Thông tin: Bệnh do giun sán

Thảo luận trong 'Sức khoẻ của trẻ' bởi KÍNH VẠN HOA, 20/9/2012.

  1. KÍNH VẠN HOA

    KÍNH VẠN HOA Thành viên đạt chuẩn

    Tham gia:
    14/9/2012
    Bài viết:
    63
    Đã được thích:
    30
    Điểm thành tích:
    18
    Nhiễm giun, sán là tình trạng khá phổ biến ở các nước đang phát triển trong vùng nhiệt đới, do khí hậu nóng ẩm, tập quán ăn uống, vệ sinh môi trường kém. Theo Tổ chức Y thế Thế giới (WHO) 75% người Việt Nam (tương đương 60 triệu người) mắc bệnh giun sán, có đến 70-90% trẻ em nhiễm giun. Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến một số nét cơ bản về các bệnh do ký sinh trùng đường ruột gây ra còn chiếm tỷ lệ cao ở Việt Nam như lỵ amíp, bệnh do giun và sán.

    Bệnh do amip

    Đây là bệnh do nhiễm đơn bào Entamoeba histolytica, là một bệnh xuất hiện toàn thế giới nhưng chủ yếu xuất hiện ở các nước nhiệt đới có điều kiện vệ sinh thấp kém. Bệnh gây ra các tổn thương đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng và có khả năng gây ra các ổ abces ở những cơ quan khác nhau. Bệnh có xu hướng kéo dài và mạn tính nếu không được điều trị tích cực.
    Bệnh lây qua đường tiêu hóa do thức ăn, nước uống nhiễm kén amip.
    Biểu hiện giai đoạn cấp là đau bụng, đại tiện nhiều lần 5 – 15 lần/ ngày phân ít hoặc không có, nhiều nhầy mũi máu, đau quặn bụng, đau rát hậu môn, sốt nhẹ; biểu hiện giai đoạn muộn chủ yếu là các triệu chứng đau dọc khung đại tràng, rối loạn tiêu hóa với các đợt táo lỏng xen kẽ; kèm theo có các đợt bùng phát lan tỏa giống giai đoạn cấp. Điều trị hiện nay chủ yếu dùng nhóm imidzole.
    [​IMG]
    Cho trẻ uống thuốc tẩy giun định kỳ.

    Nhiễm giun

    Giun kim: là loại giun tròn Enterobius vermicularius dài 1 – 1,5cm, sống ở đoạn cuối hồi tràng và manh tràng; giun cái mang trứng và đẻ ở trực tràng. Giun này chủ yếu gây nhiễm cho trẻ em ở các khu vực tập thể. Nhiễm do thức ăn hoặc nước bẩn có chứa trứng giun, nhiễm tự nhiên ở trẻ em theo đường phân – tay – miệng. Điều trị bằng Mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.

    Giun đũa: Bệnh do nhiễm loại Ascaris lumbricoides. Giun trưởng thành, sống ở ruột non từ nhiều tháng đến 1 năm rưỡi. Giun cái đẻ trứng theo phân ra ngoài. Lây nhiễm do ăn hoặc uống nước có nhiễm trứng giun đũa. Thời kỳ giun trưởng thành với các biểu hiện rối loạn tiêu hóa không đặc hiệu đau bụng, buồn nôn, nôn khan; ngoài ra giun có thể chui lên ống mật gây đau, viêm đường mật, viêm tụy cấp, tắc ruột… Điều trị bằng Mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.

    Giun móc: Giun trưởng thành dài 1 – 2 cm sống ở tá tràng và hỗng tràng, chúng hút máu khoảng 0,2ml/ngày, sống trung bình 5 năm do đó gây ra tình trạng thiếu máu nhược sắc nặng. Điều trị bằng Mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.

    Nhiễm sán

    Sán sơ mít: gồm Taenia saginata và Taenia solium, đây là loại giun dẹt có đốt, dài 6 – 10m; sán trưởng thành sống ở ruột non, mỗi đỗt chứa trứng ra ngoài được bò hoặc lợn ăn. Người ăn thịt lợn hoặc bò này không được nấu chín sẽ mắc bệnh. Điều trị bằng Nicosamid hoặc praziquantel.
    Sán lá gan lớn: do nhiễm loài sán Fasciola hepatica. Sán trưởng thành sống trong đường mật của bệnh nhân, đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài, phát triển thành các mao ấu trùng, đóng kén vào các cây sống dưới nước, người ăn phải chúng sẽ vào ống tiêu hóa, đến gan và phát triển trong đường mật. Điều trị đặc hiệu bằng bithionol.

    Sán lá gan nhỏ: con trưởng thành sống ở đường mật, đôi khi sống trong ống tuỵ. Trứng nở trong nước hoặc được ốc ăn vào sẽ nở thành ấu trùng, ấu trùng thâm nhập vào cá, đóng nang, người ăn phải loại cá này chưa nấu chín (chủ yếu do tập quán ăn gỏi cá) sẽ mắc bệnh. Điều trị chủ yếu bằng praziquantel.
    [​IMG]
    Nghịch đất, cát là nguyên nhân dẫn đến nhiễm giun ở trẻ.

    Cách phòng và chữa bệnh giun sán:

    Giữ vệ sinh thân thể, vệ sinh ăn uống cho trẻ. Rửa tay sạch trước khi ăn, lau dọn nhà cửa sạch sẽ.

    Tập cho trẻ thói quen rửa tay chân sạch sẽ trước khi ăn.

    Thức ăn cho trẻ phải luôn luôn nấu chín, nước uống phải được đun sôi để nguội. Nếu cho trẻ ăn trái cây hoặc rau sống thì phải rửa bằng dung dịch rửa rau quả, khử trùng bằng máy ozon, thuốc tím hoặc ngâm muối và rửa lại nhiều lần dưới vòi nước đang chảy.

    Không để trẻ nằm, bò trườn dưới đất, không để trẻ mặc quần bị thủng đít.

    Vệ sinh tay chân, cắt móng tay, móng chân sạch sẽ, không đi chân đất.

    Quần áo của trẻ bị nhiễm giun cũng phải được phơi ở những nơi nhiều nắng để diệt trứng giun.

    Uống thuốc sổ giun định kỳ 6 tháng một lần. Loại thuốc thường cho trẻ uống là piperazin. Ngoài ra còn có thể uống tẩy giun bằng phương pháp dân gian bằng hạt bí ngô hoặc dương xỉ đực, nước sắc hạt cau…

    Tất cả mọi người trong gia đình, kể cả người lớn đều phải chữa trị cùng một lúc với cháu bé thì mới trị hết được.

    Đối với trẻ đã tẩy giun rồi mà vẫn còn xanh xao, gầy yếu, kém ăn, cần phải kiểm tra xem có loại giun sán gì khác nữa không, hoặc có thể trẻ bị bệnh khác như còi xương, suy dinh dưỡng, sơ nhiễm lao… để chữa trị cho đúng hướng.

    ThS. BS. Nguyễn Bạch
    Theo SUCKHOEDOISONG.VN
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi KÍNH VẠN HOA
    Đang tải...


    Các chủ đề tương tự:

  2. giadinhban

    giadinhban Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    27/9/2011
    Bài viết:
    110
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    18
    Này các bạn, các bạn tham khảo tài liệu chính thống sau: Quyết định số 3312/QĐ –BYT ngày 07/08/2015 về việc ban hành tài liệu chuyên môn” Hướng dẫn chuẩn đoán và điều trị một số bệnh thường gặp ở trẻ em trang 335-343 phần : Nghiễm ký sinh trùng đường ruột ở trẻ em có ghi rõ chuẩn đoán và thuốc điều trị cho trẻ em dưới 12 tháng)
    Về các thuốc tẩy giun thì có rất nhiều loại: Mebendazol 500 mg, albendazol 200,400, Pyrantel, Triclabendazol,Niclosamid, vvv nhưng các mẹ lưu ý
    1/ Không dùng các hoạt chất chống chỉ định cho trẻ em dưới 2 tuổi như Mebendazol 500 mg , phần lớn là dạng bào chế cho người lớn, trẻ nhỏ chưa nhai được, hoặc không biết nhai , mùi vị khó nhai rất dễ bị nôn trớ
    2/ Đối với thuốc chữa bệnh khuyến cáo không được dùng dạng bào chế của người lớn cho trẻ em trừ khi bắt buộc và phải có chỉ định của bác sỹ
    3/ Dạng bào chế thích hợp nhất là dạng bào chế chuyên cho trẻ nhỏ đặc biệt là trẻ dưới 2 tuổi : syro uống , nhỏ giọt hoặc gói bột
    - Với trẻ nhỏ dưới 2 tuổi và dưới 6 tuổi nên dùng albendazol 200 ở dạng bào chế chuyên cho trẻ em như: dạng gói Akitykity-new ( albendazol 200 mg/gói - bột pha hỗn dịch uống ): Tới 2 tuổi : Uống 01 gói ( liều duy nhất) Từ 2 Tuổi: Uống 02 gói (liều duy nhất) , không đòi hỏi những phương thức đặc biệt như nhịn đói hay dùng thuốc xổ khi dùng thuốc
    - Hoặc dạng siro như : Helmintox ( Pyrantel 125/2,5 ml) uống theo hướng dẫn sử dụng
    4/ Tốt nhất là phòng bệnh hơn chữa bệnh- các biện pháp phòng ngừa giun sán
    1.Rửa tay cho trẻ em trước khi ăn và sau khi đi tiêu
    2.Cho trẻ ăn chín , uống nước chín đun sôi để nguội
    3.Cho trẻ đi tiêu đúng hố xí hợp vệ sinh
    4.Vệ sinh thân thể cho trẻ , thường xuyên giặt mùng mền chiếu gối
    5.Rửa đồ chơi cho trẻ thường xuyên ở nhà , nhất là ở các nhà trẻ , trường học, khu vui chơi công cộng
    6.Xổ giun định kỳ 6 tháng 01 lần ( 4 tháng 01 lần ở những vùng tỷ lệ nhiễm cao, mất vệ sinh),
    7.Không cho trẻ em đi chân đất nhất và ở những vùng có trồng hoa màu, trồng cây ăn trái đặc biệt ở những địa phương có thói quen bón phân tươi cho cây trồng .
    8. Điều trị cùng lúc cho các thành viên trong gia đình hoặc cả vườn trẻ ( Nhất là giun kim ) để tránh tái nhiễm
     

Chia sẻ trang này