Tuy hỏi ta dịu dàng, âu yếm là vậy, nhưng tay lại mơn man vuốt dọc sống lưng ta.

    Bình thường, tay của chàng luôn lạnh giá, nhưng giờ đây lại nóng hừng hực. Ta cảm thấy những nơi bị chàng mơn trớn, tựa như quả dầu mới vớt ra khỏi nồi, mềm tới mức chỉ cần cắn một cái là có thể vỡ vụn ra. Đôi môi chàng lại trượt xuống cằm ta, day nhẹ từng chút, từng chút một. Ta mím môi ngăn tiếng thở càng lúc càng dốc, cảm thấy có thứ gì đó trong cơ thể đang đâm chồi nảy lộc nhanh chóng, nháy mắt đã biến thành đại thụ chọc trời.

    Cái cây ấy muốn quấn thật chặt người đang ôm ta.

    Đôi môi chàng men theo cằm di chuyển đến miệng ta, nhẹ nhàng hôn lên đó, lại cắn môi dưới của ta, tách răng của ta ra. Ta bị chàng quấy rầy không chịu nổi, dứt khoát hôn lại một cách dữ dội, ra tay trước là kẻ mạnh, đẩy lưỡi vào khoang miệng của chàng. Chàng sửng sốt giây lát, tay luồn qua sau eo ta, bấu mạnh một cái, ta bị kích thích đến mức run lên, đầu lưỡi quên cả chuyển động, đến khi phản ứng lại, đã bị lưỡi chàng đi vào trong miệng…

    Quấn quấn quýt quýt khiến ta rạo rực vô cùng, nhưng không hiểu chàng định tiếp tục màn dạo đầu này đến lúc nào, đến khi lưỡi chàng đi ra khỏi miệng ta, ta không kìm được thôi thúc nói: “Chàng… chàng mau lên”, lời vừa nói ra, âm thanh nũng nịu đó khiến ta giật thót mình.

    Chàng lặng người, cười đáp: “Tay của ta không cử động được, Thiển Thiển, nàng nhích lên chút đi”.

    Giọng nói trầm trầm của chàng dễ nghe biết bao, ta ngây ngất đến mức đầu óc trở nên mụ mị, liền làm theo lời chàng, nhích lên trên một chút.

    Khi chàng đi vào, ta ôm lấy cánh tay của chàng không thể kìm chế, móng tay bấu mạnh vào da thịt, chàng kêu “hừ” một tiếng, rồi lại ghé sát tai ta hổn hển thở: “Ngày mai ta sẽ sửa móng tay cho nàng”.

    Khi trước lúc bày trò bói toán ở trần gian, lúc vắng khách, ngoài đọc truyện ra, thỉnh thoảng ta cũng đọc sách vở chính thống. Trong một cuốn sách kinh điển có nhắc đến câu “phát hồ tình, chỉ hồ lễ”, ý nói tình yêu có thể nảy sinh từ tình lý, nhưng phải biết nương theo đạo đức lễ nghi mà dừng lại. Thập sư huynh cùng ta mở hàng bói lúc đó cảm thấy, người đề ra quan điểm này bị điên, ta rất tán đồng với huynh ấy. Bản thượng thần sống một vạn tám nghìn năm mới có một đóa hoa đào, nếu lúc nào cũng phải khắc chế bản thân, thì đúng là tự ngược đãi mình.

    Xong chuyện ta tựa vào lòng Dạ Hoa, còn chàng nghiêng mình nghịch mấy lọn tóc của ta, không biết đang nghĩ những gì. Ta cảm thấy đầu óc mình vẫn mụ mị như cũ.

    Mụ mị một lúc, rồi lại mơ mơ màng màng, bỗng nhớ ra một chuyện rất quan trọng.

    A di đà Phật, tứ ca nói cũng không hoàn toàn sai, ta một vạn tám ngàn năm mới được yêu, thực sự phải điên dại một lần. Ta lên Cửu Trùng Thiên chăm sóc Dạ Hoa lâu như thế, vậy mà lại quên béng mất chuyện định hễ gặp chàng là nói với chàng ngay.

    Ta vừa trở mình lại ép ngay lên ngực Dạ Hoa, mắt đối mắt với chàng, ta hỏi: “Chàng còn nhớ lúc ở Tây Hải thiếp nói muốn từ hôn với chàng không?”.

    Chàng cứng người, cụp mắt xuống nói: “Còn nhớ”.

    Ta hôn chàng, day chóp mũi mình lên chóp mũi chàng, nói: “Khi ấy, thiếp còn chưa nhìn thấu lòng mình, câu nói đó chàng đừng để tâm, bây giờ hai ta tình nồng ý đượm, đương nhiên không thể từ hôn. Khi ở Tây Hải, rảnh rỗi quá nên ta có xem ngày, ngày mùng hai tháng chín nên cưới gả, động thổ, giết mổ, cúng tế, tóm lại là ngày lành tháng tốt, chàng xem có nên nói với ông nội chàng, ngày mùng hai tháng chín này tổ chức hôn lễ không?”.

    Chàng bỗng mở choàng mắt, trong đôi con ngươi đen lay láy phản chiếu nửa khuôn mặt ta, rất lâu sau, mới nghèn nghẹn giọng nói: “Nàng vừa nói gì?”.

    Ta thầm điểm lại những gì đã qua trong lòng, cảm thấy không nói gì đặc biệt cả, a, có lẽ theo quy củ Thiên Cung phải do Dạ Hoa tìm Thiên Quân bàn bạc ngày cưới, lại không hợp với thể thống sao?

    Ta ngẫm nghĩ, bèn tiến tới áp sát mặt chàng: “Là thiếp suy nghĩ không chu đáo, chuyện này để chàng làm thì không trịnh trọng cho lắm, nếu không thiếp đi tìm cha mẹ thiếp, rốt cuộc chúng ta thành hôn vẫn là chuyện trọng đại, phải do người lớn trong nhà nói ra mới phải lẽ”.

    Khi ta nói xong, cơ thể bỗng bị xiết mạnh một cái, ta khẽ rên một tiếng. Chàng ôm ta vào lòng, lại một lúc sau mới nói: “Nàng nói lại lần nữa, nàng muốn cùng ta thế nào?”.

    Ta sững người. Ta muốn cùng chàng thế nào? Chẳng phải ban nãy vừa nói rõ lắm sao? Đang định cất tiếng trả lời chàng một lần nữa thì ta chợt hiểu ra. Khụ khụ, Dạ Hoa, chàng định bắt ta tỏ tình sao?

    Những sợi tóc đen như mun của chàng xõa ra, quấn lấy ta, đôi mắt đen thăm thẳm như đầm sâu, hương hoa đào ngan ngát trong màn, giường, gương mặt ta đỏ bừng, những lời đè nén trong lòng không hiểu bị thứ gì mê hoặc, sểnh chút là đã nói tuột ra khỏi miệng. Ta nói: “Thiếp yêu chàng, thiếp muốn lúc nào cũng được ở bên chàng”.

    Chàng không nói gì.

    Con gái Thanh Khâu chúng ta luôn thẳng thắn như vậy, một là một, hai là hai, nhưng Dạ Hoa từ nhỏ đã lớn lên trên Cửu Trùng Thiên, chẳng nhẽ lại chê câu nói của ta phóng túng mà chối bỏ sao?

    Ta đang suy nghĩ rất lung, chàng lặng im một lát nữa, đột nhiên trở mình ép ta xuống dưới, toàn cơ thể phủ phục lên mình ta. Ta ôm lấy tấm lưng nhẵn mịn của chàng, cả cơ thể bị chàng quấn lấy thật chặt, thật sát. Chàng cắn lên dái tai ta, khẽ nói: “Thiển Thiển, sinh thêm cho ta một đứa con nữa nhé”. Ta chỉ cảm thấy “đùng” một tiếng, máu huyết toàn thân như dồn ngược lên tai, tai nóng rừng rực. Ta cảm thấy câu này có điểm gì đó không đúng, nhưng nhất thời chưa nghĩ ra điểm nào không đúng.

    Cả đêm chìm chìm nổi nổi, tầm mặt trời bắt đầu mọc mới thiếp đi. Lần đầu tiên trong đời ta biết mùi vị đêm xuân ngắn ngủi là thế nào.

    Khi tỉnh lại, trong điện vẫn còn tối, Dạ Hoa đã say giấc nồng. Hễ tỉnh dậy là có thể nhìn thấy chàng như thế này, thật hạnh phúc biết bao.

    Ta khẽ rướn người lên để ngắm thật kỹ khuôn mặt chàng. Khuôn mặt chàng giống Mặc Uyên nhưng ta chưa bao giờ nhận nhầm chàng là Mặc Uyên, giờ đây nhìn kỹ lại có nét không giống. Ví như đôi mắt Mặc Uyên không đen thăm thẳm như mắt chàng, cũng không lạnh lùng điềm tĩnh như chàng.

    Khuôn mặt của Mặc Uyên chỉ hiện diện sự trang nghiêm tột cùng, gần đây mỗi lần nhìn thấy gương mặt Dạ Hoa, ta lại cảm thấy trong tim trỗi dậy một cảm giác thật khó nói.

    Ta ngắm nhìn gương mặt chàng rất lâu, sau đó cơn buồn ngủ ập đến. Ta chỉ biết chàng đang say ngủ, giở mình định ngủ tiếp thì bị chàng vươn tay ôm vào lòng. Ta giật mình, chàng vẫn nhắm mắt, nói: “Nàng cứ nhìn thêm lúc nữa, đừng ngại, nhìn mệt thì hãy nằm nép trong lòng ta một lát, góc tường không ấm áp bằng lòng ta đâu”.

    Dái tai ta đỏ lựng lên, ngượng ngùng cười: “Có con muỗi đậu trên mặt chàng, thiếp đang định bắt giùm chàng, chàng vừa nói thì nó thấy động bay mất rồi”.

    Chàng “à” một tiếng, nói: “Nàng vẫn còn sức bắt muỗi giúp ta”, lại bế ta lên người chàng, “Dậy rồi hay lại ngủ thêm lát nữa?”.

    Một tay ta đè lên vai chàng, chú ý không đè quá mạnh, một tay sờ mũi, nói: “Ngủ thì vẫn muốn ngủ, nhưng người nhớp nháp quá, ngủ cũng không nổi, bảo họ mang hai thùng nước vào, chúng ta tắm trước đã rồi ngủ sau”.

    Chàng đứng dậy với lấy áo quần rồi xuống giường, gọi tiểu tiên nga dâng nước.

    Qua đêm nay, ta cảm thấy vết thương trên người Dạ Hoa đã khá lên nhiều, nên cũng an tâm hơn, thầm tính toán xem cũng đến lúc nên giảm một chút lượng thuốc bình thường vẫn lén bỏ vào trong trà của chàng.

    Khi định hôn ước giữa ta và Dạ Hoa, Thiên Quân mới chỉ tặng chút quà, chứ chưa nạp sính lễ. Ta thầm tính chọn ngày để cha mẹ đến nhắc khéo Thiên Quân, giục ngài mau mau đem sính lễ, chọn ngày, đương nhiên tốt nhất vẫn là ngày mùng hai tháng chín rồi.

    Hiện nay Dạ Hoa chẳng còn lại bao nhiêu tu vi, ta sợ rằng khi chàng kế ngôi Thiên Quân sẽ không chịu nổi đại nghiệp gồm chín đạo thiên lôi, tám mươi mốt đạo hoang hỏa. Từ xưa tới nay, đây là đại nghiệp mà Thiên Quân và Thiên hậu khi kế nhiệm phải cùng chịu, ta muốn chúng ta mau mau thành hôn, khi chịu đại nghiệp ta sẽ có thể chịu thay cho chàng. Với tu vi hiện giờ của ta, tuy khi phong ấn Kình Thương đã mất đi không ít nhưng một mình chịu thiên lôi hoang hỏa thì vẫn có thể chịu được. Nhưng đến lúc phải gạt Dạ Hoa như thế nào, không cho chàng ra ngoài lại là một vấn đề. Chắc chắn Dạ Hoa không dễ gạt như ta hồi còn trẻ.

    Ta nghĩ rất nhiều, sau khi tắm gội lại từ từ say ngủ, cứ tưởng từng chuyện từng chuyện đang được tháo gỡ một cách suôn sẻ, nào ngờ sau khi tỉnh dậy, những lời của Dạ Hoa lại phá vỡ hết những dự tính của ta.

    Chàng ôm ta vào lòng, rầu rĩ nói, mùng hai tháng chín không được rồi, đại hôn lễ của chúng ta ít nhất phải chậm trễ hai tháng nữa.

    Vì hai tháng này, chàng phải xuống trần lịch kiếp.

    Kiếp số này, cũng do bốn con ác thú kia mà ra.

    Năm đó, sau khi cha ta bị bốn con súc sinh cắn bị thương, ta cũng hơi ghét chúng. Ban đầu ta còn tự mắng mình là nhỏ nhen, nhưng giờ lại cảm thấy, sự ghét bỏ này cũng rất có lý. Tuy Dạ Hoa vâng lệnh Thiên Quân đi hủy cỏ Thần Chi ở Doanh Châu, nhưng Thiên Quân chưa từng hạ lệnh cho chàng chém bốn con ác thú do Phụ Thần giữ lại. Bao nhiêu năm sau khi Phụ Thần về nơi hỗn độn, những bát vỡ đĩa sứt cũng được Thiên tộc đem lên Cửu Trùng Thiên cất giữ, chứ chớ có nói đến bốn con mãnh thú mà Phụ Thần rót một nửa thần lực vào chúng.

    Dạ Hoa hủy cỏ Thần Chi là công lớn, chém bốn con ác thú giữ cỏ lại là tội lớn. Công chẳng bù nổi tội, cuối cùng bị trừng phạt xuống trần lịch kiếp.

    May mà trong hàng triệu thế giới, lão già Thiên Quân lại chọn phàm trần cho Dạ Hoa, thời gian nơi đó không giống với thế giới thần tiên bốn bể tám cõi chúng ta. Một giờ ở chỗ chúng ta bằng một năm ở nơi đó. Nên tuy Dạ Hoa bị đày luân hồi một kiếp sáu mươi năm cũng chỉ phải xa ta có hai tháng mà thôi.

    Nhưng cho dù chỉ phải xa Dạ Hoa hai tháng ta vẫn lưu luyến không nỡ. Ta không hiểu tại sao mình lại cảm thấy như vậy, nhưng suy nghĩ ấy cứ đau đáu trong lòng, vừa ngọt ngào mà lại vừa sầu thảm.

    Có lẽ do ta và Dạ Hoa số chẳng hợp nhau, mới không được hưởng hạnh phúc ấm êm. Nghĩ vậy, ta thở dài một tiếng, cảm thấy buồn bã tột cùng.

    Dạ Hoa nói: “Nàng có đồng ý chờ ta hai tháng không?”.

    Ta bấm ngón tay tính, đáp: “Đầu tháng tám chàng xuống trần gian, nếu ở trần gian đợi hơn hai tháng, vậy ngày thành hôn dời đến tháng mười đi, tiết Tiểu dương xuân tháng mười, hoa đào hoa mận nở bung cũng là thời khắc đẹp”. Nghĩ một lát lại lo lắng nói, “Tuy với thiếp chỉ là hai tháng ngắn ngủi, nhưng với chàng lại là một đời dài lê thê, chàng đã xem qua số mệnh mà Ti Mệnh viết cho chàng chưa?”.

    Số mệnh mà Ti Mệnh viết cho Nguyên Trinh lần trước, sau khi may mắn đọc được, ta không khỏi muôn phần bội phục tài hoa của hắn.

    Ta nhận sự gửi gắm của Thiếu Tân, xuống phàm trần để sửa đổi một chút số mệnh của Nguyên Trinh, nhưng không được để vở kịch do Ti Mệnh khổ công sắp đặt diễn ra, không dám chắc hắn có thù ta hay không. Nếu vì thế mà hắn định trả thù lên đầu Dạ Hoa, sắp xếp một mối tình tay ba tay tư… Nghĩ thế mà ta rùng hết cả mình.

    Dạ Hoa mỉm cười, hôn lên trán ta nói: “Lần này ta xuống trần, số mệnh không phải do Ti Mệnh viết, Thiên Quân bàn bạc với các vị Tôn giả, trong cuốn sổ của Ti Mệnh, trang của ta để trắng, tùy duyên ra sao, còn phụ thuộc vào tạo hóa của ta”.

    Ta nhẹ nhõm một chút, để an tâm, ta vẫn dặn dò thêm: “Chuyến này chàng xuống trần lịch kiếp, cho dù uống nước Vong Xuyên trong điện của U Minh Ti Minh chủ thì cũng không được lấy người con gái khác”. Chàng không đáp lời, ta dùng dằng một lát, nói, “Thiếp chẳng lo gì, chỉ lo, chỉ lo chuyến này chàng đầu thai chuyển kiếp, rồi mấy bông hoa đào khác lại bay đến. Chàng, chàng cũng biết rằng, lòng thiếp xưa nay vốn hẹp hòi, quyết không chịu chia sẻ chàng với người khác”.

    Chàng vén những sợi tóc lên bên vành tai ta, vỗ vào má ta, nói: “Bây giờ một bóng hoa đào còn chẳng có, nàng đã ghen rồi ư?”.

    Ta ngượng ngùng ho hai tiếng, ta tin tưởng tình ý của Dạ Hoa, nếu đầu thai rồi chàng vẫn nhớ tới ta, tất nhiên ta không cần phòng bị trước thế này. Nhưng đám tiên giả xuống trần gian lịch kiếp, đều phải chấp hành một quy định biến thái, đó là phải uống một bát nước Vong Xuyên lớn, quên hết chuyện kiếp trước, sau khi phục vị mới có thể nhớ lại chuyện xưa.

    Chàng vuốt nhẹ lên mái tóc ta, cười nói: “Nếu khi ấy ta đem đóa hoa đào về, nàng sẽ làm thế nào?”

    Ta ngẫm nghĩ, cảm thấy lúc này phải nói một câu gì thật độc địa, bèn vênh mặt, làm bộ gian tà, nói: “Nếu thế, thiếp sẽ cướp chàng về Thanh Khâu, nhốt trong động Hồ Ly, ngày ngày chàng chỉ có thể ngắm một mình thiếp, lúc dùng cơm cũng chỉ có thể ngắm thiếp, lúc đọc sách cũng chỉ có thể ngắm thiếp, lúc vẽ tranh cũng chỉ có thể ngắm một mình thiếp mà thôi”.

    Ánh mắt chàng rực sáng, tay rẽ mấy sợ tóc lòa xòa trước trán ta, hôn lên sống mũi ta, nghèn nghẹn nói: “Nàng nói thế, ta lại muốn nàng cướp ta về ngay bây giờ”.

    Chú thích:

    39. Ý chỉ tình duyên.

    40. Bỉ dực điểu có nghĩa là Chim liền cánh. Chim liền cánh, cây liền cành tượng trưng cho sự thủy chung, chính vì thế tộc này mới không có lệ kết hôn với người ngoại tộc (ND).

    41. “Dưới trăng trước hoa” có nghĩa bóng chỉ chuyện ái ân, nhưng nhân vật Bạch Thiển lại hiểu theo nghĩa đen là ngắm trăng thưởng hoa (ND).
     
    Đang tải...


  2. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88

    Ngày mười lăm tháng tám chơi Tết trung thu, rượu hoa quế trong cung Quảng Hàn cất từ năm ngoái đã xuống men, Thường Nga lệnh cho Ngô Cương ngoài lúc chặt cây ra thì chọn ra mấy vò rượu, tặng mỗi cung thất một vò. Ta đem bình rượu ấm được tặng cho Tẩy Ngô cung, cùng Dạ Hoa uống cạn hai chén, coi như là tiễn biệt chàng xuống hạ giới. Vốn dĩ ta muốn ở bên cạnh chàng, chàng không chịu, bắt ta phải về Thanh Khâu chờ chàng.

    Dạ Hoa không cho ta theo chàng, có lẽ sợ rằng khi ở trần gian, ta sẽ bảo vệ chàng mọi lúc mọi nơi, phá giới mà làm phép, sẽ bị phản phệ lại bản thân. Nhưng ta cảm thấy có thể để chàng chịu ít gian khổ, giày vò nhất, thì bị chính pháp thuật của mình phản phệ một đôi lần cũng chẳng sao, nên tính sẽ giả vờ về Thanh Khâu trước, để chàng an tâm, đợi sau khi chàng uống nước Vong Xuyên, đầu thai chuyển thế, rồi ta lại mặt dày đi tìm chàng.

    Yêu một người là như thế đó, lúc nào cũng muốn người mình yêu được sống tốt, người mình yêu được sống tốt, thì bản thân cũng vui vẻ. Đây chính là điều kỳ diệu của tình yêu, cho dù chịu tội, chịu khổ, nếu như trong lòng đã có hình bóng một người, thì nỗi khổ sánh ngang trời đấy cũng chỉ là sự giày vò ngọt ngào mà thôi.

    Ti Mệnh Tinh Quân lại chỉ cho ta nơi Dạ Hoa đầu thai.

    Kiếp này của Dạ Hoa được đầu thai vào một nhà danh gia vọng tộc, đời đời đèn sách ở Giang Nam, thúc bá tổ phụ đều là làm quan cả.

    Ti Mệnh vui vẻ hào hứng, tặc lưỡi than, nói xét theo kinh nghiệm nhiều năm viết số mệnh của hắn, đứa con sinh ra trong gia đình này hẳn sẽ nối nghiệp tổ tiên, nhờ ngòi bút có thể hô mưa gọi gió, khuynh đảo thiên hạ, mà xưa nay Dạ Hoa lại rất giỏi văn chương, được đầu sinh thế này vô cùng phù hợp.

    Nhưng ta biết rằng phàm các thế gia đại tộc chốn phàm trần trọng nhất là thể thống, dạy dỗ con cháu cực kỳ nghiêm khắc, rất tẻ nhạt. Con cháu họ cũng rất nghiêm khắc, rất tẻ nhạt, không hề hoạt bát đáng yêu giống những đứa trẻ bình thường trong dân gian. Dạ Hoa vốn đã không hoạt bát cho lắm, ta không chỉ mong khi đầu thai chàng có thể hoạt bát hơn, mà còn lo rằng chàng sẽ cô đơn quạnh quẽ suốt thời niên thiếu trong gia đình danh gia này.

    Gia tộc Dạ Hoa đầu thai là họ Liễu, đại thiếu gia phu nhân nhà họ hạ sinh chàng là cháu trưởng, đặt tên Liễu Ánh, tự là Chiếu Ca. Ta không thích cái tên này cho lắm, cảm thấy hơi văn vẻ, không hề phù hợp với một Dạ Hoa anh tuấn dũng mãnh chút nào.

    Ta trở về Thanh Khâu thu dọn lấy năm bộ xiêm y, gói vào tay nải, rồi lại rót trà mát, nhấp cho ngọt họng, rồi tức tốc chạy đến rừng đào mười dặm của Chiết Nhan, muốn mặt dày đi xin lão ít đan dược.

    Nhưng đi đến nửa đường thì nhìn thấy Chiết Nhan đang cưỡi mây bay tới, phía sau còn có tứ ca cưỡi Tất Phương.

    Họ dừng lại trước mặt ta.

    Hai mắt tứ ca sáng lấp lánh, nói: “Tiểu Ngũ, có lẽ hôm nay muội đã thỏa ước nguyện bao năm. Bọn ta vừa từ Tây Hải trở về, cả đêm qua Điệp Ung vật vã, sáng nay Chiết Nhan dùng truy hồn thuật đi vào hồn y, lại phát hiện hồn Mặc Uyên không còn ở trong nguyên thần của Điệp Ung. Bọn ta định đến động Viêm Hoa xem xem, Mặc Uyên đã ngủ suốt bảy vạn năm, hẳn đã chọn ngày lành là hôm nay để tỉnh dậy”.

    Ta thẫn thờ, mãi sau mới sực tỉnh. Lúc tĩnh trí thì thấy cánh tay mình đang lay lay tứ ca, miệng lắp bắp: “Sư, sư phụ tỉnh rồi ư? Người đã tỉnh rồi ư?”.

    Tứ ca gật đầu, lại nhíu mày nhắc: “Tay nải của muội rơi khỏi mây rồi kìa”.

    Ta biết rằng chưa đầy ba tháng Mặc Uyên sẽ có thể tỉnh lại, bấm ngón tay tính, hôm nay cách ngày Điệp Ung uống viên đan dược đó còn chưa đầy hai tháng, thời gian ngắn như vậy mà người đã có thể tỉnh lại. Người tỉnh lại thật rồi sao?

    Bảy vạn năm, trong bốn bể, giữa gầm trời, ta trốn tránh ở Thanh Khâu, tuy rằng không phải trải qua cảnh sinh linh lầm than trời đất đảo điên, nhưng cũng tận mắt chứng kiến đầm Thanh Khâu hạn hán chín trăm chín mươi chín lần, chứng kiến phủ nhà Chúc Âm trên núi Gia Hầu cứ trăm năm lại nhích qua bên động Hồ Ly của cha mẹ ta một trượng. Bảy vạn năm, nửa cuộc đời của ta. Ta dùng nửa đời mình để làm một việc duy nhất đó là ngóng trông sư phụ tỉnh lại. Hôm nay, cuối cùng người đã tỉnh lại rồi.

    Chiết Nhan đứng bên cạnh cúi đầu thở dài: “Cũng không uổng công tiểu tử Dạ Hoa trút toàn bộ tu vi”.

    Khóe mắt ta cay xè, ta gật gật đầu.

    Tứ ca cười nói: “Chuyện của Dạ Hoa huynh đã nghe Chiết Nhan nói, hắn cũng thực si tình. Nhưng số muội cũng không may, vừa mới trả hết nợ Mặc Uyên, thì lại nợ Dạ Hoa, Mặc Uyên muội còn có thể trả người máu tim mình suốt bảy vạn năm, vậy tu vi bốn vạn năm của Dạ Hoa, muội định thế nào?”.

    Ta xòe quạt che đôi mắt đang đỏ hoe, cay xè của mình, đáp: “Muội và Dạ Hoa cuối cùng vẫn sẽ kết thành vợ chồng, muội nghĩ rằng vợ chồng yêu thương lẫn nhau, ai nợ ai, thì không cần tính toán”.

    Chiết Nhan đứng trên mây cười, nói: “Lúc này ngươi đã ngộ thấu suốt rồi”.

    Tất Phương khẽ nói lời chúc mừng, ta cũng cảm ơn hắn một tiếng.

    Chiết Nhan và tứ ca đi trước, ta chuyển mây theo sau. Việc của Dạ Hoa tạm hoãn lại, khi ta mới đến núi Côn Luân bái sư học nghệ, cư xử chẳng ra gì, hiếm khi thể hiện đạo hiếu của đệ tử với Mặc Uyên. Sau này hiểu chuyện rồi, lúc biết tận hiếu thì sư phụ đã nằm trong động Viêm Hoa.

    Bây giờ Mặc Uyên đã tỉnh, đã cố nén niềm vui trong lòng, muốn ngay lập tức để sư phụ trông thấy, đệ tử nhỏ nhất đã trưởng thành rồi, lớn khôn rồi, biết thương yêu người khác rồi.

    Tiểu Thập Thất đã sống rất vui vẻ.

    Vì khi làm đệ tử của Mặc Uyên ta là một đệ tử nam, đang định biến lại thành bộ dạng của Tư Âm năm xưa, thì bị Chiết Nhan giơ tay cản lại, nói: “Với tu vi của Mặc Uyên, đã sớm nhận ra ngươi là nữ nhi, chỉ có điều muốn giữ thể diện cho cha mẹ ngươi nên mới không vạch trần, ngươi còn tưởng mình che mắt hắn được suốt hai vạn năm sao?”.

    Ta gấp lại chiếc quạt, giả bộ cười cười: “Nói rất phải, pháp thuật của mẹ ta chỉ che được mắt mười sáu sư huynh, còn ta luôn hoài nghi rằng có thể che mắt sư phụ thì cũng hơi hoang đường”.

    Ba người chúng ta men theo lưng chừng núi Phong Di, ta xuống mây trước tiên, nguyệt quế giữa núi tỏa hương thơm thanh mát thoang thoảng.

    Len giữa hơi thu trong mát của tháng tám, ta đi thẳng một mạch đến động Viêm Hoa.

    Giữa mây mù sương khói chờn vờn, cuối động, chính là chiếc giường băng mà Mặc Uyên đã ngủ bao năm.

    Trong thời khắc quan trọng này, mắt ta lại hơi hoa lên, ta lấy tay dụi mắt một cái, nước hoen đầy tay.

    Trên giường băng thấp thoáng một bóng người đang ngồi.

    Ta tiến lên mấy bước.

    Người ngồi trên giường băng đó, chính là, chính là sư phụ Mặc Uyên ngủ say bao năm của ta.

    Người nghiêng đầu nhìn mấy đóa hoa dại cắm trong chiếc bình bên cạnh. Tư thế, thần thái đó, không hề khác biệt so với bảy vạn năm trước, khiến ta chực rơi lệ.

    Bảy vạn năm trước, sư huynh đệ chúng ta luân phiên quét dọn phòng của Mặc Uyên, ta có thói quen cắm ít hoa theo mùa trong bình đặt trong phòng. Ngày ngày Mặc Uyên đều ngắm nghía, rồi cười khen ta như vậy.

    Khi ấy, mỗi ngày nhận được nụ cười khen ngợi của người đối với ta, ta đều cảm thấy tự hào.

    Ta làm người kinh động, người quay đầu lại, giơ tay chống má, mỉm cười nói: “Tiểu Thập Thất? Quả nhiên là Tiểu Thập Thất. Lại đây sư phụ xem xem, dạo này ngươi tiến bộ ra sao?”.

    Ta bấm móng tay vào cổ tay, vừa thở gấp, trống ngực vừa đập thình thình trong lồng ngực, hai mắt ướt nhòe, run run bước tới, hắng giọng gọi một tiếng sư phụ, biết bao cảm xúc đan xen dâng trào, vừa thương cảm vừa vui mừng.

    Người giơ tay đỡ ta, nói: “Sao lại sắp khóc thế này, à, bộ váy này đẹp lắm”.

    Chiết Nhan rẽ đám mây mù bước tới, theo sau là tứ ca, cười nói: “Ngươi ngủ suốt bảy vạn năm, giờ đã tỉnh rồi”.

    Trong động Viêm Hoa rất lạnh, ta hắt hơi mấy cái liền bị tứ ca kéo ra khỏi động. Chiết Chan và Mặc Uyên người trước kẻ sau ra khỏi động.

    Năm xưa khi trên Côn Luân, mười sáu sư huynh phía trên ta, ngoài cửu sư huynh Lệnh Vũ là do Mặc Uyên nhặt về, mười lăm sư huynh còn lại đều là con cháu Thiên tộc. Bảy vạn năm trước, sau khi Mặc Uyên mất tích, nghe nói các sư huynh đã tìm ta mấy ngàn năm mà không có kết quả. Sau này từng người từng người bị gia đình gọi về, mỗi người thực hiện một sứ mệnh riêng.

    Tứ ca từng âm thầm đến Côn Luân thăm dò một chuyến, sau đó ngậm ngùi nói, Côn Luân đông đúc ngày nào, giờ đây chỉ còn lại một mình Lệnh Vũ và vài tiểu đồng trông giữ, đáng buồn lắm thay.

    Ta không biết nếu như Mặc Uyên hỏi ta về Côn Luân, ta sẽ phải trả lời ra sao.

    Dọc đường đi về động Hồ Ly ta cứ thắc thỏm bồn chồn không nguôi.

    Không ngờ chuyến đầu tiên người đi lại không phải là Côn Luân.

    Người ngồi trong động Hồ Ly, Mê Cốc pha một ấm trà bưng lên, ta rót cho mỗi người một tách, nhân lúc ta rót trà, người hỏi Chiết Nhan: “Những năm tay ngủ say, ngươi có gặp một đứa trẻ, có dáng vẻ giống ta không?”.

    Bình trà trong tay ta chao đảo, sơ ý rót quá nửa bình lên đầu gối tứ ca.

    Tứ ca cắn răng cười với ta một cái, rồi âm thầm gạt nước trên đầu gối đi.

    Bao nhiêu năm trong bốn bể tám cõi, ta chỉ gặp một người duy nhất giống hệt Mặc Uyên, ngươi đó chính là phu quân tương lai của ta – Dạ Hoa.

    Dạ Hoa có khuôn mặt giống hệt Mặc Uyên, lúc đầu tuy ta có hơi lạ lùng, nhưng cũng chưa bao giờ nghĩ rằng bọn họ có quan hệ gì.

    Ta cảm thấy có lẽ đàn ông hoàn mỹ đều có dáng vẻ như vậy, Dạ Hoa rất hoàn mỹ, đương nhiên sẽ có dáng dấp như vậy.

    Nhưng nghe Mặc Uyên nói, hai người bọn họ không chỉ có quan hệ, mà lại còn có quan hệ rất mật thiết.

    Ta dỏng hai tai lên lắng nghe, Chiết Nhan cười ha ha, mắt liếc ta một cái, nói: “Đương nhiên có một người như thế, tiểu đồ đệ của ngươi còn rất thân với hắn là đằng khác”.

    Mặc Uyên nhìn qua phía ta, mặt ta liền đỏ bừng lên. Tình huống này hơi giống với một thiếu nữ tự đính ước với tình lang, chẳng may bị một em gái “môi mỏng” tố giác chuyện trăng gió với cha mẹ, cho nên ta cũng cảm thấy hơi ngượng ngùng.

    Chiết Nhan lại liếc mắt nhìn ta ba, bốn lượt đầy ẩn ý. Ta cũng lườm lại lão, đành cố ra vẻ thong thả, nói: “Người mà sư phụ nói tới, hì hì, chính là phu quân tương lai của đồ đệ, hì hì, chính là thái tử bây giờ của Thiên tộc, hì hì hì…”.

    Bàn tay cầm tách trà của Mặc Uyên khẽ khựng lại, cúi đầu hắng giọng, lát sau, người mới bình thản nói: “Mắt chọn nương tử của người này, haizz”. Ngẩng đầu lên, người lại hỏi: “Phu quân chưa cưới của ngươi tên gì? Sinh năm nào?”.

    Ta thành thực bẩm báo.

    Người bấm ngón tay nhẩm tính, lại bình thản nhấp ngụm trà: “Tiểu Thập Thất, đệ đệ song sinh với ta, đã bị ngươi bắt rồi”.

    Ta choáng váng: “A?”.

    Không chỉ ta mà cả Chiết Nhan và tứ ca cũng đều trợn mắt há mồm, bộ dạng như bị sét đánh trúng vậy.

    Mặc Uyên xoay xoay chén trà, nói: “Chẳng trách các ngươi kinh ngạc, đến ta cũng chỉ được biết khi phụ thân lâm chung, năm xưa mẫu thân tuy chỉ sinh ra mình ta, nhưng ta vẫn còn có một đệ đệ song sinh”.

    Mặc Uyên nói, chuyện này phải kể từ khi Mẫu thần hoài thai hai huynh đệ.

    Nghe nói năm đó, tứ cực đổ, cửu châu lở. Mẫu Thần vì vá bốn cột chống trời, nên đã bị động thai, khi sinh chỉ có thể giữ được đứa lớn, không thể giữ đứa nhỏ, Phụ Thần cảm thấy có lỗi với con trai nhỏ, đành cố lưu lại hồn phách đáng nhẽ đã tiêu tan vào vũ trụ của nó, nuôi trong nguyên thần mình của mình, muốn xem xem có thiên số và cơ duyên, để có thể tạo một tiên thai cho đứa con trai nhỏ, để nó có thể sống lại. Phụ Thần đã dành một nửa pháp lực để tạo ra một tiên thai, nhưng dù làm cách nào vẫn không thể gọi hồn phách của đứa con nhỏ tỉnh lại được. Phụ Thần bèn biến tiên thai đó thành một quả trứng chim vàng sáng lấp lánh, giấu trong núi sau núi Côn Luân, định đợi hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại sẽ dùng.

    Nhưng thiên mệnh như thế, chẳng đợi được hồn phách đứa con trai nhỏ tỉnh lại, Mẫu Thần Phụ Thần đã cùng nhau về nơi hỗn độn.

    Trước khi lâm chung, Phụ Thần có kể chuyện này cho Mặc Uyên nghe, rồi tách hồn phách của đứa con trai nhỏ trong nguyên thần ra, gửi gắm cho Mặc Uyên. Mặc Uyên nhận hồn phách của đệ đệ mình, cũng như Phụ Thần, đem nuôi dưỡng trong nguyên thần của mình. Bãi bể biến nương dâu bao bận, người em song sinh được nuôi trong nguyên thần của Mặc Uyên vẫn chưa hề tỉnh lại.

    Mặc Uyên nói: “Có lẽ khi ta dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, nó đã tỉnh lại. Bây giờ ta mới có thể trở lại, hẳn lúc ta hồn tan phách tan, nó đã tốn công thu nhặt từng mảnh hồn phách tan tác của ta lại. Ta còn láng máng nhớ, có một đứa trẻ ngồi bên cạnh cơ thể ta vá từng mảnh hồn của ta, vá suốt bảy, tám nghìn năm, vá được một nửa thì bị một đạo kim quang chiếu rọi vào trong động phủ của ta cuốn mất đi. Sau khi nó đi, ta đã có thể tự mình vá hồn, nhưng rất khó khăn, tốc độ cũng hết sức chậm chạp. Giờ nghe các ngươi kể, nó đã là thái tử của Thiên tộc, có lẽ khi ấy vị phu nhân nào đó trên trời dạo chơi Côn Luân, nuốt phải quả trứng mà Phụ Thần chôn năm nào, tiên thai đã cắm rễ trong bụng vị phu nhân đó, mới cuốn nó đi”.

    Chiết Nhan cười ha ha, nói: “Chẳng trách ta nghe nói, khi Dạ Hoa chào đời, có bảy mươi hai con chim ngũ sắc bắc cầu suốt tám mươi mốt ngày, ráng đỏ phương đông chiếu rạng suốt ba năm, hóa ra hắn là đệ đệ song sinh của ngươi”.

    Khi nãy nghe được tin này ta đã choáng váng sững sờ, thật không ngờ có một ngày lại có thể với cao có quan hệ thân thiết như thế với Mặc Uyên. Bây giờ nghe người kể ngọn nguồn, sau khi bàng hoàng, ta lại cảm thấy cực kỳ trấn tĩnh, thậm chí cảm thấy dáng vẻ của Dạ Hoa như vậy, quả đúng là đệ đệ song sinh của Mặc Uyên.

    Trong sử sách trên Cửu Trùng Thiên rõ ràng còn ghi chép, Phụ Thần chỉ có một con trai là Mặc Uyên. Có thể thấy các thần quan chép sử này đều là không đáng tin, tin vào sử sách đó, thì chẳng thà tin vào những câu chuyện mà Ti Mệnh nhàn rỗi thêu dệt nên còn hơn.

    Mặc Uyên muốn đi thăm Dạ Hoa, nhưng người vừa mới tỉnh lại, muốn khôi phục như ngày xưa còn phải đóng cửa tu luyện mấy năm. Ta lo lắng cơ thể người chưa được linh hoạt, nếu cứ khăng khăng đi xuống trần gian thì e rằng sẽ bất lợi cho việc tu luyện, nên đành kiếm một cái cớ để lấp liếm, hẹn rằng khi nào người tu luyện xong, sẽ dẫn Dạ Hoa đến gặp người.

    Động Viêm Hoa tuy rằng linh khí hội tụ, nhưng quá lạnh lẽo, không thích hợp để Mặc Uyên tu luyện. Người một lòng muốn về động phủ sau núi Côn Luân đóng cửa tu luyện như năm nào, tuy ta không muốn để người thấy cảnh tiêu điều của Côn Luân ngày nay mà đau lòng, nhưng giấy sao gói được lửa, cuối cùng thì người vẫn phải đau lòng mà thôi. Nghĩ rằng đau muộn chẳng bằng đau sớm, sau hai tuần trà, ta cùng Mặc Uyên trở về Côn Luân. Chiết Nhan và tứ ca nhàn tản rỗi rãi, cũng đi theo, còn Tất Phương cũng đi theo nốt.

    Năm người chúng ta cưỡi ba đám mây bay về Côn Luân, tứ ca từng nói Côn Luân giờ đây tiêu điều hiu quạnh vô cùng.

    Ta cũng thở dài một tiếng.

    Từ cửa núi đi xuống có rất nhiều tiển thần tiên, hoặc đứng hoặc quỳ hoặc ngồi, khí xanh khí tím trộn lại, mây mù bốc lên lưng chừng núi, tiên khí cuồn cuộn dâng cao, ai cũng có thể nhận ra đây là một ngọn núi tiên.

    Trong hai vạn năm ta học nghệ ở đây, Côn Luân luôn vắng vẻ, chỉ không quá bảy vạn năm, sao lại nhộn nhịp thế này?

    Tất Phương chở tứ ca, co móng vuốt đậu xuống, rồi lại khều một tiểu thần tiên trông có vẻ thực thà hỏi thăm.

    Tiểu thần tiên chớp chớp mắt, trả lời: “Ta cũng không biết, ta đi công chuyện ngang đây, nghe nói có một đạo long khí quấn quanh vách núi đã ba bốn ngày, rất nhiều tiên hữu đều đến đây xem, ta cũng tiện đường đến xem. Chuyến này quả không uổng công, long khí này, chậc chậc chậc, không phải long khí bình thường, tuyệt đẹp, ta ngồi đây ngắm đã hai ngày rồi. Ngươi thả con chim này đi bắt sâu, lát nữa chúng ta cùng xem, đảm bảo khiến ngươi đã mắt, bên ta còn một chỗ, đây, chúng ta ngồi đây xem…”.

    Tứ ca cảm ơn rồi từ chối ý tốt của tiểu thần tiên đó, im lặng quay về, hắng giọng nói: “Không có gì, bọn họ ngưỡng mộ phong thái của Côn Luân, nên đến chiêm bái”.

    Chiết Nhan rũ rũ tay áo, ho một tiếng, nụ cười phảng phất, nói với Mặc Uyên: “Côn Luân vốn là một tòa núi tiên mọc ra từ long cốt(42). Có lẽ nó cảm nhận được ngươi sắp quay về, nên phấn chấn tới mức xuất ra long khí để đón tiếp, thế nên đã thu hút được một số tiểu tiên thiếu hiểu biết xung quanh”.

    Mặc Uyên nhếch môi cười.

    Để tránh quấy rầy đám tiểu thần tiên ở lưng chừng núi, năm người chúng ta đều ẩn thân đi vào trong. Nhờ cửu sư huynh giữ nguyên nếp cũ, phép khóa ở cửa núi vẫn như xưa, không hề sửa đổi.

    Ta ngỡ rằng hôm nay sẽ chỉ có thể gặp mỗi Lệnh Vũ, nào ngờ vừa bước vào, cảnh tượng trước mặt làm ta giật nảy cả mình. Mười sáu sư huynh của ta, đều mặc đạo bào như khi còn làm đệ tử của Côn Luân, tóc búi kiểu đạo sĩ, đứng thành hai hàng bên cạnh con đường đá.

    Cây trong viện vẫn là cây Bà La Song mà mấy vị Phật Đà từ Tây Thiên đến uống trà mang tới. Mười sáu sư huynh của ta đứng trang nghiêm dưới bóng Bà La Song, dường như đã đứng đó suốt bảy vạn năm.

    Đại sư huynh mắt đỏ hoe trước tiên, quỳ “phịch” một tiếng xuống đất, giọng run run: “Mấy hôm trước Cửu sư đệ đưa tin tới, nói long khí ở Côn Luân bốc lên, có lúc còn có tiếng rồng gầm, không biết là điềm gì, sư huynh đệ chúng con về ngay trong đêm, tuy từng nghĩ là điềm lành sư phụ sẽ quay về nhưng cũng không dám tin. Hôm nay ở trong điện cảm thấy khí trạch của người quẩn quanh bên ngoài, chúng con vội vã chạy ra nhưng vẫn không kịp ra ngoài cửa núi đích thân đón người, sư phụ, người đi đã bảy vạn năm, giờ mới quay về”. Dứt lời, đã khóc không thành tiếng. Khuôn mặt huynh ấy đã không còn là gương mặt thuở niên thiếu, tuổi tác đã cao hơn nhiều, khóc như thế này, thực khiến người ta nghẹn lòng. Mười lăm sư huynh còn lại đều nhất loạt quỳ xuống nức nở. Mười sáu sư huynh đều khóc không thành tiếng.

    Mặc Uyên cúi nhìn, nói: “Đã để các con phải chờ lâu rồi, đứng dậy cả đi, vào trong nhà rồi nói”.

    Câu chuyện bắt đầu là các sư huynh khóc lóc một trận, khóc xong bèn kể năm đó không cẩn thận đã để lạc mất Tư Âm Thần Quân, tức thượng thần bất tài là ta.

    Nhắc đến ta, đại sư huynh bi phẫn khôn cùng. Năm đó vốn là ta bỏ thuốc bọn họ, rồi trộm tiên thể của Mặc Uyên rời khỏi Côn Luân ngay trong đêm. Sai lầm này của ta huynh ấy quyết không nhắc tới, chỉ luôn miệng nói đã không chăm sóc ta, để lạc ta, là lỗi của huynh ấy. Mấy năm nay huynh ấy không ngừng tìm kiếm ta, nhưng bặt vô âm tín, có lẽ ta đã lành ít dữ nhiều. Huynh ấy thân là đại sư huynh mà không làm tròn bổn phận, đến tiểu sư đệ cũng không bảo vệ nổi, xin sư phụ xử phạt thật nặng.

    Ta đứng bên cạnh tứ ca, nghe huynh ấy nói như vậy, viền mắt đỏ hoe, vội vàng trình bày: “Ta không phải lành ít dữ nhiều, ta đang đứng sờ sờ trước mặt huynh, chẳng qua ta chỉ thay đổi xiêm y, ta là Tư Âm đây”.

    Các sư huynh ngẩn người, đại sư huynh loạng choạng ngã xuống đất, một lúc sau, mới lồm cồm bò dậy ôm lấy ta, lau nước mắt, chua chát nói: “Cửu sư đệ nói trong lòng ai cũng có một giấc mộng đoạn tụ, năm đó nhị hoàng tử Quỷ tộc đến cướp đệ, ta đã đánh cho hắn đứt giấc mộng này, nhưng lại không kịp thời cắt đứt giấc mộng của đệ, Thập Thất đáng thương biết bao, bây giờ đệ đã thành đoạn tụ, còn lại là đoạn tụ thích mặc quần áo con gái…”.

    Tứ ca không nhịn được cười sằng sặc.

    Ta cố gắng ngăn dòng lệ, đau buồn nói: “Đại sư huynh, khuôn mặt này của ta, huynh xem lại có phải là nam giả nữ không?”.

    Thập sư huynh kéo đại sư huynh ra, ngượng ngùng nói: “Trước đây đệ không chịu tắm chung với bọn ta, hóa ra là vì thế, hóa ra Thập Thất đệ lại là con gái”.

    Tứ ca ta kéo dài giọng: “Nàng là một nữ nhi xinh đẹp…”.

    Ta đá cho huynh ấy một cái.

    Đại sư huynh trước đây không như vậy, quả nhiên tuổi cao sẽ dễ dàng trở nên đa sầu đa cảm.

    Sau chuyện của ta, là kể đến chuyện các sư huynh trong bảy vạn năm nay đã tự mình gây dựng sự nghiệp hiển hách.

    Mười sáu sư huynh này của ta, thuở thiếu thời cũng chẳng ra sao, ta theo bọn họ, tuy không trèo cây hái táo, xuống sông bắt cá nữa, nhưng lại học được thói đá gà, đuổi chó, chọi dế, học được thói cưỡi ngựa xem hoa, uống rượu xem cung xuân đồ, chuyện nào cũng thành thạo, giấu sư phụ xuống trần gian làm bậy, còn tự cho mình là phong lưu ngàn năm khó gặp.

    Ngày nay ta ra nông nỗi này, không thể không kể đến công lao của mười sáu sư huynh. Nhưng mười sáu sư huynh khiến ta ra nông nỗi này, ai cũng thành tài. Khi ông trời an bài số phận cho chúng ta, hẳn ông ấy đang ngủ gật.

    Nhưng cơn ngủ gật của ông trời lại khiến ta rất hởi lòng hởi dạ, hẳn sư phụ người cũng rất hởi lòng hởi dạ.

    Sau khi hởi lòng hởi dạ, tai lắng nghe những chiến công hiển hách của các sư huynh, lại nghĩ đến lúc các huynh ấy lập công lao ta đang làm những gì, so sánh với nhau, một cảm giác buồn bã cứ thế dâng trào.

    Tứ ca ngồi bên cạnh tay cầm bút ngồi chép lia lịa, thỉnh thoảng còn vỗ tay hô to: “Ly kỳ, thật ly kỳ”. Ngoài cảm xúc buồn bã ra là cảm giác mất mặt, xấu hổ.

    Thập sư huynh an ủi ta: “Muội là con gái, con gái thì chẳng cần lập công lao làm gì, đám muội muội của ta cả ngày chỉ nghĩ đến chuyện gả cho một nhà chồng tốt, Thập Thất, muội chỉ cần gả cho một nhà chồng tốt là hạnh phúc rồi”.

    Thập lục sư huynh cười hì hì nói: “Thập Thất đã ngần này tuổi, không cần nói đến nhà chồng nữa, e rằng con cũng có mấy đứa rồi. À, đúng rồi, hôm nào cho các sư huynh gặp phu quân của muội đi. Dung mạo, tính cách muội như vậy, không biết được gả cho vị phu quân như thế nào”.

    Những lời của huynh ấy từng câu từng chữ giẫm vào vết đau của ta, ta lau mồ hồi trán, ngượng ngập cười khan nói: “Nói hay lắm, nói hay lắm, tháng sau nữa là lễ thành hôn của muội, lúc đó mời các huynh đến uống rượu”.

    Mặc Uyên từ nãy tới giờ ngồi bên lắng nghe, khi ta thốt ra hai tiếng “uống rượu”, chén trà trong tay người nghiêng một cái, rớt một nửa ra ngoài, ta vội chạy đến thu dọn. Chiết Nhan ho hai cái.

    Cửu sư huynh Lệnh Vũ quản lý Côn Luân đâu ra đó, tứ ca tròn một tháng không về động Hồ Ly, bụi trong phòng huynh ấy cũng tích dày nửa thước. Đã bảy vạn năm ta chưa lên Côn Luân, căn phòng ta ở khi còn làm đệ tử vẫn sạch sẽ tinh tươm. Ta hôi rình mồ hôi, nằm trên giường, rồi lại trở mình một cái.

    Người ở phòng bên cạnh là Thập lục sư huynh Tử Lan. Ta nghe thấy huynh ấy gõ gõ lên tường, hỏi: “Thập Thất, muội ngủ chưa?”.

    Ta hừ mũi, để tỏ ý chưa ngủ. Nhưng âm thanh này cũng chỉ như muỗi kêu vo ve, có lẽ huynh ấy không nghe thấy, nên lại thưa: “Chưa ngủ”.

    Huynh ấy ngưng bặt một lát, rồi âm thanh lại vẳng qua tường: “Bảy vạn năm nay, vì sư phụ, muội đã khổ nhiều rồi”.

    Trong ấn tượng của ta, Thập lục sư huynh này rất thích chọc ghẹo ta, làm những việc ngược với ta, ta nói đông, huynh ấy sẽ chỉ tây, ta nói thứ này tốt, huynh ấy sẽ chê thứ đó không đáng một đồng. Bây giờ huynh ấy nói câu này, không khỏi nghi ngờ, rốt cuộc huynh ấy có phải là Thập lục sư huynh không, bèn cao giọng hỏi: “Huynh là Tử Lan à?”. Huynh ấy im lặng một lát, hừ một tiếng: “Bảo sao ngần này tuổi muội vẫn không lấy được chồng”.

    Huynh ấy đúng là Tử Lan.

    Ta cười ha ha, không thèm so đo với huynh ấy, nằm trên giường trở mình.

    Ta sống đến ngần này tuổi, tuy đã trải qua biết bao chuyện phải nuối tiếc, nhưng giờ đây, trên chiếc giường mỏng manh ở núi Côn Luân này, ta lại cảm thấy những chuyện phải nuối tiếc trong quá khứ thực ra không đáng để nuối tiếc. Ánh trăng dìu dịu lọt vào trong phòng, phong cảnh bên ngoài ô cửa sổ kia không có gì đặc biệt cả.

    Nhị ca thường dùng lý luận “tri túc thường lạc”(43) để tôi luyện tính cách của ta. Nhưng ta chưa bao giờ biết thế nào là “biết đủ”, cảm thấy “biết đủ” không giống như hay quên có thể vui, ngày tháng trôi qua hồ đồ, điên đảo. Giờ đây ta đã hiểu ra, hay quên chẳng qua chỉ là tự lừa dối bản thân để mong sống yên vui, “biết đủ” lại có thể khiến người ta thực sự thoải mái. Thực sự thoải mái rồi, sự yên vui này mới là sự yên vui vĩnh hằng. Hiểu thấu điều này, trong phút chốc, ta cảm thấy mình quá hạnh phúc, chỉ mong mau mau được nói cho Dạ Hoa nghe. Nhưng có lẽ lúc này Dạ Hoa có nghe cũng không hiểu những gì ta nói. Giây phút này, có lẽ chàng đã tròn một tuổi. Haizz, không biết khi tròn một tuổi chàng trông như thế nào, đôi mắt ấy có lạnh lẽo như hồ nước giống chàng bây giờ hay không? Chiếc mũi ấy có cao giống chàng bây giờ hay không? Haizz, không biết chàng có giống cục bột nhỏ hay không.

    Ta đã nghĩ rất nhiều, rồi dần dần chìm vào giấc ngủ.

    Không hiểu sao việc Mặc Uyên quay trở lại bị đồn ra ngoài, sáng sớm hôm sau, những loài bay trên trời, bò dưới đất, phàm là có chút linh căn, đều có thể biết được thượng thần cai quản âm nhạc và chiến tranh đã quay về.

    Theo như tin đồn thì, Mặc Uyên đầu đội mũ vàng tía, thân mặc áo giáp Huyền Tinh, chân đi giày Tạo Giác, tay cầm kiếm Hiên Viên, trong lòng còn ôm một tiểu nương tử yểu điệu thướt tha, vào giờ Mùi ba khắc ngày mười sáu tháng tám, người uy phong lẫm liệt đậu xuống núi Côn Luân. Lúc Mặc Uyên đậu xuống núi Côn Luân, dãy núi dài men theo Côn Luân đều rúng động ba lần, chim muông muôn thú đều ngửa cổ lên trời kêu dài, cá, rồng dưới nước đều nổi lên vui mừng kinh ngạc rơi lệ.

    Tin đồn này quá phi lý, mười bảy sư huynh đệ chúng ta nghe thấy mà chực khóc ròng.

    Mũ vàng tía, giáp Huyền Tinh, hài Tạo Giác, kiếm Hiên Viên thì đúng là trang phục xưa nay khi Mặc Uyên xuất chinh, bảy vạn năm nay vẫn luôn đặt ở chính điện ở Côn Luân, để cho các đệ tử chúng ta chiêm ngưỡng. Còn tiểu nương tử yểu điệu thướt tha, ta và tứ ca suy nghĩ rất lâu, mới hiểu ra có lẽ là chỉ thượng thần bất tài là ta.

    Những tin đồn quái ác này ai ai cũng biết, cho nên họ đều lũ lượt hết tốp này đến tốp khác đến bái kiến.

    Mặc Uyên định ngày thứ hai sau khi về Côn Luân sẽ đóng cửa tu luyện, nhưng vì vậy nên phải dời lại mấy ngày.

    Đám tiểu thần tiên đến bái kiến không có gì đặc biệt, có người được đại sư huynh, nhị sư huynh dẫn đến trước mặt Mặc Uyên nói một, đôi câu; có người chỉ ngồi ở tiền sảnh uống trà, nghỉ ngơi rồi ra về. Chỉ có người thanh niên đến vào trưa ngày thứ ba mới có chút bất thường.

    Người thanh niên này toàn thân vận áo bào trắng, thanh tú tao nhã, nét mặt cũng hết sức hiền hậu. Lúc Mặc Uyên gặp y, nét mặt lạnh lùng cũng hơi sững lại. Người thanh niên vận bào trắng cẩn thận quan sát Mặc Uyên, nhưng không hành lễ, chỉ nhíu mày, nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, tinh thần thượng thần vẫn như xưa. Trọng Doãn lần này đến Côn Luân, chỉ vì đêm qua tỷ tỷ báo mộng cho ta, nhờ ta gửi một câu đến thượng thần, tỷ tỷ ta”, y cười cười, nói, “tỷ ấy nói tỷ ấy chỉ có một mình, cô đơn biết bao”.

    Ta vẫy một tiểu đồng hầu hạ bên Thập sư huynh lại, sai nó đi rót thêm trà cho Trọng Doãn áo trắng kia.

    Mặc Uyên không nói gì, chỉ chống má lạnh nhạt dựa vào tay vịn của ghế ngồi.

    Chiết Nhan liếc Mặc Uyên một cái, rồi lại cười hòa nhã với Trọng Doãn: “Tiểu đệ Trọng Doãn, phải chăng ngươi đang nói đùa, tỷ tỷ ngươi đã tan thành tro bụi mười mấy vạn năm rồi, sao có thể báo mộng cho ngươi được?”.

    Trọng Doãn cũng nhã nhặn nheo mắt đáp lời: “Thượng thần Chiết Nhan quả thực đã trách nhầm Trọng Doãn rồi, Trọng Doãn đúng là tới để chuyển lời của tỷ tỷ, không hề có ý gì khác. Ta cũng chẳng muốn nhọc sức, chỉ là trong giấc mộng tỷ tỷ quá đáng thương, không đành lòng nên hôm nay mới phải lên Côn Luân. Thượng thần Chiết Nhan nói tỷ tỷ của Trọng Doãn đã tan thành tro bụi, nên không thể báo mộng cho Trọng Doãn. Nhưng thượng thần Mặc Uyên chẳng phải khi xưa cũng nói là tan thành tro bụi, đến giờ lại có thể quay về, tỷ tỷ ta tuy tan thành tro bụi, nhưng hồn chẳng biết ở tận nơi đâu, báo mộng cho ta, thì có gì là không thể chứ?”.

    Dứt lời y cúi người hành lễ, rồi đi ra khỏi chính điện.

    Đến khi Trọng Doãn ra khỏi chính điện, Chiết Nhan mới đọc một câu kinh Phật.

    Mặc Uyên không nói câu gì từ khi ngồi xuống, giờ đi về phía hậu viện. Ta nhấc chân lên định chạy theo xem xem, liền bị Chiết Nhan chặn lại.

    Nhị sư huynh trưng bộ mặt khổ sở sán lại: “Sư phụ đi như thế, nếu có tiên hữu tới thăm hỏi, thì phải làm thế nào?”.

    Chiết Nhan buồn rầu ngẩng lên nhìn trời cao, nói: “Dẫn họ đến tiền sảnh uống trà đi, uống đủ rồi thì tiễn về. À, mà trà còn đủ dùng không?”.

    Ta nhẩm tính, gật đầu, nói: “Còn đủ, còn đủ”.

    Ta luôn cảm thấy sư phụ ta Mặc Uyên, là một người rất có lai lịch. Tất cả đều có trước có sau, sư phụ quả nhiên là người có lai lịch. Nhưng nghe lời lẽ của Trọng Doãn áo trắng kia, thì dường như là một lai lịch đầy mưa máu gió tanh. Ta hơi lo lắng. Thân làm đệ tử nên tận hiếu, ta định bụng khi chiêu đãi xong đám tiểu thần tiên ở tiền sảnh sẽ đến phòng của Mặc Uyên để an ủi người.

    Đêm đến, khi ta đẩy cửa phòng của Mặc Uyên, người đang ngồi trầm tư trước cây cổ cầm, ánh đèn vàng vọt hắt lên khuôn mặt, lộ rõ thần sắc đau thương của người. Ta đứng trước cửa sững sờ, ánh mắt người đang nhìn cây cổ cầm dần dần ngước lên, cười nhạt nói: “Đứng ở cửa làm gì, vào đi”.

    Ta lặng lẽ bước vào, định bụng đến an ủi người, nhưng câm nín hồi lâu, mà chẳng thốt lên được câu nào. Chuyện của người thực ra ta cũng không rõ, nhưng nghe người thanh niên áo trắng đó nói, thì chắc chắn là một mối bi tình trăng gió. Nếu như là một mối bi tình trăng gió, thông thường nên lấy câu gì mào đầu đây?

    Ta suy nghĩ rất lung, bên tai bỗng vang lên tiếng đàn rời rạc. Tay phải Mặc Uyên lướt trên phím đàn, tùy ý gảy mấy nốt, nói: “Cái tật lúc nào cũng lơ đễnh của ngươi vẫn giống như mấy vạn năm trước”.

    Ta chun mũi cười cười, rồi đến cạnh người, ra vẻ thân thiết khuyên nhủ: “Sư phụ, người chết không thể hồi sinh, có lẽ Trọng Doãn quá nhớ tỷ tỷ mình, người chớ nên canh cánh trong lòng”.

    Người sững lại, cúi đầu lại tùy ý gảy hai nốt đàn, rồi lạnh lùng nói: “Đêm nay ngươi qua đây là vì chuyện này ư?”.

    Ta gật đầu.

    Tiếng đàn hỗn loạn bỗng ngưng bặt.

    Người ngẩng đầu nhìn, nhìn ta rất lâu, lại hỏi một câu chẳng liên quan: “Ngươi đối với hắn, là thật lòng ư?”.

    Mất một lúc lâu ta mới hiểu “hắn” ở đây là Dạ Hoa, trong lòng tuy cảm thấy hơi ngượng khi nói chuyện này trước mặt bề trên, nhưng xấu hổ không phải là phong cách của ta, bèn sờ mũi thành thật nói: “Thật lòng. Vô cùng thật lòng”.

    Người ngoảnh mặt đi, nhìn ra ngoài khung cửa rất lâu, nói: “Vậy thì tốt, ta cũng an tâm”. Đêm nay thần sắc của người hơi cổ quái, lẽ nào, lẽ nào lo lắng ta làm con gái thì không ra gì, cho nên không gả được chồng sao? Ta hiểu ra điều này, cười hì hì an ủi người: “Sư phụ không cần lo lắng, Dạ Hoa chàng rất tốt, chúng con tâm đầu ý hợp, con đối với chàng thật lòng, chàng đối với con cũng vậy”.

    Người không quay đầu lại, chỉ lạnh lùng nói: “Đêm khuya rồi, ngươi về phòng nghỉ đi”. Từ đó về sau, Mặc Uyên hiếm hoi mới đến chính điện. Đêm đó ta đến để an ủi người, nhưng sau khi ra khỏi phòng của người mới phát hiện là chưa hề an ủi gì, ta thấy hơi xấu hổ. Có lẽ chuyện này vẫn nên tự mình bỏ đi mới được, người ngoài rốt cuộc vẫn không thể giúp được.

    Cứ tưởng không gặp được Mặc Uyên đã làm nhiệt tình muốn thăm hỏi của đám tiểu thần tiên mấy hôm trước nhạt bớt, chẳng ngờ tinh thần của họ vẫn hừng hực như cũ. Đến ngày cuối cùng, thời gian họ ngồi uống trà ngày càng lâu, lượng trà uống cũng ngày càng nhiều. Tứ ca đoán rằng đây chính là một cơn gió độc mang tên ganh đua. Ví dụ như lúc ta còn nhỏ thường so bì xem ai có thể hái được nhiều đào hơn, uống được nhiều rượu hơn ở chỗ Chiết Nhan. Cho nên đã vội vã dán một trang cáo thị, thông báo cho các thần tiên đến Côn Luân thăm hỏi, mỗi người chỉ có thể nhận một chén trà để uống, lại không được thêm nước. Nhưng cho dù như vậy, người đến vẫn nườm nượp.

    Ta ngồi ở tiền sảnh đóng giả người pha trà mười hai ngày, đêm ngày thứ mười hai cuối cùng đã không chịu nổi, lôi tứ ca đến dưới gốc táo trong trung đình, cầu xin huynh ấy giúp ta trông chừng thời gian khoảng bảy, tám nén nhang, để ta xuống trần gian một chuyến xem xem Dạ Hoa ra sao.

    Táo ngọt ở cây táo đã kết quả to bằng ngón tay, vỏ quả màu xanh, vẫn chưa ăn được. Tứ ca hái hai quả, cầm trong tay, nói: “Muội lén lút như vậy không phải sợ bị các sư huynh biết được, cười muội là nữ nhi tình trường chứ?”.

    Huynh ấy cũng có lúc nhìn nhầm.

    Ta thế này chẳng có liên quan gì tới các sư huynh, có điều lo lắng Mặc Uyên biết được đệ đệ song sinh của người bị xuống trần gian lịch kiếp, buộc phải đi xem sao, trần thế ô trọc, không tốt cho việc hồi phục tiên thể của người. Tứ ca nghĩ như vậy, có lẽ huynh ấy cảm thấy nữ nhi đều mặt mỏng cả, cho dù ta đã cao tuổi, nhưng cũng không phải là ngoại lệ. Nào hay da mặt ta còn dày hơn huynh ấy tưởng rất nhiều, đã phụ sự tin tưởng của huynh ấy, ta cũng cảm thấy hơi xấu hổ.

    Tứ ca xòe ra ba ngón tay, nói: “Nếu như đồng ý trông khoảng bảy, tám nén nhang, đêm nay huynh khỏi phải ngủ nữa, nên nhiều nhất cũng chỉ trông giúp muội khoảng một nén nhang. Dạ Hoa chẳng qua xuống trần gian lịch kiếp, chứ có gì to tát đâu, mà muội cũng phải đi theo để xem, muội bám hắn cũng chặt thật đấy”.

    Ta im thin thít, tai đỏ bừng bừng. Hôm nay nhờ vả không chọn đúng lúc, ta quên béng rằng buổi chiều huynh ấy vừa cãi cọ với Chiết Nhan ở hành lang. Nhưng thời gian một nén nhang cũng khiến ta thỏa nguyện rồi, thế nên sấn bước ra ngoài núi.

    Huynh ấy vứt hai quả táo trong tay xuống hồ sen, khẽ buông một câu: “Nếu quá một nén nhang mà không quay về, đừng trách huynh đích thân xuống nhắc muội đấy”. Có thể thấy hôm nay tứ ca giận Chiết Nhan ghê gớm.

    Trên núi Côn Luân dải ngân hà lấp lánh ánh sao, đêm sâu thăm thẳm, còn ở phàm trần lại là ban ngày, trời xanh ngăn ngắt. Ta đậu xuống bên ngoài một phòng học, rồi ẩn thân, nghe thấy tiếng đọc sách vẳng lại: “Thúc Hướng gặp Hàn Tuyên Tử, Huyên Tử lo nghèo, Thúc Hướng chúc mừng”(44).

    Ta nhìn về phía nơi phát ra tiếng đọc, ánh mắt chạm phải một đứa bé mặt mũi khôi ngô ngồi cuối lớp. Gương mặt đứa trẻ này tuy có thể coi là xuất chúng ở phàm trần, nhưng vẫn hơi non nớt, có lẽ khi lớn lên chưa chắc đã bằng gương mặt của Dạ Hoa, nhưng thần sắc lạnh lùng thì giống hệt Dạ Hoa.

    Tiếng đọc dứt, thầy giáo liếc cuốn sách giáo khoa trong tay, nói: “Liễu Ánh, con hãy đứng dậy giải thích cho các bạn nghe đi”. Đứa trẻ lạnh lùng thưa vâng đứng dậy. Lòng ta run run, ánh mắt của bản thượng thần thật tinh tường, đứa trẻ này quả nhiên là Dạ Hoa đầu thai. Ta liền hiểu ra, cho dù chàng chuyển thành dáng vẻ gì ta vẫn nhận ra chàng.

    Chàng giải thích rành rọt, cặn kẽ từng điều, thầy giáo vuốt chòm râu dê nghe rất chăm chú, nét mặt khoan khoái, khiến ta nhớ đến sự hãnh diện của Thập lục sư huynh Tử Lan ở lớp học năm nào.

    Đây thực sự là một chuyện đau lòng, mất mặt. Năm đó, bản thượng thần còn ngây ngô, bị các sư huynh dẫn dắt thành ra không tiến bộ đã quen, khi lên lớp Mặc Uyên giảng bài, ta cảm thấy thật tẻ nhạt, thường cùng Thập ngũ sư huynh chuyền giấy nói chuyện riêng, coi đó là thú vui. Nhưng chúng ta đạo hạnh nông, học nghệ không tinh, mười lần thì chín lần bị Mặc Uyên bắt. Phương pháp trách tội của Mặc Uyên mãi mãi không thay đổi, hễ bị bắt được là phải đọc thuộc một đoạn Phật lý dài lê thê, hết sức khô khan trước mặt các sư huynh. Đáng thương thay râu ria của những đoạn Phật lý mà sư phụ chỉ định ta đều không biết gì hết, càng chớ nói đến chuyện đọc thuộc nó. Ta dùng dằng, dùng dằng mãi, ngắc nga ngắc ngứ, Thập lục sư huynh mãi đến lúc này được gọi dậy, đọc trôi chảy đoạn Phật lý đó trước mặt ta, rảnh rỗi còn có thể giải thích qua loa một lượt ý nghĩa của đoạn vừa đọc. Thế nên, phàm là những người có tri thức, đều có thể lập tức vừa nhìn đã nhận ra ta là đệ tử không tiến bộ.

    Thập ngũ sư huynh và ta “đồng bệnh tương lân”, chúng ta cảm thấy Tử Lan kia quá thông minh, thực đáng ghét, bèn chỉ trời chỉ đất mà thề, đời này sẽ không chơi bời với loại người thông minh, còn viết một lá thư, điểm chỉ lên đó, chôn dưới gốc cây táo trong trung đình ở Côn Luân, để làm chứng.

    Nhưng bây giờ, dáng vẻ thông minh đĩnh đạc của Dạ Hoa trong lớp học, ta lại thấy sao mà đáng yêu.

    Ta ẩn mình bên ngoài cửa sổ lớp học, đợi đến khi họ tan trường.

    Hai tiểu thư đồng giúp Dạ Hoa thu dọn bàn học, rồi cõng chàng ra khỏi cửa. Ta cũng bám gót theo sau, không biết làm thế nào mới có thể hiện hình một cách tự nhiên rồi đến trước mặt chàng chào hỏi. Ta suy nghĩ, đắn đo, chần chừ. Sau lưng vang lên tiếng “vèo vèo”, ta vừa phất tay áo theo phản xạ, hai viên đá nhỏ bay vút tới lập tức bị đổi hướng, đập “bộp” lên thân cây liễu già ven đường.

    Tiếng động khiến Dạ Hoa quay đầu, ba, bốn đứa trẻ kêu ầm lên rồi bỏ chạy, vừa chạy vừa hát bài đồng dao. Bài đồng dao này tổng cộng có bảy câu, rằng: “Gạo cũng quý, dầu cũng quý, nhà họ Liễu sinh ra đứa tàn phế. Kiếp trước tạo nghiệt, kiếp này đền, đạo trời luân hồi chẳng thương lượng. Cho dù thần đồng biết nhiều chữ, một kẻ tàn phế biết làm chi?”. Đầu ta “ầm” một tiếng, ngẩng đầu nhìn cánh tay phải của Dạ Hoa.

    Thiên Quân, con bà ông chứ. Dạ Hoa là cháu ruột ông, sao ông lại độc ác thế, đầu thai rồi cũng không chịu cho chàng một cơ thể bình thường, ống tay áo bên phải của Dạ Hoa rõ ràng, rõ ràng là trống không mà!

    Hai đứa thư đồng cõng Dạ Hoa một lòng bảo vệ chủ, định đuổi theo mấy con thỏ đế thì bị ngăn lại. Mấy con thỏ đế đó ta nhìn rất quen, chợt nhớ ra là bạn học của Dạ Hoa. Là người từng trải, ta thừa hiểu suy nghĩ của chúng, chắc chắn là học hành chẳng ra sao, thấy Dạ Hoa tài hoa hơn người, nên sinh lòng ghen ghét. Nhưng ghen ghét thì cứ ghen ghét, im lặng ở bên cạnh không thèm đếm xỉa là được rồi, còn bịa ra bài đồng dao độc ác kia thực quá đáng. Hừ, lũ thỏ đế chậm tiến bộ như thế, sau này nếm khổ, mới biết rằng những việc làm năm xưa mới hồ đồ làm sao.

    Cánh tay trái Dạ Hoa phẩy phẩy ống tay phải trống phơ phất, hơi cau mày, không nói gì mà quay người tiếp tục đi về phía trước. Ta rất đau lòng nhưng không thể lập tức hiện hình, để tránh dọa mấy người bọn họ, đành nuốt nỗi chua xót vào trong lòng.

    Từ lúc hoàng hôn đến khi đêm xuống, ta không tìm được thời cơ thích hợp để hiện thân trước mặt Dạ Hoa. Hai đứa thư đồng lúc nào cũng bám sát lấy chàng, khiến ta phát bực. Cuối giờ Tuất, Dạ Hoa mới leo lên giường, hai đứa thư đồng cởi áo hầu chàng đi ngủ, sau khi tắt đèn khoảng nửa tuần trà, cuối cùng đã ngáy khò khò.

    Ta thở phào một hơi, giải chú ẩn thân, ngồi bên giường Dạ Hoa, mượn ánh trăng sáng bên ngoài khung cửa, đến gần ngắm chàng thật kỹ, lại đưa tay lay lay chàng tỉnh qua lần chăn. Dạ Hoa “ừm” một tiếng, nửa ngồi nửa mơ màng nói: “Chuyện gì thế?”, đến khi nhìn rõ người ngồi trước mặt chàng không phải là thư đồng mà là ta thì sững sờ. Chàng cứ đờ đẫn nhìn ta, mãi sau, nhắm mắt rồi lại nằm xuống giường, miệng còn lầm rầm: “Hóa ra là nằm mơ”.

    Ta run rẩy trong lòng, cuống quýt lay chàng dậy, trước khi chàng cất tiếng đã hỏi trước: “Chàng nhận ra ta không?”. Ta biết chắc chàng không nhận ra, ban nãy chỉ là câu nói thốt ra khi bị đánh thức thôi, nhưng lòng vẫn ôm một tia hy vọng, vẫn bướng bỉnh mở miệng hỏi.

    Quả nhiên chàng trả lời: “Không nhớ”. Mày hơi nhíu lại, có lẽ đã tỉnh ngủ, ngập ngừng hồi lâu, nói: “Không phải ta nằm mơ sao?”.

    Ta móc một viên dạ minh châu to bằng trứng bồ câu từ trong tay áo ra, tốt xấu gì cũng tỏa chút ánh sáng, kéo tay chàng chạm lên mặt ta, cười nói: “Chàng cảm thấy đang trong mộng sao?”.

    Khuôn mặt chàng liền từ từ ửng đỏ.

    Ta nhích lại ngồi gần chàng hơn một chút, chàng lùi lại phía sau, mặt lại đỏ lựng lên. Ta chưa từng gặp một Dạ Hoa như thế này, cảm thấy thật mới mẻ, lại ngồi xuống trước mặt chàng, chàng dứt khoát lùi vào góc tường, rõ ràng gương mặt trắng trẻo đã đỏ bừng bừng, vậy mà còn ra vẻ lạnh lùng, điềm tĩnh, nói: “Nàng là ai? Sao lại vào phòng ta?”.

    Ta nhớ đến một vở kịch nổi tiếng mình đã từng xem, kể về một con cá tầm tinh màu trắng tên là Bạch Thu Luyện yêu một chàng công tử thiếu niên tên là Mộ Thiềm Cung, tương tư thành bệnh, cho nên đêm đêm gặp gỡ, là một câu chuyện rất hay. Dạ Hoa thế này khiến ta nảy ý muốn trêu chọc, bèn làm bộ ưu sầu nói: “Thiếp vốn là một tiểu tiên ở Thanh Khâu, mấy hôm trước xuống trần du ngoạn, hâm mộ phong thái của lang quân, đem lòng tưởng nhớ lang quân, vì chàng mà võ vàng tiều tụy, thế nên mới đến cùng chàng ân ái một đêm”, lại còn giả vờ xấu hổ nhìn chàng một cái. Lời này tuy rằng khiến toàn thân ta nổi da gà, nhưng nhìn ánh mắt chàng, ta tự thấy mình diễn rất tốt.

    Chàng ngẩn người, lát sau mặt đỏ tía tai, che ống tay áo ho hai tiếng: “Nhưng, nhưng chỉ mới mười một tuổi”. … Thời gian một nén nhang trôi qua thật nhanh, Dạ Hoa lúc đầu thai thú vị hơn chàng lúc bình thường rất nhiều. Xem ra nhà họ Liễu ở phàm trần dạy con cái còn bài bản hơn lão Thiên Quân cô độc trên Cửu Trùng Thiên. Ta cũng hơi yên tâm.

    Ta chưa nới với chàng về nhân duyên kiếp trước, chàng cũng tin rằng ta chỉ là một tiểu tiên vô tình say mê phong thái của chàng, mà đem lòng yêu nhớ, chỉ có điều luôn băn khoăn mình mới mười một tuổi mà thôi, sao lại có thể làm cho một nữ thần đã qua tuổi hoa niên mê mẩn được, huống hồ mình lại còn tàn phế một tay.

    Cho nên quá trình khuyên nhủ chàng vô cùng vất vả.

    Ta mong chàng có thể reo hò như những đứa trẻ bình thường khác, nhưng kiếp này chàng lại là một thần đồng, tương lai sẽ là một tài tử. Bọn tài tử xưa nay càng khó thuyết phục, lay động hơn người thường, cho nên ta chỉ có thể chỉ trời chỉ đất làm chứng, thi thoảng còn diễn ánh mắt yếu đuối, buồn thảm, thút thít đôi tiếng, cuối cùng cũng khiến chàng tin ta.

    Trước lúc đi, chúng ta trao tín vật cho nhau, ta trao cho chàng chuỗi ngọc mà lúc ta xuống trần giúp Nguyên Trinh độ kiếp chàng đã trao cho ta. Chuỗi ngọc này có thể bảo vệ chàng bình an, ta không thể ở bên chàng, chàng đeo chuỗi ngọc này cũng có thể khiến ta an tâm hơn. Chàng lấy miếng ngọc bội đeo trên cổ xuống, đeo lên cổ ta. Ta ghé sát tai chàng, không quên dặn dò chuyện quan trọng: “Chàng không được cưới người con gái khác, đợi rảnh rỗi thiếp sẽ đến thăm chàng nhiều hơn, đợi khi chàng lớn, thiếp sẽ lấy chàng”. Chàng đỏ mặt, bình tĩnh gật đầu đồng ý.

    Ta nói rảnh rỗi sẽ đến thăm Dạ Hoa nhiều hơn. Nhưng sau khi về tới Côn Luân, lại chẳng hề được rảnh rỗi.

    Mặc Uyên cuối cùng đã định được ngày đóng cửa tu luyện, sau bảy ngày nữa. Chiết Nhan cần luyện ít đan dược cho Mặc Uyên, để khi người đóng cửa tu luyện có thể mang vào trong động phối hợp trị liệu, chọn ta đi giúp lão một tay. Cả ngày ta quẩn quanh trong phòng thuốc hoặc phòng luyện đan, đến thời gian nghỉ ngơi uống trà cũng không có. Đến chiều ngày mùng hai tháng chín, đem một bình ngọc đựng đầy đan dược mới luyện thành trao cho Mặc Uyên, để người mang vào động. Trước khi vào động, thần sắc người bơ phờ mệt mỏi, không nói gì với các sư huynh, chỉ hỏi ta một câu: “Dạ Hoa đối với ngươi tốt chứ?”. Ta thành thật đáp, người gật gật đầu rồi đi vào trong động.

    Sau khi Mặc Uyên đóng cửa tu luyện thì không còn thần tiên nào đến. Ta nhẩm số trà trên núi cũng sắp uống hết rồi.

    Mười lăm sư huynh từng người cáo từ trở về làm việc của mình, chỉ để lại tiểu đồng của mình giúp đỡ Cửu sư huynh lo liệu. Ta cũng theo Chiết Nhan và tứ ca cáo từ xuống núi.

    Sau khi xuống núi, ta bay thẳng đến trần gian.

    Tính ra Dạ Họa năm nay đã mười tám, mười chín tuổi, với người phàm trần đây là tuổi tài hoa phong nhã đương nở rộ, không biết tiểu Dạ Hoa mười một tuổi nay đã như thế nào.

    Ta ôm ấp trái tim đầy kích động, nhẹ nhàng đậu xuống trước nhà họ Liễu.

    Nhưng lục tung cả nhà họ Liễu lên cũng không tìm thấy Dạ Hoa. Trái tim kích động này đã bị giội một gáo nước, buốt thấu tim.

    Ta thất vọng ra khỏi nhà họ Liễu, tìm một nơi yên tĩnh hiện hình, ngẫm nghĩ, rồi lại đến tìm một nô tỳ trước phủ nhà họ Liễu hỏi han, hỏi thì mới biết Dạ Hoa mấy năm trước đã vinh danh bảng vàng, đang làm quan dưới chân thiên tử trần gian.

    Nô bộc nhà họ Liễu ngẩng lên nhìn trời xanh thăm thẳm, mắt không giấu nổi vẻ tự hào: “Đại thiếu gia nhà tôi là thần đồng trăm năm mới có, kỳ tài, quả là kỳ tài, mười hai tuổi đã vào nhà Thái học, năm năm trước hoàng đế mở ân khoa, thiếu gia thi lấy lệ cũng đã đỗ Trạng nguyên, từ chức Biên tu trong Hàn lâm viện đã rộng đường công danh, nay đã làm Thượng thư bộ Hộ, kỳ tài, quả là kỳ tài”.

    Ta chẳng hề hứng thú với việc Dạ Hoa làm chức quan gì, nhưng biết được nơi chàng ở thì rất vui mừng, bèn xốc lại tinh thần, niệm chú gọi mây xanh, đến cung điện của thiên tử chỗ chàng.

    Chú thích:

    42. Long cốt: xương rồng.

    43. Tri túc thường lạc: Tự thấy đủ sẽ thường thấy vui (ND).

    44. Nguyên văn: Thúc Hướng kiến Hàn Tuyên Tử, Tuyên Tử ưu bần, Thúc Hướng hạ chi. Trích trong “Tả truyện” (ND).
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  3. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88

    Ta tìm Dạ Hoa trong hậu hoa viên của phủ Thượng thư.

    Khi ta tìm đến, chàng vận thường phục bằng lụa màu đen, đang đứng nâng chén ngắm hoa đào cùng một người con gái vận đồ trắng. Ở chỗ chàng ngồi, phía trên là một cây hoa đào đang thắm sắc.

    Người con gái vận đồ trắng ngồi đối diện chàng dường như nói câu gì đó, chàng nâng chén rượu trên bàn, cười rạng rỡ với người con gái ấy, người con gái đó lập tức thẹn thùng cúi đầu.

    Nụ cười này của chàng vừa rạng rỡ vừa thân thiết, nhưng trong mắt ta lại cực kỳ gai mắt. Sáu ngày không gặp, chàng coi vật đính ước của ta là đồ bỏ, chẳng phải rước cho ta một món nợ tình tạp nham sao? Nỗi ghen tức xộc lên, ta đang định đi vào để xem xem ngọn nguồn thế nào, thì sau lưng vang lên một giọng nói: “Đã lâu không gặp thượng thần, Tố Cẩm xin được thỉnh an thượng thần ở đây”.

    Ta sững sờ, quay người lại.

    Phép ẩn thân chỉ là phép thuật che mắt, có thể che mắt người phàm chứ không thể che mắt thần tiên. Nhìn Tố Cẩm xiêm y giản dị trước mặt ta thấy không quen cho lắm, bèn hỏi: “Sao ngươi lại ở đây?”.

    Nàng ta nhìn ta, đáp: “Quân thượng một mình lịch kiếp dưới trần gian, Tố Cẩm sợ quân thượng cô đơn, nên cố ý làm một người quân thượng nhung nhớ, sắp đặt ở bên cạnh chàng. Hôm nay Tây Vương Mẫu mở hội trà, Tố Cẩm cũng được thiếp mời, tiện đường qua đây, nên xuống thăm người Tố Cẩm làm cho quân thượng, xem nàng ta có hầu hạ quân thượng chu đáo hay không?”.

    Ta quay lại nhìn người con gái áo trắng đang đứng bên Dạ Hoa. Vừa nãy không để ý, bây giờ nhìn lại, quả nhiên người con gái đó chỉ là một con rối đội da người. Ta lấy chiếc quạt ra, lạnh lùng buông một câu: “Chu đáo quá”.

    Nàng ta nhìn ta ân cần, nói: “Thượng thần có biết Tố Cẩm làm con rối theo mẫu của ai không?”.

    Ta nghiêng đầu nhìn dò xét, nhưng không cảm thấy gương mặt của người con gái áo trắng kia có điểm gì đặc biệt.

    Ánh mắt nàng ta trở nên xa xăm: “Thượng thần có bao giờ nghe tới cái tên Tố Tố không?”.

    Lòng ta run rẩy. Tiểu thần tiên Tố Cẩm gần đây quả có tiến bộ, vừa mới gặp đã có thể xéo đúng lên nỗi đau của ta. Sao ta lại không biết mẫu thân đã nhảy xuống Tru Tiên đài của cục bột, phu nhân trước mà Dạ Hoa hết lòng yêu thương tên là gì chứ. Nhưng từ sau khi ta khám phá ra tình cảm của mình dành cho Dạ Hoa, thì đã gói ghém tất cả tin đồn về mẫu thân của cục bột nhỏ, vứt vào trong hòm, khóa ba tầng khóa, thề rằng sẽ không bao giờ mở hòm ra, để bản thân khỏi phải tự tìm đau khổ. Ta không phải là người đầu tiên Dạ Hoa yêu, mỗi lần nhớ ra lại càng nuối tiếc, đau đớn. Nhưng số phận đã như vậy, ta cũng không hề oán trách, chỉ có thể thở dài than rằng số không may, đường tình trắc trở mà thôi.

    Tố Cẩm liếc nhìn thần sắc của ta, nói: “Thượng thần không cần phải lo lắng đâu, bây giờ quân thượng chỉ là một người phàm trần, mới không nhận ra người trước mặt chàng chỉ là một con rối, có thể tác thành, khiến giấc mộng mà lòng chàng khao khát trở thành hiện thực. Đợi quân thượng quay về chính thân, cho dù con rối đó có mang gương mặt của Tố Tố, thì theo tính cách của quân thượng, sao có thể quan tâm đến một con rối chứ?”.

    Có phải nàng ta đang muốn nói cho ta hay, bây giờ Dạ Hoa đã rất quan tâm tới con rối này không?

    Ta cười ha ha, nói: “Ngươi không sợ sau khi Dạ Hoa trở về chính thân, nhớ ra chuyện ngươi đã lừa chàng, sẽ trách tội ngươi sao?”.

    Nét mặt nàng ta cứng đờ, gượng cười đáp: “Tố Cẩm chẳng qua chỉ làm một con rối, đặt ở trên đường trước cửa phủ của quân thượng, nếu quân thượng không có ý với nó, thì hai người cũng chỉ là vô duyên thôi. Nhưng quân thượng vừa nhìn đã yêu mến, đưa nó về phủ. Nếu đến lúc đó quân thượng trách tội Tố Cẩm, Tố Cẩm cũng đành chịu”.

    Lồng ngực ta căng tức, chỉ mân mê chiếc quạt không nói gì.

    Nàng ta lại nở nụ cười dịu dàng, nói: “Có thể thấy, nếu đúng là yêu một người đến khắc cốt ghi tâm, thì dù uống nước Vong Xuyên của U Minh Ti Minh Chủ, cũng vẫn có ấn tượng, đầu thai rồi vẫn yêu người đó. Đúng rồi”, nàng ta ngưng lại giây lát, thong thả nói tiếp, “Thượng thần có biết, ba trăm năm nay, quân thượng luôn chong đèn Kết Phách để tập hợp khí trạch của Tố Tố không?”.

    Trong đầu ta bỗng ầm một tiếng, khiến ta không phân biệt nổi phương hướng, lồng ngực căng tức, cồn cào.

    Chàng, Dạ Hoa trước đây định tái tạo một Tố Tố sao?

    Cái đêm của sáu hôm trước, khi ta ngồi bên cạnh giường Dạ Hoa, chàng còn không nhận ra ta, chàng nói không nhận ra. Sáu năm sau, chàng lại dẫn một người con gái không quen biết về nhà. Quả đúng là chàng yêu ta chẳng sâu sắc bằng chàng yêu Tố Tố khi xưa, nên mới không nhận ra ta. Hoặc giả, hoặc giả, chiếc hòm có ba lần khóa kia đã mở ra, hoặc là chỉ vì khi ta băng mắt có vài phần giống với phu nhân trước, nên Dạ Hoa mới dần dần yêu ta? Đầu óc rối loạn, ngực đau căng tức, tim ta nhói buốt.

    Nhưng dù đầu óc hỗn loạn, ta vẫn khâm phục bản thân, ra vẻ thượng thần rất đạt, ta ung dung nói: “Ngươi quả am hiểu chuyện ái tình, đúng là am hiểu như thế mới có thể chịu đựng được sự coi thường của Dạ Hoa, còn có thể làm thứ phi của chàng suốt hơn hai trăm năm. Trong đám tiểu bối bây giờ, ngươi có thể coi là một kẻ có tầm nhìn, con rối ngươi làm rất tinh xảo, để nó bên Dạ Hoa cũng tốt, đỡ cho bản thượng thần phải nhọc công. Sau này nếu Dạ Hoa có trách ngươi gạt chàng, bản thượng thần sẽ nói đỡ cho ngươi”.

    Nụ cười của nàng ta đông cứng trên gương mặt, mãi sau mới khóe môi, nói: “Đa tạ thượng thần”.

    Ta giơ tay xua xua, nói: “Để lỡ hội trà của Tây Vương Mẫu thì không hay đâu”.

    Nàng ta cúi đầu quỳ gối: “Vậy Tố Cẩm xin lui trước”.

    Tố Cẩm đi rồi, ta quay đầu lại nhìn, con rối đó đang cùng Dạ Hoa uống rượu. Mấy cánh hoa đào nương theo gió rụng xuống, bay lả tả, vương trên tóc Dạ Hoa. Con rối đó giơ bàn tay trắng như ngọc như ngà, phẩy nhẹ một cái, mấy cánh hoa đào rớt xuống đấy. Nó ngẩng đầu lên nhìn Dạ Hoa cười thẹn thùng, Dạ Hoa không nói gì, uống cạn chén rượu. Đầu ta đột nhiên đau buốt.

    Tứ ca hay nói, ta chẳng chịu suy nghĩ, luôn tùy ý hành động, may mà cha mẹ ta giỏi giang, ta mới không phải thiệt thòi, nhưng ta cũng không ít lần làm mất thể diện tộc Cửu Vỹ Bạch Hồ nhà ta. Cố nhiên ta cảm thấy huynh ấy còn làm nhiều chuyện mất thể diện hơn ta, nhưng niệm tình huynh ấy lớn hơn ta, nên ta cũng nhường huynh ấy.

    Giờ đây, ta mới thấy huynh ấy nói có lý. Ta hành động hết sức tùy ý, không hề suy nghĩ. Ví dụ như lúc ban đầu Dạ Hoa bày tỏ với ta, chàng nói chàng thích ta, chàng nói còn ta nghe, nhưng chưa bao giờ nghĩ rằng trong toàn thể nữ thần của bốn bể tám cõi, sao chàng chỉ yêu mình ta, cho dù sau này ta cũng yêu chàng, hai bên tình nồng ý đượm, cũng không hề hỏi chàng chuyện quan trọng này. Nếu như chàng thực sự vì mẫu thân của cục bột nhỏ mới thích ta, thì người thế thân Bạch Thiển ta với con rối đang uống rượu với chàng kia, đâu có gì khác nhau. Tuy cũng biết rằng so đo với người đã mất là hẹp hòi, nhưng tình yêu lại thực sự không thể tính tới thể diện hay độ lượng được.

    Ngọn lửa ghen tuông ngùn ngụt, ta day day góc trán, cảm thấy lúc này nên ngẫm nghĩ kỹ một số chuyện về Dạ Hoa, bèn bắt quyết gọi một đám mây, rồi lú lú lẫn lẫn bay về Thanh Khâu.

    Tối nay, ta đem đèn Kết Phách ra ngắm nghía dưới ánh sáng của viên dạ minh châu. Chiếc đèn này luôn đặt ở chỗ Tây Hải đại hoàng tử để giúp y dưỡng thần, sau khi Mặc Uyên tỉnh lại đã được Chiết Nhan lấy về và đặt ở Thanh Khâu. Lúc trên Cửu Trùng Thiên, Dạ Hoa không hỏi tới, còn ta cũng quên đem trả.

    Dưới ánh sáng trắng của viên dạ minh châu, cây đèn Kết Phách ấy khêu lên một ngọn lửa nho nhỏ bằng hạt đậu, trông chẳng có gì đặc biệt cả. Đâu có ai ngờ, trong cây đèn không có gì đặc biệt này lại chứa khí trạch ba trăm năm của một người phàm.

    Ta càng nghĩ lòng càng chùng xuống, lời của Tố Cẩm tuy không thể tin hoàn toàn, nhưng còn lời của tiểu tiên nữ Nại Nại trên Thiên Đình làm chứng, bây giờ ta đã rảnh rỗi để chắp ghép từng chuyện lại, ba trăm nay quả nhiên Dạ Hoa tình sâu như biển với mẫu thân của cục bột nhỏ. Một người nặng tình như chàng, một mối tình sâu như biển ấy, sao chỉ mới ba trăm năm mà đã có thể tan thành mây khói được, sao có thể vừa nhìn thấy bản thượng thần là lập tức thay đổi tình cảm được đây?

    Ta càng nghĩ càng cảm thấy ngọn lửa ghen tuông trong lòng bốc lên ngùn ngụt, lan đến tim phổi, cháy bùng lên. Ta yêu Dạ Hoa vì chính con người chàng, nếu như chàng có tướng mạo giống với sư phụ Mặc Uyên, ta cũng chưa bao giờ coi chàng là Mặc Uyên, dù chỉ là một khắc. Nếu như ta coi chàng là thế thân của Mặc Uyên, thì e rằng mỗi lần nhìn thấy chàng ta đều cung kính thưa hỏi, không dám khinh nhờn một chút nào.

    Ta đã yêu chàng như vậy, nên cũng mong chàng đối xử lại với ta như thế. Nếu như vì ta giống mẫu thân của cục bột nhỏ, mà chàng lại không nguôi thương nhớ mẫu thân của cục bột nhỏ nên mới chuyển sang ta, thì Bạch Thiển ta không thể nhận sự yêu mến này của chàng.

    Mê Cốc đứng bên ngoài khẽ giọng gọi: “Cô Cô, có cần ta dâng ít rượu lên không?”.

    Ta im lặng đồng ý.

    Rượu mà Mê Cốc dâng lên đều là rượu mới nấu, hơi cay nồng còn chưa được êm lắng, đi vào trong miệng, họng lập tức cay xè, đầu óc ta càng trở nên choáng váng hơn. Có lẽ hôm nay Mê Cốc thấy ta có tâm sự, nên mới cố ý chọn ra loại rượu mạnh này, hễ được lệnh là đem vào trong phòng ta.

    Ta uống tới mức một cây đèn Kết Phách trước mắt biến thành mười cây, cảm thấy uống khá say, mới đứng dậy loạng choạng đi ngủ. Mơ mơ màng màng nhưng không ngủ được, luôn cảm thấy trên bàn có thứ gì đang tỏa sáng, rất chói mắt, chẳng trách ngủ không được. Ta ngồi bên mép giường, nheo mắt nhìn, hóa ra là một ngọn đèn. A, có lẽ là cái đèn Kết, kết gì đó…

    Ta nghĩ mãi mà không nghĩ ra.

    Ngọn đèn đó chiếu sáng khiến trái tim người ta rối bời, toàn thân ta mềm nhũn không bò nổi dậy, cứ ngồi cách bảy, tám bước mà thổi ngọn đèn trên bàn, thổi mãi mà không tắt, muốn dùng pháp thuật để tắt đèn nhưng nhất thời chẳng nhớ nổi một phép thuật nào để thổi tắt đèn cả. Ta rên rỉ một tiếng “đen đủi”, dứt khoát bắt quyết chĩa về phía chiếc đèn Kết gì đó, “choang” một tiếng, ngọn đèn đó hình như vỡ tan. Cũng tốt, ngọn lửa trong đèn đã tắt rồi.

    Sau cơn giày vò ấy, trời đất quay mòng mòng, ta lập tức ngã xuống giường ngủ say như chết.

    Ta ngủ li bì hai ngày liền, khi ngủ cũng nhớ ra rất nhiều chuyện cũ.

    Hóa ra năm trăm năm trước, Kình Thương phá vỡ chuông Đông Hoàng, sau khi ta cố gắng nhốt hắn vào trong, chẳng hề giống như cha mẹ ta vẫn nói là ngủ liền hai trăm mười hai năm trong động Hồ Ly, mà bị Kình Thương gieo một phong ấn trong người, rơi xuống núi Tuấn Tật ở Đông Hoang.

    Cái gì mà Tố Tố, cái gì mà mẫu thân của cục bột nhỏ, cái gì mà người phàm nhảy xuống Tru Tiên đài, đó căn bản đều là bản thượng thần ta – khi ấy vẫn còn vô năng, vô tri.

    Ta còn thắc mắc là lúc thăng lên làm thượng thần, mình đã lịch kiếp như thế nào, chẳng qua đánh với Kình Thương một trận, ngủ vỏn vẹn có hai trăm mười hai năm, rồi trong giấc mộng say lại được thăng làm thượng thần. Ba trăm năm trước trong động Hồ Ly, khi tỉnh dậy, ta mắt chữ O miệng chữ A nhìn nguyên thần của mình từ ánh sáng bạc chuyển thành ánh sáng vàng lấp lánh, còn tưởng rằng ông trời ưu ái ta, cảm kích đến mức cảm thấy ông trời quá nhân từ.

    Ta đâu biết, trận đánh với Kình Thương kia chỉ là một ngòi nổ, mà kiếp nạn ta phải trải qua để được thăng làm thượng thần, lại chính là tình kiếp. Ta phải hy sinh trái tim không nói, mà còn phải hy sinh cả đôi mắt. Nếu không phải Kình Thương phong ấn tiên nguyên của ta, thì nhảy xuống Tru Tiên đài ta còn phải hy sinh toàn bộ tu vi. Ông trời hành sự chẳng hồ đồ chút nào, nhân từ, nhân từ, ông ta nhân từ cái cóc khô ấy.

    Ta đã hiểu vì sao khi ở Thanh Khâu, Dạ Hoa ngập ngừng muốn nói rồi lại thôi; hiểu được cái đêm ở quán trọ dưới trần gian, cái câu “Ta mong nàng nhớ ra, lại mong nàng vĩnh viễn không nhớ” ta nghe được trong lúc mơ màng hoàn toàn không phải là ta ngủ mơ; tất cả đều có trước có sau, là năm đó Dạ Hoa đã để ta chịu oan, chàng cảm thấy có lỗi với ta. E là chàng mãi mãi không bao giờ hiểu được tại sao ta lại đặt tên cho cục bột là A Ly, mãi mãi không hiểu được tại sao ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài.

    Chuyện cũ lần lượt ào về như thác đổ, nỗi đau kéo dài suốt ba năm đó của ba trăm năm về trước mới như ngày hôm qua, cái gì là đại nghĩa, cái gì là đạo lý, cái gì là bảo vệ sự an toàn cho một người phàm như ta mà không thể không làm với không thể làm, đêm đêm một mình vò võ trong “Nhất Lãm Phương Hoa”, từng tia hy vọng nhỏ nhoi bị bóp nghẹt. Tình cảm ấy ào ạt chảy về, ta cảm thấy cõi lòng bi thương vô tận. Ba năm đó, bản thượng thân sống vô dụng biết bao, đau đớn biết bao.

    Ta cảm thấy với tâm trạng của mình giờ đây, nếu thành thân với Dạ Hoa vào tháng mười, e rằng hơi khó. Ta biết rằng mình vẫn còn yêu chàng. Ba trăm năm trước ta bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc choáng váng; ba trăm năm sau lại bị chàng mê hoặc đến mức đầu óc mụ mẫm; đây là oan nghiệt. Ta không thể ngăn được mình yêu chàng, nhưng nghĩ đến chuyện ba trăm năm trước, trái tim yêu chàng như trồi lên một cái nhọt, cái nhọt này lại chẳng thể tiêu tan. Thế nên, ta cũng chẳng thể tha thứ cho chàng.

    Mê Cốc bưng nước vào trong phòng cho ta rửa mặt, nhìn ta một lúc, lão nói: “Cô cô, có cần ta đi lấy thêm chút rượu nữa không?”.

    Ta giơ tay sờ lên mặt, mới phát hiện nước mắt đẫm tay mình.

    Mê Cốc dâng rượu lên thật. Bữa trước ta uống bảy, tám vò, cứ tưởng đã uống hết sạch rượu tứ ca cất giữ, Mê Cốc vẫn còn có thể dâng thêm năm, sáu vò, chứng tỏ trong gian nhà tranh của lão cất giữ không ít rượu.

    Mỗi khi ta uống say thì sẽ ngủ, tỉnh lại uống, lại say rồi lại ngủ, cứ lặp lại một cách đơn điệu như vậy ba, bốn ngày. Đến chạng vạng tối ngày thứ năm thì tỉnh, Mê Cốc đang ngồi trong phòng ta, nói: “Cô cô lo lắng đến bản thân một chút đi, trong động không còn rượu để mang lên nữa rồi”.

    Mê Cốc quá lo, bản thân ta đâu cần lo lắng gì, chỉ là mệt mỏi quá thôi, không vô dụng như Phượng Cửu, thất tình uống tí rượu vào là say đến nỗi ói mật xanh mật vàng. Qua lần tôi luyện này, tửu lượng của ta còn tăng tiến không ít.

    Không có men rượu mạnh, đầu ta lại tỉnh táo trở lại. Đầu óc tỉnh táo khiến ta nhớ một chuyện quan trọng mà dù thế nào cũng không thể quên. Đôi mắt của ta đang sống trong hốc mắt của Tố Cẩm, nên đòi nó trở về rồi.

    Khi đó ta trải qua tình kiếp, bị Tố Cẩm nhân cướp mất đôi mắt. Bây giờ ta đã lịch kiếp xong, đôi mắt ta vẫn để trong hốc mắt nàng ta là không được, nàng ta nuôi đôi mắt của ta hẳn cũng thấy không tự nhiên.

    Chọn ngày chẳng bằng gặp ngày, ta gọi quạt Côn Luân đến, soi gương chỉnh sửa lại dung nhan. Haizz, sắc mặt ta nhìn không tốt lắm, để không mất thể diện của Thanh Khâu, ta đành lấy hộp phấn ra, thoa ít phấn lên.

    Mặt mày rạng rỡ, ta lên Cửu Trùng Thiên, ta bắt quyết, dễ dàng lách qua đám thiên binh thiên tướng canh Nam Thiên Môn, đi thẳng một mạch đến điện Sướng Hòa của Tố Cẩm nằm trong khuôn viên Tẩy Ngô cung.

    Nàng “mẫu mực” quả rất biết hưởng phúc, nàng ta đang nằm trên giường quý phi an nhàn nhắm mắt dưỡng thần.

    Ta hiện thân, một tiên nga thị tỳ vừa bước vào điện trông thấy đã kêu “á” một tiếng. “Mẫu mực” liền mở choàng mắt, nhìn thấy ta thì sững người, miệng vẫn giả lả: “Thượng thần giá đáo, Tố Cẩm vô cùng sợ hãi”. Động tác trở mình xuống giường lại cực kỳ chậm rãi, bình thản thong dong, quả là “vô cùng sợ hãi”.

    Ta ngồi một bên. Nàng ta ra vẻ tươi cười, cởi mở, nói; “Tố Cẩm đoán thánh ý của thượng thần, có lẽ là đến để hỏi thăm tình hình gần đây của quân thượng. Nếu nói đến quân thượng”, ngừng lại một lát, lại cười vẻ vô cùng cởi mở, “Tố Tố ở trần gian kia, vẫn sống cùng quân thượng rất vui vẻ, chăm sóc quân thượng rất chu đáo”.

    Nụ cười làm nền cho đôi mắt sáng lấp lánh trên gương mặt, ta sờ lên mặt chiếc quạt, ra vẻ ung dung, nói: “Nếu như thế này, tự nhiên là tốt nhất. Dạ Hoa đã có ngươi chăm sóc, ta cũng an tâm, còn hôm nay, ta lại muốn quan tâm tới ngươi một chút”.

    Nàng ta nghi hoặc nhìn ta.

    Ta cười đoan trang: “Tố Cẩm, ngươi dùng đôi mắt của bản thượng thần đã ba trăm năm, dùng có tốt không?”.

    Nàng ta ngẩng phắt đầu, máu trên khuôn mặt từ đỏ chuyển sang hồng nhạt, từ hồng nhạt chuyển sang trắng bệch, trong nháy mắt đổi ba màu, cực kỳ thú vị. Nàng ta nói với giọng run rẩy: “Vừa nãy ngươi, ngươi nói gì?”.

    Ta xòe quạt, cười đáp: “Ba trăm năm trước bản thượng thần trải qua tình kiếp, đã đánh mất đôi mắt vào tay ngươi, hôm nay nhớ ra chuyện này, nên cố ý tới đây đòi. Theo ngươi, tự ngươi động thủ hay là bản thượng thần đích thân động thủ?”.

    Nàng ta lùi về sau hai bước, va ngay vào thành giường quý phi đằng sau, nhưng dường như không hề hay biết, miệng lắp bắp: “Ngươi là, ngươi là Tố Tố?”.

    Ta không bình tĩnh được nữa, xòe quạt: “Rốt cuộc là ngươi đích thân móc trả hay là bản thượng thần móc giúp ngươi?”.

    Đôi mắt nàng ta thất thần, tay vặn xoắn tà áo, há miệng mấy lần, nhưng không nói được một câu hoàn chỉnh nào, như cười như khóc, nói: “Người đó, người đó rõ ràng chỉ là một người phàm, sao lại là ngươi, ả rõ ràng là một người phàm”.

    Ta bước tới, rót một chén trà đặc còn bốc khói nghi ngút trên bàn, ngạc nhiên nói: “Một người phàm thì sao, một thượng thần thì sao nào? Chỉ vì ba trăm năm trước ta hóa thành một người phàm, yếu ớt vô dụng, một tiểu thần tiên như ngươi có thể đoạt đôi mắt của ta, lừa ta nhảy xuống Tru Tiên đài được sao?”.

    Chân nàng ta mềm nhũn, loạng choạng ngã xuống, cứ lắp bắp “ta, ta” hồi lâu mà không nói được câu gì biện hộ.

    Ta bước tới, đưa tay sờ lên hốc mắt của nàng ta, dịu dàng nói: “Gần đây bản thượng thần có chuyện vui, uống mấy vò rượu, tay hơi run, động thủ có lẽ sẽ đau hơn ngươi tự làm, ngươi thông cảm nhé!”.

    Tay ta còn chưa hạ xuống, nàng ta đã kêu thét thất thanh. Ta vung tay phóng ra một đạo tiên chướng trùm lên trước điện Sướng Hòa, đảm bảo cho dù đám tiểu tiên đồng, tiểu cung nga có nghe thấy tiếng kêu của nàng ta cũng không vào trong được.

    Ánh mắt nàng ta đã rối loạn, hai tay giữ chặt lấy tay ta, nói: “Ngươi không thể, ngươi không thể…”.

    Ta buồn cười, vỗ nhẹ lên mặt nàng ta: “Ba trăm năm trước ngươi thích giả vờ yếu đuối, lúc nào ta gặp ngươi, ngươi cũng giả vờ yếu đuối, không thể để bản thượng thần mở mắt, nhìn xem lúc ngươi không yếu đuối trông thế nào? Lúc Dạ Hoa móc đôi mắt của ta nói nợ người ta cuối cùng vẫn phải trả, khi đó đôi mắt của ngươi sao lại không có, hai chúng ta đều hiểu rõ. Đôi mắt của ta sao lại lọt vào hốc mắt ngươi, hai chúng ta cũng đều hiểu rõ. Ngươi nói xem, tại sao ta không thể lấy lại đôi mắt của mình, lẽ nào đôi mắt của ta nằm trong hốc mắt của ngươi ba trăm năm, thì sẽ biến thành của ngươi sao?”.

    Dứt lời ta ra tay dứt khoát, nàng ta kêu lên thảm thiết. Ta ghé tai nàng ta thì thầm: “Chuyện ba trăm năm trước, Thiên Quân âm thầm làm, chuyện hôm nay, ta cũng âm thầm làm. Khi xưa ngươi nợ ta hai món nợ, một là đôi mắt, hai là Tru Tiên đài. Món nợ hôm nay coi như ta đã bắt ngươi trả. Món nợ Tru Tiên đài, hoặc là ngươi đường hoàng nhảy xuống một lần, hoặc là ngươi nói với Thiên Quân, dùng tiên lực bé mọn của ngươi đến nhà lao ở bến Nhược Thủy canh chừng chuông Đông Hoàng nhốt Kình Thương, vĩnh viễn không lên trời nữa”.

    Toàn thân nàng ta co rúm, có lẽ rất đau đớn. Nỗi đau này ta cũng từng trải qua, nên cũng đoán ra. Nàng ta đau đến mức không thể thở nổi, nhưng vẫn bướng bỉnh nhả ra ba tiếng: “Ta… quyết… không…”.

    Không sai, không giả vờ yếu đuối với ta, cố gắng cứng rắn một lần. Ta nâng cao khuôn mặt đẫm máu của nàng ta lên, cười nói: “Ô? Vậy là ngươi muốn bản thượng thần đích thân đi nói với Thiên Quân. Nhưng con người ta xưa nay lúc này nói một đằng, lúc khác lại nói một nẻo. Nếu để ta đến nói với Thiên Quân, không biết lúc đó ta có nói như bây giờ không nữa”.

    Cơ thể nàng ta cứng đờ, rồi tiếp tục đau đớn cuộn tròn lại. Ta thầm niệm một câu kinh Phật, thiện ác quả báo, đạo trời luân hồi.

    Tất Phương lại đi mất, tứ ca lại đi tìm hắn. Trong rừng đào mười dặm chỉ còn một mình Chiết Nhan.

    Khi ta đưa đôi mắt còn đẫm máu trong tay cho Chiết Nhan, lão kinh ngạc tột độ, đem ra soi xét cẩn thận rất lâu dưới ánh mặt trời, nói: “Đôi mắt bị trộm ba trăm năm vẫn có thể tìm lại được, thật là chuyện lạ”, rồi lại nói, “Ngươi đã uống thuốc của ta, giờ lại nhớ ra quá khứ đau thương khi trước, cũng là chuyện lạ”.

    Đôi mắt này được lấy ra từ một tiên thể chưa đến bảy bảy bốn mươi chín ngày, nếu không thì chỉ có nước bỏ đi. Chiết Nhan cảm thấy lạ lùng, có lẽ lão tưởng đôi mắt ta mất hẳn, chẳng ngờ lại được đặt trên khuôn mặt của người khác, đến hôm nay mang đôi mắt này về, còn có thể đặt lại vào hốc mắt ta.

    Ta gượng cười một cái.

    Lão liếc nhìn thần sắc trên mặt ta, hẳn cũng đoán rằng ta không muốn nhắc lại chuyện cũ, nên cũng rất hiểu ý ho hai tiếng, không hỏi nhiều nữa.

    Chiết Nhan nói lão cần mấy ngày để loại trừ hết những tạp khí trên đôi mắt này, sau đó mới thay mắt cho ta. Ta vui vẻ nhận lời, rồi nhân thể vòng ra sau núi đào mấy bình rượu lên, cưỡi mây bay về Thanh Khâu.

    Cứ thế lại uống say mèm mấy ngày. Ta dặn Mê Cốc giúp ta để ý động tĩnh thứ phi của thái tử trên Cửu Trùng Thiên, mấy ngày này đóng cửa Thanh Khâu, ta không gặp ai cả. Rượu Chiết Nhan cất, quả nhiên ngon hơn rượu do Mê Cốc tích trữ rất nhiều, hôm qua say còn nôn ra dịch mật, đầu đau đến mức muốn cầm kiếm xuyên qua huyệt Thái Dương từ bên trái sang bên phải. Nhưng như thế cũng tốt, hễ nhắm mắt là trời xoay mòng mòng, sẽ không còn thời gian mà đi nhớ đến chuyện khác nữa.

    Mê Cốc khuyên ta nên uống chậm lại, tạm thời không say rượu trong một, hai ngày, mà nên giữ gìn sức khỏe.

    Nhưng lần này hoàn toàn khác với nỗi đau lòng trong quá khứ, hễ không say là ta không thể chợp mắt.

    Khi ta say túy lúy thì chẳng biết trời trăng gì, nhưng nếu không say mèm, thì vẫn láng máng nhớ Mê Cốc thường nói chuyện với ta. Lão nói rất nhiều, đại khái là những chuyện không quan trọng. Có hai chuyện mà ta vẫn nhớ rất rõ, một là thứ phi thái tử trên Cửu Trùng Thiên mà ta rất để ý không hiểu sao cuối cùng cũng ngộ ra, dâng thư lên Thiên Quân, cam tâm tình nguyện xin rút khỏi Tiên tộc, đến bến Nhược Thủy vừa tu hành vừa giữ chuông Đông Hoàng. Thiên Quân cảm động trước ý tốt của nàng ta, bèn phê chuẩn; một chuyện nữa là thái tử Dạ Hoa lịch kiếp dưới trần gian, vốn đã uống nước Vong Xuyên không còn nhớ chuyện cũ, nhưng lại tin quỷ thần, dốc cả đời đi tìm tiên cảnh Thanh Khâu, tuy làm quan đến chức tể tướng nhưng suốt đời không lấy vợ, năm hai mươi bảy tuổi u uất bệnh mà chết, trăn trối người nhà đem thi thể hỏa táng, hợp táng với chuỗi ngọc thường đeo bên mình.

    Ta không biết lúc Mê Cốc nói chuyện đó ta có rơi lệ hay không. Nếu như ta thực sự rơi lệ, thì vì sao lại rơi lệ chứ? Ta uống rất nhiều, đầu óc trở nên chậm chạp, nghĩ mãi mà không ra.

    Qua mấy ngày, Mê Cốc hớt hơ hớt hải chạy vào động Hồ Ly, báo tin cho ta. Nghe nói thái tử điện hạ Dạ Hoa Quân trên Cửu Trùng Thiên, đã đợi bên ngoài cửa cốc Thanh Khâu bảy ngày, chàng muốn gặp ta.

    Mê Cốc nói lão làm theo lệnh của cô cô, không dám cho bất cứ ai vào cốc, cho dù là Dạ Hoa cũng không dám cho vào. Nhưng bảy ngày trôi qua, Dạ Hoa vẫn chưa có ý muốn rời đi, lão không thể tự ý, nên đành đi vào thông báo với ta, xem ý ta ra sao.

    Đầu óc ta cuối cùng cũng tỉnh táo lại.

    A, Dạ Hoa ở trần gian hai mươi bảy tuổi đã tạ thế, hai nắm đất vàng chôn cất, đương nhiên sẽ trở chính thân.

    Không hiểu tại sao, trong lòng đột nhiên nhói đau. Ta ôm tim, trượt theo chân bàn quỵ xuống, Mê Cốc định đỡ dậy, ta cản lão lại.

    Dựa vào chân bàn, ta ngước nhìn xà nhà. Ta muốn gặp Dạ Hoa.

    Ta muốn hỏi chàng ba trăm năm trước, vì Tố Cẩm phản bội chàng lấy Thiên Quân, nên chàng đau lòng, mới cắn răng lấy một người phàm trần không?

    Chàng có thật lòng yêu ta không? Chàng để ta vò võ ba năm trong Thiên Cung lạnh lẽo, là vì muốn tốt cho ta sao? Khi chàng yêu ta, có phải vẫn yêu Tố Cẩm không? Nếu như yêu, vậy thì yêu sâu đậm bao nhiêu? Nếu như không phải ta bị lừa nhảy xuống Tru Tiên đài, có phải chàng sẽ cam tâm tình nguyện lấy Tố Cẩm không? Bây giờ chàng tỏ ra tình sâu nghĩa nặng với ta, có phải vì hối hận chuyện ba trăm năm trước không?

    Càng nghĩ lại càng không muốn tiếp tục nghĩ nữa. Ta đưa tay che mắt, nước mắt trào qua kẽ tay. Nếu như chàng nói là “đúng” thì sao? Nếu như chàng nói toàn bộ là “đúng” thì sao?

    Ta không biết mình có nên tự tay giết chàng không.

    Mê Cốc đứng bên lo lắng nói: “Cô cô, gặp hay không gặp đây?”.

    Ta thở dài, nói: “Không gặp. Nói với chàng rằng, chàng không cần đến Thanh Khâu nữa. Ngày mai ta sẽ tìm Thiên Quân từ hôn”.

    Lúc lâu sau, Mê Cốc quay về, im lặng một lát mới nói: “Thái tử điện hạ, thần sắc của người rất xấu. Người đứng ở cửa cốc đã bảy ngày, một bước cũng không rời”.

    Ta liếc lão một cái, tợp một ngụm rượu, không đáp lại.

    Lão ngần ngừ rồi thưa: “Thái tử điện hạ nhờ ta chuyển lời tới cô cô. Người muốn hỏi cô cô, ban đầu cô cô nói, nếu khi ở trần gian người có vướng phải hoa đào, thì cô cô sẽ trói người mang về nhốt ở Thanh Khâu. Khi ở trần gian, ngoài mang một thị nữ có dáng vẻ giống cô cô lúc là người phàm, để hầu hạ mẫu thân bị bệnh ra, thì nửa đóa hoa đào ngài cũng chưa vướng bận, lúc đầu cô cô đã hứa với ngài, sao giờ lại không tính?”.

    Ta hất bình rượu, quát to: “Không tính, cái gì cũng không tính, cút, ngươi bảo hắn cút đi, ta không muốn nhìn mặt hắn”.

    Lòng đau như cắt, ta biết rằng không phải mình không muốn gặp chàng, chỉ là trong lòng có nút thắt, không biết phải gặp chàng ra sao.

    Ngày thứ hai, ta vẫn chưa lên Cửu Trùng Thiên từ hôn, chỉ cảm thấy tạm gác lại đã, đợi khi nào tâm trạng thoải mái thì sẽ đi. Nhưng trong một thời gian ngắn, sợ rằng tâm trạng khó mà thoải mái được.

    Ngày thứ ba, ngày thứ tư, ngày thứ năm, Mê Cốc nói Dạ Hoa vẫn đứng ở cửa cốc, không rời nửa bước. Ta nói với lão, nếu còn nhắc đến cái tên Dạ Hoa, thì sẽ đánh cho lão hiện nguyên hình là cây Mê Cốc một vạn tám nghìn năm trước, cuối cùng lão cũng ngậm miệng lại.

    Ta không sao uống rượu được nữa. Vì từ khi biết Dạ Hoa đang đứng bên ngoài Thanh Khâu, mỗi lần uống, càng uống ta lại càng tỉnh, càng tỉnh lại càng đau lòng, càng đau lòng lại càng khó ngủ.

    Mưa tí tách cả đêm, vì tinh thần ta rệu rã, nên trời vừa hửng sáng đã tỉnh dậy, cảm thấy mấy thành tiên lực dùng để phong ấn Kình Thương trên chuông Đông Hoàng năm trăm năm trước bị chấn động mạnh.

    Tim ta nhói đau. Quả là mùa thu đa sự, gần đây hết việc này đến việc kia kéo đến, đúng không uổng danh hiệu “phiền não nhất là tiết sang thu”. Có lẽ, Quỷ Quân đời trước Kình Thương công đức đã viên mãn, sắp phá chuông Đông Hoàng mà ra rồi.

    Ta vội vàng rửa mặt, sai Mê Cốc gấp rút đi rừng đào mười dặm chuyển lời đến Chiết Nhan, nhờ lão đến giúp ta một tay.

    Năm trăm năm trước, khi lần đầu tiên Kình Thường phá vỡ chuông Đông Hoàng, ta cố gắng lắm mới có thể chặn hắn lại và nhốt hắn trở lại trong chuông. Nhưng đánh một trận cũng khiến chuông Đông Hoàng bị sứt mẻ, ta lại không thể chỉ dùng có năm thành tu vi mà vá lành nó được. Với ngần này tu vi còn lại trên người, vừa nhẩm tính thì liều tấn công cũng hỏng, mà lý trí phòng thủ cũng hỏng, nếu còn vài phần sáng suốt, cũng đủ biết là không thể đấu lại với hắn.

    Nhưng Kình Thương không phải là kẻ lương thiện, bị nhốt ngần ấy năm, không chừng sau khi phá chuông Đông Hoàng chui ra, bạo tính lại bộc phát, lại đứng đầu tập họp thần thú của tám cõi tiêu diệt chư thiên, đốt cháy bốn bể tám cõi và ba nghìn thế giới thành tro bụi.

    Nghĩ đến đây, những chuyện phiền não trăng gió canh cánh cả trong giấc mộng vừa nãy đã bay biến đâu cả. Ta lấy quạt Côn Luân, nhún mình vút lên một đám mây, tức tốc nhằm thẳng hướng Nhược Thủy mà đi, định bụng trước khi Chiết Nhan tới, phải cố gắng chống chọi, tuyệt đối không được để Kình Thương phá chuông Đông Hoàng thoát ra.

    Ta biết rằng mình sẽ gặp Dạ Hoa ở cửa cốc. Chàng vẫn đứng chờ ở cửa cốc, nếu như ta ra khỏi Thanh Khâu, tất sẽ phải gặp chàng. Ta nhắm mát, giả vờ vô tình đi lướt qua chàng, thì một tay chàng níu tay áo ta lại. Khuôn mặt chàng trắng bệch khiến người ta phát hoảng, dáng vẻ tiều tụy, mệt mỏi thấy rõ.

    Chuyện gấp gáp như thế này sao có thể ở đây lằng nhằng với chàng, ta quay đầu dùng quạt chém một nhát cắt đứt một nửa ống tay áo bị chàng giữ, roạt một tiếng, chàng sững người, nghẹn ngào thốt hai tiếng: “Thiển… Thiển”.

    Ta không đáp, quay người tiếp tục bay đến Nhược Thủy. Ta liếc nhìn, chàng cũng cưỡi mây bám theo sau.

    Nhiều năm về sau, ta luôn nghĩ, khi đó, khi đó cho dù ta chỉ nói với chàng một câu thôi, cho dù chỉ một câu thôi? Nhưng ta lại lạnh lùng nhìn chàng. Một câu cũng không nói. Nhìn xuống Nhược Thủy mờ mịt, sóng bạc dâng cao ngang trời, phía trên mây đen vần vũ, chuông Đông Hoàng như một tòa tháp cao đứng sừng sững bên bến Nhược Thủy, trong nháy mắt một tiếng nổ ầm rung chuyển một phương. Tố Cẩm đáng nhẽ phải trấn thủ chuông Đông Hoàng mất tăm mất tích, có lẽ nhìn thấy cảnh tượng này đã sợ hãi, tìm chỗ trốn rồi.

    Trong tầng mây lơ lửng trên không trung đã nhìn thấy ló ra nửa cái đầu của thổ thần Nhược Thủy. Năm trăm năm trước ta đã có duyên gặp mặt với thổ địa này, y ló đầu từ trong mây ra, lo lắng nhìn chuông Đông Hoàng đang rùng lắc, thấy ta và Dạ Hoa, thì cuống quýt vái lạy, lo sợ nói: “Cô cô tiên giá, Nhược Thủy Thần Quân đã lên Thiên Đình cầu cứu rồi, lệnh cho tiểu tiên đứng đây chờ. Cơn tức giận của Kình Thương lần này cực kỳ khác lạ, phủ Thần Quân dưới sông Nhược Thủy cũng bị rung chuyển, miếu thổ địa của tiểu tiên cũng…”, y nói líu ra líu ríu, bỗng chuông Đông Hoàng dưới đất phát ra một luồng sáng cực lớn, trong ánh sáng trắng lờ mờ hiện ra một bóng người.

    Ta thầm than hỏng rồi, đanh định lao xuống thì thân hình bị giữ chặt lại.

    Dạ Hoa ở phía sau đã dùng dây trói, nhân lúc ta không để ý liền dùng định thân chú, giữa lúc sấm rền chớp giật còn dùng phép thuật trói hai chân hai tay ta. Ta không nhúc nhích được, trơ mắt nhìn Kình Thương sắp thoát khỏi chuông Đông Hoàng, vội hét lên: “Chàng thả thiếp ra”.

    Chàng không đáp, mà đẩy ta sang cho thổ địa Nhược Thủy, khẽ nói: “Trông chừng nàng ấy cho cẩn thận, cho dù xảy ra chuyện gì cũng không được để nàng ấy ngã từ trên mây xuống”. Dứt lời lật bàn tay trái một cái, một thanh bảo kiếm sáng lóa lạnh ngắt hiện ra.

    Ta trơ mắt nhìn chàng tay cầm bảo kiếm, đón gió xuống mây, lao thẳng vào luồn sáng bạc phát ra từ chuông Đông Hoàng, chỉ cảm thấy trời như sụp xuống, mấy lần há miệng nhưng nói không nên lời, cơn gió lạnh buốt quét qua khiến hai mắt ta đau buốt. Lúc Dạ Hoa lao vào luồng sáng bạc đó, ta nghe thấy mình gào lên một cách tuyệt vọng: “Thổ địa, ngươi thả ta ra, ngươi hãy nghĩ cách thả ta ra, Dạ Hoa chàng đâm đầu vào chỗ chết, trên người chàng đâu còn tu vi, chàng đâm đầu vào chỗ chết!”.

    Thổ địa lầm rầm vâng dạ gì đó, có lẽ nói pháp thuật này quá huyền diệu, y không giải được, định thân chú này cũng rất kỳ quái, y cũng không giải được.

    Cầu người không được đành phải cầu mình, ta ngưng khí định thả nguyên thần ra khỏi cơ thể, nhưng chẳng ngờ pháp thuật không chỉ khóa thân xác mà còn khóa luôn nguyên thần, ta giãy giụa cũng vô dụng mà thôi. Trong làn nước mắt mờ mịt, luồng ánh sáng bạc quanh chuông Đông Hoàng cũng dần dần tản đi, sấm rền chớp giật khi Dạ Hoa và Kình Thương đấu phép thuật dội thẳng lên trời. Thổ địa tạo một tiên chướng nho nhỏ bên cạnh chúng ta, để phòng ta bị chướng khí làm bị thương.

    Pháp khí mà Dạ Hoa dùng để trói ta rất ghê gớm, ta mồ hôi đầm đìa mới giải được định thân chú, nhưng không làm sao thoát ra khỏi pháp khí này.

    Giữa trời đất tối sầm, thổ địa nói với ta: “Cô cô, nơi này vẫn hơi nguy hiểm, tiên chướng của tiểu tiên không biết cầm cự được bao lâu, hay là chuyển chỗ đi”.

    Ta nghe thấy giọng mình trở nên xa xăm: “Ngươi đi đi, ta ở đây cùng Dạ Hoa”.

    Lúc này tuy ta bị trói, chỉ là đồ bỏ đi, chẳng giúp được Dạ Hoa, cho dù như thế, ta cũng muốn bên chàng, nhìn thấy chàng.

    Ta chưa bao giờ nhìn thấy Dạ Hoa cầm kiếm, không ngờ chàng cầm kiếm lại có dáng vẻ này.

    Nghe nói kiếm thuật của Dạ Hoa rất khá, cây kiếm trong tay chàng tên là Thanh Minh, đám tiểu tiên hâm mộ chàng tán tụng là “Thanh Minh vừa rút, chín châu hãi hùng”. Mới đầu nghe thấy, cảm thấy đó chỉ là lời khen ngợi sáo rỗng của đám tiểu bối, hôm nay chứng kiến hoa kiếm bay lượn do kiếm Thanh Minh tỏa ra, chín châu hãi hùng thực ra cũng hơi khoa trương, nhưng bóng kiếm quả khiến người ta hoa mắt, từng nhát từng nhát đều phát ra sấm sét, khiến mắt ta cay xè.

    Hai người họ đánh rất kịch liệt, ta đứng quá cao, không thể nhìn rõ là ai đang giành phần thắng. Nhưng ta biết Dạ Hoa sẽ không cầm cự được lâu, ta chỉ mong chàng cầm cự được đến lúc Chiết Nhan tới, hay là đến lúc đám thiên binh thiên tướng vô dụng do ông nội chàng cử tới cũng được.

    Bến Nhược Thủy cát bụi mịt mù, đất đá tung tóe. Bỗng nghe thấy Kình Thương cười dài ba tiếng, sau đó lại ho một trận, chậm rãi nói: “Hôm nay bại dưới tay ngươi, ta không phục. Nếu không phải vết thương năm trăm năm trước chưa khỏi, hôm nay ra khỏi chuông đã rất mất sức, thì tuyệt đối ta không thể thua một thằng nhãi như ngươi”.

    Đám khói bụi vần vũ đã tan đi, Dạ Hoa chống kiếm xuống đất, một đầu gối nửa quỳ xuống mặt đất, nói: “Rốt cuộc ngươi vẫn bại”.

    Trái tim treo lơ lửng của ta đã lắng xuống, ta run run nói với thổ địa: “Phía dưới ổn rồi, ngươi mau đưa ta xuống dưới…”.

    Lúc thổ địa cuống quýt giải tiên chướng, chuông Đông Hoàng bỗng phát ra một luồng sáng màu đỏ như máu. Ta sửng sốt, Kình Thương chưa bại sao? Hắn đã thua rồi, vậy cớ sao chuông Đông Hoàng còn có thể mở ra?

    Dạ Hoa cũng ngẩng phắt đầu, trầm giọng nói: “Ngươi đã làm gì trên chuông?”.

    Kình Thương nằm trên mặt đất, yếu ớt đáp: “Ngươi muốn biết ư, tại sao ta chẳng chạm tới chuông Đông Hoàng, mà nó vẫn có thể mở ra ư, ha ha, chẳng qua ta dùng thời gian bảy vạn năm, phí bao tâm sức, đã hợp nhất tính mạng của ta với nó. Nếu ta chết đi, chuông Đông Hoàng sẽ tự mở. Xem ra ta cũng sắp chết rồi, không biết chôn cùng ta, là tên nhãi ranh nhà ngươi, hay là chúng tiên của tám cõi…”.

    Hắn còn chưa dứt lời, mắt ta đã nhìn thấy Dạ Hoa lao vào đám lửa đỏ đó.

    Là tiếng kêu xé gan xé phổi của ai: “Không!”.

    Không, không thể? Hay là không cần, không được? Chuông Đông Hoàng mở ra thì sao, chúng thần của tám cõi bị tận diệt thì sao, chung quy hai chúng ta vẫn ở một chỗ, thiêu thành tro thì cũng chung một nắm tro, sao chàng, sao chàng có thể bỏ lại ta một mình chứ?

    Khi Dạ Hoa lao vào đám lửa hừng hực như đóa sen đỏ của chuông Đông Hoàng, pháp khí khóa chân tay ta bỗng tan biến. Đúng rồi, nếu chủ nhân của pháp khí tu vi tiêu tan, thì pháp khí này sẽ tự nhiên không trói được người ta nữa.

    Đám lửa như đóa sen đỏ đó đã cháy đỏ cả một nửa trời, bến Nhược Thủy quỷ khí âm u, ta dốc tu vi toàn thân trút vào quạt Côn Luân bắn về phía chuông Đông Hoàng. Chiếc chuông lắc một cái, trong ánh sáng màu đỏ đó, ta không tìm thấy bóng dáng Dạ Hoa.

    Dường như những tiếng của ác hồn quỷ phách truyền đến, âm thanh đó dần dần tụ lại, giống như thiên binh vạn mã rầm rập lao tới, ầm – tiếng kêu bi thảm của chuông Đông Hoàng.

    Ánh sáng đỏ lóe lên, rồi tắt ngấm. Một bóng người màu đen từ đỉnh chuông Đông Hoàng ngã xuống.

    Ta lật đật chạy qua đón lấy chàng, bước được hai bước lại ngã nháo nhào xuống đất. Khuôn mặt chàng trắng bệch, khóe miệng còn rỉ máu, dựa vào vai ta, ánh mắt tối sầm. Chiếc áo bào màu đen đã nhuộm máu tươi, nhưng vì là màu đen, nên không nhận ra chàng toàn thân đẫm máu.

    Chiết Nhan nói: “Ta luôn cảm thấy Dạ Hoa lúc nào cũng mặc đồ đen rất kỳ lạ, lần đó uống rượu với hắn, ta mới hỏi, ta cứ tưởng hắn thích nhất màu này, nhưng hắn nâng chén rượu hồi lâu, lại chỉ nói đùa với ta rằng, màu này không đẹp, nhưng rất thực dụng, ví dụ một hôm nào đó ngươi bị chém một nhát, máu thấm ra áo, cũng không biết là vệt máu, chỉ cho rằng ngươi bị va vào thau nước, bị nước hắt lên người, chứ không nhận ra ngươi bị thương, người lo lắng cho ngươi sẽ không đau lòng, kẻ thù của ngươi cũng không thể vì chém được ngươi mà thấy sung sướng”. Lúc Chiết Nhan kể cho ta, ta còn vui mừng vì cuối cùng Dạ Hoa đã biết bông đùa. Nhưng đến hôm nay, ta mới biết, những gì chàng nói là những điều chàng đã trải qua.

    Ba trăm năm trước, khi ta hóa thành Tố Tố ngây ngô vô tri, tự cho rằng mình yêu chàng như máu thịt; đến khi mất đi hồi ức, chỉ là Bạch Thiển của Thanh Khâu, khi chàng nói yêu ta, dần dần khiến ta rung động trước chàng, cũng ngỡ rằng đó là yêu rất chân thành. Ta không thể tha thứ cho chàng năm đó đã không rõ trắng đen mà móc đôi mắt của ta, ép ta phải nhảy xuống Tru Tiên đài; không thể tha thứ bây giờ chàng luôn nói yêu ta, nhưng chẳng qua chỉ là món nợ năm xưa chàng nợ ta, nên cảm thấy hổ thẹn; không thể tha thứ cho chàng từ đầu chí cuối, chưa bao giờ hiểu ta. Nói cho cùng, Bạch Thiển ta sống ngần này tuổi, trong tình yêu lại ích kỷ đến mức vô lý, chấp nhặt dù chỉ là điều nhỏ nhặt nhất. Nhưng kiếp trước kiếp này, ta liên tiếp hai lần gặp đúng chàng, hai lần đều yêu chàng sâu đậm, bây giờ nhớ lại, ta cũng chưa từng hiểu chàng.

    Ví dụ như tại sao chàng luôn vận đồ đen. Hóa ra không phải vì thích màu đen, mà vì không muốn người lo lắng cho chàng phải lo lắng, không muốn lộ vẻ yếu đuối trước mặt kẻ thù. Ta đã quên rằng, chàng luôn là người cắn răng chịu đựng và nuốt máu vào trong. Bảy vạn năm trước, khi Mặc Uyên dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, máu trong miệng nôn ra nhiều gấp trăm lần so với vệt máu rỉ ra từ khóe miệng chàng. Tu vi của chàng thua xa Mặc Uyên khi ấy, vậy số máu đáng nhẽ nhiều gấp trăm lần ấy đã đi đâu?

    Ta cúi đầu cắn mạnh vào bờ môi chàng, hoàn toàn không chú ý đến cơ thể chàng khẽ run lên, chỉ cố dùng đầu lưỡi tách răng chàng ra, cố gắng tiến vào trong khoang miệng chàng, có thể cảm thấy thứ gì đó vừa nóng vừa tanh đang men theo khe hở do hai miệng áp vào nhau của ta và chàng ào ạt chảy ra, đôi mắt chàng càng lúc càng tối đen.

    Ta cùng Dạ Hoa, trong kiếp này ta là Bạch Thiển, một tháng yêu nhau trên Cửu Trùng Thiên, lúc thân mật nhất chẳng qua cũng chỉ vài đêm.

    Dạ Hoa đẩy ta ra, ho rũ rượi, ho ra từng ngụm từng ngụm máu lớn, máu đập vào mắt ta khiến mắt ta hoa lên. Cánh tay đẩy ta đã dùng hết sức tàn, chàng ngã dúi dụi trên đất, lồng ngực không ngừng phập phồng, nhưng không nhúc nhích nổi.

    Ta bò qua ôm lấy chàng: “Chàng lại định nuốt máu vào ruột ư? Bây giờ chàng bao nhiêu tuổi, chàng yếu đuối thế nào, thiếp cũng không thất vọng gì cả”.

    Khó khăn lắm chàng mới thôi ho, muốn giơ tay lên, nhưng không giơ nổi, rõ ràng đến nói cũng khó khăn, lại còn tỏ vẻ không sao, bình thản nói: “Ta không sao, vết thương này không sao đâu. Nàng, nàng đừng khóc”.

    Ta ôm chàng bằng cả hai tay, không thể đưa tay sờ lên mặt chàng, chỉ có thể nhìn vào mắt chàng: “Dùng nguyên thần để tế chuông Đông Hoàng, ngoài Mặc Uyên ra, thiếp chưa từng thấy ai thoát khỏi số mệnh phải tan thành tro bụi, cho dù là Mặc Uyên, cũng phải ngủ bảy vạn năm. Dạ Hoa, chàng không lừa được thiếp đâu, chàng sắp chết, đúng không?”.

    Cơ thể chàng cứng lại, nhắm nghiền mắt, nói: “Ta nghe nói Mặc Uyên tỉnh lại rồi, nàng hãy ở bên Mặc Uyên, người sẽ chăm sóc nàng thật tốt, còn tốt hơn ta nhiều lần, ta rất an tâm. Nàng hãy quên ta đi”.

    Ta lặng người nhìn chàng.

    Khoảnh khắc ấy dài như triệu năm, chàng trợn mắt, thở dốc nói: “Ta chết cũng không thể nói những lời này, cả đời ta chỉ yêu mình nàng, Thiển Thiển, nàng mãi mãi không thể quên ta, nếu nàng dám quên ta, nếu nàng dám…”. Giọng nói dần dần trầm xuống, rồi lại khẽ vang lên, “Ta biết làm thế nào?”.

    Ta ghé sát tai chàng nói: “Chàng không được chết, chàng cố cầm cự một lát, thiếp đưa chàng đến tìm Mặc Uyên, người tất có cách”. Cơ thể chàng từ từ chùng xuống.

    Ta ghé sát tai chàng gào lên: “Nếu chàng dám chết, thiếp lập tức đến tìm Chiết Nhan xin thuốc, thiếp sẽ quên hẳn chàng, một chút cũng không nhớ. Thiếp sẽ cùng Mặc Uyên, Chiết Nhan còn cả tứ ca sống vui vẻ, mãi mãi không thèm nhớ đến chàng”.

    Cơ thể chàng run lên một cái, mỉm cười, nói: “Thế cũng tốt”.

    Kiếp này, câu nói cuối cùng chàng nói với ta là, “Thế cũng tốt”.
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  4. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa
    Chương 23: Chàng là bài ca bất tận của ta

    Ta ngồi nghe kịch trong một tòa lầu ở trần gian. Dạ Hoa đã rời xa ta tròn ba năm. Ba năm trước, trận chiến Nhược Thủy, Kình Thương chết, Dạ Hoa dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, hồn bay phách tán. Quạt Ngọc Thanh Côn Luân nhận một nửa tiên lực của ta, đã bắn về phía chuông Đông Hoàng một cái rất mạnh, khiến chuông kêu rền rĩ bảy ngày trời.

    Chiết Nhan nói, khi lão đến, Dạ Hoa đã tắt thở lâu rồi, toàn thân ta đẫm máu, đầu tóc rối bù ôm chàng ngồi dưới chân chuông, quanh người tạo một đạo tiên chướng dày đặc, không ai lại gần được. Chuông Đông Hoàng kêu rền rĩ bảy ngày, khiến chúng thần ở tám cõi tề tựu bên Nhược Thủy. Thiên Quân phái mười bốn vị tiên bá đến mang tiên thể của Dạ Hoa đi, mười bốn tiên bá đứng bên ngoài đánh ra sấm sét suốt bảy ngày bảy đêm cũng không thể làm tiên chướng kia nứt ra một kẽ hở.

    Chiết Nhan nói, ta còn tưởng ngươi ôm Dạ Hoa ngồi ở bến Nhược Thủy suốt đời, may mà tiếng chuông Đông Hoàng vang xa, quấy rầy sự thanh tu của Mặc Uyên, ngày thứ tám đã kéo Mặc Uyên tới.

    Những gì lão nói ta không nhớ gì cả. Khi đó, ta chỉ cảm thấy Dạ Hoa chàng chết rồi, ta cũng chết theo. Thực ra ôm chàng ngồi cả đời bên Nhược Thủy cũng không tồi. Cho dù chàng không thể mở mắt lại, cũng không thể nhếch miệng cười lạnh lùng, cũng không thể ghé sát tai ta gọi tên ta, cũng không thể… nhưng chí ít ta còn có thể ngắm khuôn mặt chàng, ta biết rằng chàng ở bên cạnh ta.

    Chiết Nhan nói, Mặc Uyên tới vào ngày thứ tám. Người tới lúc nào ta cũng không hay, trong lúc mông lung có lẽ có ấn tượng, khi đó ta ngồi dưới chân chuông Đông Hoàng, đầu óc trống rỗng, không biết gì hết, trong nháy mắt lại nhìn thấy Mặc Uyên đứng ngoài tiên chướng, cau mày nhìn ta.

    Trái tim đã khô héo của ta hơi hơi có tri giác, mới biết rằng mình còn sống, Dạ Hoa đã tế sống nguyên thần, hồn phách tiêu tan, Dạ Hoa, chàng đã chết rồi. Ta nhìn thấy Mặc Uyên ở rất gần, cảm thấy có lẽ Mặc Uyên có cách cứu Dạ Hoa, năm đó người cũng trải qua kiếp nạn chuông Đông Hoàng, cuối cùng cũng trở về. Ta cảm thấy chỉ cần có thể cứu được Dạ Hoa, chỉ cần có thể khiến chàng lại gọi ta một tiếng Thiển Thiển, đừng nói bảy vạn năm bảy mươi vạn năm ta cũng vui vẻ chờ.

    Ta dẹp bỏ tiên chướng, định ôm Dạ Hoa quỳ dưới chân Mặc Uyên cầu xin người cứu Dạ Hoa, muốn đứng dậy mà toàn thân không có sức. Mặc Uyên bước nhanh đến, nhìn kỹ một lúc lâu, rồi thở dài nói: “Chuẩn bị một cỗ áo quan, để Dạ Hoa an nghỉ”.

    Mặc Uyên quay về Côn Luân, ta đưa Dạ Hoa về Thanh Khâu, mười bốn tiên bá cũng đuổi theo sau. Ta cảm thấy Dạ Hoa chàng là của ta, ta không thể giao chàng cho bất cứ ai. Một hàng tiên bá đứng chờ ở cửa cốc nửa tháng, không lập được công lao mà phải quay về Cửu Trùng Thiên đợi lệnh.

    Ngày hôm sau, cha mẹ của Dạ Hoa đến Thanh Khâu.

    Người mẹ có khuôn mặt dịu dàng, đôn hậu của chàng tức đến toàn thân run rẩy, cầm chiếc khăn thêu ướt đẫm lên lau mắt, nói: “Hôm nay ta mới biết ngươi chính là kẻ phàm trần tên Tố Tố khi xưa, con trai Dạ Hoa của ta đã gây nên tội nghiệt gì, mà trước sau hai lần đều gặp phải ngươi. Khi ngươi là Tố Tố, nó hết lòng vì ngươi, vì ngươi mà sẵn sàng bỏ ngôi vị thái tử. Món nợ giữa ngươi và công chúa Chiêu Nhân, Thiên Quân xử ngươi phải trả nàng đôi mắt, phán ngươi sau khi sinh A Ly ba tháng phải chịu hình phạt sét đánh, chẳng qua ngươi chỉ mất đi đôi mắt mà thôi, con trai ta đã thay ngươi chịu hình phạt, ngươi lại sống chết nhảy xuống Tru Tiên đài. Được, ngươi nhảy rồi, con trai ta cũng nhảy theo ngươi. Đó là kiếp nạn ngươi được thăng làm thượng thần, còn Dạ Hoa ư, nhảy xuống Tru Tiên đài, ngủ vùi suốt hơn sáu mươi năm. Bây giờ ba trăm năm sau, lại vì ngươi, vì ngươi mà tan thành tro bụi. Con trai ta từ khi gặp ngươi không được sống một giờ vui vẻ. Nó vì ngươi làm bao nhiêu việc, còn ngươi đã làm gì cho nó? Ngươi chẳng làm gì hết, giờ lại ngang nhiên chiếm lấy nó. Giờ nó đã chết rồi, đến thi thể của nó ngươi cũng chiếm ư? Ta chỉ hỏi ngươi, ta chỉ hỏi ngươi một câu, ngươi dựa vào cái gì?”.

    Cổ họng ta đắng chát, loạng choạng lùi lại phía sau hai bước, Mê Cốc liền giơ tay đỡ ta. Cha Dạ Hoa đứng bên cạnh nói: “Đủ rồi”. Rồi lại quay lại nói với ta, “Tiểu nhi giết Kình Thương, dùng nguyên thần để ngăn chuông Đông Hoàng hủy diệt chư thiên, đã chết vì nghĩa lớn, Thiên Quân đã có truy phong. Những lời của Nhạc Tế đều là đàn bà nông cạn, thượng thần chớ nên để bụng. Nhưng thi thể của tiểu nhi, thượng thần nên trả lại. Thượng thần tuy có hôn ước với tiểu nhi, nhưng vẫn chưa kết hôn, chiếm giữ thi thể của tiểu nhi, về tình về lý đều không được. Tiểu nhi khi còn sống là thái tử của Thiên tộc, Thiên Đình có những quy định không thể thay đổi, như tiểu nhi đây, sẽ được chôn ở biển Vô Vọng tại tầng trời thứ ba mươi sáu, mong thượng thần tác thành”.

    Ngày Dạ Hoa bị đưa về Cửu Trùng Thiên là một ngày u ám, gió thổi hiu hiu.

    Ta hôn khắp hàng mi, đôi mắt, gò má, sống mũi chàng, khi chuyển đến môi chàng, trong lòng bỗng nảy sinh một suy nghĩ cực kỳ hoang đường, hy vọng chàng có thể tỉnh lại, có thể ghì lấy trán ta nói: “Chẳng qua ta đùa với nàng thôi”. Nhưng rốt cuộc chỉ là vọng tưởng ngốc nghếch của ta mà thôi.

    Dạ Hoa được cha mẹ chàng đặt trong cỗ quan tài bằng băng, đưa qua mặt ta, rời khỏi Thanh Khâu. Ta chỉ giữ lại bộ áo bào đen nhuộm đầy máu của chàng.

    Trước đây Chiết Nhan từng cho ta một cây đào. Ta trồng nó ở trước cửa động Hồ Ly, ngày ngày tưới nước bón phân, không lâu sau cành lá đã sum suê. Ngày cây đào nở đóa hoa đầu tiên, ta đem bộ áo bào của Dạ Hoa đặt vào quan tài, chôn dưới gốc đào, làm một nấm mồ áo mũ, không biết khi cây đào này thắm sắc đầy cành, nó sẽ như thế nào.

    Mê Cốc nói: “Cô cô, người vẫn nhớ người còn một đứa con trai chứ, có đón tiểu điện hạ về Thanh Khâu không?”.

    Ta xua xua tay. Đương nhiên ta vẫn nhớ mình còn một đứa con trai, ta đặt tên cho nó là A Ly. Nhưng đến bản thân ta còn chẳng chăm sóc nổi, huống hồ là A Ly. Để nó trên trời nó sẽ được chăm sóc tốt hơn.

    Sau khi Dạ Hoa bị cha mẹ chàng đưa đi, ta ngồi thừ dưới gốc đào nửa tháng, cả ngày ngẩn ngẩn ngơ ngơ, bóng hình chàng hiện ra trước mắt, đều là toàn thân áo đen, máu tóc xõa ra dịu dàng, đuôi tóc buộc một dải lụa, hoặc là dựa vào đầu gối ta lật sách, hoặc là ngồi trước mặt ta vẽ mấy bức tranh, khi Thủy Quân làm mưa, còn ôm ta vào lòng, che mưa cho ta. Nửa tháng ngồi thừ ở dưới gốc đào này, ta cảm thấy Dạ Hoa luôn luôn bên ta, ta rất hạnh phúc.

    Ta cảm thấy vô cùng hạnh phúc, nhưng Chiết Nhan, tứ ca đến cả Mê Cốc, Tất Phương, bốn người đều không hạnh phúc như ta. Đêm thứ mười sáu, tứ ca cuối cùng không chịu được đã lôi ta vào trong động, đưa gương cho ta soi, giận dữ quát: “Muội xem muội đã thành cái gì thế này, Dạ Hoa chết rồi, muội không sống nổi sao?”.

    Tứ ca nói không sai, ta cảm thấy mình sống không nổi. Nhưng ta không biết mình tan thành tro bụi có chắc chắn tìm được Dạ Hoa hay không. Tan thành tro bụi, có lẽ chẳng còn gì hết, quay về với đất mẹ mà thôi. Nếu ta tan thành tro bụi, nói không chừng chẳng còn nhớ Dạ Hoa, vậy chẳng phải tan thành tro bụi càng tốt hay sao, bây giờ ta còn có thể lúc nào cũng nhìn thấy chàng cười với ta, như vậy tốt biết bao.

    Nữ thần trong gương khuôn mặt trắng bệch, hình dung tiều tụy, hai mắt buộc một dải lụa dày, trên dải lụa còn vương mấy chiếc lá. Dải lụa này không giống với dải lụa ta buộc mọi khi. Đầu óc chậm chạp suy nghĩ, a, tháng trước Chiết Nhan đã thay mắt cho ta, dải lụa này là dải lụa có thuốc của lão, không giống với dải lụa cha làm cho ta.

    Tứ ca thở dài một tiếng, trầm giọng nói: “Tỉnh lại đi, muội đã sống ngần này tuổi, sinh ly tử biệt, còn nhìn không thấu hay sao?”.

    Không phải là nhìn không thấu, mà chỉ là không biết làm thế nào để nhìn thấu. Nếu như ta biết phải làm thế nào, có lẽ đã có thể nhìn thấu rồi. Đêm đó uống say, đánh vỡ đèn Kết Phách, khiến ta nhớ ra những chuyện ba trăm năm trước, không biểu vì sao lại không nhớ ra những điểm tốt của Dạ Hoa, mà chỉ nhớ ra những điểm không tốt của chàng. Còn giờ đây, Dạ Hoa ra đi rồi, nhưng lại chẳng nhớ ra được những điểm không tốt của chàng, trong đầu toàn là những điểm tốt của chàng. Trước đây ta mắng Ly Kính thậm tệ, nói hắn cả đời chỉ theo đuổi những thứ chưa đạt được, hễ chiếm được rồi thì không còn trân trọng. Chẳng phải ta cũng thế sao.

    Sông dài trăng tròn, đêm khuya người vắng. Không việc để làm, chỉ có thể ngủ.

    Vốn dĩ ta không nghĩ rằng có thể gặp Dạ Hoa trong mộng, trong giấc mộng này, ta lại gặp được chàng.

    Chàng ngồi duyệt công văn sau một chiếc bàn, rất lâu sau, mới dẹp đống công văn sang một bên, hơi cau mày nhấp một ngụm trà, đặt chén trà xuống, ngẩng đầu cười rạng rỡ: “Thiển Thiển, qua đây, kể cho ta nghe hôm nay nàng đọc được truyện gì nào”.

    Ta chìm trong giấc mộng không muốn tỉnh lại. Đây đúng là ân đức ông trời ban cho ta. Khi ta ngồi thừ dưới gốc cây đào, ảo ảnh đó chưa từng nói với ta, còn Dạ Hoa trong mộng, lại không khác gì khi còn sống, không chỉ cùng ta đi dạo, đánh cờ, mà còn nói chuyện với ta.

    Từ đó về sau, ngày ngày ta đều có thể mơ thấy chàng. Ta cảm thấy ngủ đúng là một hoạt động bổ ích.

    Thực ra ở một góc độ khác mà nghĩ, thì cũng đúng thôi. Trần gian có điển tích “Trang Chu mộng điệp”, nói một người phàm tên là Trang Chu mơ thấy mình biến thành một con bướm, vỗ cánh bay đi rất vui vẻ. Không lâu sau tỉnh lại, mới phát hiện mình vẫn là Trang Chu. Không biết là Trang Chu nằm mơ hóa bướm, hay là bướm nằm mơ hóa Trang Chu. Trước đây ta sống qua ngày một cách đơn giản, coi mộng cảnh chỉ là hư ảo, còn giờ nó lại khiến ta đau khổ tột cùng, không được như người đó, biến mộng cảnh thành hiện thực, biến hiện thực thành hư ảo. Cuộc đời vẫn như thế, chẳng qua chỉ thay đổi cách sống mà thôi, lại có thể khiến ta vui vẻ hạnh phúc. Đâu cũng là một cách nhìn thấu.

    Chiết Nhan và tứ ca thấy ta thần sắc dần dần tốt lên, chỉ là gần đây luôn thèm ngủ thôi, nên không thường xuyên trông coi ta nữa, có lẽ họ cũng an tâm phần nào rồi.

    Cửu Trùng Thiên không có tin tức gì của tân thái tử, chỉ nghe nói công chúa Chiêu Nhân vĩnh viễn bị đuổi khỏi Tiên tộc. Vì khi chuông Đông Hoàng có rung động khác lạ, nàng ta thân là tiên nga canh chuông, lại không làm trọn chức trách, kịp thời báo lên Thiên Đình. Nàng ta không làm tròn chức trách đã gián tiếp để thái tử Dạ Hoa một mình chiến đấu với Kình Thương không người chi viện, phải dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, hồn bay phách tán. Thiên Quân đau đớn vì mất cháu, giận dữ lôi đình, lập tức biếm nàng ta khỏi Cửu Trùng Thiên, liệt vào hàng luân hồi lục đạo, muôn đời chịu tình kiếp.

    Ta cảm thấy Thiên Quân trừng phạt Tố Cẩm cũng hơi quá, có lẽ là giận cá chém thớt. Nhưng chuyện này chẳng liên quan gì tới ta, nên cũng chỉ coi đó là chuyện phiếm nghe chơi mà thôi.

    Đổi một vai khác để đi trên con đường đời này, ta vẫn sống rất ổn. Ta tin rằng, Dạ Hoa vẫn sống trên đời này.

    Lúc đầu làm cho chàng một nấm mồ mũ áo là điều ta không muốn nhìn thấy nhất. Vì lúc nào nó cũng nhắc nhở ta, tất cả đều do mi tự đặt ra mà thôi, Dạ Hoa chết rồi, chàng đã chết rồi. Ta cảm thấy nơi đó là nơi đáng sợ nhất, nhưng lại không nhẫn tâm sai Mê Cốc đào nấm mồ mũ áo đó lên. Đành sang ở một động khác trong động Hồ Ly.

    Khi rảnh rỗi tứ ca thường dẫn ta xuống phàm trần du ngoạn, để ta khuây khỏa, nhân thể cũng để lòng huynh ấy khuây khỏa. Lúc chơi trên núi, huynh ấy sẽ nói: “Muội nhìn ngọn núi cao chọc trời này, đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, thế gian này nhỏ bé biết bao, nhưng cũng không thể trong phút chốc khiến muội to lớn hơn phải không? Không thể khiến muội cảm thấy nỗi đau ái tình của nhi nữ chỉ là mây bay ngang trời, hễ xua tay là tan đi sao?”. Lúc chơi trên sông biển, huynh ấy sẽ nói: “Muội nhìn dòng thác chảy như bay kia xem, đổ vào sông lớn, chẳng kể ngày đêm, chưa từng quay đầu. Muội nhìn dòng thác này, chẳng phải cảm thấy đời người cũng như vậy, không thể quay đầu, luôn luôn phải nhìn về phía trước sao?”. Lúc dạo chơi ở chợ, huynh ấy sẽ nói, “Muội nhìn đám người phàm trần như kiến này xem, có thể sống trên đời không quá trăm năm, huống hồ còn bị Ti Mệnh sắp đặt biết bao khốn khổ, người làm ruộng thì cả đời nghèo khổ, người đọc sách thì chí không được vẫy vùng, khuê nữ thì lại gả cho những gã chồng khốn nạn, nhưng họ vẫn vui vẻ mà sống. Muội nhìn những người phàm trần đó, không phải cảm thấy mình vẫn sống tốt hơn họ nhiều sao?”.

    Ban đầu ta còn lắng nghe, về sau huynh ấy càng nói nhiều, mỗi lần đều nói này nói kia, ta mặc kệ huynh ấy lải nhải, chỉ đến phàm trần có một mình.

    Ngày mùng ba tháng chín ba năm sau khi Dạ Hoa ra đi, ta ở phàm trần nghe kịch, gặp được một tiểu thần tiên tên là Chức Việt trên núi Phương Hồ. Ở trần gian nghe kịch thì phải tuân theo lệ của trần gian, cảm thấy diễn viên hát hay là phải tung tiền thưởng lên sân khấu, cũng coi như không phụ sự ân cần của kép hát.

    Tiểu tiên Chức Việt có lẽ là lần đầu xuống trần gian xem kịch, thấy cảnh mọi người tung tiền rất sôi nổi, cũng muốn tung, nhưng hai ống tay áo lại trống không. Nàng ta vừa nhìn đã nhận ra tiên thân của ta, cười hì hì tự khai gia môn, mượn ta chút tiền để thưởng. Ta tuy cũng hơi thắc mắc sao nàng ta là tiểu thần tiên, đã có thể biến hóa, biến ra một hai xâu tiền chỉ là chuyện cỏn con, nhưng vẫn lấy mấy viên dạ mình châu đưa cho nàng ta. Sau này mới biết cha mẹ nàng ta sợ nàng ta xuống trần gian chơi gây họa, nên phải khóa tiên lực của nàng ta lại.

    Vốn chỉ là cái duyên tình cờ, sau này mỗi lần xuống phàm trần xem kịch ta đều gặp nàng ta, cái duyên tình cờ này đã trở thành duyên phận lâu dài. Chức Việt nhanh nhẹn hoạt bát, lại không bám lấy ta hỏi han ta là ai, nhà ở đâu, bao nhiêu tuổi, khiến ta cảm thấy rất lạ. Nhưng khi nghe kịch có người nói chuyện, chẳng phải như tứ ca nói, “Muội nhìn những hàng chữ kịch bản nhấp nhô thò thụt này” thì cũng rất thú vị.

    Cứ thế ta đã cùng nàng ta nghe mười vở kịch, nhẩm ngày cũng hai tháng có dư.

    Hôm nay, ta vừa ngồi xuống nghe kịch, trên sân khấu sẽ diễn vở “Mẫu đơn đình”. Hôm nay chính là ngày mùng năm tháng mười, thích hợp cưới gả xuất hành, kỵ binh đao, ngày mà ba năm trước, Dạ Hoa đã bỏ ta mà đi. Ta nhấp một ngụm rượu, nhìn diễn viên mặc áo xanh trên sân khấu vung tay áo màu xanh múa rất đẹp mắt.

    Lúc này, kịch bản sẽ hát đến câu: “Nàng đẹp như hoa như ngọc, thời gian như nước chảy, tìm kiếm bao phen, lại ở trong thâm khuê tự thương mình”, Chức Việt tiểu tiên mới lò dò đến, ngồi xuống bên cạnh ta.

    Xem đến nửa chừng, nàng thì thào nói: “Nàng còn nhớ người anh họ kỳ tài, anh tuấn, tuổi trẻ bạc mệnh của ta không?”.

    Ta gật đầu tỏ ý vẫn nhớ.

    Tiểu tiên Chức Việt ngoài bàn về kịch với ta còn nhắc đến vị anh họ xa của mình. Theo như nàng ta nói, anh họ nàng ta anh minh thần vũ, là một nhân tài xuất chúng, nhưng thương thay mệnh lại bạc, tuổi trẻ chết nơi sa trường, ra đi để lại cha mẹ già con dại ngày đêm than khóc nhớ thương, đáng thương đáng thương. Mỗi lần nàng ta thốt ra hai tiếng “đáng thương”, trên mặt đều hiện lên vẻ bi thương vô hạn. Ta lại không cảm thấy cả nhà anh họ nàng có gì đáng thương, có lẽ gần đây ta đã nhìn thấu lẽ sinh tử.

    Chức Việt rót một chén trà, uống một ngụm, nhìn quanh quất, rồi lại ghé miệng sang thì thào: “Anh họ của ta, ta đã từng kể với nàng là chết được ba năm rồi đúng không? Ba năm trước, cả tộc tưởng rằng huynh ấy chỉ còn tiên thể, nguyên thần đã tan thành tro bụi. Chúng ta làm một cỗ quan tài bằng băng đen chôn huynh ấy dưới biển, khi đó ta còn đi đưa tiễn. Hôm qua vùng biển vốn lặng sóng suốt mấy chục vạn năm bỗng dậy sóng ầm ầm, nâng cỗ quan tài bằng băng đen đó lên. Mọi người nói là nước biển dậy sóng là do tiên khí bao quanh cỗ quan tài. Nàng nói có lạ không, anh họ ta đã tiêu tan nguyên thần, lại có thể có nguồn tiên khí mạnh như vậy bảo vệ. Người trong cả tộc không ai hiểu là chuyện gì xảy ra, khi mấy đứa tiểu bối bọn ta đến, tộc trưởng đang sai một tiểu tiên đi mời một vị tôn thần trong tộc ta. Cha mẹ ta nói, không chừng anh họ ta vẫn chưa chết hẳn. À, nếu như huynh ấy chưa chết, nhóc A Ly sẽ không phải cả ngày khóc lóc nữa rồi”. Xung quanh bỗng lặng phắc như tờ, chén trà trong tay rơi xuống đất, “choang” một tiếng, ta nghe thấy tiếng mình vang lên khô khốc: “Vùng biển đó có phải là biển Vô Vọng không? Anh họ ngươi, anh họ ngươi có phải là thái tử Dạ Hoa không? Chàng là cháu trưởng của Thiên Quân trên Cửu Trùng Thiên – thái tử Dạ Hoa phải không?”.

    Chức Việt lắp bắp ngẩn ra, đáp: “Sao, sao ngươi biết”.

    Ta loạng choạng lao ra khỏi tòa lầu, khi lao ra đường mới nhớ ra lên Cửu Trùng Thiên phải cưỡi mây. Lại loạng choạng trèo lên mây, mắt vô tình lướt qua đám người phàm trần đang quỳ mọp dưới đất, mới nhớ ra mình đang đứng giữa chợ gọi mây.

    Cưỡi mây đến lưng chừng trời, trời cao đất xa, phía dưới mịt mờ, đầu óc ta trống rỗng, cho dù thế nào cũng không nhớ ra đường đến Nam Thiên Môn. Càng cuống thì đầu óc càng trống rỗng, ta cưỡi mây quay đi trở về mấy lần, không biết phải làm thế nào.

    Sểnh chân một cái, suýt chút nữa là rơi khỏi mây, may mà được một đôi tay giữ chặt lại. Giọng của Mặc Uyên vang lên phía sau: “Sao ngươi lại không cẩn thận như vậy, đến cưỡi mây mà cũng ngã ư?”.

    Ta quay người níu chặt cổ tay người, nói: “Dạ Hoa đâu? Sư phụ, Dạ Hoa đâu?”.

    Người cau mày, nói: “Lau nước mắt đi đã, ta đang tìm ngươi nói chuyện này đây”.

    Mặc Uyên nói, năm xưa Phụ Thần dùng một nửa thần lực để làm tiên thai giúp Dạ Hoa đầu thai, sau khi Dạ Hoa đầu thai, thần lực đó vẫn luôn bên chàng, ẩn trong thần thức của chàng. Ba năm trước người không biết Dạ Hoa còn chém bốn con ác thú ở Doanh Châu, được một nửa thần lực còn lại của Phụ Thần, nên người mới tưởng không thể cứu chàng được. Có lẽ Dạ Hoa đem toàn bộ thần lực của Phụ Thần ra đấu với lực hủy diệt của chuông Đông Hoàng, nguyên thần bị hai lực này làm tổn hại một chút, nên mới rơi vào trạng thái ngủ say, tất cả mọi người mới tưởng chàng hồn bay phách tán, tan thành tro bụi. Đến chính bản thân Dạ Hoa, e rằng cũng nghĩ như vậy.

    Mặc Uyên nói, giấc ngủ này của chàng đáng nhẽ phải kéo dài đến mấy chục năm, nhưng cỗ quan tài băng đen kia là một đồ vật tốt, biển Vô Vọng tuy là nghĩa địa của Thiên tộc, nhưng cũng là thánh địa để tu dưỡng, mới khiến Dạ Hoa chỉ mất ba năm đã tỉnh lại, thực sự bất ngờ.

    Người nói những gì ta cũng không nghe thấy, chỉ chân thành lắng nghe người nói, Tiểu Thập Thất, Dạ Hoa về rồi, hắn vừa xuống Thanh Khâu tìm ngươi, ngươi mau quay về đi. Ta chưa bao giờ nghĩ rằng Dạ Hoa có thể sống lại. Tuy thầm cầu mong chàng quay về, nhưng lòng ta hiểu rõ, đó chỉ là hy vọng hão huyền. Ba năm trước chàng đã tan thành tro bụi rồi, dưới cây đào trước động Hồ Ly, còn chôn chiếc áo chàng mặc trước khi chết, chàng đã chết rồi. Khi lâm chung chàng còn bảo ta quên chàng, để ta sống tiêu dao tự tại. Nhưng, nhưng Mặc Uyên nói Dạ Hoa, chàng đã tỉnh lại, chàng không chết, chàng vẫn còn sống.

    Ta cưỡi mây bay một mạch về Thanh Khâu, không cẩn thận còn ngã khỏi mây bốn lần.

    Đi qua cửa cốc, ta dứt khoát hạ xuống đất, chạy thục mạng về động Hồ Ly. Một số tiểu tiên ven đường chào hỏi ta, ta cũng không hay biết, chỉ có chân tay run rẩy, sợ rằng không gặp được Dạ Hoa, sợ rằng những gì Mặc Uyên nói là lừa gạt.

    Khi động Hồ Ly hiện ra trước mắt, ta gượm bước chậm lại. Đã lâu rồi không đi cổng chính, không ngờ cây đào trồng ở bên động ba năm trước đã nở hoa rực rỡ. Núi xanh xanh, cây xanh xanh, nước xanh xanh, ba năm qua, lần đầu tiên ta nhìn thấy vẻ đẹp của Thanh Khâu.

    Dưới ánh sáng len qua mấy tầng mây chiếu rọi, cây hoa đào giữa non xanh nước biếc, giống như ráng chiều xán lạn sáng mãi trên Cửu Trùng Thiên.

    Dưới bóng cây rực rỡ đó một thanh niên vận áo bào đen đang đứng, đang vươn người ra, những ngón tay thon dài khẽ sờ lên bia mộ trước mặt.

    Giống như một giấc mơ.

    Ta nín thở tiến lên hai bước, sợ động tác quá mạnh sẽ khiến cho cảnh tượng trước mặt biến mất.

    Chàng quay đầu lại, gió nhẹ vờn qua, ráng chiều trên cây nhấp nhô như những làn sóng biển màu đỏ. Chàng mỉm cười, vẫn như dáng vẻ lần đầu gặp mặt, mày mắt như tranh vẽ, mái tóc đen nhánh. Trong sóng biển màu, vài cánh hoa đào chao liệng, giữa trời đất không có màu sắc nào khác, cũng không có âm thanh nào khác.

    Chàng giơ tay, khẽ gọi: “Thiển Thiển, qua đây”.

    HẾT CHÍNH VĂN.
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  5. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa
    Chương 24: Ngoại truyện 1: Dạ Hoa

    Năm đó, hoa sen nở rực rỡ trên Dao Trì mênh mông. Người con gái chàng yêu đã dứt khoát nhảy xuống Tru Tiên đài ngay trước mặt chàng.

    Lại hai nghìn năm nữa vội vã trôi qua, chàng đã năm nghìn tuổi.

    Trên Cửu Trùng Thiên có hàng ngàn hàng vạn quy củ. Trong đó có một điều, là các linh vật sinh ra không phải là tiên thai nhưng lại có cơ duyên được xếp vào hàng thần tiên, thì phải rũ bỏ thất tình, diệt trừ lục dục, mới có thể làm thần tiên tiêu dao tự tại mãi mãi trên Thiên Đình. Còn nếu làm trái với điều này, thì sẽ bị đẩy vào cõi luân hồi, mãi mãi không thể thăng tiên.

    Yêu tinh người phàm tu hành vốn không dễ dàng, hễ đắc đạo thăng tiên đều nghiêm chỉnh chấp hành quy củ này, không có ai dám mang theo tình cảm hồng trần đến ảo giới Tam Thanh, sống theo nề nếp. Trong những người sống theo nề nếp đó, có những người đã trở thành người đứng đầu của một phái thần tiên. Người đứng đầu này có tầm nhìn rất cao xa xét về mặt quy củ, nhưng chính người đứng đầu này cũng phải thừa nhận, xét đến nghiêm trang đường hoàng khi làm việc, lạnh lùng trịnh trọng khi làm người, trong suốt ba mươi sáu tầng trời không có ai có thể sánh với thái tử Dạ Hoa còn chưa tròn năm vạn tuổi.

    Tam thúc Liên Tống của chàng tìm chàng uống rượu, thỉnh thoảng lại đùa với chàng đôi câu, có lần chủ đề trong bữa rượu là sự tròn khuyết của vầng trăng dưới chân Cửu Trùng Thiên, từ trăng tròn trăng khuyết mà lan sang cả đời người tròn khuyết, Liên Tống bị chặn họng, muốn giữ thể thiện, nên nửa cười nửa không vỗ vỗ vai chàng, nói: “Cháu ấy, đời mình còn chưa viên mãn, lại nói với ta thế nào là viên mãn, chẳng khác gì đánh trận trên giấy cả”.

    Chàng xoay xoay chén rượu, hỏi: “Đời cháu không viên mãn như thế nào?”.

    Liên Tống lập tức, ra vẻ từng trải, rầu rĩ nói: “ Đêm đến xem sao trên đài Quan Tinh, nhờ đôi mắt có thể biết được trăng đầy hay vơi. Lướt qua bên ngoài huyễn cảnh Tam Thanh, nếm mùi tình ái mới biết được thế nào là sự tròn khuyết của đời người”.

    Liên Tống nói như thế, chàng nghe như vậy, nghe xong chỉ cười nhạt một tiếng, không coi là thật. Chàng chưa bao giờ cảm thấy tình ái lại là thứ lớn lao.

    Sau cuộc rượu này, cuối tháng bảy, Thiên Quân lệnh cho chàng xuống hạ giới hàng phục một con Xích Viêm Kim Nghê Thú(45) sinh ra ở Đông Hoang. Nghe nói Kim Nghê Thú này mười năm trước từ Nam Hoang chạy đến nước Trung Dung ở Đông Hoang, tàn bạo không biết sợ ai, khiến cho nước Trung Dung mười năm đại hạn, ngàn dặm khô héo, con dân cả nước gian nan phiêu bạt. Quốc quân Trung Dung là một vị vua nhân từ hiếm có, nhưng đã mười năm nay, Kim Nghê Thú si mê vợ của Quốc quân, không thèm hỏi một tiếng mà bắt vương hậu về động, làm nhục nàng. Quốc quân nước Trung Dung đánh không lại chàng, giận dữ thắt cổ, âm hồn bay đến U Minh Ti, tố cáo hết thảy tội ác của Kim Nghê Thú.

    Tên tuổi của Xích Viêm Kim Nghê Thú tuy không hơn các thần thú từ thời thượng cổ như Thao Thiết, Cùng Kỳ, nhưng cũng không hề thua kém chúng. Thiên Quân lệnh cho một mình Dạ Hoa xuống hạ giới thu phục con súc sinh này, cũng có ý tôi luyện chàng làm người kế thừa.

    Chàng và Kim Nghê Thú đánh nhau một trận bảy ngày ở nước Trung Dung, giữa lúc trời đất quay cuồng, tuy chàng đã chém đứt đầu con ác thú này nhưng vì sức cùng lực kiệt cũng phải hiện nguyên hình. Nguyên hình của chàng vốn là một con rồng đen uy phong lẫm liệt, chàng cảm thấy như vậy phô trương quá, nên đã thu nhỏ bằng một con rắn, tìm được một sơn động tầm thường trên núi Tuấn Tật bên cạnh. Trên núi Tuấn Tật, nơi nơi đều là hoa đào, đang đúng mùa hoa rộ, chàng ngồi trong động lạnh lùng dò xét một lượt, rồi mới thong thả nhắm mắt ngủ.

    Giấc ngủ đó rất ngon. Không biết ngủ mấy ngày liền mới tỉnh, khi mở mắt ra chàng phát hiện nơi mình nằm không phải trong sơn động ẩm ướt nữa, mà hình như là trong một mái nhà tranh của người phàm trần. Gian nhà tranh xiêu xiêu vẹo vẹo như chực đổ, rất ăn nhập với cánh cửa gỗ nho nhỏ còn xiêu xiêu vẹo vẹo hơn, khiến người ta không khỏi cảm thấy, chỉ cần đẩy nhẹ cánh cửa ấy là cả căn nhà tranh lập tức đổ sụp xuống.

    Gió đồng nội bên ngoài nhà thổi vào, lẫn trong đó là tiếng lá cây xào xạc, cánh cửa gỗ cũng mở ra. Đầu tiên là một đôi hài, sau đó là một bóng người áo trắng, và cuối cùng là gương mặt của người con gái ấy.

    Sự cẩn trọng vững vàng đã tu luyện bao năm qua bỗng chốc bị chấn động ghê gớm, chàng bỗng mơ màng trong giây lát, người con gái trước mặt dáng vẻ tha thướt yểu điệu, không hiểu sao lại giống hệt bóng hình trong mơ ẩn sâu trong ký ức, một cảm xúc khó gọi tên bỗng dâng tràn, cảm giác ấy tựa như kiếp trước đã đánh mất một thứ gì mà chưa tìm thấy, sau mấy nghìn vạn năm cuối cùng chàng đã tìm ra. Nếu là Liên Tống sẽ thong thả xua xua cây quạt, nói: “Đây là động tình”. Còn Phật Tổ chắc sẽ niệm A di đà Phật: “Đây là vọng niệm”.

    Có quả ắt có nhân. Điều chàng không nhớ ra là, bảy vạn năm trước Mặc Uyên dùng nguyên thần tế chuông Đông Hoàng, chàng bị một giọng nói thổn thức, vô cùng bi ai lay tỉnh: “Sư phụ, người mau tỉnh lại đi, người mau tỉnh lại đi”, từng hồi từng hồi vang lên bên tai chàng, cho dù người được gọi không phải là chàng, nhưng chàng lại tỉnh. Chủ nhân của âm thanh đó chính là người con gái trước mặt chàng.

    Ảo mộng của kiếp trước, trước khi chàng đầu thai làm cháu trưởng của Thiên Quân, chàng đều không nhớ, nhưng kiếp duyên sinh ra trong lửa đỏ như hoa sen lại chiếu vào số mệnh tương lai của chàng. Lúc đầu chàng tỉnh lại giữa lửa đỏ, thứ đầu tiên chàng nhìn thấy trong cõi đời này, không phải trời cũng chẳng phải đất, mà là người con gái đang mỉm cười rạng rỡ với chàng. Người con gái này, khi đó nàng hóa thân thành nam giới, tên gọi là Tư Âm.

    Chàng nằm trên giường, giống như bị thứ gì đâm trúng, đôi mắt bình lặng như nước bằng, bỗng dần dần nổi những cơn sóng màu đen.

    Người con gái đó quan sát kỹ một lúc, mới vui vẻ hỏi: “Ngươi tỉnh rồi à?” sờ lên chiếc sừng trên đầu chàng một lát rồi mới hài lòng nói: “Mấy con rắn mà ta biết không có con nào đẹp như ngươi, ngươi đúng là một con rắn lạ lùng, trên đầu còn mọc cả sừng. Chiếc sừng của người rất trơn, hi hi, sờ vào rất thích”.

    Chàng cụp mắt xuống, rồi lặng im nhìn nàng.

    Thực ra chàng là một con rồng đen oai phong lẫm liệt, nhưng người con gái này kiến thức nông cạn, có lẽ chưa bao giờ nhìn thấy một con rồng, nên chỉ coi chàng là một con rắn nhỏ có độ dài khác thường, cho nên, mới muốn huấn luyện chàng thành một con rắn nhà. Rắn nhà có rất nhiều điểm tốt, thí dụ như, nàng sẽ ôm chàng trong lòng mà nói chuyện với chàng, nàng sẽ dùng đôi bàn tay mềm mại đút thức ăn cho chàng, nàng còn chia cho chàng một nửa chiếc giường, đêm đến cho chàng nằm cạnh nàng mà ngủ, còn đắp cho chàng một lớp chăn dày. Chàng nghĩ, có lẽ nàng chưa bao giờ nuôi rắn, không biết rắn không cần ngủ trên giường, cũng không cần đắp chăn, đương nhiên, rồng cũng không cần.

    Rất nhiều đêm, sau khi nàng ngủ say, chàng hóa thành hình người, ôm nàng vào lòng, đến sáng ra trước khi nàng tỉnh lại, chàng lại biến thành con rồng đen nhỏ bé.

    Nàng không biết nhuộm vải, đồ mặc trên người toàn một màu trắng, so với những xiêm y lụa là của nữ thần tiên trên trời giản dị hơn rất nhiều, nhưng chàng lại cảm thấy xiêm y màu trắng rất đẹp. Chàng đặt cho nàng một cái tên, gọi là Tố Tố(46).

    Chớp mắt đã đến tháng chín, hoa quế trên bốn bể tám cõi ngát hương, trong mùi hoa quế thơm ngào ngạt, Tố Tố lại nhặt về một con quạ mẹ vừa mới mất con, cả ngày bận rộn tìm thịt cho con quạ mẹ ăn, nên lơ là với chàng rất nhiều. Tuy chàng không tỏ ra điều gì, nhưng lại ý thức được nguy cơ là, trong mắt Tố Tố, con rắn nhỏ như chàng e rằng cũng chẳng khác gì với con quạ mẹ kia. Chàng cảm thấy cứ thế này sẽ không ổn, bèn nhân một hôm Tố Tố lại đưa con quạ mẹ ra khỏi nhà tranh đi tìm thịt, hóa thân thành hình người, gọi mây rồi bay lên Cửu Trùng Thiên.

    Người am hiểu ái tình nhất trên Cửu Trùng Thiên chính là tam thúc Liên Tống của chàng. Thiên Quân hiện giờ khi còn trẻ cũng rất phong lưu, nhưng Liên Tống còn phong lưu hơn ngài rất nhiều, là công tử đa tình hàng đầu trong Thần tộc.

    Công tử đa tình nói: “Thúc chưa từng dính dáng với con gái ở trần gian, nhưng có câu nói rất hay, rằng “Tú bà thích tiền, con gái thích đẹp”, phàm là con gái trẻ trung thì không ai là không thích những lang quân tuấn tú, cháu đứng trước mặt nàng ta, cười với nàng ta một cái, đảm bảo nàng ta say như điếu đổ”.

    Chàng nhấp một ngụm trà, không bảo đúng cũng chẳng bảo sai.

    Công tử đa tình lại nói: “Từ xưa tới nay mỹ nhân đều yêu anh hùng, hay là cháu hóa ra một con yêu quái, thả nó vào núi dọa cho nàng ta một trận, đến khi nàng ta sợ chết khiếp, cháu lại cầm kiếm Thanh Minh anh tuấn hào sảng xông ra đánh chết con yêu quái đó, như thế cháu trở thành ân nhân cứu mạng của nàng ta, nàng ta không biết lấy gì báo đáp, đương nhiên chỉ có thể dùng thân báo đáp”.

    Chàng đặt chén trà lên mặt bàn, xoay xoay, khẽ nói: “Hôm nào cháu rảnh, cháu giúp thúc hóa một con yêu quái đi dọa Thành Ngọc, haizz, những yêu quái bình thường hẳn sẽ không dọa được nàng ấy, phải là yêu quái thật lợi hại mới đánh được nàng ấy, cháu sẽ đánh cho nàng ấy gần tắt thở để thúc đi cứu nàng ấy, có lẽ nàng ấy cũng không biết lấy gì báo đáp, sẽ lấy thân báo đáp thúc”.

    Công tử đa tình cười khan hai tiếng, phe phẩy quạt thở dài bất lực: “Nam nhân kế(47) cháu không ưng, anh hùng kế cháu lại lo cho nàng ta, sợ nàng ta bị dọa. Hay là thế này, dùng khổ nhục kế đi, cháu tự đâm mình hai nhát, rồi nằm trước cửa nhà nàng ấy, nàng ấy không thể đứng yên nhìn một người sắp chết trước cửa nhà mình, chắc nàng sẽ phải cố gắng cứu chữa cho cháu. Như thế, để báo đáp nàng ấy, sau khi vết thương khỏi, cháu sẽ ở lại làm nô bộc cho nàng ấy, cháu thấy thế nào?”.

    Chén trà dằn xuống mặt bàn, cạch một tiếng, chàng cho rằng kế này rất hay.

    Dùng khổ nhục kế cũng không cần đâm mình hai nhát, thần tiên có phép thuật che mắt. Sau khi uống trà với Liên Tống xong, chàng lập tức gọi mây đi về. Lần này xuống hạ giới, chàng tạo một tiên chướng, để tránh tai mắt trên trời, che núi Tuấn Tật thật kỹ. Khi hạ xuống trước nhà tranh của Tố Tố, chàng bắt quyết, biến mình toàn thân đẫm máu giống như vết thương lúc được thăng làm thượng tiên năm nào.

    Kế này quả rất thành công, Tố Tố đẩy cánh cửa chực rớt xuống đó, vừa nhìn thấy Dạ Hoa đã kinh sợ tột độ, lập tức kéo chàng vào bên trong nhà tranh. Hành động cầm máu của Tố Tố cũng rất vụng về, chàng nằm trên giường nghiêng người nhìn nàng toát mồ hôi giã thuốc, cảm thấy hơi hạnh phúc. Nhưng nàng lại vô cùng sợ hãi, bàn tay đắp thuốc run lẩy bẩy, một chén nước thuốc hơn một nửa bị rớt xuống đất, non một nửa còn lại thì rớt trên áo chàng, mấy giọt còn lại may mắn lắm mới rót lên miệng vết thương của chàng. Chàng nhìn khuôn mặt trắng bệch của nàng, hơi nhếch khóe môi, chợt phát hiện trong trái tim mình bỗng hơi xao động, nhân lúc nàng quay người thêm thuốc, chàng nhúc nhích ngón tay, làm vết thương lập tức tự khỏi. Tố Tố thêm xong thuốc, quay đầu lại thì thấy chàng đã mau chóng lành lặn, kinh ngạc đến mức trợn mắt há mồm. Chàng cảm thấy dáng vẻ trợn mắt há mồm này của nàng rất đáng yêu.

    Tố Tố không an tâm về chàng, giữ chàng ở lại nhà tranh dưỡng thương thêm mấy ngày, quả đúng ý chàng. Nàng không nhắc nhở chàng phải đi, chàng cũng giả vờ như không biết, trị lành vết thương cũng dứt khoát không nhắc đến chuyện rời đi, cho đến sáng ngày thứ mười hai.

    Sáng sớm ngày thứ mười hai, Tố Tố bưng một bát cháo đến trước mặt chàng, nói khéo rằng, nàng chỉ là một cô gái yếu đuối, nuôi một con vật nhỏ thì không thành vấn đề, nhưng nuôi một con người thì lại không dễ dàng, vết thương của chàng đã khỏi, có lẽ chàng cũng nên rời khỏi đây rồi. Nàng ấp a ấp úng, rõ ràng phải nói những câu đuổi khách này nàng cũng thấy ngượng ngập.

    Chàng bê bắt cháo lên húp một hơi, bình tĩnh nói: “Nàng đã cứu ta, đương nhiên ta phải ở lại để báo đáp nàng”.

    Nàng vội vàng xua tay nói không cần, chàng không đáp, chỉ thong thả ăn hết bát cháo không thể coi là ngon, rồi mới nhìn nàng, cười nói: “Nếu không báo đáp nàng, chẳng phải ta là kẻ vong ân phụ nghĩa sao? Cho dù nàng nhận hay không nhận, cái ơn của nàng ta nhất định phải báo”.

    Sắc mặt nàng hết xanh rồi lại trắng. Chàng chống má nhìn nàng, cảm thấy dáng vẻ bối rối của nàng thật đáng yêu nhưng lại vì thể diện mà không dám để lộ ra. Chàng hoàn toàn không ngờ rằng, câu tiếp theo nàng nói còn đáng yêu hơn dáng vẻ của nàng gấp trăm lần. Nàng nói: “Nếu như chàng muốn báo ân, chi bằng lấy thân báo đáp đi”.

    Họ đã bái trời đất thề nguyền. Đêm động phòng hoa chúc, sau khi ân ái, chàng ôm nàng đã ngủ say vào lòng, cảm thấy vô cùng hạnh phúc.

    Nhưng số mệnh thật huyền bí. Người ta nói vạn điều đều là mệnh, không hề do con người, mệnh của người phàm do thần tiên định đoạt, còn mệnh của thần tiên lại do số trời định đoạt, đều không tránh khỏi. Chàng được chọn làm trữ quân kế vị Thiên Quân, chính vì cái họa do nhị thúc của chàng là Tang Tịch gây ra. Thiên Quân đã đính ước với nhà họ Bạch ở Thanh Khâu, bốn bể tám cõi đều biết sau này chàng sẽ phải cưới thượng tiên Bạch Thiển của Thanh Khâu. Trước đây chàng luôn cảm thấy đời người chẳng qua cũng chỉ thế thôi, cho dù là cưới Bạch Thiển ở Thanh Khâu hay là Thanh Thiển ở Bạch Khâu, thì cũng chỉ là thêm một người nằm trên giường đi ngủ mà thôi. Còn bây giờ, chàng đã có người con gái mình yêu, tất cả chuyện trước kia, giờ phải tính lại từ đầu.

    Bài học xương máu của Tang Tịch vẫn còn sờ sờ ở đó, hơn nữa chàng đã ở ngôi vị trữ quân không thể vứt bỏ, chỉ đợi đến khi tròn năm vạn tuổi, là được phong làm thái tử, chuyện của chàng và nàng, đã khó lại càng thêm khó. Chàng trăn trở mấy ngày, mọi phương án đều được đem ra so sánh, cuối cùng chọn cách nguy hiểm nhất, nhưng lại là vất vả một lần mà an nhàn mãi mãi. May thay tộc Giao Nhân ở Nam Hải gần đây lại có động tĩnh bất thường, cũng coi như là cơ duyên để chàng thoát khỏi Thiên Cung một cách triệt để. Nhưng chuyện này một mình chàng làm e rằng khó tránh khiến người khác nghi ngờ, phải nhờ người nói với Thiên Quân để che mắt. Chàng chọn đi chọn lại mãi, cuối cùng đẩy cho Liên Tống gánh trách nhiệm này.

    Liên Tống phe phẩy quạt, dò xét chàng từ trên xuống dưới một lượt: “Làm như thế, trận chiến Nam Hải là không thể tránh rồi. Lúc đó đương nhiên thúc có thể làm chứng cho cháu trước mặt Thiên Quân, chứng thực cháu đã tan thành tro bụi hoàn toàn. Thế nhưng vì một người phàm trần, cháu lại nỡ từ bỏ ngai vị Thiên Quân sao? Haizz, trần gian họ gọi thế là gì nhỉ? À, là không yêu giang sơn chỉ yêu mỹ nhân, đó không phải việc làm của một đấng minh quân”.

    Chàng chỉ xoay xoay chén trà, nửa cười nửa không: “Cháu chẳng có lòng nhân ái yêu khắp chúng sinh của ba ngàn thế giới, cố gắng ngồi vào ngôi vị này cũng chẳng thể thành minh quân, chẳng thà trả lại ngôi thái tử, nhường cho người hiền đức. Năm xưa Tang Tịch bị lưu đày, đến năm thứ ba thì đến cháu. Nếu cháu mà tan thành tro bụi, nói không chừng, chưa đến ba năm Thiên Quân đã có thể tìm được người kế vị tốt hơn”.

    Liên Tống híp mắt cười, chỉ nói một tiếng: “Khó lắm”.

    Không lâu sau, Tố Tố hoài thai. Tuy chàng vui mừng không xiết nhưng tính cách bình tĩnh đã tu thành bao năm nên nhìn bề ngoài thì trấn tĩnh hơn những người lần đầu làm cha bình thường rất nhiều. Sau khi hoài thai, Tố Tố càng kén ăn chọn uống, những ngày đó, tài nghệ nấu nướng của chàng đã tiến bộ hơn rất nhiều.

    Tất cả đều từng bước từng bước phát triển theo đúng tính toán của chàng. Hai tháng sau, tộc Giao Nhân cuối cùng đã phát động phản loạn, Liên Tống cầm quân cờ trắng cười nói: “Theo lý mà nói, thủ lĩnh của tộc Giao Nhân không có tính cách bộp chộp như vậy, theo tính cách chu đáo cẩn thận của hắn, chí ít còn kéo dài thêm một tháng nữa. Liệu có phải cháu đã làm gì tác động không?”.

    Chàng liếc nhìn bàn cờ, bình thản đáp: “Bọn họ lộ chuyện này sớm ngày nào, Thiên Quân sẽ lệnh cho cháu đi điều đình chuyện này sớm ngày ấy, cháu cũng sẽ tính được nhiều kế sách hơn”.

    Liên Tống đặt quân cờ trắng xuống, cười ha ha: “Cháu chớ mang lý do hoang đường này ra bịp ta, chủ yếu là nương tử hoài thai rồi, cháu không đợi được phải không?”.

    Các ngón tay chàng kẹp quân cờ đen, đặt “cạch” một tiếng lên bàn cờ, những quân cờ trắng lập tức lọt vào vòng vây của quân cờ đen, chàng ngẩng đầu lên khẽ cười, nói: “Chỉ là một mũi tên trúng hai đích mà thôi”.

    Thiên Quân quả nhiên hạ lệnh, cho chàng đi Nam Hải thu phục tộc Giao Nhân, Liên Tống cũng xin đi đánh trận, Thiên Quân chuẩn tấu. Chàng sợ Tố Tố lo lắng, nên chỉ nói với nàng là chàng phải đi một nơi rất xa làm một chuyện rất quan trọng, sợ nàng cô đơn, lấy một chiếc gương đồng từ tay áo ra đưa cho nàng, những lúc chàng không bận thì có thể qua đó nói chuyện với nàng.

    Để lừa Thiên Quân, trong trận chiến Nam Hải, chàng để cho thủ lĩnh tộc Giao Nhân đâm một nhát, lưỡi đao Trảm Phách Thần luôn được tộc Giao Nhân cất giữ trong miếu thờ suốt mấy nghìn vạn năm đã đâm một đường từ ngực đến bụng chàng, để lại một vết đao vừa dài vừa hẹp. Lực chém rất vừa vặn, độ sâu cũng vừa tầm, sâu thêm một chút thì hồn bay phách tán, mà nông hơn một chút thì rõ ràng là vết thương chưa đủ chí mạng.

    Sau khi chàng xảy ra chuyện, Liên Tống lập tức tiếp quản vị trí của chàng. Đội quân đau thương tất sẽ thắng trận, thái tử bị thủ lĩnh tộc Giao Nhân chém một nhát, tính mạng khó giữ, khiến cho các tướng sĩ bi phẫn tột cùng, chỉ trong ba ngày đã dìm Nam Hải trong bể máu, toàn tộc Giao Nhân bị giết sạch.

    Vì thế, chỉ đợi Liên Tống quay về Thiên Cung thêm mắm dặm muối, báo tang với Thiên Quân, nói chàng đã bỏ mạng ở Nam Hải, thì tất cả đều hoàn hảo. Nhưng chàng ngàn tính vạn tính, lại chẳng tính đến điều quan trọng nhất, Tố Tố đi ra khỏi tiên chướng của chàng đặt trên núi Tuấn Tật, đã bị Thiên Cung phát hiện. Chàng chẳng thể diễn tiếp vở kịch này, ngày chàng về lại Thiên Cung, Nam Hải hạn hán đã lâu bỗng mưa một trận như trút nước.

    Chàng chưa bao giờ biết hối hận là gì. Bây giờ, chàng mê man nằm trên chiếc giường trong điện Tử Thần, lại vô cùng hối hận vì đã không làm tiên chướng trên núi Tuấn Tật thêm chắc chắn. Chàng ngỡ vết thương ở Nam Hải quá nặng, đã làm tiên chướng trên núi Tuấn Tật bị hổng một lỗ, mới để Tố Tố đi lọt. Nhưng chàng không hề biết, cho dù tiên chướng đó có kiên cố đến đâu, thì nương tử của chàng vẫn lọt qua được.

    Thiên Quân đến Tẩy Ngô cung thăm chàng, đầu tiên hỏi han thương thế của chàng, ngừng lại một lúc, mới chậm rãi nói: “Mấy hôm trước ta có gặp một người phàm trần ở hạ giới, đang mang cốt nhục của con, thế là thế nào?”.

    Chàng nằm trên giường, bình tĩnh đáp: “Khi cháu hàng phục Kim Nghê Thú xong thì bị thương nhẹ, được người con gái phàm trần đó cứu chữa. Bào thai trong bụng nàng ta, coi như là cháu báo ân”.

    Thiên Quân gật đầu, nói: “Nếu là báo ân thì không sao, sau này cháu nối ngôi, quá trọng tình ái thì sẽ không hay, cháu chỉ cần nhớ điều này, còn đâu không phải lo lắng gì hết. Nàng ta đã mang thai con của cháu, thì hãy đón nàng ta lên trời đi”.

    Chàng mở mắt nhìn đóa sen lớn đang nở trên màn giường, vẫn bình thản nói: “Đưa một người phàm lên trời, sẽ không ra thể thống gì, nàng ta vốn ở trần gian, hà tất sao phải nhọc công đưa lên trời?”.

    Điệu bộ của chàng khiến Thiên Quân rất vừa ý, Thiên Quân vui vẻ cười xòa, lâu sau mới nói: “Đứa trẻ của Thiên tộc phải được sinh trên trời, lưu lại nơi hoang dã mới là không ra thể thống, vết thương trên người cháu cũng gần khỏi, hãy đón nàng ta lên đi”.

    Thể thống như lời chàng hoàn toàn không phải là thể thống mà Thiên Quân nhắc tới. Thực ra chàng biết điều này chẳng liên quan gì tới thể thống, đại để là Thiên Quân không tin chàng. Năm xưa Tang Tịch đưa Thiếu Tân lên trời, nếu không phải là Tang Tịch may mắn, Thiếu Tân sẽ ra sao, chàng cũng không biết nữa, nhưng bây giờ chàng tuyệt đối không thể giẫm lên vết xe đổ của Tang Tịch, đưa nàng vào Thiên Cung.

    Khi đó chàng biết, chàng và nàng không thể bên nhau nữa. Từ đó về sau, trong Thiên Cung rộng lớn, chàng và nàng chỉ có thể làm người xa lạ. Chàng không thể đẩy nàng vào vòng xoáy, không thể để nàng bị hại, dù chỉ một chút. Thậm chí chàng còn nghĩ rằng, may mà nàng chưa yêu chàng, trong mối tình này, may mà chỉ có chàng đơn phương yêu nàng. Có thể ở năm tháng trên núi Tuấn Tật, cho dù sau này nàng sẽ quên hẳn chàng, chàng cũng không nuối tiếc. Ba năm, chỉ cần có thể bảo vệ nàng bình an qua ba năm này, đợi nàng sinh con xong, Thiên Quân sẽ không có lý do để giữ nàng ở lại Thiên Cung, lúc đó, chàng sẽ cho nàng uống nước Vong Xuyên dưới U Minh Ti. Nàng sẽ sống vui vẻ, tự do tự tại trên núi Tuấn Tật cho đến khi già, còn chàng chỉ cần có thể thỉnh thoảng ngắm nàng qua gương, thì lòng đã mãn nguyện rồi.

    Chàng đưa Tố Tố lên trời, bố trí cho nàng ở trong “Nhất Lãm Phương Hoa”, chọn trong cung của chàng một tiểu tiên nga thật thà nhất để hầu hạ nàng. Nháy mắt hai năm đã trôi qua, hai năm này, người ngoài đều cho rằng chàng không quan tâm đến nàng, Thiên Quân cũng cho là vậy. Nhưng thực ra có lúc, khi chỉ hai người bên nhau, có lúc chàng không kìm được lòng mình, lại đối xử ân cần dịu dàng với nàng. May mà những hành động “thiếu chừng mực” này chỉ có nàng và chàng biết.

    Và may thay, trong hai năm cũng không có bất cứ ai gây rắc rối cho nàng. Tuy nàng sống trong Thiên Cung, nhưng không có chút liên quan, ảnh hưởng gì với Thiên Cung.

    Nhưng hơn bảy trăm đêm trong hai năm này, chàng luôn trằn trọc cả đêm, không thể chợp mắt.

    Tiết khai xuân năm thứ ba, tình thế vùng Bắc Hoang không ổn, Thiên Quân sai chàng đi trước trấn thủ, luôn luôn quan tâm tới động tĩnh của Bắc Hoang. Chàng dẫn theo mấy tay Đấu Khôi thuộc hạ, đi thẳng đến Đông Hoang. Nhưng lại không ngờ rằng đây chỉ là mưu kế của Thiên Quân, chỉ hòng tách chàng ra mà thôi.

    Thiên Quân đã dành năm vạn năm tâm huyết cho chàng, tuyệt đối không để cho bất cứ điều ngoài ý muốn nào xảy ra.

    Ngày hôm sau sau khi chàng đi, phi tử mà Thiên Quân mới nạp không lâu, Chiêu Nhân công chúa Tố Cẩm đã tự biên tự diễn một vở kịch. Nàng ta nói với giá bút trên bàn của chàng, giọng điệu ai oán: “Chàng cưới một người phàm trần, chẳng phải vì trả thù ta đã phản bội chàng lấy Thiên Quân, đúng không? Nhưng ta có cách gì, ta có cách gì cơ chứ, nữ tử trong bốn bể tám cõi, ai có thể chống lại được ân sủng của Thiên Quân? Nói cho ta nghe đi, Dạ Hoa, người chàng yêu vẫn là ta, đúng không? Chàng gọi nàng ta là Tố Tố, chẳng qua là vì, là vì trong tên ta cũng có một chữ Tố, đúng không?”.

    Chàng thực sự không biết trong cái tên Tố Cẩm ấy, chữ Cẩm là chữ Cẩm nào, chữ Tố là chữ Tố nào? Chàng nhớ tiên giai và tên tuổi của mỗi nam thần tiên từ nhất phẩm đến cửu phẩm trên Cửu Trùng Thiên, chỉ vì khi phê duyệt công văn thường dùng tới. Còn tên của Chiêu Nhân công chúa này viết ra là hai chữ nào, chàng chẳng rảnh rỗi mà đi tìm hiểu.

    Nếu những lời này bị chàng nghe thấy thì sẽ coi như những lời cười nhạo vô căn cứ, hoặc là buông một câu “Ngươi điên rồi”, nhưng người nghe được những lời này không phải chàng, mà là Tố Tố.

    Đương nhiên chàng không biết, Tố Tố đã nghe thấy rất nhiều những lời nhảm nhí, bịa đặt cho riêng nàng.

    Nửa năm sau, chàng quay lại Thiên Cung, còn chưa về tới Tẩy Ngô cung đã nhìn thấy tiểu tiên nga hầu hạ Tố Tố là Nại Nại hớt hơ hớt hải băng qua con đường nhỏ tới, nhìn thấy chàng thì khóc lóc ầm ĩ, nói Tố Tố đang tranh cãi với Tố Cẩm nương nương ở Tru Tiên đài.

    Đối với thần tiên, Tru Tiên đài không phải là nơi tốt lành gì, thần tiên bình thường khi đến đây cũng không thi triển được phép thuật nào hết, có lẽ Tố Tố không bị thất thế, lòng chàng tạm an tâm như vậy. Nhưng khi chàng cau mày chạy tới, tuy không nhìn thấy Tố Cẩm hại Tố Tố nhưng lại nhìn thấy một tay Tố Tố đẩy Tố Cẩm xuống Tru Tiên đài. Tố Cẩm toàn thân xiêm y lộng lẫy ngã nhào khỏi lan can, trái tim chàng trong phút chốc bỗng như bị thít chặt, nếu công chúa Chiêu Nhân xảy ra chuyện thì…

    Khi chàng nhảy xuống Tru Tiên đài kịp thời cứu được Tố Cẩm thì nhìn thấy đôi mắt của nàng bị chướng khí làm cho bị thương. Khoảnh khắc ấy, chàng chợt nhớ tới câu chuyện của Tang Tịch năm trăm năm trước. Chàng còn nhớ, tiểu mãng xà mà Tang Tịch yêu chẳng qua chỉ vì được chiều chuộng trên Thiên Cung, liền bị Thiên Quân hạ một đạo thánh chỉ tống vào tháp Tỏa Yêu. Tố Cẩm hình như nói gì đó nhưng chàng không hề chú ý. Ba trăm năm trước có một lần khi chàng lao mình ra đỡ nhát đao Trảm Phách Thần của thủ lĩnh tộc Giao Nhân, trái tim cũng không nặng nề đến vậy. Tố Tố chạy tới nói: “Không phải thiếp, không phải thiếp, thiếp không đẩy nàng ta, Dạ Hoa, chàng phải tin thiếp, chàng phải tin thiếp…”.

    Nàng không ngừng kêu oan, vô cùng đáng thương, chàng nhìn thấy mà lòng đau nhói, nhưng hai năm nay nàng đã thực sự được bảo vệ chặt chẽ, không biết tình cảnh hiện tại, nàng làm vậy càng khiến người ta bàn tán. Tố Cẩm bưng mắt rên rỉ, mấy tiểu tiên nga theo hầu đứng xa xa đã cuống quýt chạy tới.

    Một người bao năm lâm nguy trên trận mạc cũng không rối loạn như chàng trong khoảnh khắc liền khôi phục lí trí, trong lòng đã thầm tính cách xử lý chuyện này cho trọn vẹn đôi bề. Nhưng chuyện này vốn là mưu kế của Thiên Quân, người thắng là người hành sự nhanh và bất ngờ. Chàng bị điều đến Bắc Hoang hơn nửa năm, thì làm sao có thể thắng nổi Thiên Quân, thế là mưu kế của chàng còn chưa được triển khai đã bị mấy tiên bá dưới quyền Thiên Quân dập tắt ngay lập tức.

    Trong thư phòng, Thiên Quân đang mời mấy trưởng chi trong Thiên tộc bàn bạc công chuyện. Mấy người họ đang thương tiếc cho thân thế của công chúa Chiêu Nhân, luôn chăm sóc Tố Cẩm, nhìn thấy Tố Cẩm như thế này thì cơn giận bốc lên đùng đùng.

    Thiên Quân ngồi trang nghiêm trên ngai báu, nhấp một ngụm trà, bình thản nói: “Tố Cẩm là con cháu của đấng trung liệt, lớn nhỏ toàn tộc đều không tiếc xương máu hy sinh vì chính đạo của trời đất, đáng nhẽ Thiên tộc ta phải đối tốt với nàng, nhưng lần này lại để nàng bị một kẻ phàm trần làm bị thương như thế này, chuyện này mà không xử lý hợp lý thì khó tránh khỏi các vị khanh gia đau buồn”.

    Chàng không muốn đưa nàng vào vòng xoáy trên Cửu Trùng Thiên này, đã hết sức cẩn thận nhưng cuối cùng vẫn không thể tránh được.

    Tố Cẩm lại đổ thêm dầu vào lửa, mấy vị trưởng chi ngồi bên cạnh giận dữ khôn xiết, Thiên Quân cũng nghiêm trang nhìn chàng. Năm thành thủ thuật làm đế vương của chàng cũng đều do ngài dạy dỗ cho, nghĩ một chút về chuyện của Tang Tịch, cũng không khó nghĩ ra ngài đang nghĩ gì.

    Việc Tố Tố có đẩy Tố Cẩm xuống Tru Tiên đài hay không giờ đã không quan trọng. Vở kịch do Thiên Quân bày ra đã gần đến hồi kết, ngài ngồi đợi đứa cháu của mình bất chấp tất cả để giải vây cho người phàm trần kia, trong thư phòng có không khí giận dữ bao trùm là vì mấy vị bề tôi tính tình lỗ mãng do ngài đặc biệt chọn riêng, mượn cớ là lời của mấy kẻ bề tôi, xử người phàm trần kia bị tan thành tro bụi. Ngài ngồi trên ngôi Thiên Quân cao vời vợi này, đương nhiên hiểu rằng thế nào mới là tốt, thế nào mới là không tốt với người thừa kế của ngài.

    Cả căn phòng lặng ngắt như tờ trong giây lát, chỉ có tiếng thút thít của Tố Cẩm vẫn vang lên.

    Hai tay chàng nắm chặt đến mức trắng bệch, nhưng vẫn cung kính nói: “Thiên Quân dạy rất phải. Vừa nãy cháu cũng không nhìn rõ, chỉ nghe thiên phi nói Tố Tố vô ý làm vậy. Tuy là vô ý, nhưng cũng khiến đôi mắt của thiên phi bị hỏng nặng. Đương nhiên Tố Tố phải đền đôi mắt cho thiên phi. Thân là người phàm mà lại dám đẩy một vị thiên phi xuống Tru Tiên đài, tuy thiên phi biết nàng ta không cố ý, nhưng như thế Tố Tố không thể được tha thứ, không biết xử Tố Tố chịu hình phạt sét đánh ba năm, có khiến cho thiên phi và các khanh gia đồng ý không?”.

    Thiên Quân đợi hồi lâu lại không ngờ rằng cháu mình lại nói những lời biết đến toàn cục như thế, các bề tôi cũng không thể bới móc, đành đồng thanh hô thái tử thánh đức, không lẫn lộn công tư dù chỉ một chút, chúng thần tử vô cùng hài lòng.

    Gương mặt lạnh lùng của Thiên Quân đành gật đầu, phê chuẩn.

    Chàng tiến lên trước một bước, tiếp tục cung kính nói: “Tố Tố từng có ơn với cháu, Thiên Quân dạy cháu rằng, chịu ơn mà không báo, uổng làm quân tử. Lúc đầu là cháu dẫn nàng ta lên Thiên Cung, bây giờ nàng ta gây chuyện như thế này, đương nhiên cháu cũng phải gánh trách nhiệm này, trong bụng nàng ta còn có cốt nhục của cháu, về tình về lý, cháu đều nên xin Thiên Quân, cho cháu thay nàng ta chịu hình phạt sét đánh liền ba năm”.

    Những lời chàng nói đều hết sức có lý, Thiên Quân không hề thay đổi nét mặt, đợi chàng dứt lời, chỉ cúi đầu uống trà, khi ngẩng đầu lên nét mặt hiền hòa, rồi gật đầu chuẩn tấu.

    Chàng tận mắt nhìn thấy Tố Tố một tay đẩy Tố Cẩm xuống Tru Tiên đài, đền mắt là một nửa thuận theo Thiên Quân, một nửa là thuận theo Tố Cẩm, nhưng quan trọng nhất là đã trả đủ cho Tố Cẩm món nợ của nàng ta. Thần tiên và người phàm dây dưa quan hệ, chuyện này đã là làm loạn thiên số, và kỵ nhất là lằng nhằng không xong. Ông trời cũng tự điều hòa quan hệ lằng nhằng đó, ví dụ như món nợ mà Tố Tố nợ Tố Cẩm, hôm nay không trả, sẽ có một ngày ông trời sắp đặt một số mệnh cho nàng, khiến nàng phải trả hết sạch nợ nần.

    Chàng cực kỳ không muốn nàng bị hại. Nhưng chàng không biết rằng, cho dù chàng có bản lĩnh siêu phàm, thì cũng không thể bảo vệ an toàn cho nàng. Vì kiếp nạn này là định mệnh của nàng.

    Sau khi Tố Tố bị móc mắt, chàng cũng lập tức đến phủ Thần Tiêu Ngọc ở tầng trời thứ ba mươi ba nhận hình phạt sét đánh. Chủ thần của Lôi bộ là Cửu Thiên nổi tiếng về công minh chính trực, tuyệt đối không vì chàng là thái tử mà nhẹ tay. Tuy rằng hình phạt sét đánh không làm hại đến sinh mệnh, nhưng mỗi một đạo sét đánh xuống người, lại đau đớn như nguyên thần bị xé nát trong nháy mắt, là một hình phạt an toàn mà giày vò người ta. Mỗi ngày chàng đều phải nhận bốn mươi chín đạo sét trên người, ngay cả ngày Tố Tố sinh con cũng không ngoại lệ. Vết thương trên người vết này chồng lên vết khác, trông rất ghê rợn. Chàng sợ Tố Tố phát hiện, sợ nàng lo lắng, chàng càng không dám đến “Nhất Lãm Phương Hoa” qua đêm cùng nàng.

    Sau khi Tố Tố sinh con, đưa nàng về núi Tuấn Tật đã là giấc mơ xa vời không thể thực hiện được. Cho dù thế nào cũng không thể tránh được thương tổn, chàng sẽ dùng cả đời để ở bên cạnh nàng. Khi ấy chàng không biết rằng, đây chẳng qua là sự si mê vọng tưởng của một mình chàng mà thôi. Người chàng yêu say đắm, cho dù như thế nào chàng cũng không mang lại được hạnh phúc cho nàng. Vì chẳng qua, chàng chỉ là tình kiếp để nàng thăng phẩm cấp, chàng được sắp đặt là tình kiếp để nàng thăng phẩm cấp, nếu không phải là chàng thì cũng không là người khác, chàng biết đây sự tàn khốc của số phận.

    Tố Tố nhảy xuống Tru Tiên đài, chàng cũng dứt khoát nhảy theo. Tru Tiên đài chẳng qua chỉ tiêu diệt sự tu hành của thần tiên, nếu như bình thường, căn bản không thể lấy mạng chàng, nhưng chàng bị sét đánh khắp người, vô cùng yếu ớt, nhảy xuống như vậy rõ ràng là đi tìm cái chết. Thiên Quân ngỡ rằng sau khi ép người con gái đó chết chẳng qua chỉ khiến chàng buồn bã mấy ngày, từ giờ về sau chàng vẫn là vị trữ quân hoàn mỹ nhất của Cửu Trùng Thiên, nhưng ngài không ngờ rằng cháu mình quá coi trọng người con gái đó, khi ngài chạy một mạch từ điện Lăng Tiêu đến Tru Tiên đài để cứu chàng, chàng đã như ngọn đèn cạn dầu. Trong khoảnh khắc đó, vị Thiên Quân ở ngôi cao vòi vọi bỗng già đi rất nhiều.

    Giấc ngủ đó của chàng kéo dài hơn sáu mươi năm, khi tỉnh lại thì tất cả nhung nhớ đã tiêu tan, cũng không biết vì sao mình phải tỉnh lại. Mẫu phi của chàng là Nhạc Tư không đành lòng, lấy một viên Vong Tình đan từ chỗ Dược Quân về, đưa cho chàng, chàng cũng chỉ lạnh lùng liếc một cái. Tuy nỗi đau khổ bi thương giống như lưỡi dao cùn cắt thịt, đến với chàng thật muộn, nhưng chàng cảm thấy, Tố Tố là màu sắc duy nhất trong cuộc đời năm vạn năm của chàng, nếu đến màu sắc duy nhất này cũng bị xóa đi, thì chàng không còn là chàng nữa. Tuy đau khổ, nhưng chàng không muốn quên nàng.

    Sự cố chấp của chàng với Tố Cẩm cũng là sự cố chấp của Tố Cẩm đối với chàng. Nhưng sự cố chấp của Tố Cẩm với chàng lại hại chết Tố Tố, chàng thực sự muốn giết nàng ta. Trước Tẩy Ngô cung, khi kiếm Thanh Minh đâm vào lồng ngực, Tố Cẩm áo hồng kinh ngạc lắp bắp hỏi: “Tại sao?” Chàng cảm thấy thật vô vị, chỉ rút phắt kiếm ra, lạnh lùng liếc nàng ta một cái, quay người đạp vào cửa cung, vừa giơ cánh tay lên đã đóng chặt cửa Tẩy Ngô cung.

    Nhưng Tố Cẩm thực ra không quá mạnh mẽ, tuy rằng từ nhỏ nàng ta đã là một đứa con côi, bảy vạn năm trôi qua chuyện gì cũng xuôi chèo mát mái, chỉ có chàng, hết lần này đến lần khác khiến nàng ta thất bại. Nàng ta đem đèn Kết Phách – thánh vật của tộc mình dâng lên Thiên Quân, ba tháng sau, thành công bước vào Tẩy Ngô cung.

    Nháy mắt ba trăm năm trôi qua.

    May mà ông trời không độc ác như tưởng tượng. Kiếp duyên mà chàng và nàng đã trải qua, vốn là duyên.

    Ba trăm năm sau, trong rừng đào của Chiết Nhan, chàng gặp một người con gái. Ngày hôm sau, trong Thủy Tinh cung của Đông Hải Thủy Quân, người con gái đó ngồi trên ghế đá dạy dỗ phu nhân nhị thúc của chàng, tay phải cầm một chiếc quạt, tay trái ngón trỏ và ngón cái vòng một vòng tròn, ba ngón còn lại gõ khe khẽ lên mặt bàn đá, đó chính là động tác mà Tố Tố thường làm trong vô thức. Cái miệng dạy dỗ người ta đó, cực kỳ giống Tố Tố.

    Trong đầu chàng “ầm” một tiếng, bước ra từ trong bóng râm của bụi cây san hô, khóe môi nhếch nụ cười mà ba trăm năm chưa từng thấy: “Dạ Hoa không biết, cô nương lại là thượng thần Bạch Thiển của Thanh Khâu”.

    Chú thích:

    45. Xích Viêm Kim Nghê Thú là sư tử lông vàng, có thể phun ra lửa (ND).

    46. Tố có nghĩa là màu trắng, những gì trong trắng, tinh khiết (ND).

    47. Nguyên văn là “mỹ nhân kế”, chúng tôi đổi lại là “nam nhân kế” cho phù hợp với tình tiết truyện (ND).
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  6. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa
    Chương 25: Ngoại truyện 2: Bạch Chân

    Khi con trai thứ tư của nhà Bạch Chỉ quân gia đầy tuổi, Chiết Nhan của rừng đào mười dặm đến chơi.

    Phải biết rằng khi hồ ly ở Thanh Khâu vừa chào đời, tuy là tiên thai nhưng cũng không khác với những hồ ly bình thường là mấy, đều không mang hình người. Đến khi tròn một tuổi, hấp thu đủ linh khí trời đất và sữa mẹ mới có thể hóa thành hình người, hơn nữa còn là dáng dấp của một đứa trẻ sơ sinh.

    Đứa trẻ sơ sinh vừa mới chào đời, đương nhiên phải nhăn nheo rồi.

    Cho dù sau này con trai thứ tư của nhà họ Bạch ở Thanh Khâu đẹp đến mức kinh thiên động địa, thần sầu quỷ khốc, lúc đó, cũng vẫn chỉ là một đứa trẻ nhăn nheo, dài chưa đầy hai thước mà thôi.

    Tiên tộc Cửu Vỹ Bạch Hồ này là một tiên tộc được nhiều ưu ái, ai ai cũng đẹp bẩm sinh. Nhưng khi người ta trưởng thành thường rất khó mà chịu được một ngày nào đó tướng mạo của mình trở nên xấu xí, hoặc là mình đã từng xấu xí.

    Con trai thứ tư nhà họ Bạch chính là một nhân tài trong số đó.

    Thực ra hồ ly chín đuôi luôn sống một cuộc đời đẹp đẽ, tươi sáng, thực ra nếu cuộc đời không tươi sáng, chính là khi họ mới hóa thành hình người. Nhưng lúc đó vẫn là một hồ ly sơ sinh đương nhiên họ không biết thế nào là đẹp xấu, cũng không trăn trở gì về ngoại hình của mình. Cho dù sau này trưởng thành rồi, nhớ lại khi còn nhỏ mình là một đứa bé xấu xí thì cũng thường tự an ủi mình rằng trẻ con không thể chia ra đẹp xấu, cũng không bận tâm làm gì.

    Nhưng con trai thứ tư nhà họ Bạch lại không giống vậy, có câu nói rằng “kẻ trí hay lo nghĩ”. Khi Lão Tứ còn chưa hóa thành hình người đều do Lão Tam nhà họ Bạch chăm sóc, khi còn là hồ ly Lão Tứ là một tiểu hồ ly rất đẹp, Lão Tam thường ôm chàng đi khắp nơi khoe: “Tiểu hồ ly này có đẹp không, chưa bao giờ thấy tiểu hồ ly nào đẹp như thế này mà, hi hi hi, đây là đệ đệ của ta, mẹ ta đã sinh thêm đệ đệ cho ta”. Gặp một tiểu hồ ly không đẹp bằng là Lão Tam nhà họ Bạch lại lén dẩu môi, thì thầm vào tai Lão Tứ: “Ầy, con hồ ly đó xấu hoắc, chậc chậc chậc…”.

    Thế nên, khi đó con trai thứ tư nhà họ Bạch thông minh mẫn tiệp còn chưa đầy tuổi nhà họ Bạch đã có khái niệm tương đối về xấu đẹp.

    Khi con trai thứ tư nhà họ Bạch đầy tuổi, Bạch Chỉ Đế Quân chỉ làm tiệc đầy tuổi trong phạm vi gia đình, Chiết Nhan xưa nay luôn quan hệ rất tốt với nhà họ Bạch, đương nhiên cũng tới dự.

    Lão Tam cẩn thận bế đệ đệ của mình tới, Chiết Nhan uống một ngụm rượu, híp mắt ngắm nhìn hồi lâu: “Haizz, Bạch Chỉ, thằng nhóc này sao lại xấu thế?”.

    Chiết Nhan nói như vậy đương nhiên vì lão chưa cưới vợ, chưa từng có con, không biết trẻ con trong thiên hạ khi mới sinh đều xấu như vậy. Số trời đã định Lão Tứ sẽ trở thành mỹ nhân, nếu nhìn kỹ một lượt khuôn mặt nhăn nheo của chàng thực ra cũng có thể tìm được những đường nét đáng yêu.

    Lão Tứ nhà họ Bạch chưa bao giờ bị gắn với từ “xấu”, vừa nghe thấy Chiết Nhan nói chàng như vậy, thân hình nhỏ bé liền giật nảy một cái.

    Chàng rất bi phẫn, rất ấm ức, mắt lập tức ngân ngấn lệ.

    Nhưng chàng cảm thấy tuy mình còn nhỏ, cũng là một nam tử hán, khi chàng còn làm thân hồ ly, các anh của chàng từng dạy nam tử hán có thể đổ máu nóng chứ quyết không rơi lệ, chàng vẫn còn nhớ kỹ, nên cắn môi nuốt lệ vào trong, nhưng chàng không có răng nên không cắn được. Thế nên dáng vẻ kiên cường của chàng trong con mắt của người ngoài lại là nhệch miệng, muốn khóc mà không khóc được, như thế lại càng xấu hơn.

    Chiết Nhan vỗ nhẹ lên ngực chàng, cười nói: “Có lẽ lớn lên sẽ không xấu như thế này nữa”.

    Lão Tứ nhà họ Bạch cuối cùng cũng òa lên khóc.

    Cửu Vỹ Hồ Ly vốn rất chuộng lễ đặt tên trong tiệc đầy tuổi, mà đến giờ Lão Tứ nhà họ Bạch vẫn còn khóc lóc bù lu bù loa nên việc này đành tạm gác lại. Vì xưa nay Thanh Khâu có một quy định, đặt tên cho trẻ nhỏ là một việc cần thận trọng, tên đặt xong rồi thì trước tiên vừa đọc lên cho trẻ nghe, nếu nghe nó liền bật cười mới được coi là chắc chắn, tuy trẻ không thực sự lắng nghe cái tên đó, nhưng nó cảm thấy hợp ý mình thì mới cười. Khi đọc tên cho trẻ nghe, cần một người ngồi bên cạnh, để trêu đùa đứa trẻ này. Nhưng tình hình bấy giờ, con trai thứ tư nhà họ Bạch đau lòng vô hạn, đương nhiên cười không nổi.

    Nghi thức đặt tên bị lui đến sinh nhật lần thứ hai của Lão Tứ.

    Năm nay, Lão Tứ đã lớn hơn, trắng trẻo mũm mĩm, vô cùng đáng yêu. Chiết Nhan ở rừng đào rất rảnh rỗi nên cũng đến.

    Ngày sinh nhật, Lão Tứ chạy đi hỏi cha mình, thúc thúc năm ngoái có tới không. Bạch Chỉ Đế Quân kinh ngạc hỏi: “Thúc thúc nào?”. Lão Tứ xấu hổ xoắn vạt áo nói: “Thúc thúc đẹp trai nói con xấu xí ấy”.

    Bạch Chỉ Đế Quân càng bất ngờ trước trí nhớ của con trai mình, gật đầu nói: “Đương nhiên có đến”.

    Thế là, Lão Tứ vui vẻ chạy đến bên hồ nước cạnh động Hồ Ly, ngồi bên hồ luyện tập cả nửa ngày các vẻ mặt đáng yêu, vẻ mặt mê hồn, vẻ mặt ấm ức, vẻ mặt ngây thơ…

    Ngày hôm sau, gió mát phe phẩy, trời trong mây tạnh. Con trai thứ tư nhà họ Bạch dậy thật sớm, bê chiếc ghế dựa nhỏ ra trước động Hồ Ly, nôn nóng ngóng chờ Chiết Nhan. Chàng chờ mãi chờ mãi, chờ mãi chờ mãi, chốc chốc lại đến bên hồ soi xuống mặt nước chỉnh lại áo quần, thiếu điều là rũ tóc xuống hồ gội đầu, sau đó quay về ngồi trên ghế tiếp tục đợi.

    Gần đến buổi trưa, Chiết Nhan mới cưỡi một đám mây lành đến động Hồ Ly, nhìn thấy Lão Tứ đang ngồi ngay ngắn trên ghế, mắt liền sáng lên, kéo chàng một cái ôm vào lòng, cười nói: “Nhóc con xinh đẹp ở đâu chui ra thế này?”.

    Nhóc con xinh đẹp Lão Tứ nhà họ Bạch đang nép trong lòng Chiết Nhan, chàng cảm thấy hơi hoa mắt chóng mặt, nhưng vẻ mặt vẫn giả đò bình tĩnh. Thúc thúc này nói chàng đẹp rồi, cuối cùng người ấy cũng thừa nhận chàng đẹp rồi…

    Lão Tứ nhà họ Bạch nép trong lòng Chiết Nhan rụt rè nhếch môi, thơm Chiết Nhan “chụt” một cái.
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  7. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88

    Dạo gần đây cục bột có phần buồn bã.

    Trong bụng mẫu thân của nó có thêm tiểu bảo bảo, toàn tâm toàn ý dưỡng thai, lúc nó trở lại tẩm điện của mẫu thân, mẫu thân còn đang ngủ. Mấy ngày gần đây phụ thân của nó cũng không quan tâm tới nó như lúc trước, thường bắt nó học hành, giáo huấn rằng nó sắp thành một vị huynh trưởng, sau này cần phải thành một tấm gương cho đệ đệ và muội muội. Ngay cả kẻ khéo chiều lòng người là Thành Ngọc cũng bị tam gia gia của nó kéo đi Phương Hồ Tiên sơn ở hạ giới giảng đạo cho nhóm địa tiên, làm nó muốn thổ lộ cũng không còn ai để thổ lộ.

    Cục bột cảm thấy, làm tiểu thiên tôn như nó thật không thú vị gì cả. Nó khổ công suy nghĩ hồi lâu, mới quyết định rời nhà trốn đi. Vì thế nó mới lấy một cái túi nhỏ, trong túi bỏ hai bộ quần áo lót, lại còn thêm vào mấy quà đào mới hái từ bên Vườn Bàn Đào về làm lương khô đi đường. Nó khoác cái túi lên vai đi tới Nam Thiên Môn, đột nhiên nghĩ lại, lần này rời nhà trốn đi một chuyến không biết đến bao giờ mới trở về, tốt nhất quay về nhìn mẫu thân một cái rồi tiếp tục đi.

    Nó rón rén quay lại bên ngoài tẩm điện của mẫu thân, không ngờ ngoài cửa chính lại có mấy tiên nga đang đứng canh. Rời nhà trốn đi là một chuyện cơ mật như vậy, không nên gây ra om sòm lớn, nó liền trầm tư một chút, quay đầu vòng ra phía bên cửa sổ, quyết định leo lên cửa sổ lén lút nhìn trộm mẫu thân một cái.

    Nó vừa mới tới gần cửa sổ, lỗ tai vừa vểnh lên, đã thấy trong phòng có tiếng người nói chuyện. Thanh âm trầm trầm là phụ thân nó, còn uể oải là của mẫu thân nó.

    Mẫu thân của nó nói: " Ai ai, nhóc con trong bụng lại vừa động, chàng có muốn xem thử một chút không?"

    Phụ quân của nó a lên một tiếng nói: " Mới có bảy tháng, theo lý còn chưa lớn được, sao có thể làm loạn như vậy. Hồi xưa lúc A Ly còn trong bụng nàng cũng như vậy sao?"

    Nghe tới tên của mình, cục bột lập tức vểnh tai lên nghe.

    Mẫu thân của nó nói: " Cục bột rất ngoan, cũng không giống như thế này, thiếp nhớ tới năm thứ ba cục bột mới bắt đầu có động tĩnh, hai năm đầu cứ ngủ im trong bụng như một cái trứng chim, thiếp thấy thực nhẹ nhàng. Nói tới mới nhớ, mấy ngày nay không gặp nó, thiếp có một chuyện rất tốt muốn nói cho nó nghe, nó nghe xong nhất định sẽ vui mừng lắm."

    Trong lòng cục bột lập tức chộn rộn hẳn lên, cơ hồ muốn đẩy cửa sổ nhảy vào phòng, nhưng nó đã tự kiềm chế được.

    Phụ quân nó ngạc nhiên nói: " Chuyện tốt gì?"

    Mẫu thân của nó lập tức nói: " Chuyện tốt, một chuyện rất tốt. Cục bột chỉ có một tiểu danh là A Ly, bây giờ nó còn nhỏ, kêu vậy cũng không sao, nhưng sau này nó lớn lên, kêu như vậy thật không ra gì, thiếp đọc thi thư suốt mấy ngày liền, rốt cuộc đã tìm ra cho nó một cái đại danh."

    Trong lòng cục bột cực kỳ kích động, suýt nữa thì bại lộ hành tung, nhưng nó vẫn tiếp tục kiềm chế.

    Mẫu thân nó nói: " Có một kẻ phàm nhân tên là Lý Hạ có viết được hai câu thơ rất có khí thế, thiếp rất vừa ý, nói rằng: "Hắc vân áp thành thành dục tồi*

    Giáp quang hướng nhật kim lân khai**" Hai câu thơ này chữ "Hắc" dùng thực xuất sắc. Mặt khác, phàm nhân bọn họ thích cho thêm chữ "Tử" vào phía sau tên để tỏ vẻ tôn trọng, thiếp thấy thói quen này cũng rất hay."

    Phụ quân nó nói: " Vì thế?"

    Mẫu thân của nó nói: " Vì thế thiếp đặt cho cục bột cái đại danh là "Hắc Tử""

    Hắc Tử rầm một tiếng ngã nhào xuống.

    Phụ quân nó trầm ngâm nói: " Cái tên này..."

    Mẫu thân nó lộ vẻ bồn chồn nói: " Thiếp nghĩ suốt hai ngày, chàng cảm thấy, chàng cảm thấy có được không?"

    Trong lòng Hắc Tử thầm gào thét: " Mau nói không đi, mau nói không đi, bằng không con nhất định bỏ nhà ra đi, con bỏ nhà ra đi thực nha."

    Phụ quân của nó trầm ngâm hồi lâu, cuối cùng nói: " Sau này nếu A Ly đăng cơ, lấy tôn hiệu là Hắc Tử Quân chăng?"

    Mẫu thân của nó cũng trầm ngâm hồi lâu: " Hắc Tử Quân?"

    Phụ quân của nó lập tức nói với vẻ nghiêm nghị:" Cái danh tự này rất hay."

    Hắc Tử ngã nhào xuống đất không dậy nổi.

    Ngày thứ hai, trên Cửu Trùng Thiên đại loạn, đám tiên đồng tiên nga nháo nhác xông tới bẩm báo: " Không thấy tiểu thiên tôn đâu cả, nghe nói là bỏ nhà trốn đi."

    Hắc Tử bỏ nhà trốn đi ngồi ở trong Hồ Ly động tại Thanh Khâu, tứ cữu Bạch Chân của nó đang ngậm một cây cỏ đuôi chó hỏi nó: " Nói thực đi, tại sao đột nhiên con lại chạy tới Thanh Khâu, mẫu thân phụ quân ngược đãi con sao?"

    Hắc Tử khóc lệ chảy ròng ròng như mưa, chua xót nói " Bởi vì mẫu thân đặt tên con là Hắc Tử á!"

    ------------

    *Mây đen ùn ùn kéo tới thành, tất thành sẽ bị diệt (Trích từ câu thơ: Sơn vũ dục lai phong mãn lộ, hắc vân áp thành thành dục tồi)

    **Áo giáp lóe sáng dưới ánh mặt trời như vảy cá màu vàng.
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  8. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa
    Chương 27: Ngoại truyện 4: Năm năm tháng tháng

    Tin tức nguyên thần của Kình Thiên bị câu diệt truyền tới, chàng đang ngồi ở rừng đào sau núi Côn Luân tu luyện. Đã vào tháng chín, cây đào không còn xum xuê như ngày xưa nữa, ngẩng mặt nhìn lên, chỉ thấy trên cao kia mây mù huyền ảo.

    Tiểu đồng đứng cạnh bộ dáng kinh sợ nói: " Theo như tin tức mà lão tiên hạc kia truyền tới, thượng thần Bạch Thiển ước chừng đã mất trí, ôm Dạ Hoa quân đã tuyệt khí từ lâu ngồi dưới thân Đông Hoàng Chuông, trên đỉnh đầu có một lớp tiên chướng dày, không để lọt tai lời của bất kỳ ai. Chúng thần trên trời dưới đất cùng tề tựu ở trên bờ Nhược Thủy, lại vướng phải tiên chướng kia, không ai có thể lại gần hai người đó. Ngay cả thượng thần Chiết Nhan ở Thập Lý Đào Lâm cũng không có cách nào, chỉ nói thượng thần Bạch Thiển là kẻ cứng đầu, nếu thanh tĩnh thần trí của nàng, chỉ sợ nàng hủy thiên diệt địa tuẫn táng cùng Dạ Hoa Quân, nên phái lão tiên hạc nhanh chóng tới Côn Luân thỉnh sư tôn, để tránh gây thành đại họa. Nhưng Sư Tôn lão nhân gia lúc bế quan đã có ý chỉ, không được tùy tiện quấy rầy, tin tới đã nửa ngày, việc này xin thượng thần Lệnh Vũ người định đoạt..."

    Mây mù dần dần tản ra, để lộ ra từng ngọn cây xanh um tùm trên đỉnh núi, chàng lật giở đạo kinh trong tay, hồi lâu, mới nói: " Quỷ quân Kình Thương kia, trước khi chết có nói gì không?"

    Tiểu đồng Kinh Sinh ngẩn người ra: " Lão tiên hạc không nhắc tới điều này, bất quá nghe nói lúc chết Kình Thương thực thảm, quanh thân tràn đầy máu tươi, cơ hồ bị Thanh Minh kiếm của Dạ Hoa quân khắc thành một cái gương sen."

    Đạo kinh trong tay chàng đột nhiên run lên, đột nhiên nhớ lại ngày đó lúc mới gặp Kình Thương.

    Ngày hôm đó gió mát trời trong cực kỳ dễ chịu, chàng bị Thập Thất sư đệ quấn quýt quấy rầy không làm gì được, cuối cùng đành phải dẫn đệ ấy đi bắt chim Tinh Vệ.*

    Sư huynh đệ hai kẻ bọn họ đi dọc theo con kênh lén lút đuổi theo một con chim non, mắt thấy đã vào tay, đột nhiên một thớt ngựa hung đỏ từ chốn rừng thẳm xông thẳng tới. Chim Tinh Vệ non kia líu ríu kinh hãi, hót lên một tiếng lanh lảnh, bay thẳng lên trời, không còn chút ảnh hình.

    Thập Thất sư đệ lập tức xắn tay áo lên muốn đánh nhau với thanh niên đang cưỡi trên lưng ngựa, chàng nhanh chóng cản lại, thanh niên có khuôn mặt cương nghị kia chỉ cười lạnh nhạt, cây Khốn Tiên Tác trong tay vung lên, như sấm vang chớp giật, lập tức trói nghiến hai huynh đệ bọn họ thành một. Hai huynh đệ bọn họ nhỏ bị vắt ngang ở phía sau lưng, lớn bị ôm ở trong lòng. Từ lúc chàng bái nhập làm môn hạ của Mặc Uyên tới nay, chưa kịp xuất nổi một chiêu đã bị quản chế, vừa xấu hổ vừa giận dữ. Thanh niên kia chỉ ghé sát vào tai chàng cười nói: "Ngươi tên là gì? Ta cưới ngươi làm phu nhân của ta được không?"

    Lúc chàng mới gặp người kia, bầu trời màu xanh ngọc bích, y mặc một bộ y phục cưỡi ngựa màu xanh nhạt, phía sau lưng là rừng thẳm bạt ngàn xanh.

    Hơn hai trăm năm trước, thổ địa ở Nhược Thủy có cơ duyên cùng uống rượu với chàng, trong bữa tiệc uống nhiều hơn mấy chén, liền ghé vào tai chàng nói: " Những lời này lẽ ra tiểu thần không nên truyền đạt thay cho y, nhưng tiểu thần đã nhẫn nại quá nhiều năm rồi, thấy y bị giam lâu như vậy, vẫn còn lo lắng tới thượng thần, thấy y cũng thực đáng thương."

    Cái chén của chàng khẽ run lên, rượu sánh ra hai giọt.

    Thổ địa của Nhược Thủy tiếp tục nói " Hơn hai trăm năm trước kỳ thực lúc Kình Thương phá chuông chui ra, cũng là cơ duyên xảo hợp, may mắn là thượng thần Bạch Thiển ở Thanh Khâu qua Nhược Thủy đúng lúc, mới đem y nhốt trở lại, mới không làm sự việc này ầm ĩ lên, nếu không cũng thực trách tiểu thần ta không làm tròn bổn phận."

    Sắc mặt chàng không chút thay đổi uống cạn chén rượu.

    Thổ địa lau lau mồ hôi sau gáy, nói một cách khó khăn: " Xin hỏi, xin hỏi hai trăm sáu mươi hai năm trước, có phải đúng là sinh nhật tròn mười lăm vạn tuổi của thượng thần hay không?"

    Chén rượu rơi choang một tiếng trên mặt đất.

    Thổ địa của Nhược Thủy tiếp tục lau mồ hôi trán, nói lí nhí như tiếng muỗi kêu: " Quỷ quân y, lúc bị thượng thần Bạch Thiển nhốt lại vào trong Đông Hoàng Chung, vẫn kêu danh tự của thượng thần ngài, vẫn một mực nói, một mực nói, muốn gặp lại ngài một lần, muốn tặng quà sinh nhật mười lăm vạn tuổi cho ngài, muốn gặp ngài hỏi một câu, ngài còn nhớ tới Kình Thương của bảy vạn năm trước ở Đại Tử Minh Cung hay không..."

    Trí nhớ của chàng vẫn không tốt lắm, nhưng sự tình đó vẫn khắc cốt ghi tâm. Kình Sinh đỡ chàng đứng dậy khỏi mặt đất, chàng tự sửa sang lại y phục, nói: "Con về trước đi, ta đi thông báo cho sư phụ."

    Khóe mắt chàng từ từ lăn ra một giọt lệ. Chàng lặng lẽ lau khô, chậm rãi bước về phía động phủ nơi Mặc Uyên bế quan, để lại sau lưng một rừng đào khô trụi.
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  9. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa
    Chương 28: Ngoại truyện 5: Cái gọi là hoa đào

    Năm thứ hai sau khi Dạ Hoa Quân tỉnh lại từ cơn ngủ say, lão nhân gia Thiên Quân ngồi trấn ở Lăng Tiêu bảo điện trên Cửu Trùng Thiên sắp làm lễ mừng thọ tròn vạn tuổi.

    Lễ mừng thọ này dự định sẽ cực kỳ long trọng, bởi vì ngoài chúng tiên ở bát hoang đều tự mình đến chúc thọ ngài ra, lão nhân gia Thiên Quân còn trăn trở suy nghĩ sâu xa thêm một tầng ý tứ nữa. Sẽ mượn cơ duyên này, vì Dạ Hoa Quân được trở lại Cửu Trùng Thiên, báo đáp thiên ân.

    Đã có suy xét này, trong số các thần tiên đến dự yến tiệc trên có vài vi thượng thần từ thời hồng hoang, dưới có tiểu tiên, địa tiên các loại, hết thảy đều được mời đến.

    Nghe nói mấy vị thượng thần lần này cũng rất nể mặt Thiên Quân, đến thượng thần Chiết Nhan bình thường chẳng thèm đếm xỉa Cửu Trùng Thiên cũng nhận thiệp mời.

    Tin tức khiến người ta phấn chấn vừa mới loan ra, từ hải hạc hợp đều chấn động, các thần tiên tiên tộc trong nhà có con gái đến tuổi lấy chồng càng chấn động ghê gớm hơn.

    Thử nghĩ xem, thượng thần Mặc Uyên, thượng thần Chiết Nhan, thượng thần Bạch Chân, ba đấng thượng thần kim quang lấp lánh còn chưa có hôn phối, tình huống này lại vạn vạn năm khó gặp, ngộ nhỡ khuê nữ nhà nào gặp vận may, nhân dạ yến này khiến một trong ba đấng thượng thần nhìn trúng, có thể chọn họ… Lại nữa, Dạ Hoa Quân tuy đã có chính phi là thượng thần Bạch Thiển, nhưng vị trí của thứ phi thì vẫn để trống …

    Trong lòng chư vị đã tính toán rất rõ ràng, vì thế ngay đại yến chúng tiên ai nấy đều kéo cả nhà đến, Lăng Tiêu bảo điện không thể chứa được nhiều thần tiên đến thế, đành tạm thời chuyển yến hội đến Tam Thập Nhị Thiên Bảo Nguyệt Quang uyên mà Lão Quân vẫn thường mở pháp hội.

    Chúng thần bát hoang xưa nay luôn nhớ đến mình, kính trọng mình, nay lại còn kéo cả nhà đến nhớ đến mình, kính trọng mình, khiến Thiên Quân cảm thấy vô cùng hài lòng. Vì thế trên yến hội ví như có nữ quyến nhà ai muốn vượt lễ chế xin tấu một khúc hát, hiến một điệu mua, Thiên Quân cũng ân chuẩn hết sức vui vẻ.

    Nhất thời Nguyệt Quang uyển oanh ca yến bệng, đám tiên nữ dự yến ai nấy đề phô bày những thủ đoạn phô sắc khoe hương cho khán giả xem, trong hoa viên vốn đốt tám cây hương cao ngút, mùi vị phật môn ít ỏi đã bị bọn son phấn của đám tiên nữ át hết.

    Vì trên ngai vị thái tử của Dạ Hoa Quân còn có thượng thần Bạch Thiển trấn thủ, thượng thần hôm nay một thân hồng quần, lại có một dung nhan tuyệt sắc trên trời đất hiếm có, khiến người ta không dám nhìn thẳng. Sắc mặt thượng thần tuy cực kỳ nhu hòa, nhưng đám tiên nữ nếu muốn đầu mày cuối mắt liếc thái tử điện hạ một cái …. đương nhiên những kẻ nhàn rỗi thực sự không dám liếc mắt, thi thoảng có một hai vị niên kỷ còn nhỏ không hiểu chuyện, ánh mắt mới đi tới nửa chừng, đã bị ánh mắt nhẹ nhàng lướt qua của thượng thần làm đông cứng thành vụn băng.

    Thải tử điện hạ cầm một tách trà làm ấm tay, khóe miệng mỉm nụ cười nhàn nhạt và không nói gì. Những đếm tám, chín phần mười trong đám tiên nữ đều chú ý, cho dù hôm nay bọn họ ai ai cũng trang điểm như đàn bướm rập rờn khoe sắc bên hoa, ánh mắt của thái tử điện hạ vẫn chỉ bình thản mà không hề đặt trên người họ. Bọn họ cảm thấy, có khả năng bản thân đã trang điểm không đủ hấp dẫn, không đủ xinh đẹp.

    Bây giờ thái tử điện hạ, đang vui vẻ nhìn chiếc bàn trước mặt chàng. Bên chiếc bàn dài, thượng thần Bạch Thiển đang chăm chú bóc một quả hạch đào, bên cạnh còn chất một đống vỏ hạch đào, trong chén trà không chứa đến một nửa toàn nhân hạch đào đã bỏ vỏ. Nhân hạch đào, nghe nói là bổ não.

    Thái tử điện hạ nhìn một lúc lâu, đưa tay nhón một miếng trong chén, nhưng bị thượng thần Bạch Thiển ngăn lại: “Đợi thêm lúc nữa, chàng xem, quả chàng cầm vẫn chưa bóc vỏ mỏng bên ngoài, lớp vỏ này vị đắng, ăn lẫn sẽ không cảm nhận được vị ngon của nhân hạch đào, đợi thiếp đập vở vỏ quả hạch đào trên tay rồi bóc lớp vỏ mỏng đi cho chàng, chàng nếm chút bánh điểm tâm bên cạnh trước đã”. Nhíu mày lại nghĩ một lát, cầm một cây tăm tre nhỏ lo lắng nói “Thiếp vẫn nên bóc quả hạch đào này cho chàng nếm trước thì hơn, có lẽ thiếp bóc xong thì chàng không còn khẩu vị như bây giờ nữa”. Nghiêng đầu nhìn một mâm hạt dẻ toàn nhân đặt trên bàn trước mặt thượng thần Chiết Nhan, tiện tay bưng qua rồi ân cần nói với thái tử điện hạ: “Thiếp nghĩ chỉ ăn hạch đào sẽ dễ ngấy, ăn cùng hạt dẻ cũng khá ngon. Chàng đợi thiếp bóc thêm cho chàng hai nắm hạt dẻ nhé”.

    Thượng thần Chiết Nhan gõ gõ hai ngón tay xuống mặt bàn: ”Chà chà, người đừng có lấy hết của ta, tốt xấu gì cũng phải chừa lại nửa đĩa, Chân Chân vẫn muốn ăn nữa”.

    Thái tự điện hạ ho một tiếng, nói: “Tứ ca đã thích thứ này, hay là để lại cho tứ ca đi”, ánh mắt liếc nhìn thái tử phi tương lai – thượng thần Bạch Thiển, mỉm cười dịu giọng nói: “Vết thương của ta đã khỏi, không cần chăm ta giống như chăm A Ly nữa”.

    Liền thấy thượng thần Bạch Thiển đưa tay cầm tay phải của thái tử điện hạ, thả trong tay mình, nhẹ nhàng xoa bóp, nhìn vào mắt thái tử điện hạ: “Sao có thể nói đã khỏi rồi chứ”.

    Đúng lúc thượng thần nàng khẻ ngẩng đầu, trong đôi mắt ánh nước long lanh như chất chứa đắng cay, như ngậm ngùi vương sầu, khuôn mặt đó phối hợp với biểu cảm như thế, đến đám tiên nữ bọn họ nhìn còn cảm thấy đẹp chết mất. Thái tử điện hạ lại vẫn có thể bình tĩnh đối diện, khiến họ cảm thấy vô cùng khâm phục. Đương nhiên, thái tử điện hạ rốt cuộc là bình tĩnh thật hay là giả, điều này lượng thứ cho họ mặt kém nhìn không ra.

    Có rất nhiều truyền thuyết hiển hách về thái tử Dạ Hoa. Mỗi một truyền thuyết trong quá khứ vượt qua non cao tiên biển sương truyền đến tai các tiên nữ, đều khiến họ ngưỡng mộ tôn thờ thái tử một bậc. Sự ngượng mộ này kinh qua năm tháng dần dần tích lại, sau nghìn năm, cuối cùng đã khiến Dạ Hoa Quân trở thành lang quân trong mộng số một của bọn họ.

    Thự ra hôm nay, tuy phụng mệnh cha mẹ của mình chủ yếu trao ánh mắt đến ba đấng thượng thần Mặc Uyên, Chiết Nhan, Bạch Chân, nhưng Dạ Hoa Quân đã khắc sâu trong tim họ từ khi còn nhỏ, dấu ấn này nhất thời không thể xóa được. Yến hội vừa bắt đầu, đã quên phắt lời dặn dò của cha mẹ, ánh mắt ái nấy đều vô ý lẫn cố cố ý quét về phía thái tử điện hạ. Đương nhiên chỉ dám lén lút quét qua.

    Trong giấc mộng của mỗi người, bọn họ đã từng mơ mộng rất nhiều lần nữ tử xứng đôi với thái tử điện hạ nên như thế nào. Ban đầu nghe nói thượng thần Bạch Thiển của Thanh Khâu, vì tuổi tác của Bạch Thiển, khó tránh khỏi cảm thấy oan ức thay cho thái tử điện hạ của bọn họ.

    Nổi oan ức này được thời gian nung nấu, lại khó tránh chuyển thành những tính toán nhỏ nhen, cảm thấy tuổi tác của Bạch Thiển quả lớn, không thể làm chính phi của Dạ Hoa Quân, đám tiên nga trẻ tuổi của bọn họa thanh xuân đương thịnh, mỹ mạo đương xuân, không có lý nào lại không xứng với Dạ Hoa Quân. Cần tự tin vào bản thân hơn một chút.

    Nhưng mà, đến ngày hôm nay đường hoàng ngồi trong triều đường tận mắt nhìn thấy dung nhan thực sự của thượng thần Bạch Thiển trong truyền thuyết, lòng tự tin khó khăn lắm mới xóc dậy được, nay lại giống một cái bong bóng trong nước, vừa gặp ánh mặt trời thiếu đốt, vỡ bốp một tiếng rồi biến mất.

    Trong mười người thì có đến tám, chín tiên nga đều thuận mệnh cảm thấy, thua một mỹ nhân như thế này, bọn họ phục rồi.

    Nhưng một hai tiên nga khác lại giãy giụa cảm thấy, là tiên không thể hời hợt như thế này, có lẽ thượng thần Bạch Thiển này chỉ có vẻ ngoài, nếu tính cách cổ quái, đối với thái tử điện hạ không đủ dịu dàng nhu thuận, thì bọn họ nói không chừng có thể nổ lực một chút, tìm thời cơ cướp thái tử khỏi tay vị thượng thần này.

    Tiệc quá tam tuần rượu, nhưng đến một, hai tiên nga to gan lớn mật này cũng lần lượt rút lui. Thượng thần lão nhân gia nàng đối với thái tử điện hạ không chỉ dịu dàng nhu thuận, mà phải gọi là “sủng”.

    Chữ “sủng” này vừa bật ra, bọn họ tự cảm thấy giật mình trước tiên. Rõ ràng đem chữ này đặt trước Dạ Hoa Quân thần thái uy nghiêm thật không phù hợp.

    Nhưng những gì họ thấy hôm nay, thượng thần Bạch Thiển bóc hạch đào rồi lại bóc hạt dẻ cho quân thượng, bóc xong hạt dẻ lại bóc lạc, hạt điều cũng bóc rất nhiều; tiên tỳ đứng hầu rót trà cho quân thượng, thượng thần Bạch Thiển cũng phải nếm thử xem ấm nóng vừa chưa mới bưng cho quân thượng, một đám chân nhân phẩm trật không thấp nhưng hiếm khi được lên Cửu Trùng Thiên đến kính rượu quân thượng, đều bị thượng thần Bạch Thiển ngăn lại, thực ra là ngăn không được, nhưng toàn bộ rượu đều vào bụng của nàng.

    Hành động bảo về quân thượng cẩn mật đến nhường ấy của thượng thần, khiến các tiên tử định cướp lang quân cảm nhận được một sức ép cực lớn, đều muốn trốn tránh.

    Nhưng khó khăn lắm mới gặp được thái tử được một lần, lúc này mà chạy trốn thì sao xứng với gần mười cân kim thoa trên đầu và lụa nhẹ hai lạng trên người. Bọn họ rất bối rối.

    Trong lúc bối rối họ có một chuyện không hiểu cho lắm, ánh mắt sáng quắc của họ nhìn thấy rất rõ mấy quả hạch đào mà thượng thần mới vừa bóc cho quân thượng, tất cả đều bị quân thượng gói vào rồi nhân lúc thượng thần không chú ý liền bỏ vào tay áo thượng thần.

    Nhưng, tấm lòng của quân thương đối với thượng thần đã đến mức đó, vậy tại sao khi thượng thần bị đám tiểu tiên kính rượu, quân thương lại không ngăn cản, mà chỉ ngồi bên cao thăm khó dò chơi đùa với một chiếc chén không?

    Bọn họ cảm thấy, phải chăng là mình vẫn còn cơ hội.

    Nhưng chỉ một khắc sau đó, bọn họ đều ngộ ra.

    Lúc nào là mỹ nhân phong tình nhất?

    Phàm trần có chuyện Tây Thi đau bụng lại càng xinh đẹp, còn có chuyện Chiêu Quân ôm sầu khiến cho nhạn bay về nam cũng phải rơi xuống. Mỹ nhân, hễ sầu dâng lên, là càng thêm đẹp.

    Nhưng ngoài hai câu chuyện kể trên ra, trần gian còn có câu chuyện quý phi say rượu.

    Có thể thấy, mỹ nhân u sầu, lại thêm uống rượu uống đến ngà ngà say…

    Bọn họ thấy thượng thần Bạch Thiển mắt mơ màng dựa vào vai thái tử điện hạ dưới ánh sáng dìu dịu của viên dạ minh châu, trong lòng tỉnh ngộ. Mỹ nhân u sầu ngà ngà say, kiểu phong tình này, mới xứng được gọi là phong tình vô biên. Thái tử điện hạ vừa nãy chỉ im lặng chờ đợi màn này mà thôi. Họ tan nát con tim, cảm thấy thái tử điện hạ cao minh thái tử điện hạ quá cao minh.

    Thái tử điện hạ cao minh nửa ôm nửa dìu một mỹ nhân ngà ngà say như thế, trên khuôn mặt tuấn mỹ lại mang một vẻ nghiêm trang, giống như người chàng dìu không phải là một mỹ nhân, mà là một khúc gỗ.

    Có lẽ, là bọn họ nghĩ quá nhiều chăng? Trong lòng các tiểu tiên nga, dăm ba đợt sóng nhấp nhô.

    Nhân lúc một khúc ca vũ kết thúc, thái tử điện hạ khẽ dặn dò mấy câu với tiên quan đứng hầu trước Thiên Quân, lại nhìn thấy tiên quan đó lật đật chạy đến thì thầm câu gì đó với Thiên Quân ngồi trên cao, Thiên Quân gật đầu một cái với thái tử điện hạ, thái tử điện hạ bèn dìu thượng thần ra về trước.

    Họ để ý lúc thái tử điện hạ cúi đầu, thượng thần Bạch Thiển đang ngả vào lòng chàng, thái tử dường như mỉm cười, nói một câu: “Bộ dạng thế này, không uổng công ta đợi lâu như thế”. Thượng thần Bạch Thiển líu ríu câu gì đó, cả người dựa vào lòng chàng. Trái tim của các tiểu tiên nga đồng loạt vỡ vụn.

    Thái tử điện hạ ôm thượng thần Bạch Thiển trong lòng, nét cười dịu dàng hết đỗi, khi ngẩng đầu lên dìu nàng rời khỏi yến tiệc, lại khôi phục thần sắc uy nghiêm thường ngày, nhưng bước chân thì không còn bình ổn, trang nghiêm như vẻ mặt chàng nữa.

    Đám tiểu tiên nga trẻ tuổi ai oán nhìn theo bóng dáng của thái tử điện hạ, sụt sùi một tràn, lại rầu rĩ một trận. Xem ra, cha mẹ họ nói không sai, quả nhiên con đường họ đi không nhiều bằng những cây cầu mà cha mẹ họ đã đi. Hôm nay bọn họ đáng lẽ nên gửi ánh mắt vào ba vị thượng thần Mặc Uyên, Chiết Nhan và Bạch Chân, nếu không cũng không đến nổi chịu đả kích này, lại lãng phí biết bao thời gian.

    Đám tiểu tiên nga gom lại trái tim đã vỡ, gắn lại cho lành, lấy tinh thần, lần nữa chỉnh lại dung nhan, ánh mắt liếc qua một cái, nhìn thượng thần Mặc Uyên.

    Nhưng trên cao tọa kia nào còn bóng dáng Mặc Uyên.

    Nghe nói vị tôn thần này xưa nay không thích kiểu yến hội như thế này, lần này có thể lộ diện dự yến tiệc do đích thân Thiên Quân tổ chức đã không dễ dàng gì, đương nhiên không thể mong lão nhân gia ngồi đến cuối cùng.

    Lại nữa, địa vị của thượng thần Mặc Uyên quá tôn quý, bọn họ không to gan như cha mẹ, dám bày tính chuyện phong nguyệt trước lão nhân gia xưa nay chỉ xuất hiện trong truyền thuyết. Vốn không ôm ước vọng hão huyền này, Mặc Uyên lại ra về giữa chừng, các vị tiên tử cũng không đến mức quá thất vọng. ánh mắt lại chuyển sang hai vị thượng thần Chiết Nhan và Bạch Chân.

    Hai vị thượng thần này ngược lại vẫn chưa ra về.

    Nhưng ánh mắt của thượng thần lại không nhìn vào họ. Thượng thần Chiết Nhan đang bóc nho thượng thần Bạch Chân, thượng thần Bạch Chân đang nhoài ra bàn dài ngủ gà gật. thượng thần Bạch Chân dường như hắt hơi trong cơn mơ, thượng thần Chiết Nhang nhíu mày, lấy chiếc áo khoác bằng lông chim rất to mang theo người khoác lên mình thượng thần Bạch Chân, sau đó, ôn hòa ngắm gương mặt say ngủ của thượng thần Bạch Chân một lát, cúi đầu cài kín cổ áo cho chàng, còn móc ra một chiếc khăn để lau nước miếng chảy ra từ miệng chàng, còn dịu dàng vuốt ve tóc mai của chàng…

    Đám tiên nga hóa đá cảm thấy, mình dường như phát hiện ra thứ gì đó, lại dường như không phát hiện được gì.

    Nhiều năm về sau, mỗi lần nhắc đến yến hội này, Thiên Quân vẫn nhớ như in, luôn luôn cảm khái. Bởi từ đó về sau yến hội tổ chức trong Thiên Cung không bao giờ có cảnh tượng vô số tiểu tiên nga trẻ trung tụ hội cùng đùa tài hiến nghệ nữa, nhưng chỉ dựa vào điểm này, đã tỏ rõ sự quý giá của yến hội đó.

    Liên Tống Quân trung chính nghiêm minh khua nhẹ chiếc quạt an ủi phụ thân của mình: “Những tiểu tiên đó đều vì phụ quân mà đến, từ sau lần đó phụ quân chưa từng tổ chức lại thọ yến, yến hội bình thường trong thiên cung sao có thể khiến họ nhẹ dời gọt sen, phụ quân cũng phải thương xót cho tâm ý của bọn họ, chớ nên trách tội”. Một lời mà làm cho Thiên Quân trong phút chốc hả lòng hả dạ.

    Tiên bá tiên quan theo hầu Thiên Quân vỡ lẽ, chẳng trách dưới Thiên Quân có ba con trai một cháu trai lại thêm một thiên hậu mấy phi tuần, nhưng lúc nào cũng thích nói chuyện với người con trai thứ ba, không phải là không có đạo lý.

    Thượng thần Bạch Thiển thích buôn chuyện, nghe nói chuyện này thì vô cùng ngạc nhiên, một ngày nọ, trước cửa Thiên môn Hỷ Thiện Thiên chặn Liên Tống Quân lại để hỏi: “Có thật những tiểu tiên nga đó không lên Thiên Cung nữa vì phụ thân ngươi? Thật không nhận ra bảo đao của Thiên Quân chưa già, ngần đó tuổi vẫn có thể đoạt được biết bao trái tim, mà lại đều là những trái tim ngây thơ, non nớt, khiến người ta khâm phục, thật khiến người ta khâm phục.”

    Liên tống tam điện hạ xòe quạt cười bí hiểm: “Về câu hỏi này, chẳng thà người đi hỏi phu quân của mình thì hơn.”

    Lúc thu lại quạt, lại nghĩ đến ngày hôm sau thọ yến năm đó, nói dăm ba câu với Dạ Hoa Quân ở cạnh Nam Thiên Môn.

    Chàng hỏi: “Trên trời dưới trời có biết bao người muốn gặp chân nhan của Bạch Thiển, biết bao người có tâm tư khó nói thành lời, ta cho rằng ngươi sẽ không để nàng ta đến yến hội này, nhưng ngươi lại cùng nàng ta dự yến, đúng là ngoài dự liệu của ta. Có điều, đã dự yến, ta nhớ ngươi vẫn luôn giữ lễ, thọ yến của phụ quân là dịp trọng đại, nửa chừng ra về không giống với tác phong của ngươi. Hơn nữa dường như lúc ngươi sắp rời đi, ta thoáng thấy ngươi dùng truyền âm nhập mặt nói câu gì với thượng thần Chiết Nhan”

    Dạ Hoa nhẹ nhàng đáp: “Họ kéo cả nhà đến, có tâm tư gì, thúc và ta rõ như lòng bàn tay. Có những suy nghĩ, cắt đứt sớm thanh tịnh sớm. Và tâm lý của những nam tiên đó đối với Thiển Thiển, cũng chung một đạo lý này. Như thế mới được thái bình, thúc nói có phải không?”. Khi thái tử điện hạ nói những lời này, dường như nhớ ra điều gì, mày mắt đều toát lên sự dịu dàng.

    Nhiều năm sau đó, bản thân cũng kinh qua biết bao chuyện hồng trần, công tử đào hoa nhất nhì Cửu Trùng Thiên Liên Tống quân nhớ lại đoạn đối thoại này, suy ngẫm, những lời đó thực ra cũng rất thú vị.

    Tháng ba xuân sắc, khói ráng muôn vàn, hoa đào tươi thấm tuy có đến mười dặm, nhưng chỉ một đóa trong tim là đủ.
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  10. doctruyen

    doctruyen

    Tham gia:
    25/10/2013
    Bài viết:
    16,643
    Đã được thích:
    10
    Điểm thành tích:
    88
    Tam Sinh Tam Thế - Thập Lý Đào Hoa
    Chương 29: Ngoại truyện 6: Cái gọi là trọng thưởng

    Tiểu tiên quan, tiểu tiên tỳ, của Tẩy Ngô cung tự cảm thấy, quân thượng của họ gần đây không vui.

    Tuy quân thượng xưa nay làm người luôn có chúc lạnh lùng, trầm ổn, họ theo hầu ngài bao năm nay chưa từng thấy trên mặt ngày biểu lộ thái độ gì đặc biệt, nhưng từ khi thượng thần Bạch Thiển lên Cửu Trùng Thiên, quân thượng ở trước mặt thượng thần Bạch Thiển, biểu cảm lúc nào cũng rất hòa nhã, ấm ấp.

    Nhưng gần đây, cho dù thượng thần có ở trước mặt quân thượng, quân thượng vẫn chau mày.

    Đám tiểu tiên quan, tiểu tiên tỳ thầm trăn trở, điều này rất bất thường

    Ví dụ như ngày hôm qua.

    Hôm qua quân thượng nghị sự liền mấy ngày, khó khăn lắm mới có ngày rãnh rỗi cùng thượng thần Bạch Thiển đến bên Dao Trì thưởng hoa.

    Khi đó, tiên sương bên Dao Trì mịt mùng, hoa sen trong Dao Trì vươn khói tiên sương, phô những cánh hoa trắng muốt. Thượng thần Bạch Thiển ngắm nhìn, tâm tình rất vui vẻ, nắm chặt tay của quân thượng, vô cùng quan tâm tới thánh thể của quân thượng: “Bận rộn mấy ngày nay, bây giờ còn ở bên thiếp, chàng có mệt không? Nếu mệt chúng ta đến đình trước mặt ngồi một lát, chàng ngả đầu lên chân thiếp nghỉ ngơi”.

    Trong mắt của quân thượng ẩn chứa nụ cười, lại nắm chặt tay thượng thần, đang định trả lời thì tiểu thiên tôn A Ly không biết từ đâu xong ra: “Mẫu thân mẫu thân, phía trước có một con bướm to lắm, A Ly bắt mãi mà không được, mẫu thân mau đến giúp A Ly!”. Dứt lời liền chạy đến kéo thượng thần chạy mất, đôi chân nhỏ ngắn chạy nhanh như bánh xe lửa của Na Tra, chớp mắt đã biến mất dưới Thước Kiều.

    Họ nhìn thấy rõ, quân thương bị bỏ rơi trên Dao Trì đã chau mày.

    Lại ví dụ như ngày hôm nay.

    Hôm nay thượng thần đột nhiên nảy ra ý định, phải đích thân may một bộ tẩm y (đồ ngủ) cho quân thượng, và còn tự mình đo số đo của quân thượng trong Trường Thăng Điện.

    Thượng thần cầm một đám vải mẫu ướm lên người quân thượng, ướm tới ướm lui, buồn rầu nói:”Mảnh nào cũng tôn vẻ đẹp của chàng lên như thế”, lại ngẫm nghĩ nói:”Lẽ nào mỗi mảnh thiếp đều phải may cho chàng một cái…” Quân thượng khẻ giọng cười nói: “Những lời này, phải là nói nàng mới đúng.”

    Đám tiểu tiên tỳ biết tình biết ý đương nhiên điều hiểu rằng, đây là lúc họ cần rút lui rồi.

    Đúng lúc này, tiểu thiên tôn A Ly lại không biết từ đâu xong ra, cánh tay múp míp ôm chầm lấy cách tay của thượng thần: “Mẫu thân mẫu thân, bài tập của phu tử giao cho khó quá, có mấy chỗ A Ly không hiểu, mẫu thân mau đến cứu A Ly với.”

    Bọn họ còn chưa định thần, tiểu thiền tôn đã kéo tay thượng thần chạy mất, khi qua bậu cửa còn suýt chút nữa vấp ngã, được thượng thần dìu dậy bế trong lòng, không hề lưu luyến bước qua bậc cửa đi mất.

    Một mình quân thượng đứng trong đại điện, hai mảnh vãi vẫn còn rơi dưới chân. Bọn họ nhìn thấy, quân thượng không chỉ chau mày, dường như gân xanh trên Thái Dương còn giật giật hai cái.

    Lại một ví dụ đêm hôm nay.

    Đêm hôm nay phát sinh chuyện gì, bọn tiểu tiên quan và tiên tỳ đương nhiên không nhìn thấy.

    Trong đêm tối thần bí này, cục bột nhỏ A Ly đang dùng bữa tối trong Trường Thăng điện của mẫu thân, cái bụng nhỏ ăn đến mức căn phồng, lười cả động đậy, vẫn như lệ thường, lại một lần nữa lười nhác ngủ trên giường của mẫu thân.

    Dạ Hoa Quần nghị sự với mấy vị Khôi tinh xong, trên đường về hái một cành hoa mới hé nở, bước trên con đường phát sáng lắp lánh quay về Trường Thăng Điện, vén bước trường sa buông rủ trước cửa sổ. Hoa vô ưu rơi “Phịch” một tiếng xuống đất. Cục bột đang ngủ say ngáy khò khò, sờ sờ chiếc bụng căng tròn rồi trở mình. Đôi mày của Dạ Hoa Quân lại chau, gân xanh trên thái dương lại giật hai cái.

    Thái tử điện hạ cảm thấy đêm nay không nên khoan dung thêm nữa, giơ tay nhấc cục bột nhỏ khỏi lòng thượng thần Bạch Thiển, đi như cơn gió đưa cục bột nhỏ trở về Khánh Vân điện. Khi về Trường Thăng Điện, dứt khoác rút Thanh Minh kiếm ra làm then cửa, cài thật chặt cửa lớn.

    Thượng thần Bạch Thiển chống tay vào má nhìn chàng mỉm cười dưới ánh đèn, đợi đến lúc chàng tiến đến gần, bỗng đứng dậy chủ động ôm lấy người chàng, đôi mắt long lanh ánh nước, hàm chứa ý tứ sâu xa khác hẳn ngày thường, đẹp như tranh vẽ, dựa sát vào chàng hơn một chút mới nói: “Hôm nay chàng thú vị thật, sao lại tranh giành với cục bột vậy”. Hương thơm tựa hương lan, lướt qua vành tai, qua cầm rồi đậu lên vai Dạ Hoa Quân.

    Sắc đen trong mắt thái tử điện hạ đậm dần, kéo thượng thần Bạch Thiển chuẩn bị tiến vào phòng trong. Ngoài điện đột nhiên vang lên tiếng móng tay cào cửa, kèm theo một trận tiếng động do những viên đá nhỏ ném vào cửa, cục bột nhỏ đang ở bên ngoài rấm rứt kêu khóc thảm thiết: “ Phụ thân cho A Ly vào đi, A Ly muốn ngủ cùng mẫu thân, tai sao phụ thân không cho A Ly ngủ cùng mẫu thân, giường của mẫu thân to như thế, A Ly chỉ chiếm mộc góc nhỏ có làm sao đâu? Hu hu hu hu hu….”. Thái tử điện hạ loạng chàng hụt một bước, thượng thần Bạch Thiển vội vàng đỡ lấy chàng.

    Đêm nay, đôi mày thái tử điện hạ chau đến mức không giãn ra được nữa.

    Cục bột cuối cùng cũng vẫn được thả vào Trường Thăng Điện. Khi nó vừa mới vào trong liền cảm thấy Trường Thăng Điện lạnh lẽo nhiều so với khi nó còn ở cạnh mẫu thân, sắc mặt phụ thân sầm xuống nhìn nó, nó rùng mình, lúc ngủ còn phải đắp thêm hai cái chăn. Nhưng nó lại khôn khéo giở trò trong chăn, lấy chiến khăn nhỏ buộc tay của mình và mẫu thân vào nhau, để phòng nửa đêm phụ quân lại vứt mình ra. Nó cảm thấy gần đây phụ quân rất nhỏ mọn.

    Nhưng ngày tháng nhàn nhã của cục bột không kéo dài được bao lâu.

    Ba ngày sau, phu tử của trường học tuyên lệnh sắp tới phải ra một bài kiểm tra nhỏ, kiểm tra các học trò về công danh thứ vị trên từ thiên tôn dưới đến địa tiên, mấy vạn cát thần tỏng bốn bể tám cõi… Hơn nữa bài kiểm tra này không giống như trước đây, người đứng đầu sẽ có trọng thưởng.

    Trường mà cục bột học, phụ tử là Ty Thiên Tào Quế Tịch, Văn Xương đế Tấn Văn Thần Quân coi sóc văn vận trong thiên hạ. Tấn Văn Thần Quân đứng hàng đầu trong tiên lục, hơn nữa xưa nay lại giao hảo tốt nhất với Đa Bảo Nguyên Quân gia sản giàu có, ngài nói là trọng thưởng, chắc chắn sẽ là thưởng lớn trùng trùng. Đám ấu đồng con cháu của thiên tộc nhảy nhót phấn chấn, ai nấy đều chuyên tâm học hành chuẩn bị kiểm tra với dáng vẻ chưa từng thấy.

    Cục bột đương nhiên cũng là một trong số đó. Bởi còn có ba tháng nữa là sinh nhật mẫu thân nó, gần đây cục bột luôn rầu rĩ vì không biết tặng quà gì vào dịp sinh nhật của mẫu thân? Nó nhỏ như thế, còn chưa tự lập môn hộ, những thứ khác đều là của phụ quân, lấy đồ của phụ quân để tặng mẫu thân thì làm gì có ý nghĩa, không tỏ được tấm lòng của mình đối với mẫu thân, vì thế cục bột rất sầu não. Vừa khéo lúc này lễ vật lại từ trên tời rơi xuống cục bột cảm thấy, đây chính là ý trời mà Thành Ngọc vẫn hay than thở. Ý trời đều chiều theo ý nó, có thể ý trời cũng biết nó là tiểu thiên tôn của Cửu Trùng Thiên này, ý trời đúng là có ngộ tính.

    Tự nó chăm chỉ chuẩn bị làm bài kiểm tra, dựa vào thực lực bản thân để thắng được món hậu lễ này, mẫu thân chắc chắn sẽ vô cùng cảm động, cảm thấy mình ngoan như thế nào, nhất định lúc nào cũng phải thấy mình mới vui vẻ, sau này dứt khoác sẽ bảo mình từ Khánh Vân điện chuyển đến Trường Lăng điện ở cùng người, sau này mình sẽ không còn bị phụ quân vứt ra khỏi điện nữa, hi hi hi hi.

    Ôm mộng tưởng đẹp đẽ đó, cục bột chăm chỉ ôn tập mười ngày này, nó đều không đến quấy rầy mẫu thân. Những lúc nhớ mẫu thân, nó đều thầm tự cổ vũ bản thân: “Đứa trẻ có mẹ như báu vật, đứa trẻ không mẹ như ngọn cỏ, hôm nay vất vả trùng trùng, ngày mai sẽ không bị vứt ra ngoài”. Nó cắn đầu bút, nắm chặt tay, đọc thầm những lời này, nó lại thêm quyết tâm.

    Ông trời chẳng phụ người có tâm, câu nói này đúng là chân lý vĩnh hằng. Cục bột vất vả mười ngày, lại thêm thân là tiểu thiên tôn, đối với công danh thứ vị của thần tiên trên trời dưới đất vốn đã thuộc không ít, bài kiểm tra lần này, cục bột đã thuận lợi giành ngôi thứ nhất.

    Tấn Văn Thần Quân cười tươi roi rói nhìn nó: “Là tiểu thiên tôn đứng đầu, xem ra tiểu thiên tôn quả nhiên dụng công, phần thưởng này sẽ thuộc về tiểu thiên tôn”.

    Tiểu thiên tôn được Tấn Văn Thần Quân khen ngợi tán dương, dải khăn tất thẳng trên trán còn chưa lấy xuống. Tiểu Thiên tôn tất thắng nhìn đám bạn học đang ngồi ngẩn ngơ than thở, cảm thấy rất đắc ý. Trong lòng trỗi dậy một cảm giác ngọt ngào, mình giành được phần thưởng này, nhất định sẽ là một phần thưởng lớn vô cùng đặc biệt, mẫu thân biết được sẽ tự hào về mình, nhất định sẽ rất vui.

    Cục bột nhỏ nghĩ rất đúng, nó đứng thứ nhất, giành được trọng thưởng của Tấn Văn Thần Quân, mẫu thân nó đúng là rất vui nhưng người vui nhất lại là phụ quân của nó.

    Dạ Hoa Quân tuy xưa nay trầm ổn, thần sắc không bộc lộ cảm xúc nhưng tiên quan, tiên tỳ trong Tẩy Ngô cung lại theo bản năng cảm nhận được, thái tử điện hạ gần đây như tắm trong gió xuân, tâm tình không thể dùng hai chữ “vui vẻ” để hình dung, rõ ràng có chút xíu thành tích đã vui vẻ như thế, thái tử điện hạ đúng là người cha hiền, khiến họ càng thêm tôn kính.

    Thượng thần Lệnh Vũ của núi Côn Luân đang ngồi trong trung đỉnh trên núi Côn Luân tâm sự với cục bột vừa mới được mẫu thân đưa đến mấy ngày trước: “Nghe Tấn Văn nói, A Ly con ban đầu rất mong có phần thưởng này, còn vì phần thưởng này mà dụng công học hành quên ăn quên ngủ mười ngày. Nhưng bây giờ đã thuận lợi lấy được phần thưởng, sao con lại không vui đến thế?”

    Cục bột nhỏ rầu rĩ ôm đầu, nức nở nói: “Bởi vì con, con không biết phần thưởng lớn không thể trả lại này là đến núi Côn Luân học nghệ với bá phụ Mặc Uyên những ba năm, hu hu hu hu hu hu…”
     
    Sửa lần cuối: 22/8/2019
  11. GIA SƯ TOÁN TẠI HÀ NỘI

    GIA SƯ TOÁN TẠI HÀ NỘI Thành viên đạt chuẩn

    Tham gia:
    21/2/2017
    Bài viết:
    75
    Đã được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    8
    truyện hay, đọc mấy lần rồi mà xem phim vẫn thấy hay
     
  12. mechichbong2009

    mechichbong2009 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    2/12/2009
    Bài viết:
    1,778
    Đã được thích:
    558
    Điểm thành tích:
    773
    phim này đang chiếu hot lắm ý
     
  13. xuanquynhh

    xuanquynhh Thành viên tích cực

    Tham gia:
    14/4/2016
    Bài viết:
    881
    Đã được thích:
    168
    Điểm thành tích:
    83
    đang xem phim này hay quá trời luôn mà đọc truyện này dài quá nhỉ
     
  14. nguyentuyentb

    nguyentuyentb Bắt đầu tích cực

    Tham gia:
    22/9/2013
    Bài viết:
    481
    Đã được thích:
    82
    Điểm thành tích:
    28
    truyện này đã được chuyển thành phim đang chiếu trên mạng đó. mình thấy nội dung phim khá sát với cốt truyện.
     
  15. maiyeu1991

    maiyeu1991 Thành viên đạt chuẩn

    Tham gia:
    26/2/2017
    Bài viết:
    77
    Đã được thích:
    14
    Điểm thành tích:
    8
    truyện này dài thật đấy không biết có truyện kiểu truyện tranh không nhỉ
     

Chia sẻ trang này