Truyện cổ tích VN : Vàng lấy con vua Ngày xửa ngày xưa, có một em bé tên là Vàng, Vàng mới lên tám tuổi thì bố chết. Nhà nghèo, em phải theo mẹ đi làm thuê khắp đó đây. Quần quật suốt ngày mà mẹ con vẫn không đủ ăn. Những hôm mưa rét thấu xương cũng không được nghỉ. Nhiều bữa Vàng chỉ uống nước đi ngủ, còn dành một ít cơm nguội cho bà mẹ. Bà mẹ càng thương xót cho đứa con tội nghiệp của mình. Ngày tháng qua đi, năm ấy Vàng đã lớn và mẹ Vàng cũng đã già yếu. Vàng một thân đi làm nuôi mẹ và nuôi mình. Thỉnh thoảng Vàng còn làm giúp hàng xóm. Tuy công việc nặng nhọc, bụng đói, nhưng ai nhờ việc gì Vàng đều cố sức làm đâu ra đấy. nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Vì vậy láng giềng ai cũng quý mến Vàng. Tiếng lành đồn xa. Nhà vua biết tin Vàng làm ăn khéo, lại giỏi. Một hôm bèn cho lính đi gọi Vàng về lợp nhà cho mình. Vàng đến và trèo lên nhà ngay. Trong khi dỡ mái xuống, chàng trông thấy phía dưới sân nhà một cô gái đang ngồi dệt vải. Vàng muốn biết mặt cô gái liền ngửa cổ nhìn lên, nhưng cô gái vẫn cúi mặt xuống tấm vải, tay đưa thoi. Vàng nghĩ ra một kế khác: lấy sợi lạt cứa vào tay mình cho chảy máu xuống tấm vải. Nhưng uổng công, cô gái vẫn thản nhiên đưa thoi. Vàng thấy không xong, càng nóng lòng bèn đánh bạo gọi: - Cô ơi! Cho tôi xin miếng giẻ buộc chỗ đứt tay cho khỏi chảy máu. Lần này cô gái đứng dậy đi tìm cái gậy và buộc miếng vải vào đầu gậy rồi từ từ giơ lên nóc nhà nhưng vẫn không hề nhìn Vàng. Thấy đầu gậy đã sát tay mình mà cô nàng không ngẩng mặt lên, Vàng lại giả vờ gọi: - Cô ơi! Chua tới... chỗ này cơ mà! Cô gái tưởng mình giơ lệch chỗ, mới ngửa mặt nhìn lên. Vàng thấy khuôn mặt xinh đẹp của cô gái hiện ra. Tối hôm ấy, Vàng về nhà nói với mẹ: - Mẹ ơi! Hôm nay con đi lợp nhà cho vua thấy con gái của vua xinh đẹp lắm. Mẹ đi hỏi cho con lấy cô ta làm vợ. Bà mẹ nghe nói không khỏi ngạc nhiên. Một lát, bà thở dài: - Mẹ con ta nghèo. Vua nào lại gả con gái cho con. Nhưng Vàng cứ một mực van nài mẹ. Cuối cùng để chiều con trai, bà đi hỏi vua. Mẹ Vàng chưa nói hết lời, nhà vua đã nổi cơn lôi đình mắng vào mặt: - Nhà ngươi láo thật. Dám đi hỏi con gái ta cho thằng khố rách áo ôm nhà mày ư? Lính đâu, đem mụ già vào cối giã. Bọn lính răm rắp tuân theo. Mẹ Vàng bị một trận nhừ tử. Bà van lạy mãi nhà vua mới bằng lòng thả cho về. Khi mẹ đi, Vàng ở nhà đứng ngồi không yên, bụng như có lửa đốt. Vàng hết ra trông lại vào ngóng. Thoáng thấy mẹ về, Vàng đã hỏi ngay: - Mẹ ơi! Được chứ! Nhà vua đồng ý chưa? Mẹ Vàng thở không ra hơi: - Vợ con gì. Chưa nói hết lời, mẹ đã bị vua sai lính bỏ vào cối giã, lại còn chửi mắng. Con muốn lấy thì đi mà hỏi. Ít lâu sau, Vàng lại đòi mẹ đi hỏi con gái vua cho mình. Thương con, mẹ Vàng lại đánh liều đi hỏi một lần nữa. Khi bà già đến, nhà vua lần này không chửi mắng và sai lính bỏ vào cối giã như lần trước nữa, mà nói với mẹ Vàng: - Nhà ngươi muốn công chúa ta làm con dâu thì về bảo con trai tìm cho ta một chum bọ chó và một cái chĩnh dái gà đem đến đây nộp thì ta mới gả công chúa cho. Mẹ Vàng về nhà thuật lại cho con nghe. Vàng lập tức đi tìm khắp chốn, khắp nơi, nhưng không sao kiếm được một chum bọ chó và một chĩnh dái gà. Chàng buồn rầu khóc bên bờ suối. Bỗng một cụ già râu tóc bạc phơ hiện lên, hỏi: - Làm sao cháu khóc? Vàng thưa: - Mẹ cháu đi hỏi con gái vua cho cháu, vua bảo phải tìm bằng đủ một chum bọ chó, một chĩnh dái gà thì vua mới gả. Cháu đi tìm khắp chốn nơi không được cháu buồn cháu khóc. Cụ già nói: - Không lo, cháu về trồng thật nhiều vừng đen và khoai sọ, đợi khi vừng chín, khoai sọ mập cũ, cháu gặt vừng đập lấy hột cho vào chum, rồi bắt mấy con bọ chó rắc lên trên, bịt kín miệng chum lại. Sau đó, cháu đào khoai sọ đem cạo vỏ luộc chín đổ vào chĩnh rồi bắt mấy con gà sống mổ thịt lấy dái nó để trên chĩnh khoai và bịt kín lại đem đi nộp vua. Y lời, Vàng về nhà làm theo lời cụ dặn. Mấy tháng sau, vừng đã chín, khoai sọ cũng đầy đủ. Vàng làm đúng như lời cụ già và mang đến cho nhà vua. Vua nhận được đồ lễ bèn mở ngay chum bọ chó nếm thử. Vua khen: - Úi chao! Ngon quá! Thơm như vừng. Rồi vua lại mở chĩnh dái gà ăn mấy miếng tấm tắc: - Tuyệt! Tuyệt! Bùi như khoai sọ. Ăn hết chum bọ chó và chĩnh dái gà, nhà vua trở mặt: - Ngươi muốn làm rể ta à? Chưa đủ đâu! Ngươi phải đi kiếm một đôi gà tiên, một trống một mái đem về nộp cho ta thì lúc đó mới nói đến chuyện vợ con. Vàng tức lắm. Nhưng đành phải đi tìm gà tiên. Được ba ngày, đi mỏi rời chân mà không thấy gà tiên đâu cả. Vàng ôm mặt khóc. Cụ già khi trước lại hiện lên hỏi: - Làm sao cháu khóc? Vàng đáp: - Thưa cụ, vua bảo cháu phải đi tìm một đôi gà tiên, một trống, một mái tới nộp thì vua mới gả con gái cho. Cháu đi tìm ba ngày mà chẳng được. Nói xong, Vàng lại ôm mặt khóc. Cụ già bảo: - Thôi, không khóc nữa. Gần nhà cháu có cái hang đá, bên trong có vợ chồng gà tiên. Hàng ngày cứ đến giờ ngọ, vợ chồng mới ra cửa hang. Gà chồng đứng một bên gáy, gà vợ đứng một bên nghe, cháu đến rình mà bắt. Gà gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau, cháu đừng bắt, gáy tiếng thứ hai, chúng xích lại gần nhau hơn, cháu đừng bắt. Đến tiếng thứ ba, chúng sát lại bên nhau, cháu lại bắt cả đôi sẽ có gà tiên nộp vua. Hôm sau, Vàng tìm đến hang đá ngồi rình. Đúng giờ ngọ bỗng cửa hang từ từ mở ra. Ga trống tiên, gà mái tiên đi ra, mỗi con đứng một bên cửa hang. Gà trống bệ vệ vươn cổ gáy tiếng thứ nhất, chúng xê lại gần nhau. Vàng vẫn ngồi yên. Gáy tiếng thứ hai, đôi gà xích vào nhau tí nữa. Vàng vẫn không nhúc nhích. Gáy tiếng thứ ba, gà trống, gà mái sát lại liền nhau. Lúc đó Vàng mới xông đến chộp lấy chân gà. Nhưng lạ thay, gà khoẻ vô cùng, chúng kéo tay Vàng vào hang, tức thì cửa đóng sập lại. Tay Vàng bị kẹp, đau quá cố rút ra, nhưng càng rút càng đau. Qua một đêm, bà mẹ ở nhà không thấy con về sốt ruột quá bèn đi tìm. Đi mãi, đi mãi đến hang đá, bà thấy con nằm lăn ở cửa hang, bèn hỏi: - Sao thế! Sao lại bị kẹp cả tay hả Vàng? Vàng mếu máo đáp: - Con tìm được gà tiên rồi. Nó lôi con vào, con vẫn túm chặt chân nó, bị kẹp... mẹ cứu con với! Mẹ Vàng vừa thương vừa bực, trách con: - Đấy mẹ đã bảo! Mình là con nhà nghèo ,à đòi lấy con vua. Lần trước vua bắt con nộp bọ, dái gà, lần này lại bắt nộp gà tiên đến nỗi mắc cạn khổ thế này. Nói xong, bà túm lấy con kéo ra ngoài. Nhưng kéo thế nào cũng không ra. Bà tức quá nói tục một câu. Hang thần nghe không nhịn được, phì cười, cửa hang mở toang chốc lát, Vàng rút được tay, kéo cả đôi gà ra ngoài và trở về nộp vua. Đến nhà vua, Vàng quỳ xuống mà rằng: - Muôn tâu Hoàng thượng, thần đi tìm bọ chó, dái gà, gà tiên, con đã tìm đủ rồi, bây giờ vua cho thần được đón công chúa vua về ở với mẹ con thần. Vua lại bảo: - Đồ lễ cưới ngươi nộp đủ rồi. Bây giờ ngươi muốn đón vợ thì phải có nhà ở. Trong vùng này, có ông Thạch Long nhà to nhất, đẹp nhất, ngươi về làm được như thế thì hãy đến đây ta mới cho rước dâu. Vàng lại quay về. Đến nhà Thạch Long, chàng lấy gậy đạp xung quanh nhà để đánh tiếng, Thạch Long nghe có người đạp vào nhà mình, chạy ra hỏi: - Ai đập gì nhà tôi đấy? Vàng đáp: - Vua bảo tôi làm nhà to đẹp như nhà ông thì mới gả công chúa cho. Tôi đến thử đây. Thạch Long nói: - Cái hạng mày mà lấy được con vua thì tao nhường lại cái nhà này cho mày ở. - Ông nói thật hay nói dối? - Tao nói dối với cái thứ mày làm gì? Vàng lấy cái đinh đóng vào cột rồi bảo Thạch Long: "Tu mi nam tử, nói thì phải như đnh đóng cột. Tôi đóng cái đinh này để làm chứng". Vàng đi đến nhà vua xin đón vợ về nhà mới. Hàng xóm láng giềng rậm rịch theo sau, thổi kèn, đánh trống, chuyện trò vui vẻ. Đến nhà Thạch Long, Vàng gọi Thạch Long và bảo: - Tôi đón dâu về rồi, ông dọn nhà đi nơi khác cho vợ chồng tôi ở. Thạch Long mắng: - Nhà của tao sao mày lại đuổi tao đi? Vàng vặn lại: - Hôm nọ ông nói gì với tôi. Đinh đóng cột còn kia. Ông ở được thì ông ở cái nhà này. Không nhổ được thì ông đi nơi khác. Thạch Long cố hết sức nhổ nhưng không được, phải đi nơi khác. Vàng đưa vợ về nhà Thạch Long, rồi cả hai vợ chồng cùng đi đón mẹ. Khi vợ Vàng đến, mẹ Vàng không tin, hỏi: - Cô là ai mà đến đây đón tôi? Vợ Vàng thưa: - Con là con dâu của mẹ. Vợ chồng con về đón mẹ đến ở với chúng con. Mẹ Vàng trông thấy Vàng mới tin, bèn theo hai con đi ở nhà mới. Từ đấy gia đình mẹ Vàng thêm một người con dâu biết dệt vải giỏi. Nàng cũng rất mực thương quý mẹ chồng. Năm sua, có giặc vua nước bên sang cướp. Vàng được vua cha sai đi đánh. Chàng bàn cùng với quân lính lấy rơm bện hàng nghìn hàng vạn người giả đem cắm khắp ngả đường, chờ giặc. Giặc đến, thấy bên Vàng quân sĩ hăng hái, lại đông hàng nghìn, hàng vạn, bèn rút lui. Nhà vua thấy con rể tài giỏi, làm giặc lui không phải đánh, liền nhường ngôi cho. Từ đó dân bản yên ổn làm ăn. Vợ chồng Vàng sống hạnh phúc bên nhau.
Cổ tích VN : Anh chàng nghèo khổ Ngày xưa có hai mẹ con nhà nọ nghèo rớt mồng tơi, anh chàng lang thang đi kiếm việc làm nhưng chả có ai cho thuê cả. Mãi sau, có một chủ thuyền buôn thấy anh khoẻ mạnh, lại biết bơi lội mới thuê anh về làm thuỷ thủ, hắn hứa cho anh cơm một ngày ba bữa và một năm bốn mươi quan tiền trả trước. Anh chàng tưởng không có nỗi mừng nào hơn thế nữa, vội cầm ba mươi quan về cho mẹ tiêu, còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc. Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn lớn. Trên bến người mua kẻ bán chen chúc như hội. Bọn thuỷ thủ bảo chàng: - Ở đây buôn thứ gì cũng được. Cứ mua một ít đưa về quê nhà bán là tự khắc có lãi. Anh chàng xưa nay không quen buôn nên cầm mười quan tiền trong tay, chưa biết nên mua thứ hàng gì. Bỗng chốc, anh thấy có một người mang ra bến một con chó bị trói toan vứt xuống sông. Lấy làm thương, anh vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Người ấy cho biết chó này là của chủ mình. Hôm nay chủ đi chợ mua thịt dọn tiệc, không rõ cất đặt thế nào để chó ăn vụng mất cả. Chủ tức giận trói chó đánh một trận thừa sống thiếu chết rồi sai đi bỏ sông. Nghe kể thế, anh chàng xin mua lại con chó. Người kia cười mà rằng: - Nó chỉ chuyên môn ăn vụng, anh mua về làm gì? Chàng nghèo đáp: - Thây kệ, cứ bán nó cho tôi đi! Cuối cùng anh chàng xỉa ra ba quan mua lại con chó. Anh cởi trói cho nó rồi xích lại bên chỗ mình làm việc. Sau đó một chốc, anh lại trông thấy có một người đàn bà mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Khi biết tội trạng của mèo cũng chỉ là ăn vụng, anh nài nỉ để con vật lại cho mình. Thấy người đàn bà khuyên không nên mua thứ mèo xấu nết, anh không nghe và nói: - Thây kệ! Chị cứ bán cho tôi đi! Thế là cuối cùng mèo cũng thoát chết. Và người chủ mới của nó sau khi xỉa ra ba quan để mua, đem buộc lại gần bên con chó. Ngồi một mình trên thuyền, thấy buồn, anh chàng bèn bỏ thuyền lên bộ đi dạo bờ sông. Bỗng chốc anh thấy có ba đứa trẻ chăn trâu bắt được một con rắn nước, toan dùng roi xử tội. Anh chàng vội chạy lại ngăn cản: - Các em đừng đánh nó, nó là rắn nước, có làm hại ai đâu? - "Mặc kệ chúng tôi" - bọn trẻ đáp, rồi lại tiếp: "Chúng tôi bắt được nó, chúng tôi đánh, ông cản làm gì?" Thấy bọn chúng khăng khăng cố tình giết rắn, anh chàng lại dùng tiền để cứu con vật vô tội. Chúng đòi năm quan. Mãi sau anh mới bớt được một. Thế là tất cả số tiền mang theo lần lượt vơi đến hết. Mua được con rắn, anh vội thả xuống sông cho nó trở về xứ sở. Bọn thuỷ thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán của mình, thì đều cười ngất, cho là một người khờ dại ít có. Anh chỉ ngồi lặng yên, không nói gì cả. Khi thuyền bắt đầu trở về vào khoảng nửa đêm, anh đang chèo bỗng thấy con rắn nước từ dưới sông bơi lên trao cho mình một viên ngọc mà nói: - Cha tôi là Long Vương cảm ơn anh cứu mạng tôi, cho tôi đem biếu anh viên ngọc "băng xuyên" để mời anh xuống chơi. Mang ngọc vào mình, anh có thể đi được dưới nước cũng như đi trên bộ. Anh chàng nghe nói vội vàng đi theo con rắn nước xuống thuỷ phủ. Quả nhiên anh được Long Vương tiếp đãi rất hậu, và biếu anh ngọc vàng châu báu rất nhiều. Sau đó, anh được người của Long Vương đưa về đến tận nhà. Chủ thuyền thấy anh mất hút, tưởng anh đã rơi xuống nước, bèn đỗ thuyền lại trình xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương thì họ rất lấy làm ngạc nhiên vì anh thuỷ thủ trẻ đã về đến nhà ba ngày trước rồi. Từ đó anh trở nên giầu có. Nhưng anh vẫn sống một cuộc đời bình thường với mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu vẫn theo anh không rời. Về sau, anh lấy vợ. Vợ anh là một cô gái rất đẹp. Nàng rất thích đeo nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" chiếu sáng một góc tủ, nàng thích lắm, nên một hôm lấy trộm mang đến cho một người thợ kim hoàn, bảo đánh cho mình một chiếc nhẫn. Không ngờ, người thợ kim hoàn biết là ngọc quý ít có trong thế gian, bèn đi kiếm một viên khác tương tự như thế đánh tráo mà cướp lấy bảo vật. Khi biết rõ chuyện mất cắp thì anh chàng thuỷ thủ trở nên buồn bã. Hàng ngày anh ra bờ sông, mong tìm lại con rắn nước nhưng chả làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ không vui, một hôm nói với chủ xin đi tìm viên ngọc. Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng. Không có cách gì để vượt cả, hai con vật cứ loanh quanh ở trên bờ. Về sau chúng nó tìm được vào nhà một con rái cá và nhờ nó đưa giúp qua sông. Rái cá vui lòng gọi cho các bạn bè của nó đứng sát vào nhau, kết thành một cái bè cho chó và mèo ngồi lên lưng, chở qua sông yên lành. Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó: - Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong xóm xúm lại sủa. Thế là mày cứ đường hoàng theo cổng mà vào, không ai biết. Quả nhiên, bầy chó của nhà người thợ kim hoàn nghe mấy tiếng mèo kêu vội xông ra đuổi. Mèo dẫn chúng đi thật xa nên chó ta lẻn vào nấp dưới cái hầm, vô sự. Khi hai con vật gặp lại nhau, chúng tìm tòi khắp trong nhà. Tất cả của cải của lão kim hoàn đều bỏ trong cái rương xe, luôn luôn khoá kín, không dễ gì lọt vào được. Mèo bèn cố sức tìm, chụp bắt được một con chuột. Chuột van lạy xin tha mạng. Mèo bảo nó dẫn mình đến gặp chuột chúa đàn. Mèo nói rõ việc mình đến đây và nhờ hắn giúp mình lấy cho được viên ngọc, đổi lại mèo hứa sẽ không chạm đến gia tộc nhà hắn. Chuột chúa đàn vâng dạ rối rít. - Để tôi bảo lũ con cháu, tôi tớ trong nhà khoét chiếc rương ra, tìm cho các ông. Nhưng đến khi lọt vào được rương, lũ chuột tìm mãi vẫn không thấy ngọc. Chuột chúa đàn ra báo cho mèo biết, và nói: - Trong rương này có một cái hộp bằng bạc. Có lẽ nó giấu trong đó; Cái hộp đó thì khó lòng mà gặm được. - Vậy làm thế nào bây giờ? - mèo hỏi. - Chỉ có cách là chúng tôi sẽ nhờ xóm giềng hợp sức cùng chúng tôi khoét rộng lỗ thủng làm sao đưa lọt cái hộp ấy ra đây cho các ông tìm. - Thế thì làm gấp đi. Chỉ trong một đêm, cả xóm nhà chuột đã lấy được cái hộp đưa cho mèo. Hai con vật tìm cách phá hộp ra, quả thấy viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ. Sau khi ra khỏi nhà người thợ kim hoàn, chó tranh mèo mang ngọc. Nhưng đến lúc sắp sửa sang sông, vì mắng nhau với một con chó khác, nên chó đã lỡ làm cho ngọc văng xuống nước. Một con cá trông thấy ngọc vội bơi tới đớp và nuốt ngay. Thấy chó để mất ngọc, mèo giận quá, mắng cho một trận thậm tệ. Chó biết lỗi, lặng thinh, cuối cùng mếu máo: - Biết làm sao bây giờ? Suy nghĩ một lát, mèo tìm được một kế bảo chó: - Chúng ta sẽ tìm đến nhà thuyền chài ở vùng này xin ở với họ. Thế rồi chờ khi họ câu được con cá đã nuốt viên ngọc thì sẽ kiếm cách cướp lấy đem về. Chó khen mưu kế hay, bèn cùng mèo tìm đến một gia đình ông chài đang đỗ thuyền lại ở bờ sông phơi lưới. Hai con vật tỏ ra rất khôn ngoan, hiền lành nên được cả nhà đối đãi tử tế. Mấy hôm sau, ông chài đánh mẻ lưới được một con cá chày rất lớn, mổ ruột ra, thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm. Trong khi cả nhà đang trao ngọc cho nhau để xem của lạ, thì mèo tiến lại cọ vào người chủ. Nhân khi chủ sơ ý, nó nhảy lên ngoạm lấy viên ngọc và lập tức cong đuôi nhảy lên bờ chạy mất. Thấy thế, chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo trước con mắt ngơ ngác của mấy bố con nhà ông chài. Lần này mèo tranh chó mang ngọc. Mèo lên mặt, bảo chó: - Lần trước ngậm bị rơi mất, lần này có cách rất hay là đội lên đầu. Sắp đến nhà rồi, chả sợ gì nữa. Nó nói thế nào thì làm như thế. Nào ngờ mới đi được một quãng đường, bấy giờ có một con quạ đang bay trên đầu mèo, thình lình sà xuống đớp lấy rồi bay lên đậu trên cành cao. Thấy ngọc lại mất, đến lượt chó mắng mèo rất dữ, rồi nói: - Ngọc rơi xuống nước còn có thể lấy lại được, chứ bay lên trời thì đừng có hòng. Mèo buồn rầu, nhưng ngẫm nghĩ một lát, nó lại bảo chó: - Đúng rồi. Tao đã nghĩ ra được một kế. Chó hỏi: - Kế gì? Mèo đáp: - Giả chết bắt quạ. Nói xong mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước đầy căng. Đoạn trở về xua chó trốn đi một chỗ, còn mình thì tới gốc cây phơi bụng trắng hếu giả vờ chết. Quạ đang ngậm ngọc, đậu trên cây cao nhìn xuống thoáng thấy có bóng con vật chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa xáp lại thì mèo đã nhảy xổ lên vồ lấy Quạ. Quạ van lạy xin trả lại viên ngọc cho mèo để được tha mạng. Mèo chỉ đợi có thế, ngoạm lấy viên ngọc ra đi. Lần này, cả hai con đưa ngọc về đến nhà vẹn toàn. Anh chàng thuỷ thủ lấy lại được món tặng vật của Long Vương, hết sức vui mừng càng thêm quý mến hai con vật có tình có nghĩa.
Ðề: Truyện cổ tích VN : Vàng lấy con vua Dài quá ,,,lát đọc sau ,ngày xưa thích nhất chuyện cổ tích .
Ông tướng gầy .Phạm Xuân Thông kể Thuở xưa có một người thợ rừng lực lưỡng khoẻ mạnh. Cái rìu cái búa thông thường anh cầm lỏng tay, phải thuê thợ rèn đánh to bằng hai bàn tay xoè, dùng mới vừa sức. Cây gỗ to bằng thân người, anh chỉ đẵn bốn nhát là xong; còn những cây cổ thụ to bằng bánh xe trâu, bằng cái nong, cái nia, anh chặt một ngày cũng được vài mươi khúc. Tính ra số gỗ anh đẵn được, từ ngày mới biết vác rìu vào rừng đến giờ, cũng đủ dựng nhà cho ba làng, bảy xóm, chín mười ngôi đền, ngôi miếu. Nhưng ngôi nhà vợ chồng anh thì chỉ vừa lọt cái giường, chiếc chiếu. Ngôi nhà thấp đến nỗi anh ra vào thì đầu đụng nóc, vai chạm kèo. Vì nhà anh quá nghèo, vợ lại hay ốm đau, nên đẵn được bao nhiêu gỗ anh đều phải bán rẻ mới kịp mua thuốc cho vợ, mua gạo cho mình. Vì vậy người vợ thường phàn nàn: - Mình có đốn hết gỗ trong rừng cũng chẳng “đủ” làm một cái nhà ba gian. Người thợ rừng cũng biết đời mình không sao tránh khỏi điều vợ lo. Nhưng không có cách nào thoát được cảnh bữa sáng lo bữa chiều. Lúc vợ có chửa được bảy tháng, anh thợ rừng đi đốn gỗ về đóng cho vợ một cái giường. Cây gỗ không to, anh mới chặt ba nhát búa mà nó đã chuyển mình sắp ngã. Không may, một luồng gió thổi đến rất mạnh, cây gỗ ngã trái chiều. Anh thợ rừng tránh không kịp, bị gỗ đè gẫy cả hai tay. Thế là mọi việc đều đổ lên đầu người vợ ốm, đang có mang. Chị chạy khắp đầu làng cuối xóm vay mượn về nuôi chồng. Nhưng bạn nghèo thì không có, còn người có của thì chẳng thương người nghèo. Vợ người thờ rừng phải ra sông bắt hến nuôi chồng bữa cháo bữa rau. Nước sông khá sâu, chị phải ngâm mình dướin nước cả ngày mới bắt được một bữa hến. Một hôm, trời mưa trên nguồn rất lớn, chị đang lăn ngụp giữa sông thị nước nguồn về cuốn chị đi. May sao, chị vớ được một cây chuối lở gốc trôi giữa dòng mới thoát chết, nhưng về đến nhà thì chị đẻ. Nhà anh thợ rừng càng khổ cực hơn, chồng không làm gì được, vợ ốm nặng, đức con trai đẻ thiếu tháng không lúc nào được bú no sữa mẹ. Thằng bé không chết nhưng càng lớn càng gầy còm; mãi đến năm mười bảy tuổi mà người khẳng khiu như cái gậy, xương bọc da, đầu gối to hơn bắp đùi. Khi ngồi đầu gối cao quá vai, tóc trên đầu thưa như lông chân, người lùng nhùng, khi đã ngồi xuống rồi thì không muốn đứng lên. Vợ chồng anh thợ rừng thương con, nên dù nhà nghèo nhưng không bắt con làm gì. Họ đặt tên cho con là Gầy. Một hôm, Gầy cầm cần câu ra sân ngồi dưới một gốc cây sung câu cá. Gặp hôm cá cắn, mới ngồi chưa nóng chỗ mà em đã câu được mấy con cá to. Đói ăn đã lâu, thấy mấy con cá tươi ngon, em liền lấy củi nhóm lửa tại gốc sung nướng cá ăn. Lúc ấy mặt trời lên được nửa buổi, gió thổi mạnh hắt bóng ngọn lửa xuống dòng sông, một con cá con ở dưới nước vọt lên nhìn, bị con chim bói cá rình trên cây đớp được. Sẵn củi để bên, Gầy ném con chim; con chim bay vù đi thả con cá rơi lại xuống sông. Sáng hôm sau, em lại cầm cần ra chỗ cũ ngồi câu cá, nhưng vừa đến đã thấy ai bày sẵn dưới gốc cây một con cá nướng to bằng bắp chân và một rá cơm trắng. Mùi cá tươi, cơm nóng thơm nức mũi, tuy chẳng biết là của ai, nhưng từ bé đến giờ chưa bữa nào được ăn ngon như thế, nên Gầy quên câu, ngồi sà xuống ăn một mạch hết con cá nướng và rá cơm. Ăn xong, em vốc nước lên uống thì nghe tiếng người giữa sông nói lên: - Người đã ăn hết cơm hết cá, vậy là ta đã trả được ơn... Gầy ngơ ngác nhìn ra thì thấy một việc kì lạ - một vật nửa trên là người, nửa dưới là cá nhô lên khỏi mặt nước giữa sông và nói: - Ta là Thuỷ thần. Hôm qua con ta đi chơi trông thấy ngọn lửa chiếu xuống, nó nhảy lên xem thì bị loài chim dữ bắt được. Nhờ có ngươi đánh con chim dữ ấy, con ta mới thoát chết. Nay ta đền ơn... người cứ lên khỏi đây sẽ biết. Em Gầy lóp ngóp chạy lên bờ, đầu chạm phải gốc sung, gốc sung vẹo sang một bên. Một sức mạnh kì lạ đã làm cho em Gầy khoẻ lên vạn lần. Em béo lên, thịt căng ra, mắt sáng, tay chân cứng bóp không lún, tóc dày và cứng như rễ tre. Em gầy chạy một mạch về nhà. Vui mừng qua, em nhảy múa reo hò, rồi vớ lấy cái rìu của cha chém đông, chém tây, chém tả, chém hữu. Chiếc rìu nặng thế mà em cầm nhẹ như chiếc đũa bếp. Cái rìu của cha đối với em bây giờ bé nhỏ quá rồi. Nên em phải rèn một cái lưỡi rìu to bằng bốn bàn tay xoè thì mới vừa tay. Thế rồi, hàng ngày Gầy vác rìu vào rừng đẵn gỗ để nuôi cha mẹ. Năm ấy nhà vua xây dựng nhiều cung điện. Vua thuê rất nhiều thợ rừng đi đốn gỗ. Gầy xin nhập bọn thợ. Với sức khoẻ và lưỡi rìu to ấy, mỗi ngày em đẵn không biết là bao nhiêu gỗ lim, gỗ trác, gỗ mun, cây nào cũng to như cái nong, cái nia. Nhưng thấy Gầy ít tuổi, bọn thợ rừng bắt nạt, chúng ngồi chơi, hoặc chui vào bóng râm ngủ một ngày, rồi lấy gỗ của Gầy bán được đem chia nhau, chỉ cho Gầy một phần ít. Nên Gầy đẵn gỗ giỏi hơn cha gấp mười lần mà vẫn không đủ nuôi cha mẹ. Thuê đẵn gỗ xong, vua dựng đền. Ngôi đền toàn gỗ quý, cột cái to bằng cái nong, cột con bằng cái nia, xà ngang xà dọc dài hàng chục sải tay, to đến vài người ôm không xuể. Dựng cột dựng kèo xong, còn cây đòn dông to hơn cái bánh xe trâu, được ghép lại bằng năm cây gỗ lim, dài đến hơn hai mươi sải tay, nên tất cả phường thợ, cả quân lính trong triều ra giúp sức vẫn không sao đặt nổi lên ngàm cái vì kèo. Phường thợ lại cho người đến cầu khẩn Gầy. Gầy đến xin vua cho ăn một bữa cơm. Vua ra lệnh nấu một thùng gạo tẻ, một vạc canh và một con dê luộc. Ăn xong, Gầy vác hẳn một đầu cây đòn dông đặt lên vì kéo. Đặt xong một bên, Gầy đến xốc bên kia lên vai, bước theo các bậc đá đặt nốt lên. Cây đòn dông to, dài hai mươi sải, cả phường lính hì hục cả tháng không đặt lên được, còn Gầy chỉ làm chưa nhai dập miếng trầu đã xong. Vua thưởng cho Gầy ba xe lúa, bảy vò mắm và chín con dê. Gầy đem tất cả những thứ ấy về nuôi cha mẹ. Vua có một cô công chúa mặt đẹp như tranh, da trắng như ngà. Nhiều hoàng tử, vua chúa các nước đều đến hỏi làm vợ. Trước bao nhiêu người quyền cao chức trọng, giàu có như nhau, vua chưa biết nên gả cho ai, cô công chúa cũng chưa biết chọn ai. Nhưng các vua, các hoàng tử kia thì sợ mất phần, nên cũng đem quân đến đánh, cướp cô công chúa. Đất nước ngập khói ngập lửa, đâu đâu cũng có giặc. Giặc Đông, giặc Tây, giặc hô hét ở phía Nam, giặc tung hoành ở phía Bắc. Nhà vua cuống cuồng, quan văn quan võ đều run sợ, ai cũng mang vợ con đi trốn chứ chẳng ai dám ra chống giặc. Gầy liền vác rìu lên rừng đẵn một cây gỗ lim to bằng cái nia, dài chín sải, vác đi đánh giặc. Chân của Gầy bây giờ khoẻ mạnh như chân voi, đi đến đâu giặc chạy tan tác đến đó. Gầy đi từ Nam ra Bắc, vác gậy lao thẳng vào giữa quân giặc mà quật. Cây gỗ của Gầy quật xuống một nhát, quân giặc chết có đến nghìn người. Xác giặc chết như trâu, đứa chưa chết thì lạy lục xin tha, đứa ở xa thì đều cắm đầu cắm cổ chạy. Gầy đánh tan được giặc ở phía Nam, phía Bắc, thì lũ giặc phía Đông phía Tây đã rùng mình. Sợ sức khỏe kì lạ của Gầy, chúng dẫn nhau chạy hết về nước. Gầy có công lớn, được vua rước về gả công chúa, phong cho làm tướng. Bọn vua và bọn công tử các nước nghe con anh thợ rừng cưới được công chúa thì tức đến vỡ mặt, nhưng sợ oai ông tướng Gầy, chẳng ai dám bén mảng đến nửa. Từ đó, nhà người thợ rừng mới hết khổ.
Sự tích ông đầu rau Ngày xưa, có hai vợ chồng son nhà nghèo. Họ đều sinh nhai bằng nghề làm thuê làm mướn. Tuy nghèo nhưng họ rất yêu nhau. Thường buổi tối sau khi đi làm về, hai vợ chồng ngồi bên bếp lửa hay dưới ánh trăng kể cho nhau những chuyện xa gần mới nghe được, hay hát những câu tình duyên, có khi vui vẻ quên cả cơm nước. Một năm trời làm mất mùa, hạt gạo kiếm rất khó khăn. Tình trạng đói kém diễn ra khắp mọi miền. Hai vợ chồng theo lệ cũ đi tìm việc ở các nhà giàu nhưng chả mấy ai thuê nữa. Người vay công lĩnh nợ thì đông mà gạo rất khan hiếm nên khó chen vào lọt. Hơn nữa, cổng mấy lão trọc phú lại thường đóng chặt vì chúng không muốn cho ai quấy nhiễu. Túng thế hai vợ chồng phải đi mò cua bắt ốc, hoặc đào củ, hái rau về ăn. Tuy có đỡ phần nào nhưng tình thế vẫn không mảy may sáng sủa. Cái chết luôn luôn đe dọa họ vì trận đói còn kéo dài. Một buổi chiều, sau khi húp vội mấy bát canh rau má, chồng bảo vợ: - Tôi phải đi một nơi khác kiếm ăn, không thể ở nhà được. Nghe chồng nói, người đàn bà đòi đi theo để sống chết cho có bạn. Nhưng người chồng bảo: - Tôi chưa biết sẽ đi đến đâu và sẽ phải làm những gì. Nàng ở nhà dễ sống hơn tôi, không nên theo làm gì cho vất vả. Chưa biết chừng tôi sẽ nằm lại dọc đường để cho loài chim đến than khóc. Nhưng cũng chưa biết chừng tôi lại mang những quan tiền tốt bó mo về đây nuôi nàng cũng nên! Chao ôi! Số mệnh! Nàng hãy chờ tôi trong ba năm, nghe! Hết ba năm không thấy tôi trở về ấy là tôi đã bỏ xác quê người. Nàng cứ việc đi lấy chồng khác. Người vợ khóc lóc thảm thiết như đứng trước cảnh tang tóc thực sự. Nhưng không biết làm thế nào cả, nàng đành phải để chồng ra đi. Sau khi tiễn chồng, người đàn bà kiếm được việc làm ở một nhà kia. Nhà họ không giàu gì nhưng thương cảnh ngộ nàng, có ý giúp đỡ cho qua những ngày thảm đạm. Ở đây, người đàn bà kiếm mỗi ngày hai bữa, trong đó có một bữa cháo bữa khoai. Nhờ lanh lẹn và xinh xắn nên nàng lấy được cảm tình của chủ. Nhưng hình dáng người chồng thân yêu không bao giờ phai nhạt trong tâm trí nàng. Thời gian trôi nhanh như nước chảy. Người ta đã bớt nhắc đến trận đói khốc liệt vừa qua. Nàng thì ngày ngày hồi hộp chờ đợi chồng. Nhưng cây bưởi trước sân đã ba lần trổ hoa mà chồng nàng vẫn không thấy tăm dạng. Giữa lúc ấy người chủ đã từng bao bọc nàng trong lúc đói, vừa chết vợ. Sẵn có cảm tình với nàng, người ấy ngỏ ý muốn được nối duyên cùng nàng. Nhưng người ấy đâu có hiểu được lòng của người thiếu phụ. Câu trả lời của nàng là: - Chồng tôi hẹn tôi trong ba năm sẽ về. Đến bây giờ tôi mới tin là chồng tôi đã chết. Vậy cho tôi để tang chồng trong ba năm cho trọn đạo. Ba năm nữa lại trôi qua một cách chóng vánh. Không một nét chữ, một lời đồn về người xấu số. Hàng ngày, những buổi chiều tà, nàng vẫn đăm đăm nhìn bóng người đi lại trên con đường cái quan. Và rồi nàng khóc cạn cả nước mắt. Người đàn ông kia giục nàng quyết định: - Một là chồng nàng đã chết, hai là còn sống nhưng đã lập một gia đình khác ở một nơi xa xôi hẻo lánh. Đằng nào nàng cũng khó mong tái hợp. Âu là cùng tôi lập một gia đình mới. Sức của tôi và của của tôi đủ bảo đảm cho nàng sung sướng trọn đời. Nàng sửa lại vành khăn trắng đã ngả màu, cảm ơn hậu tình của anh ta và xin rốn chờ cho một năm nữa. Một năm nữa lại trôi qua không mang lại một tin tức gì mới mẻ. Lần này nàng mới tin là chồng mình chết thật. Sau một bữa rượu cúng chồng và đãi họ hàng làng xóm, nàng đến ở cùng người chồng mới. Đột nhiên sau đó ba tháng, người chồng cũ xách khăn gói trở về quê hương. Chàng không có vẻ gì khấm khá hơn trước. Chàng chỉ ôm một hy vọng là được gặp lại người vợ yêu. Nhưng vườn cũ nay đã thuộc về chủ mới. Chàng lẩm bẩm: "Thế là hết. Bởi số cả!". Việc người đàn ông đột ngột trở về làm cho mọi người ngơ ngác. Nhất là đôi vợ chồng mới cưới không biết ăn nói làm sao bây giờ. Người đàn bà xấu hổ không dám dàn mặt. Nhưng người chồng cũ đã tìm đến họ và an ủi họ. - Tôi đi vắng lâu quá. Cái đó hoàn toàn là lỗi ở tôi. Nàng xử sự như thế rất đúng. Tôi chỉ cần về gặp nàng một chút. Thế là đủ. Bây giờ tôi sẽ đi khỏi nơi này mãi mãi. Mặc dầu người vợ nài nỉ hết sức, mặc dầu người chồng mới đoan xin trả lại vợ, nhưng chàng nhất quyết dứt áo ra đi. Chàng không nỡ phá hạnh phúc của họ. Mà chàng cũng không có gan đi đâu xa vì không thể quên được vợ cũ. Băn khoăn dằn vặt hành hạ tâm trí chàng. Đầu óc rối như mớ bòng bong. Chàng nghĩ đến cái chết và trong một lúc cuồng loạn, chàng tự treo cổ lên cây đa đầu làng. Cái chết kinh khủng đó như một tiếng sét nổ vào đầu người đàn bà. Nàng cảm thấy chính mình là thủ phạm gây ra cái chết của người chồng cũ. Tại sao ta chờ chồng được bảy năm trời mà không rán chờ thêm ít lâu nữa? Tại sao thấy chồng trở về, ta không dám giáp mặt? Nàng không tự chủ được nữa. Tất cả những câu hỏi như lên án một cách âm thầm nhưng kịch liệt trong đầu óc nàng. Thế rồi buổi sáng hôm sau, trong khi người ta sắp sửa cất đám người đàn ông bạc mệnh thì người ta lại hoảng hốt kéo nhau đi vớt tử thi người đàn bà dưới cái ao bên cạnh nhà. Người chồng mới sau khi làm ma cho vợ, trở nên như người mất trí. Hai cái chết đánh mạnh vào đầu óc mọi người, riêng đối với chàng chưa bao giờ có một sự xúc động dữ dội đến như thế. Chàng luôn miệng kêu to: "Tại sao ta cố ý cướp vợ của người khác". Rồi một hôm, sau khi đem hết gia sản chia cho họ hàng và cúng vào chùa, chàng uống thuốc độc tự tử. Lúc xuống đến thế giới bên kia, cả ba người đều được đưa tới trước tòa án của Diêm vương để định công luận tội. Tất cả mọi người một khi đã đến đây đều phải khai rõ sự thật ôm ấp trong lòng. Theo lời khai của người chồng cũ thì chàng không thể nào xa lìa vợ cũ. Chàng sở dĩ chết ở làng là chỉ mong luôn luôn được gần gũi nàng. Người chồng mới cũng khai rằng chàng có cảm tình rất sâu xa đối với người vợ mới mặc dầu mới chính thức lấy nhau chỉ có ba tháng. Khi Diêm vương hỏi tình của chàng đối với người vợ cũ như thế nào thì chàng giơ ngón tay so sánh rằng một bên mười, một bên chưa được một. Đến lượt người đàn bà thì nàng thú thật rằng cái tình của nàng đối với chồng cũ choán một chỗ rộng rãi trong lòng mình, đồng thời đối với người chồng mới, nàng cũng không thể nào quên được tình cảm nồng nhiệt của chàng. Diêm vương ngồi nghe rất cảm động. Những người như thế này cũng thật hiếm có. Cần phải làm cho bộ ba ấy sống gần nhau mãi mãi. Sau một hồi lâu suy nghĩ, Diêm vương cho ba người hóa thành ba ông đầu rau để cho họ khỏi lìa nhau và để cho ngọn lửa luôn luôn đốt nóng tình yêu của họ. Đồng thời vua còn phong cho họ chức Táo quân trông nom từng bếp một, nghĩa là từng gia đình một trên trần thế.
Cô bé quàng khăn đỏ Ngày xửa ngày xưa có một cô bé mà mọi người trong gia đình đều yêu quý cô bé. Người yêu quý cô nhất là bà cô. Bà đã làm cho cô một chiếc khăn choàn đỏ rất đẹp dành cho cô bé. Cô bé yêu quý chiếc khăn đó và luôn luôn đội. Do đó, mọi người gọi cô là Cô bé quàng khăn đỏ. Cô thường đi xuyên qua rừng để sang thăm bà. Một hôm, mẹ gọi cô bé lại và nói: "Đây là bánh và nước trái cây*. Con mang biếu bà. Bà đang ốm. Bà đang ốm. Bánh và nước trái cây sẽ giúp bà mau khoẻ. Con nên đi đường chính và không lang thang trong rừng." "Mẹ đừng lo. Con sẽ nhớ lời mẹ dặn" - Cô bé hứa. Cô vẫy tay tạm biệt mẹ và lên đường. Khi cô bé vừa đi vào rừng, cô gặp ngay một con sói. Cô bé quàng khăn đỏ không biết Sói là con vật xấu, nên cô bé không sợ chó Sói. Sói nói "Chào Cô bé quàng khăn đỏ" "Chào ông Sói" - cô bé trả lời. "Cô bé đi đâu mà sớm thế?" "Tôi tới thăm bà tôi" "Trong giỏ của cô có gì vậy?" - Sói hỏi. "Trong giỏ của tôi có bánh và nước trái cây. Bà tôi bị ốm nên mẹ nhờ tôi mang những thứ đó sang biếu bà để bà mau lành bệnh." "Bà của cô sống ở đâu?" - Sói hỏi tiếp. "Nhà bà tôi nằm ở dưới 3 cây sồi già trong rừng" Sói nghĩ bụng "Ta sẽ bắt cả hai bà cháu." Rồi Sói đi cùng cô bé. Trên đường đi, Sói nói: "Cô bé có nhìn thấy những bông hoa rất đẹp ở đằng kia không? Và cô có nghe thấy tiếng chim hót líu lo không? Cô có thể dừng lại, đi hái hoa và nghe chim hót thay vì đi thẳng tới nhà bà." Sau đó, con Sói tạm biệt Cô bé quàng khưn đỏ và nhanh chóng đi thẳng tới túp lều của bà. Cô bé quàng khăn đỏ nghĩ tới gợi ý của chó sói và dừng lại nhìn xung quanh. Cánh rừng quả thật là một nơi có nhiều điều hấp dẫn. Những tia nắng nhảy nhót trên cành. Hoa mọc ở khắp nơi, chim hót líu lo. Cô bé nghĩ: "Mình sẽ hái một bó hoa tặng bà. Bà sẽ ngạc nhiên và rất vui." Cô bé bước khỏi đường chính, và càng ngày cô càng đi xa để hái những bông hoa đẹp nhất tặng bà. Trong lúc đó, chó sói đã tới ngôi nhà của bà. Nó gõ cửa: "Ai đó?" - Bà hỏi. Chó sói giả giọng cô bé quàng khăn đỏ: "Cháu là cô bé quàng khăn đỏ đây ạ! Cháu mang bánh và nước trái cây mời bà." "Cháu mở cửa vào đi. Bà mệt lắm, bà không mở cửa cho cháu được." - Bà nói. Chó sói biết cách mở cửa và đi vào trong nhà. Không nói câu nào, chó sói tới thẳng giường Bà và nuốt chửng bà vào bụng. Sau đó, Sói mặc quần áo của bà và đội chiếc mũ ngủ che kín mắt. Sói lên giường của Bà, kéo gièm và nằm chờ Cô bé quàng khăn đỏ. Trong lúc đó, cô bé quàng khăn đỏ đang thơ thẩn trong rừng để hái những bông hoa đẹp nhất. Khi cô bé hái được một bó hoa đẹp, cô bé bắt đầu quay trở lại đường chính để mang bánh và nước trái cây cho bà. Tới nhà bà, cô bé thật ngạc nhiên vì thấy cửa mở. Cô bé bước vào phòng, cô cảm thấy có người lạ trong nhà bà. Cô gọi to "Bà ơi", nhưng không có tiếng trả lời. Cô tới cạnh giường bà, kéo gièm. Bà cô nằm đắp chăn che gần kín mặt và trông rất lạ. "Bà ơi, sao tai bà to thế?" "Tai bà to để bà nghe cháu nói rõ hơn." "Bà ơi, sao mắt bà to thế?" "Mắt bà to để bà nhìn cháu rõ hơn". "Bà ơi, sao tay bà to thế?" "Tay bà to để bà ôm cháu chặt hơn" "Nhưng bà ơi, sao mồm bà to thế?" "Mồm ta to để ăn thịt mi dễ hơn" Nói dứt lời, sói nhảy ra khỏi giường và nuốt chửng cô bé quàng khăn đỏ. Sau đó, Sói trèo lên giường nằm ngủ và ngáy rất to làm căn nhà rung chuyển. Một bác thợ săn đi ngang qua ngôi nhà và nhủ thầm "Sao hôm nay Bà lại ngáy to thế nhỉ? Mình phải vào trong nhà xem có chuyện gì xảy ra." Bác thợ săn bước vào nhà, và khi bác tới cạnh giường, bác nhìn thấy chó sói đang nằm trên đó. "Con sói gian ác. Ta đã tìm kiếm mi trong một thời gian dài, bây giờ lại gặp ngươi ở đây." Bác thợ săn định đốt con Sói, nhưng bác chợt nghĩ rằng có thể con sói đã nuốt chửng Bà, và bác cần cứu Bà. Do đó, bác không đốt Sói nữa mà cầm kéo mở bụng chó sói. Khi dùng hai nhát kéo, bác thợ săn nhìn thấy cô bé quàng khăn đỏ. Thêm hai nhát kéo nữa, bác thợ săn lôi cô bé quàng khăn đỏ ra khỏi bụng chó sói. Cô bé quàng khăn đỏ khóc: "Cháu sợ qúa! Trong bụng chó sói tối lắm." Bác thợ săn tiếp tục mở bụng chó sói và đưa bà của cô bé quàng khăn đỏ ra ngoài. Bà không được khoẻ. Cô bé quàng khăn đỏ đặt một ít đá và bỏ vào bụng chó sói. Khi chó sói tỉnh dậy, nó bỏ chạy vì nhìn thấy bác thợ săn. Nhưng chó sói không chạy được vì đá quá nặng khiến nó ngã xuống sàn. Cô bé quàng khăn đỏ và bác thợ săn đưa Bà lên giường. Cô bé lấy bánh và nước trái cây cho bà, Bà dần dần hồi phục. Còn cô bé quàng khăn đỏ tự hứa "Mình sẽ không bao giờ rời khỏi đường chính nữa." Và cô bé đã giữ lời hứa. *Nguyên gốc bản dịch của truyện cổ Grim là bánh và rượu. Nhưng chúng tôi xin phép thay đổi thành bánh và nước trái cây. Nguồn: fln.vcu.edu Biên dịch: Ngô Thu Hiền
Học rùng mình Xưa có người có hai con trai. Con trai lớn thông minh, khôn ngoan, gặp khó khăn đến đâu cũng biết đường xoay xở. Còn em thì ngốc nghếch, không biết gì, học gì cũng chẳng vào. Ai cũng phải kêu: "Thằng này chỉ ăn hại bố". Việc gì cũng đến người anh làm cả. Nhưng anh lại có tính dát. Tối đến, bố sai đi lấy cái gì mà phải qua bãi tha ma hay nơi nào rùng rợn là anh ta từ chối: "Con chịu thôi, bố ạ. Con run lắm, con không đi đâu". Buổi tối, người nhà ngồi sưởi thường kể những chuyện sởn vẩy ốc, thỉnh thoảng có người nói: "Rùng cả mình". Người em ngồi một xó chẳng hiểu gì nghĩ bụng: - Họ cứ nói mãi: "Rùng cả mình! Rùng cả mình!". Mình chẳng thấy rùng mình gì cả. Hẳn đó là một thuật mà mình không biết tí gì. Một hôm, ông bố bảo người em: - Này, bây giờ con đã lớn, lại khỏe mạnh, con phải đi học lấy một nghề mà kiếm ăn. Trông anh con đấy, nó chịu khó như thế, mà con thì chả được việc gì. Anh ta đáp: - Thưa bố, con định học lấy một nghề. Con không biết rùng mình. Nếu bố bằng lòng thì con xin học nghề ấy. Người anh nghe thấy em nói thế, cười và nghĩ thầm: - Trời ơi, thép xấu thì uốn sao thành được lưỡi câu. Ông bố thở dài, nói: - Chắc con sẽ học được rùng mình thôi, nhưng nghề ấy thì kiếm ăn làm sao được. Sau đó ít lâu, một hôm, người coi nhà thờ đến chơi nhà. Ông bố kể cho khách nghe nỗi khổ tâm của mình vì con út ngốc nghếch, không biết làm gì, học gì cũng không vào. Ông nói: - Đấy, ông xem, tôi hỏi nó muốn học nghề gì kiếm ăn, thì nó bảo muốn học rùng mình. Ông khách đáp: - Nếu chỉ học có thế thôi, thì tôi xin dạy cho nó ngay. Ông cho nó lại đằng tôi, tôi làm cho nó bớt ngốc đi cũng chóng thôi. Ông bố những mong cho con hết ngớ ngẩn, đồng ý ngay. Thế là chú ngốc đến nhà thờ làm công việc kéo chuông. Vài hôm sau, vào khoảng nửa đêm, thầy đánh thức tớ dậy sai lên gác kéo chuông. Ông nghĩ bụng: "Mi sắp học được rùng mình đến nơi đây". Ông lẻn lên gác chuông trước. Khi anh ngốc trèo lên đến nơi, quay lại sắp cầm dây chuông, thì thấy một cái bóng trắng trên cầu thang, gần chỗ treo chuông. Anh ta quát lên: - Ai đó? Nhưng cái bóng cứ đứng im, không đáp mà cũng không nhúc nhích. Anh ta lại quát: - Muốn sống nói mau, không thì bước ngay! Đêm khuya, có việc gì mà đến đây? Nhưng người coi nhà thờ vẫn không động đậy để anh ngốc tưởng là ma. Anh ngốc lại thét lên: - Mi đến đây làm gì? Nếu mi là người ngay thì nói lên, nhược bằng không thì ta quẳng xuống chân cầu thang bây giờ. Người coi nhà thờ nghĩ bụng: "Nó chẳng dám đâu", nên cứ đứng im. Hỏi đến lần thứ ba cũng không thấy trả lời, anh ngốc lấy đà, du con ma xuống chân cầu thang. Ma lăn qua mười bậc, rồi nằm sóng sượt ở một xó. Anh ngốc kéo chuông xong, lẳng lặng đi xuống nằm ngủ kỹ. Vợ người coi nhà thờ chờ mãi không thấy chồng về, đâm lo, đi đánh thức anh ngốc dậy hỏi: - Mi có biết ông nhà ở đâu không? Ông lên gác chuông trước mi đấy mà! Anh ta đáp: - Thưa bà không ạ. Nhưng ở gần chỗ gác chuông thấp thoáng có bóng người, con hỏi mãi không nói, đuổi cũng không đi, con cho là ăn trộm, liền đẩy xuống chân cầu thang. Bà thử lên xem có phải ông nhà không. Nếu phải thì con thật ân hận. Vợ vội lên thì thấy chồng gẫy chân nằm ở xó cầu thang rên rỉ. Bà cõng chồng xuống, rồi đến nhà bố chú ngốc, làm om lên: - Con ông gây tai vạ, nó đẩy ông nhà tôi xuống chân cầu thang, làm gãy mất một chân. Xin ông rước đồ ăn hại ấy ra khỏi nhà tôi đi. Ông bố choáng người chạy bổ đến, mắng con một trận rồi bảo: - Sao con lại nghịch quái ác thế? Quỉ ám con hay sao? Con đáp: - Thưa bố, bố hãy nghe con. Quả thật con oan, giữa đêm mà ông ấy đứng đó như tính chuyện gì đen tối, con không biết là ai. Con đã bảo ông ấy ba lần là hãy lên tiếng nếu không thì đi đi cơ mà. Ông bố đáp: - Trời ơi, con chỉ làm khổ bố. Bước đi cho khuất mắt ta, ta không muốn thấy mặt con nữa. Con nói: - Con xin vâng lời bố. Nhưng bố hãy để sáng trời đã. Con sẽ đi học thuật rùng mình để kiếm ăn. Bố nói: - Con muốn học nghề gì thì mặc xác. Đây ta cho con năm mươi đồng tiền mà đi chu du thiên hạ, nhưng chớ có cho ai biết là quê ở đâu và tên bố làm gì, mà nhọ mặt ta. Con nói: - Thưa bố, bố muốn sao, con xin làm vậy. Nếu chỉ có thế thì cũng dễ nhớ thôi. Anh ta bỏ vào túi năm mươi đồng tiền, rồi sáng sớm ra đường cái đi, lẩm bẩm luôn mồm: "Ước gì ta biết được rùng mình, ước gì ta học được rùng mình...". Một người đánh xe đi qua nghe thấy, liền hỏi: - Tên anh là gì? - Tôi không biết. Người đánh xe lại hỏi: - Anh ở đâu đến? - Tôi không biết. - Cha anh là ai? - Tôi không thể nói được. - Anh cứ luôn mồm lẩm bẩm cái gì thế? - Ấy, tôi muốn học rùng mình mà chẳng ai dạy cho. - Thôi đừng nói lẩn thẩn mãi, đi theo tôi, tôi tìm chỗ cho mà ngủ. Hai người cùng đi, đến tối thì tới một quán trọ, định ngủ lại đó. Vào hàng, anh ta lại nói bô bô lên: - Ước gì tôi biết được rùng mình, ước gì tôi học được rùng mình. Chủ quán nghe nói bật cười bảo: - Anh thèm khát cái đó thì đến đây vừa đúng lúc đấy. Vợ chủ quán ngắt lời chồng: - Chà, mặc người ta. Lắm cu cậu ngổ ngáo đã toi mạng. Nếu đôi mắt xinh đẹp kia mà không còn được nhìn ánh sáng nữa thì thật đáng tiếc. Anh ta nói: - Tôi đã cất công ra đi là để cốt học môn ấy, thì dù khó đến đâu tôi cũng chẳng quản. Anh ta quấy rầy mãi, ông chủ quán phải kể cho nghe rằng ở gần đây có một lâu đài có ma, chỉ ngủ đấy ba đêm liền khắc biết thế nào là rùng mình. Vua đã hứa ai cả gan làm việc ấy, sẽ gả công chúa cho. Trong lâu đài lại có cả vàng bạc châu báu do mà quỉ giữ, ai lấy được tha hồ mà giàu. Đã có nhiều người vào, nhưng không thấy một ai trở ra. Sáng hôm sau, anh đến yết kiến vua, tâu: "Nếu bệ hạ cho phép, tôi xin ngủ ba đêm ở lâu đài có ma". Vua ngắm anh ta hồi lâu, thấy anh ta có duyên, bèn bảo: - Ta cho phép nhà ngươi mang theo vào lâu đài ba đồ vật chứ không được mang sinh vật. Anh nói: - Tôi xin cái gì để đốt lửa sưởi, một bàn thợ tiện và một ghế thợ chạm có dao. Ban ngày, vua sai người mang những thứ đó đến lâu đài. Chập tối thì anh đến, đốt một đống lửa to trong một gian phòng, đặt dao cạnh ghế thợ chạm, và ngồi bên bàn thợ tiện. Anh nói: - Ước gì ta biết rùng mình! Nhưng ở đây rồi cũng đến toi công thôi. Nửa đêm, anh định thổi cho lửa bùng lên, chợt thấy tiếng kêu ở góc buồng: "Meo! Meo! Bọn mình rét đến buốt xương". Anh nói: - Đồ chúng bay ngốc quá! Sao lại kêu như thế? Có rét thì lại đây mà sưởi. Anh vừa dứt lời thì có hai con mèo to tướng nhảy vọt đến ngồi chồm chỗm hai bên anh, quắc mắt bừng như lửa nhìn anh một cách dữ tợn. Lát sau, chúng sưởi đã ấm người, bảo anh: - Mày có muốn chơi bài không? Anh đáp: - Có chứ. Nhưng các cậu hãy cho tớ xem chân đã. Hai con mèo giơ móng ra. Anh nói: - Ôi chao, móng các cậu dài quá. Hẵng gượm, để tớ cắt bớt đi cái đã. Thế là anh tóm cổ chúng, đặt chúng lên ghế thợ chạm và cho chân chúng vào kẹp, rồi nói: - Chân các cậu làm tớ mất cả hứng chơi bài với các cậu. Anh giết chúng, rồi quẳng xác qua cửa sổ xuống nước. Anh vừa làm xong, sắp quay về ngồi bên lửa, thì thấy rất nhiều mèo đen, chó mực đeo xích sắt nung đỏ, từ bốn bề xông đến, mỗi lúc một đông, anh không biết đứng vào chỗ nào nữa. Chúng cất tiếng kêu ghê gớm, chực dập đống lửa cho tắt. Anh để mặc chúng làm ồn một lúc. Nhưng khi anh thấy chúng hăng quá, anh bèn lấy dao ra, xông vào quát lên: "Đi ngay!". Một số con chạy trốn, anh giết những con còn lại, quẳng xác qua cửa sổ. Rồi anh lại về chỗ đống lửa, thổi lên để sưởi. Lát sau, anh buồn ngủ díp mắt lại. Anh nhìn quanh thì thấy ở góc phòng có một cái giường to. Anh nói: "May quá", rồi lên giường nằm. Anh vừa nhắm mắt thì thấy giường rung chuyển chạy khắp lâu đài. Anh nói: - Được lắm, cứ việc mà tế lên nữa đi. Giường chạy nhanh như xe tứ mã nhảy qua ngưỡng cửa cầu thang và xông vào các phòng. Bỗng giường vấp, làm đổ lổng chổng mọi thứ lên người anh. Anh gỡ mình ra, quẳng cả chăn gối, nói: "Bây giờ đứa nào muốn nằm giường thì đi mà nằm!", rồi lại bên đống lửa ngủ đến sáng. Sớm hôm sau, vua đến lâu đài, thấy anh nằm dài dưới đất ngỡ là anh đã bị ma giết. Vua than: - Anh chàng xinh trai này chết thật uổng quá. Anh nghe tiếng nhổm dậy, nói: - Tâu bệ hạ, chưa đến nỗi thế ạ. Vua ngạc nhiên đên vui mừng, hỏi anh về chuyện xảy ra đêm qua. Anh đáp: - Tâu bệ hạ rất bình yên. Thế là được một đêm, còn hai đêm nữa rồi cũng đến thế thôi ạ. Khi anh về quán trọ, chủ quán trố mắt ra nhìn, nói: - Tôi không ngờ anh còn sống. Thế anh đã học được rùng mình chưa? Anh đáp: - Khổ lắm, chỉ mất công toi. Giá ai dạy cho tôi thì hay quá. Tối đến, anh lại đên tòa lâu đài cổ để ngủ đêm thứ hai. Anh đến ngồi bên lửa rồi lại nói lải nhải: "Ước gì ta biết rùng mình!". Nửa đêm, anh thấy tiếng động, trước còn khe khẽ, rồi to dần, sau rõ hẳn. Im một lát, sau có tiếng thét lớn, một nửa thân người rơi từ ống khói lò sưởi xuống trước mặt anh. Anh kêu lên: - Còn nửa nữa đâu? Thế là có tiếng ầm ầm, rồi nửa nữa hiện ra, đồng thời có những tiếng hú và tiếng rên. Anh nói: - Chờ một tí, rồi ta thổi lửa cho mà sưởi. Sau khi đã nhóm lửa, anh ngoảnh mặt lại thì thấy hai nửa người ban nãy đã liền lại với nhau thành một người ghê gớm ngồi vào chỗ của anh. Anh nói: - Không phải là chuyện thách thức nhau đâu, ghế này là ghế của ta chứ. Người ấy định cứ ngồi lì ở đấy, nhưng anh hẩy mạnh nó ra, chiếm lại chỗ cũ. Rồi có nhiều người khác cứ lần lượt rơi từ ống khói lò sưởi xuống. Chúng mang đến chín xương ống chân và hai đầu lâu để chơi ki với nhau. Anh cũng muốn chơi, liền bảo: - Này các cậu cho tớ chơi với nhé. - Được thôi nhưng phải có tiền. Anh đáp: - Tiền thì có đủ, nhưng những hòn lăn của các cậu không được tròn lắm. Rồi anh để mấy cái đầu lâu lên bàn tiện mà tiện lại cho thật tròn. Anh nói: - Như thế này nó lăn dễ hơn. Bây giờ ta tha hồ mà chơi. Anh chơi và thua mất ít tiền. Khi đồng hồ đánh mười hai tiếng, tất cả bọn người kia biến mất. Anh nằm lăn ra đất, ngủ yên đến sáng. Sớm hôm sau, vua lại đến hỏi thăm việc đã xảy ra đêm hôm trước. Anh nói: - Tâu bệ hạ, tôi đã đánh ki và thua mất ít tiền. Vua hỏi: - Nhà ngươi có thấy rùng mình không? Anh đáp: - Thưa không ạ. Tôi đánh vui lắm. Tôi chỉ ước gì biết thế nào là rùng mình. Đêm thứ ba, anh lại ngồi ở ghế dài mà phàn nàn: "Ta muốn biết rùng mình mà chẳng được". Đến khuya, sáu người khổng lồ khênh một cỗ quan tài hiện ra. Anh liền nói: - Hừ! Chắc đây là em họ mình mới chết được vài hôm nay. Anh ta đưa ngón tay ra hiệu gọi: "Lại đây, chú em ơi!". Sau khi sáu người kia đặt quan tài xuống, anh tới giở tấm ván thiên lên xem thì thấy xác một người. Anh sờ vào mặt người chết thấy lạnh giá. Anh nói: "Để tôi sưởi cho chú một tí". Anh về chỗ đống lửa, hơ nóng tay, rồi ấp vào mặt người chết. Nhưng người chết vẫn lạnh như đồng. Anh khiêng người chết ra, đem lại gần đống lửa, cho ngồi vào lòng, xát hai cánh tay vào cho máu lại tuần hoàn. Thấy thế cũng không ăn thua, anh nghĩ rằng hai người nằm chung một giường chắc ấm hơn. Anh bèn đặt xác chết lên giường, lấy chăn phủ lên, rồi nằm kề bên cạnh. Lát sau, người chết đã ấm, bắt đầu cựa quậy. Anh liền nói: - Thấy chưa, chú nó ơi. nếu anh không sưởi ấm cho chú thì chú đã đi đứt rồi nhé. Người chết liền quát lên: - Ta sắp bóp cổ mi đây. Anh nói: - Sao! Mi giả nghĩa ta như thế à? Ta lại bỏ mày vào săng ngay vậy. Tức thì anh nhấc nó lên ném vào săng, đóng nắp lại. Thế là sáu người ban nãy lại đến khiêng cái săng đi ngay. Anh nói: - Nhất định ở đây ta không thể học được rùng mình. Vừa lúc đó, một lão khổng lồ tóc bạc râu dài có vẻ hung dữ bước vào. Lão nói: - Tên kia, mi sắp được biết thế nào là rùng mình, vì mi sắp chết! Anh đáp: - Đâu lại chóng thế? Còn xem ta có muốn chết không mới được chứ. Con quái đáp: - Mi có bằng lòng hay không, ta cũng sắp bắt mày đây. Anh nói: - Khoan, khoan, mi đừng có làm bộ. Ta cũng khỏe bằng mi, có khi còn khỏe hơn kia đấy. Con quái nói: - Ừ để xem sao, nếu mi khỏe hơn ta, ta sẽ để cho mi yên. Nào, ta đấu sức đi. Nó dẫn anh qua những lối tối tăm đến một lò rèn, lấy một chiếc búa, đập lên đe, đe thụt hẳn xuống đất. Anh nói: - Ta đập còn khỏe hơn mi. Anh đi đến một cái đe khác. Con quái đứng sát ngay bên cạnh đe để biết sức đập mạnh đến đâu. Bộ râu bạc hắn thõng xuống lòng thòng. Anh vớ lấy búa, nện mạnh xuống đe, lôi cả râu bạc của nó vào đó. Anh nói: - Bây giờ ta tóm được mi rồi, thế là mi sắp phải chết. Tức thì anh cầm thanh sắt đánh cho nó một chập. Nó rên rỉ van lạy anh tha cho nó, nó sẽ cho nhiều của. Anh nhấc búa lên để nó ra. Nó dẫn anh về lâu đài, đưa anh vào một cái hầm, trỏ cho anh ba tráp đầy vàng, và bảo: - Một tráp dành cho kẻ nghèo, tráp thứ hai cho vua, tráp thứ ba cho anh. Bây giờ, đồng hồ vừa đánh nửa đêm. Lão kia biến mất. Còn anh ở lại trong đêm tối. Anh nghĩ bụng: "Ta phải lần đường ra". Sờ soạng hồi lâu lại thấy buồng cũ anh liền nằm ngủ bên đống lửa. Sớm hôm sau, vua lại đến hỏi anh: - Chắc ngươi đã rùng mình được rồi chứ? Anh đáp: - Như vậy thực là hay, nhưng tôi vẫn chưa biết thế nào là rùng mình. Người ta lấy ở hầm lên chỗ vàng mà con quái vật biếu anh. Lễ cưới được cử hành. Tuy vui duyên mới, vị phò mã vẫn cứ nói lải nhải: "Ước gì ta biết rùng mình!". Công chúa thấy chồng nói dai, đâm ra bực mình. Thị tỳ tâu với công chúa: - Con sẽ xin giúp một tay làm cho phò mã rùng mình. Ả ta ra con suối chảy qua vườn thượng uyển lấy một thùng nước đầy cá bống mang về cung. Đêm ấy, phò mã đang ngủ say, công chúa khẽ kéo chăn ra, đổ thùng nước lạnh đầy cá lên người chồng. Cá quẫy khắp lên người, phò mã choàng dậy, reo lên: - Mình ơi, tôi rùng mình quá thể. Thế là tôi đã biết thế nào là rùng mình rồi. Nguồn: Làng Xì trum ST: Thu Hiền
Vua Quạ Ngày xưa có một ông vua sinh được một cô con gái đẹp tuyệt trần, nhưng kiêu căng ngạo ngược. Ai đến hỏi cô làm vợ, cô cũng chê bai giễu cợt. Một hôm, vua mở tiệc mời tất cả những ai muốn làm phò mã đến và xếp đặt chỗ ngồi theo thứ bậc: trước hết là vua, rồi đến các ông hoàng, các vị công tước, các nhà hiệp sĩ, sau cùng là các nhà quí phái thường. Họ đều được giới thiệu với công chúa, nhưng người nào nàng cũng chê tật nọ tật kia. Người này thì béo quá, như "thùng rượu", người kia thì "cao kều chẳng ra cái điệu bộ gì". Người thứ ba thì "béo lùn, đến là thô", người thứ tư "trắng bệch như xác chết", người thứ năm thì "đỏ như gà sống", người thứ sáu thì người không ngay ngắn "y như thanh củi tươi sấy cạnh lò". Nói tóm lại, nàng thấy ai cũng có tật cả, nhất là một ông vua ngồi ở thứ vị cao nhưng phải cái cằm quằm quặp bị nàng chế giễu táo tợn: - Trời ơi, cằm anh này như mỏ quạ! Từ đó người ta đặt tên cho ông vua cái tên là Vua Quạ. Vua cha thấy công chúa chế nhạo khinh miệt tất cả những chàng đến hỏi, giận lắm, thề sẽ gả cô cho người nào đến ăn mày đầu tiên ở cửa cung. Vài hôm sau, có gã nhạc sĩ nghèo đến hát bên cửa sổ để kiếm ít đồng tiền. Vừa nghe thấy tiếng hát, vua cho gọi gã vào. Người ấy ăn mặc rách rưới bẩn thỉu, đứng hát trước mặt vua và công chúa, rồi xin nhà vua bố thí cho ít nhiều. Vua phán: - Nhà ngươi hát hay lắm, ta sẽ gả con gái cho. Công chúa giật bắn người lên. Vua lại nói: - Ta đã thề gả con cho người ăn mày nào đến cửa ta trước nhất. Ta sẽ giữ lời thề. Công chúa van xin cũng không được. Vua cho mời thầy tu đến làm phép cưới ngay tức khắc. Công việc xong xuôi, vua bảo công chúa: - Không có thói phép đâu vợ một người ăn mày lại được ở trong cung điện, vậy con phải đi theo chồng. Người ăn mày bèn cầm tay công chúa dắt đi. Cô nàng phải đi bộ. Khi đi đến một khu rừng rộng, nàng hỏi: - Chao ôi! Khu rừng đẹp này của ai? Người ta trả lời: - Của Vua Quạ đấy. Nếu nàng lấy ông ấy thì khu rừng này đã là của nàng rồi! Nàng than: - Rõ khổ thân tôi chưa! Nếu tôi lấy Vua Quạ thì... Khi hai vợ chồng đi qua một cánh đồng cỏ, nàng lại hỏi: - Cánh đồng cỏ xanh đẹp này của ai? - Của Vua Quạ đấy. Nếu nàng lấy nhà vua thì cánh đồng này là của nàng rồi! Nàng lại than: - Rõ tội nghiệp tôi chưa! Nếu tôi thuận lấy Vua Quạ thì... Khi hai vợ chồng đi đến một thành phố lớn, nàng lại hỏi: - Thành phố lớn này của ai? - Của Vua Quạ đấy. Nếu nàng lấy nhà vua thì thành phố này là của nàng rồi! Nàng than: - Rõ khổ thân tôi chưa! Nếu tôi lấy Vua Quạ thì... Anh chồng cự: - Tôi không thích cô cứ luôn mồm nói là muốn lấy một anh chồng khác. Thế cái thứ tôi không xứng hay sao? Sau cùng, hai vợ chồng đến một cái nhà nhỏ tí xíu. Vợ nói: - Trời ơi là trời! Nhà ai mà bé nhỏ tồi tàn thế này? Chồng đáp: - Đây là nhà của tôi và của cô đấy. Vợ chồng ta sẽ ở đây với nhau. Nhà thấp quá, cô ả phải cúi khom lưng mới vào được. Vợ hỏi: - Đầy tớ đâu cả? Người ăn xin đáp: - Đầy tớ à? Muốn gì thì phải làm lấy chứ. Nhóm bếp ngay đi để đun nước, nấu bữa chiều. Tôi mệt lử rồi. Công chúa không biết nhóm lửa vào bếp, chồng lại phải nhúng tay vào. Bữa ăn chẳng có gì. Ăn xong vợ chồng đi ngủ. Hôm sau, chồng đánh thức vợ dậy thật sớm sai làm việc nhà. Vợ chồng sống với nhau vài ngày như thế thì thức ăn hết sạch sành sanh. Chồng bèn bảo vợ: - Này cô, chúng mình không thể ăn dưng ngồi rồi mãi thế này, cô phải đan rổ rá mà bán. Chồng đi cắt mây về cho vợ đan. Nhưng nan rổ làm sây sát cả bàn tay mịn màng của cô.Chồng thấy vậy bảo: - Việc này cô không làm nổi rồi. Thôi cô xe chỉ có lẽ hơn. Vợ ngồi thử xe, nhưng chỉ cứa vào ngón tay mềm mại làm bật máu ra. Chồng nói: - Cô thật là đoảng. Tôi vớ phải cô cũng đến khổ. Thôi để tôi thử buôn đồ gốm cho cô ra chợ ngồi bán. Vợ nghĩ thầm: - Khổ quá! Nếu bầy tôi cha ta trông thấy ta ngồi chợ bán đồ gốm thì họ sẽ cười ta đến chết mất! Nhưng chẳng dừng được, cô ả phải đành làm vậy, nếu không thì chết đói. Lúc đầu, công việc cũng chạy vì ai thấy cô hàng xinh đẹp cũng đến mua hàng không mặc cả, thậm chí có anh trả tiền mà không lấy hàng. Hai vợ chồng sinh sống bằng tiền lãi. Hết hàng, chồng lại đi mua một mẻ về. Vợ ngồi góc chợ bày hàng bán. Bỗng một hôm có tên lính kỵ mã say rượu phóng ngựa đến, đồ gốm vỡ tan tành, cô ả sợ quá không biết làm thế nào, khóc lóc kể lể: - Trời ơi! Vận hạn khổ quá! Chồng tôi nó sẽ mắng tôi không ra gì đây. Cô chạy về nhà, kể lại cho chồng nghe. Chồng nói: - Có đời thủa nhà ai bán đồ gốm mà lại đi ngồi ở đầu chợ! Thôi đừng khóc nữa đi, cô đoảng lắm, không làm ăn gì được. Tôi đã hỏi ở cung vua xem người ta có cần hầu bếp không, thì người ta đã hứa nuôi cô cho ăn. Thế là công chúa phải đi làm hầu bếp, để đầu bếp sai bảo, làm việc nặng nhất. Chiều chiều, cô mang phần thức ăn thừa về hai vợ chồng cùng ăn, thức ăn đựng vào hai chiếc bình nhét vào túi buộc hai bên người. Bấy giờ nhân dịp cưới thái tử, người ta đang chuẩn bị đại hội. Cô ả đứng trước cửa hội trường để xem. Thấy đèn đuốc sáng choang, khách khứa ăn mặc lộng lẫy, cô xót xa cho thân phận, trách mình vì kiêu căng mà đến nỗi này. Thỉnh thoảng, những người hầu vứt cho cô ít miếng lấy ở thức ăn bưng ra bưng vào thơm phức. Cô bỏ vào bình đem về cho chồng. Chợt Hoàng tử bước vào, mình mặc đồ nhung lụa, cổ đeo dây chuyền vàng. Thấy thiếu phụ đẹp ấy đứng ở cửa, chàng cầm tay mời vào nhảy; nhưng cô sợ hãi, chối từ vì cô không nhận ra đó là ông Vua Quạ trước kia đã hỏi cô mà cô chê không thèm lấy. Cô từ chối không được, phải theo gót vua vào phòng. Bỗng cái giải buộc đứt, hai cái bình lăn ra đất, xúp đổ lênh láng và bánh vãi tung tóe. Mọi người thấy vậy cười rộ lên chế nhạo, cô thẹn quá chỉ mong độn thổ. Cô chạy ù té ra cửa để trốn, nhưng một người đuổi kịp cô ở cầu thang, lại dẫn cô vào. Cô lại nhận được ra là Vua Quạ. Vua thân ái bảo cô: - Nàng đừng sợ, người nhạc sĩ cùng ở với nàng ở căn nhà nhỏ bé tồi tàn và tôi đây chỉ là một người. Vì yêu nàng, tôi đã trá hình tạm làm người ăn xin. Người lính kỵ mã say rượu đã làm vỡ hàng của nàng cũng lại là tôi. Tôi đã làm như vậy để cho nàng hết tính kiêu căng và trị nàng về tội đã khinh miệt tôi. Cô khóc thổn thức và nói: - Em đã không phải đối với chàng lắm rồi, em không đáng làm vợ chàng đâu... Nhưng vua nói: - Em nín đi, những ngày đen tối đã qua rồi, bây giờ đôi ta làm lễ cưới. Thị nữ mang đến cho cô quần áo lộng lẫy. Vua cha và cả quần thần cũng tới chúc cô bách niên giai lão với Vua Quạ. Cuộc vui thật sự bây giờ mới bắt đầu. Ước gì tôi cùng bạn được đến dự nhỉ! Nguồn: Làng Xitrum
Cô bé hai mắt Ngày xưa, có một bà có ba cô con gái. Con lớn tên là Một Mắt vì cô chỉ có độc một mắt ở giữa trán. Cô thứ hai tên là Hai Mắt vì cô có hai mắt như mọi người khác. Cô út tên là Ba Mắt vì cô có ba mắt, mắt thứ ba cũng ở giữa trán. Cô Hai Mắt giống y như những người thường khác nên bị mẹ, chị và em không chịu được. Họ bảo cô: - Có hai mắt thì cũng chẳng hơn gì người thường, không phải là họ hàng nhà ta. Họ thấy cô đâu là xua đấy, quẳng cho cô quần áo xấu xí, chỉ cho cô thức ăn thừa, tìm đủ cách làm cho cô đau khổ. Có lần cô Hai Mắt ra đồng chăn dê, đói lắm vì chị và em cho ăn ít quá. Cô liền ngồi xuống bờ ruộng khóc lóc thảm thiết, nước mắt tuôn ra như hai dòng suối nhỏ. Khi cô ngẩng lên, cô thấy một bà đứng bên mình hỏi: - Hai Mắt, sao con lại khóc? Hai Mắt trả lời: - Con không khóc sao được? Chỉ vì con có hai mắt như người bình thường, mẹ, chị và em không chịu được, xua con từ xó này sang xó khác, quăng cho con quần áo cũ, chỉ cho con ăn cơm thừa canh cặn. Hôm nay ở nhà cho con ăn ít quá, con đói lắm. Bà lão bảo: - Hai Mắt, con hãy lau mặt đi, bà sẽ bảo con cái này để con không bị đói nữa. Con cứ việc bảo con dê cái của con: Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! Thì lập tức trước mắt con sẽ hiện ra một cái bàn xinh xắn, ở trên bày các thức ăn ngon lành, con tha hồ ăn. Sau khi con ăn no rồi, không cần đến bàn nữa, thì con chỉ việc nói: Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! Thì bàn lập tức sẽ biến mất. Sau đó, bà lão đi. Hai Mắt nghĩ bụng: "Mình phải thử ngay xem lời bà dặn có đúng không vì mình đói quá". Cô nói: Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! Nói chưa dứt lời, thì có một chiếc bàn xinh xắn phủ chiếc khăn nhỏ trắng tinh hiện ra. Trên bàn có đĩa, dao, dĩa, thìa bạc, đầy các thức ăn tuyệt ngon còn nóng, hơi lên nghi ngút như vừa bưng ở dưới bếp lên. Hai Mắt ăn uống ngon lành. No nê rồi, cô lại nói như lời bà lão dặn: Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! Lập tức chiếc bàn xinh xắn và các thứ ở trên biến mất. Hai Mắt nghĩ bụng làm nội trợ kiểu ấy thật thú vị, cô hả hê vui thích lắm. Buổi tối, cô chăn dê về nhà, thấy có chiếc bát sành đựng thức ăn mà chị và em để phần cho, nhưng cô không đụng đến. Ngày hôm sau cô lại chăn dê đi, để nguyên mấy mẩu bánh phần cô. Lần đầu và lần thứ hai, chị và em không để ý, nhưng cứ thế mãi nên họ cũng biết và nói: - Hai Mắt có điều gì khả nghi. Không lần nào nó đụng đến thức ăn, thế mà mọi khi để cho nó cái gì là nó chén hết sạch cơ mà. Phải tìm cho ra đầu đuôi việc này mời được. Khi Hai Mắt ra đi. Một Mắt đến bảo: - Để ta đi ra đồng với, xem mi chăn dê có tốt không, mi có chịu đưa dê đi ăn ở nơi tốt cỏ không. Nhưng Hai Mắt đã biết được ý định của Một Mắt, cô chăn dê đến đồng cỏ rậm và bảo: - Chị Một Mắt ạ, chị em mình ngồi xuống rồi em hát cho chị nghe. Một Mắt ngồi xuống, mệt quá vì chưa quen đi đường và vì trời nắng chang chang, còn Hai Mắt cứ hát mãi: Một Mắt ơi, chị còn thức không? Một Mắt ơi, chị ngủ đấy à? Một Mắt nhắm mắt độc nhất của mình lại mà ngủ. Lúc Hai Mắt thấy Một Mắt đã ngủ say, việc không thể lộ được, cô mới bảo: Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! Cô ngồi vào chiếc bàn xinh xắn, ăn uống no nê rồi lại nói: Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! Tất cả mọi thứ đều biến ngay. Hai Mắt liền đánh thức Một Mắt dậy mà bảo: - Chị Một Mắt ạ, chị định đi chăn dê mà lại ngủ à? Trong khi đó dê nó có thể chạy khắp thiên hạ mất. Thôi ta về nhà chị ơi. Hai người về nhà. Hai Mắt để nguyên không đụng đến thức ăn. Một Mắt không cho mẹ biết được tại sao em không chịu ăn. Nó xin lỗi mẹ: - Con ra đồng ngủ quên đi mất. Hôm sau, mẹ bảo Ba Mắt: - Lần này, con đi cùng phải để ý xem Hai Mắt ra ngoài có ăn gì không, có ai mang gì đến cho nó ăn uống không, vì nhất định là nó phải ăn uống lén lút. Ba Mắt đến bảo Hai Mắt: - Em muốn đi với chị để xem chị chăn dê có tốt không, chị có đưa dê đi ăn nơi tốt cỏ không? Nhưng Hai Mắt đoán được ý định của Ba Mắt nên cô chăn dê đến đồng cỏ rậm rồi bảo: - Em Ba Mắt ạ, ta ngồi đây. Chị sẽ hát cho em nghe. Ba Mắt ngồi xuống. Đường xa, trời nắng, nên người mệt nhoài. Hai Mắt lại bắt đầu hát bài hát hôm trước: Ba Mắt ơi, thức đấy ư? Nhưng sau đáng lẽ phải hát: Ba Mắt ơi, ngủ đấy à? Thì cô lại đãng trí hát: Hai Mắt ơi, ngủ đấy à? Rồi cứ hát mãi: Ba Mắt ơi, thức đấy ư? Hai Mắt ơi, ngủ đấy à? Hai con mắt của Ba Mắt nhắm lại ngủ, còn con mắt thứ ba không bị phép của câu thần chú nên không ngủ. Thật ra thì Ba Mắt nhắm cả mắt thứ ba, nhưng nó nhắm giả vờ làm như ngủ, nó nhấp nháy để có thể nhìn rõ được hết mọi việc. Hai Mắt tưởng là Ba Mắt đã ngủ say rồi, liền niệm chú: Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày! Cô ăn uống no nê rồi bảo chiếc bàn nhỏ biến đi: Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này! Ba Mắt trông thấy hết. Hai Mắt đến chỗ nó đánh thức dậy bảo: - Úi chà. Ba Mắt em ngủ à? Thế mà cũng đòi đi chăn dê? Thôi ta về nhà đi! Về đến nhà, Hai Mắt lại không ăn. Ba Mắt liền mách mẹ: - Giờ thì con biết tại sao chị ta không ăn rồi. Ở ngoài đồng chị nói "Này dê con, hãy be lên! Thức ăn, này hỡi bàn xinh, hãy bày!" thì có một chiếc bàn nhỏ bày đầy thức ăn, thức uống tuyệt ngon, ngon hơn ở nhà ta nhiều, hiện ra. Chị ấy ăn uống no nê rồi bảo: "Này dê con, hãy be be! Chiếc bàn xinh, hãy biến đi, biến này!" thì mọi thứ đều biến mất. Con trông thấy tất cả rõ mồn một. Hai mắt chị ấy niệm thần chú cho con ngủ, nhưng may còn con mắt trên trán vẫn thức. Người mẹ đố kỵ liền kêu lên: - A, mi lại đòi hơn chúng ta à! Phải cho mi chừa cái thói ấy đi! Mụ đâm trúng tim dê, dê khuỵu xuống. Hai Mắt thấy vậy, buồn bã đi ra ngồi bờ ruộng. Bà lão lại hiện ra bên cô mà bảo: - Hai Mắt làm sao con buồn? Cô đáp: - Con không khóc sao được! Mẹ con đã đâm mất con dê mà hàng ngày, khi con niệm câu thần chú của bà, nó dọn thức ăn thật ngon cho con ra bàn. Giờ thì con lại phải chịu đói khát, khổ sở rồi. Bà lão bảo: - Hai Mắt ạ! Để bà bày cho con một kế hay: con hãy xin chị và em lấy bộ lông của con dê đã bị giết, con đem chôn ở trước cửa rồi sẽ gặp may. Nói xong bà lão biến mất. Hai Mắt về nhà bảo chị và em: - Chị và em yêu dấu ơi, dê ấy của tôi, cho tôi xin chút đỉnh của nó với. Tôi chẳng dám xin gì ngon lành đâu, chỉ xin bộ lông mà thôi. Hai đứa cười ồ lên bảo: - Ừ, nếu chỉ xin có thế thì cứ việc mà lấy đi. Hai Mắt lấy bộ lông, đến tối theo lời bà lão dặn lặng leo đem chôn trước cửa nhà. Sáng hôm sau, khi cả nhà cùng dậy ra cửa thì thấy có một cây kỳ lạ, đẹp lộng lẫy, quả vàng xen giữa lá bạc, trần gian không có gì đẹp bằng. Không ai biết tại sao qua một đêm, cây ở đâu mọc ra. Chỉ có Hai Mắt biết rõ là cây ở lông dê mọc lên vì nó mọc đúng ở nơi chôn bộ lông. Mẹ liền bảo : - Một Mắt, con trèo lên hái quả xuống. Một Mắt trèo lên, nhưng cứ định hái một quả táo vàng thì cành lại tuột khỏi tay. Mà lần nào cũng như vậy, khiến cho nó không hái được quả nào, hái mãi cũng không được. Mẹ liền bảo: - Ba Mắt, con hãy trèo lên, con có ba mắt, ắt là nhìn rõ hơn Một Mắt. Một Mắt tụt xuống. Ba Mắt trèo lên. Nhưng Ba Mắt cũng chẳng tài gì hơn, với mãi mà vẫn cứ bị hụt, táo vàng vẫn cứ thụt lại. Sau bà mẹ sốt ruột, đích thân trèo cây, nhưng định hái quả thì lại chỉ nắm không khí, chẳng hơn Một Mắt và Ba Mắt. Hai Mắt liền bảo: - Để tôi lên xem sao, có thể là được. Chị và em gái nói: - Hai Mắt thì làm được trò trống gì! Nhưng khi Hai Mắt trèo lên, táo vàng không thụt lại, mà tự ý rơi vào tay cô, cô hái được hết quả nọ đến quả kia, mang xuống đấy một tạp dề. Bà mẹ giật lấy. Đáng lẽ, mụ, Một Mắt và Ba Mắt phải đối đãi tử tế hơn với cô Hai Mắt đáng thương, thì họ lại đố kỵ thêm vì chỉ có mình cô hái được quả vàng. Họ đối với cô càng thêm cay nghiệt. Một hôm, họ đang đứng bên cây thì có một hiệp sĩ trẻ tuổi đi tới. Cô chị và cô em gọi: - Hai Mắt ơi, nhanh lên, trèo xuống đi kẻo chúng ta ngượng cả mặt vì mi. Rồi hai người vớ vội một chiếc thùng rỗng để ở ngay gốc cây úp lên cô Hai Mắt đáng thương. Chúng lại nhét tất cả táo vàng mà cô hái được vào trong đó. Hiệp sĩ đến nơi. Ấy là một nhà quí phái rất đẹp. Chàng ngừng lại ngắm cây táo vàng lộng lẫy và bảo cô chị và cô em: - Cây đẹp này của ai? Cho ta một cánh thì muốn xin gì ta cũng cho. Một Mắt và Ba Mắt vội đáp là cây của chúng, chúng sẵn sàng bẻ cho chàng một cành. Hai chị em ra sức bẻ nhưng lần nào cành và quả cũng thụt lại. Chàng hiệp sĩ liền bảo: - Quái lạ, sao cây của các cô mà các cô lại không hái được? Chúng vẫn khăng khăng nói là cây của chúng. Trong khi ấy, Hai Mắt ở dưới thùng để mấy quả táo vàng lăn đến chân hiệp sĩ vì nàng bực tức là Một Mắt và Ba Mắt lại không chịu nói thật. Hiệp sĩ thấy táo, ngạc nhiên hỏi táo từ đâu đến. Một Mắt và Ba Mắt đáp chúng còn một người chị em, không dám để cho ra mắt vì cô cũng chỉ có hai mắt như những người thường khác. Nhưng hiệp sĩ đòi xem mặt cô và gọi: - Cô Hai Mắt đâu, lại đây nào! Hai Mắt bình tĩnh chui ở dưới thùng ra. Hiệp sĩ ngạc nhiên về sắc đẹp của cô, hỏi: - Chắc cô Hai Mắt bẻ được cho tôi một cành chứ! Hai Mắt đáp: - Thưa vâng, hẳn là được, vì cây của em. Cô trèo lên cây, nhẹ nhàng bẻ một cành có lá bạc quả vàng thật đẹp đưa cho hiệp sĩ. Hiệp sĩ liền bảo: - Cô Hai Mắt ơi, tôi trả công cô thế nào đây? Hai Mắt đáp: - Từ sáng tinh mơ đến tối mịt, em chịu đói khát, cơ cực, buồn lo, nếu chàng chịu mang em đi để cứu em thì em thật là sung sướng. Hiệp sĩ liền đỡ Hai Mắt lên ngựa, mang về lâu đài cha. Tới nơi, chàng cho cô mặc quần áo đẹp đẽ, tha hồ ăn uống. Chàng yêu cô và lấy cô làm vợ ... Lễ cưới rất vui vẻ. Khi chàng hiệp sĩ đẹp trai mang Hai Mắt đi rồi, chị và em lồng lên vì thấy cô sung sướng. Hai cô nghĩ bụng: Cây thần còn ở tay ta, dù ta không hái được quả nào, thì mọi người vẫn cứ phải ngừng lại, ngắm cây, vào tìm ta để khen cây. Biết đâu rồi ta chẳng gặp may. Nhưng sáng hôm sau, cây thần bỗng biến mất, hy vọng của hai chị em cũng tiêu tan. Khi Hai Mắt từ trong phòng nhỏ nhìn ra, cô mừng rỡ thấy cây đã theo cô và hiện lên. Cô Hai Mắt hưởng hạnh phúc lâu dài. Một hôm, có hai người đàn bà nghèo khó đến lâu đài cô xin ăn. Cô Hai Mắt nhận ra chị và em mình. Một Mắt và Ba Mắt bị sa sút, nghèo túng, phải đi tha phương cầu thực. Cô Hai Mắt niềm nở chào hai người, đối đãi tốt với họ, chăm sóc họ, khiến họ hối hận, vì đã từng đối xử độc ác với cô. Nguồn: Làng xì trum.oi
Cuộc ngao du của Tí hon Một bác thợ may có đứa con trai, người chỉ bằng ngón tay cái, vẫn gọi là Tí hon. Tí hon rất can đảm. Một hôm nó thưa bố: - Bố ơi, con phải đi ngao du thiên hạ một phen mới được! Ông bố già đáp: - Được thôi, con ạ! Bác lấy cái kim thêu, hơ lên ngọn nến, đính một cái núm bằng xi vào đó rồi đưa cho con, bảo: - Đây cho con thanh kiếm đi đường. Tí hon còn muốn ăn với bố mẹ bữa nữa, nên nó nhảy xuống bếp xem mẹ nó nấu gì. Nhưng nồi vừa mới đặt lên bếp, Tí hon hỏi mẹ: - Mẹ ơi, có gì ăn thế? Bà mẹ bảo: - Con hãy ngó vào xem. Nhảy tót lên bếp, vươn cổ dòm vào nồi. Nó vươn mãi cổ vào sâu quá, hơi thức ăn bay nghi ngút cuốn luôn nó lên ống khói. Nó ngồi ngất ngưởng trong đám hơi, cứ thế lơ lửng mãi trên không, lúc lâu sau mới rơi xuống. Thế là chú bé con bác thợ may có dịp đi ngao du thiên hạ. Chú đi đây đi đó, rồi đến xin tập việc một người thợ cả. Nhưng ở đây họ cho chú ăn chẳng được ngon. Chú nói với bà chủ nhà: - Bà chủ ạ, bà không chịu cho tôi ăn khá hơn thì nhất định tôi sẽ đi. Sáng mai tôi sẽ lấy phấn viết ngay trước cửa nhà: Bà chủ giận lắm, quát: - Mi còn muốn gì hử? Bà rút cái giẻ lau, định quất chú. Nhưng chú đã mau lẹ bò lên cái bao ngón tay của bà, rồi từ trên đó chú dòm xuống, thè lưỡi nhạo bà. Bà tháo bao định chộp chú thì chú lại tót sang cái giẻ mất rồi. Thừa lúc bà giũ giẻ tìm chú, chú trốn luôn xuống kẽ bàn. Chú thò đầu lên, giễu bà: - Bà chủ ơi, tôi đây cơ mà! Lúc bà sắp đánh, chú lẩn xuống ô kéo. Nhưng rồi bà cũng tóm được và tống chú ra khỏi cửa. Tí hon lại đi lang thang. Đến cánh rừng kia, chú gặp kẻ trộm đang bàn nhau đi ăn trộm của vua. Chợt thấy Tí hon, bọn kẻ trộm sực nghĩ: "Thằng nhãi ranh này nhất định chui lọt lỗ khóa, có thể dùng nó thay chìa khóa giả được đây". Một tên gọi: - Này, ông khổng lồ Gôliat ơi, có muốn nhập với bọn mình đến kho của báu không? Ông có thể chui vào ném tiền ra cho bọn này. Tí hon nghĩ một lát rồi bằng lòng nhận. Chú đi với chúng. Đến nơi, chú ngắm kỹ cửa trên, cửa dưới xem có cái kẽ nào không. Tìm hồi lâu thấy một khe hở, cũng khá rộng, đủ cho chú lọt qua. Chú đã sắp chui vào thì bị một tên lính canh cửa nhìn thấy. Nó bảo tên kia: - Xem kìa, có con nhện gớm ghiếc đương bò kia kìa. Tôi phải dẫm nó mới được! Tên kia can: - Thôi mặc nó, kẻo tội nghiệp. Nó có làm gì anh đâu! Thế là Tí hon lọt được vào trong kho. Chú mở cửa sổ chỗ bọn kẻ trộm đợi rồi nhặt tiền ném ra, cứ từng đồng một. Đương lúc mê mải chợt có tiếng chân vua vào soát kho. Tí hon vội chuồn ngay. Vua soát, biết là có nhiều đồng tiền dày đã bị mất nhưng không thể hiểu kẻ nào đã lấy, vì lẽ then khóa vẫn y nguyên không có chút dấu hiệu suy chuyển. Vua đành ra lệnh cho hai tên lính: - Bay phải coi chừng, có kẻ rình lấy tiền đấy! Lúc Tí hon tiếp tục hoạt động thì bọn lính đứng ngoài rình nghe thấy tiếng vàng rơi xủng xoẻng. Chúng vội nhảy vào kho để bắt kẻ trộm. Nhưng Tí hon nhanh hơn, đã tót được vào một xó, khuân một đồng tiền lấp lên mình. Chú trêu bọn lính: - Tớ đây cơ mà! Lúc bọn lính xô tới thì chú lại chuồn sang xó khác, léo nhéo gọi: - Này, tớ đây cơ mà! Bọn lính đến thì chú đã sang xó thứ ba từ lâu rồi. Chú lại gọi: - Này, tớ đây kia mà! Cứ thế, Tí hon dử cho hai tên lính chạy quanh đến mệt lử và phải bỏ cuộc. Chú tiếp tục ném tiền ra ngoài cho bọn trộm hết đồng này đến đồng khác. Còn lại đồng cuối, chú ra sức quăng mạnh, đoạn nhảy liền theo, cưỡi tiền bay vút qua cửa sổ. Bọn trộm hết lời tán tụng chú: - Quả là tay anh hùng! Chú có muốn là chủ tướng không? Tí hon cảm ơn. Chú nói, chú còn muốn đi ngao du thiên hạ đã. Bọn trộm chia nhau số tiền. Tí hon chỉ lấy phần mình có một đồng, vì có lấy nữa chú cũng chẳng mang nổi. Chú buộc lại thanh kiếm bên sườn, chào bọn cướp rồi ra đi. Chú đến nhà mấy bác thợ cả nữa xin làm. Nhưng ở đâu cũng chóng chán. Sau cùng chú đến làm cho một quán trọ. Đám hầu gái nhà này không ai ưa chú, chỉ vì họ không nhìn thấy chú, thế mà ai bí mật làm gì chú đều biết hết. Chú lại hay mách chủ những chuyện họ ăn uống vụng trộm, hoặc ăn cắp dưới hầm. Họ vẫn đe: - Liệu hồn! Thế nào cũng có bữa cho mi chết đuối. Họ bảo nhau xỏ Tí hon một vố. Một hôm, chú đương mải miết nhảy nhót, leo trèo giữa đám cỏ dại ngoài vườn thì bị một cô hầu ra cắt cỏ bắt gặp. Tiện tay cô vơ luôn cả Tí hon với cỏ, buộc túm vào một cái khăn lớn rồi ném cho bò. Một con bò mộng đen nuốt chửng Tí hon vào bụng. Chú không bị đau đớn gì nhưng nằm trong ấy thật khó chịu quá, tối như bưng. Đợi lúc có người vào vắt sữa, chú ra sức gào: "Tơrip, torắp, torôn! Sắp đầy thùng chưa?" Tiếng sữa tia rào rào, át mất tiếng chú nên không ai nghe thấy. Lát sau, chủ quán vào bảo: - Mai thịt con bò này! Tí hon sợ quá, lại gân cổ gào: - Thả tôi ra đã, tôi ở trong này mà! Chủ quán nghe thấy, nhưng không biết ai gọi ở đâu. Bác hỏi lại: - Ở đâu thế? Tí hon vội đáp: - Trong bụng con đen ấy mà! Chủ quán không hiểu nghĩa câu nói, bỏ đi. Sáng hôm sau, họ thịt con bò đen. Cũng may lúc họ hạ bò rồi xả thịt, Tí hon không bị đau. Chú bị lẫn trong đống thịt để tra dồi. Lúc người thợ băm dồi vào sắp làm, chú ra sức bình sinh gào: - Đừng băm sâu quá! Đừng băm sâu quá! Tôi ở dưới đấy! Nhưng vì dao băm đã gõ rộn lên nên chẳng ai nghe được tiếng chú gọi. Giờ mới thật nguy cho chú, nhưng thói thường có khó mới ló cái khôn, chú nhảy tránh rất tài giữa các đường dao, khiến chẳng một nhát nào chạm được vào người chú. Chú thoát chết. Tuy thế, chú vẫn chưa nhảy ra ngoài được. Chú bị họ tra lẫn với miếng mỡ vào một khoanh dồi tiết. Trong khoanh dồi chật chội quá, đã thế họ lại còn mắc lên ống khói lò bếp để hun cho kỹ. Tí hon thấy thời gian lúc này mới dài làm sao! Nhưng rồi cũng đến mùa đông, họ tháo khoanh dồi xuống. Nhà có khách, họ định đem dồi đãi khách. Lúc bà chủ thái dồi, sợ lưỡi dao xoẹt ngang một nhát. Chờ lúc thuận lợi, chú lấy hơi nhảy tót ra ngoài. Chú không muốn ở lại nhà ấy nữa, nơi chú đã phải chịu bao điều đen đủi. Tí hon lại đi giang hồ. Nhưng cuộc đời tự do của chú cũng chẳng được bao lâu nữa. Chú đang lang thang giữa đồng thì chạm trán phải một con cáo, nó nuốt luôn chú. Chú vội van nài: - Bác cáo ơi, tôi đấy mà, chả bõ cuống họng bác, chi bằng bác thả tôi ra! Cáo đáp: - Mi nói cũng có lý. Ăn mi cũng như không ăn gì. Mi hứa cho ta mấy con gà ở nhà bố mi đi, ta sẽ thả. Tí hon đáp: - Tôi rất sẵn lòng, nhà có bao nhiêu gà sẽ xin tạ bác hết. Cáo bèn thả chú ra, lại thân đưa chú về nhà. Ông gặp lại con mừng quá, nhà có bao nhiêu gà biếu cáo tất. Tí hon đưa cho bố đồng tiền vàng mà chú đã kiếm được trong chuyến đi vừa rồi. - Con có đồng tiền rất đẹp để đến cho bố đây này. Nhưng sao bố lại chịu để cáo nó thịt hết cả đàn gà con của nhà? - Ôi, con ngốc quá! Con là đứa con đẻ đứt ruột của bố, lý nào bố lại quí đàn gà ngoài sân hơn cả con trai. Nguồn: Làng xì trum ST: Thu Hiền
Sự Tích Trái Thơm (Dứa) Huyền Nương là tên một cô gái mười lăm, không thích làm những việc bếp núc, thêu thùa vá may, tối ngày chỉ lo ca hát không để ý vào việc gì. Mẹ nàng là một góa phụ không mấy giàu sang, lại có tính chanh chua soi mói thiên hạ nên người trong làng ít ai có thiện cảm với mẹ con Huyền Nương. Thình lình mẹ Huyền Nương lâm bệnh nặng nằm một chỗ, Huyền Nương phải thay mẹ vào trong bếp nấu cháo, nấu nước cho mẹ. Khỗ nỗi, ngày thường không để ý chi đến mọi việc trong nhà, nên lúc vào bếp, Huyền Nương lúng túng không biết vật nào để ở đâu, và phải làm thế nào. Vì vậy, chốc chốc Huyền Nương lên tiếng hỏi: - Mẹ ơi, gạo để đâu? Mẹ ơi, cục đá để đánh lửa mẹ để đâu? - Mẹ ơi, nước đổ vào nồi như vậy vừa chưa. Mẹ ơi, cái gàu múc nước mất rồi ... Đang ốm, lại bị kêu gọi từng chập, người mẹ Huyền Nương lấy làm bực mình lắm, nên nói lẫy: "Mẹ ước gì con có thật nhiều mắt để con kiếm những đồ dùng đặng khỏi kêu nheo nhéo suốt ngày làm chói cả tai". Huyền Nương cắc cớ hỏi: - Bộ mẹ không thương con hay sao? Người mẹ chanh chua càu nhàu: - Thương cái nổi gì, nếu không có con cũng không sao. Tức thì giữa thinh không có tiếng nói khàn khàn: - Lời ước của người mẹ không biết thương con sẽ thành sự thật. Người mẹ kinh sợ, nhìn sau trước không thấy ai thì sinh nghi, bà liền gượng đứng dậy đi xuống bếp tìm Huyền Nương, nhưng không thấy nàng đâu nữa. Bà sợ sệt đi thẳng ra vườn cất tiếng gọi: "Huyền Nương! Huyền Nương!" Không một tiếng trả lời. Bà rên rỉ: "Trời ơi! Huyền Nương đâu mất rồi". Bà đi đến cuối vườn, bỗng bà nhận ra đôi hài cỏ của Huyền Nương nằm cạnh một bụi cây vừa trổ sinh một trái rất kỳ lạ, mình dài mà tròn có nhiều mắt bao bọc xung quanh, tỏa mùi thơm thoang thoảng. Đôi mắt bà sáng lên, tay nắm lấy đôi hài, tay sờ vào trái lạ, tự nhiên nước mắt ứa trào ra, bà than thở: - Huyền Nương! Mẹ đã hiểu vì sao rồi. Sau tiếng than của bà, nhiều tiếng khóc nỉ non từ trong lòng trái lạ vẳng lên. Da trái đang xanh, hứng phải nước mắt và tiếng khóc than của người mẹ dần dần ửng vàng. Nguồn: Diễn đàn Mầm Non. ST: Thu Hiền
Chuyện về Hoa Thủy Tiên Ngày xưa, có một ông phú hộ sinh được 4 người con traị Khi biết mình sắp chết, ông gọi 4 người con đến, dặn dò các con phải chia gia tài của cha làm 4 phần đều nhaụ Bốn người con hứa tuân lời cha trối lại, tuy nhiên, vừa chôn cất cha xong thì 3 người con đầu dành phần gia tài nhiều hơn người em út. Họ chỉ chia cho đứa em út một mảnh đất khô cằn. Người em út rất buồn, vừa thương nhớ cha, vừa buồn các anh xử tệ với em. Đang ngồi khóc một mình trước mảnh đất khô cằn, thì người em bỗng thấy một bà Tiên từ mặt ao gần đó hiện lên bảo: - Này con, thôi đừng khóc nữạ Khoảng đất này của con có chứa một kho tàng, mà các anh của con không biết. Kho tàng này chứa nhiều mầm của một loại hoa quý vô giá. Mỗi năm, cứ đến mùa Xuân, thì hoa đâm chồi nẩy lộc, nở từng hàng chi chít trên đất đai của con. Con sẽ hái hoa, đem bán, rất được giá. Nhờ đó, chẳng bao lâu thì con sẽ giầu có hơn các anh. Quả thật, đến mùa Xuân ấy, đúng như lời bà Tiên nói, mảnh đất khô cằn của người em bỗng nhiên mọc lên từng hàng hoa trắng, hương thơm ngào ngạt. Để nhớ đến ơn lành của bà Tiên, người em đặt tên cho loại hoa này là Hoa Thuỷ Tiên. Những người thích hoa, chơi hoa, và những người nhà giầu đã thi nhau đến mua hoa Thuỷ Tiên hiếm quý, với giá rất đắc. Chẳng bao lâu, người em trở nên giầu có, nhiều tiền bạc. Rồi cứ mỗi năm Tết đến, người em út lại giầu thêm, nhờ mảnh đất nở đầy hoa thơm tươi thắm. Người em trở nên giầu hơn 3 người anh tham lam kia. Người ta tin rằng Hoa Thuỷ Tiên mang lại tài lộc và thịnh vượng. Do vậy, mỗi dịp Tết đến, chơi hoa thuỷ tiên trở thành một tục lệ đón Xuân. Những ngày cuối năm, Thuỷ Tiên được chăm sóc để hoa nở đúng Giao Thừa, hy vọng mang đến tài lộc sung túc và may mắn trong năm mới. Nguồn: DD Mầm non Sưu tầm: Thu Hiền
Mèo làm thân với chuột Mèo làm thân với chuột. Mèo kể lể tâm tình tha thiết, chuột nghe bùi tai đồng ý ăn ở chung với mèo. Mèo bảo: - Ta phải đề phòng mùa rét kẻo rồi bị đói. Chú mày chớ có đi lại liều lĩnh kẻo rồi mắc bẫy đấy. Chuột nghe lời. Chúng đi mua một niêu mỡ nhưng không biết cất đâu. Suy nghĩ mãi, mèo bảo: "Anh thấy chẳng còn nơi nào cất tốt bằng ở nhà thờ vì ở đấy không ai dám lấy gì đi. Cánh ta đem cất niêu dưới gầm bàn thờ, chưa cần mỡ thì ta nhất định không rờ đến". Thế là chúng cất niêu thật kỹ. Nhưng chẳng bao lâu mèo ta thèm mỡ, nói với chuột: - Chú chuột ạ, anh muốn nói với chú điều này. Anh có người chị họ mời đến làm bố đỡ đầu cho cháu. Chị ấy sinh được con trai, lông trắng đốm nâu, anh phải đi dự lễ đỡ đầu. Hôm nay anh đi, chú ở nhà trông coi nhà cửa một mình nhé. Chuột đáp: - Vâng vâng, lạy Chúa ban phước lành cho anh đi, có miếng ngon, anh nhớ lấy phần về cho em nhé. Em ao ước được nhắp rượu vang đỏ ngọt. Nhưng tất cả những điều mèo nói đều sai cả. Mèo chẳng có chị em họ nào, mà cũng chẳng có ai mời đến làm lễ đỡ đầu. Nó đến thẳng nhà thờ, lén đến niêu mỡ, ăn xong liếm lông cho sạch mỡ. Rồi nó dạo chơi trên mái nhà thành phố, nhìn quanh quẩn, nằm ườn sưởi nắng, mỗi lần nhớ đến niêu mỡ lại chùi mép. Mãi đến chiều nó mới về nhà. Chuột nói: - Thế nào, anh đã về đấy à? Chắc là cả ngày nhởn nhơ vui thú lắm nhỉ? - Ừ thú lắm. Chuột hỏi: - Đứa trẻ đặt tên đỡ đầu là gì? Mèo đáp gọn lỏn: - "Liếm sạch lông". Chuột reo lên: - Sao lại là "Liếm sạch lông". Thật là một cái tên lạ lùng, hiếm có. Trong họ anh, tên ấy có thông thường không? Mèo nói: - Có gì lạ đâu! Tên ấy cũng không có gì xấu hơn tên "Ăn cắp vặt" là tên đỡ đầu của chú? Cách đó ít lâu, mèo lại nổi cơn thèm, nói với chuột: - Chú làm ơn giúp anh nhé. Nhờ chú trông nom nhà cửa một mình chuyến nữa. Anh lại có người mời đi làm bố đỡ đầu lần thứ hai. Đứa trẻ có vòng lông trắng quanh cổ, anh không tiện từ chối. Chuột tốt bụng, nhận lời. Mèo kín đáo đi đến nhà thờ ăn thêm một nửa niêu mỡ. Nó nghĩ bụng: "Không gì ngon hơn là ăn một mình", và lấy làm thú vị về việc làm ngày hôm đó. Khi về nhà, chuột hỏi: - Thế nào anh, tên đỡ đầu của đứa trẻ là gì? Mèo đáp: - "Hết một nửa" - Sao lại "Hết một nửa"? Anh nói gì thế? Từ thủa cha sinh mẹ đẻ, em chưa nghe thấy tên ấy bao giờ. Em cuộc là tên ấy không có ở trong lịch sử. Sau đó ít lâu, nghĩ đến mỡ, mèo lại thèm nhỏ dãi. Nó liền bảo chuột: - Quá tam ba bận. Anh lại phải đứng ra làm bố đỡ đầu. Đứa trẻ đen tuyền. Trừ chân trắng, không có một sợi lông trắng nào trên người, thật là mấy năm mới có một lận sinh thế. Chú mày để anh đi nhé! Chuột đáp: - "Liếm sạch lông", "Hết một nửa", tên gì mà quỉ quái thế, em cứ suy nghĩ mãi đấy. Mèo nói: - Chú cứ ru rú xó nhà với cái áo lông màu xám thẫm và cái đuôi dài mà nghĩ lẩn thẩn. Ấy chẳng qua là tại cả ngày không chịu đi ra ngoài đấy thôi! Trong khi mèo đi vắng, chuột dọn dẹp nhà cửa ngăn nắp. Mèo háu ăn chén sạch niêu mỡ. Nó nghĩ bụng: "Chỉ chén kỳ hết mới yên tâm". Mãi đến đêm, nó mới về nhà, no nứt bụng. Chuột hỏi luôn tên đứa trẻ được rửa tội là gì. Mèo đáp: - Chắc là chú không vừa lòng đâu! Tên nó là "Hết sạch". Chuột kêu: - "Hết sạch", thật là một tên lạ lùng. Em chưa đọc thấy tên ấy bao giờ. "Hết sạch" thế là nghĩa lý gì nhỉ? Nó lắc đầu, nằm cuộn tròn người lại ngủ. Từ đó trở đi, chẳng có ai đến mời mèo đi làm bố đỡ đầu nữa. Nhưng khi mùa đông tới, ra ngoài đồng không kiếm được gì ăn nữa, chuột mới nghĩ đến thức ăn để dành: - Anh mèo ạ, ta đi tìm niêu mỡ để dành đi, chắc là ngon lắm đấy. Mèo đáp: - Được. Hẳn chú sẽ thấy ngon lắm, ngon như thể lưỡi liếm không khí ấy mà! Chúng ra đi, tới nơi thì thấy niêu vẫn còn nguyên chỗ cũ nhưng chỉ có niêu không. Chuột bảo: - Thì ra thế, bây giờ tôi mới hiểu các việc đã xảy ra. Bây giờ mới rõ anh thật là bạn tốt. Anh đã đánh chén hết. Anh làm cha đỡ đầu như thế đấy: Lần đầu "Liếm sạch lông", lần sau "Hết một nửa", rồi... Mèo hét lên: - Chú mày còn nói tiếng nữa là ta ăn thịt đấy. Tội nghiệp con chuột không kềm được tiếng: "Hết sạch". Vừa nói buông miệng thì mèo đã vồ nó nuốt chửng. Nguồn: Làng xì trum
Sự tích cái chổi Ngày xưa ở trên cung điện nhà trời có một người đàn bà nấu ăn rất khéo tay. Bà chế những món bánh trái tuyệt phẩm, làm những thức ăn ngon đến nỗi chỉ nếm qua một miếng là không thể nào quên được. Cho nên Ngọc Hoàng thượng đế cho bà chuyên trông nom công việc nấu ăn cho mình ở thiên trù. Nhưng bà lại hay ăn vụng và tham lam. Lệ nhà trời những người hầu hạ đều có thức ăn riêng, nhất thiết không được đụng chạm đến ngự thiện, dù là Ngọc Hoàng ăn thừa cũng vậy. Nhưng luật lệ đó không ngăn được những người đang sẵn thèm khát. Người đàn bà vẫn tìm đủ mọi cách để làm cho kho thức ăn của nhà Trời hao hụt. Tuy đã quá tuổi xuân, bà ta lại yêu một lão vốn chăn ngựa cho thiên đình. Đời sống của những người chăn ngựa thì ở cõi trời cũng như cõi đất đều cực khổ không kém gì nhau. ạng ta thích rượu và từ khi gặp người đàn bà này lại thèm ăn ngon. Bà ta say mê ông tưởng trên đời không còn có gì hơn được. Mỗi lúc thấy người đàn ông đó thèm thức ăn, đồ uống của nhà Trời, bà ta không ngần ngại gì cả. Đã nhiều phen bà lấy cắp rượu thịt trong thiên trù giấu đưa ra cho ông. Và cũng nhiều phen bà dắt ông lẻn vào kho rượu, mặc sức cho ông bí tỉ. Một hôm, Ngọc Hoàng thượng đế mở tiệc đãi quần thần. Bà và các bạn nấu bếp khác làm việc tíu tít. Chỉ vào chập tối, các món ăn đã phải làm đầy đủ. Rồi khi ánh nguyệt của đêm rằm sáng lòa là mọi người bắt đầu vào tiệc. Nhưng giữa lúc cỗ đang bày lên mâm thì từ đàng xa, bà đã nghe tiếng lão chăn ngựa hát. Bà biết ông tìm mình. Bà lật đật ra đón và đưa giấu ông ta vào phía góc chạn. Bà đưa cho ông mấy chén rượu, thứ rượu ngon nhất của thiên tào rồi trở ra làm nốt mẻ bánh hạnh nhân. Người đàn ông đó mới đi tắm ngựa ở bến sông về. Bưng lấy bát cơm hẩm, ông sực nhớ đến rượu thịt bây giờ chắc đang ê hề ở thiên trù, nên vội lẻn đến đây. Trong bóng tối, ông nuốt ực mấy chén rượu lấy làm khoái. Chén rượu quả ngon tuyệt, hơi men bốc lên làm ông choáng váng. Ông bỗng thèm một thức gì để đưa cay. Trong bóng tối, trên giá mâm đặt ở gần đó có biết bao là mỹ vị mùi thơm phưng phức. Đang đói sẵn, ông giở lồng bàn sờ soạng bốc lấy bốc để... Khi những người lính hầu vô tình bưng mâm ngự thiện ra thì bát nào bát ấy đều như đã có người nào nếm trước. Ngọc Hoàng thượng đế vừa trông thấy không ngăn được cơn thịnh nộ. Tiếng quát tháo của Ngọc Hoàng dữ dội làm cho mọi người sợ hãi. Bữa tiệc vì thế mất vui. Người đàn bà nấu bếp cúi đầu nhận tội. Và sau đó thì cả hai người cùng bị đày xuống trần, làm chổi để phải làm việc luôn tay không nghỉ và tìm thức ăn trong những rác rưởi dơ bẩn của trần gian. Đó là tội nặng nhất ở thiên đình. Lâu về sau, thấy phạm nhân bày tỏ nông nỗi là phải làm khổ sai ngày này qua tháng khác không lúc nào ngơi tay, Ngọc Hoàng thương tình ra lệnh cho họ được nghỉ ba ngày trong một năm. Ba ngày đó là ba ngày Tết nguyên đán. Bởi vậy đời sau trong dịp Tết nguyên đán, người ta có tục lệ kiêng không quét nhà. Người Việt Nam chúng ta có câu đố về cái chổi "Trong nhà có một bà hay la liếm" mô tả thần tình động tác quét nhà nhưng trong đó chắc còn có ngụ ý nhắc lại sự tích của cái chổi. ST: Thu Hiền
Sự tích củ mài Xưa có một gia đình rất đông con, đông đến nỗi bố mẹ không nhớ hết được tên từng đứa. Người chồng tên Đang, người vợ tên Phang. Tuy đông con như thế, nhưng hai vợ chồng nhờ phát được nhiều nương và vỡ được nhiều ruộng, nên đời sống không đến nỗi túng thiếu. Gặp năm trời hạn mất mùa, bao nhiêu lúa giống của hai vợ chồng để dành cho mùa sau đều bị bọn lang đạo cướp hết. Hai vợ chồng phải vào rừng tìm rêu đá, lá cây về cho các con ăn, nhưng kiếm bao nhiêu cũng không đủ; suốt ngày lũ con cứ gọi bố mẹ. Và kêu: - Đói lắm, bố mẹ ơi ! Hai vợ chồng thưong con, biết rằng rêu đá, lá cây không phải là món ăn có thể thay cơm gạo lâu dài được, hai người cố đi xin người làng, kẻ cho một nắm, người vài bông lúa giống, và giấu các con, lên rừng phát rẫy tìa lúa trái mùa. Ở nhà, đàn con đói quá, kéo nhau ra rừng tự kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, nhưng đến đêm chúng lại về kêu đói suốt đêm: - Đói lắm, bố mẹ ơi ! Trong rừng khuya, nghe tiếng đàn con vọng tới, hai vờ chồng lòng đau như cắt. Hai vợ chồng thay nhau nói vọng về cho các con yên lòng: - Các con ơi! Lúa đang nãy mầm. Khi lúa đã ken xanh, họ lại gọi vọng về: - Các con ơi! Lúa đã lên xanh. Đến ngày lúa chín, thì hai vợ chồng kiệt sức nhưng khi nghe tiếng đàn con kêu đói thì hai người lại cố gắng nói to lên cho các con nghe: - Các con ơi! Lúa đang chín... Và khi mẻ gạo đầu tiên vừa giã xong thì hai vợ chồng liền đồ ngay một chõ xôi lớn, chia ra từng nắm một, rồi đem ngay xôi về nhà cho các con. Nhưng khi đến nhà thì họ không thấy bóng một đứa nào. Trong khi ấy, thì từ rừng sâu lại vọng ra những tiếng - Đói lắm, bố mẹ ơi! Tủi cực quá, hai vợ chồng gượng khiêng rá xôi vào rừng, nhưng không gặp đứa con nào cả. Trong khi ấy thì rừng cây trước mặt, sau lưng, bên trái, bên phải vẫn vọng ra tiếng kêu xé ruột: - Đói lắm, bố mẹ ơi! Lúc này thì sức hai người đã kiệt. Họ không thể theo tiếng vọng của rừng núi mà đi tìm con được nữa. Hai người đặt rá xôi xuống và cố sức gọi: - Các con ơi! Ra đây với bố mẹ mà ăn xôi. Tiếng gọi vừa dứt, thì một đàn chim từ các ngả bay đến đậu đầy cả khu rừng. Chim hót: - Bang! Bang! Bang! Bang! Chúng con ăn quả đã quen; còn xôi xin nhường bố mẹ! Bấy giờ hai vợ chồng mới biết đàn con của mình vì đói quá nên hóa chim mất rồi. Già yếu, đói khổ, lại thương xót đàn con đã hoá chim, hai vợ chồng gục đầu vào rá xôi mà chết. Thấy bố mẹ chết thảm quá, đàn chim kêu vang cả khu rừng , rồi chúng lấy những nắm xôi đắp mộ cho bố mẹ. Về sau, chổ mộ hai vợ chồng Đang, Phang mọc lên một cây rất lạ: Trên là cây, dưới là củ. Củ có màu trắng và khi luộc chín thì thơm dẻo như xôi. Đó là củ mài. Người ta nói rằng vợ chồng nghèo khổ ấy đã hoá ra củ mài đề cứu những con người cùng cảnh ngộ như mình. Còn lũ con của họ thì hoá thành chim "đang bang" thường kêu vang cả núi rừng vào mùa lúa chín, để nhắc lại cảnh khổ cực của bố mẹ ngày xưa. Nguồn: Xì trum. ST: Thu Hiền
Chồng xấu, chồng đẹp Chuyện cổ của người Dao kể rằng, xưa kia có một ông vua sinh được ba người con gái xinh đẹp. Có nhiều quan võ đến xin làm rể. Nhưng người nào cũng không được các cô ưng thuận. Một hôm vua gọi ba người con gái lại và phán rằng: -Trong triều, quan tài tướng giỏi có nhiều nhưng ai hỏi các con cũng không chịu lấy. Từ nay cha để các con tùy ý kén chọn, thuận ai thì lấy người ấy làm chồng. Ba cô vâng lời, mỗi người đóng một cái mảng, chở xuôi theo dòng sông, đi kén chồng. Nàng Cả đi được một quãng thì gặp một chàng trai đứng ở bờ sông, vẫy tay gọi mình: - Nàng chở máng kia ơi, ghé vào cho tôi sang nhờ với! Thấy người ấy đen đủi, đen thui, xấu xí. nàng Cả bĩu môi: - Ôi chao! Xấu xí thế, ai thèm chở. Nói đoạn, đi thẳng. Nàng Hai chở máng tới nơi, chàng trai lại gọi: - Nàng chở máng kia ơi, ghé vào cho tôi sang nhờ với! Nàng Hai nhăn mặt: - Xấu xí thế, ai thèm chở. Đến lượt nàng Ba. Mảng vừa trôi tới, chàng trai cũng cất tiếng xin chở giùm. Nàng Ba vui vẻ ghé mảng vào bờ, mời người đó lên. Chàng trai vừa bước lên mảng, bổng biến thành con cọp vằn ngồi chiễm chệ đằng trước. Nàng Ba vẫn vui vẻ. Nhưng nàng ra sức khỏa nước nhưng thuyền vẫn đứng yên, không nhúc nhích. Nàng Cả và nàng Hai xuôi mảng, mỗi nàng tìm được một người chồng xinh đẹp, thích lắm, ngược sông trở về. Tới chổ cũ, hai nàng thấy em mình loay hoay giữa dòng, trên mảnh lại có con cọp ngồi chồm chổm, bèn chế nhạo: - Chồng người không lấy, quanh quẩn ở đây lấy chồng cọp à? Hai người chị vừa nói, vừa gắng hết sức chở chồng đẹp về nhà. Tiếng nói vừa dứt, thì mảng của nàng Ba tự nhiên rời bến, bơi vượt lên trên, lướt vun vút như có cánh bay. Về đến nhà hai người chị vào cung tâu với vua cha: - Hai chúng con xuôi mảng, kén được chồng đẹp, còn em Ba ngại đi xa, nên lấy ngay phải chồng cọp rồi! Vua nói: - Cha đã cho các con tự ý đi tìm chồng, ưng thuận ai thì lấy người ấy. Nay nàng Ba đã lấy phải cọp, thi cọp cũng là chồng. Hai nàng cười lui ra. Một hôm, vua gọi ba rễ vào bảo: - Trâu, ngựa, bò, lợn ta thả ở trong rừng. Rể nào lùa được chúng vào chuồng mình, rể đó là người làm ăn giỏi, ta sẽ thưởng cho số gia súc đó. Hai chàng rể xinh đẹp sai gia nhân vào rừng làm mỗi người một cái chuồng thật đẹp rồi đi vào rừng. Hai chàng ngợp mắt trước đàn gia súc của nhà vua, nhưnh không biết cách nào lùa chúng vào về chuồng mình. Họ vác gậy hò hét, rượt đuổi. Nhưng hai chàng đuổi ở đầu núi này, thì đàn gia súc chạy sang núi nọ, toát mồ hôi mà vẫn không lùa chúng về được. Trong khi đó rể Cọp, hì hục vác gỗ to cọc lớn quây một vùng đất rộng làm chuồng. Hàng rào của chàng tuy xấu nhưng chắc chắn bên trong lại rộng. Chiều tối, khi hai người anh đã mệt lữ, Cọp mới lững thững bước đi vào rừng. Lạ thay, vừa trông thấy cọp, tất cả trâu, bò, ngựa, lợn của nhà vua ngoan ngoãn theo chàng về nhà. Thấy vậy, hai chàng rể chạy về tâu vua: - Hai chúng con có chuồng đẹp, chẳng biết sao đàn gia súc không một con nào chạy vào đó cả. Trâu, bò, ngựa, lợn đi vào chuồng xấu xí trơ trọi của em rể Cọp hết rồi. Nàng Cả, nàng Hai tức tối: - Trâu, bò, ngựa, lợn không được thì thôi, chồng đẹp mới quý! Vui nói: - Rể Cọp làm ăn giỏi xứng đáng lấy được nàng Ba. Từ đó, vua rất quý Cọp. Đến ngày sinh của vua cha, rể cọp bảo vợ: - Hôm nay là ngày sinh của vua cha, để tôi đi lấy ít cá về làm cơm cho cha ăn. Hai chàng rể người thấy Cọp đi lấy cá cũng đi theo. Ra đến suối, cả ba chung nhau một cái chài. Hai người anh tranh lấy chài, đòi quăng chài trước. Nhưng họ sợ ướt quần áo đẹp, chỉ lội quanh quẩn ở chổ nước nông nên không được lấy một con cá nhỏ. Họ bèn đưa chài cho Cọp và bảo: - Chú Cọp làm ăn giỏi, hãy quăng thừ xem có được nhiều cá không? Cọp xách chài lội ra chỗ vực sâu, lấy cành cây vỗ vỗ vào mặt nước dồn cá vào một chỗ rồi quăng tỏa chài xuống đó. Một lát, Cọp kéo chài lên, bắt được vô khối cá. Cọp quăng liền mấy tay chài, được một mẻ cá đầy gánh về cho vợ dặn: - Mình đem cá này làm cơm mời vua cha. Tôi có việc đi vài ba ngày. Khi nào thấy mưa to gió lớn là tôi về đấy. Nói xong, rể Cọp chạy ra bờ sông, nhảy tùm xuống nước biến mất. Hai chàng rể kia thấy vậy hớt hải chạy về báo với vua cha: - Rể Cọp ngã xuống sông chết rồi. Vua thương tiếc cọp lắm. Còn rể Cọp, sau khi xuống nước, chàng trút lốt da trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, mặc quần áo đẹp, lên ngựa về nhà. Lúc ấy, trời mưa to gió lớn, sấm chơp đùng đùng. Mọi người thấy một chàng trai da trắng, cưỡi con ngựa từ xa đi lại. Biết là chồng mình, nàng Ba vui mừng chạy ra đón. Bấy giờ mọi người biết đó là Cọp, vô cùng kinh ngạc. Ai cũng trầm trồ ngắm nghía. Riêng hai người chị vừa tức vừa xấu hổ. Chàng Cọp đón vợ về nhà. Khi hai vợ chồng vừa đến nơi, căn nhà bỗng biến thành một toà nhà nguy nga tráng lệ, xung quanh có vườn, có ao, co nương, co ruộng. Hai vợ chồng Cọp ở khi nhà ấy, ngày ngày cùng nhau làm rương phát rẫy, sống cuộc đời đầm ấm, hạnh phúc. Họ nuôi được nhiều trâu, bò, ngựa, lợn. Đến mùa thì thóc lúa đầy vựa, đầy bồ. Còn hai cô chị, tuy lấy chồng đẹp nhưng lại là những anh chàng lười nhác, chẳng làm được tích sự gì. Nguồn: Làng Xì trum ST: Thu Hiền
Sự tích hoa mai vàng Ngày xửa... Ngày xưa... Có một cô bé rất giàu lòng yêu thương. Cô yêu bố mẹ mình, chị mình đã đành, cô còn yêu cả bà con quanh xóm, yêu cả ba ông Táo bằng đá núi đêm ngày chịu khói lửa để nấu cơm, hầm ngô, nướng thịt cho mọi người ăn. Một lần, thương ba ông Táo, trời đã nóng lại chịu lửa suốt ngày đêm, cô bé mới lên năm ấy đã lấy một gáo nước to dội luôn lên đầu ba ông. Tro khói bốc lên mù mịt. ông Táo già nhất vụt hiện ra nói: - Cháu thương ta nhưng chưa hiểu ta. Lửa càng nóng, ta càng vui. Cháu mà dội nước thì có ngày ta bị cảm mất. Từ đấy, cô bé không dội nước lên đầu ba ông Táo nữa. Nhưng ông Táo già thì thỉnh thoảng lại hiện lên trò chuyện với hai chị em cô bé trong chốc lát. Một hôm thương ông, cô em hỏi: - Ông thích lửa thôi à? Ông còn thích gì nữa không? -Có chứ! Năm sắp hết. ông phải về trời! Cháu bắt cho ông con cá chép ông cưỡi về Trời thì ông thích nhất. Cô bé liền rủ chị đi bắt cho bằng được một con cá chép về. Cô bỏ ngay vào bếp lửa rồi nói: - Ông Táo ơi! Chúng cháu biếu ông con chép này đây! Con cá chép vụt biến mất. Tối hăm ba Tết, quả nhiên hai chị em thấy ông hiện ra, sau đó cưỡi con cá chép như cưỡi ngựa, bay ra khỏi nhà và bay cao mãi lên trời... Bố cô bé là một người đi săn thú rất tài giỏi. Ông thường chỉ thích đi săn thú dữ. Ông bảo: - Còn thú ác thì tôi còn đi săn cho kỳ hết! Ông không muốn truyền nghề cho con mình, vì cả hai đều là gái. Nhưng cô em lại rất thích nghề của cha. Lên năm cô đã xin cha dạy cho mình đủ cả côn, quyền và đao kiếm. Cô tuy bé người nhưng nhanh nhẹn vô cùng, và về sức mạnh của đôi tay cô, người cha cũng phải kinh ngạc. Lên chín, cô đã hăm hở xin theo cha đi săn thú. Người mẹ và người chị lo lắng, nhưng cô bé đã thưa ngay: - Con không giết được con mồi bằng một nhát như cha thì con đâm ba nhát, năm nhát, mẹ và chị cứ yên tâm. Nói sao làm vậy, cô bé lần đầu theo cha đi săn đã giết ngay được một con lợn lòi rất hung dữ... Trong vùng bỗng xuất hiện một con quái đầu người mình báo. Bà con ai cũng lo lắng, khiếp sợ. Vì con quái vật chỉ thích ăn thịt người, nhất là thịt trẻ con. Người cha liền dẫn cô gái nhỏ đi tìm quái vật để giết. Người mẹ và chị can ngăn nhưng không được. Người cha bảo: - Tôi chỉ cho nó đi theo để xem, còn diệt quái ác là việc của tôi, hai mẹ con đừng lo. Hai cha con đi được mấy ngày thì có tin con quái đã bị người cha giết chết thật. Bữa hai cha con trở về, bà con trong vùng mang rượu, gà vịt đến làm cỗ ăn mừng. Cô gái nhỏ không quên đặt vào bếp lửa một con cá chép và khấn với ông Táo già: - Chúng cháu xin gửi biếu ông con chép để thỉnh thoảng ông cưỡi đi chơi. Ông Táo già lại hiện lên cám ơn cô bé và hỏi: - Cháu thấy con quái có sợ không? - Cháu chỉ thích được cha cháu cho cháu được cùng đánh với nó, nhưng cha cháu không chịu. Người cha sau đó bỗng bị ốm nặng. Người mẹ và hai cô gái hết lòng chăm sóc. Bệnh người cha có đỡ, nhưng sức khỏe thì không còn được như trước nữa. Vài năm sau, ở vùng trong xa, bỗng xuất hiện một con quái cũng đầu người nhưng mình trăn. Con quái này có sức khỏe ghê gớm. Nó có thể quấn chết một con bò mộng chỉ trong chớp mắt. Nó lại cũng thích ăn thịt trẻ con và có thể ăn một lúc đến mấy đứa. Bà con vùng đó liền cử người ra mời cha con người đã giết con quái đầu người mình báo vào diệt quái giúp bà con. Người cha nhìn cô gái nhỏ của mình hỏi: - Liệu con có nhận lời đi giúp bà con không? Cô gái nhỏ liền đáp: - Con xin cha mẹ và chị để cho con đi! Người cha nói: - Cha sẽ cùng đi với con, nhưng cha chỉ giúp con thôi. Lần này chính con phải lo diệt quái đấy. Người mẹ và chị càng lo lắng gấp bội. - Ông ơi! Đường từ đây vào đó xa xôi cách trở. Quái thì dữ ác mà con bé thì mới mười bốn tuổi, tôi sợ lắm. - Cha ơi! Cha và em nhận lời, rủi có chuyện gì thì mẹ và con làm sao sống nổi. Cô gái nhỏ liền thưa: - Mẹ và chị à, con tuy còn nhỏ nhưng con có đủ sức để diệt quái. Bà con đã ra nhờ lẽ nào mình lại từ chối. Mẹ và chị cứ yên lòng. Cha và con diệt xong quái sẽ trở về ngay. Thấy không can ngăn được, người mẹ và chị đành lo chuẩn bị mọi thứ cho hai cha con lên đường. Trước đó người mẹ đã may áo mới cho hai con ăn tết, bây giờ bà liền hỏi cô gái nhỏ: - Con muốn mẹ nhuộm áo cho con màu gì? Cô bé nhìn ra ngoài đồi núi, rồi đáp: - Con rất thích màu vàng! Người mẹ liền giã nghệ nhuộm cho con một màu vàng thật tươi. Ngày lên đường, cô bé mặc chiếc áo vàng, nhìn càng khỏe, càng đẹp. Cô nói với mẹ và chị: - Diệt xong con quái lúc về con sẽ mặc áo này cho mẹ và chị nhận ra được con ngay từ xa... Trước khi đi cô gái cũng không quên khấn chào ông Táo đá núi và hứa: - Cháu sẽ trở về kể chuyện diệt quái cho ông nghe. Ông Táo liền hiện ra nói: - Chúc hai cha con mau trừ được quái. ông sẽ chờ ngày trở về... Hai cha con đi ròng rã hơn một tháng trời mới vào đến nơi có con quái đầu người mình rắn. Nghỉ ngơi được dăm ba ngày, hai người liền đi tìm quái để diệt. Hai cha con đánh nhau với nó hai ngày liền mà không diệt nổi. Sức của người cha thì cứ yếu dần. Cô bé liền thưa với cha: - Cha ơi! Ngày mai cha cứ để cho con bám sát nó. Con sẽ đâm một con dao găm chặt đuôi nó vào thân cây này, đâm một con dao cắm chặt mình nó vào thân cây khác. Nó không quăng mình đi được thì ta sẽ lựa thế mà chặt đầu nó đi. Người cha biết cách đánh đó hay nhưng rất nguy hiểm. Tin vào tài nghệ của con, ông gật đầu: - Được! Nhưng con phải đề phòng cẩn thận nếu nó dứt được đuôi ra. - Cha cứ yên tâm. Ngày hôm sau theo cách đánh ấy, hai cha con quả đã diệt được quái. Nhưng trước khi chết nó đã quẫy mạnh một cái, dứt được cái đuôi ra khỏi mũi dao. Sau đó nó liền cuốn ngay lấy người cô bé. Cô bé vừa chặt được cái đầu con quái thì cũng bị con quái quấn gẫy cả xương mềm nhũn cả người. Thấy con gái yêu của mình chết, người cha buông rơi cả thanh kiếm, chạy đến đỡ lấy xác con. Bà con trong vùng cũng vừa chạy đến. Họ đem xác cô gái về chôn cất rồi lập đền thờ. Nhưng cô gái đâu chịu chết như vậy. Vì cô biết rằng cha mẹ chị mình cùng bà con vùng trong, vùng ngoài đều yêu quý mình, mà cô cũng yêu quý và muốn sống với họ. Cô xin thần Đất giúp cô biến thành một con chim lông vàng rực rỡ, một con chim chưa ai thấy bao giờ rồi bay về quê nhà xin gặp ông Táo đá núi: - Ông ơi! Cháu bị con quái quấn chết. Nhưng cháu mà chết thì mẹ cháu, chị cháu làm sao sống nổi. Vậy đêm nay hăm ba Tết, ông có về trời ông hãy tâu với trời cho cháu sống lại... Ông Táo đá núi liền hứa: - Được, ông sẽ tâu giúp cho cháu... Con chim lông vàng rực rỡ liền bay xuống chỗ mẹ và chị đang ngồi, kêu lên mấy tiếng rồi bay đi. Cũng vừa lúc đó người mẹ và chị biết tin là cô gái nhỏ đã không còn nữa. Bà mẹ ngã ra chết giấc bên bếp lửa. ông Táo đá núi liền đưa hai bàn tay ấm nóng áp vào trán cho bà tỉnh lại và nói ngay: - Bà cứ yên tâm. Đêm nay về trời, tôi sẽ xin trời cho cháu sống lại. Hai mẹ con nghe nói mừng quá liền sụp xuống lạy tạ ơn. Ông Táo đi tối hăm ba thì tối hăm tám ông trở về hạ giới. ông nói với hai mẹ con: - Trời rất thương cô bé nhưng cháu chết đã quá ngày, xin sống lại quá chậm. Vì vậy trời chỉ có thể cứu cho cháu mỗi năm sống lại được chín ngày. Hai mẹ con nghe nói vừa buồn nhưng cũng vừa mừng. Thôi cứ được trông thấy con, thấy em trong giây lát cũng đã đỡ khổ rồi. Huống gì lại được thấy đến chín ngày. Bà mẹ liền hỏi: - Ông ơi! Bao giờ thì cháu sống lại được? - Tùy hai mẹ con cứ cầu trời sống từ ngày nào, trời sẽ cho ngày ấy. - Vậy nhờ ông xin cho cháu sống lại ngay đêm nay! - Đêm nay thì chưa được, sớm nhất là phải từ đêm mai! - Vâng, ông xin cho cháu sống lại từ đêm mai vậy! Hai mẹ con suốt đêm hôm ấy cứ thức mãi. Cả ngày hôm sau, hai mẹ con đều chẳng muốn làm gì. Chỉ mong cho trời chóng tối. Chờ mãi rồi trời cũng tối thật. Hai mẹ con hồi hộp đợi, không biết con mình, em mình sẽ sống lại trở về như thế nào. Định khấn gọi ông Táo thì bỗng nghe ngoài cổng có tiếng gọi: - Mẹ ơi! Chị ơi! Hai mẹ con vụt chạy ra và thấy đúng là cô gái nhỏ đã trở về. Trong chiếc áo vàng vẫn sáng lên nhìn rất rõ. Ba mẹ con ôm nhau khóc như mưa. Ngày hôm sau người cha cũng từ vùng trong trở về. Dọc đường thương con, thương vợ ông chưa biết sẽ nói gì cho vợ và con ở nhà đỡ khổ. Không ngờ khi về đến nhà đã thấy cô gái nhỏ đang nằm ngủ bên cạnh mẹ và chị. Ông dụi mắt tưởng là con bé nhà ai đến chơi. Khi biết cô gái nhỏ đã được sống lại, trở về ông liền ôm chầm lấy con và cứ để cho nước mắt chảy dài trên má. Cô gái nhỏ ăn Tết với cha mẹ và chị đúng chín ngày. Trong chín ngày đó, cô gái nhỏ dành làm hết mọi công việc để giúp cha mẹ, giúp chị. Nhưng cả nhà lại không muốn cô gái làm việc gì. Trong chín ngày, họ sống bù cho cả một năm sắp phải xa nhau. Đến đêm thứ chín trời vừa tối, cô bé vừa kịp ôm lấy cha, mẹ và chị để chào ra đi thì người cô bỗng cứ mờ dần như sương khói rồi biến mất. Cả nhà buồn rầu, thương nhớ cô gái nhỏ vô cùng. Nhưng nghĩ đến chuyện Tết năm sau, cô sẽ về, mọi người lại ôn ủi nhau, lại kiên nhẫn chờ đợi... Và năm sau, cũng vào chiều hai chín Tết, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về ăn Tết với gia đình rồi đến tối mồng Bảy lại ra đi... Năm nào cũng thế. Nghe chuyện lạ, người vùng trong liền cử người ra mời cả gia đình vào sinh sống trong đó để bà con được trả ơn và gặp lại cô gái nhỏ đã giúp bà con diệt được con quái đầu người mình trăn. Thấy sức người cha đã suy yếu, cả nhà bàn với nhau và nhận lời. Từ đấy hàng năm, cô gái nhỏ áo vàng lại trở về sống chín ngày cuối năm, đầu Xuân với cha mẹ, với bà con vùng trong. Khi cha mẹ và chị đều mất cả, cô gái không về nữa. Cô hóa thành một cây hoa ngay ở ngôi đền bà con đã dựng lên để thờ cô. Cây ấy hầu như cả năm chỉ có lá, nhưng cứ vào khoảng gần Tết, hoa lại nở đầy. Hoa màu vàng tươi như màu áo của cô gái nhỏ ngày trước. Hoa vui Tết với bà con khoảng chín mười ngày rồi rụng xuống đất, biến mất để năm sau lại trở về. Cây hoa ấy ngày nay ta gọi là cây Mai Vàng. Ngày Tết ở miền Trung và ở Nam Bộ, bà con thường mua một cành mai vàng về cắm trên bàn thờ ông bà. Họ tin rằng, có cành mai vàng vừa đẹp nhà vừa vui Tết lại vừa có thể xua đuổi được hết các loài ma quái trong suốt cả năm. Nguồn: Làng Xitrum ST: Thu Hiền
Truyện anh khờ được kiện Có một anh chàng nọ quá đỗi thật thà nên mọi người gọi anh là thằng Ngốc. Chàng Ngốc khoẻ mạnh, yêu đời và lao động giỏi. Anh chàng nghèo khổ, không cửa không nhà phải đi ở mướn cho một tên trọc phú. Anh làm lụng quần quật suốt ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác. Thấy anh khoẻ mạnh dễ sai bảo nên sau năm năm nghe anh ta đòi tiền công, hắn dỗ dành anh thêm cho hắn năm năm nữa. Lại năm năm nữa trôi qua. Thấy anh đòi tiền công để về, lão trọc phú lại dỗ: - Mi ở với ta đã lâu thành ra thân tình trong nhà nên ta không nỡ chia tay ngay với mi. Thôi mi ở với ta thêm năm năm nữa rồi ta đưa tiền công cả mười lăm năm ba nén vàng. Lúc đó thì mi tha hồ giàu có. Nghe bùi tai, chàng Ngốc lại dồn hết sức lực làm việc quần quật cho lão trọc phú thêm năm năm nữa. Lần này hết hạn anh một mực đòi thôi việc. Dỗ mãi cũng không được, lão trọc phú bèn mang vàng ra trả. Chàng Ngốc cầm vàng hý hửng đi mà đâu biết được lão trọc phú đưa cho toàn vàng giả. Có tiền trong tay chàng Ngốc định đi ngao du thiên hạ cho thoả lòng mong ước được biết đó biết đây sau bao nhiêu năm lao động nhọc nhằn. Ði được một hồi anh ghé vào nhà một người thợ bạc. Người thợ bạc hỏi cho biết anh là ai và đi đâu, thì chàng Ngốc kể hết chuyện mình ra sao, được trả công như thế nào. Nhìn mấy nén vàng anh ta khoe người thợ bạc thấy anh chàng này ngốc nghếch nên định bụng lừa, hắn bảo: Ở chốn thành đô chỉ có nhà quyền uy mới xài được, chớ dân thường thì rát khó lắm, tốt hơn hết anh nên đổi ra bạc nó dễ tiêu lắm. Sẵn đây tôi có mấy nén bạc anh thích thì tôi đổi hộ cho, cứ một vàng ăn hai bạc. Nghe có lý chàng Ngốc khẩn khoản xin đổi hộ. Không ngờ lão thợ bạc lại đưa sáu thỏi chì giả bạc. Chàng Ngốc cầm lấy cầm lấy cám ơn rối rít và lại vui vẻ lên đường. Ðến một nơi khác trên đường tới kinh đô anh chàng gặp một thợ giày. Mải nói chuyện vui miệng với người đó anh kể là mình có sáu thỏi bạc. Hắn biết là bạc giả song đang cần chì nên gạ đổi lấy một nghìn tờ giấy, hắn chỉ vào thứ giấy lụa giả của mình và bảo: - Ðây là thứ "lụa đinh kiến" quý lắm, anh nên đem tới kinh đô bán, cứ mỗi vuông lấy một quan tiền thì tha hồ mà tiêu. Nghe bùi tai chàng Ngốc đồng ý ngay. Khi ngang qua trường học thấy một người học trò đang chơi chong chóng thấy giấy xanh mà cả đời anh chưa thấy bao giờ nên thích lắm bèn tới xem và hỏi: - Cái gì thế này? Cậu học trò láu lỉnh nói đùa: - Ðây là cái "thiên địa vận" dùng nó có thể biết được việc trời đất, mọi việc thế gian đều tỏ tường, nó quý lắm vì điều gì cũng đoán được trước. Chàng Ngốc nghe vậy bèn gạ đổi lấy một nghìn vuông lụa đinh kiến của mình. Cậu học trò tất nhiên là đồng ý luôn. Với "thiên địa vận" trong tay, chàng Ngốc nghĩ đã đến lúc được mọi người sẽ kính phục hết nhẽ. Qua một cánh đồng rộng chàng Ngốc thấy đám trẻ chăn trâu đang chơi một con niềng niễng lớn có đôi cánh xanh đỏ rất đẹp. Tò mò anh lại xem. Bọn chúng không muốn cho anh xem nên chúng nói dóc anh hốt hoảng. - Anh tránh ra đi, đây là "ngọc lưu ly" quý hiếm lắm. Ðeo nó vào người thì hè mát, đông ấm, đến đức vua cũng chưa chắc đã có. Chàng Ngốc nghe vậy nghĩ là không ngờ lên đời có của quý đến thế, quý tới mức đến đức vua cũng chưa có. Anh chàng bèn đem "thiên địa vận" của mình ra gạ đổi, lũ chăn trâu thấy chong chóng đẹp nên bằng lòng đổi. Chúng bỏ con niềng niễng vào túi còn thắt miệng lại dặn thằng Ngốc: - Lúc nào về đến nhà thì mở xem. Không thì ngọc bay mất đấy. Ðược viên ngọc quý rồi chàng Ngốc định bụng vào triều dâng vua để ngắm cảnh vương triều. Nhưng tới cửa ngọ môn thì chàng ta bị lính gác chận lại. Chàng Ngốc than vãn: - Tôi đi làm thuê, làm mướn những mười lăm năm trời vất vả mới được ba nén vàng, rồi đổi lấy sáu thỏi bạc, đến một ngàn vuông "lụa định kiến", đến cái "thiên địa vận" cuối cùng viên ngọc quý đó, vậy cớ sao không cho tôi vào. Lúc đó có một gian thần đi ngang qua nghe chàng Ngốc nói có hột ngọc lưu ly hắn liền nổi lòng tham liền nhận lời dẫn chàng Ngốc vào bái kiến, hắn bảo anh cứ tạm thời chờ ở cửa. Cầm được cái túi, tên quan thấy có gì đó tròn tròn ở trong thì khấp khởi mừng thầm. Hắn bước qua ngưỡng cửa hoàng cung bèn giở ra xem thực hư như thế nào để tìm cách chiếm đoạt. Ai dè mở túi ra nó bay vụt mất. Chàng Ngốc thấy vậy túm lấy tên quan bắt đền. Anh giơ tay đánh trống ở hoàng cung vang lên. Bọn lính kéo anh ra cửa đánh. Chàng khóc ầm ĩ. Thấy động vua sai người ra dẫn chàng Ngốc vào hỏi sự tình. Ngốc tâu: - Muôn tâu bệ hạ, tôi đi ở mười lăm năm được ba nén vàng, rồi sáu nén bạc, rồi một ngàn vuông "lụa đinh kiến" rồi cái "thiên địa vận" mới được hòn "ngọc lưu ly" để đem vào dâng bệ hạ, thế mà cái ông quan kia mở túi làm viên ngọc bay mất. Xin ngài rủ lòng thương xử cho con với. Tên gian thần thì ra sức chối cãi, xong vua vẫn phán: - Tên dân này đem hòn ngọc lạ dâng ta. Ðó là ý tốt. Ðể mua viên ngọc đó hắn tốn bao nhiêu công sức và tiền của, vậy kẻ làm mất viên ngọc không chỉ có tội với ta, mà còn phải bồi thường cho người có ngọc đủ số chi phí để có viên ngọc quý đó. Ðoạn vua quay sang nói với chàng Ngốc: - Trẫm ban cho ngươi một chức quan nhỏ để thưởng công cho lòng trung hiếu với trẫm. Chàng Ngốc sướng đến run người, chàng nhận đủ số tiền bồi thường và vui vẻ đi nhậm chức quan mà nhà vua đã ban cho chàng. Nguồn: Làng xì trum.