“Kính thưa quý vị, Havana chỉ cách Florida có 90 dặm. Vậy mà để đến được đây chúng ta đã phải đi qua một chặng đường quá dài, phải vượt qua bao nhiêu rào cản của lịch sử, của đau thương, và của ly biệt… Biết bao nhiêu trăm ngàn người di dân Cuban đã tìm cách vượt qua khoảng không gian ngắn ngủi này bằng phi cơ hay trên những chiếc bè tự chế, để đến được bến bờ của tự do và cơ hội, bỏ lại sau lưng bao nhiêu tài sản cũng như bao nhiêu người thân… Hôm nay tôi đến đây để chôn những di-vật cuối cùng của cuộc Chiến Tranh Lạnh. Tôi đến đây để bắt tay và kết bạn với người dân Cuba… Nhưng chúng ta không thể, và không nên, bỏ qua những dị biệt giữa hai thể chế, hai nền kinh tế và hai xã hội. Cuba là một chế độ độc đảng, Hoa Kỳ là một nền dân chủ đa nguyên. Mô hình kinh tế của Cuba là xã hội chủ nghĩa, của Hoa-Kỳ là thị trường mở. Cuba nhấn mạnh vai trò và quyền lực của nhà nước, Hoa Kỳ được xây dựng trên tư quyền của cá nhân… Tôi xác minh rằng Hoa Kỳ không đủ sức và cũng không muốn ép Cuba phải thay đổi. Cuba có thay đổi hay không, điều đó hoàn toàn tuỳ thuộc vào ý muốn của người dân Cuba… Chúng tôi thừa hiểu rằng mỗi dân tộc phải tự vẽ ra con đường cho chính mình. Nhưng vì chúng ta vừa thoát ra khỏi cái bóng đè của lịch sử nên tôi xin phép được thẳng thắn chia sẻ với quý vị những suy nghĩ của mình, cũng như của nhân-dân Hoa-kỳ nói chung…. Thi sĩ Jose Marti của Cuba từng viết: “Tự Do là quyền được sống thật, được suy nghĩ và phát ngôn mà không cần phải ra vẻ đạo đức giả.” Thế nên tôi cũng xin nói với các bạn những điều tôi hằng tin. Tôi không cần các bạn phải đồng ý, nhưng các bạn cần biết tôi tin những gì. Tôi tin rằng tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Tôi tin rằng nhân phẩm của trẻ em phải được bảo vệ bằng giáo dục và y tế, bằng cách cho chúng cơm ăn áo mặc và nhà cửa tử tế. Tôi tin rằng mọi công-dân đều có quyền phát biểu ý kiến mà không sợ bị bắt bớ. Ai cũng có quyền lập hội, quyền chỉ trích nhà nước, và quyền phản đối trong ôn-hoà. Tôi tin rằng pháp luật không được phép bỏ tù người dân khi họ sử dụng những quyền căn bản này. Tất cả mọi người đều phải có quyền tự do tín ngưỡng. Và dĩ nhiên tôi cũng tin rằng mọi cử tri phải được quyền chọn người đại diện chính phủ cho mình qua những cuộc bầu cử tự do và dân chủ. Không phải ai cũng đồng ý với tôi hay với người dân Mỹ về những điểm này. Nhưng tôi tin rằng các nhân quyền nói trên áp dụng cho tất cả mọi người. Nó đúng cho dân Mỹ, cho dân Cuba, và cho tất cả mọi dân tộc khác trên thế giới… Vì vậy, đây là thông điệp tôi muốn nhắn gửi đến nhà nước cũng như nhân dân Cuba: Những lý tưởng cách mạng của Hoa Kỳ, của Cuba, của bao cuộc nổi dậy khác trên thế giới, tôi tin rằng chỉ thật sự có ý nghĩa khi chúng được đặt trên nền tảng dân chủ. Tôi tin như vậy không phải vì nền dân chủ của nước Mỹ là toàn hảo, mà bởi vì nó KHÔNG toàn hảo. Đất nước chúng tôi, cũng như bao quốc gia khác, cần không gian rộng lớn của dân chủ để tự điều chỉnh. Bất cứ người dân nào cũng có thể là nhân tố cho sự thay đổi, đưa ra những ý tưởng mới, sáng lập những mô hình xã hội tốt đẹp hơn. Ngay lúc này và ngay trong nước Cuba, một sự tiến hoá cũng đang ngầm xảy ra; một thế hệ người dân Cuban mới đang thành hình… Có người nghĩ rằng tôi đến đây để kêu gọi người dân đập đổ một cái gì đó. Nhưng sự thật là tôi muốn kêu gọi thanh-niên Cuba hãy kéo nhau đứng lên để xây dựng một cái gì đó. Tôi hết sức cảm tạ tấm thịnh-tình của tổng thống Castro. Tôi tin rằng việc tôi đứng đây hôm nay chứng-tỏ ông không có gì để phải lo sợ từ phía Hoa-kỳ. Với lòng quyết tâm bảo vệ chủ quyền và sự tự trị của Cuba, ông cũng không cần sợ tiếng nói đa chiều của dân chúng hay lo lắng khi họ được quyền phát ngôn, tụ tập hoặc bầu chọn người lãnh đạo… Tôi cũng có nhiều kỳ vọng cho tương lai bởi vì giữa người Cuban với nhau đang xảy ra một cuộc hoà hợp hoà giải. Tôi biết nhiều người Cuban trên đảo vẫn cho rằng những kẻ bỏ xứ ra đi năm xưa vẫn còn ủng hộ chế độ cũ. Tôi nghĩ họ cứ tin là những người di dân kia đã không nhìn thấy những tệ nạn xã hội thời tiền cách mạng và không chấp nhận cuộc đấu tranh để xây dựng một tương lai mới. Nhưng tôi có thể xác định với quý vị rằng những người di-dân kia đang cưu-mang bao nhiêu ký ức đau thương của những cuộc cách ly đầy máu và nước mắt. Họ yêu Cuba, và một phần của họ luôn luôn xem nơi đây là chốn quê nhà. Chính vì vậy mà nỗi đau của họ rất sâu, và không ít người đã trở nên quá khích. Riêng đối với cộng đồng người Cuba mà tôi được dịp gặp gỡ và tiếp xúc, đây không phải chỉ là một vấn đề chính trị mà còn là chuyện gia đình. Họ nhớ đến căn nhà cũ, họ mơ được quay về nối lại mối thâm tình bị đổ vỡ. Họ mong được gầy dựng một ngày mai sáng sủa hơn. Họ đặt niềm tin vào sự kết hợp và hoà giải dân-tộc…. Những người Cuba đầu tiên tôi được biết là những người di dân đầy nhiệt-huyết và tài năng ở Mỹ. Ngoài sự đau khổ tinh thần của kẻ biệt xứ họ còn phải chịu đựng biết bao điều khốn-khó ở một đất nước xa lạ. Họ đã phải làm việc cật-lực để mưu sinh và để cho con cái mình có cơ hội vươn lên trong xã hội Mỹ. Bởi thế cho nên việc hoà hợp hoà-giải giữa các thế hệ con cháu của những người cách mạng và con cháu những thế hệ di dân sẽ là nền tảng cho tương lai của Cuba. Lịch-sử giữa Hoa-Kỳ và Cuba có cách-mạng, chiến-tranh, đấu tranh, hy sinh, ân oán, và bây giờ là hoà giải. Đã đến lúc chúng ta bỏ quá khứ lại sau lưng. Đã đến lúc chúng ta cùng quay hướng nhìn về tương-lai. Đây chắc chắn không phải là việc dễ và sẽ có lúc chúng ta gặp phải chướng-ngại. Công việc này sẽ đòi hỏi rất nhiều thời gian. Tuy nhiên, những ngày ở Cuba vừa qua cho phép tôi đặt niềm tin và hy vọng vào nhân-dân Cuba. Chúng ta có thể đồng hành như bạn, như láng giềng, và như người thân trong gia-đình. Si se puede. Mucho gracias. Thank you.” Nguồn: Facebook