Sau 1 tuổi, lượng sữa bú mẹ hay bú bình đều đã giảm. Giai đoạn ăn dặm đã qua và bé đã có thể "vô tư" ăn các loại thức ăn cứng. Điều quan trọng lúc này là một chế độ ăn đa dạng, đáp ứng nhu cầu của cơ thể bé. Giai đoạn từ 1 - 3 tuổi chính là thời điểm để chuyển từ các thức ăn dành riêng cho bé sang các thức ăn chung của cả gia đình. Sau 1 tuổi, lượng sữa bú mẹ hay sữa công thức đều đã giảm. Điều quan trọng lúc này là bé cần có một chế độ ăn đa dạng, cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, đáp ứng nhu cầu cơ thể (phối chộn nhiều loại ngũ cốc, ăn thịt và cá, trứng và đậu đỗ, phô mai, sữa, rau xanh và hoa quả). Tuy nhiên, đây cũng là thời điểm mà sự tăng trưởng của cơ thể đang chậm lại vì thế cũng làm giảm cảm giác thèm ăn. Trong khi đó, nhu cầu của bé lại phụ thuộc vào sự kiểm soát của mẹ nên lúc này, các bậc phụ huynh thường cảm thấy con mình dường như không thích ăn. Giờ ăn bỗng chốc trở thành 1 thách thức, khiến các bậc cha mẹ lo lắng về tình trạng sức khoẻ của con. Chế độ ăn đa dạng Chế độ ăn đa dạng là một chế độ ăn trong đó mỗi bữa ăn có đầy đủ các nhóm các thực phẩm quan trọng. Chẳng hạn như các bữa ăn hằng ngày cùng với các bữa phụ sẽ đảm bảo được nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của cơ thể trong từng giai đoạn, mà không phải áp dụng thêm chế độ ăn đặc biệt nào. Vì vậy, nếu bé nhà bạn ăn 3 bữa 1 ngày và có từ 3 - 4 bữa phụ, với các thực phẩm như hoa quả tươi, rau xanh, ngũ cốc, lương thực các thực phẩm chứa tinh bột như bánh mỳ, cơm, mỳ; thịt cá, trứng, các loại hạt, đậu đỗ, sữa, sữa chua, phô mai và các chế phẩm khác thì bạn có thể an tâm rằng: ngay cả khi bé bỏ 1 bữa hay thậm chí là bỏ ăn cả 1 ngày thì dinh dưỡng trong cả tuần hay cả tháng vẫn đáp ứng được nhu cầu của cơ thể bé. Ngoài ra, để đảm bảo rằng bé được cung cấp đủ chất sắt, bạn nên cho bé ăn thêm các thực phẩm giàu chất sắt như súp lơ xanh, thịt bò, đỗ xanh, các loại quả khô và đường thốt nốt trong chế độ ăn hằng ngày. Nếu bé "chê" món này thì hãy cho bé ăn loại khác cùng nhóm ở bữa sau. Thế nào là một chế độ dinh dưỡng đầy đủ? Chế độ dinh dưỡng của tuổi tập đi rất khác với chế độ ăn trong năm đầu đời, vẫn đảm bảo đủ chất mà không phải quá lo lắng tới từng bữa ăn. Thực đơn lúc này rất đa dạng và giúp người mẹ dễ dàng trong chế biến mà vẫn đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng khi bé không thích ăn loại thực phẩm nào đó. Sữa, sữa chua, súp lơ xanh và các loại hạt vỏ cứng rất giàu canxi cũng như sắt và protein. Sữa chua trong bữa phụ có thể giúp bổ sung canxi và protein nếu trẻ ăn ít trong bữa chính. Khi liên tục đổi món, theo mùa thì không chỉ đảm bảo dinh dưỡng mà còn giúp trẻ ngon miệng, biết ăn nhiều loại thực phẩm. Không thể thiếu những thực phẩm đặc biệt Chế độ ăn của trẻ tuổi chập chững được đánh giá là rất tốt khi có sự đa dạng, mặc dù không bao gồm tất cả các loại thực phẩm "tối ưu cho bé". Giá trị của bất kỳ loại thực phẩm nào đều nằm ở sự chuyển hoá chất của cơ thể vì thế không thể có loại "siêu thực phẩm" độc quyền. Ví như rau chân vịt rất bổ vì nó giàu canxi, sắt cũng như các loại vitamin nhưng các loại rau xanh khác như rau cải, súp lơ xanh hay sữa và sữa chua cũng có giá trị dinh dưỡng tương tự. Bản thân sữa, từng được coi là "thực phẩm hoàn hảo" đối với trẻ em thì nay được khuyến nghị là nên uống vừa phải, nhiều quá cơ thể cũng không hấp thụ hết. Lượng protein, khoáng chất và vitamin có trong sữa cũng có nhiều trong các loại thực phẩm khác và thay vì khuyến khích trẻ chỉ uống sữa, hãy hướng trẻ tới việc lựa chọn nhiều loại thực phẩm khác như sữa chua, bánh phô mai, canh súp lơ xanh (cũng có giá trị dinh dưỡng tương đương). Nhiều bậc cha mẹ lo lắng khi thấy con mình ăn chay vì sợ cơ thể trẻ sẽ bị thiếu các chất quan trọng như protein động vật. Tuy nhiên, các thực phẩm chay cũng rất giàu protein ví như các loại đỗ, các loại hạt như hạnh nhân, vừng, đỗ xanh, đỗ đen, đỗ đỏ, đỗ trắng, hạt hướng dương.... Các thực phẩm từ đỗ tương gồm sữa đậu nành, đậu phụ, bột đậu cũng rất giàu các axit amino thiết yếu và có protein rất giống với các loại thịt.
Cho trẻ ăn dặm đúng cách Bé khó ăn, háu ăn hoặc ăn uống không cân bằng (dẫn đến tình trạng thiếu, rối loạn dinh dưỡng hoặc béo phì) phần nào hình thành từ những bữa ăn đầu đời của trẻ. Sai lầm hay gặp khi nấu và cho con ăn dặm Nước quả trong thực đơn ăn dặm Nguyên tắc khi cho ăn dặm Ăn dặm - bữa ăn đầu đời của trẻ, quan trọng không phải chỉ vì cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho sự phát triển mạnh mẽ của trẻ mà còn vì chúng là "sứ giả" giới thiệu thế giới muôn ngàn mùi vị của thức ăn. Những bữa ăn đầu đời định hướng cảm nhận ẩm thực, thói quen ăn uống cho trẻ. Tùy thể trạng từng bé, bạn có thể tập cho con nhỏ ăn đặc (ăn dặm) từ từ, bắt đầu từ 4 tháng tuổi trở đi. Gọi là ăn dặm vì đây là những bữa ăn tập dần cho trẻ làm quen với thức ăn đặc. Không thể thay thế được sữa mẹ hoặc sữa bột ngay tức thời mà phải xen kẽ. Thoạt đầu thì chỉ cần vài muỗng bột để làm quen. Nhưng khi bé đã khoái khẩu rồi và hệ tiêu hóa bé cũng đã làm quen với thức ăn thì bạn tăng dần thành bữa chính. Thời kỳ ăn dặm của bé chia thành 3 giai đoạn: - Giai đoạn ăn bột:Bắt đầu từ 6 tháng tuổi trở đi, mẹ đã có thể cho bé nhấm nháp một chút bột được rồi. Trong giai đoạn này, có thể mua bột dinh dưỡng đóng hộp của các hãng có uy tín, vì loại bột này có chứa đầy đủ các dưỡng chất cần thiết cho trẻ. Nếu bạn tự chế biến cho trẻ ăn cần đảm bảo hợp vệ sinh và đầy đủ dinh dưỡng, tuy nhiên bạn nên lưu ý những thức ăn có thể làm cho trẻ bị dị ứng. - Giai đoạn ăn cháo: Khi bé được 9 - 10 tháng (có bé sớm hơn) và đã ăn được kha khá, bạn có thể nấu cháo cho bé ăn. Không nên chỉ hầm xương lấy nước, vì nước ngọt của xương hoàn toàn không cung cấp đủ chất dinh dưỡng, mà bé cần ăn cả xác thịt, cá, rau củ. Nên hầm riêng một nồi cháo nhừ. Mỗi bữa ăn của bé, bạn múc cháo ra và cho thịt, cá, rau củ vào nấu chín từng bữa, thêm dầu ăn cho bé ăn. Khi nấu cho bé, bạn nên nêm thật nhạt. Nếu không có mắm muối mà bé vẫn ăn ngon thì càng tốt. Lúc đầu dùng rây thưa tán cháo. Sau đó, chỉ cần băm nhuyễn thịt, cá và rau củ là được. Bạn nên tập dần cho bé quen từ thức ăn nhuyễn đến hạt lợn cợn và cuối cùng là cho ăn cơm. - Giai đoạn ăn cơm: Khi có đủ răng (20 cái), bé mới có thể nhai cơm thật kỹ. Bạn nên nấu cơm mềm và dằm nát cho trẻ ăn. Tập cho trẻ ăn các loại rau, củ bằng cách nấu canh rau đay, canh mồng tơi, canh bí đỏ, canh súp (nấu với cà-rốt, khoai tây, súp-lơ, su hào). Nên cắt ngắn rau cho bé dễ nhai để bé không bị hóc cọng rau. Bữa ăn của trẻ phải bao gồm đầy đủ bốn nhóm dinh dưỡng chính: Tinh bột: gạo, khoai, nui, bánh mì... Chất đạm: cá, thịt, trứng, tôm, cua, đậu hũ... Rau, trái cây: ngoài việc cho bé ăn rau, củ, nên cho bé ăn trái cây tươi: nho, cam, quít, chuối, đu đủ... Dầu thực vật: tốt nhất nên dùng dầu mè, dầu ô-liu, dầu hướng dương (trộn vào chén bột, cháo). Bạn nên hiểu là ăn dặm không thể hoàn toàn thay thế sữa. Khi bé không bú mẹ nữa thì bạn nên thay thế sữa mẹ bằng sữa bột. Có thể cho bé bú bình hoặc uống bằng ly. Sữa là nguồn dinh dưỡng tốt, giàu can-xi nên cực kỳ quan trọng với trẻ. Bạn cần tập cho trẻ thói quen uống sữa mỗi ngày cho đến lúc trưởng thành. Khi nấu cho trẻ, nên linh động trong thực đơn mỗi bữa, ví dụ trưa ăn tôm thì chiều ăn thịt, món rau cũng thay đổi như vậy. Tránh không lặp đi lặp lại một công thức dễ khiến bé ngán ăn và gây ra thừa hoặc thiếu các dưỡng chất. Không nên nêm nhiều muối vào thức ăn của trẻ vì không tốt cho thận của trẻ, có nguy cơ cao huyết áp khi lớn lên. Chỉ nên dùng muối i-ốt cho trẻ. Ngoài cơm, bạn cũng nên tập cho trẻ ăn bún, mì, nui, bánh mì, ngũ cốc. Sự phong phú thức ăn khiến trẻ cảm thấy mới mẻ và hào hứng. Hơn nữa, tập cho trẻ dễ dàng tiếp cận và hòa mình với thế giới xung quanh. Nhưng bé cũng có thể không sốt sắng nếm thử những thức ăn mới lạ. Hãy cho bé thời gian để làm quen với thức ăn. Đừng cố ép bé ăn nếu như bé đã cảm thấy vừa no. Một bữa ăn dinh dưỡng là một bữa ăn cung cấp đầy đủ dưỡng chất theo chế độ hợp lý. Thiếu và thừa dinh dưỡng đều không tốt cho sức khỏe và sự phát triển của trẻ. Bạn cần biết: - Calorie: Là đơn vị đo năng lượng có chứa trong thức ăn. Theo tỉ lệ cân nặng cơ thể, trẻ cần lượng calorie nhiều gấp 2,5 - 3 lần so với người lớn. Chất tinh bột là nguồn calorie chính yếu. - Protein (chất đạm): Rất quan trọng cho sự sống vì giúp xây dựng tế bào và mô cơ thể. Nhu cầu về protein của trẻ lớn gấp 3 lần nhu cầu của người lớn (theo tỉ lệ trọng lượng cơ thể). - Vitamin: Là chất thiết yếu cho sức khỏe. Nên hỏi ý kiến bác sĩ xem có cần bổ sung thuốc bổ sinh tố kịp thời cho trẻ không. - Khoáng chất: Can-xi, phốt-pho, ma-gie cần thiết cho sự tăng trưởng xương và cơ bắp. Trẻ sinh ra đã sẵn có lượng dự trữ chất sắt (Fe) đủ dùng trong 4 tháng. Sau đó, cần cung cấp sắt cho trẻ trong các bữa ăn hoặc thuốc bổ. Nên và không nên: - Nên: Chọn thực phẩm tươi ở các cửa hàng thực phẩm sạch. Mua ngày nào dùng hết ngày đó. Dùng trái cây và rau ngay sau khi mua về. Hấp rau củ hoặc nấu chín với ít nước (giúp giữ được các vitamin trong quá trình đun nấu). Nấu chín kỹ thức ăn: thịt, cá, trứng... - Không nên: Cho bé ăn thức ăn thừa. Đun nấu quá lâu rau củ (vì sẽ hủy hết vitamin). Khi chế biến thức ăn với khối lượng lớn, đừng để nguội thức ăn trước khi cho vào tủ lạnh (vì vi khuẩn sẽ có cơ hội sinh sôi). Đặt thức ăn nóng vào đĩa lạnh, đậy lại và cho vào tủ lạnh. Dùng nhiều chất béo bão hòa (mỡ động vật, bơ). Dùng nhiều muối. Dùng nhiều đường (ngọt, dễ hư răng). Khi mới tập ăn, không nên cho bé ăn phô-mai mềm, lòng đỏ trứng, đậu phộng tán nhuyễn sẽ làm bé dễ bị sặc. Những thắc mắc thông thường khi cho bé ăn dặm: Tại sao phải cho trẻ ăn dặm? Vì khi lớn lên, trẻ cần nhiều năng lượng hơn để hoạt động nhiều hơn. Tuy nhiên, mỗi cữ bú, bao tử của bé chỉ chứa được một lượng sữa nhất định mà thôi. Vì vậy, bạn nên thay thế dần bằng chế độ ăn đặc chứa nhiều tinh bột, chất béo và đạm để bảo đảm cung cấp đủ năng lượng và dưỡng chất cho cơ thể. Tại sao không nên cho trẻ ăn dặm sớm hơn hoặc trễ hơn? Trước 6 tháng, cơ thể bé còn non yếu, chưa có khả năng tiêu hóa và hấp thu tốt các chất dinh dưỡng. Nếu ăn dặm sớm dễ gây ra suy dinh dưỡng. Nếu ăn dặm quá trễ (sau 6 tháng), bé sẽ thiếu hụt lượng dinh dưỡng cần thiết để cung cấp cho cơ thể trong quá trình phát triển mạnh mẽ ở giai đoạn đầu đời. Hơn nữa, cho ăn dặm trễ sẽ gặp khó khăn khi tập cho trẻ tiếp nhận với các loại thức ăn. Khi ăn, trẻ cứ phun phì phì, làm sao tập cho trẻ làm quen với thức ăn mới? Đầu tiên, chỉ nên tập cho bé ăn một loại thức ăn mới thôi. Thử cho bé ăn một lần và đợi vài ngày sau cho bé ăn lại cùng thức ăn đó, xem bé có phản ứng hay không. Để tránh việc bé phun thức ăn, bạn nên cho bé làm quen với thức ăn đặc vào trước cữ bú sữa. Dùng muỗng nhỏ (1/3 muỗng) để đút thức ăn cho bé. Đừng đút một muỗng đầy và đừng đút sâu vào miệng trẻ: trẻ sẽ bị nghẹn và phun ngược thức ăn ra ngoài. Nên tập cho trẻ ăn dặm trong cữ ăn nào là dễ nhất? Bữa trưa là cữ tập cho ăn lý tưởng nhất vì trẻ không đói cồn cào (vì đã có bữa sáng rồi). Trẻ sẽ tỉnh táo và chịu "hợp tác" hơn. Khi tập cho trẻ ăn dặm, có nên cho trẻ uống nước thoải mái không? Hãy cho trẻ uống nước sau bữa ăn và những lúc trẻ khát. Nhưng đừng cho trẻ uống quá nhiều trước giờ ăn. Có thể tập cho bé ăn trứng và uống nước trái cây ngay không? Không nên tập cho bé ăn những thức ăn có chứa chất gluten (bột mì), đậu phộng, các chế phẩm từ sữa, hay trứng trong ít nhất 6 tháng để tránh phát sinh những bệnh dị ứng sau này. Trẻ 4 tháng đã bắt đầu uống được nước trái cây. Vài tháng sau bạn có thể nạo, dầm nhuyễn trái cây cho bé ăn.
Giảm bột mì, giảm nguy cơ ung thư vú Bạn có phải là người yêu các món ăn vặt có thành phần là bột mì, như bánh mì, mì ống? Nếu vậy, bạn hãy giảm cường độ tiêu thụ những thực phẩm này. Đã có vắc xin ngừa ung thư cổ tử cung tại Việt Nam Thói quen ăn uống dẫn tới ung thư Lý do là: nghiên cứu gần đây cho thấy có mối liên quan giữa bệnh nhân ung thư vú và chế độ ăn giàu tinh bột (bột mì). Theo đó, mức độ tiêu thụ bột thấp hơn đã giúp giảm nguy cơ ung thư vú. Một nhóm nghiên cứu từ Đại học California, San Diego, đã nghiên cứu chế độ ăn của 2.651 bệnh nhân ung thư vú trong 12 tháng. Kết quả cho thấy, các tế bào cơ thể của những người giảm ăn tinh bột có sự phát triển của khối u thấp hơn so với những người không giảm tiêu thụ tinh bột. Các nhà nghiên cứu tin rằng mức tăng insulin có thể do carbohydrate đã qua chế biến kích hoạt đã kích thích sự tăng trưởng của tế bào ung thư. Tỷ lệ tái phát khối u ở những phụ nữ tăng lượng tinh bột trong món ăn của họ là 14,2%, trong khi chỉ có 9,7% đối với những người giảm tiêu thụ tinh bột. "Kết quả cho thấy nguyên nhân không phải là do toàn bộ tất cả các món ăn chứa carbohydrate mà đặc biệt đối với bột lúa mì. Những phụ nữ tăng lượng tinh bột trong một năm có nguy cơ tái phát ung thư vú hơn", nhà nghiên cứu Jennifer Emond cho biết theo trích dẫn DailyMail ngày 13/12/2011. Carbohydrates là "nhiên liệu" quan trọng nhất đối với cơ bắp, và là một nguồn năng lượng quan trọng cho não và hệ thần kinh trung ương. Tuy nhiên, một số loại thực phẩm chứa Carbohydrates có thể an toàn hơn một số loại khác. Mặc dù nghiên cứu vẫn còn trong quá trình phát triển và thu kết quả cuối cùng nhưng không có gì là sai nếu chúng ta nhận thức được khả năng rủi ro để hạn chế nó.
Trứng rán quá kĩ biến thành chất có hại Trứng là món ăn rất phổ biến trong mỗi bữa ăn, tuy nhiên ăn trứng thế nào cho đúng cách không hại cho sức khỏe không phải ai cũng biết. Ăn trứng vịt lộn đúng cách Lý do không nên ăn trứng gà sống hoặc trứng chần Ăn trứng thế nào cho đúng? Theo các chuyên gia dinh dưỡng, trứng luộc nên được đun trong khoảng thời gian thích hợp từ 5 đến 7 phút, không nên luộc quá chín. Nếu rán trứng quá kỹ, lượng protein cao trong trứng sẽ biến thành lượng amino axit rất thấp. Amino axit sẽ biến đổi thành các hợp chất hóa học chứa độc trong trường hợp nhiệt độ lên cao. Không nên ăn quá nhiều trứng mỗi ngày. Những người trưởng thành khỏe mạnh có thể ăn từ 1 đến 2 quả/ngày, người già thông thường ăn 1 quả/ngày là thích hợp nhất. Phụ nữ mang thai, cho con bú và phụ nữ đang dưỡng bệnh có thể ăn từ 2 đến 3 quả/ngày. Không nên ăn nhiều lòng đỏ trứng. Mỗi quả trứng trung bình 17gr chứa tới 220mg cholesterol và nhiều chất béo, chủ yếu là axit bão hòa. Vì thế, lòng đỏ trứng gà là loại thực phẩm chứa lượng protein phong phú nếu ăn quá nhiều có thể khiến các chất chuyển hóa tăng mạnh, đồng thời cũng tăng áp lực của gan thận. Bởi vậy không nên ăn quá nhiều lòng đỏ trứng gà.
Bắt đầu ngày mới bằng bữa sáng: ngũ cốc với sữa Một nghiên cứu gần đây đã tiết lộ rằng bữa sáng có lợi nhất cho sức khỏe chính là ngũ cốc (các loại hạt dùng làm lương thực như ngô, lúa mạch, kê, gạo nếp…) với sữa. Ăn ngũ cốc giúp giảm cân 6 ngũ cốc tốt hơn thuốc Theo nghiên cứu này, bữa sáng là chìa khóa cho một lối sống khỏe mạnh quyết định chất lượng dinh dưỡng cả một ngày. Và cách tốt nhất để bắt đầu buổi sáng đơn giản chỉ là một bát xôi, vài bắp ngô… bởi nó sẽ giúp giảm cơn thèm các thực phẩm béo ngậy và ngọt trong ngày. Nghiên cứu thực hiện bởi Sigrid Gibson, và xuất bản trên tạp chí BNF Nutrition Bulletin, tiết lộ rằng ngũ cốc là nguồn cung cấp can-xi và rất nhiều chất dinh dưỡng thiết yếu khác, như chất xơ, protein và cacbonhydrate. Các nhà nghiên cứu đã phân tích 12.068 hồ sơ trong cuộc khảo sát về dinh dưỡng và chế độ ăn uống quốc gia trong đó phỏng vấn những người Anh tuổi từ 19 đến 64. Kết quả chỉ ra rằng cứ 1 trong 5 người lớn không dùng thực phẩm rắn cho bữa sáng, 1/3 chọn ngũ cốc và 45% không có ngũ cốc trong bữa sáng. Các lựa chọn chủ yếu là trà và cà phê, chiếm tới 84%. Sữa được dùng tới 82%, theo sau là ngũ cốc với 39%, bánh mỳ 33% và hoa quả 14% cho bữa sáng. Phụ nữ thường ít chọn bánh mỳ, xúc xích, thịt muối, hay trứng và có xu hướng thích dùng hoa quả thay thế hơn đàn ông. Nghiên cứu nhận thấy rằng ăn sáng giúp giảm việc hấp thụ chất béo và tăng hấp thụ carbonhydrate trong vòng 24h so với việc bỏ bữa sáng. Và có thể dùng chủ yếu là ngũ cốc cho bữa sáng bởi vì bữa sáng không ngũ cốc làm hấp thụ nhiều hơn các axit béo bão hòa và ít hơn protein cho cơ thể. “Điều này sẽ cung cấp nhiều bằng chứng hơn về tầm quan trọng của bữa sáng và chỉ ra giá trị của những lựa chọn sáng suốt”, chuyên gia dinh dưỡng Chris Seal, ĐH New Castle, thành viên của The Breakfast Panel, ban chỉ đạo nghiên cứu, cho biết. “Mọi người ăn ngũ cốc buổi sáng nhìn chung sẽ tiêu thụ ít chất béo, chất béo bão hòa và đường hơn những người không ăn sáng và ngũ cốc giúp cung cấp nhiều hơn các vitamin và vi chất quan trong như sắt, vitamin và canxi”, ông cho biết thêm.
Vai trò của thịt đỏ trong thực đơn của trẻ Khi trẻ ăn dặm, lượng chất sắt hấp thụ từ sữa mẹ trở nên giảm đi. Do đó, cần đảm bảo chất sắt trong chế độ ăn của trẻ. Và một trong những nguồn tốt nhất của sắt chính là các loại thịt đỏ. Đúng-Sai chuyện ăn thịt đỏ nguy hại cho sức khỏe Giá trị dinh dưỡng của các loại thịt đỏ Thịt đỏ là các loại thịt: thịt bò, thịt bê, thịt lợn, thịt cừu… Thịt đỏ chứa nhiều vitamin B như B3, B5, B6 và B12, giúp duy trì sự hình thành của tế bào máu và các tế bào thần kinh. Trong đó, vitamin B12 quyết định sức khoẻ của hệ thần kinh và rất tốt cho tế bào máu. Thịt đỏ, chủ yếu là thịt bò, chứa nhiều chất dinh dưỡng có lợi cho sức khoẻ. Trong 100g thịt nạc đỏ chứa 22,7g protein, 2mg chất sắt, 4,4 mg chất kẽm, 1,1 mcg vitamin B12, 0,15 mg B2. Tiêu thụ thịt đỏ cung cấp khoảng 39% nhu cầu chất kẽm, thành phần quan trọng của hệ miễn dịch. Trẻ em thường có nguy cơ thiếu kẽm cao nhất. Chất sắt có trong thịt đỏ giúp phục hồi các tế bào máu và cần thiết cho việc tiếp ôxy cho tất cả các tế bào trong cơ thể. Giảm nguy cơ thiếu máu Đó là nhờ vào thành phần chất sắt dồi dào có chứa trong thịt đỏ. Đặc biệt, thịt đỏ là nguồn chất sắt rất tốt cho trẻ em từ 2 đến 3 tuổi, độ tuổi thường có nguy cơ thiếu hụt chất sắt cao. Ở trẻ nhỏ, thiếu sắt là điều nguy hại, vì có thể dẫn đến tình trạng chậm phát triển về thể chất cũng như tinh thần, suy yếu hệ miễn dịch. Thịt đỏ có nguồn chất sắt dễ hấp thu đối với những trẻ ở tuổi tập đi. Chứa chất béo lành mạnh Trong thịt nạc đỏ có tổng hàm lượng chất béo thấp, tỷ lệ acid béo không sinh cholesterol cao hơn acid béo bão hoà. Ngoài ra, thịt nạc đỏ nếu được tiêu thụ với liều lượng cân đối giúp tăng cường và bồi dưỡng cho sức khoẻ tim mạch của trẻ. Duy trì thể trọng Thành phần protein dồi dào có trong thịt đỏ giúp duy trì thể trọng. Protein của thịt đỏ là dễ tiêu hoá (94%) so với đậu hạt (78%) và ngũ cốc nguyên cám (86%), là "vật liệu" để xây dựng một cơ thể vững chắc, bảo đảm cho hệ cơ luôn khoẻ mạnh cũng như giúp duy trì lượng hormon có lợi cho cơ thể. Chứa nhiều acid amin Hàm lượng acid amin của thịt bò nhiều hơn so với các loại thực phẩm khác. Acid amin có tác dụng bồi dưỡng cho sức khoẻ của hệ cơ và tăng độ dẻo dai của cơ thể. Trong thịt bò còn chứa các loại acid gốc nitơ. Tác dụng của acid nitơ là biến đổi protein trong thực phẩm thành đường hữu cơ, cung cấp năng lượng cho các hoạt động trong ngày. Cho trẻ ăn thịt đỏ khi nào là hợp lý? Khi bé được 8 tháng, bạn có thể cho bé làm quen với thịt đỏ trong thực đơn. Lúc đầu, chỉ nên cho bé ăn khoảng nửa thìa cà phê thịt say nhuyễn. Sau đó, có thể tăng dần lên 1-2 thìa cà phê thịt hoặc nhiều hơn, tùy theo độ tuổi của bé. Những lưu ý khi chế biến thịt đỏ Để duy trì thành phần dinh dưỡng của thịt đỏ, khi chế biến bạn cần lưu ý những điều sau: Cẩn trọng trong cách chế biến thịt đỏ để không bị ảnh hưởng đến hàm lượng dinh dưỡng - Khi nấu thịt đỏ ở nhiệt độ cao như chiên, rán, nướng, hun khói, sẽ khiến sinh ra các chất hóa học độc hại cho sức khỏe con người như heterocyclic amin, là "thủ phạm" gây nên căn bệnh ung thư chết người. - Cách nấu và chế biến thịt đỏ sẽ ảnh hưởng tới hàm lượng dinh dưỡng có trong chính bản thân nó. Một số cách bảo quản thịt đỏ đều được coi là bất lợi đối với người tiêu dùng vì lúc này trong thịt có chứa một lượng lớn những chất phụ gia, hay chất nitrinatri có liên quan đến căn bệnh ung thư. - Trước khi chế biến, nên cắt thịt thành từng phần nhỏ thay vì từng tảng thịt lớn và tách bỏ bớt phần mỡ, nếu có của thịt. - Nên chọn mua thịt đỏ khi vừa cắt xẻ xong để đảm bảo độ tươi ngon của thịt và chọn phần thịt nhiều nạc. - Thịt nạc đỏ chế biến mau mềm hơn, vì thế nếu muốn ăn món thịt tái bạn nên điều chỉnh nhiệt độ để thịt vừa chín sẽ ngon hơn. - Nên chọn tẩm ướp với gia vị có độ chua để tạo độ mềm và hương thơm cho thịt. Giấm, chanh hoặc nước chanh tươi và rượu có thêm gia vị và nước tương sẽ làm cho món thịt bò trở nên hấp dẫn hơn.
Cho trẻ ăn bổ sung thế nào là tốt? Sữa mẹ là thức ăn đầu tiên và tốt nhất đối với trẻ trong 6 tháng đầu, nhưng sau 6 tháng do trẻ phát triển nhanh, nhu cầu dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn vì thế để đáp ứng được nhu cầu dinh dưỡng, ngoài sữa mẹ, trẻ cần được bổ sung (ăn sam hay ăn dặm). Những điều cần lưu ý khi cho trẻ ăn dặm Cách chế biến bột rau, thịt cho bé ăn dặm 4 thực phẩm cực tốt cho bé ăn dặm Ăn bổ sung hợp lý là gì? Đó là cho trẻ ăn thêm các loại thức ăn khác ngoài sữa mẹ như bột, cháo, cơm, hoa quả, hợp lý theo thời điểm, hợp lý theo đúng độ tuổi, hợp lý về số lượng, chất lượng, cân đối giữa các thành phần dinh dưỡng và được chế biến theo đúng phương pháp. Khi nào nên bắt đầu cho trẻ ăn bổ sung? Từ tháng thứ 6 trở lên do nhu cầu năng lượng cao hơn mà sữa mẹ không đủ cung cấp, vì vậy, ngoài sữa mẹ nên cho trẻ ăn bổ sung giúp trẻ phát triển, hoạt động tốt và khoẻ mạnh. Sau 6 tháng, hệ tiêu hoá của trẻ đã phát triển tương đối hoàn thiện, để trẻ có thể tiêu hoá được một số loại thức ăn, vì thế thời điểm này thích hợp để cho trẻ ăn bổ sung. Khi trẻ ăn bổ sung, có nghĩa là bé tập làm quen với thức ăn mới (thịt, trứng, cá, rau…) và cách cho ăn, từ bú mẹ đến ăn bằng thìa, từ thức ăn hoàn toàn lỏng là sữa đến thức ăn đặc hơn, vì thế các bà mẹ cần kiên trì tập cho con quen dần theo nguyên tắc từ lỏng đến đặc, từ ít đến nhiều. Trong vài ngày đầu khi mới ăn nên cho ăn bột loãng sau đó đến bột đặc mềm, ăn từ ít vài ba thìa rồi tăng lên nửa bát, một bát theo lứa tuổi. Tập cho trẻ làm quen với từng loại thức ăn, nhất là khi cho trẻ ăn thức ăn mới. Khi chế biến thức ăn đảm bảo mềm dễ nhai, dễ nuốt và thường xuyên thay đổi các loại thực phẩm trong mỗi bữa ăn như sáng ăn bột thịt, trưa ăn bột cá, tối ăn bột trứng… hợp với khẩu vị của trẻ, như vậy không những cung cấp đủ chất dinh dưỡng mà lại kích thích trẻ ăn ngon miệng, không bị biếng ăn. Hiện nay, nhất là ở các thành phố lớn, các bà mẹ thường cho con ăn quá nhiều chất đạm (thịt, cá, trứng, sữa…), nhưng lại thiếu chất bột đường, rau xanh, hoa quả, vì thế bữa ăn của trẻ không đủ năng lượng, vitamin và chất khoáng. Nhiều bà mẹ thường cho con ăn bánh kẹo, uống nước ngọt trước bữa ăn, như vậy sẽ làm trẻ ăn ít do chất ngọt làm tăng đường huyết gây ức chế dịch vị làm trẻ chán ăn, bỏ bữa. Cần xoá bỏ quan niệm cho rằng, trẻ ăn cơm sớm sẽ cứng cáp hoặc ăn nước xương ống, xương chân gà sẽ chống được còi xương hoặc chỉ cho trẻ ăn nước ninh, nước luộc. Do trẻ cần rất nhiều chất dinh dưỡng để đáp ứng nhu cầu lớn và phát triển của cơ thể. Vì thế, thức ăn bổ sung của trẻ cần đảm bảo cung cấp năng lượng, đủ các chất dinh dưỡng. Muốn vậy, mỗi bữa ăn bổ sung cần có 4 nhóm thực phẩm sau: - Nhóm chất đạm: nguồn động vật (thịt, cá, trứng, sữa…), nguồn thực vật (đậu, đỗ, vừng/mè, lạc/đậu phộng…). - Nhóm chất bột: gạo, mỳ, ngô, khoai, sắn… - Nhóm chất béo: dầu, mỡ, bơ. - Nhóm cung cấp vitamin, chất khoáng: rau, quả, đặc biệt các loại rau có màu xanh thẫm (rau ngót, rau muống, rau dền, mồng tơi, rau cải... và các loại quả có màu vàng (đu đủ, xoài, hồng, chuối...). Trẻ cần được ăn đầy đủ các nhóm thực phẩm. Số lượng bữa ăn bổ sung: - Số lượng bữa ăn và số lượng của mỗi bữa bổ sung của trẻ trong ngày tuỳ thuộc vào lứa tuổi. - Trẻ 6 - 7 tháng: Bú mẹ là chính, bổ sung 1-2 bữa bột và nước quả. - Trẻ 8 - 9 tháng: Bú mẹ, 2 - 3 bữa bột đặc, nước quả hoặc hoa quả nghiền. - Trẻ 10 - 12 tháng: Bú mẹ, 3 - 4 bữa bột đặc hoặc cháo, hoa quả nghiền. - Trẻ 1 - 2 tuổi : Bú mẹ, 3 bữa chính (cháo), 2 bữa phụ, hoa quả. - Trẻ 2 - 3 tuổi: 3 bữa chính (cơm nát), 2 bữa phụ, hoa quả. Trẻ trên 1 tuổi nếu không được bú mẹ, nên cho trẻ uống thêm 500ml sữa bò hoặc sữa đậu nành. Từ 3 tuổi trở lên cho trẻ ăn cơm như người lớn nhưng phải được ưu tiên thức ăn (thức ăn nấu riêng) và cho ăn thêm 2 bữa phụ: cháo, phở, bún, súp, sữa. Cách cho trẻ ăn: Khi trẻ mới tập ăn bổ sung, trẻ cần được học “cách ăn”. Cách chăm sóc bữa ăn cho trẻ quan trọng là thái độ và thực hành của bà mẹ và người chăm sóc trẻ. Dạy trẻ học ăn bằng cách khuyến khích, kiên trì, giúp đỡ để tạo không khí ăn uống. Tránh không nên ép buộc trẻ ăn, gây không khí căng thẳng, ồn ào khi ăn. Muốn biết trẻ đã được ăn uống đúng và đủ chưa, cần theo dõi cân nặng của trẻ trên biểu đồ phát triển hàng tháng, nếu trẻ lên cân đều đặn tương ứng với kênh A trên biểu đồ là trẻ đã được nuôi dưỡng tốt. Còn không lên cân hoặc tụt cân thì có thể trẻ bị bệnh hoặc nuôi dưỡng không đúng. Cần tìm nguyên nhân can thiệp sớm. Bé lớn lên hàng ngày với sự thương yêu, nuôi dưỡng và chăm sóc của cha mẹ , người nuôi trẻ, với mong muốn “Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai”, thì chúng ta cần quan tâm tới trẻ ngay từ bữa ăn đầu đời.
Ðề: Trứng rán quá kĩ biến thành chất có hại uay.Bt mình toàn để trứng luộc trên bếp đến 20ph ấy chứ.Chết thật
Ðề: Dinh dưỡng cho trẻ 1 - 3 tuổi không biết mọi người có biết sản phẩm Cao ngựa Tuệ Linh thì tốt như thế nào không, nhà chị mình đang dùng cho bé nhưng mà cũng chưa có thông tin gì mấy, bé nhà chị mình hơn hai tuổi rồi, mà dinh dưỡng kém lắm!