Bỏ Làng ... Ra Phố

Thảo luận trong 'Thư giãn, giải trí' bởi nhichan, 15/2/2011.

  1. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Không biết Post vào đây đã đúng chưa, nếu chưa đúng chỗ xin Mod chuyển đến đúng mục giúp em với ạ. Cảm ơn rất nhiều.
    Mình mới đọc được một truyện rất hay, có ý nghĩa, xin chia sẻ với các bạn. Các bạn đọc thấy hay thì xin nhấn cảm ơn để mình thêm động lực đánh tiếp mời các bạn vào đọc.
    Cháu cũng xin phép tác giả- nhà văn Đào Quang Thép cho cháu truyền tải lại nội dung truyện chú viết.
    Truyện có tên: "Bỏ làng ... ra phố"

    1. Bỏ làng

    Ông Bèo và bà Bột thành thân với nhau từ những năm tám mươi cuối thế kỷ trước. Sau khi cưới, ông bà được hai bên cha mẹ dựng cho một căn nhà cấp bốn ba gian, tường xây, mái lợp ngói móc. Diện tích cả sân vườn cổng ngõ, nhà bếp và khu phụ được một trăm hai mươi mét vuông. Trong cái tổ ấm đơn sơ và hạnh phúc ấy, ông Bèo và bà Bột đã vun trồng cây đời và đơm hoa kết trái được hai người con gái. Người con gái đầu sinh năm 1990, tuổi Ngọ, ông bà đặt tên là Ngọ, người con gái thứ hai sinh năm 1993, tuổi Dậu nên đặt tên là cái Dậu. Ông Bèo tuy cũng hậm hực vì sinh con một bề nhưng hoàn cảnh kinh tế gia đình không cho phép nên không dám sinh thêm đứa con thứ ba. Bà Bột biết chồng có tâm sự bất đắc trí nên rất mực nhún nhường, chiều chuộng chồng, không làm gì phật ý ông dù chỉ là những sinh hoạt nhỏ trong nhà. Bà Bột cùng chồng thắt lưng buộc bụng nuôi dạy cái Ngọ và cái Dậu học hành, làm ăn cấy hái đến tuổi thành niên. Nhưng cả hai đứa đều chỉ học hết lớp 12, đỗ tốt nghiệp nhưng đều không dám thi vào các trường đại học. Nói cho đúng thì cả hai đứa đều là nạn nhân của căn bệnh thành tích trong giáo dục. Học bạ của cả hai đứa đều đạt điểm bẩy, điểm bẩy rưỡi, có đỉnh tới cả điểm chín. Điểm thi tốt nghiệp đều đạt từ trung bình đến trung bình khá. Vậy mà cả hai đứa đều không nộp nguyện vọng và hồ sơ xin thi vào bất kỳ một trường đại học hay cao đẳng nào. Chúng nó tự an ủi rằng rồi xin đi học nghề, hoặc đi kiếm cái nghề phổ thông, lao động chân tay mà kiếm sống. Thương con, cộng với hoàn cảnh làm ăn nghề nông tẻ nhạt khó khăn, vừa khó bát gạo vừa lâu đồng tiền, ông Bèo bà Bột quyết chí đóng cửa nhà, bỏ làng ra phố tìm kế sinh nhai….
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi nhichan
    Đang tải...


  2. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Truyện hay: Bỏ làng ra phố

    2. Nhà trọ … chung cư
    Nhà trọ đầu tiên của gia đình ông Bèo thuê được ở phố Hàm Tử Quan. Ở đây vừa gần trung tâm bờ hồ Hoàn Kiếm, lại gần sông Hồng. Trên bộ thì người xe tấp nập, đông đúc. Dưới sông thì thuyền bè ca nô đi lại ngược xuôi, nhộn nhịp. Có sức khoẻ như ông Bèo, thì có thể ra bến sông làm khuân vác cho các thuyền hàng. Ba mẹ con cái Dậu thì mỗi người một việc có thể kiếm đủ ngày hai bữa. Công việc cũng không nặng nhọc gì lắm. Bà Bột đã ướm hỏi giúp việc cho bà bán bún và xôi sáng ở gần bến sông. Cái Ngọ đang xin vào làm ở một gia đình có nghề giặt là. Cái Dậu có thể đi bán hàng tạp hoá thuê bằng xe đẩy để hưởng hoa hồng theo doanh thu. Duy chỉ có việc ăn, ngủ, vệ sinh thì gò bó, phức tạp và gay cấn hơn cả.
    Nhà trọn mà gia đình ông Bèo thuê được là nhà trọ chung cư. Có nghĩa tất cả các khách trọ đều ngủ chung trên hai dãy phản gỗ, mỗi dãy phản xếp được 12 người ngủ. Nam ngủ một dãy, nữ ngủ ở một dãy. Tất cả đều quay đầu vào tường, quay chân ra lối đi chung. Quần áo, ba lô, túi xách của ai gối đầu phản người đó. Nhưng ai muốn ngủ ở nhà trọ thì phải ăn cơm bụi do chủ nhà trọ nấu. Bởi thế mới có giá ngủ hai nghìn đồng một người một đêm và giá ăn cơm sáu ngàn đồng một bữa.
    Ngủ “đồng sàng ” ở nhà trọ chung cư hơn hai mươi người một phòng với khách thập phương, gia đình ông Bèo phải chia rẽ đôi nơi. Ông Bèo ngủ cùng khách thập phương bên dãy nam, bà Bột nằm cảnh giới bảo vệ hai cô gái, không cho người xa lạ tiếp xúc, giao lưu trong màn. Cái Ngọ bị dồn vào chân tường, còn cái Dậu được ưu tiên nằm giữa. Ngày đầu, tổ tam tam của bà Bột cứ phải chia nhau cảnh giới ở cả nhà tắm công cộng và nhà vệ sinh tứ chiếng. Thường thì bà Bột nhận phiên gác đầu cho cả hai con yên tâm thực hiện lộ trình “vệ sinh an toàn thân thể”. Sau khi hai con làm xong thì đến bà Bột thực hiện “lộ trình”. Nhưng khi bà Bột cảnh giới cho hai con thì ông Bèo cũng cẩn thận canh chừng ở vòng ngoài, bởi vì ông nghe nói thanh niên ở phố táo tợn lắm, ngộ nhỡ…gặp phải anh chàng liều…. Hai con gái của ông tuy không thành đạt về con đường học hành nhưng đời chúng nó còn hơ hớ, trong sáng, quý giá hơn cả vàng ấy chứ. Phương ngôn có câu: “Con vua thì vua dấu, con châu chấu thì châu chấu yêu”.

    3. Hú vía
    Công việc bốc vác trên bến sông của ông Bèo tuy có thu nhập khá hơn vợ con nhưng vất vả chẳng kém gì làm nghề thổ mộc ở quê. Cứ khi có thuyền cập bến là ông Bèo phải bốc vác hàng hoá không ngơi chân ngơi tay. Phần vì chủ hàng thuê ô tô vào bến phải giải phóng hàng nhanh không ùn tắc bến, phần vì việc ít, người làm thuê đông nếu dềnh dàng thì chủ hàng thuê người khác, mất việc. Bởi vậy, có khi ông Bèo phải bốc vác đến chín mười giờ đêm. Cũng có khi một hai giờ sáng mới hết một thuyền hàng. Ông Bèo không còn hơi sức để canh chừng, cảnh giới bảo vệ cho vợ con được nữa. Bà Bột thấy các con tìm được việc làm, lại vẫn giữ gìn được đất lề quê thói nên cũng yên tâm. Một bữa, cái Dậu đẩy xe đi bán hàng về có hai chị cùng về theo. Cả hai chị đều cắt tóc ngang vai, lông mày cong như lưỡi liềm, vai to, ngực nở. Một chị tự xưng là Huệ, một chị tự xưng là Lan. Các chị đều khai là người nhà quê, hoàn cảnh gia đình éo le, bố mẹ bỏ nhau không ai quan tâm tới con cái nên cũng phải về thành phố kiếm kế sinh nhai.Hôm nay gặp cái Dậu đi bán hàng, hai chị theo về nhờ Dậu giới thiệu với nhà chủ để nhận xe hàng đi bán. Bà Bột cám cảnh, lo lắng cho hai chị nói:
    - Phải có người lớn đứng ra bảo lãnh và có tiền đặt cọc thì chủ mới giao hàng. Họ sợ giao hàng rồi mình chuồn mất thì họ mất vốn.
    Chị Huệ nhanh nhảu nói:
    - Thì mẹ bảo lãnh cho chúng con với, chúng con ở đây không có ai thân thuộc cả.
    - Bảo lãnh thì mẹ có thể nhận, nhưng tiền đặt cọc thì không có, chắc không được đâu.
    Bàn đi tính lại một hồi, hai chị năn nỉ xin đi theo em Dậu bán hàng một vài buổi cho quen rồi sẽ xin chủ hàng giao xe đem hàng đi bán. Hôm ấy, sau khi ăn tối, cái Ngọ và cái Dậu đi tắm, bà Bột lại làm nhiệm vụ cảnh giới ở bên ngoài. Tiếp sau cái Ngọ cái Dậu, chị Huệ và chị Lan cũng vào nhà tắm để thực hiện lộ trình cần thiết. Bà Bột tò mò ghé mắt theo dõi qua khe cửa nhà tắm. Bà giật bắn người khi phát hiện hai người trong nhà tắm, mình trần như nhộng kia không phải là con gái mà là hai thằng quỷ sứ. Chúng nó đang làm trò “động hớn” với nhau.
    Bà Bột chạy về phòng chung cư rỉ tai báo cho ông Bèo biết. Ông Bèo hớt hải tìm bà chủ nhà trọ. Bà chủ nhà trọ điện thoại ngay cho đồn công an.
    Khi hai chị tắm xong, chưa kịp ngồi xuống phản thì một anh một chị công an đã tới kiểm tra giấy tờ. Lúc đầu, hai thằng quỷ sứ còn lý sự quanh co. Anh cảnh sát khu vực nói:
    - Nếu còn chối cãi thì mời hai người theo chúng tôi vào nhà tắm để kiểm tra.
    Một lát sau, anh cảnh sát khu vực trở vào phòng trọ thông báo:
    - Đó là hai tên giả hình giả dạng phụ nữ chuyên lừa đảo.
    Bà Bột lúc ấy mới hoàn hồn thở phào nhẹ nhõm và nói:
    - May quá, tí nữa thì con tôi nát một đời hoa, nát ba đời gái. Mà còn mất cả xe hàng với chúng nó nữa chứ.
     
    Sửa lần cuối: 22/2/2011
  3. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Truyện hay: Từ làng ra phố

    Do phải đánh máy nên hơi lâu mong các bạn chịu khó chờ đợi, mình sẽ cố gắng up càng sớm càng nhiều càng tốt.
     
    huykhoai thích bài này.
  4. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Truyện hay: Từ làng ra phố

    Mình mới đánh được 2 chương nữa, mời mọi người cùng đọc. Bận quá không có thời gian nên cố gắng mỗi ngày post ít nhất 2 chương cả nhà nhé. Cả nhà ủng hộ mình nào.

    4. Vũ điệu trong đêm

    Đêm thứ tư ở nhà trọ chung cư, tình hình an ninh của gia đình ông Bèo bị xâm hại. Ở giường tập thể nam, ông Bèo không sao ngủ được. Ông Bèo bị ngứa toàn thân, khắp cơ thể ông râm ran như có kiến đốt, da thịt ông nổi mẩn như da gà chọi. Khách ngủ chung giường với ông vẫn ngon giấc, có người còn ngáy vo vo, vậy mà ông Bèo vẫn không sao ngủ được. Ông trở mình hết sang trái lại sang phải. Tay ông liên tục bận rộn. Lúc đầu ông chỉ xoa, nhẹ nhàng tránh gây ra tiếng động, sợ ảnh hưởng giấc ngủ của người bên cạnh. Nhưng sự đời thật trớ trêu, ông Bèo càng xoa càng ngứa, càng cố nhịn càng khó chịu. Bức xúc quá ông Bèo phải ngồi dậy và sử dụng cả đôi tay tham gia vũ điệu “cào da, bấu thịt”. Ông cố nhớ lại thực đơn trong ngày xem có món ăn gì phương hại tới lục phủ ngũ tạng hay không. Cái sự mẩn ngứa. kịch phát từ trong người ra thế này phải do tì, vị, tâm, can sinh ra. Nếu ở nhà thì ông đã có mấy bài thuốc lá để chữa trị, trong thì uống mát gan, ngoài thì tắm rửa chống nhiễm khuẩn. Chỉ vài ngày là triệt nọc, chẳng phải thuốc tây hay nhờ tới bác sỹ, y tá chữa trị. Nhưng ở đây sểnh nhà, cơ nhỡ thế này làm gì tìm được lá lẩu, mà nếu có tìm được ở các bà hàng lá thì cũng chẳng có bếp than, bếp lò gì mà sắc thuốc.
    Ông Bèo còn đang loay hoay quanh quẩn với những suy nghĩ “như gà mắc tóc” thì ở dãy phản dành cho phụ nữ cũng phát ra cái âm thanh như ông từng nghe thấy của mấy người nhà quê bị hắc lào và ghẻ tàu. Cái âm thanh sột soạt, xuýt xoa, cựa mình. Nghiêng ghé lại phát ra từ góc phản của mẹ con cái Dậu. Rồi ông nghe thấy tiếng nói nho nhỏ của bà Bột:
    - Cố nín nhịn mà chịu con ạ, sáng mai rồi mẹ xem thế nào. Mẹ cũng đang ngứa lắm đây này.
    Tiếng cái Ngọ nói rõ hơn:
    - Không biết làm sao, cả cái nửa người bên trái của con nổi mẩn lên một vệt dài suốt từ vai xuống ngang bụng, cả dưới bắp chân nữa. Hay là chiếu của con có con giời leo. Eo ơi, con sợ bị giời leo nó bò lắm. Rồi lở loét ra thì chết mất.
    Thế là cả ba mẹ con cái Dậu cùng ngồi dậy. Người nọ xoa gãi cho người kia, người này an ủi, động viên người kia. Ai cũng mong cho trời chóng sáng. Ông Bèo nhẹ nhàng vén màn chui sang góc phản của ba mẹ con bà Bột hỏi:
    - Mẹ con mày cũng bị ngứa phải không? Tao cũng ngứa lắm không ngủ được. Vậy là tao biết rồi. Có lẽ cái nhà trọ chung chạ nhiều người, lại nằm phản gỗ, rệp chúng nó làm tổ ở khe phản, thấy mùi máu người mới đến, chúng nó xông ra tấn công đấy. Mai phản nói chủ nhà nấu nước sôi mà tưới phản. Chỉ vài ấm nước sôi là sẽ hết thôi mà.

    5. Hai người khách mới của nhà trọ

    Mãi tới hơn mười giờ đêm, phố bờ sông mới thưa người và xe cộ. Các quán hàng ăn uống bình dân đã vắng khách. Những tiếng rao của các loại hàng rong đã có cơ hội vang vào các ngõ: “Bánh mỳ nóng…ròn đây”, “Ai bánh khúc đây”, “Ai quẩy nóng đây”, “Ai ngô nóng đây”… Những người lao động ngoại tỉnh dường như đã về các nhà trọ chung cư, nghỉ lấy sức để ngày mai lại đi bán sức lao động ở các tụ điểm trong phố. Có lẽ cũng tại vì ít tiền nên ở phố bờ sông có đông người lao động ngoại tỉnh thuê trọ ở các phản tập thể. Họ cũng chỉ có tiền ăn các món ngô nướng, bánh mỳ, bánh quẩy, bánh khúc thôi. Các khoảng cách thời gian từ bữa tối đến bữa sáng nó dài tới hơn mười tiếng đồng hồ, những người lao động bụng cao dạ dốc thường khó ngủ. Trong đêm tối, những ý nghĩ mờ ám thường đồng hành với nhau, trong đó có những sự đòi hỏi, thèm thuồng cứ hành hạ, giành giật con người. Tới mức ấy thì cái sự thèm bắp ngô nướng, hay cái bánh mỳ lại là những nhu cầu bản thân nhất. Họ cũng đánh lừa cái dạ dày rằng: “Lúc mày rỗng tuếch thì tao cũng đã cung ứng cho mày rồi nhé. Thôi cố ngủ đi, mai kiếm được việc làm, tao sẽ khao mày tử tế hơn, đậm đà hơn, nghe chửa”.
    Đã nhiều đêm ông Bèo cũng có nỗi niềm như vậy. Ông bốc vác ở bến sông, cái nghề này nặng nhọc, tốn cơm, tốn mồ hôi lắm. Bữa tối, vợ và hai con ông thường nhường cho ông mỗi người gần một bát cơm. Vậy mà đến mười giờ đêm, nghe người ra rao bán ngô nóng, ông cũng thấy bị “kích cầu”. Trong bụng ông đã có những lớp sóng lừng, cồn cào, âm ỉ. Mấy cậu tuổi trẻ son rỗi bỏ quê vào thành phố làm thợ đấu, đào đất, đóng cọc móng nhà, phu hồ thì không kìm nổi sự bức xúc, họ góp tiền, cử người đi mua ngô nướng nóng về chầu cửa đánh bài tiến lên, ăn ngô. Thú vui của họ giản dị, thế mà ông Bèo vẫn thấy như họ hoang phí, xa hoa quá. Họ chơi bữa nay chẳng lo tới bữa mai. Ngộ nhỡ trời mưa, mất việc, lại mắc ngay căn bệnh “viêm màng túi”, bệnh này dễ lây lan trong các nhà trọ chung cư bình dân, khó có toa thuốc nào chữa trị ngay được.
    Vào cái thời cấn cá ấy bà chủ nhà trọ lại nhận vào hai người khách mới. Hai người này mới thoạt nhìn từ y phục đến cử chỉ thì xa lak với đám khách lao động bình dân ở trọ tại đây. Ngày cái sự nhận xét tuổi tác của hai vị khách cũng khó chính xác. Ông Bèo thì nói họ ở vào tuổi đầu ba đít lửng lơ, bà Bột lại đoán họ phải suýt soát tuổi bà, nghĩa là đầu bốn đít bé. Còn cái Ngọ và cái Dậu thì chỉ cho là đàn chị, không quá ba mươi tuổi. Ngọ và Dậu cam đoan rằng: Hai vị khách này hẳn là tuổi trẻ ăn chơi quá độ, va chạm đường đời nên trông già trước tuổi. Sự bất đồng chính kiến của gia đình ông Bèo về hai vị khách mới khiến cho họ phải chú ý về sự chung đụng với họ trên tấm phản công cộng này.
     
  5. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Truyện hay: Từ làng ra phố

    6. Nghề đứng đường

    Hai vị khách mới tới nhà trọ, chung phản với mẹ con bà Bột là hai phụ nữ từ quê ra phố, tên tự khai là Dung và Lý. Mọi người trong phòng chỉ biết về họ có vậy qua một đêm, ngày hôm sau ai lại đi mà việc nấy. Chuyện cơm áo không cho người ta cơ hội nhàn tản, tăm tia nhau ở cái “khách sạn thập cẩm” này.
    Chị Dung và chị Lý dậy muộn hơn tất cả mọi khách trọ. Mãi gần chín gừo sáng hai chị mới chui ra khỏi tấm màn gian, đánh răng, rửa mặt, trang điểm cho nhau. Họ cũng xoa phấn lên má để che bớt nếp nhăn. Cũng tô một chút son môi, mặc áo cổ trễ, tay đợi chờ. Hai chị giặt giũ, phơi phóng, đi lại trong nhà, trờ tới giờ ăn trưa thì sang ngay quán cơm. Hai chị là khách ăn sớm nhất của quán cơm bình dân. Tuy đã báo với chủ mỗi người một suất cơm sáu ngàn nhưng hai chị còn gọi thêm một đĩa nem rán và một bát canh măng để ăn cho có vẻ phong lưu.
    Ăn xong, hai chị lại về phản nằm, thầm thì to nhỏ những chuyện không đầu, không đuôi. Rồi lại ngủ…ngủ từ giờ ngọ đến giờ mùi. Đến lưng lửng chiều, hai chị lại trang điểm, rồi báo bà chủ để dành cho hai suất cơm tối để về ăn muộn.
    Hai chị xách túi, lững thững đi vào trong phố. Hai chị đi với vẻ tự tin nhưng cũng không dấu được sự phấp phỏng như thể đi đánh cá giữa biển người, may đấy và cũng rủi đấy.
    Chiều hôm đó, ông Bèo nhận bốc hàng thuê cho một cửa hàng bán sành sứ, bát đĩa ở phố Hàm Long. Thuyền hàng từ Quảng Ninh về. Ông Bèo phải xếp hàng lên xe đẩy rồi từ từ theo đường bờ sông vào đường Nguyễn Công Trứ. Xe chở đầy hàng, lại toàn đồ dễ vỡ nên ông Bèo cứ phải đi từ tốn, chầm chậm. Duy có anh thanh niên áp tải hàng đi bằng xe máy, nên anh ta cứ đi một đoạn lại dừng xe bên vỉ hè để chờ ông Bèo. Đến ngã tư đường Tăng Bạt Hổ và Nguyễn Công Trứ, anh ta dừng xe bên đường chờ đợi. Ngay lập tức hai chị Dung và Lý từ trong phía sau gốc cây cổ thụ bước ra hỏi.
    - Anh ơi, anh cần gì hả anh?
    Anh thanh niên trả lời:
    - Cần đéo gì.
    Chị Lý nói vội sợ như anh thanh niên đổi ý:
    - Có ngay! Có ngay! Tàu nhanh hay là tàu đêm?
    Thấy cái chiêu tiếp thị ngoạn mụcanh thanh niên lại hỏi:
    - Bao nhiêu?
    Chị có tên là Lý lại hỏi:
    - Vòm của anh hay là của em?
    - Vòm nào cũng được. Chỉ cần bãi đáp an toàn là xong.
    Chị Lý hỏi tiếp:
    - Tàu nhanh hả anh?
    - Tàu nhanh.
    - Vậy anh cho em một trăm nhá?
    - Sao đắt thế? Tám chục thôi.
    Chị Lý phân bua:
    - Anh ơi chúng em chả được bao nhiêu đâu. Bãi đáp phải mất năm chục, còn nuôi tú bà và bảo vệ nữa. Đến tay chúng em chỉ còn ba chục thôi mà. Ủng hộ mở hàng cho chúng em đi.
    Khi ông Bèo đứng lại hồi lâu và nghe hết cuộc ngã giá của hai chị khách mới của nhà trọ đêm qua, ông rùng mình lo sợ về cái sự ngủ chung phản của hai đứa con gái và vợ ông. Tạo hoá cho con người sống gần mực thì đen, gần đèn thì rạng. Con gái ông mà cứ tỷ tê ngọt nhạt với hai chị này thì nguy lắm, ngàn vàng rồi cũng mất, khó mà chuộc lại.
    Ông Bèo vừa đẩy xe vừa suy nghĩ miên man về tương lai của hai đứa con. Ông quyết định thầm với mình là phải đưa vợ con đi tìm một chỗ khác, không thể để con gái ông nằm chung phản với hai chị “bán hàng trắng” ở nhà trọ chung cư nữa.

    7. Lều bên sông

    Có một dạo, người sống ở ven sông Hồng thấy một cảnh tượng ồn ào, sôi động và khó hiểu. Đó là cảnh người ta chở phế thải đêm đêm đổ ra dòng sông Hồng. Đến nỗi báo Nhân dân phải in một hàng chữ lớn cảnh báo rằng: “Hà Nội sắp lấp sông Hồng”. Ông Bèo làm bốc vác ở bến sông đêm nào cũng chứng kiến cảnh các xe công nông chở đát cát phế thải xây dựng ra đổ bừa phứa ở mép nước. Rồi lại thấy người ta chia nhau từng mét đất đã san lấp sông mà có. Những túp lều mái lá, tường liếp, mọc lên san sát như nấm mọc sau mưa. Ông Bèo lại thấy nhiều người đến ở. Toàn dân tứ chiếng, tỉnh noà cũng có, họ sống tạm bợ, hoang dã không có ai quản lý. Thấy vậy, ông Bèo bạn với vợ con: “Hay là nhà mình cũng thuê một cái lều để ở riêng. Cổ nhân có câu châm ngôn rằng: “Sống mỗi người một nhà, chết mỗi người một mồ”. Ở nhà trọ công cộng tuy rẻ tiền nhưng nhiều cái phiền toái lắm”.
    Rồi ông Bèo nhẩm tính các khoản thu nhập của gia đình, các khoản chi cần thiết hàng ngày, thấy rằng nếu thuê một túp lều ở bờ sông, gia đình ông có thể sống thoải mái hơn. Trước hết là không phải sống “đồng sàng dị mộng” với những con bệnh xã hội đang sinh sôi nảy nở khắp nơi khắp chốn. Sau nữa là ông nghĩ về tương lai hai đứa con. Giời đã không phú cho chúng nó có thiên hướng về lao động trí óc đã đành. Nhưng dù phải lao động chân tay thì cũng phải “đói cho sạch, rách cho thơm”. Bà Bột thấy ông lo nghĩ tính toán như vậy nên bằng lòng ngay. Bà nghĩ thầm: “Thà bớt ăn bớt tiêu đi chút ít mà được riêng bốn người với nhau là tốt hơn cả”. Cả nhà ông Bèo ra nghị quyết bằng miệng, đặc biệt nhấn mạnh mấy nội dung là: phải nghiến răng chịu đựng, chấp nhận mọi thiếu thốn khó khăn, không ai được “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Tuy nghèo nhưng không ăn cắp, ăn trộm, không lừa đảo ai, chỉ sống bằng những thứ do mồ hôi công sức của mình làm ra.
    Nghị quyết gia đình ngắn gọn như vậy nhưng ông Bèo cứ nhắc đi nhắc lại để ai cũng có thể nhớ. Ngày nào ông Bèo cũng tìm cơ hội để nhắc lại với vợ con những nội dung nghị quyết này, đến nỗi cái Dậu cứ trêu ông là “sư tụng kinh”.
    Túp lều ông Bèo có ý định thuê cho gia đình nằm trên một bãi phế thải cạp ra dòng sông Hồng. Phía trước là con đường mòn mới được tạo lập. Đường rộng khoảng một mét rưỡi còn lổn nhổn gạch vỡ, vôi vữa và đất cát. Những người dựng lều lán ở đây có ý biến bãi phế thải này thành dãy phố nên đã “tự biên tự diễn” ra quy hoạch một con đường. Vậy là túp lều ông Bèo thuê trở thành “nhà mặt phố”. Không chỉ một mặt phố hướng chính Nam mà còn có đầu hồi áp vào đường ở hướng Đông. Người chủ lều ra giá với ông Bèo:
    - Đất và nhà tôi có hai mặt đường. Diện tích cả thảy là hai mươi mét vuông. Dài hơn năm mét, rộng gần bốn mét. Phía sau còn có cơ hội bung ra nữa nếu hàng ngày biết lấn sông mở bãi.
    Túp lều này ông chủ đất đã dựng lên bằng tre, lá. Tường xung quanh bằng liếp nứa đan thưa thuyếch tháo, bên ngoài nhìn vào rõ nét chẳng che giấu được những bí mật của gia đình. Chủ nhà mới chỉ có lều, chưa có nhà vệ sinh, không có bếp, không có nước máy, không có điện. Vậy mà ông chủ đất quát giá tới một trăm hai mươi ngàn đồng một tháng.
    Ông Bèo phải cò kè bớt xén một hồi ông chủ mới hạ giá xuống một trăm ngàn đồng. Ông ta còn có vẻ phóng khoáng:
    - Thế là nhà ông gặp may. Nếu cứ ở nhà trọ thì mỗi ngày nhà ông phải mất tám ngàn. Một tháng hai trăm bốn mươi ngàn. Lại vẫn phải ở chung phản, chết khiếp đi được. Đằng này cả nhà ở cùng, ấm cúng, độc lập. Lại chưa hết nửa tiền.
    Ông Bèo nhẩm tính lại các nguồn thu của gia đình và cảm thấy tự tin. Ông quyết định ký kết với ông chủ để thuê riêng túp lều bên sông cho cả gia đình. Ông tặc lưỡi nói thầm: Thế là … ta đã có nhà ở phố!
     
  6. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Truyện hay: Từ làng ra phố

    8. Bản hợp đồng kỳ lạ

    Sau khi thuê được túp lều bên sông gia đình ông Bèo đã nhanh chóng từ bỏ nhà trọ công cộng về ở trong căn lều tuyềnh toàng không giường chiếu, không điện nước và các công trình vệ sinh dù là vệ sinh loại nhẹ. Ông Bèo phải tìm mua các gỗ hòm, gỗ thùng và sắm cưa, búa, đinh về tự đóng phản nằm. Ông Bèo được phân công nằm ngoài, gần cửa để vệ sinh cho “hai cách cách” và “một hoàng hậu” nằm ở phí trong. Ở bờ sông gió mát và khí hậu trong lành hơn nên “hai cách cách” và “hoàng hậu” ngủ ngọt giấc hơn. Duy chỉ có Bèo “công công” thì giấc ngủ thường chập chờn và nhiều mộng mỵ. Ngay đêm đầu tiên ông đã mê thấy con gái ông bị sảy chân rơi xuống sông. Những con rùa, con giải to đã áp tải cái Dậu đưa về nộp cho Hà bá. Hà bá thấy con bé còn non tơ, trong trắng chưa vương bụi trần ai nên đem cung tiến cho vua thuỷ tề. Vua thuỷ tề mừng rỡ cho cái Dậu vào cung làm cung nữ. Thế rồi mải mê với các lâu đài nơi cung cấm, cái Dậu đã quên cả việc tìm về dương gian, quên bố mẹ và chị gái khiến bà Bột héo hắt vì nhớ con và chết. Ông Bèo thương vợ, gào khóc thảm thiết, giãy giụa trên bãi tha ma nơi bà Bột yên nghỉ. Mơ đến đó thì ông Bèo tỉnh lại. Mồ hôi ông túa ra như tắm. Ông bật diêm nhìn sang phản bà Bột đang nằm, thấy cả ba người vẫn ngủ yên nên mới bình tâm lại. Nhưng từ lúc ấy tới sáng ông cứ thức canh chừng như sợ có ai bắt mất cái Dậu vậy.
    Dẫu sao, được sống như thế này với gia đình ông cũng là một bước tiến đáng kể. Đúng vào thời điểm ông Bèo đang tìm giải pháp che chắn quanh bức tường liếp thì ông chủ của túp lều đến gặp và ngỏ ý thuê ông xây dựng túp lều bằng vật liệu tử tế hơn. Ông ta giải thích:
    - Tôi xây dựng nhưng không ảnh hưởng gì tới sinh hoạt của ông bà cả. Cả nhà tranh thủ những lúc rỗi rãi, tự xây tường. Xây xong, tôi sẽ gác xà gồ, lợp ngói phi-bờ-rô xi măng là xong. Vật liệu là của tôi, ông có thêm thu nhập gia đình.
    Bản hợp đồng thuê xây dựng vắn tắt là: Bên A, ông Lưu Văn Sáu ở số nhà … phường … thuê ông Nguỵ Văn Bèo xây bốn bức tường bằng gạch tổng diện tích là 50 mét vuông. Hai bức đông và tây xây hình vỉ ruồi, bổ trụ hai mươi ở giữa. Đỉnh vỉ ruồi cao hai mét bẩy, dốc thấp cao hai mét hai. Hai bức Nam và Bắc xây bổ hai trụ, cao đều hai mét hai, chừa một cửa chính ra vào và một cửa sổ chớp, giật bốn mươi sáu mươi.
    Có hai điều đáng chú ý trong hợp đồng là: chỉ xây mỗi ngày một mét vuông và phải xây vào buổi tối, phía trong vách liếp. Ông Bèo thắc mắc về hai điều khoản này thì ông Sáu nói:
    - Phải làm thế mới giữ được bí mật. Nếu không thanh tra xây dựng người ta biết là đi đứt. Họ sẽ đuổi ông ra khỏi nhà và bắt tháo dỡ ngay.
    Ông Bèo ngây ngô hỏi tiếp:
    - Xây xong rồi họ biết thì sao? Ở thành phố này công an, cán bộ nhan nhản ra kia, kẻ trộm vặt cái lông gà họ còn biết nữa là…
    Ông Sáu cười khẩy tỏ ý thương hại ông Bèo, nói:
    - Ông nhà quê bỏ mẹ. Ở đất này xây dựng không phép người ta đã quy rằng: Muốn cưỡng chế dỡ bỏ các công trình xây dựng thì phân cấp là: Móng thì phường, tường thì quận, còn nhà thì phải đến cấp thành phố. Ông giữ được bí mật khi xây tường, xây móng là xong. Đến cấp thành phố thì còn lâu. Đã lâu thì cứt trâu cũng hoà bùn, ông rõ chửa?
    Đến đây, ông Bèo mới vỡ nhẽ về cách đối phó với chính quyền của những người như ông Sáu.

    9. Cả nhà làm xây dựng

    Công trình xây dựng của nhà ông Bèo khởi công vào một buổi tối cuối tháng. Hôm ấy, trời không có trăng sao. Dãy bờ sông tối đen như mực. Những ngôi nhà ở ngoài bãi đã đóng cửa chuẩn bị vào giấc ngủ. Ông Sáu đứng giữa túp lều chỉ đạo ông Bèo đào móng chân tường. Ông yêu cầu đào sâu ba mươi phân thành một cái rãnh rồi lấy xi măng, cát, đánh vữa để đặt hai hàng gạch. Hết ba mươi phân, ông Bèo phải xây giật vào thành tường mười phân. Vì phải giữ bí mật nên ông Bèo phải gánh cát từ nhà ông Sáu về bằng hai chiếc thùng gánh nước. Cái Ngọ, cái Dậu phải đeo gạch bằng ba lô. Mỗi ba lô đeo sáu viên, y như hồi chống Mỹ bộ đội ta đeo ba lô gạch tập leo núi vậy. Ông Sáu là chủ cửa hàng vật liệu xậy dựng ở phố nên ông tính rất sát. Mỗi mét vuông tường ông chỉ xuất cho cái Ngọ và cái Dậu 66 viên gạch loại B. Mỗi chuyến, một đứa đeo được sáu viên thì cả hai phải đi năm chuyến. Xây hết sáu mươi sáu viên phải nghỉ để đêm hôm sau xây tiếp. Bà Bột làm nhiệm vụ trộn vữa hay còn gọi là phu hồ. Ông Bèo cầm dao xây làm thợ cả. Tập kết đủ số gạch, ông Bèo bảo bà Bột:
    - Nào! Vữa đây!
    Bà Bột trải mảnh bạt to bằng cái chiếu, đổ cát ra, rồi đổ xi măng, tưới từng bát nước để nhào vữa đến khi ông Bèo bảo được rồi thì cầm đèn dầu soi cho ông đặt gạch. Nguyên tắc hành động là đi nhẹ, nói khẽ, không gây tiếng động. Cửa chính luôn đóng chặt. Dưới ánh đèn dầu leo lét, ông Bèo vừa lấy mực cỡ bằng mắt, vừa kiểm chứng bằng tay. Các cụ xưa từng dạy: “mắt không hay thì lấy tay mà sờ”. Khi đôi thợ xây Bèo- Bột đi vào tác nghiệp thì đội thợ phụ đeo gạch cũng chuyển đủ sáu mươi sáu viên. Hai chị em cái Dậu ngồi xuống phản nhìn đôi thợ xây bất đắc dĩ mà bấm nhau cười. Từ bé đến lớn chị em cái Dậu chưa từng thấy ông Bèo cầm con dao xây. Ấy vậy mà hôm nay, ông lại xây mò mới lạ chứ. Ông cũng xếp gạch xây trụ cửa, lại bắt mỏ xây tường mười giống y hệt ông thợ xây chính hiệu. Nét mặt ông đầy vẻ nghiêm trọng. Vừa xây, ông Bèo vừa để ý nghe mọi tiếng động bên ngoài. Nếu có động là ông thổi tắt đèn bò vào giường ngả lưng ngay. Nếu cần, ông có thể ngày khò khì như là đang ngon giấc lắm.
    Mỗi đêm, chủ đất thuê ông xây một mét vuông. Cả công đeo gạch, cát, xi măng từ cửa hàng vật liệu của ông Sáu về, gia đình ông Bèo được mười lăm ngàn tiền công. Nếu ăn uống tằn tiện thì cả nhà được một bữa trưa không đến nỗi chay tịnh mà còn có tý mỡ “bôi trơn mép” nữa. Tính tổng thể thì nhà ông chỉ làm thêm một ít thời gian chưa ngủ mà cả công trình cũng được hơn bảy trăm ngàn đồng. Lại còn bán vĩnh cửu được túp lều đang ở. Vậy là một công được đôi ba việc. Cứ tiến độ xây theo kiểu tò vò xây tổ thế này thì chỉ năm mươi đêm là xong cái tường. Tiện, còn trát vữa với viên gạch thừa nào, ông Bèo cải tạo cái khu vệ sinh và tắm của vợ con cho nước nôi đỡ tràn vào nền nhà. Nhất là cái đường ống thải nước xuyên tường ra phía sau, chảy xuống sông, ông càng phải làm cẩn thận để lộ trình “vệ sinh an toàn thân thể của phái mạnh nhà ông được đầu tư tương xứng với tiềm năng của gia đình”.
    Sáng hôm sau, trước khi đi ra bến sông làm khuân vác, ông Bèo đi thư thái quanh “công trình” để kiểm tra xem có gì lộ liễu phơi bày ra ngoài không. Nhưng không có gì đáng để người ta soi mói, tò mò. Ông Bèo yên tâm rằng, tuy công trình không phép xây trên đất lấn chiếm nhưng khó có ai có thể phát hiện ra. Ông tặc lưỡi nói thầm “chả trách người ta cứ lấp sông mà làm nhà đoàng hoàng như vậy”.

    10. Bị bắt “quả tớm”

    Mới chín giờ tối, dãy lều tranh gần chân nước sông Hồng đã im ắng. Những ngọn đèn dầu, đèn ắc quy đã tắt. Dường như người ta tiết kiệm nhiên liệu và tiết kiệm sức lực để ngày mai còn vắt sức kiếm sống. Cái lợi của người bỏ làng, bỏ đồng ruộng ra phố là ở công việc làm. Ngày nào cũng có việc làm chứ không có những ngày vô công rỗi việc như tháng ba, tháng tám ở nhà quê. Người nông dân ra phố bán sức lao động ít bị sổ mũi, nhức đầu hay các bệnh ốm vặt. Ngay như giới nữ chiếm ba phần tư dân số nhà ông Bèo cũng không ai được nghỉ một tháng vài ngày thuộc chu kỳ “rụng trứng” như các bác sỹ sản khoa, bác sỹ “chính khoa” thường tư vấn. Ông Bèo cũng chưa phaả chi một khoản tiền nào cho việc chăm sóc làn da của hai nàng “cách cách” và bà mẹ thân sinh ra hai cô con gái ông.
    Thường thì tối nào cũng vậy, bà Bột phân công cái Ngọ và cái Dậu mỗi đứa phải đi xếp hàng ở vòi nước công cộng, gánh mỗi đứa hai gánh nước về để “chi hội phụ nữ” nhà bà thực hiện chương trình “xanh, sạch, đẹp cho môi trường”. Mỗi người dùng một gánh ba mươi lít nước. Gánh còn lại dùng để đánh răng, rửa mặt, vo gạo, rửa rau, và nấu cơm. Ông Bèo có hẳn kế hoạch tiết kiệm nước để hưởng ứng chương trình “chống thất thoát nước” của công ty nước sạch thành phố. Với chương trình này, ông Bèo chỉ tắm toàn thân hai lần trong một tháng. Những tiần lễ còn lại, ông Bèo chỉ đầu tư vệ sinh từng “vùng trọng điểm”, vùng nào có nguy cơ “ô nhiễm” ông mới đầu tư nước sạch. Vừa đỡ tốn công gánh nước của con gái, vừa đỡ mất thời gian của bản thân. Còn ối việc ông Bèo phải lo liệu, xử lý tháng này, ông phải dành trọn ba mươi buổi tối để hoàn thành “công trình kiến trúc” cho ông Sáu chủ đất. Bởi vì mỗi ngày ông ta chỉ xuất cho ông Bèo sáu mươi sáu viên gạch để đủ xây một mét vuông tường. Có thời gian đấy, có súc làm đấy nhưng cũng không có vật liệu để làm thêm. Cái Ngọ, cái Dậu đi đẽo gạch ở cửa hàng ông Sáu về xong thì gánh nước và thay nhau xì xoạp tắm rửa, bà Bột làm phu hồ, bưng cho ông chậu vữa rồi cầm đèn soi cho ông xây. Đêm nay, khi cái Ngọ vừa vào góc nhà, giội hai gáo nước thì ông Bèo nghe có tiếng bước chân đi ở ngoài vách liếp. Ông Bèo nhanh trí thổi tắt ngọn đèn dầu trên tay bà vợ và đứng yên nghe ngóng. Trong nhà tối om, tiếng bước đi quanh liếp như người ta đang bao vây nhà ông Bèo. Bỗng có ánh đèn pin loé lên, xuyên qua những kẽ hở của vách liếp chiếu thẳng vào chỗ cái Ngọ đang tắm. Cái Ngọ kêu lên như bị điện giật: “Ối giời ơi!Ai bật đèn đấy”. Ông Bèo nghe thấy con gái kêu hốt hoảng, ngỡ cái Ngọ bị “xâm hại thân thể” thì lên tiếng hỏi to: “Đứa nào! Đứa nào rình mò gì ở ngoài thế hả? ”
    Có tiếng ông nói to từ ngoài liếp:
    - Ai ở trong nhà mở cửa ra, bật đèn lên!
    Ông Bèo lại nói to:
    - Người ta đang tắm, bật đèn để làm gì?
    Tiếng người đàn ông bên ngoài liếp
    - Tắm cũng bật đèn lên, thanh tra đây.
    Ông Bèo lại hỏi:
    - Tối tăm vắng vẻ thế này, thanh tra thanh mẹ gì. Ban ngày sao không đến? Đi đi! Nếu không tôi kêu cả phố đến bây giờ đấy!
    Tiếng người bên ngoài lại ra lệnh:
    - Mở cửa ngay! Hay là định chống người thi hành công vụ hử?
    Cãi nhau một lúc, người ở ngoài lều cầm đèn pin soi vào ngực mình để ông Bèo nhìn rõ chiếc thẻ công chức ông ta đang đeo ở ngực và nói:
    - Nhìn đây! Chúng tôi là người đang thi hành công vụ.
    Ông Bèo lại trả lời:
    - Tối mò tối mịt thế này biết ai thật ai giả. Thanh tra nào làm việc ban đêm.
    Người ở ngoài nói cao giọng hơn:
    - Ông đang vi phạm quy chế và pháp luật của Nhà nước. Chúng tôi bắt quả tang. Nếu ông không chấp hành thì khi xử lý ông sẽ bị tăng nặng đấy.
    Nghe đến đây, ông Bèo mới sực nhớ rằng thực ra ông chỉ là người làm thuê. Cả bốn người nhà ông đều làm thuê và thuê nhà ở, ông chẳng có tội tình gì. Vậy thì chẳng nên chống đối cơ quan chức trách. Ông Bèo bảo vợ thắp ngọn đèn dầu, nhân tiện nhắc cái Ngọ chỉnh đốn trang phục hẳn hoi chứ không được mặc quần áo tắm hai mảnh, ba mảnh. Không được để các “cán bộ thanh tra” lại tư duy méo mó nghĩ rằng có ý đồ mua chuộc, tha hoá cán bộ.
    Khi cánh cửa mở, ba ông cán bộ bước vào. Ai cũng cầm đèn pin trong tay. Ánh đèn lia ngang, lia dọc khắp quanh túp lều. Một ông cán bộ nói:
    - Tất cả cho xem chứng minh thư hoặc giấy tờ tuỳ thân.
    Một ông khác nói:
    - Đây rồi! Bắt quả tang việc xây dựng không phép và lấn chiếm đất công đây rồi. Thủ đoạn tinh vi thật. Thôi! Lập biên bản phạm pháp quả tang ngay đi.
    Ông Bèo vẫn bình tĩnh nói:
    - Chúng tôi thuê cái lều này để ở. Ông chủ lại thuê chúng tôi xây. Nếu các ông cần phạt thì để tôi đi mời ông chủ. Hay là các ông đi cùng tôi tới nhà ông ấy.
     
    huykhoai thích bài này.
  7. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Truyện hay: Từ làng ra phố

    11. Tiếp cận “nền văn minh phong bì”

    Qua lời khai của ông Bèo, đương sự chủ mưu trong vụ lấn chiếm đất sông xây nhà trái phép là ông chủ một cửa hàng vật liệu xây dựng có tên là Sáu.
    Khi nói đến tên ông Sáu, cả ba vị cán bộ thanh tra cùng à lên một tiếng. Một ông nói:
    - Ông dẫn chúng tôi đi mới ông Sáu về đây!
    Ông Bèo hỏi lại:
    - Các ông có biết nhà ông Sáu không? Vậy thì các ông đi gọi ông Sáu đến đây. Tôi có vai về, trách nhiệm gì đâu mà mời ông Sáu được.
    Tình thế bất khả kháng. Một trong ba vị “thanh tra” phải tự đi mời ông Sáu. Hai vị còn lại giám sát “hiện trường” ở trong lều nhà ông Bèo. Ông Bèo vẻ ngây ngô hỏi:
    - Xin hỏi hai vị cán bộ, chẳng hay khi người ta làm cả dãy lều này thì các vị ở đâu? Chẳng lẽ họ cũng chỉ dựng một đêm là xong ư?
    Hai vị thanh tra tỏ ra lúng túng. Một vị đáp:
    - Địa bạn chúng tôi phụ trách rộng dài, đông dân, lại nhiều người lao động ngoại tỉnh về cư trú. Không thể nào kiểm soát hết được.
    Ông Bèo lại thật thà hỏi:
    - Ngày nào cũng có xe công nông chạy rầm rập, đổ đất cát bụi mù mà chẳng lẽ các ông cũng không biết?
    Ông cán bộ thanh tra lại nói:
    - Xe chạy đúng sai thì có cảnh sát giao thông. Chiếm đất trái pháp luật thì trách nhiệm của địa chính phường, còn xây dựng không phép như nhà ông mới là việc của chúng tôi. Phải tăm tia mấy ngày mới bắt được quả tang việc làm vi phạm pháp luật của ông đấy. Hôm nay thì chúng tôi phải xử lý đúng quy định của thành phố.
    Một lúc sau, vị cán bộ thanh tra đã dẫn ông Lưu Văn Sáu đến hiện trường. Ông Sáu xách theo một hộp đèn ắc quy hai bóng sáng trắng bước vào nhà. Hai ông cán bộ tay bắt mặt mừng chào ông Sáu rồi hỏi:
    - Nhà này của bác à?
    Ông Sáu cười nhăn nhở:
    - Nói là của tôi thì cũng đúng mà cũng không đúng. Bởi vì “đất phải có thổ công, sông phải có Hà bá”. Tôi ăn một mình có mà gãy răng.
    Một vị nói nhỏ:
    - Thế mà các bác chẳng có thông báo để bọn em biết. Làm mất mấy đêm phí công..
    Ông Sáu lại cười nói:
    - Không! Không ai để các chú đi làm uổng công vô ích. Bọn anh đã có cơ chế rồi. Thôi!Chỗ quen biết, tôi cứ gửi các chú mỗi người bát phở bồi dưỡng. Cac chú ghi nhận cho. Nói xong, ông Sáu xỉa cho mỗi vị cán bộ một chiếc phong bì. Cả ba vị vui vẻ nhận và gấp đôi lại đút gọn vào túi áo ngực. Xong xuôi, một trong ba vị cán bộ còn dặn: “Từ lần sau, ông bác cứ báo trước cho chúng em một tiếng để khỏi phải đi lại mất việc”.
    Nói xong, cả ba vị cán bộ xin phép anh Sáu ra về. Trong lều chỉ còn ông Sáu và gia đình ông Bèo. Ông Sáu vẫn đứng nhìn bốn bức tường đang xây dở, tỏ ý hài lòng. Ông Bèo vẫn chưa hiểu nổi vì sao chỉ với ba cái phong bì mà ông Sáu dễ dàng xoay chuyển tình thế, chuyển bại thành thắng, chuyển sai thành đúng, chuyển từ nghiêm trọng thành bình thường, chuyển từ cấp bách khẩn trương sang bình tĩnh, thư thả. Quả là cái “thương hiệu” của ông Sáu thật hữu ích. Ông Sáu muốn khuyếch đại cái uy tín của mình nên vui vẻ nói:
    - Ông ở nhà quê ra có biết sau nền văn minh lúa nước thì hôm nay chúng ta đang sống ở nền văn minh gì không? Đó là nền “văn minh phong bì”. Người ta có câu thơ đó như thế này:
    “Phong Lan, phong cấp, phong bì/ Trong ba phong ấy, phong gì hay hơn/ Phong Lan ngắm mãi cũng buồn/ phong cấp thì phải luôn luôn cúng, chầu/ Phong bì rải trước, bọc sau/ Vừa nhanh bát gạo, vừa sâu tâm tình”.

    12. Sợ cái chân tình

    Sau cái đêm bị bắt “quả tớm” hành vi xây dựng không phép. Ông Bèo còn được tiếp kiến nhiều vị chức sắc của phường và quận. Có người tự giới thiệu là cán bộ địa chính đến hỏi thăm về giấy tờ đất. Cũng có người là cán bộ thuỷ lợi đến hỏi han về an toàn dòng chẩy, nhất là mua mưa lũ sắp đến. Lại có người nói là kiểm tra an toàn lưới điện, chống thất thoát điện năng. Rồi cũng có một vài chàng trai lượn lờ hỏi han cái Ngọ, cái Dậu. Với các nhà chức trách thì ông Bèo không còn gì quan ngại, bởi vì mọi vấn đề đã có ông Sáu với công cụ phòng vệ “phong bì” giải quyết. Nhưng điều ông lo lắng hơn cả là những chàng trai trẻ “đánh võng” trước nhà nhòm ngó cái Ngọ và cái Dậu.
    Từ ngày bỏ làng ra phố, cả cái Ngọ và cái Dậu cứ như người lãnh cảm. Chúng nó đều chưa thích gần con trai. Khi trò truyện với bố mẹ, cả hai đứa đều không thích nói tới chuyện tình yêu, tình báo.
    Chúng nó biết thân phận là học vấn thấp, bố mẹ là nông dân nghèo nên không ăn diện đua đòi, thậm chí lại còn tự ty co mình lại như con ốc nằm trong vỏ. Ấy vậy mà, vào một chiều thứ bẩy, cái Ngọ vừa đi làm về tới nhà, chưa kịp thay bộ quần áo lao động để đi đẽo gạch và xi măng về cho bố xây nốt mảng tường phía sau nhà thì có tiếng thanh niên rụt rè gõ cửa gọi:
    - Ngọ ơi! Ngọ ơi! Mở cửa cho anh với. Ông Bèo thấy vậy ra gần cánh cửa nói vọng ra:
    - Ai hỏi Ngọ ngựa gì vậy? Ở đây không có Ngọ ngựa gì cả.
    Tiếng anh thanh niên càng khẩn khoản:
    - Bác ơi! Cháu cùng giặt là ở cửa hàng với Ngọ mà. Ngọ vừa mới vào nhà đấy thôi! Bác cho cháu gặp Ngọ một chút ạ.
    Trước lời lẽ thành khẩn và điệu bộ bồn chồn, bồng bột của anh thanh niên, ông Bèo cầm cái then gỗ chốt ngang cửa rút ra và nắm chặt trong bàn tay phải như cầm một công cụ hỗ trợ tự vệ. Ông đứng chắn giữa cửa làm cho trong nhà đã tối lại càng tối thêm. Anh thanh niên lúng túng nói:
    - Cháu vừa đi cùng Ngọ từ cửa hàng về đây, cháu đến thăm Ngọ và gia đình ạ.
    Ông Bèo né người sang một bên cửa, mời anh khách không mời vào nhà và nói:
    - Anh vui lòng ngồi xuống phản chờ Ngọ đi lấy chén nước.
    Cái Ngọ từ trong góc quây làm buồng tắm bước ra hỏi:
    - Sao anh biết nhà tôi ở đây mà đến?
    Anh thanh niên không trả lời, chỉ thao láo mắt nhìn bức tường đang xây dở quanh nhà. Cái Ngọ thấy vậy bèn đứng lên nói là đi gánh nước và ra khỏi nhà, bỏ lại anh chàng si tình ngồi như khúc gỗ trên phản nằm của ông Bèo.
    Ông ngồi xuống phản gỗ, đối diện với anh ta hỏi:
    - Thế anh tên gì?
    - Dạ Cung.
    - Bố mẹ anh sinh mấy anh em?
    - Dạ, mỗi.
    - Thế anh định tìm hiểu con Ngọ nhà tôi hử?
    - Dạ thật tình cháu rất quý cô Ngọ, muốn kết bạn với cô ấy. Vâng! Đúng là như thế. Cháu quan hệ với cô ấy rất chân tình ạ.
    Ông Bèo lấy sắc mặt nghiêm trang nói với anh Cung:
    - Anh quan hệ chân thật thì vợ chồng tôi không sợ. Chúng tôi chỉ sợ nhất cái chân tình của anh thôi.

    13. Nghị quyết thứ hai của gia đình

    Ông Bèo đã cố gắng thu xếp công việc, giành thời gian giữ gìn và bảo vệ tế bào gia đình để cố thủ trong cái “lô cốt” xây bằng tường gạch với những tấm phên nứa nguỵ trang, mong sao “đói cho sạch, rách cho thơm”. Nhưng những sự va chạm, cọ sát ở chốn thị thành luôn luôn bao vây và tấn công vào cái “sào huyệt cuối cùng” của gia đình ông Bèo.
    Đầu tiên là sự tiếp cận với thời trang của hai “cách cách” và bà vợ. Những cái áo bà ba và vải phin sẫm màu. dấu tích của nhà nông bà Bột và hai con gái chỉ còn tác dụng khi đi làm. Bà Bột và các con ông đã đổi mới bằng việc mua áo quần si-da ở các vỉa hè phố Triệu Quốc Đạt, phố Phùng Hưng.
    Những chiếc áo chất đống như đống rơm ở quê, chọn cả buổi không biết mỏi tay. Mua hai chục ngàn được bốn năm cái áo, cả ba mẹ con đổi cho nhau mặc hàng tháng vẫn như là mới mua. Cái Ngọ và cái Dậu mặc vào thì phô diễn được các đường nét eo cơ khoẻ khoắn, cổ áo hơi trễ làm tồn lên sức sống trẻ trung thuần khiết, mộc mạc đượm vẻ thanh cao. Riêng bà Bột, mỗi khi mặc đồ si đa, ông Bèo cảm tưởng như bà lột xác, trẻ lại hàng chục tuổi. Khó có thể đoán rằng bà đã có hai con gái lớn, nếu tốt phúc thì bà đã lên chức “bà ngoại”.
    Mầu mưa nắng nhuộm trên nước da của họ đã nhạt phai dần. Mùi bồ kết thoang thoảng hương hoa bưởi, hoa chanh gội trên mái tóc không còn nữa. Bà Bột và cái Ngọ cái Dậu đã chuyển sang gội đầu bằng các loại dầu gội tân tiến hơn, thơm nồng, khiêu gợi và quyến rũ hơn. Tuy bà Bột không nói ra nhưng ông Bèo biết “ăn chơi” như vậy ắt phải “tốn kém”, phải “nghiến răng”, không thể khư khư giữ theo lối cũ được.
    Trấn thủ ở cái lều trên bờ sông, nhờ có luồng gió đổi mới, gia đình ông Bèo có cơ hội bán sức lao động tạo được nguồn thu, có đồng ra đồng vào, được uống và tắm nước máy, được mở mang tầm hiểu biết với nhiều cái mới hơn, tân thời hơn. Nhưng ông Bèo vẫn cứ nơm nớp lo âu sợ túp lều bên sông không “phòng thủ” nổi trước “sóng gió” của thương trường.
    Sau nhiều đêm suy nghĩ, ông Bèo quyết định họp toàn thể gia đình. Phiên họp được tổ chức vào hồi 21 giờ 30 một ngày cuối tuần. Ông Bèo nghiêm trang, ngồi cạnh bà Bột, đối diện với hai con gái nói nhỏ vừa đủ cho bốn người nghe. Trước hết, ông giải thích vì sao phải họp nghiêm cẩn như thế này. Tiếp đó, ông thông báo tình hình xã hội ngoài “lô cốt” của gia đình. Việc làm khó khăn, giá cả leo thang, đặc biệt là tệ nạn đã áp sát chân “lô cốt”, uy hiếp an ninh tinh thần và phẩm giá con người. Nó đang rình rập, tìm cách lôi kéo, giành giật lương tri không từ một ai. Ông liên hệ rằng ngay cả ông, cả bà Bột cũng có thể trở thành đối tượng để chúng thả mồi, tung lưới và bôi đen tâm hồn. Ông đặc biệt cảnh báo với hai con gái trước những “tình yêu bả chuột”,cùng với những cái bắt chước tự nguyện về quần áo, đầu tóc, nói năng, giao du. Những cía đó xâm nhập vào các con thì cái nét chân quê chất phác, cái đức tính tiết kiệm, khiêm nhường, cần cù chịu khó sẽ mai một đi. Bước qua ranh giới ấy sẽ là “mua danh ba vạn, bán danh ba đồng”. Rồi chúng ta bỏ làng đi làm vài năm, chưa thành người đã thành quỷ, thành ma, dẫu có hồi hương vong linh cũng lạc loài, phiêu dạt, thổ thần thổ địa không thèm nhìn mặt huống chi ông bà, tổ tiên.
    Vì những lý do đó, ông Bèo đề ra nghị quyết của gia đình điều động bà Bột từ lao động phụ việc rửa bát, lau chùi, quét dọn quán quà sáng ở đầu phố trở về làm chủ tài khoản gia đình, lo cơm nước, giặt giũ cho ba bốn con. Ba người còn lại đi làm để có thu nhập. Tất cả mọi nguồn thu tập trung cho chủ tài khoản quản lý. Ai muốn mua cái gì cũng phải được chủ tài khoản duyệt chi. Tất cả mọi sự quan hệ với bên ngoài do ông quản lý với mục tiêu đặt lợi ích tinh thần lên trên hết. Quan hệ nào có dấu hiệu mờ ám, không rõ ràng là ông cắt ngay.
    Ông Bèo đưa ra nghị quyết và không ai phản đối. Sáng ngày hôm sau, nghị quyết được đưa vào cuộc sống ngay.
     
    Sửa lần cuối: 22/2/2011
  8. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    14. Quán ngô nướng mang thương hiệu

    Chấp hành nghị quyết của gia đình, bà Bột nghỉ việc ở quán bún ốc. Ngay hôm sau bà Bột đến đầu xóm ăn bún đã thành “thượng đê”, được mời chào rối rít và được chăm sóc cẩn thận. Bây giờ chồng và hai con gái bà đã đã tạo cho bà một vị thế khác. Bà được cầm tiền lương của cả ba bố con ông Bèo. Những khoản chi tiêu mớ rau, con tép, chai mắm, những viên than tổ ong ..v.v bà được tự do định đoạt không cần pảhi báo cáo với ai nữa. Nhưng đấy cũng là cái khó đối với bà. Bởi vì đồng “lương” ít ỏi của cả ba người chỉ đủ để lo ba bữa ăn đạm bạc. Bà Bột phải tính toán rất chi li. Mỗi ngày hai viên than, một cân gạo, dăm ba ngàn rau xanh, một hai lạng tép rang để mỗi con cõng vài hạt muối, một lọ dưa muối bằng các loại rau rẻ tiền như lá bắp cải già, rau cải ngồng hoặc những mớ rau bị châu chấu đã chỉ còn trơ xương. Vậy là gia đình lúc nào cũng có món ăn mặn và món canh. Bữa tối, bà nấu thêm đôi ba lạng gạo để sớm hôm sau bà rang cho mỗi người một bát cơm, chắc dạ. Ăn xong, bố con ông Bèo đi làm hết. Bà Bột dọn nhà, rửa bát đũa rồi mang quần áo bẩn ra vòi nước công cộng giặt, tiện thể gánh về một gánh nước. Việc mua rau củ, tôm tép ông Bèo đảm nhận mua ở bến sông. Buổi trưa nghỉ việc bốc vác, ông Bèo mang về cho vợ nấu nướng. Nhưng mà như thế bà Bột thấy còn thừa thãi thời gian lắm. Nhiều lúc bà cảm thấy như đang bị một đàn châu chấu cắn vào chân, vào tay vậy. Sau vài ngày thu xếp công việc bếp núc, bà Bột bàn với chồng:
    - Hay ông mua cho tôi ít than hoa, tôi quạt nướng ít bắp ngô nếp kiếm thêm đồng rau, đồng mắm cùng ba bố con. Không làm ra mà cứ ngồi ăn thì núi cũng lở.
    Ông Bèo nghe vợ nói có lý nên ủng hộ ngay. Ông ra chợ Long Biên thăm dò thì trường. Biết ở chợ này có nhiều người mang bắp ngô nếp mới thu hoạch về bán mớ. Nhưng quan trọng hơn là ông biết được nguồn sản vật này đang thu hoạch ở ngay bãi giữa sông Hồng. Ông có thể đi đò ngang sang sông, mua tận gốc mang về cho vợ nướng, bán tận ngọn thì lãi sẽ gấp hai lần so với mua buôn ở chợ. Ngay chiều hôm đó, ông thuê một người chèo thuyền sang bãi giữa. Ở đây, người ta thu hoạch ngô nếp, chuẩn bị làm đất để trồng đậu hè. Những người trồng ngô đa phần ở các xã từ Gia Lâm sang. Họ làm lán coi ngô ở vùng giữa bãi, rồi tổ chức từng tốp tuần tra bảo vệ chung. Con đường xương sống chạy giữa bãi cũng có xe máy chạy, xe đạp thồ và xe bò kéo. Bắp ngô tươi sau khi thu hoạch được bán ngay tại lán. Cũng có gia đình dùng xe thồ chở sang chợ Long Biên, chợ Bắc Qua bán cho người buôn có cửa hàng, có kho chứa. Ông Bèo thấy rẻ mua luôn cả tạ bắp ngô cùng với một tải than qua lửa để bà Bột có thể khai trương quán ngô nướng ngay. Bà Bột mừng lắm. Đêm hôm ấy bà quạt thử cho cho bố con ông Bèo tới hai chục bắp ngô nếp. Gia đình được một bữa “liên hoan khai trương” với một món duy nhất là ngô nếp nướng. Bắp ngô tươi, non, nướng than hoa, ăn vừa thơm vừa dẻo. Ai cũng thấy ngon như ăn đặc sản vậy.
    Trong bữa ăn ông Bèo nêu ý tưởng về tiếp thị và quảng bá món đặc sản. Ông nói:
    - Ngày mai tôi sẽ ra phố Hàng Mã mua mấy chữ cắt bằng giấy màu, dán lên miếng gỗ chữ: “Ngô nướng bà Bột”
    Bà Bột “khai trương” quán ngô nướng có vè “thông đồng bén giọt”. Bà ngồi bên chậu than hoa nướng ngô. Ông Bèo phụ giúp việc rót nước chè mời khách súc miệng. Hai cô con gái chạy vòng ngoài, mời chào những người lao động chân tay bụng cao dạ dốc lót dạ đêm bằng món ăn dân tộc, phù hợp với túi tiền. Những buổi đầu chưa đông khách nhưng quán bà Bột lại hấp dẫn về giá. Bà Bột bán hàng xởi lởi, lỏng tay. Ai mua một bắp chỉ với 1.000đ thì bà chọn bắp to hoặc 2 bắp nhỏ. Ai có 1.500đ thì bà bán hai bắp bánh tẻ, lại khuyến mại thêm một cố nước chè.
    Những anh thanh niên quen nghề thổ mộc thường ăn hai bắp ngô nếp, một cốc nước chè để ngô trương phềnh lên ở dạ dày. Thế là ngang dạ, ngủ yên không bị nổi sóng trong bụng nữa. Quán ngô nướng có vẻ phù hợp với lớp người ít tiền nên đến tối ngày thứ ba thì hầu hết cánh lao động nhập cư ở dãy bờ sông đã kéo đến bu quanh quán ngô nướng. Nhiều anh chàng còn xoắn xuýt gọi bà Bột là mẹ và xưng con ngọt xớt như thể đã quen từ lâu. Có người lại cho rằng ngồi ghế gạch, uống nước chè, ăn ngô nếo nướng, đàm đạo chuyện nhân tình, thế thái cũng giúp quên nỗi nhớ nhà. Có người còn mạnh dạn đề xuất thương hiệu của quán ngô nếp nướng là: “Quán ngô ba con bướm”.

    15. Quán ngô nướng bị đấu thầu

    Nhà ông Bèo đã tắt đèn đi nằm, nhưng dư âm của việc buôn bán vẫn còn lởn vởn trong đầu mỗi người.
    Cái Ngọ nói:
    - Tối nay, mẹ nướng và bán được sáu mươi bắp ngô, thu được gần sáu chục nghìn đồng đấy. Trừ vốn có thể được bốn chục ngàn, đủ cho cả nhà ăn một ngày.
    Con số ấy bà Bột không ngờ tới. Nhưng bà Bột không dám nhận đó là công bán hàng của bà. Bà muốn kể tới công đi mua ngô tận bãi của ông Bèo, có cả công cái Ngọ, cái Dậu phụ giúp bà những lời mời chào, những câu giao lưu, đối đáp ngọt ngào, trân trọng. Biết phận mình ít vốn, không có cửa hàng, cửa hiệu, lại bán món ăn thấp cấp, nếu nhà chủ ăn nói lỗ mãng, giọng điệu cắm cảu như chó cắn ma thì khách hàng sẽ bỏ chạy mất. Cửa hàng dù to, dù sang trọng đến mấy cũng chỉ sống được nhờ khách hàng. Đã gần năm mươi tuổi bà Bột mới học được những bài học đầu đời như vậy. Nào ngờ hôm nay bà soi rọi vào cái quán ngô nếp nướng cũng thấy nó đúng quá. Rõ là “đi một ngày đàng học một sàng khôn”.
    Cái Ngọ và cái Dậu đã ngủ ngon. Hai đứa còn đang ở tuổi ăn tuổi ngủ. Ban ngày chúng nó đã làm việc cật lực, tối về lại giúp mẹ quạt than nên chỉ đặt lưng là ngủ. Thấy ông Bèo còn thức, bà Bột rón rén, nhẹ gót đi tới phản của ông Bèo. Bà ghé lưng nằm xuống cạnh ông, đặt bàn tay còn thơm mùi ngô nướng lên mũi ông. Ông Bèo trở mình quay nghiêng về phía bà hỏi:
    - Cứ tưởng bà quên tôi rồi?
    Bà Bột thì thào:
    - Quên thế nào được, nhà cửa trống hơ trống hoác, con cái thì lớn ngộc nghệch. Có nhớ cũng phải nghiến răng, bấm bụng mà chịu vậy.
    Ông Bèo lại ghé tai bà hỏi nhỏ:
    - Thế bây giờ còn nghiến răng không? Cứ nghiến mãi đến lúc rụng hết cả răng thì nghiến bằng cái gì?
    Bà Bột càng nhích sát người về phía ông, nói:
    - Rõ nỡm, đi ngủ rồi mà vẫn còn giắt bắp ngô vào bụng làm gì hử?
    Ông Bèo lại nói nhỏ:
    - Này, đừng có mà giầu trí tưởng bở.
    Ông Bèo như chìm vào mái tóc của vợ, thương cho mái tóc không còn sóng mượt như ngày nào bà mới bước qua tuổi thiếu nữ. Ông tiếc cái làn da không còn mịn màng mà ở dưới con mắt bà những nếp nhăn hình dẻ quạt đã dài ra. Họ đã đi qua chặng đường quá nửa cuộc đời. Cái gánh gia đình trong cuộc du cư từ làng ra phố mới như là chuyển vai.
    Ở đây không thể tính trước về việc làm, về nhà ở. Vợ chồng ông Bèo chỉ mong có được sức khoẻ, cùng các con tần tảo làm ăn, rồi một vài năm mỗi đứa kiếm được tấm chồng, yên bề gia thất. Thế là ông bà toại nguyện.
    Những suy nghĩ ấy của ông Bèo cứ canh cánh bên lòng. Ông đưa các con ra phố, hi vọng tìm được nơi neo đậu cả cuộc đời, lập thân, lập gia thất. Chiếc thuyền đời của vợ chồng ông lúc nào cũng như đang trồi ngụp giữa dòng mà ông là người cầm lái lúc nào cũng phải lên gân, lên cốt. Nhất là từ khi bà Bột khai trương quán ngô nếp nướng. Ông mừng vì đông khách, đắt hàng nhưng cũng lo vì các con ông phải va chạm với người thập phương. Cái sự nết na, mộc mạc có thể sẽ mai một đi. Biết đâu một ngày kia chúng nó trở thành một con người khác.
    Tối hôm sau, khi bà Bột nhóm chậu than xoan quạt nướng ngô, cái Ngọ cái Dậu bê những cái ghế gạch từ trong nhà xếp ra ngoài đường chờ khách thì một chàng trai có bộ mặt bặm trợn, tóc cắt ngắn một phân đến mở hàng.
    Anh ta nói:
    - Quán ngô nướng của u đã được đấu thầu rồi nhá. Khi nào chúng con chán ngô nếp nướng mới đến lượt nhóm khác, u hiểu chưa?
    Bà Bột ngồi ngây người tỏ vẻ lúng túng khó xử. Bà nhẹ nhàng phân giải:
    - Chúng tôi từ nhà quê ra phố làm ăn, được các anh ủng hộ cho là quý lắm. Làm chút quà quê, có đáng gì đâu mà các anh đấu thầu.
    Người khách càng tỏ ra cao hứng:
    - Không biết, chúng con đã thoả thuận với nhau rồi. Nhóm chúng con bỏ thầu cao hơn là chúng con thắng. Ngay tối hôm đó, kết quả cuộc đấu thầu quán ngô nếp nướng bà Bột đã có hiệu lực.
     
    huykhoai thích bài này.
  9. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    16. Nhà thầu hết vốn

    Năm chàng trai của nhóm trúng thầu xem ra đều là những người có chút chữ nghĩa. Hình như cs người đang học ở một trường đại học nào đó. Cũng có người đang đi làm “gia sư” cho một gia đình luyện thi hay kèm cặp cho một vài “cậu ấm, cô chiêu”. Thường thì họ tề tựu đông đủ ở quán ngô nếp nướng của bà Bột vào khoảng chín giờ rưỡi tối. Họ ăn ngô, trò chuyện chừng một tiếng đồng hồ rồi về. Đầu tiên, mỗi anh thanh toán một tối. Nhưng cái vòng xoay chi trả ấy hết một tháng thì các anh đã “chơi chịu”.
    “Nhà thầu” bí vốn, số lượng bắp ngô đặt bà Bột nướng cứ tụt dần. Có tối chỉ đặt nướng ba mươi bắp. Nhưng thời gian ngồi tán gẫu và trêu cợt cái Ngọ, cái Dậu vẫn lê thê và càng thêm suồng sã.
    Người bị ức chế nhiều nhất là ông Bèo. Tối nào ông cũng phải chi một viên than tổ ong, nấu một ấm trà xanh đặc sánh. Uống hết nước cốt đầu tiên, ông phải chế thêm một phích hai lít rưỡi nước sôi cho ngấm để “năm chàng ngự lâm” uống hết thì mới ra về. Họ uống nhiều, có đầu vào thì phải có đầu ra. Thế là họ thay nhau “thâm nhập” vào cái góc kín đáo nhất của gia đình ông Bèo. Rồi họ lại tưng tửng hát với nhau rằng: “chỉ có bụng mới hiểu, chè đi đâu về đâu”. Cứ mỗi khi lo “vận hành công tác thuỷ lợi” xong thì ông Bèo lại phải vào “tẩy mùi” bằng một sô nước.
    Đã thế, có hôm “nhà thầu” hết vốn., bỏ quán làm cho bà Bèo nướng cả một rổ ngô mà không có người ăn. Buộc lòng bà Bột phải chuyển thành “thực đơn bữa sáng” cho cả gia đình.
    Ông Bèo bức xúc đề nghị tạm đóng cửa quán ngô nếp nướng, huỷ bỏ “hợp đồng”. Thế nhưng đúng vào cái buổi bà Bột tắt lò than xoan thì họ lại gom góp được vài chục nghìn và yêu cầu nhà hàng phải “tôn trọng hợp đồng”, phải “chiều thượng đế”. Ông Bèo lấy sắc mặt nghiêm cẩn và giọng từ tốn nói:
    - Các chú hợp đồng kiểu gì mà lạ. Ngày các chú bỏ quán thì không báo, tôi nướng hàng chục bắp phần các chú rồi ế hàng thì tôi chịu cả. Vậy các chú có tôn trọng hợp đồng hay không?
    Một anh chàng có vẻ là “đại ca” nói:
    - Ngô không ăn thì ngô còn đó. Bọn con không có tiền, ăn chịu có được không?
    Ông Bèo lại lý sự:
    - Thế thì các chú đừng có “đấu thầu” cả quán của tôi. Phải để tôi bán cho khách khác chứ.
    Cả năm chàng trai cười phá lên như một sự lạ mới được khám phá. Chàng đại ca nói với ông Bèo:
    - Ồ! Thế bố tưởng quán đắt hàng vì ngô à? Không phải đâu! Chúng con đấu thầu cái khác cơ. Anh ta nói lấp lửng một lát, rồi nói toạc ra rằng họ thầu hai cô con gái của ông thôi. Một chàng trai trong tốp họ nói thêm:
    - Chúng con muốn xem con gái bác giữ được bao nhiêu lâu. Xem hai bác giữ “vàng”, giữ “ngọc” như thế nào. Vậy thôi!
    Cũng từ buổi tối hôm đó, năm chàng “sĩ tử” tuyên bố “giải phóng” cho “nhà hàng” để ông Bèo áp dụng “đường lối đa phương hoá”. Nhưng ông Bèo quyết định tạm ngừng dịch vụ “ngô nếp nướng” để củng cố lại gia đình. Ông nói riêng với vợ:
    - Cái nghề bán hàng nó vậy. Nếu không khéo ăn khéo nói, nếu không khéo ứng xử thì không có khách. Nhưng mà nhẹ nhàng ngọt nhạt, lả lơi thì chắc gì đã giữ được mình .
    Bà Bột nghe chửa thủng đã tự ái:
    - Vậy là ông bảo tôi cũng lả lơi à. Tôi đã thành thân tàn ma dại hay chưa mà ông còn nghi nghi hoặc hoặc? Chỉ vì tôi thương ông, thương con mà ghé vai đỡ đần đồng rau, đồng mắm. Nếu ông không tin thì từ mai ông cứ ở nhà mà coi.
    Ông Bèo biết lỡ lời nên dàn hoà:
    - Ấy là tôi lo cho hai đứa, chứ còn bà thì ai người ta thèm rước làm gì!

    17. Bà Bột nấu cơm tháng

    Những túp lều dựng không phép trên đất lấn chiếm ở ven sông chẳng mấy chốc trở nên hấp dẫn với những người lao động tứ xứ. Tuy còn một số điều kiện sinh hoạt, ăn ở, điện nước chưa thật tiện ích nhưng giá thuê ở đây rất hợp túi tiền. Điện sinh hoạt không phải mua. Nước sạch thì dùng ở máy nước công cộng. Những túp lều tạm bợ này chỉ được coi như cái tổ con tò vò để nó chui ra chui vào và ngả lưng, chợp mắt qua đêm. Hàng ngày, họ sống với sự cuồng nhiệt của phố xá… Có người còn liều lĩnh đi làm những nghề nguy hiểm như lau cửa kính thuê cho những nhà cao tầng, lặn xuống sông mò sắt thép và những vật tư bị trôi dạt chìm dưới đáy sông. Với họ, chỉ cần những chi phí nhỏ nhất cho bản thân, còn có chút ít dành dụm cho gia đình. Mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh, người thì cho già mẹ yếu, người thì vợ con nheo nhóc quặt quẹo … Họ tìm về xóm bờ sông, chung tiền thuê một căn lều để không phải nằm ở vỉa hè hay ghế đá công viên. Một túp lều như của nhà ông Bèo có tới bảy tám, thậm chhí mười người ở. Một tốp ở căn lều cách nhà ông Bèo chừng dăm chục mét lân la ngỏ ý nhờ bà Bột nấu cho họ ngày hai bữa cơm, bữa sáng và bữa tối. Một người trung niên gần xấp xỉ tuổi ông Bèo nói:
    - Dân quê chúng mình quen lao động chân lấm tay bùn, bữa sáng phải ăn cho chắc dạ. Bữa trưa thì làm ở đâu ăn tạm ở đó. Chiều lại về ăn đủ ấm bụng qua đêm. Nếu anh chị vui lòng giúp đỡ cho anh em, chú cháu chúng tôi thì tốt quá. Bà Bột thầm nghĩ: Họ cũng là người nghèo đi làm ăn xa nhà. Nếu cứ cơm hàng cháo chợ ngày ba bữa thì tốn kém quá. Đằng nào mình cũng đốt một viên than, luộc một nồi rau, kho một nồi cá, mình nhận nấu thêm cho họ, thế nào họ cũng trả công. Cả hai cùng có lợi…
    Với lý lẽ đó, bà Bột nói với chồng con ý định muốn nhận thêm việc nấu cơm cho tốp lao động đơn thân. Việc ấy lại phù hợp với cả cái Ngọ và cái Dậu bởi vì cả hai bữa ăn ấy đều không ảnh hưởng gì tới giờ làm việc của cả hai đứa. Nhưng như vậy thì cái lều của nhà ông Bèo nó sẽ chạ người quá. Cái nhóm lao động đơn thân chín người mười làng kia sẽ túa vào nhà ông. Biết đâu chẳng có người chòng ghẹo, co quệt, lả lơi với con ông. Trò đời, giai chưa vợ, gái chưa chồng có khác nào lửa để gần rơm, lâu ngày ắt phải bén cháy. Thêm vào là những chuyện mèo mả gà đồng hàng ngày đang diễn ra ở gốc cây, ghế đá công viên, nó dễ làm cho con ông bị tác động về tinh thần. Những thói hư tật xấu nó có chừa ai đâu. Nghĩ vậy nên khi bà Bột ngỏ lời hỏi ý kiến ông làm bếp ăn cho nhóm lao động chợ trời, ông nói ngay:
    - Nấu cơm giúp người ta thì lấy công phục vụ cải thiện cho gia đình. Nhưng để họ vào nhà ăn uống thì tránh làm sao khỏi những chuyện sàm sỡ. Con gái mình hơ hớ thế kia lại cợt nhả với con trai thập phương thì có khác nào đem mỡ đến miệng mèo.
    Nói xong ông Bèo ra điều kiện rằng cứ nấu nướng giúp họ xong thì cho họ mang cơm về lán mà ăn. Mọi dụng cụ cá nhân như bát đũa, thìa muôi họ phải tự rửa và tự bảo quản. Riêng ở gia đình thì ông phân công hai cô con gái chỉ lo việc nhà không trực tiêế giao thiệp với các chàng trai độc thân.
    Bà Bột hiểu ý ông nên phân công cái Ngọ và cái Dậu chỉ phụ giúp bà việc nấu nướng, nhặt rau, kho cá… Riêng việc mang cơm cho khách ở lều cùng dãy thì bà nhờ ông Bèo thực hiện. Sáng nào cũng vậy ông Bèo lễ mễ bưng cái rổ tre đặt bát rau luộc, bát nước mắm cùng với thức ăn mặn và nồi cơm nóng sang lều lán của tốp lao động chợ trời. Đi một chuyến không hết, ông Bèo đi chuyến thứ hai. Tốp “khách” ăn thì ông về. “Khách” ăn xong ông lại tất tưởi đi sang dọn dẹp, mang nồi bát về để bà vợ lo bữa cơm chiều. Ngay cả nước uông sau bữa cơm ông cũng hãm trà xanh vào ấm tích bằng sứ đem sang để mọi người không còn cơ hội nào tiếp xúc với hai cô con gái rượu của ông. Buổi sáng nào ông Bèo cũng “lùa” hai con gái đi làm trước khi tốp “lực điền” đi ra chợ trời bán sức.
    Biết được thâm ý của ông Bèo, tốp “khách” đã bàn với nhau kế sách “điệu hổ li sơn”. Họ thường ra bể nước công cộng tắm rửa, giặt áo quần để tiếp cận với hai cô con gái rượu của ông Bèo. Mấy chàng thanh niên sẵn sàng nhường nước cho cái Ngọ giặt giũ. Có cậu còn gánh đỡ cho cái Ngọ một hai gánh nước về tận cửa nhà. Đến gần cửa, chàng trao gánh nước sang vai “nàng”, nói với nhau những câu thì thầm, dịu dàng, mắt nhìn nhau đắm đuối dưới ánh sáng lờ mờ xa xa của những dãy đèn đường…
    Với giác quan linh cảm của người cha, sau những lần con gái đi gánh nước lâu lâu mới về, ông Bèo sinh nghi. Ông Bèo lặng lẽ quan sát và phát hiện ra rằng trong số tám người ăn cơm tháng, có tới hai anh chàng đang cưa cẩm, tán tỉnh con gái ông. Họ đang “phát sóng” tín hiệu thăm dò ý tứ. Họ tìm hiểu tâm tính, ý thích cùng với những nguyện vọng, dự định tương lai của các con ông. Ông Bèo đã nói bóng, gần xa với họ rằng: làm trai phải lo lập nghiệp rồi hãy lo lập thân. Phải làm việc để tự nuôi sống bản thân rồi mới lo nuôi vợ nuôi con và báo hiếu cha mẹ. Không thể sống mãi theo kiểu biết bữa nay không lo bữa mai thế này được. Rồi ông dặn các con:
    - Nhà ta đã quyết chí bỏ làng ra đi lập nghiệp, vốn liếng không có, nghề nghiệp cũng không. Nhưng con gái nếu biêt ăn ở nết na, chịu thương chịu khó, biết kính trên nhường dưới thì đó cũng là cái vốn quý có thể làm nên cơ nghiệp. Chớ có vội vàng vồ vập mà vấp ngã không gượng dậy được đâu.
    Cũng từ hôm đó, ông Bèo yêu cầu bà vợ phải cùng con đi giặt quần áo và gánh nước tại vòi nước công cộng, không để cho hai cô con gái được tự do trò chuyện, nhờ vả các chàng trai đơn thân ăn cơm tháng nữa.
    Cơ chế quản lý, giám sát “hà khắc” đó đã làm cho “quán cơm” của bà Bột thưa dần ròi hết khách. Mấy anh chàng “si tình” bảo nhau: “Để xem ông bà ấy giữ giá cho con được bao lâu?”
     
    ngodong9huykhoai thích.
  10. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    18. Cơn lũ tiểu mãn

    Mới đầu tháng tư, vùng thượng nguồn các con sông đã rền vang sấm dậy. Cơ quan khí tượng thuỷ văn dự báo rằng mùa mưa năm nay đến sớm và lũ tiêể mãn sông Hồng có thể sẽ cao tới hơn 11 mét…
    Chỉ sau ba ngày mưa, nước đã lên mức báo động một rồi trên báo động một. Dòng nước mang theo phù sa đỏ ngầu chẳng bao lâu đã ngập hết bãi giữa. Hồ Hoà Bình, hồ Thác Bà đã bắt đầu xả lũ để giữ đập khiến dòng nước chảy xiết hơn, dữ hơn. Những cái xoáy nước hình tròn như miệng phễu lớn cứ xói vào bãi đất phế thải sau dãy lều “lấn chiếm” bãi sông, đe doạ cả dãy lều.
    Một vài người quen nghề sông nước đã chuyển sang nghề mạo hiểm hơn là sắm sửa sào móc, dây thừng ra bờ nước vớt gỗ, tre trôi theo con lũ. Người ta rủ ông Bèo vào hội vớt gỗ nhưng ông chưa dám tham gia. Ông sợ những cái phễu nước xoáy tròn ở ngoài sông kia nó sẽ nuốt chửng ông nếu chẳng may sẩy chân xuống nước. Bà Bột còn nói:
    - Ông là trụ cột của cả nhà nên phải giữ gìn thân thể bình an. Thôi, ăn ít, ăn thiếu cũng chịu được, ông cứ nghỉ cho mẹ con tôi đỡ lo.
    Tuy không ra bến làm việc, nhưng ông Bèo luôn theo dõi mực nước, nhất là những xoáy nước đang gặm dần bãi đất phế thải cuốn ra dòng chảy. Ông nhắc vợ con gấp gọn quần áo, tư trang vào túi xách, chăn màn chiếu gối, bó gọn trong các bao tải để nếu cần thì đi được ngay.
    Ông dặn vợ mua sẵn một thùng mỳ ăn liền, một gói bột canh, một chai dầu thực vật cùng một cân lạc nhân khô. Những thực phẩm dự phòng ấy có thể cầm cự được ba ngày trở lên và trong cái lúc nước xiết, buồn xiêu này, ông dặn vợ cố gắng kiên gan chịu đựng, đừng nói lời bi quan chán nản, đừng kêu khổ, kêu khó mà làm lung lạc ý chí của con cái. Rồi mọi việc sẽ đâu vào đấy…
    Tuy đã có tâm thế chuẩn bị, nhưng vợ chồng ông Bèo vẫn bị động, bất ngờ trước lệnh di dời khẩn cấp của Ban phòng chống lụt bão phường. Theo lệnh này, các gia đình ở gần mép nước phải dời khỏi lều lán trong vòng ba mươi phút. Ai không tự giác chấp hành sẽ bị cưỡng chế di chuyển và bị phạt vi phạm hành chính. Chấp hành lệnh đó, ông Bèo ba lô trên lưng, túi trên vai, rồi mỗi người một đầu đòn gánh khiêng cái hòm gỗ trong có chứa gạo, mỳ ăn liền và bát đũa đi lên đê. Ông “hạ trại” tìm địa thế cắm cọc, căng tấm bao tải xác rắn như thể thiếu nhi làm trại hè. Rồi bảo vợ:
    - Cả Hà Nội này, khách sạn nào cao cấp nhất mới chỉ được công nhận là khách sạn năm sao. Chả bằng nhà mình, đêm nay cứ nằm ngửa là thấy muôn vàn vì sao. Cao cấp thế còn gì bằng?
    Rồi ông Bèo đi kiếm ba viên gạch chỉ, kê làm bếp cho vợ nấu cơm. Gió trên đê lồng lộng. Phải vất vả lắm bà Bột mới nhóm nổi cái bếp củi dã chiến. Khói làm cho mắt bà cay sè, nước mắt chảy nhoè hai mắt. Ông Bèo phải đi nhặt những mảnh bìa các-tông, những vỏ thùng đựng mì ăn liền che gió. Bữa cơm đạm bạc, không rau luộc, chẳng thịt cá, chỉ có lạc rang và nước mắm. Hai người ngồi trên chiếc chiếu cũ trải trên mặt đê, ăn cho đỡ nhớ bữa chứ không có cảm giác ngon miệng, ngon mắt. Vừa ăn, ông Bèo vừa chú ý nhìn ra phía cửa khẩu ra bãi, hi vọng sẽ nhìn thấy hai con đi làm về, tuy vẫn biết rằng, cuối giờ buổi chiều hai đứa mới được nghỉ.
    Nhưng một mối lo khác lớn hơn lại xâm chiếm tâm trí của ông: sợ nước lũ vượt ngưỡng báo động ba và cái lều ông đang thuê để sinh sống ở gần mép nước kia liệu có đứng được trong con lũ tiểu mãn năm nay không? Hay là vợ chồng ông và hai cô “cách cách” lại phải du cư… du canh lần nữa.

    19. Về “mo”

    Nước sông Hồng qua đỉnh lũ 11m35 thì xuống dần, nhưng con nước còn hung dữ lắm. Những cành cây, que củi, thậm chú cả cây gỗ bị nước cuốn trôi phăng phăng trên sông. Mỗi khi gặp cái xoáy nước, cây gỗ dài hàng hai, ba mét cứ dựng đứng lên giữa sông rồi lại lặn mất hút trong làn nước đục ngầu. Bãi sông trơ dần, kéo xuống nước những mảng phế thải xây dựng mà người ta dùng để lấp sông, cạp lấy đất để làm lều lán không cần giấy phép. Sau lưng cái lều nhà ông Bèo lộ ra một miệng hàm ếch to bằng vũng trâu đằm. Phía trên hàm ếch là cả bức tường gạch, phía sau của cái lều gia đình ông Bèo đã xây. Ông Bèo mở cửa vào nhà thì thấy một vết nứt ngang nền nhà. Vết nứt chạy dọc cả bức tường đầu hồi phía Đông. Nhìn bức tường có thể nghiêng xuống sông, ông Bèo hốt hoảng chạy ra ngoài rồi lao vào phố có cửa hàng vật liệu của ông Sáu chủ nhà, bào cho ông ta biết tin nhà của ông sắp trôi thêo nước ra sông. Ông Sáu chủ nhà không tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi:
    - Người nhà ông ra hết khỏi nhà chưa?
    Ông Bèo vừa thở, vừa nói:
    - Chúng tôi chạy lên đê từ báo động hai. Nhưng mà bây giờ không ai dám vào nhà nữa đâu, làm mồi cho hà bà mất.
    Ông Sáu chủ nhà hỏi lại:
    - Nhà trôi xuống sông rồi à?
    Ông Bèo nói tiếp:
    - Chưa trôi nhưng mà sắp. Cái hàm ếch đã sâu vào giữa nền nhà rồi. Chẳng tin ông ra mà xem.
    Ông chủ nhà vẫn còn tiếc của, nói:
    - Thế thì ta đẩy cho nó đổ về phía đất trống để còn gỡ lấy mấy trăm viên gạch chứ. Gỡ gạch trên cạn chẳng hơn ra sông vớt củi à?
    - Ông ra mà gỡ. Tôi chịu. Mạng người chứ có phải con ngoé đâu mà ngồi đấy gỡ gạch.
    Nói xong ông Bèo định đi về trên đê với gia đình. Nhưng ngay lập tức ôgn Sáu chủ đất đã đổi giọng:
    - Này, không phủi tau mà đi như thế nhá. Đất này có chủ, không phải muốn ở thì đến, không muốn thì đi được. TÍnh trả nốt tiền thuê nhà đi.
    Ông Bèo nghĩ đơn giản chỉ có thế nên nói:
    - Thì ông cứ tính. Một tháng một trăm hai. Vậy thì tôi giả theo ngày.
    - Này thằng Bờm, nói thế mà nghe được à? Vì mày tao phải mua hơn hai ngàn gạch, mười bao xi măng, hai khối cát. Bây giờ trôi xuống sông mày lại để tao chịu cả. Nó thế mà nghe được à?
    Ông Bèo cũng lý sự:
    - Tôi thuê nhà của ông chứ có xây chung nhà với ông đâu, ông bỏ tiền ra lấn đất, tôi coi đất mà lại mất tiền. Nếu không có cơn lũ tiểu mãn này thì ông có chia đôi giá trị nhà đất không?
    Ông Bèo mới kịp nói tới đó thì ngay lập tức sau cái nháy mắt ra hiệu của ông Sáu, hai người thanh niên mặt mũi bặm trợn, da mặt đỏ như gà chọi, cắt tóc đầu đinh xông vào túm ngực áo ông Bèo vừa đấm vừa hô:
    - Ăn cắp này! Ăn cắp này! Ăn cắp lại còn già mồm này!Bắt thằng này đưa vào công an.
    Nghe tiếng hô hoán của hai gã đồ tể một số người ở gần đó ùa tới. Có người còn nói to: “Đánh bỏ mẹ nó cho chừa thói ăn cắp!”
    Nhưng cũng có người đúng mực hơn đã lên tiếng can ngăn, nói:
    - Ăn cắp thì bắt đưa vào công an. Không được đánh đạp người ta như thế.
    Những người lương thiện thấy vậy cũng quây lấy ông Bèo không cho bọn đầu gấu đánh đấm ông nữa. Họ bảo nhau đi gọi công an phường.
    Lát sau công an phường cử người đến hiện trường thì hai tên mặt gà chọi đã biến mất. Cả ông Sáu chủ đất cũng không còn ở hiện trường. Những người lương thiện chỉ làm chứng cho ông Bèo rằng ông không ăn cắp, móc túi của ai. Chỉ thấy hai tay thanh niên hô hoán, vừa hô vừa đánh đập ông túi bụi. Người công an đưa ông về phường gọi y tá ở trạm y tế phường dùng dầu xoa bóp những chỗ bầm tím trên mặt và trên ngực ông Bèo. Công an phường còn gọi xe ôm chở ông đến phòng khám của bệnh viện yêu cầu chụp X quang và chụp phổi để làm chứng thương. May mà bọn công đồ không dùng hung khí nên các vết thương chỉ ở phần mềm.
    Trong khi ông Bèo bị hành hung rồi vào đồn công an và đi khám thương tích thì bà Bột ở lều một mình trên mặt đê. Bà không biết chuyện gì đã xảy ra với ông chồng. Nhưng bà không thể bỏ quần áo, tư trang của cả nhà đi tìm ông. Nhưng bà càng mong ông càng bặt vô âm tín. Bà sốt ruột như có lửa đốt. Biết tìm ông ở đâu? Trời đã quá trưa mà ông Bèo vẫn chưa về. Hay là ông về nhà cũ rồi sảy chân rơi xuống sông? Hay là ông đi vào trong phố rồi bị lạc đường hoặc tai nạn giao thông? Hàng chục câu hỏi, hàng chục giả thiết, tình huống xấu cứ luẩn quẩn quanh đầu bà. Bà Bột bất lực không tự giải đáp được. Buổi trưa hôm ấy, bà Bột không nổi lửa nấu cơm. Bà cũng không ăn uống gì. Bao nhiêu nỗi lo làm tiêu tan cái đói, cái khát. Có lúc, bà còn nghĩ cả tới tình thế mất ông. Vậy bà thành người goá bụa, hai đưa con thành mồ côi. Đời chúng nó sẽ ra sao?
    Mãi tới hơn một giờ chiều, ông Bèo mới đi xe ôm về tới chân đe. Bà Bột nhìn bộ mặt bầm tím, ánh mắt thiểu não của ông thì lao từ mặt đê xuống chân đê và kêu lên thất thanh: Ông Bèo, ông làm sao thế này?
    Rồi bà ôm chầm lấy ông như thể đôi vợ chồng đã xa nhau lâu ngày. Bà vuốt ve sờ khắp mặt ông. Ông Bèo bảo vợ:
    - Trả tiền xe ôm cho tôi đi.
    Bà Bột luống cuống móc cái túi con giắt trong cạp quần để lấy tiền trả cho người lái xe. Tiếp đó, bà ôm ngang lưng ông, dìu ông leo lên mặt đê. Bà lấy quần áo và chăn làm gối cho ông rồi luống cuống pha cho ông cốc nước trà gừng để ông uống. Vừa làm, nước mắt bà Bột vừa lã chã chảy xuống má, chảy qua môi và từng giọt, từng giọt rơi xuống ngực ông Bèo.

    20. Giấy rách giữ lề

    Chập choạng tối, đường trong phố đã lên đèn, cửa hàn khẩu ra bãi đã mở. Đường ngoài bãi ngập ngụa phù sa, đi phải xắn quần cao trên gối . Xe máy chỉ bò chầm chậm theo một vệ giữa đường. Phù sa nhão bắn tung toé. Nhiều hố ga bị bật miệng để thoát nước còn để lỗ tròn toang hoác, tênh hênh trên đường. Chỉ cần hớ hênh không để ý có thể sa chân, gẫy cẳng hoặc xảy ra tai nạn…
    Cái Ngọ, cái Dậu dò dẫm ra gần mép nước về nhà trọ tì căn nhà đã đổ nghiêng xuống sông. Cả bức tường phía sau và hai bức đầu hồi đã đổ sập cùng với cái hàm ếch trên bãi đất phế thải. Bức tường cửa quay về hướng Tây Nam cũng đang đe doạ ập vào giữa lều. Xóm lao động tứ chiếng vắng tanh. Hai đứa đành quay trở về tìm bố mẹ dọc thân đê. Lấy cửa hàn khẩu làm điểm hẹn, cái Ngọ phân công cái Dậu đi trên mặt đê, còn nó thì đi tìm bố mẹ cọ dãy “Hotel de la Hiên” ở mặt phố Trần Quang Khải - Trần Nhật Duật. Những cái mái hiên chỉ rộng hơn một mét cũng là nơi khu trú của cả một gia đình “tam đại đồng đường”. Ban ngày, họ phân tán đội hình, nhưng ban đêm, họ cụm lại, chia ca kíp để thay nhau ngồi, nằm, vừa coi giữ “tài sản”, vừa chợp mắt nghỉ dưỡng thần kinh và cơ bắp…Ở những góc tối, ngõ hẻm, cái Ngọ không tiếp cận tới những người ngồi trong màn, nó cứ gọi khe khẽ: “Bố ơi! Mẹ ơi! Bố mẹ ở đâu?”
    Cái Ngọ đi suốt dãy phố, đến tận vườn hoa chéo chỗ cổng nhà Bác Cổ vẫn không gặp. Lúc đấy nó đành quay lại về cửa hàn khẩu. Cái Dậu đang đứng bồn chồn chờ chị ở đó, khi nhận ra chị, cái Dậu gọi to: “Chị Ngọ ơi! Chị Ngọ! Bố bị người ta đánh đau lắm!”. Rồi cái Dậu khóc oà, tức tưởi.
    Cái Ngọ chưa hiểu rõ nguồn cơn, hỏi dồn dập: “Ai đánh bố? Bố làm gì mà người ta đánh? Có đau lắm không? Mẹ có bị đánh không?”
    Cái Dậu cũng chưa biết gì hơn, nó cứ rảo cẳng, vừa đi vừa chạy trên mặt đê khiến cái Ngọ cũng phải chạy theo. Tới nơi, hai chị em cúi gập người chui vào trong lều. Lúc này, ông Bèo đã ngồi dậy, cố làm cho vẻ không đau đớn lắm để hai con đỡ lo. Cái Ngọ chào bố mẹ rồi hỏi ngay:
    - Bố bị người ta đánh à? Làm sao họ lại đánh bố?
    Ông Bèo gắng gượng kể lại sự tình, rồi an ủi hai con:
    - Không nguy hiểm lắm đâu. Bố đã đi bệnh viện rồi. Họ chụp xương không chỗ nào bị rạn, bị gẫy, chỉ bị ở phần mềm thôi, vài ngày là khỏi.
    - Công an họ có giữ được bọn đánh người không hả bố?
    - Công an đến thì chúng nó đã chạy rồi. Họ hỏi lão Sau thì lão cũng nói rằng lão không quen bọn ấy.
    - Công an cũng chỉ hỏi thế rồi bỏ qua à?
    Ông Bèo nhỏ giọng:
    - Họ bảo không có căn cứ pháp lý, bằng chứng. Hỏi người dân thì ai cũng bảo rằng không biết, không thấy, thế là thua.
    Bà Bột bấy giờ mới lên tiếng:
    - Thế ông không nhớ rằng hồi ông ấy thuê mình xây nhà, bị các ông trật tự xây dựng lập biên bản, ông ta đã biếu phong bì như thế nào à? Người ta có tiền thì đổi trắng thay đen khó gì?
    - Thôi! Thế là bố chúng mày gánh cái hạn cho cả nhà rồi đấy! May mà đêm qua cái hàm ếch nó không sập, nếu không thì hôm nay ra biển rồi các con ạ.
    Câu nói của bà Bột hướng cả nhà về cõi tâm linh. Ý tứ của bà là phải bỏ cái vùng bãi sông này mà đi tìm thuê nhà ở nơi khác. Ông Bèo không phản đối nhưng giảng giải với hai con rằng: Khi mới đến đây làm ăn, ông thấy vùng này vừa gần sông vừa gần chợ. Người xưa có câu: “Thứ nhất cận thị, thứ nhị cận giang”. Cứ tưởng rằng ở phố người ta trọng luật pháp, ai dè người ta lại trọng cái luật rừng!
    Nói xong, ông dặn dò các con cứ yên tâm đi làm, chờ vài ba ngày khỏi các vết tím bầm tụ máu trên mặt ông sẽ đi tìm thuê một nơi khác để trọ. Không đủ tiền thuê rộng thì ta thuê hẹp, miễn sao có cái nơi ở, nơi ăn, ngủ, rồi sẽ đi làm. Mỗi người một công một việc, thế nào rồi cũng có ngày qua cơn mưa lại nắng.
    Tuy chưa bằng lòng với cuốc sống còn đang cam go, nhưng cả hai vợ chồng ông Bèo vẫn tự tin rằng : Hai đứa con gái vẫn còn nề nếp, chưa đứa nào đua đòi ăn chơi để đánh mất mình.

    21. Lênh đênh … xa mẹ

    Gia đình ông Bèo đã du cư trong thành phố. Nghe người ta đồn rằng ở phía Tây thành phố đang đô thị hoá nhanh. Ngay cả cùng đào nổi tiếng đất Kinh kỳ cũng đang đổi màu, từ màu đào phai, đào thắm sang màu bê tông chói chang của nhà hàng, khách sạn. Từ những tiếng chim cảnh ríu ran bên khóm tre, khóm trúc sang tiếng hát karaoke lỡ nhịp suốt hai mươi bốn giờ. Bà Bột khấp khởi mừng là dễ kiếm việc, thuê nhà. Còn ông Bèo thì lại nghĩ: “Bước đi này cái phúc và cái hoạ sẽ song hành với gia đình ông đây”.
    Nghĩ vậy nhưng ông Bèo vẫn cùng vợ con thu xếp khăn gói ngược về phía Tây thành phố. Nhà cửa không đến nỗi tệ. Nhà cấp 4, lợp ngói xi măng, có trần nhựa chống nóng, có nhà tắm và nhà vệ sinh khép kín trong phòng. Giá cả chưa đến nỗi làm cho khách trọ mắc bệnh “viêm màng túi”. Chỉ có điều bốn người lớn ở chung thì quá chật chội. Ông Bèo sắp xếp cho ba mẹ con bà Bột ngủ phản gỗ còn ông thì trải chiếu nắm dưới nền nhà.
    Chị em cái Ngọ quyết định bỏ việc ở nơi làm cũ để tìm việc phù hợp hơn. Hai đứa đến một trung tâm giới thiệu việc làm. Đọc qua các thông báo chữ to, cái Ngọ và cái Dậu thấy có nhiều yêu cầu tìm người giúp việc gia đình (ôsin). Tìm hiểu từ trung tâm, cái Ngọ còn biết đi giúp việc gia đình nào cũng có chỗ nghỉ chu đáo, không phải thuê nhà, không phải trả tiền điện nước, lại còn được ăn mỗi ngày ít nhất hai bữa no nê. Có gia đình còn cho quần áo mỗi năm hai bộ. Tết được nghỉ ít nhất là một tuần lễ để về quê. Khi về chủ nhà cũng có quà tết cho bố mẹ, ông bà. Làm ôsin tuy không nặng nhọc nhưng phải thức khuya dậy sớm, công việc luôn chân, luôn tay, lại phải rất tỷ mẩn kỹ càng. Nói năng phải ý tứ, lễ phép. Chủ nhà có người dễ tính, có người nghiệt ngã, xét nét. Những điều đó đã được hai chị em cái Ngọ bàn bạc kỹ lắm. Cái Dậu thì nói: “Thế là phải đi làm đầy tớ cho người ta, hầu hạ từ người già đến trẻ con. Về quê người ta hỏi làm gì, chả lẽ lại bảo là đi làm người ở?” Cái Ngọ thì có vẻ hiểu biết hơn, nói: “Mình lao động bằng mồ hôi công sức để có đồng tiền. Thế là trong sạch, chính đáng, sợ gì? Ngưoờita đu xuất khẩu lao động cũng ối người làm ôsin đấy thôi. Ở đấy, tiếng tăm còn chả biết, chắc gì đã bằng giúp việc ở đây! Với lại làm ôsin đi giúp việc cho các gia đình có văn hoá ở Thủ đo, lo gì người ta khinh bạc. Chẳng qua mình làm việc này họ làm việc khác thôi mà…”. Với cái lí sự mộc mạc, chân tình đó, chị em cái Ngọ đã thuyết phục được ông Bèo và bà Bột đồng ý cho hai chị em cái Ngọ đi làm ôsin.
    Chỉ ba ngày sau, cả hai chị em đều có người đăng ký thuê làm giúp việc. Cái Ngọ được một gia đình mời về chăm sóc một ông cụ già bị tai biến não. Còn cái Dậu thì vào giúp việc cho một đôi vợ chồng đẻ con sinh đôi. Hợp đồng được ký qua trung tâm môi giới, tháng lương đầu tiên phải trả cho trung tâm 50%. Một phần còn lại tháng lương thứ hai phải trả nốt cho trung tâm.
    Cái Ngọ, cái Dậu chia nhau mỗi đứa một nơi. Ông Bèo bà Bột ngẩn ngơ vì nhớ con đến mất ăn mất ngủ mấy ngày đêm liền. Bữa tối, bà Bột vẫn nấu cơm, dọn bát đũa cho cả hai đứa. Ông Bèo buồn bã nhai cơm như nhai rơm, muốn nhả bã ra bát. Ăn xong, ông Bèo cứ ngồi nhìn ra cửa trông mong hai đứa về nhà. Khuya lắm ông mới đi nằm. Tắt đèn cho đỡ tốn tiền điện, hai vợ chồng trằn trọc trên tấm phản gỗ. Cả hai đều có linh cảm như đang chèo thuyền đưa con lênh đênh trên một vùng biển mênh mông chưa biết neo đậu ở bến bờ nào.
     
  11. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    22. Ngày đầu thử thách

    Cái Ngọ được nhận vào giúp việc cho gia đình ông bà Thọ. Hai cụ đều đã hơn 70 tuổi. Bà còn minh mẫn, tỉnh táo nhưng sức không còn khoẻ. Ông thì bị tai biến mạch máu não, tuy còn nhận biết được vợ con nhưng lại không điều khiển được tiểu tiện và đại tiện. Hai cụ có bốn người con: hai gái, hai trai. Người con gái đầu học hành thành đạt là bác sĩ nhưng đã có chồng và ba con. Chị đã có cả cháu nội, cháu ngoại, nên rất bận việc nhà. Chị thứ hai lại lấy chồng và có gia đình ở tận thành phố Hoà Bình nên mỗi tháng may ra mới về thăm bố mẹ một lần. Người con gái thứ ba đi buôn bán tự do, nay đánh hàng từ Lạng Sơn, mai lại đi Lào Cai cùng với chồng. Chị còn kéo theo cả hai cô em dâu cùng đi buôn chuyến. Vì thế hai người con trai cũng rong ruổi chạy hàng như con thoi nên ít ở nhà. Mọi việc lo toan cho cụ ông đều do cụ bà và bà chị cả là bác sĩ gánh vác. Nhưng như thế có nghĩa là trên cái Ngọ có tới hai người chỉ đạo đường lối, còn việc tổ chức thực hiện chỉ có một mình cái Ngọ đảm nhiệm.
    Sáng sớm, cái Ngọ đi chợ mua thức ăn theo thực đơn của cụ bà. Chợ về thì lau rửa, thay đồ cho cụ ông. Đồ của cụ ngày nào cũng phải thay đồng bộ gồm quần áo lót, quần áo dài, chăn mền, vỏ gối, bít tất rồi lau rửa gầm giường, nền nhà, tẩy múi xú uế phế thải của cụ. Những ngày đầu, cái Ngọ không biết tần xuất xả thải của cụ buổi sáng, việc dọn dẹp lau chùi quả là vất vả. Ít buổi sau, cái Ngọ xin cụ bà cho nó mua hai tấm ni lông dày, buộc vào gầm giường để hứng nước tiểu, rồi sáng ngày đổ vào bô mang vào nhà vệ sinh. Nhờ thế, không khí trong nhà bớt phần ô nhiễm. Cụ bà thấy cái Ngọ chịu khó làm lụng suốt ngày mà không kêu ca, bà hỏi ướm:
    - Cháu dọn dẹp phân gio, nước tiểu như thế có ghê tay không?
    - Ồ không bà ơi! Nhà cháu trồng rau màu, mùa nào chẳng phải vào thành phố mua phân bắc gánh về…Không mua được phân bắc thì rau củ mất mùa bà ạ.
    Cái Ngọ nói thế là nó nhẫn nhịn lắm, nhưng nó nghĩ, không làm khó nhọc thì ai người ta trả tiền công?
    Nhưng rồi, có lần cái Ngọ đang ngồi bón cơm cho cụ ăn, chờ cụ nhai lâu quá, nó buồn ngủ quá, ngủ gật làm đổ cả bát cơm canh xuống ngực cụ ông. Cô con gái đi buôn chuyến hôm ấy có mặt ở nhà buông một tràng mắng nhiếc như ở kẻ chợ. Cô bảo: “Cái con này vô duyên thật. Gà mới lên chuồng mà đã buồn ngủ, đã công lên việc xuống gì cho cam chứ? Cái ngữ con gái thế, chả trách!”.
    Nghe vậy, cái Ngọ tủi thân quá bữa cơm chiều nó cứ ngồi bưng bát cơm, gẩy từng hạt trong lòng bát mà không ăn. Mắt nó nhìn trân trân vào những hạt cơm đang bốc hơi trên tay. Tâm trí nó lơ đễnh như đang bồng bềnh lãng du vào một miền cổ tích. Nó ước mong có ông Bụt hiền từ hiện lên cho một phép màu để bố mẹ nó có một ngôi nhà, chị em nó có việc làm, cả nhà có đủ cơm ăn áo mặc. Nó lại nhớ những bữa cơm dưa mắm quây quần đủ bố mẹ và hai chị em. Những bữa cơm đạm bạc mà vui vẻ, ngon lành chứ không khó nuốt như bát cơm gạo trắng thơm đang bốc hơi quyến rũ trước mặt nó lúc này. Bà cụ Thọ cảm nhận thấy cái Ngọ đang tủi thân, buồn bã, không ăn được cơm. Chờ tới lúc mọi người trong nhà xong bữa, đứng dây bà bảo cái Ngọ: “Con ơi! Hôm nay con mệt thì để bà rửa bát đũa cho. Nghỉ đi, ngày mai khoẻ lại làm!”.
    Tuy vậy, cái Ngọ vẫn lặng lẽ thu xếp mọi việc như nó vẫn làm mọi ngày. Khoảng chín giờ tối, nó xin phép bà cụ Thọ đi ra ngoài phố một chút. Cụ bà xăm xắn nói với nó rằng bà cụ cũng có việc cần phải đi nên để hai bà cháu cùng đi. Hai bà cháu lững thững đi trên hè phố, vừa đi bà cụ Thọ vừa nói:
    - Bà biết hôm nau con buồn vì chị Thu nói năng không phải với con. Nhưng mẹ sinh con mà trời thì sinh tính, chẳng phải bà dạy chị ta như thế, con ạ.
    Rồi cụ bà đãi cái Ngọ một bữa ốc luộc chấm mắm gừng, lá chanh. Đây không phải ốc ở ao tù làng quê cái Ngọ vẫn thường ăn hồi còn ở nhà, mà là ốc sống ở Hồ Tây. Bà cụ Thọ kể rằng ốc Hồ Tây vàng ruột và béo. Tiết tháng cuối năm ốc chưa có con, những cái vỏ ốc non chưa hình thành nên ăn không sạn. Người ta cào ốc Hồ Tây bằng những cái cuốc đan bằng dây kẽm chỉ những con ốc to bằng quả ổi găng mới rụng hết đài hoa thì nằm lại trong cái cào; những con bé bằng hạt ngô thì lọt lại dưới hồ, để nó lớn lên mới bắt. Bởi thế quanh Hồ Tây có hàng trăm người cào ốc nhưng ốc vẫn sinh sôi nảy nở như không bao giờ hết được. Bà cụ Thọ còn dạy cách pha nước mắm gừng để chấm ốc Hồ Tây, sao cho cứ ăn vài con lại phải húp một thìa nước chấm thì mới thưởng thức hết cái vị ngọt dân dã của ốc Tây Hồ.
    Cái Ngọ quên hết mọi chuyện đã xảy ra. Nó còn khoe với bà cụ Thọ là ở quê nó đã từng đi mò ốc. Nhưng mà bố nó thường nấu ốc với củ cây chuối tây và đậu phụ chứ không ăn chơi thanh cảnh như ăn ốc với bà. Bà cụ Thọ cười xuý xoá: “Con cứ chịu khó ở đây với bà. Có miếng ngon thì bà cháu cùng ăn, có nỗi buồn bà cháu cùng chia. Đừng để ý những lời của mấy đứa đi buôn bán làm gì con ạ!

    23. Cái Dậu một nách “hai đứa trẻ”
    Cái Dậu được trung tâm giới thiệu việc làm tiến cử cho một gia đình có hoàn cảnh khá đặc biệt. Ông lão tên là Nghĩa. Bà vợ ông là Hậu. Ông bà Nghĩa Hậu chỉ có một người con trai tên là Hiếu. Anh Hiếu đã hơn ba mươi tuổi và vợ anh đã có hai lần sinh. Lần thứ nhất vợ anh sinh bị hỏng. Lần thứ hai vợ anh chửa sinh đôi. Khi đến kì khai hoa, vợ anh gặp hạn lớn. Người ta chỉ cứu cho anh được hai đứa con trai, còn vợ anh thì đã tử vong ngay sau ca mổ đẻ. Thế là anh Hiếu trở thành gà trống nuôi hai đứa con. Thương vợ lắm nhưng anh càng thương con hơn. Anh đã nhờ tìm hai ba người giúp việc, nhưng ai đến nhà anh chỉ thử việc một ngày rồi lại cáo lỗi chào ông bà và anh mà đi.
    Trung tâm giới thiệu việc làm giới thiệu cho anh Hiếu hai người giúp việc, đó là cái Dậu và chị Bưởi. Nhưng về nhận công việc được một ngày thị chị Bưởi đã xin lỗi rồi bỏ cả tiền công mà “chạy làng”. Thấy cái Dậu còn trẻ mà ở lại giúp việc, bà cụ Nghĩa hỏi:
    - Cháu không sợ vất vả hay sao?
    Cái Dậu suy nghĩ một lát rồi nói:
    - Thưa bác, nhà cháu nghèo, cháu không học hành nghề nghiệp gì nên phải đi làm kiếm sống. Vất vả, khó nhọc mới có đồng tiền bát gạo. Nhàn hạ thì lấy gì mà ăn cơ chứ.
    Cái Dậu ở lại giúp anh Hiếu chăm nuôi hai đứa trẻ mồ côi. Bà Nghĩa phụ giúp và bày vẽ cho nó cách gột cháo lấy nước cốt rồi pha với sữa cho hai đứa trẻ ăn. Cứ hai tiếng đồng hồ lalị lấy chai nước cốt gạo và sữa cho bà Nghĩa để bà bày cách cho bé bú chai như thể nó bú mẹ vậy. Khi đã cho nước cháo sữa vào cả hai chai thì bà Nghĩa dạy cách bế em, cách cho bé bú chai. Mỗi lần bé chỉ ăn mười li nước cháo sữa rồi cả hai đứa lại ngủ. Đặt bé xuống giường nằm để bà Nghĩa trông nom, cái Dậu lại đánh rửa sạch sẽ cái chai, úp xuống mặt cái khay nhựa cho thật khô rồi lại đi gột nước cháo cho bữa tiếp theo… Ban đêm, bà Nghĩa lại đỡ cái Dậu vào canh giờ dễ ngủ nhất. Đang tuổi ăn, tuổi ngủ nó cứ đặt lưng là ngủ ngay. Ngủ như chưa bao giờ đuợc ngủ như vậy.Bà cụ Nghĩa quý cái nết cần cù chịu khó và cái sự dịu dàng cầu thị của nó lắm. Bà cụ Nghĩa bảo: “Chưa biết bố mẹ cháu thế nào nhưng qua cía sự ăn ở của cháu thì bà biết cách dạy dỗ của bố mẹ cháu rồi!”. Được khen như thế mà cái Dậu vẫn chỉ lo ông bà chủ quở trách bố mẹ nó. Nó nghe người ta nói rằng “chủ nhà có tiền mua mâm thì họ đâm cho thủng cũng phải chịu nữa là quở mắng”.
    Như thế tội nghiệp bố mẹ nó quá. Nhưng cứ nghĩ tới bố mẹ nó là nó cồn cào gan ruột, muốn về ngay bên cạnh bố mẹ. Nhất là sau cái trận đòn hội chợ của lũ đệ tử lão Sáu. Chỉ vì trận đòn ấy mà hai chị em quyết chí đi giúp việc gia đình để khỏi phải lo thuê nhà trọ, khỏi phải lo bữa ăn. Thế là đỡ gánh nặng cho bố mẹ. Giúp việc gia đình ít có thì giờ đi phố xá, không phải lo quần áo đẹp, ít phải ao ước, thèm muốn, khát khao, lại còn tích cóp được đồng tiền. Nó nghĩ thà chịu khó, chịu khổ ít năm làm được ít tiền làm vốn, ngộ nhỡ phải đi lấy chồng thì cũng có vốn riêng thắt lưng, chồng nó đỡ coi thường, bố mẹ cũng mát lòng mát dạ. Với lại, giả ví thử hai đứa trẻ kia là con của chị mình mà không có mẹ nữa thì mình sẽ làm sao?
    Cái Dậu nghĩ rồi ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ bà Nghĩa chỉ nghe thấy cái Dậu nức nở khóc.
     
    huykhoai thích bài này.
  12. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    24. Gà trống, gà mẹ nhớ con

    Cả ngày, cả hai bữa cơm ông Bèo và bà Bột cứ ngẩn ngơ như người mất hồn. Họ nhớ và lo lắng cho hai đứa con gái. Chúng nó đi bằn bặt không có tin tức gì, việc làm ra sao, giúp việc cho nhà ai, ở đâu, công việc có bận bịu lắm không; ăn uống, công cán thế nào? Một số câu hỏi cứ xoắn xuýt trong đầu óc hai vợ chồng làm cả hai người ăn không ngon, ngồi không yên. Tới bữa tối, bà Bột bức xúc hỏi chồng:
    - Ông có biết cái trung tâm giới thiệu việc làm cho hai đứa ở đâu không? Đến hỏi may ra biết nơi chúng nó làm việc.
    Ông Bèo bất lực vì hai đứa tự đi tìm việc rồi hôm sau họ gọi đi làm ngay nên chưa có địa chỉ. Còn nhà ông thuê trọ thì lại không có điện thoại. Có nghĩa là chỉ khi nào hai đứa được nghỉ về thăm bố mẹ thì mới gặp được thôi. Nói gở mồm nếu chẳng may gặp bọn mẹ mìn nó đem lên biên giới bán cho nhà thổ thì toi đời. Cái tình huống ấy cả nhà ông Bèo và bà Bột đều đã nghĩ tới nhưng không ai dám nói ra, sợ người này làm cho người kia rối trí. Mà hai đứa này gan như gan cóc tía chẳng đứa nào qua nhà trọ báo tin cho bố mẹ khỏi lo.
    Bứa tối, bà Bột vẫn nấu cơm cho cả hai đứa. Chỗ chúng nó thường ngồi bà Bột vẫn để hai cái bát, hai đôi đũa. Đĩa trứng xào mặn vẫn rạch đôi, một nửa cho hai con, một nửa cho hai bố mẹ. Đĩa rau luộc cũng chỉ đụng đũa vào một nửa còn một nửa vẫn để nguyên phần con. Hai vợ chồng ông Bèo ăn qua loa rồi cứ ngồi nhìn nhau rồi tưởng tượng về hai đứa con gái. Ông Bèo vẫn đinh ninh tin rằng vậy là cả hai đứa đã tìm được việc làm. Và hẳn là nhà chủ còn bận việc không nỡ xin nghỉ giờ nào. Với lại đường phố buổi tối còn lạ lẫm, thuê xe ôm thì sợ nó chở đi mất. Còn thuê tắc xi thì tốn tiền chắc không dám đi. Theo ông Bèo thì cái sự im lặng này rất đáng mừng chứ không đáng lo. Bà Bột nghĩ thấy phải nên thở một hơi trút bỏ nỗi ưu phiền. Bà kiên gan chờ đợi. Ngày sau, ngày sau nữa mãi mới tới ngày chủ nhật, cái Ngọ vẫn chưa xin phép nhà chủ cho về thăm bố mẹ được. Bà cụ Thọ bảo nó gọi điện về báo tin cho bố mẹ nhưng nhà trọ của ông Bèo không có điện thoại riêng nên đành chịu. Bà cụ Thọ còn gọi một người xe ôm ở đầu ngõ và cho nó tiền xe để đi về thăm bố mẹ. Cụ bà còn nhắc đi nhắc lại rằng đây là tiền bà cho chứ bà không trừ vào tiền lương của cháu. Nhưng đúng lúc nó chuẩn bị đi thì ông cụ Thọ lại có triệu chứng bất thường. Mắt ông cụ đờ đẫn, thất thần, tay cụ cứ như người đang định bắt con chuồn chuồn trước mặt. Biết có chuyện chẳng lành, bà cụ Thọ gọi điện ngay cho con gái cả là bác sĩ. Chỉ mươi phút sau cô bác sĩ đang ngồi trên xe cấp cứu, rú còi khẩn cấp, chở cả kíp cấp cứu về nhà. Những nhân viên y tế mặc áo blu trắng khẩn trương làm các thủ thuật cấp cứu. Người thì tiêm thuốc trợ tim, người thì úp vào mặt ông cái mặt nạ thở, người thì đo điện tâm đồ. Lát sau cơn nguy kịch đối với cụ ông đã qua. Nhưng cũng vì thế, cái Ngọ quên luôn việc xin về thăm bố mẹ. Cái Ngọ lăn lộn làm việc như chăm lo cho ông nội ông ngoại vậy.
    Những ngày đầu thử thách, cái Ngọ đã chứng minh được tính cách nhẫn nhịn, chịu thương chịu khó, nói năng lễ độ, nết na dịu dàng. Bởi vậy bà cụ chủ cũng tỏ ra thương mến. Cụ bà chỉ bảo công việc cho Ngọ rất nhẹ nhàng cặn kẽ. Cụ bảo: “Ông thì sống như chết, bà thì như ngọn đèn trước gió. Trong nhà chỉ còn ba người như cái chân kiềng ở bếp, thiếu một cái thì hỏng cả nồi cơm”.
    Những cử chỉ thương mến của cụ khiến cái Ngọ xúc động. Nó nói: “Cháu sẽ ở với ông bà cho tới khi nào ông bà hai năm mươi thì mới liệu. Chỉ mong bà coi cháu như là cháu của ông bà thôi”!

    25. Kế “đổi người giúp việc”

    Cô Thu, con gái thứ ba của bà Thọ bỗng dưng trở nên ngon ngọt, thớ lợ với mẹ và uốn lưỡi khen cái Ngọ một cách sỗ sàng. Mỗi khi đến thăm bố, cô ta đều buông lời khen rằng: cái Ngọ chịu khó và chăm chỉ quá, thật chẳng chê vào đâu được!
    Nhưng mà vốn là người buôn đầu chợ, bán cuối chợ, cô Thu lại buột miệng nói với mẹ: “Như cái Ngọ cứ để ở nhà với việc giặt giũ, bưng bô thì phí quá. Chả thiết gì việc làm ra tiền mà lại nhàn hạ!” Rồi một hôm cô Thu nói với mẹ”
    - Mẹ ơi, mẹ cho con đổi cái Ngọ vài ngày, nó đi giúp con một vài chuyến. Để nhà con sang đây hầu ông vài ngày mẹ ạ!
    Bà Thọ giẫy nẩy người như bị điện giật, nói:
    - Thôi ạ! Tôi hầu chồng chị thì có, chứ chồng chị làm sao lại hầu bố chị được. Bố chị nằm liệt cả năm nay đã thấy anh ấy đụng tay, dụng chân vào cái bô, cái chậu nào đâu? Cái Ngọ là tôi tìm về, chị cứ để nó ở nhà cho tôi nhờ!
    Chuyện cô Thu muốn dùng cái Ngọ vào việc đi buôn hàng chuyến rồi cũng đến tai hai nàng dâu bà Thọ. Nàng dâu út thẽ thọt: “Con nói thật với u nhá. Chị Thu muốn lấy cái Ngọ làm “quà tặng” hải quan với thuế vụ thôi. Các ông ấy thèm “chanh cốm” mẹ ạ!”.
    Bà Thọ xót xa khi mường tượng ra cảnh con gái, con dâu đang bươn chải ở những nơi có quá nhiều sự cám dỗ con người chỉ cần một tích tắc sẩy chân thì rơi vào cạm bẫy. Không cạm bẫy tình thì cạm bẫy tiền. Không lả lơi, cọ quệt với quan tham tình thì phải trả giá bằng tiền, có khi mất cả cơ nghiệp vì phải giữ giá cho chồng con, cho gia đình. Bà Thọ thấy cái vỏ bọc ngoài của các con bà nó mong manh, nó lỏng lẻo quá. Một hôm nhân ngày chủ nhật, các con về nhà ăn cơm, bà đem câu chuyện đạo hiếu nói:
    - Một năm nay, bố các chị, các anh coi như đã chết. Tôi cũng gần đất xa trời. Tấm lòng hiếu thảo của các anh, các chị tôi cũng đã biết. Bởi thế tôi phải tìm người đỡ đần chuyện cơm nước và các chuyện giường cứt, chiếu đái. Xin các anh, các chị để cho tôi yên thân. Khi nào tôi nhắm mắt đi theo bố các anh, các chị rồi thì muốn làm gì cũng được!
    Cũng từ buổi ấy, trừ chị bác sĩ, bốn anh em con bà Thọ đã lập sổ theo dõi sự đóng góp nuôi dưỡng bố mẹ. Họ tính toán hơn thiệt với nhau từng hào, từng giờ công. Người nào cũng cố giữ cho mình khỏi thiệt thòi và cũng không ai muốn “chơi trội” hơn ai. Rút cục, việc nuôi dưỡng bố mẹ bằng sự đóng góp của họ chẳng khác nào bốn gia đình nuôi chung một con trâu đến phiên nhà nào, nhà ấy lo. Chỉ thiếu nước ghi sổ bàn giao và cân mẹ trước khi đổi phiên.
    Những đồng tiền đóng góp của hai chị con gái và hai anh con trai bà Thọ đều bỏ riêng vào một cái túi. Còn tiền lương hưu của hai ông bà thì bà để riêng. Bà Bảo những đồng tiền lương của hai người là loại tiền quý, tiền sạch nên bà Thọ chỉ để trả công cái Ngọ và mua đồ ăn, thức uống cho hai ông bà. Khi nào hết nhẵn tiền lương thì bà mới tiêu bằng những đồng tiền của các con góp cho. Thường thì bà dùng để trả tiền điện, nước, phí vệ sinh, phí bảo vệ an ninh…
    Bà Thọ giải thích với cái Ngọ: Cháu làm việc khó nhọc mới có đồng tiền nên bà trả công cháu bằng chính lương hưu của ông bà thì bà mới vừa lòng. Như thế thì không anh, chị nào được giao cho cháu làm việc cho họ cả. Cháu cứ ở với bà, khi nào ông bà theo tiên tổ thì tuỳ cháu, muốn làm cho ai bà cũng không can ngăn.

    26. Mỏi mắt mong tin con.

    Cái Ngọ, cái Dậu đi nhận việc được một tuần nhưng ngày chủ nhật đầu tiên ông Bèo và bà Bột không thấy đứa nào về nhà để báo cáo về công việc mà hai đứa được thuê làm. Suốt cả tuần hai đứa không có điện thoại, cũng chẳng có thư từ gì cho bố mẹ. Tối thứ bảy bà Bột nấu cả bốn suất cơm, dọn mâm trên chiếc phản gỗ rồi ngồi chờ con. Chờ mãi, chờ mãi mâm cơm ngượi ngơ nguôi ngắt, nghe ti vi bên hàng xóm đã báo chín giờ tối, lúc ấy ông bà mới lùa vội vài miếng cơm vào miệng cho qua bữa. Họ nhai bã cả miệng mà nuốt không trôi. Trong lòng cả hai người cứ khắc khoải, thoảng thốt như thiếu vắng mất mát một cái gì trong cơ thể.
    Đêm ấy, bà Bột cứ gục đầu vào ngực ông Bèo nức nở khóc. Bà mếu máo nói không thành tiếng:
    - Anh ơi, chẳng lẽ chúng mình mất cả hai đứa con ư?
    - Mất là mất thế nào?
    - Thế nó đi đâu?
    - Có thê nó đến nhận việc rồi nhà chủ bận quá không xin về được. Mà sao mình cứ nghĩ quẩn thế? Con gái lớn tướng, nó đi lấy chồng xa thì sao?
    - Nó lấy chồng xa thì mình cũng phải biết địa chỉ, giống nòi nhà chồng chứ. Đằng này bằn bặt suốt cả tuần không có tin gì. Dẫu là gỗ đã cũng chẳng chịu được huống chi là người.
    Đêm thứ bảy vắng con, tuy vẫn biết rằng không xa nhưng ông Bèo, bà Bột vẫn nhỡ con rất da diết. Rồi cả ngày chủ nhật hết đứng lại ngồi vẫn không thấy cái Ngọ và cái Dậu về. Thế là tối chủ nhật bếp than tổ ong của bà Bột không đỏ lửa nữa. Hai ông bà tha thẩn ra tận đường phố lớn chờ con. Đường hai chiều nườm nượp ô tô, xe máy và xe đạp đi lại. Bà Bột hỏi chồng:
    - Sao chúng nó không thuê xe ôm mà về nhỉ?
    Ông Bèo lại giải đáp:
    - Thuê xe ôm à? Ngộ nhỡ nó chở con bà đem bán cho nhà chứa thì sao? Tôi tin rằng hai đứa nó chẳng dại thế. Bà Bột lại hỏi:
    - Vậy sao chẳng đứa nào về?
    - Tôi tin là công việc bận lắm, chúng nó chưa đi về được. Với lại, chẳng nhẽ vừa mới đến nhận việc ai lại xin về với mẹ ngay cơ chứ.
    Bà Bột cũng chưa yên lòng. Bà nghĩ rằng cái trung tâm giới thiệu việc làm cho hai đứa ở gần nơi ông bà đang sống. Tìm đến hỏi trung tâm nơi hai đứa làm việc hẳn là không khó. Rồi bà Bột lập kế đi tìm con. Tìm đến trung tâm không thấy thì phải báo cáo với công an để nhờ người ta điều tra. Cuối cùng nếu cái Ngọ, cái Dậu không về thì bà sẽ nhờ đài phát thanh truyền hình thông báo tìm trẻ lạc. Nghê đến đấy ông Bèo không nhịn được, bỗng cười phì lên rồi diễu bà:
    - Thì thì bà phải chờ tôi về quê bán nhà mới đủ tiền lên được đài truyền hình. Rõ là ếch ngồi đáy giếng. Nghèo rớt mùng tơi như mình. Đai ai người ta thèm chấp.

    27. Đánh đường tìm con

    Phương ngôn ta có câu: “Con vua thì vua dấu, con châu chấu thì châu chấu yêu”! Ông Bèo và bà Bột chỉ nghĩ mình là phận châu chấu thôi, nhưng nuôi con từ lúc mang thai đến nay biết bao khó nhọc, bao phen chìm nổi, nước mắt và nụ cười cùng song hành với vợ chồng bà gần một phần tư thế kỉ. Vậy mà bỗng dưng ông bà như bị một cơn gió xoáy bốc cả hai đứa con trên tay. Hai người quyết định dắt nhau đi tìm con.
    Lúc đầu hai người định chia nhau mỗi người một ngả cho nhanh. Nhưng cả hai đều chưa thạo đường. Bà Bột lại kém cái khoản giao tiếp, nói năng chưa theo kịp người thị thành nên ông Bèo còn sợ bà đi lạc đường. Cuối cùng cả hai quyết định đi cùng nhau. Trước hết họ tìm đến các trung tâm giới thiệu việc làm. Có đi mới biết: các trung tâm này có quá nhiều cách làm ăn. Họ cứ ngang nhiên “nấu cơm” trên lưng người lao động nào là lệ phí nộp hồ sơ, nào là trích từ hai tháng lương đầu tiên khi có việc làm…Thấy ông Bèo và vợ còn đang ngơ ngác trước cửa trung tâm, một chị cò đon đả gạ:
    - Nào, ông anh, bà chị tìm việc làm phải không? Có cần gì thì em giúp?
    Ông Bèo chưa kịp đáp thì chị “cò” đã hỏi:
    - Chị có đi giúp việc gia đình không? Còn anh thì tìm nghề gì? Đưa chứng minh thư cho em, em đăng ký cho, mai chị có việc làm ngay.
    Ông Bèo lắc đầu nói:
    - Không, chúng tôi đi tìm con. Hai con tôi nhờ trung tâm giới thiệu việc làm. Thế mà gần mười ngày nay không có tin tức gì.
    Chị “cò” lại hỏi”
    - Hai con bác là trai hay là gái?
    - Con gái. Đứa thì hai mươi, đứa thì mười tám. Chúng nó bảo trung tâm giới thiệu làm giúp việc gia đình.
    Chị “cò” buông một lời độc địa, gieo vào đầu hai vợ chồng ông Bèo một nỗi lo tức tưởi: “Hai ông bà phải tìm xem. Tuổi ấy giúp việc trong “nhà chứa” được tiền lắm đấy!”.
    Giận quá, ông Bèo kéo tay vợ lôi đi, không thèm nghe những lời rác rưởi ấy nữa. Họ tìm vào trong văn phòng của trung tâm, đón gặp những người có trách nhiệm. Nhưng chờ mãi, chờ mãi vẫn không thấy người nào có dàng dấp tin tưởng. Toàn thấy người nói năng tục tĩu, câu nào cũng có lời mở đầu nghe bẩn lỗ tai. Ngay cả những cuộc đàm thoại trên máy điện thoại cũng thấy sặc một mùi thị trường giống như ở hàng cá, hàng thịt ngoài chợ. Có một cuộc điện thoại làm ông Bèo nghe thấy rợn gai ốc. Người cầm máy hỏi người ở đầu dây bên kia:
    - Alô! Thế nào? Con bé nhà quê ấy đã chịu tiếp khách chưa? Gan lì lắm à, giữ giá lắm à? Sao các vị khách khí và lịch sự thế?
    Không rõ ở đầu dây bên kia nói gì nhưng người cầm máy trước mặt ông Bèo cười khẩy nói lại: “Cầm lòng vậy, đành lòng vậy! Mất tiền mua mâm thì phải đâm cho thủng chứ sao!”
    Ông Bèo nghe xong bỗng thấy chột dạ. Ông kéo bà Bột ra ngoài vỉa hè nói nhỏ:
    - Bà đã nghe rõ chửa. Cái trung tâm này nó tuyển gái cho “nhà chứa” bà ạ. Tôi sợ hai đứa con nhà mình bị chúng nó lừa. Tôi với bà phải đi báo công an ngay. Nhanh lên mà giải cứu cho chúng nó. Đi! Bà!
     
    kumochuykhoai thích.
  13. cutit2006

    cutit2006 Thành viên mới

    Tham gia:
    3/6/2008
    Bài viết:
    32
    Đã được thích:
    4
    Điểm thành tích:
    8
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    Truyện rất hay. cám ơn bạn chịu khó đánh lên cho mọi người cùng đọc.
     
  14. thuynghia

    thuynghia http://t***nghia.com/

    Tham gia:
    29/5/2009
    Bài viết:
    9,656
    Đã được thích:
    1,160
    Điểm thành tích:
    823
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    Cho mình đánh dấu cái! Bây giờ chưa có thời gian đọc, mới lướt qua nhưng thấy có vẻ hấp dẫn nhỉ?
    Cám ơn bạn đã dành thời gian chia sẻ với mọi ng!
     
  15. jojo

    jojo Thành viên mới

    Tham gia:
    23/8/2007
    Bài viết:
    39
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    6
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    Truyện hay quá, viết tiếp đi bạn. Cám ơn bạn nhé
     
  16. phuongedu

    phuongedu

    Tham gia:
    5/4/2010
    Bài viết:
    19,595
    Đã được thích:
    6,989
    Điểm thành tích:
    3,063
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    HI HI, một câu chuyện hay. thanks chủ top
     
  17. huykhoai

    huykhoai Thành viên tập sự

    Tham gia:
    27/2/2011
    Bài viết:
    7
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    3
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    Thực sự ở nhà mình không có thời gian đọc truyện giấy, không ngờ trên này cũng có bạn đầu tư thời gian để đánh máy chia sẻ với mọi người. Cảm ơn bạn nhiều và hi vọng được theo dõi đến hết truyện.
     
  18. gialinh1007

    gialinh1007 Thành viên tập sự

    Tham gia:
    31/12/2010
    Bài viết:
    15
    Đã được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    3
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    Những mảnh đời trong truyện của bạn đời thường cũng có rất nhiều nhưng không hiểu sao qua câu chuyện mới càng thấy cảm động , càng thấy đáng thương hơn nữa . Cảm ơn bạn đã chia sẻ .
     
  19. MeAnhDuc

    MeAnhDuc Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    24/9/2010
    Bài viết:
    1,124
    Đã được thích:
    131
    Điểm thành tích:
    103
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    Mình cũng đánh dấu. Mất 2h roài mà chưa đọc hết. Câu chuyện hay quá! thanks!
     
  20. nhichan

    nhichan Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    26/5/2010
    Bài viết:
    1,720
    Đã được thích:
    299
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Bỏ làng ... ra phố

    28. Gặp người bảo kê

    Tìm mãi, hỏi thăm người hàng phố ba, bốn lần, ông Bèo và bà Bột mới tới được trụ sở công an phường. Khi tới được nơi người trục ban ngồi thì đồng hồ trên tường đã gần bảy giờ tối. Bàn trực vắng teo. Hình như đây là lúc các anh công an phường được nghỉ ngơi và sự yên tĩnh ở đây khiến ông Bèo liên tưởng tới giờ tạm ngừng hoạt động của bọn tội phạm, giống như là hai bên đã kí thoả thuận “ngừng chiến” vậy. Ông Bèo đã thấm mệt liền bảo bà Bột cùng ngồi xuống chiếc ghế băng dài tựa lưng vào tường để chiêm ngưỡng chiếc bàn làm việc đang chằng chịt các loại mực vẽ ngang vẽ dọc như là mạng nhện chăng. Phía sau bàn trực ban là các phòng làm việc của trưởng, phó công an phường và các đội nghiệp vụ. Phòng nào cũng đóng cửa kín mít. Duy chỉ có phòng ở cuối dãy vẫn còn đèn sáng. Ở đó có tiếng người đi lại cùng những tiếng leng keng thìa, bát, báo hiệu đang có người. Ông Bèo lặng lẽ đi về phía đó thì bắt gặp một phòng nhỏ có cửa sắt khoá bằng xích sắt to. Người đang đi lại trong phòng nghe tiếng bước chân ông Bèo đã ra sát cửa sắt ghé mặt nhìn ra ngoài chờ đợi. Anh ta cất tiếng hỏi:
    - Bác có lửa không? Cho cháu xin tý lửa.
    Ông Bèo giật mình đứng khững lại, lúng túng chưa biết xử lí ra sao thì người đàn ông trong cửa sắt lại nói;
    - Nếu không có lửa thì nhờ bác ra quán nước mua giúp một bao diêm. Cả ngày hôm nay chưa được khói nào.
    Bà Bột nghe tới khòi thuốc nên nghĩ ngay rằng người thanh niên đang ở sau cửa sắt kia hẳn là một con nghiện nên bị công an bắt giam. Bà túm vào lưng áo ông Bèo kéo mạnh về phía mình rồi ghé vào tai ông nói nhỏ:
    - Cái nhà ông này dính líu với tụi nghiện mà làm gì. Đầu không phải lại phải tai thì khốn đấy. Sửa được vạ thì má đã sưng.
    Ông Bèo theo vợ lui ra phòng trực ban ngồi xuống ghế băng chờ đợi. Tĩnh trí lại một lát, ông Bèo mới thấy bà Bột có lí. Thói quen cảnh giác để phòng đã nhiễm vào bà tự bao giờ ông cũng không biết nữa. Chỉ biết rằng từ sau trận đòn hội chợ của bạn tay chân tên Sáu ở bờ sông, bà Bột đã khác hẳn người vợ tảo tần và an phận ngày xưa. Hôm ấy, bà vừa bóp, chữa chạy cho chồng vừa nói: “Đấy, ông thấy không, lão Sáu nó chỉ gật đầu một cái là cả lũ chó nó quây vào đấm đá, làm cho ông toói tăm mặt mũi. Rồi chúng nó đứng cười với nhau. Khi công an đến là chúng nó chuồn, chẳng ai làm gì được nó. Tôi ngờ lắm ông ạ!”.
    Những nỗi ngờ vực của bà Bột cũng làm cho niềm tin của ông lung lay. Ông nghĩ thầm: “Hình như bọn đầu gấu ở đây được phân chia lãnh địa. Khi nào chúng nó hoạt động mạnh thì vắng chính quyền. Khó có thể bắt quả tang bọn chúng. Vậy là pháp luật cũng bó tay…”
    Đúng lúc vợ chồng ông Bèo đang mông lung suy nghĩ về thế thái nhân tình thì người trực ban của công an phường bước vào. Anh ta vừa đi vừa xỉa răng quèn quẹt, da mặt đỏ gay như mào gà chọi. Anh ngồi vào ghế trực ban và hỏi trống không:
    - Có việc gì đấy?
    Ông Bèo kể hết sự tình cùng những điều ông nghe và chứng kiến ở trung tâm giới thiệu việc làm khi chiều. Người trực ban hỏi giọng hăm doạ:
    - Tóm lại là ông bà tố cáo trung tâm này chăn dắt gái cho nhà hàng bán dâm phải không? Được! Tôi ghi nhận. Bây giờ ông bà viết vào tờ đơn tố cáo cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật. Ông bà nhớ là vu cáo cũng có tội đấy nhá.
    Như một gáo nước lạnh dội từ trên đỉnh đầu xuống toàn thân ông Bèo. Ông bấm tay bà Bột rồi hai người giả vờ ra sân bàn bạc. Chờ cho người trực ban đi về phía buồng giam, chắc là đi xả bia, vợ chồng ông Bèo đi nhanh ra phố, ông Bèo bảo vợ:
    - Thôi tốt hơn hết là không có dây vào việc này. Biết đâu họ chả bảo kê cho mấy nhà hàng. Chả dại gì, bà ạ!

    29. Thuê tìm con lạc

    Nghe người ta kháo nhau rằng muốn thông báo nhắn tìm con lạc thì cách tốt nhất, nhanh nhất hiện nay chỉ nhờ Đài Truyền hình. Người ta chỉ cần đưa lên đài một phút là cả nước, thậm chí cả thế giới đều biết tin. Con gái ông ở đâu nếu nghe đài nói ắt sẽ về ngay. Nhưng mà ông Bèo cũng nghe họ kháo nhau rằng cái dịch vụ này đắt lắm, chẳng biết cái lưng tiền èo ọt của ông bà Bột có đủ để thuê một phút phát sóng hay không? Cái món truyền hình ấy là của người nhà giàu chứ nhà nghèo như ông thì còn khuya cũng chưa dám mơ tới xem truyền hình.
    Ông Bèo còn nhớ mới mấy năm trước, cả xóm nhà ông mới chỉ có một nhà có cái ti vi màu. Cứ tối đến, chủ nhà kê ti vi lên cái bàn nước để ra hè cho trẻ con hàng xóm đến ngồi xem. Người xem đủ mọi lứa tuổi, cứ mỗi người mang theo một cái ghế gỗ ngồi bếp sang sân nhà hàng xóm kê ngồi. Chủ nhà lại nuôi nhiều ngan, gà cứ phóng uế ra sân những đống phế thải vừa dẻo vừa to, bốc mùi nồng nặc. Lũ trẻ không đi giầy dép đạp phải cứt gà sáp xem hết phim truyện thì về nhà leo thẳng lên giường ngủ, không cần biết cái chất keo đen và cái mùi khẳn như cóc chết cứ bủa vây khắp nhà cho tới lúc khô.
    Vẫn biết rằng lên truyền hình là một nhu cầu xa xỉ, nhưng vì con, vợ chồng ông Bèo vẫn cố nghiến răng mà chịu.
    Hai vợ chồng đưa nhau đi bộ tới phòng quảng cáo của Đài Truyền hình. Mới ngồi chờ đợi mươi phút mà nghe người ta tiêu tiền quảng cáo như nước chảy. Một phút trên Truyền hình phải chi tới gần ba chục triệu đồng. Tìm người lạc lúc 5 giờ chiều cũng phải mất hơn ba trăm ngàn một lần phát sóng. Mà người lạc lại phải có ảnh mới được lên hình. Việc này khiến vợ chồng ông Bèo có tiền muốn thông báo tìm con cũng không được. Nhân viên phòng quảng cáo tư vấn cho ông Bèo tìm cái chứng minh thư của con ông cũng được. Nhưng chứng minh thư là một bộ phận cấu thành của cơ thể như là đầu, mình, tứ chi và chứng minh thư nên ông Bèo không thể thuê đuợc dịch vụ này. Người ta lại tư vấn cho ông thuê dịch vụ phát thanh. Dịch vụ phát thanh vừa rẻ lại vừa phát lại nhiều lần. Nhưng quả thật từ ngày du cư ở phố, ông Bèo không nghe được phát thanh bao giờ. Ở thành phố bây giờ người ta tân tiến lắm. Người sành điệu, giàu sang thì xem ti vi màn hình phẳng, nghe nhạc âm thanh nổi. Người trung lưu thì có ti vi, cát sét trong nhà, mấy ai còn mắc loa dây nghe tin tức nữa. Vậy là dân ngoại tỉnh đi làm thuê cứ mù tịt thông tin. Báo chí không có để đọc. Đoàn thể không có để hội họp. Luật pháp Quốc hội thông qua mỗi kì mấy luật mà chưa biết luật nào đến đầu đến cuối. Đầu óc lúc nào cũng u u, minh minh chỉ nhớ được giá gạo, giá điện, nước mà chỉ nhà trọ gọi nộp hàng tháng mà thôi. Vậy thì thuê tìm con trên đài phát thanh chắc gì các con đã nghe thấy?
    Cứ nghĩ lẩn thẩn như vậy mà vợ chồng ông Bèo đã dựng lên rào cản cho chính bản thân mình. Đi mãi, đi mãi, vợ chồng ông Bèo đã về tới nhà trọ. Mỏi chân, mỏi lưng quá, vợ chồng ông Bèo nằm vật xuống phản rồi ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Trong giấc ngủ chập chờn, ông Bèo nằm mơ thấy cái Ngọ, cái Dậu bị một lũ hình nhân mặt người nhưng nanh vuốt như bầy chó ngao đang vây quanh hai đứa. Nguy kịch, nguy kịch quá. Ông Bèo thương con rồi phẫn uất gào lên: Đồ quỷ, chúng mày ăn thịt con ông à? Ông sẽ sống chết với chúng mày!
    Ông bật dậy, vồ lấy con dao bếp đứng xuống tấn thế thủ. Giấc mơ hãi hùng ra đi.

    30. Quán chè chén … vỉa hè

    Vợ chồng ông Bèo đi qua nhiều phố, nhiều cơ quan công quyền, gặp nhiều loại người với các chức sắc khác nhau. Nhiều ông chức bé nhưng nói năng oai vệ, bốc giời, “một tấc đến giời” làm ông Bèo cứ ngỡ rằng ông ta là người cao cấp, quan sang. Nhiều ông bụng to, trán hói, mặt mũi trơn tuột như tráng mỡ, ngỡ là người quan trọng nhưng lại chẳng có vai vế gì.
    Vợ chồng ông Bèo mỏi chân, khát nước tìm vào một quán vỉa hè, ngồi ghế nhựa dưới gốc cây bằng lăng, mua một cốc nhân trần uống cho đỡ khát. Vừa uống, ông Bèo vừa dò hỏi xem có cơ quan nào giúp ông bà tìm thấy hai đứa con hay không. Bà chủ quán nước tự tin nói rằng: “Cứ ngồi đây uống nước, khoảng chín mười giờ sẽ có người giúp được ông bà”. Bà chủ quán nước nhìn vợ chồng ông Bèo với vẻ mặt ái ngại và dặn: “Ở phố xá này thực hư, thật giả, tốt xấu, thiện ác nó cứ lẫn lộn lung tung, ông bà mới ở quê ra phố kiếm ăn phải cẩn thận!”.
    Bà chủ quán ước chừng ngoài bốn mươi. Mặt, môi vẫn còn mầu son phấn. Tuy không loè loẹt, tỉa tót nhưng vẫn rõ sự trang điểm kín đáo. Bà Bột hỏi thăm thì biết bà chủ quán đã có hai con, một trai, một gái đều đang đi học. Ba mẹ con bà sống nhờ vào quán chè chén ở góc phố này. Ngày trước thì bán nước với thuốc lá cuốn, kẹo dồi, kẹo lạc, kẹo vừng. Ngày nay khách không ăn kẹo dồi, kẹo lạc thì uống rượu cuốc lủi với lạc rang húng lìu. Ghi vài con số đề cho các chủ đề kiếm chút hoa hồng. “Thế tôi hỏi khí không phải, ông nhà công tác ở đâu hả bà?”. Bà Bột hỏi chưa dứt lời, bà chủ quán đã giới thiệu:
    - Nhà tôi ý ạ! Nhà tôi làm giám đốc công ty Chi-trô-mếch. Suốt ngày đi “sở lượn”, toàn là giao dịch với các đại gia.
    Bà Bột tấm tắc khen: “Thế thì ông bà phong lưu quá! Chắc các cô các cậu học hành giỏi giang lắm bà nhỉ?”.
    Ông giám đốc của bà chủ quán nước đã từ “sở lượn” về. Ông đi xe máy to, đẹp, bóng nhoáng, chạy vè vè trên hè phố rồi gạt chân chống rất sành điệu cho chiếc xe đứng dưới gốc cây bằng lăng. Ông kéo ghế ngồi ở đầu bàn nước, tự rót một chén chè đặc sánh, lấy bao ba số ở trong hộp kính rồi châm lửa hút. Lúc lâu sau bà chủ quán mới giới thiệu ông Bèo với chồng và dặn: Ông bà ấy mới ở quê ra, cố giúp ông bà ấy kẻo bọn mẹ mìn đưa hai đứa con đi mất thì khổ.
    Ông chồng bà chủ quán vẫn còn lim dim đôi mắt sau làn khói thuốc lá rồi hỏi một câu cộc lốc;
    - Đã lâu chưa? Hơn hai tuần thì chúng nó đưa qua biên giới rồi ấy chứ. Thế đã báo công an chưa?
    Vợ chồng ông Bèo nhìn nhau. Bà Bột nhanh nhảu nói: “Dạ thưa, chúng em như bị bùa mê thuốc lú nên quên chưa báo”.
    Ông giám đốc công ty Chi-trô-mếch gật gật đầu nói:
    - Thế là tốt. Báo công an bọn nó thấy động, có khi nó thủ tiêu mất. Bọn chúng cho vào bao tải vứt xuống hố ga thoát nước chỉ vài ngày là hết manh mối.
    Bà Bột nghe thấy ông “giám đốc” nói mà rụng rời chân tay, hai tai ù đặc, chân run lẩy bẩy. Ông Bèo thấy vậy ngồi sát lại gần, làm chỗ tựa cho vợ rồi nói:
    - Trăm sự nhờ bác giúp đỡ. Vợ chồng tôi mà không tìm thấy các cháu thì chúng tôi chết mất. Mà có sống cũng không dám về quê nữa hai bác ạ.

    31. Giám đốc “sở lượn” ra tay

    Sau chưa đầy ba mươi phút nghe vợ chồng ông Bèo trình bày việc “thất lạc” hai đứa con, ông giám đốc “sở lượn” đi tới nhận định hai tình huống có thể xảy ra:
    Một là, có cái trung tâm giới thiệu việc làm nào đó đóng cửa ở khu vực Tây thành phố đã thu nạp cái Ngọ và cái Dậu vào đội ngũ những người ô sin và giới thiệu hai đứa đi làm việc. Khi có việc làm ngay, hai đứa chưa xin gia chủ nghỉ việc về thăm bố mẹ nên chưa liên lạc được với gia đình.
    Hai là, Trung tâm ấy đã lừa hai đứa vào làm gái ở các nhà chứa trá hình như các quán Karaoke hoặc quán cà phê “ôm”. Nếu gặp phải cô gái nào dày ăn mỏng làm, lại thích ăn diện, chơi bời thì thành nghiện rồi sợ bố mẹ biết nên không về ngay.
    Giả định các khả năng xấu, tốt có thể xảy ra xong, ông giám đốc Chi-trô-mếch bảo ông Bèo lên xe máy để theo ông ta trở về “quân khu” miền Tây thành phố. Vừa đi, ông vừa giới thiệu với ông Bèo:
    - Đấy ông có thấy các biển chữ đề tên các nhà nghỉ ở hai bên dãy phố kia không? Đó là những nơi “hành lạc” trá hình đấy. Bọn đàn ông thèm gái thường vào quán cà phê đèn mờ, cà phê “ôm” rồi ngã gái với gái. Sau khi thoả thuận, họ rủ nhau từng đôi vào các “hang động” này. Rẻ thôi, chỉ năm chục ngàn đồng thuê phòng ba tiếng đồng hồ, ôm ấp, giao lưu, trần trụi, quằn quại rồi giải tán. Chàng lại trở nàng về quán cà phê cũ, thế là xong. Mấy ông quan chức tham nhũng được nhiều tiền thì cho gái thêm vài chục đi xe tắc xi là tránh được mắt thiên hạ. Ông thử nghĩ xem, những cái “chợ tình” mọc lên san sát kia nếu không có người mua kẻ bán tấp nập thì đói nhăn răng ra ấy chứ. Hôm nào ông có dịp, tôi đuư ông sang Gia Lâm, bên kia cầu Chương Dương, còn được ví là Hồng Kông của Hà Nội nhé. Những nhà nghỉ mọc lên san sát, cách nhau vài chục mét lại có một nhà. Có chỗ nhà nghỉ này sát tường nhà nghỉ kia. Các phòng nghỉ cho thuê thi nhau hạ giá. Có lúc chỉ năm mươi ngàn đồng đã có một phòng, có giường, đệm, có máy điều hoà, bình tắm nóng lạnh. Cánh ăn chơi nó gọi là “bãi đáp”. Gái mại dâm thì gọi đó là “vòm”.
    Từ ngày xã hội tiến bộ sản xuất ra cái điẹn thoại di động thì cũng sinh ra công nghệ mua bán dâm mới. Nghĩa là ông có tiền cứ vào nhà nghỉ thuê phòng rồi gọi người bảo vệ hoặc lễ tân yêu cầu “mặt hàng”. Loại trẻ, mới vào nghề có giá khác. Loại mới tiếp khách lần đầu chúng nó gọi là “gái giải đen”. Loại này phải là “hàng xịn”. Nếu con ong đã tỏ đường đi lối về, không giải được đen thì các đại gia phạt nặng lắm. Bởi vậy hai đứa con ông có thể xếp vào hàng động vật quý hiếm, bọn thừa tiền, thích đỏ đen đang săn bắt loại này, vồ được một đứa là lãi bằng cả một chuyến hàng ấy chứ.
    Ông Bèo ngồi sau xe của ông giám đốc “sở lượn” mà thấy chóng mặt, choáng váng. Ông cứ run cả chân tay và ông ôm chặt ngang người ông “giám đốc” để khỏi rơi khỏi yên xe. Ông giám đốc đi qua hai địa điểm, dừng xe bên vệ đường, gọi hai thằng đàn em, rồi giao một thằng đi tìm các trung tâm giới thiệu việc làm, một thằng tìm ở các quán Karaoke mà ông ta gọi là “vòm di động”. Ông hẹn sau 24 giờ phải về báo cáo với ông. Ông sẽ có thưởng.
     
    kumochuykhoai thích.

Chia sẻ trang này