Danh nhân Việt Nam: Trương Vĩnh Ký - Nhà ngôn ngữ học lớn của Việt Nam.

Thảo luận trong 'Học tập' bởi chikapeo, 13/4/2012.

  1. chikapeo

    chikapeo Thành viên tích cực

    Tham gia:
    15/3/2012
    Bài viết:
    525
    Đã được thích:
    189
    Điểm thành tích:
    83
    Hôm nay em đọc bài về Trương Vĩnh Ký, thấy khâm phục ông ấy quá nên em tổng hợp lại vài nét trong cuộc đời Trương Vĩnh Ký post lên cho cả nhà mình cùng đọc. Việt Nam mình cũng có nhiều vĩ nhân, thấy tự hào quá ghê các mẹ à^_^

    Trương Vĩnh Ký (張永記, 1837–1898), còn được gọi là Pétrus Ký, tự Sĩ Tải (士載), là một nhà giáo, nhà báo, nhà văn, nhà ngôn ngữ học và là nhà bác học Việt Nam, thông thạo 26 ngôn ngữ, được ghi trong Bách khoa Tự điển Larousse và là một trong 18 văn hào thế giới của thế kỷ 19[1]. Trương Vĩnh Ký đọc và nói giỏi 15 ngôn ngữ phương Tây và 11 ngôn ngữ phương Đông. Ông đã để lại 118 tác phẩm lớn nhỏ, kể cả tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Hán, không kể những di cảo dang dở.
    Trương Vĩnh Ký thiết tha với nền văn học Quốc ngữ và được coi là người đặt nền móng cho báo chí Quốc ngữ Việt Nam. Ông sáng lập, là tổng biên tập những tờ báo quốc ngữ đầu tiên (Gia Định báo), cũng là cây bút chủ chốt của rất nhiều báo khác. Tên ông từng được đặt tên cho trường Trung học Pétrus Ký nay là Trường Trung học Phổ thông chuyên Lê Hồng Phong (Thành phố Hồ Chí Minh).
    Tuổi thơ thần đồng
    Trương Vĩnh Ký sinh ra ở Cái Mơn, xã Vĩnh Thạnh năm 1837. Ông lúc mới sinh ra rất ốm yếu, khó nuôi. Theo chuyện kể trong gia đình, có lúc ông bị bệnh khóc nhiều ngày đêm liên tiếp, không ăn uống được gì nhiều, nên gia đình đã lo chuẩn bị hậu sự cho ông. Nhưng may thay như có kỳ tích, ông hết khóc, bắt đầu bình phục và sống tươi tỉnh, mạnh khoẻ trở lại. Ông là đứa bé thông minh, ốm cao, có vầng trán rộng, đôi mắt to tròn. Ông có trí nhớ một cách bất thường đến nỗi làm cho thầy giáo và những người chung quanh ngạc nhiên. Ngay từ lúc nhỏ, đầu óc của ông như một máy chụp ảnh, chỉ đọc qua một số trang sách, ông nhớ không thiếu sót một chi tiết nào. Đó là đặc tính của những đứa trẻ thông minh, sáng dạ. Khi được 3 tuổi, ông đã thuộc làu Tam tự Kinh, một quyển sách vỡ lòng của nho học. Lúc 4 tuổi ông học viết và lúc 5 tuổi cặp sách đến trường để học với thầy giáo Học. Sau vài ba năm, ông học thông suốt Minh Tâm Bữu Giám, đọc Tứ Thư, Ngũ Kinh, thuộc nhiều bài thơ đời Đường, đời Tống... Nhờ sáng dạ, ông tự học nhiều hơn học ở nhà trường. Sau đó ít lâu việc học của ông tiến bộ nhanh, vượt cả anh ruột tên Trương Chánh Sử và các đàn anh khác, đến nỗi thầy giáo Học cho ông là một hiện tượng đặc biệt. Ngoài ra, theo lời của những người thân hậu bối, lúc nhỏ ông còn thuộc nhớ nhiều bài ca dao dài mà người lớn không biết . Khác biệt hơn các đứa trẻ trong xóm, ngoài giờ đến trường để học, ông Ký thích đọc sách ở nhà do cha ông mang từ miền Trung vào lúc xưa và gửi cho thầy Học giữ, chẳng hạn, sách Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Đạo Gia Huấn, thơ Đường, Lý Bạch, Đổ Phủ, Thơ Tống... Do đó, khi nói chuyện với mẹ, thầy Học và những người lớn khác, ông tỏ vẻ như người lớn, thường dẫn lời nói của thánh hiền, gây ngạc nhiên cho mọi người. Thầy giáo Học và nhiều người trong thôn gọi ông là “thần đồng“.
    Năm 1847, cha ông qua đời trong khi trấn nhậm ở một vùng gần Nam Vang (Phnom Penh), mẹ ông giao ông cho giáo sĩ Tám, một người bạn thân của gia đình. Với sự dìu dắt của vị giáo sĩ này, ông học chữ Quốc ngữ, sau đó giáo sĩ Tám mất, có nhà truyền giáo người Pháp tên Việt là linh mục Long, đem về nhà dòng chánh ở Cái Nhum (Bến Tre) cho học chữ La tinh.
    Dưới triều vua Minh Mạng, năm 1835 hạ Chiếu cấm đạo, nên năm 1848, Linh mục Long đưa Trương Vĩnh Ký qua học tại Trung Học Pinhalu ở Campuchia, đây là trường đạo dành để dạy học trò người Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Miến Điện và Trung Hoa , nhờ ở chung với học sinh các nước Đông Nam Á mà ông học nói và viết thông thạo các ngôn ngữ kể trên.
    Thời niên thiếu ở hải ngoại
    Chủng viện Pinhalu mới được xây cất ở giữa một rừng thốt nốt hoang vu gần sông Mekong và cách Nam Vang độ 6 dặm. Đây là một chủng viện dành cho cả vùng Đông Nam Á và Trung Hoa. Lớp học có tất cả 25 chủng sinh có tuổi từ 13 đến 15 và Cậu Ký là người nhỏ nhất, mới 11 tuổi. Tất cả những chủng sinh đều được tuyển chọn ở hạng nhất hoặc nhì của các chủng viện trong vùng. Ở chung với bạn thuộc nhiều sắc tộc, Vĩnh ký hầu như đã dành trọn giờ chơi cho việc học.
    Trong những buổi học, do nhiều chủng sinh còn biết quá ít các danh từ La Tinh và theo yêu cầu của thầy giáo, Trương Vĩnh Ký mạnh dạn đứng ra thông dịch các bài giảng bằng tiếng này sang tiếng Nhật, tiếng Hán, tiếng Thái, tiếng Việt...làm cho các bạn đồng lớp thán phục không ít. Một năm sau, ông lại nói được tiếng Lào, tiếng Miên, tiếng Ấn Độ,... Ông biết được nhiều ngoại ngữ do học hỏi từ bạn bè, sách tự điển, nhứt là nhờ năng khiếu ngữ học của mình. Ông tự tìm ra qui luật ngữ pháp để học các tiếng nước ngoài nhanh và dễ dàng. Văn Hào Pháp Littré đã viết rằng „...Trên trái đất này rất khó tìm ra người thứ hai say mê ngôn ngữ như Trương Vĩnh Ký. Gặp người Anh, Trương Vĩnh Ký nói bằng tiếng Anh nhuần nhị như người Luân Đôn. Tiếp xúc với người Ý Đại Lợi, người Y Pha Nho, người Bồ Đào Nha... hay người Nhật, Mã Lai, Xiêm...,Trương Vĩnh Ký đều nói đúng theo âm luật của kinh đô nước đó... Sự hiểu biết tới 26 ngoại ngữ của P. Trương Vĩnh Ký đủ để loài người tôn vinh ông như một nhà bác ngữ học vào bậc nhất của thời nay...“. Vào ngày mãn khóa học ở chủng viện Pinhalu, Ông Trương Vĩnh Ký được chọn là một chủng sinh xuất sắc, đỗ đầu lớp và được tuyển lựa cùng hai người nữa để tiếp tục đi học ở chủng viện Giáo Hoàng thuộc đảo Penang, Mã Lai. Ông dự tính trở về quê hương để gặp lại mẹ và anh Sử cũng như xóm làng, nhưng Cha Long khuyên Ký nên tiếp tục đi học, vì về nước lúc này rất nguy hiểm do chính sách bài đạo cực đoan của vua Minh Mạng.
    Lúc 15 tuổi, ông đến Penang, một đảo nhỏ, lúc xưa rất nghèo nàn và dân cư thưa thớt. Người Anh thấy tiềm năng lớn của đảo này nên mua để phát triển thành một thương cảng sầm uất, có tính cách hiện đại của người Âu Châu. Khi đặt chân đến nơi, cậu Ký rất ngạc nhiên khi thấy một vùng đảo ở vùng Đông Nam Á mà có nếp sinh hoạt cơ giới ồn ào, một sự phát triển lạ thường mà ông chưa từng thấy ở nước mình và Cao Miên. Sau đó, Ông gặp và quen biết thừa sai Lefèbvre, một vị giáo sĩ trước kia từng bị lãnh án tử hình năm 1845, nhưng nhờ can thiệp của Đô Đốc Cécile nên được vua Thiệu Trị thả ra. Sau đó Cha trở về Pháp, rồi đi La Mã, đến Ma Cau và cuối cùng ở lại Penang. Vị giáo sĩ nầy rất mến yêu Ký vì thấy Ký là một chủng sinh giỏi, cực kỳ thông minh và là người đến từ Việt Nam, nơi mà ông đến truyền đạo và có nhiều kỷ niệm khó quên. Trong thời gian ở chủng viện Penang, tài năng, đầu óc và trí tuệ thông minh của Ký phát huy tột độ. Ông học một hiểu mười nhờ trí nhớ lâu dài, sách vở ở thư viện và giảng dạy của nhà trường. Thú vui duy nhất của ông và cũng để vơi bớt nỗi nhớ quê hương, mẹ và anh Sử, Ông Trương Vĩnh Ký thường đến thư viện ngoài giờ ở lớp học. Ông đọc rất nhiều sách Hán, Pháp, Anh, Hy Lạp, Tây Ban Nha...Ông tiếp nhận được rất nhiều tư tưởng, kiến thức của người xưa cả Đông và Tây nhờ trí thông minh, khả năng ngôn ngữ và trí nhớ đặc biệt của mình.
    Vài nét về cuộc đời của ông sau khi rời trường học
    Năm 1863, Trương Vĩnh Ký được Pháp phái theo sứ bộ Nam triều do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, phái bộ sang triều kiến Pháp hoàng Napoléon III. Nhờ sứ trình nầy, ông có dịp viếng các nước Anh, Tây Ban Nha, Hy Lạp, Ai Cập, Ý, La Mã. Tại La Mã, ông được Giáo hoàng Pio IX tiếp kiến, còn trong lúc ở Paris, ông kết thân với các nhà thông thái, danh vọng nước Pháp như Paul Bert, Duruy, Littré ... Ông được cử vào Hội viên của hội chuyên khảo về Nhân loại, và hội chuyên học tiếng Đông phương.
    Từ năm 1886-1888, Trương Vĩnh Ký được bổ nhậm chức Giám đốc và dạy ngôn ngữ Đông Phương ở Trường Thông Ngôn ( Collège des Interprètes).
    Ngày 16-9-1869, ông được Thống soái Nam Kỳ Ohier bổ nhiệm Chánh Tổng Tài tờ Gia Định Báo. Ông đã điều hành tờ báo nầy cho đến năm 1872, Năm nầy ông được thăng Tri Huyện và được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường Sư Phạm (Ecole Normal). Năm 1874, ông là giáo sư dạy chữ Quốc ngữ và chữ hán ở Trường Hậu Bổ (Collège des Stagiaires).
    Từ 1866-1886, khoảng thời gian 20 năm nầy, ông chuyên về vấn đề văn hóa và giáo dục. Nhưng năm 1886, người bạn cũ của ông là Paul Bert sang làm Thống Đốc Nam Kỳ, vì tình bạn ông đã bước sang sân khấu chính trị, một bước phù du mà cuối cùng cuộc đời ông nghèo nàn, danh vọng một thời đã mai một!
    Trước tiên Paul Bert lấy tình thân hữu nhờ ông giúp cho vài việc liên lạc với triều đình Huế (1), sau sung Cơ Mật Viện và làm Giám quan, cố vấn cho vua Đồng Khánh.
    Ngày 11-11-1887, Paul Bert mất, ông có dịp rời khỏi sân khấu chính trị mà cả phía Pháp cũng như quan lại Nam triều, kẻ không tin cẩn, người lại không ưa ông. Trở về nhà, ông sáng tác và vui thú văn chương.
    Ông mất vào ngày 1 tháng 10 năm 1898, thọ 61 tuổi. Mộ của ông hiện ở góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng Sài gòn, trong khuôn viên nhà của ông ngày xưa ở Chợ quán. Thời Pháp, tưởng nhớ công lao của ông, người ta đúc tượng ông, một người nho nhã mặc quốc phục, đầu bịt khăn đống, tay cầm quyển sách, tượng đặt trong khuôn viên trước Bộ Ngoại Giao và Dinh Độc Lập.
    Truongvinhky.jpg
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi chikapeo
    Đang tải...


  2. thomasvkk

    thomasvkk Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    25/10/2023
    Bài viết:
    5,712
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    86
    If you don't want something to be public, don't post it on the Internet.
     

Chia sẻ trang này