Gương thượng cổ, Vua Hùng Quốc Tổ Sống vì đời, luôn mãi vì dân Quốc Tổ Hùng Vương là nhà tư tưởng vĩ đại có một không hai trên trái đất kéo dài hàng triệu triệu năm từ khi nhân loại ra đời tới bây giờ. Người là nhà giáo dục, nhà thơ nhà văn hiện đại, nhà chính trị quân sự siêu tột thiên tài; nhà Đạo Đức, khoa học vật chất lẫn tinh thần am hiểu thấu suốt Cội Nguồn vũ trụ; nhà biết trước thấy trước bậc nhất của nhân loại con người. Người không những có công dựng nước, mà còn có công xây dựng lên Văn Hóa Cội Nguồn, Chủ Nghĩa Đại Đồng Quốc Đạo Dân Tộc. Làm cho dân giàu nước mạnh, công bằng văn minh. Giải thoát tội lỗi hướng tới chân thiện mỹ. Đưa xã hội tiến tới đại đồng bình đẳng, tự do, ấm no hạnh phúc. 1. LỜI NGÕ Ngót gần 5000 năm trước, Quốc Tổ Vua Hùng khai sinh ra nước Văn Lang, khai sinh ra “Văn Hóa Cội Nguồn”, hiến pháp Văn Lang, nền quốc đạo dân tộc. Dân tộc Văn Lang không những thống nhất chung ‘cùng Cội cùng Nguồn’, mà còn thống nhất chung cùng một chữ “Việt“, gọi là “Bách Việt Văn Lang”. “Văn Hóa Cội Nguồn” không những thống nhất về mặt tinh thần mà còn thống nhất về dân tộc, toàn diện hơn, sâu sát hơn. Tạo cho dân tộc Văn Lang không những đoàn kết mà đại đoàn kết. Tạo lên sức mạnh thần thánh của đất nước Văn Lang. Trải qua hàng nghìn năm “Bách Việt Văn Lang” lưu lạc khắp nơi, phần nhiều trụ lại ở nước Việt Nam trở thành 54 dân tộc anh em; một số ở miền Hoa-Nam nước Tàu, số khác vì thời cuộc mà tỏa ra khắp năm châu bốn biển…/. Chờ ngày nhận Tổ quy Tông, đoàn viên sum hiệp, tay bắt mặt mừng! Khối tình Bách Việt nước Văn Lang Vạn thuở cách xa, chẳng bẽ bàng Thầm ước một ngày, Mai hội hiệp Mặt mừng tay bắt, nở vinh vang Quốc Tổ Vua Hùng gồm thâu Bách Tộc khai sinh ra nước Văn Lang. Điều đặc biệt ở đây là Quốc Tổ không dùng vũ lực chiến tranh mà chỉ dùng Văn Hóa Cội Nguồn khai dựng lên đất nước Văn Lang. Ở vào thời điểm ấy khắp nhân gian không ai có thể sánh kịp Chí Tôn Quốc Tổ, không đất nước nào sánh kịp đất nước Văn Lang. Bách Tộc trở thành Bách Việt Văn Lang không cần động đến gươm đao giáo mác – bất chiến tự nhiên thành. Sự trị quốc của người phải nói là văn minh nhất thời đại. Xóa bỏ độc tài độc trị từ phong kiến vua chúa đi vào hiến pháp đa nguyên. Tôn trọng quyền con người, quyền công dân, quyền công bằng bình đẳng xã hội. Ai ai cũng được tự do mưu cầu hạnh phúc. Lấy Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp đi vào cuộc sống, chỉ duy nhất một Pháp Vương Hiến Pháp tối cao nước Văn Lang không già không trẻ không sanh không diệt. Các đời Vua Hùng nối nhau tôn thờ. Hiến Pháp Văn Hiến chính là nền Văn Hóa Cội Nguồn – Quốc Đạo Văn Lang, cũng là ngôi nhà chung của toàn dân tộc Bách Việt Văn Lang. Trong khi đó các nước trên toàn thế giới bấy giờ, vua, chúa coi chúng dân như nô lệ, chỉ là giai cấp dân đen, xem thường khinh bạc, sống không có tự do không có công bằng bình đẳng, chia rẽ phân biệt giai cấp. Cai trị dân bằng thể chế độc tài độc trị, khắp mọi nơi thường bắt gặp những bất công, những ngang trái, đầy dẫy sự oan sai. Người dân luôn sống trong sợ hãi lo âu chán chường. Văn Hóa Cội Nguồn là nền văn hóa khai dựng lên nước Văn Lang (nay là nước Việt Nam). Văn Hóa thống nhất cả Đời lẫn Đạo. Đời Đạo cũng chỉ là một, trong đời có Đạo, trong Đạo có đời. Tốt đời thời đẹp Đạo, tốt Đạo thời đẹp Đời. Cuộc sống vì thế mà an vui hạnh phúc, dân giàu nước mạnh, công bằng bình đẳng ai cũng như ai không ai khác ai, đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp văn minh, không có nước nào dám xâm lược nước Văn Lang. Vì nước Văn Lang có nền Quốc Đạo lừng danh thiên hạ, thống nhất từ trên xuống dưới một lòng một dạ, nhất hô bá ứng, sức mạnh nội lực Dân Tộc dời non lấp bể, làm khiếp đảm các nước láng giềng xung quanh. Về sau đến thời hạ Hùng Vương thứ 11, Hùng Chinh Vương (683-641 TCN) thì nền Quốc Đạo – Văn Hóa Cội Nguồn đã bị phai lạt. Ở vào Niên Đại Hùng Vương không có giấy bút mực tinh vi, chân lý chánh nghĩa của Văn Hóa Cội Nguồn vì thế đi lần vào thất truyền, sự truyền khẩu kéo dài dẫn đến tam sao thất bản nền Văn Hiến Quốc Đạo Văn Lang. Bóng u minh vì thế đã trùm xuống ở vào giai đoạn thời cuối các Vua Hùng và cho đến tận ngày nay lên Non sông Đại Việt. Các thế lực ngoại xâm lợi dụng sự thất truyền ấy xâm lược văn hóa, chính trị; đầu độc dân tộc ta, đô hộ cai trị dân tộc ta gần hai nghìn năm đau thương khốn khổ. Và kỳ tích đã xuất hiện: Thế kỷ 21, Văn Hóa Cội Nguồn phục hoạt trở lại, tâm đạo trở về với con cháu Rồng Tiên Việt Nam, trở thành động lực chủ lưu cho sự hưng khởi dân tộc. Sự phục sinh, hồi sinh của Văn Hóa Cội Nguồn đem lại mùa xuân mới. Nước Việt Nam sẽ trở thành hùng mạnh, nếu không muốn nói là lẫy lừng vang dội khắp năm châu bốn biển, thái bình thịnh trị độc lập hàng nghìn năm. 2. TÓM TẮT TIỂU SỬ QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG Theo kinh Long Hoa Mật Tạng, Anh Linh Quốc Tổ truyền lại: Trong trăm họ đầu tiên nhân loại. Có họ Trời, họ Trời chính là họ Cao (Trời Cao). Họ Cao ra đời mang họ Trời, tồn tại qua các thời kỳ của mỗi tiểu kiếp. Thời Hồng Hoang, Hồng Nguyên, Hồng Bàng, Hồng Đế, Viêm Đế đến thời niên đại Kinh Dương Vương. Cứ mỗi tiểu kiếp là 16 triệu 800 nghìn năm. Như vậy họ Cao đã khởi nguồn từ giữa tiểu kiếp thứ 5 đến nay cuối tiểu kiếp thứ 9, đã trải qua 75 triệu 600 nghìn năm. – Quốc Tổ Hùng Vương là con một của Kinh Dương Vương đời thứ 9 (Lộc Tục). Mẹ là Thần Long Nữ (bộ tộc Long Giao) – Quốc Tổ sinh ngày 20 tháng 2 năm Giáp Thìn – Quốc Tổ họ Cao, tên Hùng Lan – 16 tuổi Quốc Tổ đi tìm chân lý – 22 tuổi Quốc Tổ chuyển đại pháp luân khai Hội Long Vân tại vườn cấm nằm ở phía tây nước Xích Quỷ Theo niên lịch Đại Nam, có từ thời Viêm Đế: Ngày 2 tháng 3 năm Ất Sửu, Quốc Tổ thuyết giáo nói ra Văn Hóa Cội Nguồn Đại Đạo Vũ Trụ. Hàng phục Bách Tộc sau nầy trở thành Bách Việt Văn Lang. Văn Hóa Cội Nguồn trở thành Nền Quốc Đạo Văn Lang. – 25 tuổi Quốc Tổ dẫn quân Âu, Lạc Bách Việt. Tiến về đất Địa Long Lãnh Nam, nằm ở phía nam nước Xích Quỷ (nay là Địa Long chữ S Việt Nam). Quốc Tổ cùng quân Bách Việt tiêu diệt ba con yêu tinh chúa quỷ: Mộc Tinh, Ngư Tinh, Hồ Tinh, khai lập lên nước Văn Lang vào năm Mậu Thìn – 30 tuổi Quốc Tổ lên ngôi Quốc Vương vào ngày 2 tháng 9 năm Quý Dậu. Lấy Niên Hiệu Hùng Vương, công bố Niên Đại Hùng Vương ra đời kế theo Niên Đại Kinh Dương Vương. Nước Xích Quỷ trở thành nước Văn Lang rộng lớn. Công bố Nền Quốc Đạo cũng như Nhà Nước Văn Lang ra đời (2959 trước công nguyên) – Quốc Tổ năm 41 tuổi Quốc Mẫu Phụng Cơ sinh Hùng Quý Lân – 109 tuổi Quốc Tổ truyền ngôi cho Hùng Quý Lân 2880 trước công nguyên – 79 năm Quốc Tổ ở ngôi Quốc Vương – 3 năm Quốc Tổ ở ngôi Thái Thượng Hoàng Quốc Đạo Quốc Tổ thọ 112 tuổi. Về trời vào ngày mùng 10 tháng 3 theo niên lịch Đại Nam Văn Hiến. Tóm lại: Quốc Tổ ra đời đến nay 2022 là năm nghìn không trăm mười một năm (5011 năm); Niên Đại Hùng Vương đến nay 2022 là bốn nghìn chín trăm tám mươi mốt năm (4981 năm). (Niên Lịch Đại Nam Văn Hiến thất truyền vào thời An Dương Vương kết thúc Niên Đại Hùng Vương 258 trước công nguyên) 3. TOÀN NĂNG TOÀN GIÁC ANH LINH QUỐC TỔ (A) Quốc Vương Thủy Tổ Vua Hùng là con cả của đấng Hư Không Tổ Tiên Như Lai Vô Vi Tạo Hóa. Anh cả của Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. – Đứng đầu tam giáo: Phật, Thánh, Tiên – Đứng đầu ngũ giáo: Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa – Duy trì thất giáo: Phật Giáo, Thánh Giáo, Tiên Giáo, Thiên Giáo, Địa Giáo, Nhơn Giáo, Thầy Giáo Theo kinh tạng Văn Hóa Cội Nguồn: Chân tánh Tổ Tiên lập lên vũ trụ, thức tánh Tổ Tiên lập lên muôn pháp. Thức tánh của những người chưa ngộ đạo vì còn mê tạo ra bao nghiệp ác, để rồi sa đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Thức tánh giác ngộ thiện, tạo lên xã hội thiên đàng cực lạc, trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa – dần tiến đến hội nhập Cội Nguồn. Từ đại linh hồn Khai Hóa Tổ Tiên, sau khi khai dựng tạo lập lên vũ trụ, tam thiên đại thiên thế giới, 28 tầng trời, 18 tầng địa phủ, núi Tu Di, thất sơn châu báu, bảy biển hương thủy, biển khí nước mặn, bốn cõi trần gian, nhật, nguyệt, tinh tú, thiên hà ngân hà, núi thiết vi, địa luân, thủy luân, phong luân, ba cõi vũ trụ, thiên đàng, trần gian, địa phủ. Rồi trải qua hơn một tiểu kiếp, khai lập lên muôn loài vạn vật, côn trùng, thảo, mộc rồi để cho chúng tiến hóa lên loài bò sát, cầm thú; thiên địa tuần hoàn đi vào ổn định, hình thành ba cõi tâm linh, dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Khai Hóa Tổ Tiên nhìn thấy Tiểu Linh Hồn của muôn loài vạn vật không thể tiến hóa lên làm chủ vũ trụ, mà chỉ lẩn quẩn trong loài cầm thú sát phạt ăn nuốt lẫn nhau, ác tính khởi sanh như non như núi, xung đột tàn sát khốc liệt, cũng như hiểu rõ chúng không còn tiến hóa được nữa và chúng mãi mãi không bao giờ tìm thấy được Cội Nguồn của mình. Đồng nghĩa là mãi mãi trôi lăn trong sanh tử, khốn khổ vô cùng, chúng vĩnh viễn ở mãi loài thú cầm, bò sát. Một khi ác căn quá lớn sẽ bị tiêu tan mất huệ mạng ý căn linh hồn, đọa lạc trở về linh thức loài cây cỏ, uổng công tu luyện tiến hóa hàng triệu năm. Nên Khai Hóa Tổ Tiên bằng tóm thâu tiên thiên chơn dương tinh hoa vũ trụ hiện thân ra Đức Cha Trời hay còn gọi là Lạc Long Quân, thể xác nam nhơn con người Tiểu Thiên Vũ Trụ, có đủ 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp hào quang sáng chói. Khai Hóa Tổ Tiên lại tiếp tục tóm thâu tiên thiên chơn âm tinh hoa vũ trụ hiện thân ra Đức Mẹ Trời hay còn gọi là Âu Cơ. Việc hiện thân ra con người, một nam một nữ, cốt cách Tiên Rồng, sanh con đẻ cái lưu truyền nòi giống con người với mục đích chính là để cho linh hồn các loài bò sát, cầm thú có cơ hội đầu thai làm người. Nhờ thể xác con người, thể xác cao cấp thể xác tiểu thiên vũ trụ, nên Tiểu Linh Hồn tiến hóa ý thức, nhận thức nhanh chóng, lên cảnh giới Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, làm chủ chân tâm chân tánh, làm chủ vũ trụ. Nên nói “thân người khó được” là vì lẽ đó, không phải do tự nhiên tiến hóa mà được, mà phải nhờ Đức Cha Trời Mẹ Trời sanh tạo ra giống người (động vật cấp cao). Thể xác con người là thể xác tiểu thiên vũ trụ, nhất là bộ não con người, phải nói là bộ não vũ trụ. Linh hồn con người nhờ vào thể xác con người và bộ não con người, càng gặp nhiều rắc rối khó khăn, càng nhiều chướng ngại, càng lắm gian nguy, thì linh hồn con người càng tiến hóa ý thức nhanh chóng, dày dạn kinh nghiệm, phát sanh cơ mưu trí huệ cũng như sự khôn khéo tích lũy nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống ở đời, trở thành những nhà sáng tạo, tạo vật; kế thừa làm chủ sự sáng tạo, tạo vật của Tổ Tiên, Cha Trời, Địa Mẫu. Và cũng vì một đại sự nhân duyên hy hữu hiếm có này, cách đây khoảng 75 triệu 600 nghìn năm, giữa tiểu kiếp thứ 5 của kiếp trụ, tức là ở đỉnh kiếp tăng đầu kiếp giảm. Cha Trời, Mẹ Trời bay xuống trái đất hạ chân xuống dãy núi long hoa hình chữ S chốn trần gian (địa cốt chữ S nước Việt Nam ngày nay) sanh con đẻ cái, sanh ra 100 ông bà Tổ đầu tiên của nhân loại con người, hai mươi người con Da trắng, hai mươi người con da đen, hai mươi người con da chàm, hai mươi người con da vàng, hai mươi người con da đỏ, cộng lại thành 100 người con 50 nam 50 nữ. Một trăm người con này khi chưa ra đời đều nằm chung trong bọc trứng Âu Cơ, gọi là Đồng Bào. 100 người con của Đức Cha Trời Lạc Long Quân và Địa Mẫu Âu Cơ hiện đang làm Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Chúa, Mẫu Hoàng, Phật Mẫu, Tiên Mẫu, Thánh Mẫu, v.v… cai quản khắp các tầng Trời, Tam Thiên Đại Thiên vũ trụ. Đức Giáo Tổ Chí Tôn là anh cả (gần 5000 năm trước giáng sinh làm thái tử Hùng Lan trở thành Quốc Tổ Hùng Vương) theo di chí Tổ Tiên, làm theo lời dạy của Đức Cha Trời. Nói về Khai Hóa Tổ Tiên tối cao vũ trụ, vốn có nhiều tên do Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa đặt tên tùy theo sự hội ngộ chứng biết Cội Nguồn của mình. Vì Khai Hóa Tổ Tiên vốn không có tên nên gọi Tổ Tiên là Đấng Tối Cao Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa, Đấng Đại Đạo Vô Vi hay còn gọi là Đấng Tối Cao Như Lai. Chúa Giê-Su gọi Đấng Tối Cao là Đức Chúa Trời; Phật Thích Ca gọi Đấng Tối Cao là Đức Như Lai; Lão Tử gọi đấng tối cao là Đấng Vô Vi Hư Không Đại Đạo. Từ Đại Đạo khởi sanh ra tất cả, rồi từ tất cả đều trở về Đại Đạo, từ Đại Đạo lập lên Trời. Tuy có 5 danh xưng như vậy nhưng thật ra chỉ có một đấng mà thôi, đó là đấng Tổ Tiên Khai Hóa, Đấng tạo vật khai lập lên tất cả. Năm danh xưng nầy đều linh thiêng, nhất là danh xưng Tổ Tiên thời linh ứng không thể nghĩ bàn. Hiện thân Tổ Tiên là hai đấng Tiên Rồng Cha Trời Mẹ Trời: – Tên tộc bí danh Cha Trời là “Long Hoa” – Tên tộc bí danh Mẹ Trời là “Tiên Cơ” – Uy danh của Cha Trời là “Ấn Quang Tối Thắng Như Lai” – Uy danh của Mẹ Trời là “Địa Mẫu Dưỡng Sanh Như Lai” – Tên con thường gọi của Cha Trời là “Lạc Long Quân” – Tên con thường gọi của Mẹ Trời là “Âu Cơ” Vì thế tất cả nhân loại anh em từ xưa cho đến tới ngày nay, đều phát xuất từ một Cội Nguồn Cha Trời Mẹ Trời trong bọc trứng Âu Cơ tình anh em nghĩa Đồng Bào. Nói đến con người, dù cho đó là Phật Thánh, Tiên, Thần, Chúa ở trên thượng thiên hay người phàm tục ở chốn trần gian cũng cùng chung Nguồn Cội Cha Trời Mẹ Trời; đều là con cháu, chắt, chút, chít… của Đức Tổ Tiên Tạo Hóa. Dù ở thời nào, Cha Mẹ Trời cũng dạy bảo nhân loại con người xóa bỏ hận thù, vì tất cả nhân loại đều là đồng bào anh em, chỉ vì lạc mất Cội Nguồn nên kẻ nói nầy người nói kia không nhận ra nhau, tàn sát chém giết lẫn nhau. Nay Văn Hóa Cội Nguồn – Thiên Ý Cha Trời – Thiên Luật Vũ Trụ xuất hiện; Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa là những con cái Nhà Trời phải có bổn phận trách nhiệm hướng dẫn nhân loại trở về Cội Nguồn; tiến tới thế giới Đại Đồng, siêu sanh thiên giới, trở về cõi Trời tránh tai kiếp hủy diệt tuần hoàn lặp lại vào cuối tiểu kiếp thứ 9. Sự chuyển luân trong vũ trụ, đến một thời điểm nào đó có đấng tối cao xuất hiện thay thế cho Cha Trời. Đấng Tổng Đà La Ni của tạo hóa, tổng mật tạng vũ trụ, nói ra pháp đại đồng vũ trụ. Đấng tối cao ngài là Đức Hư Không, không ở trong thất giáo, nhưng không xa rời thất giáo, tùy thuận dân trí nhân loại mà chuyển pháp luân theo Thiên Ý Cha Trời. Đức Long Hoa Cửu Huyền Cha Trời sáng lập ra thất giáo (Phật Giáo, Thánh Giáo, Tiên Giáo, Chúa Giáo, Thần Giáo, Nhơn Giáo, Thầy Giáo). Thất giáo chung cùng một cội, tổng hội chân tánh chung cùng một thể bình đẳng. Có nghĩa là chân tánh bọt nước, chân tánh của nước không khác nhau. Bọt nước hiểu rõ chân tánh của mình, thì cũng hiểu rõ chân tánh của nước. Chân tánh tối cao vũ trụ cũng đồng nghĩa chân tánh tối cao của mỗi linh hồn. Vì không ngộ được chân tánh, nên không nhận thấy đấng tối cao vũ trụ, đấng tạo hóa không tên không tuổi. Sự ở đời tuy sanh ra nhiều giáo, thất giáo, nhưng rốt lại chỉ có một giáo mà thôi đó là Văn Hóa Cội Nguồn, Văn Hóa của Chánh Đẳng Chánh Giác. Cha Trời ngự trong trong tâm thức của mỗi con người và dìu dắt con người đi đến chân thiện, trở thành vô lượng Phật Tổ, vô lượng Thánh Tổ, vô lượng Tiên Tổ, vô lượng Thần Tổ, vô lượng Chúa Tổ, vô lượng Địa Tổ, vô lượng Thầy Tổ. Khi tất cả các giáo trở về là một, hiệp vào chân tánh vũ trụ, chân tánh đại đồng, thì Đấng Tổng Trì Đà La Ni theo Thiên Ý Cha Trời chuyển đại pháp luân, tận độ khắp ta bà thế giới, tam thiên đại thiên như số vi trần. Quốc Tổ Hùng Vương (Đức Giáo Tổ Chí Tôn) thừa lệnh của Đức Cha Trời xuống trần khai lập lên nước Văn Lang, đi đôi với Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang Nền Quốc Đạo Tiên Rồng Dân Tộc; là Đức Chí Tôn thừa hành theo di chí của Tổ Tiên, đặt nền móng Thiên Đạo, Đạo Trời xuống chốn nhân gian. Đưa nhân loại trở về vũ trụ, hội nhập Cội Nguồn đến với Đấng Cha Ông, Đấng Chúa tối cao vũ trụ. Những linh căn linh hồn chuyển kiếp luân hồi liền quên mất Cội Nguồn trở thành bất giác mê muội u minh. Trải qua vô lượng kiếp tiến hóa, vô lượng kiếp tu luyện, từ bất giác mê muội u minh trở thành Hoàn giác thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Từ bọt Nước hội nhập trở về Nước, Thức Tánh trở thành Chân Tánh lên ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác. Đến khi viên mãn Đại Nguyện thì hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ. Các vị Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ đã hội nhập Cội Nguồn vào tổng thể Đại Đồng Bình Đẳng ngôi vị tối cao vũ trụ. Nếu có việc cần thiết quan trọng đối với vũ trụ, thì các Ngài từ nơi quá khứ tổng thể Cội Nguồn Chánh giác sẽ hiện thân ra làm lợi ích cho toàn nhân loại con người. Sở dĩ Đức Giáo Tổ Chí Tôn chưa hội nhập Cội Nguồn là vì nguyện lực độ sanh của Chí Tôn chưa viên mãn trọn vẹn. Đức Chí Tôn đã thệ nguyện: “Khi nào tận Độ hết thảy nhân sinh hội nhập Cội Nguồn vào ngôi Chánh Đẳng Chánh Giác thì ta mới hội nhập vào ngôi vị Tổ Tiên – Đấng tối cao – Đấng lập lên vũ trụ cùng con người”. * Nói tóm lại: Quốc Vương Thủy Tổ Vua Hùng chính là Đức Giáo Tổ Chí Tôn Thiên Đế tối cao, con cả của Cha Trời – Mẹ Trời. Chí Tôn Thiên Đế đầu thai xuống trần làm con Kinh Dương Vương trở thành Thái tử Hùng Lan. Thái tử Hùng Lan mở rộng nước Xích Quỷ về nam thành nước Văn Lang rộng lớn, chuyển sang Niên Hiệu Hùng Vương. Truyền được 41 đời: 23 đời thượng Hùng Vương, 18 đời hạ Hùng Vương, kéo dài độc lập 2701 năm. Điều đáng nói ở đây, Quốc Tổ Hùng Vương – sự hiện Thân cả Phật lẫn Chúa, cả Thần lẫn Thánh trong Huệ Mạng Chơn Linh Quốc Tổ – Tam Giáo quy nguyên ngũ chi hiệp nhất. Quyền năng Quốc Tổ là vô tận. Sự toàn năng, toàn giác chính là Pháp Thân Huệ Mạng Anh Linh Quốc Tổ. Hay nói một cách khác dễ hiểu, trí huệ Quốc Tổ vô tận vô biên không thể nghĩ bàn thể hiện qua Văn Hóa Cội Nguồn: 1 – Quốc Tổ nói ra những gì tốt đẹp nhất; 2 – Quốc Tổ nói ra những gì cao siêu nhất; 3 – Quốc Tổ nói ra những gì huyền bí nhất; 4 – Quốc Tổ nói ra những gì có lợi nhất; 5 – Quốc Tổ nói ra những gì chân thiện nhất; 6 – Quốc Tổ nói ra những gì đoàn kết nhất; 7 – Quốc Tổ nói ra những gì giải thoát nhất; 8 – Quốc Tổ nói ra những gì chứng đắc nhất; 9 – Quốc Tổ nói ra những gì thành đạt nhất; 10 – Quốc Tổ nói ra những gì viên mãn nhất. Quốc Tổ đem lại 10 lợi ích nhất trong kho tàng tri kiến vũ trụ đến với con người, thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng. Hãy gìn giữ và truyền lại cho muôn thế hệ đời sau! Văn Hóa Cội Nguồn đã có từ thời dựng nước Văn Lang cách đây 5000 năm vì không có giấy bút nên không lưu chép kinh văn lại được, chỉ truyền qua khẩu tự ngôn từ, dẫn đến tam sao thất bổn chính văn biến mất sau 2000 năm, nay Quốc Tổ trở về truyền lại. Nước non Nam Việt nước non Bừng lên sức sống dạ gan anh hùng Người xưa trở lại vẫn còn Đường nhân, ngõ nghĩa mở đàng khai thông (B) Quốc Vương Thủy Tổ Vua Hùng cũng chính là anh cả năm màu da anh em: Da Trắng hành kim, Da Chàm hành mộc, Da Đen hành thủy, Da Đỏ hành hỏa, Da Vàng hành thổ trung ương. Quốc Tổ Vua Hùng là anh cả giống dân Da Vàng Hồng Ngọc hành thổ trung ương kim, mộc, thủy, hỏa. Không những thuộc giống da trung ương của năm màu da anh em, mà còn là anh cả nhân loại từ khi nhân loại con người ra đời. Phật Thích Ca là anh cả giống dân Da Chàm Bích Ngọc hành mộc. Chúa Giê-Su là anh cả giống dân Bạch Ngọc da trắng, hành kim. Chúa Giê-Su thờ Chúa Trời hay Cha Trời cũng thế, không khác gì Quốc Tổ Vua Hùng đều thờ chung Đức Cha Trời. Đức Chúa Giê-Su theo hạnh nguyện giáng trần là Đấng chuộc tội thay cho con người. Vì con người thường phạm tội nghịch lại Thiên Ý Cha Trời. Còn Chí Tôn Thiên Đế lâm phàm xuống trần trở thành Quốc Tổ Vua Hùng không phải là Đấng chuộc tội. Mà làm theo di chí của Đức Cha Trời, nói ra Văn Hóa Cội Nguồn tận độ hồn linh nhân loại con người về trời. Văn Hóa Cội Nguồn chính là Nền Văn Hiến – Quốc Đạo dân tộc Văn Lang. * Nói tóm lại: Quốc Tổ Hùng Vương, Chúa Giê-Su hay Phật Thích Ca đều tôn thờ Chúa Trời hay Cha Trời hay Như Lai cũng thế. Tuy nhiều danh xưng có khác nhau, nhưng cũng chỉ tôn thờ một đấng Tạo Hóa Tổ Tiên ấy không khác. (C) Quốc Vương Thủy Tổ Vua Hùng cũng chính là Long Hoa Giáo Chủ – Di Lặc Đương Kim Vũ Trụ, Đấng Tổng Trì Đà La Ni năm phần pháp thân Cội Nguồn Vũ Trụ. Khi Chí Tôn Quốc Tổ lâm phàm, thời cũng có hằng hà sa số Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa lần lượt lâm phàm theo sau đó (trong đó có Chúa Giê-Su và Phật Thích Ca) tận độ nhân loại về Trời. – Kỳ một: 5000 năm trước, Quốc Tổ khai mở Đại hội Long Vân tại vườn Cấm, nước Xích Quỷ. – Kỳ hai: Từ 2500 đến 3000 năm trước, tam giáo Phật – Thánh – Tiên cũng như Chúa ra đời sau Đại hội Long Vân mấy nghìn năm – Kỳ ba: Quốc Tổ lâm phàm trở lại, khai mở ra Đại hội Long Hoa ta bà trần gian. Lập đời Thánh Đức Thượng Nguơn. Dựng dậy nền Quốc Đạo đã bị thất truyền hơn 2500 năm ở vào giai đoạn Phật Thích Ca, Khổng, Lão, Chúa ra đời. Ở vào thời Thánh Đức, tức là Kỳ Ba (giai đoạn hiện nay, thế kỷ 21 bắt đầu kỷ nguyên 3000 năm) Quốc Tổ Vua Hùng lâm phàm trở lại trần gian lần 2, thừa hành di chí Cha Trời khai mở hội Long Hoa nơi trần thế giai đoạn gần cuối tiểu kiếp thứ 9. Đến giữa tiểu kiếp thứ 10 khai mở hội Long Hoa trên cung Trời Đao Lợi thiên. Tức là tầng trời thứ hai Thượng Đà La trên đỉnh núi Tu Di. Cũng cần nên biết mỗi tiểu kiếp dài 16 triệu 800 nghìn năm, hiện nay chúng ta ở vào giai đoạn cuối tiểu kiếp thứ 9, nghĩa là còn 4 đến 5 nghìn năm nữa mới hết tiểu kiếp thứ 9 chuyển sang tiểu kiếp thứ 10. “Long” là Rồng, “Hoa” là Tiên; mạnh như Rồng đẹp như Tiên. Chúng ta cần phân biệt giữa “Hội Long Hoa Toàn Cầu” và “Hội Long Hoa Vũ Trụ”. Hội Long Hoa Toàn Cầu chính là “Hội Rồng Tiên” – Truyền thống anh linh Văn Hiến Việt Nam phục hưng tỏa sáng, xoay chuyển nhân loại toàn cầu đi vào thời đại văn minh thánh đức, thế giới đại đồng; Còn “Hội Long Hoa Vũ Trụ” là ở vào khoảng 8 đến 9 triệu năm tới, đúng như trong nhiều kinh sách đã nói rằng hàng triệu năm nữa mới đến. * Nói tóm lại: Để mở ra Cơ Long Hoa Cội Nguồn Vũ Trụ đi vào Tận Độ kéo dài 84 triệu năm, Quốc Tổ phải trải qua 3 bước: (1) Quốc Tổ phải theo lời dạy Cha Trời. Đầu thai xuống trần cách đây 5000 năm. Khai ra Hội Long Vân, gieo hạt giống Thiên Ý con Rồng cháu Tiên vào tâm hồn Bách Việt Văn Lang. Bắt đầu từ đây hạt giống Thiên Ý ấy sanh sôi nẩy nở lan truyền từ Đông sang Tây. Bằng cách dân Bách Việt Văn Lang mãn trần đầu thai khắp cùng thế giới. (2) Sau năm nghìn năm Quốc Tổ lâm phàm trở lại trần gian nói ra Văn Hóa Cội Nguồn. Cả Ấn lẫn Bút, chính là Thiên Ấn – Thiên Bút, đi vào Kinh Thơ, Triết, Truyện, Sử, Luận. Không còn bị cảnh tam sao thất bổn nữa. Thì những ai trong tâm đã có hạt giống Tiên Rồng gặp được Văn Hóa Cội Nguồn thì phát triển tươi tốt. Trở thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa dìu dắt vô lượng vô biên nhân loại về trời đi vào Cơ Long Hoa Cội Nguồn Tận Độ. Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa nơi chốn nhân gian đồng phò trì Chí Tôn Thiên Đế Quốc Tổ, cũng như chung truyền Văn Hóa Cội Nguồn Thiên Ý Cha Trời, tận độ nhân loại lập thành Quốc Độ. Những ai độ nhân loại được nhiều thành Quốc Độ cõi nước lớn ở các tầng trời cõi trời, người độ người ít thành cõi nước Thiên Đàng Cực Lạc nhỏ. Nói chung là tùy Tâm tùy sức của mỗi người. Trải qua sự tận độ bắt đầu mở màn Cơ Thánh Đức. Những người truyền giáo Văn Hóa Cội Nguồn đi vào tận độ kéo dài 8 triệu 400 nghìn năm đã trở thành những vì Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ giáo hóa vô lượng cõi nước Trời, nước Phật, nước Chúa, nước Tiên, nước Thần. Không thể tính đếm, không thể nghĩ bàn. (3) Đến lúc bấy giờ có nghĩa là 8 triệu 400 nghìn năm tới, ở giữa tiểu kiếp thứ 10, nhân loại con người trần gian thọ đến 8 muôn 4 nghìn tuổi. Thời Chí Tôn Quốc Tổ Vua Hùng Đương Kim Vũ Trụ khai mở ra Đại Hội Long Hoa Vũ Trụ, hội tụ vô lượng vô biên Phật Tổ, Thánh Tổ, Tiên Tổ, Thần Tổ, Chúa Tổ, cũng như Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa, khắp tam thiên đại thiên thế giới, cũng như Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa nơi trần gian, địa phủ đang giáo hóa vô lương vô biên cõi nước đều đến tham dự trong Cơ Vũ Trụ Đại Hội Long Hoa, trên không trung cõi trời Đà La, hay còn gọi là Đao Lợi Thiên. Thiên Tử Tối Cao Vũ Trụ xuống trần chính là Anh Linh Quốc Tổ Vua Hùng. Quyền năng cũng như trí huệ không thể nghĩ bàn. Trở lại thông báo cho toàn nhân loại biết, cũng như con cháu Tiên Rồng nương về Quốc Tổ để hành sự. Trước hết là cứu lấy nước nhà Việt Nam. Rồi từ Việt Nam, Văn Hóa Cội Nguồn tỏa sáng ra khắp năm châu bốn biển độ tận nhân loại con người về trời. Cơ Tịnh Độ Vũ Trụ kéo dài 84 triệu 4 trăm nghìn năm đã qua, giai đoạn hiện nay đã chuyển sang Cơ Long Hoa Vũ Trụ Cội Nguồn, cũng kéo dài 84 triệu 4 trăm nghìn năm. Sau Cơ Long Hoa Cội Nguồn Vũ Trụ, là Cơ Liên Hoa Hải Tạng cũng kéo dài 84 triệu 4 trăm nghìn năm thời chuyển sang Kiếp Hoại kéo dài 336 triệu năm. Nơi Cơ Vận Liên Hoa Hải Tạng Pháp Độ, Chí Tôn Giáo Tổ Liên Hoa Hải Tạng Đương Kim Vũ Trụ, mở ra 3 bước không khác gì Chí Tôn Thiên Đế Quốc Tổ đương kim vũ trụ hiện nay. Những người có công truyền giáo Liên Hoa Hải Tạng thì được dự Liên Hoa Hải Tạng nơi địa cầu, rồi đến dự Đại Hội Liên Hoa Hải Tạng nơi vũ trụ trên tầng trời Đà La, Đao Lợi Thiên mà Chí Tôn Quốc Tổ Đương Kim Vũ Trụ đương làm chuyển hóa tận độ từng giai đoạn. Trên trái đất nầy kể cả tam thiên đại thiên thế giới, thiên đàng, trần gian, địa phủ. Ở vào Cơ Long Hoa Vũ Trụ kéo dài 84 triệu năm đến, không ai hơn được Quốc Tổ Vua Hùng – Vì (vị) Quốc Tổ khai sanh ra nước Văn Lang Dân Tộc Bách Việt. Dân Tộc Việt Nam con cháu Tiên Rồng có Ông Quốc Tổ tối cao như thế thời còn đi theo ai nữa! Ôi Bóng người thương, đã xế chiều Công lao Thầy đã, biết bao nhiêu Thầy mãi mở đường, vì nhân thế Độc hành cô độc, những cô liêu Thúc dục lòng con, luôn mãi tiến Theo chí của Thầy, chí độ siêu Nghĩa nặng tình thâm, nào dám nói Một ánh hào quang, đẹp biết bao Con nguyện một ngày, không xa lắm Rồng Tiên kết trái, trổ đơm bông Con gặp người Thầy, con thương nhớ Thỏa lòng mong ước, của đời con 4. PHÁP THÂN HUỆ MẠNG ANH LINH QUỐC TỔ Quốc Tổ lâm phàm mượn qua xác người, tức là đầu thai vào xác người như bao người khác. Mượn xác thời phải trả, có nghĩa là trả xác thân vay mượn cho tứ đại khi đã mãn trần. Xác thân vay mượn có niên hạn, tối đa thọ trăm tuổi là cùng. Còn Anh Linh Huệ Mạng Quốc Tổ là bất sanh bất diệt nơi vũ trụ, khi đến trần gian khi rời trần gian không gì thay đổi. Văn Hóa Cội Nguồn chính là Huệ Mạng Anh Linh Quốc Tổ. Chỉ có Huệ Mạng Anh Linh Quốc Tổ mới sống mãi trên đời, lưu chuyển khắp cùng vũ trụ, đi vào cơ tận độ nhân loại con người. Huệ Mạng Anh Linh Quốc Tổ cũng chính là Thiên Ý Cha Trời di chí qua người để người nói ra. Xem trọng Thiên Ý Cha Trời cũng có nghĩa là coi trọng Huệ Mạng Anh Linh Quốc Tổ. Những người chưa phát trí huệ thời không bao giờ nhìn thấy Quốc Tổ, dù Quốc Tổ ngay trước mặt họ. Vì họ tìm Quốc Tổ qua thể xác phàm tạm mượn. Nên không bao giờ tìm thấy Quốc Tổ hay còn gọi là Chuyển Luân Thánh Vương, Phật Di Lặc cũng vậy. Chỉ có những con người đại trí huệ hay còn gọi là những Thiên Sứ nhà trời nhìn thấy Văn Hóa Cội Nguồn là biết Đức Chuyển Luân Thánh Vương đã xuống trần. Họ không bao giờ xúc phạm, lại rất mừng rỡ vì đã tìm thấy được Ngài. Những người xúc phạm vì không nhận ra Ngài, thời coi như họ đã đánh mất cơ hội vạn ức kiếp. Đánh mất vinh hoa tột đỉnh trong cơ Long Hoa Tận Độ kéo dài 84 triệu năm. Khi đất nước lâm nguy, chúng ta ước mơ Quốc Tổ xuất hiện cứu lấy dân tộc chúng ta. Nhưng chúng ta nào có ngờ Quốc Tổ có tới hai thân. Thân phàm tục chỉ là thân mượn. Còn Pháp Thân Huệ Mạng mới chính là Pháp Thân Anh Linh Quốc Tổ: – Quốc Tổ bằng xác thân phàm tục, theo quy luật sinh – lão – bệnh – tử – Quốc Tổ bằng Căn Thân Huệ Mạng, thọ ngang Trời Đất, bất diệt Quốc Tổ bằng xác thân phàm tục, quá nhỏ bé như hạt bụi khó mà cứu con dân Đại Việt con cháu Tiên Rồng thoát khỏi tai kiếp nô lệ cũng như nạn diệt chủng xâm lăng từ phương Bắc. Để cứu lấy kiếp nạn tai ương con dân Đại Việt có hiệu quả. Quốc Tổ phải hiển hiện Pháp Thân Huệ Mạng Anh Linh của chính mình chính là Văn Hóa Cội Nguồn. Sự hiển hiện Huệ Mạng Anh Linh Quốc Tổ viết lên Thiên Ý Cha Trời làm cho xác thân phàm tục đi vào kiệt sức có thể nói Quốc Tổ bỏ lại xác phàm bất cứ lúc nào. Nếu Quốc Tổ về trời sớm là một tổn thất lớn cho dân tộc Việt Nam. Pháp Thân Huệ Mạng Căn Thân Anh Linh Quốc Tổ chính là Pháp Vương Thiên Tử thời Thánh Đức (Pháp Vương Hiến Pháp) gồm: 1 – Long Hoa Luật Tạng Kinh 2 – Long Hoa Thiên Tạng Kinh 3 – Long Hoa Pháp Tạng Kinh 4 – Long Hoa Mật Tạng Kinh 5 – Sau Thời Hậu Đế Kinh 6 – Long Hoa Giới Đức 7 – Quốc Bảo Khai Kinh 8 – Long Hoa Lược Truyện 9 – Long Hoa Đại Cương 10 – Nhơn Luân Hiếu Nghĩa Kinh 11 – Long Hoa Thi Tập Lửa Thiên 12 – Long Hoa Thi Tập Thời Đại 13 – Long Hoa Thi Tập Hữu Ích 14 – Long Hoa Thi Tập Phổ Độ 15 – Văn Lang Chiến Sự I 16 – Văn Lang Chiến Sự II 17 – Văn Lang Chiến Sự III 18 – Long Phụng Hiệp Nghĩa 19 – Câu Chuyện Hồng Trần 20 – Văn Học Nghị Luận Còn nhiều Kinh Luân cũng như Văn, Thơ, Sử khác nữa, quý hiếm vô cùng, v.v… Chỉ có Căn Thân Huệ Mạng Anh Linh Quốc Tổ, trở thành Văn Hóa Cội Nguồn Quốc Bảo mới đưa dân tộc Việt Nam tới đỉnh vinh quang. Thoát kiếp nô lệ sáng ngời khắp năm châu bốn bể. Tất cả là sự thật không có chuyện mộng mơ, hay hão huyền gì cả. Có thể nói là tai nghe mắt thấy, tay sờ đụng. Theo ở đời người ta thường nghĩ đã là Anh Linh Quốc Tổ đấng Chí Tôn Thiên Đế thời phước đức vô lượng, khi lâm phàm xuống trần thời sẽ gặp không biết bao nhiêu là sự may mắn, nhưng thật ra không phải vậy. Ngược lại tai họa trùng trùng, có thể nói là thiên la địa võng tai họa, hết họa nầy tới tai họa kia liên miên bất tận, kéo dài hàng mấy mươi năm. Vì sao lại có chuyện lạ lùng như thế? Vì trong thời mạt pháp, nhất là giai đoạn gần cuối mạt pháp (thế kỷ 20), âm khí phải nói là đến hồi cực thịnh. “Mỏ Ác” trên đầu con người khai mở tối đa. Sự sống con người phần đông là sống theo sự dối trá, nhỏ thời trộm cướp tài sản, lớn thời cướp lấy chính quyền. Sự sống cái ác lên ngôi, lối sống u minh bóng đêm, càng tăm tối cái ác càng hưng thịnh. Bỗng dưng trong tăm tối u minh xuất hiện ánh sáng, làm cho cái ác lộ nguyên hình, chỉ bấy nhiêu đó thôi là chúng kéo nhau đến dập tắt ánh sáng. Hơn nữa cái ác chúng không “làm ăn” gì được vì tất cả sự thật lừa dối đã phơi bày trước ánh sáng. Thế là ánh sáng tâm linh Đấng Đại Giác liền bị bao phủ thiên la tai họa, địa võng tai ương. Trùng trùng bão táp phong ba bạo quyền ập tới, ầm ầm lớp lớp vùi dập tả tơi. Hầu dập tắt đi ánh sáng tâm linh, ánh sáng Chánh Đẳng Chánh Giác. Đã là đấng Chánh Đẳng Chánh Giác, thần thông trí huệ vô tận, tấm lòng quảng đại bao dung, đương nhiên Ngài biết cách trụ vững. Tự giam mình trong bốn bức tường cuộc sống còn hơn người ở tù, biến mình thành hòn đá cuội trơ trơ. Ánh sáng Tâm Linh từ nơi ngục tù, phát ra từ hòn đá cuội mỗi lúc một mạnh. Thế lực bóng tối nào để yên chúng đánh phá càng thêm dữ dội, không nói là khủng khiếp. Với sức chịu đựng thiên la tai họa, địa võng tai ương, phong ba bạo quyền, ầm ầm cấm cố hết lớp nầy đến lớp khác cuồng cuộn thi nhau vùi dập. Không ai dám tới gần Ngài vì sợ họa lây. Để có được những bộ Kinh, Thơ, Văn, Sử, Triết, Truyện ra đời như đã kể trên. Ngài phải trả giá! Sự trả giá ấy là cuộc sống của Ngài luôn trong đường tơ kẽ tóc. Sức cùng lực kiệt vì chống chọi với tai ương. Xác thân tạm mượn thế gian, giờ đây cũng đã hoa râm xế chiều, mặt trời cũng sắp lìa trần, nên ngài mới kể lại những gì đã qua. Muốn biết điều gì đã xảy ra, xin xem hồi ký Long Hoa Lược Thuật (hành trình dựng dậy Cội Nguồn Dân Tộc – giai đoạn 1985-2015). Những ai hữu duyên đọc được tập hồi ký này, ắt không khỏi kinh hoàng kính phục, “thương mến làm sao Ông Tổ xuống trần trở lại cứu vớt cháu con”, “một đời người làm nên huyền thoại”, “một đời người đem Văn Hóa Cội Nguồn soi đường Quốc Dân đi”. Mấy ai có thể nhìn ra Chuyển Luân Thân Tướng Pháp Thân của Ngài? Anh Linh Quốc Tổ trở về chính là Văn Hóa Cội Nguồn tối cao. Nơi trần người khổ biết bao. Họa tai, tai họa không sao xiết cùng. Tìm Chuyển Luân Vương mà tìm xác phàm, tìm cho hết kiếp cũng tìm không ra. 5. TOÁT YẾU 1 – Lịch sử Quốc Tổ Hùng Vương khai dựng nền Quốc Đạo Văn Hóa Cội Nguồn, dựng lên nước Văn Lang; Quá trình tiến hóa của xã hội nay là nước Việt Nam. 2 – Đức Quốc Tổ Hùng Vương chính là Đức Giáo Tổ, Chí Tôn Thiên Đế – con cả của Đức Cha Trời Lạc Long Quân, đầu thai xuống trần làm con Kinh Dương Vương. 3 – Đức Quốc Tổ Hùng Vương chứng quả Vô Thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác; thuyết ra Văn Hóa Cội Nguồn, hàng phục trăm bộ lạc, lập lên nước Văn Lang rộng lớn. 4 – Do chính sách trị dân bằng Văn Hóa Cội Nguồn – Nền Quốc Đạo Chính Nghĩa, đất nước Văn Lang Độc Lập kéo dài. Thời dựng nước 79 năm, thời giữ nước 2622 năm, cộng chung là 2701 năm. 5 – Vì do truyền khẩu quá lâu dài hàng nghìn năm, Văn Hóa Cội Nguồn càng về sau càng mất gốc, mất dần Tinh Hoa ý chính; trở thành truyền thuyết không đầu, không đuôi, không thứ lớp, thiếu thực tế. 6 – Cũng vì mất gốc Văn Hóa Cội Nguồn, Con Cháu Tiên Rồng rơi vào hố thẳm, bóng đêm trùm xuống, chiến tranh loạn lạc, nồi da nấu thịt, nô lệ triền miên. 7 – Sống theo kế sách bạo lực, thắng là Vua, thua là giặc. Đi ngược lại Văn Hóa Cội Nguồn, Hiến Pháp Văn Lang. 8 – Hiến Pháp Văn Lang là Hiến Pháp Đại Đồng, Bình Đẳng; là cán cân công lý xã hội; là Chí Tôn vô thượng. Bảo vệ Quyền Tự Do, Quyền Độc Lập, Quyền Tự Chủ, Quyền Bình Đẳng, Quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân, của mỗi dân tộc, không một ai có quyền xâm phạm. 9 – Là tôn trọng lẫn nhau, sống đúng Hiến Pháp và làm đúng Luật Pháp, hai bên cùng có lợi, cả hai mặt, tinh thần lẫn vật chất. 10 – Ra sức bảo vệ Văn Hóa Cội Nguồn Nền Quốc Đạo Dân Tộc. Ra sức cống hiến sức lực tài năng, trí huệ, của cải vật chất. Xây dựng, gìn giữ mỗi ngày một lớn mạnh, gánh vác mọi khó khăn. Làm cho nền Quốc Đạo ngày một sáng tỏ, phát đại dương quang. Đưa con cháu Tiên Rồng nói riêng, nhân loại thế giới nói chung đến cảnh cực lạc hạnh phúc. * * * Đối với dân tộc Việt Nam mà nói, không ai là không muốn biết sự thật về Quốc Tổ, nhất là đất nước đang trong cơn nguy biến hiện nay. Quốc Tổ là dãy núi cao sừng sững chỗ tựa vững chắc của dân tộc Việt Nam. Vị Vua Anh Linh Tối Cao trên tất cả vua từ thời dựng nước đến bấy giờ. Muốn biết tiền thân Quốc Tổ là ai? Từ tầng Trời nào giáng sinh xuống? Làm con của ai nơi chốn phàm trần? Lớn lên làm gì? Tu luyện ra làm sao? Chứng đạo quả nào? Tư cách, nhân cách, phẩm hạnh, tài năng, đức độ, hùng, bi, trí, dũng Quốc Tổ? Quốc Tổ làm cách nào hàng phục gồm thâu trăm bộ tộc mà không cần động đến gươm đao – bất chiến tự nhiên thành, cũng như đánh với ba con chúa quỷ, khai lập lên nước Văn Lang? Quá trình khai dựng lên nước Văn Lang theo đường lối phương châm nào? Vì sao Quốc Tổ lấy “Văn” làm đầu khai dựng lên đất nước mà không lấy “Võ” khai dựng lên đất nước? Vì sao Quốc Tổ khai dựng lên nước có tên là “Văn Lang”? Những gì Quốc Tổ dặn dò đối với Bách Việt Văn Lang trước khi từ giả cõi trần về Trời; cũng như sự trở lại sau 5000 năm cứu lấy con cháu Việt Nam giải trừ kiếp họa, nhất là họa xâm lăng từ phương bắc Tàu Cộng? Một phần nhỏ những gì nói trên đều nằm trong Long Hoa Mật Tạng – Kinh điển hiếm quý, bảo vật quốc bảo của dân tộc Việt Nam. * * * Muốn hiểu rõ về hai đấng Tiên Rồng – Lạc Long Quân, Âu Cơ cũng như lịch sử Cội Nguồn Nhân Loại Thế Giới, thời phải xem qua Long Hoa Thiên Tạng (thời Tam Hoàn Tiên Đế) và Long Hoa Pháp Tạng (thời Hậu Đế) trong Văn khố Văn Hóa Cội Nguồn. Muốn hiểu rõ về Quốc Tổ Hùng Vương cũng như 41 đời Vua Hùng, thời phải xem qua Long Hoa Mật Tạng trong Văn khố Văn Hóa Cội Nguồn. Chào đồng bào! Chúc đồng bào vạn sự như ý, an vui hạnh phúc cát tường!
Những Ích Lợi Khi Thờ Tự Đúng Theo Văn Hóa Cội Nguồn Văn hóa Cội Nguồn, truyền thống dân tộc Thờ tự là một điều tối linh thiêng trong Văn Hóa Cội Nguồn, khó có người nào hiểu được mà tôn giáo cũng khó có thể vượt qua được. Nó là một trong những Pháp Ấn để mà độ người, độ hàng loạt gia đình. Thờ tự trong Văn Hóa Cội Nguồn chính là một linh bùa tối linh giúp cho: + Gia đình thịnh vượng + Khí vận gia đình được giữ vững + Làm cho linh khí và âm đức nhiều đời nhiều kiếp của Ông Bà Tiên Tổ hội tụ vào gia đình của mình, khiến cho gia đình cường thịnh về sau, con cháu phát quang, tránh được nhiều họa tai. + Cho dù người khác có ếm yểm mảnh đất đó đi chăng nữa, nhưng nhờ khí vận đó mà tạo ra khiên đỡ, làm cho đức năng thắng số, bảo vệ cho toàn bộ gia đình. + Nhờ sự tối linh đó mà củng cố đức tin cho những người theo Văn Hóa Cội Nguồn, giúp cho họ tinh tấn và trụ yên nơi Cội Nguồn mà hành đạo. Nói tóm lại, thờ tự trong Văn Hóa Cội Nguồn chính là một dạng của Kinh Dịch Phong Thủy của Đạo Trời, sử dụng đức năng hội tụ mà thắng số mệnh. Nghĩa là sử dụng đức năng của Trời Đất, Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ giúp giữ vững linh mạng cho gia đình. Người mà đạt tới phong thủy tối thượng là người biết sắp xếp Kinh Dịch theo đúng chu kỳ của Tạo Hóa trước, rồi sau đó mới áp dụng vận mệnh của mình vào bên trong thì người đó mới có thể vận dụng Kinh Dịch như ý được. Thờ tự cũng vậy. Thờ mà không hiểu hết ý nghĩa của nó thì lúc sáng, lúc không. Người mà sắp xếp thứ tự các ngôi thứ trật đi, thờ tự sai thì không được như ý, vẫn đi vào chỗ bế tắc, không hội tụ được linh khí. Nếu các vị không hiểu về thờ tự thì khó mà đạt được như ý thần thông. Cái gì đúng thì mới được như ý, cái không đúng thì không bao giờ như ý. Cũng giống như con người đi ngược lại với lương tâm dù có niệm Nam Mô A Men thì cũng mất đi chữ A Men, khó mà được như ý, không cách gì mà viên mãn như ý được. Trong thờ tự, ngày giờ để khai mở ấn chú cũng rất quan trọng. Nên chọn ngày tốt hợp với cung mạng của người khai mở ấn chú thờ tự, thì mới tốt. Đối với người Việt, những người mang dòng máu đỏ da vàng, thuộc giống dân Hồng Ngọc thờ tự như vậy là chính xác. Ông Tổ của người Việt máu đỏ da vàng chính là Quốc Tổ Hùng Vương. “Quốc Tổ” mà đảo ngược lại từ, chính là “Tổ Quốc”. Cho nên tổ quốc non sông chính là Quốc Tổ Hùng Vương khai mở. Trên thế giới, không nước nào có Quốc Tổ đâu. Chỉ có nước Việt mới có Quốc Tổ thôi. Đó là điều tối thượng của vũ trụ dành cho dân tộc Việt. Thầy sẽ nói thêm về ý nghĩa của 3 ngôi trong hình ảnh thờ tự theo Văn Hóa Cội Nguồn. Ngôi số 1 (Thờ Thiên Ấn): Mang ý nghĩa dưỡng nuôi bảo vệ gia đình, hội tụ linh khí, kết nối các linh địa xung quanh nhà, liên thông cơ cảm với Trời Đất, mà dẫn tới linh ứng, quyền năng và thần thông. Khi các vị để hình thờ tự có Thiên Ấn chính là nhịp đập sự sống, trái tim của gia đình mình đều do Thiên Ấn che chở. Nhờ Thiên Ấn này hút linh khí của vũ trụ và dưỡng nuôi âm đức của gia đình, xã hội và đất nước vân vân… mà tạo ra phước đức vô tận, khiến cho gia đình, xã hội và đất nước luôn luôn thịnh vượng và phát triển đi lên, con cháu luôn thuận hòa và xã hội đất nước bình an. Ngôi số 2 (Thờ Cha Trời, Mẹ Trời): Mang ý nghĩa tận độ, phước báu số một. Trên đời này không ai có phước đức hơn được Cha Trời, Mẹ Trời. Chỉ có phước đức của Cha Trời mới tận độ được tất cả nhân loại con người. Ở cõi Âm Phủ, một người chỉ cần tưởng nghĩ tới Trời thì liền siêu thoát khỏi Âm Phủ, cho dù đang ở bất cứ tầng Địa Phủ nào đều được siêu thoát. Mục Kiền Liên muốn cứu mẹ phải nhờ công đức của mười phương chư Phật, mà mười phương chư Phật chỉ là một phần nhỏ của Trời. Nên phước đức của Trời lớn vô tận vô biên mà không vị Phật nào có phước đức lớn hơn. Vì Đức Phật cũng chưa bao giờ dưỡng nuôi hết muôn loài vạn vật, hay cây cỏ. Như các vị thấy đó, các Ngài vẫn còn ăn chay, chứ đâu có dưỡng nuôi cây cỏ. Không có vị Phật hay Bồ Tát nào có phước đức hơn được Cha Trời, Mẹ Trời, dù cho đó là vị Tổng Đà La Ni đi chăng nữa. Chỉ có Trời mới có thể dưỡng nuôi muôn loài vạn vật, dưỡng nuôi hết tất cả. Nên phước đức của Trời không ai có thể hơn được nữa, không thể nghĩ bàn, tính đếm được. Cha Trời và Mẹ Trời, một người là chủ của linh hồn, một người là chủ của vật chất, đều dưỡng nuôi hết tất cả. Cho nên khi các vị thờ Trời trong gia đình mình nghĩa là các vị đi vào tận độ, phước báu số một. Con người mà biết thờ Cha Trời Mẹ Trời là người biết ghi ơn, đáp nghĩa, hiếu kính và báo hiếu. Có nghĩa là người đó lần lần đạt tới đại hiếu như Mục Kiền Liên hay các vị Phật tổ, Thánh tổ, Tiên tổ, Chúa tổ, Thần tổ. Cho nên khó có người hiểu được thờ tự trong Văn Hóa Cội Nguồn. Những người thờ tự theo Văn Hóa Cội Nguồn được Thầy hướng dẫn chính thức, họ đều hiểu được mật độ tâm linh lớn mà họ có đức tin và nhận phước báu lớn trong tương lai. Các vị ở cõi Trời Trung Thiên Giới trên đầu đều tôn thờ hai ngôi này, đó là đấng Tổ Tiên Khai Hóa và Cha Trời, Mẹ Trời. Những ai không hiểu được những điều nói trên mà mang tâm coi thường hay sanh tâm bất kính, thì họa tai khó tránh và lần lần mất trí. Ngôi số 3 (Thờ Quốc Tổ): Quốc Tổ Hùng Vương là anh cả trong một trăm con Trời năm màu da anh em, là Đấng Chí Tôn, người thay thế Cha Trời, Mẹ Trời tổng trì Đà La Ni Tạng Tánh của Vũ Trụ trong năm tiểu Kiếp của cơ Tận Độ (kéo dài 84 triệu năm). Cho nên Quốc Tổ đứng vào ngôi tận độ, phước báu số hai. Phước báu của Quốc Tổ lớn khủng khiếp. Hạnh bố thí của Ngài là phân tâm mình mà cấy vào trong tâm thiên hạ của toàn thể năm màu da anh em trong toàn vũ trụ từ cách đây 75 triệu 600 ngàn năm khi Quốc Tổ dẫn con cháu về Trời. Có nghĩa Ngài đã tu hạnh bố thí từ thời đó, mà gieo hạt giống tâm Đà La Ni trong tâm mọi người. Còn cách đây 5 ngàn năm, Quốc Tổ đã gieo năm hạt giống (Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa) vào tâm của Bách Tộc Văn Lang ở Vườn Cấm nước Xích Quỷ, và thường thuyết giáo trong những ngày quan trọng của tuần, của tháng, và của năm ở Đền Hùng, Phú Thọ. Người thờ Quốc Tổ là người biết ghi ơn, biết đáp nghĩa, hiếu kính và báo hiếu, để rồi tâm linh của họ lần lần đạt tới đạo hạnh của một bậc đại hiếu vũ trụ. Đại hiếu của vũ trụ là một trong 8 muôn 4000 Đà La Ni tạng tánh. Những con người đạt tới đại hiếu là những người trở thành những vị Phật lớn trong vũ trụ này. Theo “Học liệu bài giảng Văn hóa Cội Nguồn”
Hạnh Phúc Người Chọn, Tai Họa Người Làm Văn hóa Cội Nguồn, truyền thống dân tộc Được làm chủ Văn Hóa Cội Nguồn, đó là phước đức lớn nhất của một kiếp người. Phàm những ai muốn cho cuộc sống bình yên, thân tâm khỏe mạnh, gặt hái sự may mắn Phúc – Tài – Lộc – Thọ, thời đừng đánh mất Cội Nguồn. Đất nước nào muốn cho Thiên Hạ thái bình, dân giàu nước mạnh, thời phải trở về Cội Nguồn, sống theo Hiến Pháp Thiên Ý, Luật Pháp Thiên Ý, Đạo Pháp Thiên Ý, thời đất nước đó trở thành đất nước Thần Thánh ngay. Tóm lại: Hạnh phúc do người chọn, tai họa do người làm. Gieo gì gặt nấy. Theo “Châm ngôn Văn hóa Cội Nguồn”
Biểu Pháp Hình Tượng Quốc-Tổ Lâm Phàm Hiện Thân Di-Lặc Thông báo này cho toàn Nhân Loại biết, không được phép bàn luận xúc phạm đến người thừa hành di chí Tổ Tiên Cội Nguồn. Quốc Tổ lâm phàm, hiện thân Di Lặc hiển bày những điều biểu-pháp sau đây, là kim chỉ nam trong thời đại Tân Dân Thánh Đức. 1 – Quốc Tổ lâm phàm, hiện thân Di Lặc, phơi bày tất cả, hình trần nhưng không truồng. Vì còn giữ lại cơ mật Tạo Hóa. Hình trần là lột tả nhân loại ra đời không có gì, ngoài tấm thân trần truồng. Sinh ra chẳng có chi, khi mất đi cũng chỉ là hai bàn tay trắng. Chỉ có Chân Tâm Chân Tánh, Lương Tâm mới thật là của mình chính mình mà thôi. “Thân trần” chính là đi vào hạnh buông xả buông bỏ tất cả. Thân trần không dính mắc cảnh trần, nên ra khỏi tam giới đi vào an vui tự tại. 2 – Quốc Tổ lâm phàm hiện thân Di Lặc, mặc quần áo, nhưng không phải áo nhà Phật, áo nhà Chùa, áo Đạo Sĩ, áo Tu Sĩ, áo Vua, Quan, hay áo cao sang nào cả, mà mặc áo bình thường của người nông dân, lam lũ làm ăn. Hiện ra cốt cách, “người, nón, cuốc bộ ba”. Xông pha trong Càn Khôn Vũ Trụ. Qua bài thơ “Người, Nón, Quốc” trong thi tập lửa thiên. 3 – Quốc Tổ lâm phàm hiện thân Di Lặc mặc áo tươi cười, gần gũi với tất cả mọi người, không phân biệt giai cấp, không buồn phiền chi cả, nói lên sự hỉ xả vô tận, dù cho đang sống trong nghịch cảnh, đầy giông tố và sóng dữ. Bụng phệ là tượng trưng cho sự sung túc, viên mãn an vui cực lạc, trong thời đại an lạc, an vui hạnh phúc nhân loài. 4 – Thời đại Di Lặc ra đời, là thời đại Hoàn Kim; thời đại giàu sang, văn minh rực rỡ nhất của nhân loại con người. Nên xung quanh Di Lặc toàn là vàng, bạc châu báu. 5 – Quốc Tổ lâm phàm hiện thân Di Lặc không phải lập ra Tôn Giáo, Đạo Giáo, mà là đi vào Kỉ Nguyên Thánh Đức: Tam Giáo Quy Nguyên, Ngũ Chi Hiệp Nhất. Sống theo Hiến Pháp Thiên Ý, Luật Pháp Thiên Ý, Đạo Pháp Thiên Ý. Sống trong ngôi nhà chung Hiến Pháp Thiên Ý, Luật Pháp Thiên Ý, Đạo Pháp Thiên Ý, Đại Đạo Vũ Trụ. Thực thi những quyền mà Tạo Hóa đã ban cho, những quyền bất khả xâm phạm. Thiên Quyền Nhân Chủ, Nhân Quyền, Dân Chủ. Đi vào Công Bằng Bình Đẳng ai cũng như ai. * Tóm lại: Quốc Tổ lâm phàm, hiện thân Di Lặc hiển bày năm phần như nói trên. Là kim chỉ nam trong thời đại Tân Dân Thánh Đức. Chú giải thân-trần Quốc Tổ 1 – Thân trần Quốc Tổ, có chủ ý riêng, không dính dáng gì đến Phật Giáo; Vì Quốc Tổ không phải từ Phật Giáo ra, nên những người theo Phật Giáo miễn bàn, cấm bàn. 2 – Quốc Tổ không từ Thiên Chúa ra, không phải là con Chiên, nên con Chiên Chúa không có quyền luận bàn về Quốc Tổ, cấm bàn. 3 – Quốc Tổ không từ Đạo Khổng Lão ra, nói chung là không liên quan, Nho Sĩ – Đạo Sĩ không được luận bàn. 4 – Nói chung Quốc Tổ không từ Đạo nào ra. Mà từ Đại Đạo Vũ Trụ Cội Nguồn hiện thân ra. Đại diện cho Tổ Tiên Tạo Hóa, đại diện cho Cha Trời Mẹ Trời, giáo hóa Nhân Loại trở về Nguồn. Con cháu Việt Nam nói riêng, năm màu da anh em nói chung. 5 – Nhân loại con người vốn sanh ra từ trần truồng, không che đậy gì cả. Nhưng ở đây Quốc Tổ ở Trần mà không truồng. Là vì còn giữ lại một phần bí mật nơi vũ trụ. 6 – Quốc Tổ phơi bày sự thật về hạnh Thiền. Thiền là cởi bỏ hết thảy, buông bỏ tất cả, thậm chí cả ý niệm. 7 – Ngồi trên đóa hoa Sen không phải là Phật, mà là tất cả đều được ngồi, nghèo giàu, bần hèn, quỷ ma, nếu người đó an trụ Chân Tâm Chân Tánh, sống theo Lương Tâm. Vì Chân Tâm Chân Tánh là “tánh Sen”, Lương Tâm là “cánh Sen”. 8 – Quốc Tổ tái sanh thành Di Lặc, tức là Long Hoa Giáo Tổ, Chuyển Luân Thánh Vương, Con Trời 9 – Quốc Tổ làm theo Di Chí Cha Trời, không phải làm theo lời dạy của Phật hay Chúa. Mà là đi vào Hành Pháp, Lập Pháp, Đạo Pháp Vũ Trụ, đi vào hành xử. Những kẻ hành động trái ngược lại Lương Tâm phạm Thiên Luật, tức là phạm Thiên Ý. 10 – Thông báo này cho toàn Nhân Loại biết, không được phép bàn luận xúc phạm đến người thừa hành di chí Tổ Tiên Cội Nguồn. * Nói tóm lại: Quốc Tổ lâm phàm không dính dáng gì đến tôn giáo đạo giáo nào cả. Mà là thừa hành theo di chí Tổ Tiên Tạo Hóa, thừa hành theo Thiên Ý Cha Trời Mẹ Trời; lập hội Long Hoa, lập đời Thượng Ngươn Thánh Đức. Đi vào nghìn năm thời đại hoàng kim, độc lập ba nghìn năm tới. Không được đề cập Quốc Tổ so sánh với các Tôn Giáo đạo Giáo kể cả Phật Giáo. Nếu còn hỗn láo, vô lễ xấc xược đối với người thi hành di chí Tổ Tiên Tạo Hóa, Cha Trời Mẹ Trời, chiếu theo Thiên Ý Cha Trời, Thiên Luật Vũ Trụ hành xử. Bất kể đó là ai, chết hay sống. Thiên Ý Cha Trời Văn Hóa Cội Nguồn
Sai Lầm Lớn, Lạc Mất Đường Tu Văn hóa Cội Nguồn, truyền thống dân tộc Hiện nay nhiều người tu hành vẫn còn thờ ơ với Cội Nguồn. Vì cho rằng Cội Nguồn không bằng Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Đây là điều sai lầm nghiêm trọng. Vì Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa có ra, là do nhận Tổ quy Tông, nhận Bổn quy Chân, hành sự theo Thiên Ý mà thành Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa. Từ Phật, Thánh, Tiên, Thần, Chúa trở về Nguồn. Nên nói cơ Tận Độ, thời Long Hoa là thời Tam Giáo quy Nguyên, Ngũ Chi hiệp nhất. Quy Tổ hiệp Tông, vạn Pháp quy nhất Bổn. Long Hoa là từ Hán Việt, dịch ra thuần việt là Rồng Tiên. Là văn hóa cội nguồn truyền thống dân tộc, chủ nghĩa đại đồng. Thật giống mấy câu chuyện thiền học trò tìm thầy gặp đầu tiên nhưng không theo đi tìm 30 năm quay lại chỗ cũ nhận thầy. Gần ngay trước mắt mà xa tận chân trời. Bể khổ vô biên, quay đầu là bờ Phật giáo tốt nhưng qua 2500 năm tam sao thất bản.