Loãng xương và tuổi già Lưng còng và giảm chiều cao là một trong những triệu chứng dễ nhận nhất của bệnh loãng xương Loãng xương là một yếu tố nguy cơ của gãy xương. Một khía cạnh đáng sợ của loãng xương là bệnh thường xảy ra một cách âm thầm, bệnh nhân không hề hay biết hoặc đau đớn cho đến khi xương đột ngột bị gãy. Nhiều khi một cái hắt hơi cũng làm xương gãy. Ai dễ bị loãng xương? Loãng xương là một bệnh thường hay thấy ở nữ hơn nam và khá phổ biến ở người cao tuổi. Cũng như cao huyết áp là một yếu tố nguy cơ của đột quỵ, loãng xương là một yếu tố nguy cơ của gãy xương. Tuy bất cứ xương nào cũng có thể bị gãy do mật độ xương giảm thấp, nhưng những xương thường hay bị gãy là cổ xương đùi, xương cột sống, xương cổ tay, xương sườn và xương chậu. Không cần phải nói ra, có lẽ ai cũng biết gãy xương làm cho bệnh nhân rất đau đớn, hạn chế công việc hàng ngày, và giảm chất lượng cuộc sống. Một khía cạnh đáng sợ của loãng xương là bệnh thường xảy ra một cách âm thầm. Bệnh nhân không hề hay biết hay đau đớn cho đến khi xương đột ngột bị gãy. Gãy xương đốt sống là một đặc điểm của "bệnh âm thầm" đó. Gãy xương đốt sống cũng thường xảy ra ở người cao tuổi và thường là tín hiệu cho thấy xương "có vấn đề". Theo một nghiên cứu mới đây, tại TP.HCM, tỷ lệ gãy xương đốt sống ở phụ nữ trên 50 tuổi là 17%, tức tương đương với tần số ở phụ nữ phương Tây. Trường hợp của ngoại tôi, với lưng còng (kyphosis) và giảm chiều cao là một trong những triệu chứng dễ nhận nhất của bệnh loãng xương. Nhưng có lẽ hệ quả quan trọng nhất của loãng xương là gãy cổ xương đùi, bởi vì đây là một biến cố nghiêm trọng trong đời người, do tăng nguy cơ tử vong và suy giảm chất lượng cuộc sống ở những bệnh nhân còn sống sót sau gãy xương. Ở các nước phương Tây, cứ 100 phụ nữ sống đến tuổi 80 thì có 10 người bị gãy cổ xương đùi (tương đương với tần số bệnh ung thư vú); trong số này, khoảng 15 đến 20% tử vong sau một năm. Số còn sống sót thì khó đi lại, thậm chí nằm một chỗ, với nhiều biến chứng nguy hiểm. Ở nam, tỷ lệ tử vong vì gãy cổ xương đùi còn cao hơn nữ. Phòng ngừa loãng xương không khó Ngoài tình trạng loãng xương là một yếu tố chính dẫn đến gãy xương đùi, các yếu tố mang tính môi trường khác cũng nguy hiểm không kém. Khoảng 95% ca gãy cổ xương đùi là do té ngã hay trượt chân. Môi trường dễ dẫn đến té ngã là sàn nhà trơn (như lót gạch men, nhất là trong phòng tắm), dây nhợ chằng chịt trong nhà, hay môi trường thiếu ánh sáng. Những người thiếu vitamin D có nguy cơ té ngã cao hơn những người có vitamin D đầy đủ. Nguồn vitamin D chủ yếu là từ ánh nắng mặt trời. Các nghiên cứu từ Thái Lan và các nước trong vùng Đông Nam Á cho thấy khoảng 40% người dân thiếu vitamin D. Ở Việt Nam, tuy chưa có nghiên cứu về vitamin D, nhưng với thói quen trùm kín mặt khi ra đường để tránh nắng, chúng ta có thể tiên đoán rằng số người cao tuổi thiếu vitamin D có thể lên đến 50%. Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy những nước tiêu thụ nhiều chất béo và đạm động vật hay người dân ít vận động cũng là những nước có tỷ lệ gãy xương cao so với những nước nghèo hơn mà nguồn thực phẩm chủ yếu là rau quả, cá và người dân vận động nhiều hơn. Suy luận từ những sự thật trên cho thấy việc phòng ngừa loãng xương và gãy xương nằm trong tầm tay của mỗi chúng ta: đó là duy trì một chế độ ăn uống quân bình (ít chất béo, giảm đạm động vật, tăng rau quả), một lối sống lành mạnh (bỏ hút thuốc và giảm rượu), duy trì vận động cơ thể bằng tập thể dục vừa phải, phơi nắng mặt trời khoảng 10 – 15 phút mỗi ngày. Loãng xương có trị được? Xét nghiệm mật độ xương là một phương pháp chuẩn để chẩn đoán loãng xương. Hiện nay, ở TP.HCM, một số bệnh viện lớn như Chợ Rẫy, 115, Từ Dũ… có các máy DXA xét nghiệm mật độ xương một cách chính xác. Xét nghiệm mật độ xương hoàn toàn không xâm phạm hay đau đớn, bệnh nhân nằm trên giường một cách thoải mái để máy scan qua cơ thể và ước tính mật độ xương ở cổ xương đùi, xương đốt sống và xương toàn thân. Ngoài ra, máy DXA còn có thể đo lường lượng mỡ và nạc trong cơ thể để tham khảo trong việc chẩn đoán béo phì. Với những phát triển nhanh chóng của y học trong vòng 20 năm qua, ngày nay có khá nhiều thuốc để điều trị loãng xương. Các loại thuốc này đã được phát triển chủ yếu nhằm ức chế các tế bào huỷ xương hay kích thích các tế bào tạo xương. Một số thuốc thông dụng trên thị trường hiện nay là alendronate, risedronate, ibandronate, zoledronate, raloxifene, calcitonin, strontium ranelate, teriparatide… Tất cả các thuốc này đã được thử nghiệm và kết quả cho thấy giảm nguy cơ gãy xương đốt sống. Một số thuốc còn có hiệu quả giảm nguy cơ gãy cổ xương đùi. Tuy nhiên, giá cả các thuốc này có khi rất khác nhau và việc lựa chọn thuốc tối ưu còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố lâm sàng, khoa học, và nhất là chi phí điều trị. Bài sưu tập
Ăn uống để phòng bệnh điếc Chế độ ăn uống không hợp lý có liên quan đến việc giảm thính lực ở người cao tuổi Khi ngoài 60 tuổi, thính lực của con người bắt đầu giảm dần, trường hợp nặng thì điếc hẳn. Theo thống kê, tỷ lệ điếc ở người trên 65 tuổi là 30-50%. Đây hoàn toàn là kết quả của sự biến đổi sinh lý, có liên quan đến sự thoái hóa của các vi huyết quản bên trong tai người cao tuổi (NCT), sự phát bệnh ở ốc tai (một bộ phận của nội nhĩ) và chức năng sinh lý toàn thân giảm sút. Ngoài ra, còn có liên quan đến việc ăn uống không hợp lý. Ăn thức ăn chứa nhiều chất sắt Các thầy thuốc Anh phát hiện thấy ở người chuyển sang tuổi già, hàm lượng sắt trong máu thấp hơn rõ rệt so với người bình thường, hệ thống máu biến đổi, các vi huyết quản ở tai bị hẹp đi, mất tính đàn hồi, máu khó chảy qua, các tế bào hồng cầu dần dần trở nên cứng hơn. Tế bào hồng cầu cứng sẽ dễ làm tắc các vi huyết quản, gây khó khăn cho tuần hoàn máu trong tai, cộng thêm sự thiếu chất sắt trong cơ thể, năng lực chuyên chở oxy của tế bào hồng cầu bị giảm sút, làm cho tế bào thính giác trong tai thiếu chất dinh dưỡng, qua đó sinh bệnh điếc. Nếu bổ sung thêm chất sắt thì có thể làm giãn mạch máu, làm mềm các tế bào hồng cầu, bảo đảm tai được cung cấp đủ máu, qua đó ngăn chặn tình trạng giảm thính lực ở NCT. Các thầy thuốc đề nghị, ngay từ tuổi trung niên trở đi, nên ăn thêm các thức ăn giàu chất sắt như: mộc nhĩ đen, gan động vật, thịt nạc, rau cần, rau chân vịt… Ăn nhiều thức ăn chứa chất kẽm Nguyên tố kẽm (Zn) có tác dụng vô cùng quan trọng đối với thính lực. Hàm lượng kẽm ở ốc tai cao hơn hẳn so với bất kỳ bộ phận nào khác trong cơ thể; nhưng khi ngoài 60 tuổi thì giảm đi rõ rệt, gây trở ngại cho hoạt động chức năng của ốc tai. Bởi vậy, khi sang tuổi trung niên nên ăn cá, đậu nành, rau cải, cà-rốt, các loại hải sản, là thực phẩm chứa nhiều kẽm. Bổ sung vitamin D Vitamin D có ảnh hưởng trực tiếp kỳ lạ đến thính lực của NCT. Các chuyên gia Hoa Kỳ theo dõi 56 người mắc bệnh điếc tuổi già, phát hiện thấy hàm lượng canxi trong máu của họ thấp hơn hẳn mức bình thường, mà nguyên nhân căn bản là do cơ thể thiếu vitamin D. Khi dùng vitamin D điều trị cho các bệnh nhân này trong thời gian 6-10 tháng, thính lực của họ khá lên rõ rệt. Trong vitamin D chủ yếu có vitamin D2 và D3. Các loại nấm và mộc nhĩ trắng (ngân nhĩ) đều chứa vitamin D2. Gan cá biển có hàm lượng vitamin D3 cao nhất; gan gia cầm, gia súc và trứng cũng chứa vitamin D3. Trong các mô da và mỡ người có chứa một chất dehydrocholesterol, sau khi được chiếu bởi tia cực tím trong ánh nắng mặt trời nó có thể hình thành vitamin D3. Bởi vậy, NCT cần thường xuyên ra nắng. Bớt ăn uống Hợp lý hạn chế khẩu phần ăn không những có thể kéo dài tuổi thọ mà còn có tác dụng rõ rệt ngăn ngừa chứng điếc ở NCT. Đó là do sau khi bớt khẩu phần ăn, cơ thể cố hết sức thải các chất độc ra ngoài. Ăn nhiều thức ăn hạ mỡ máu Một nhóm chuyên gia quan sát 341 NCT, kết quả thấy ở người có mỡ máu cao thì tỷ lệ mắc chứng điếc do tuổi già cao hơn rõ rệt so với người có mỡ máu bình thường. Vì vậy, cần thay đổi các thói quen không tốt về ăn uống và ăn nhiều rau quả tươi sẽ có ích cho việc dự phòng chứng điếc ở NCT. BS. THANH HÀ Theo SK&ĐS
Phòng bệnh táo bón ở người cao tuổi Để đề phòng hoặc giảm dần bệnh táo bón, người cao tuổi nên ăn nhiều rau trong mỗi bữa ăn Táo bón là một bệnh thường gặp thuộc hệ thống đường tiêu hóa. Bệnh táo bón có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng người cao tuổi (NCT) bị táo bón chiếm tỷ lệ nhiều hơn. Bình thường một người có thể đi ngoài từ 1-3 lần trong một ngày hoặc trên 3 lần trong một tuần. Được gọi là bị táo bón khi quá 3 ngày chưa đi ngoài hoặc đi ngoài dưới 3 lần trong một tuần, có thể có từng cơn đau quặn bụng, phân rắn, mỗi khi đi ngoài phải rặn mạnh. Nguyên nhân gây táo bón ở NCT Thức ăn, nước uống sau khi vào đường tiêu hóa đa phần sẽ được hấp thu ở ruột non, phần còn lại và các chất cặn bã sẽ dồn xuống đại tràng. Tại đại tràng, số còn lại của chất dinh dưỡng sẽ được hấp thu tiếp tục, chất cặn bã, các chất độc do vi sinh vật và quá trình chuyển hóa sinh ra sẽ được đào thải ra ngoài. Nếu chất cặn bã kèm theo các chất độc hại lưu lại trong đại tràng càng lâu làm ảnh hưởng đáng kể đến sức khỏe. Khi nước trong chất thải bị hấp thu tiếp thì làm cho phân rắn lại rất khó đi ngoài. Có nhiều nguyên nhân gây nên táo bón: Do suy giảm chức năng sinh lý: càng nhiều tuổi thì chức năng sinh lý sẽ giảm dần theo năm tháng như: cơ hoành, cơ vùng xương chậu yếu đi, các dịch bài tiết của đường ruột cũng giảm đáng kể như: dịch vị, dịch mật, dịch ruột; sự co bóp của cơ trơn đường tiêu hóa ngày càng yếu dần hoặc có hiện tượng nứt nẻ hậu môn... Do chế độ dinh dưỡng không hợp lý: do yêu cầu trong điều trị một bệnh nào đó nhưng người bệnh lại kiêng khem quá mức; ăn ít hoặc chán không muốn ăn nên chất cặn bã ít, phân ít không tạo được phản xạ co bóp của đại tràng. Ăn những loại thức ăn có nhiều chất béo như: bơ, sữa, đường tinh chế và thức ăn ít chất xơ, ăn nhiều chất cay, nóng (ớt, hành, hồ tiêu), uống nhiều rượu, bia. Lượng nước đưa vào trong cơ thể hàng ngày không đủ sự cần thiết để tiêu hóa thức ăn. Hiện tượng này thường gặp ở những người lười uống nước (sợ đi tiểu nhiều lần), ăn ít rau, quả. Ít vận động. Hầu hết NCT đã nhận thức được vận động làm cho mọi cơ quan của cơ thể hoạt động đều đặn, nhưng có những trường hợp vì lý do nào đó ít vận động, ví dụ như: đau khớp gối mạn tính, đau lưng, chân yếu khó đi lại thì rất dễ xảy ra táo bón. Một số NCT ngại đi ngoài với nhiều lý do khác nhau như nhà vệ sinh bẩn, đi lại khó khăn, nhất là nhà vệ sinh ở một số vùng nông thôn, miền núi, ngồi lâu trong nhà vệ sinh gây mệt mỏi… Do tác dụng phụ của thuốc như thuốc có chất tannin, thuốc chống trầm cảm, thuốc bao bọc niêm mạc dạ dày có chứa nhôm, lạm dụng một số thuốc có tác dụng nhuận tràng, do dùng nhiều quá không có tác dụng nhuận tràng như mong muốn. Hậu quả của táo bón ở NCT Táo bón thường xuyên sẽ gây ra nhiều hậu quả xấu cho NCT. Phân và các chất cặn bã, chất độc do các vi sinh vật trong đường ruột bài tiết ra không được tống ra theo phân mà đọng lại thời gian lâu ở đại tràng, trực tràng, cơ thể hấp thu cùng với nước gây độc hại cho cơ thể làm cho người bệnh lúc nào cũng thấy mệt mỏi, lười ăn, chán ăn, thậm chí bỏ bữa. Bệnh hay gặp nhất của táo bón dài ngày là bệnh trĩ. Bệnh trĩ có hai loại là trĩ nội và trĩ ngoại. Trĩ nội là do sự giãn quá mức của đám rối tĩnh mạch trực tràng, hậu quả là mỗi lần đi ngoài ra máu tươi trong hoặc sau khi đi ngoài. Đôi khi búi trĩ thòi ra, không tự lên được mà phải dùng tay đẩy nó lên. Động tác đẩy búi trĩ lên bằng tay rất dễ gây nhiễm trùng nguy hiểm, đặc biệt là nhiễm trùng huyết. Táo bón cũng là một trong những nguyên nhân gây viêm đại tràng mạn tính, ung thư đại tràng. Một số người bị tăng huyết áp mạn tính nếu bị táo bón thì khi đi ngoài phải rặn mạnh cũng có nguy cơ gây tăng huyết áp đột ngột, rất nguy hiểm đến tính mạng. Phòng bệnh táo bón với NCT Để đề phòng táo bón hoặc giảm dần bệnh táo bón nên ăn nhiều rau trong mỗi bữa ăn. Các loại rau phù hợp với NCT là rau mồng tơi, rau khoai lang, rau muống, rau dền, rau đay. Nên ăn một số quả như: cam, quýt (nên ăn cả múi), đu đủ chín, dưa chuột, mướp đắng, mướp. Chuối chín hoặc củ khoai lang luộc (hoặc nướng) cũng có giá trị đáng kể trong việc phòng táo bón. Không nên uống rượu, bia; không ăn chất cay, nóng như: ớt, hành, hồ tiêu. Những người có bệnh được bác sĩ chỉ định dùng thuốc mà có tác dụng phụ gây táo bón thì cần dùng đúng chỉ định của bác sĩ, không lạm dụng thuốc và khi có hiện tượng tác dụng phụ gây táo bón, cần báo ngay cho bác sĩ (người trực tiếp điều trị cho mình) để có hướng xử trí thích hợp tránh để táo bón kéo dài xảy ra. Không nên ngồi lâu mỗi lần đi tiêu. Hàng ngày nên tập thể dục nhẹ nhàng tùy theo sức của mình. Có thể đi bộ trong sân, trong nhà hoặc tốt hơn là ở công viên, đường vắng xe cộ qua lại. PGS.TS. BÙI KHẮC HẬU Theo SK&ĐS
Người cao tuổi nên ăn mật ong thay đường Người cao tuổi nên dùng mật ong thay cho đường mía để vừa ăn ngọt lại vừa có thể bảo vệ sức khỏe Ăn nhiều đường mía cũng như ăn nhiều muối, nhiều chất béo đều dẫn đến bệnh béo phì, xơ cứng động mạch, huyết áp cao, đái tháo đường, làm giảm sức đề kháng của cơ thể, khiến cơ thể dễ bị cảm cúm, loãng xương và bệnh mắt. Chính vì vậy, người cao tuổi không nên ăn nhiều đường mía. Khi cần ăn ngọt, có thể dùng mật ong thay thế, và như vậy vừa có thể ăn ngọt lại vừa có thể bảo vệ sức khỏe. Bệnh dạ dày Những người trung niên và lớn tuổi bị các bệnh về dạ dày nên thường xuyên uống mật ong, bởi vì mật ong có tác dụng điều tiết acid dạ dày, có thể dần dần điều tiết độ acid đạt đến mức bình thường. Cách dùng: những người dạ dày ít acid, trước bữa ăn có thể ăn một ít mật ong, cũng có thể pha một ít nước nguội vào để uống. Những người có nhiều acid dạ dày thì nên pha mật ong với nước ấm để uống trước bữa ăn một giờ rưỡi hoặc sau bữa ăn 3 giờ. Bệnh hô hấp Mật ong có tác dụng giảm viêm, giảm đờm, mát phổi, trị ho. Cách điều trị ho tốt nhất là ăn lê cùng với mật ong. Cách làm: thái lát mỏng một quả lê rồi trộn với mật ong, một ngày ăn vài lần. Bệnh tim mạch Thường xuyên ăn mật ong có tác dụng bảo vệ mạch máu, hạ huyết áp, tăng cường tiêu hóa, dễ đại tiện. Cách dùng: trước khi ăn sáng uống một cốc nước mật ong, và buổi tối trước khi đi ngủ lại uống một cốc nữa. Bệnh đường ruột Mật ong còn có tác dụng tăng cường sức co bóp của đường ruột, có thể rút ngắn rõ rệt thời gian đại tiện. Cách dùng: uống khoảng 25g mật ong vào trước bữa ăn sáng và tối. Giải rượu Chất đường hoa quả trong mật ong có thể phân giải việc hấp thụ chất cồn, vì vậy có thể giúp tỉnh rượu nhanh hơn và không bị nhức đầu sau khi uống rượu. Ngoài ra, mật ong còn có tác dụng hỗ trợ cho việc điều trị các bệnh mạn tính như: viêm gan B, gan nhiễm mỡ, xơ gan… Cách dùng: trước khi uống rượu nên ăn khoảng 50g mật ong hoặc mấy chiếc bánh quy phết mật ong. Sau khi uống rượu cũng nên uống nước mật ong. Mật ong sẽ nhanh chóng bổ sung nhu cầu năng lượng của não. Cung cấp năng lượng Cơ thể có thể nhanh chóng hấp thụ chất đường hoa quả và glucoza của mật ong, cải thiện tình hình dinh dưỡng trong máu. Cách dùng: uống một cốc nước mật ong vào buổi trưa. Giúp dễ ngủ Glucoza, các vitamin, magiê, photpho trong mật ong có thể điều tiết chức năng của hệ thần kinh, khiến cho thần kinh đỡ căng thẳng và ngủ được ngon giấc. Mật ong không có tác dụng phụ như những loại thuốc khác. Mật ong hoa táo có tác dụng hỗ trợ thần kinh tốt nhất. Cách dùng: trước khi đi ngủ uống một thìa mật ong. Theo Tạp chí Phụ Nữ Trung Quốc/SK&ĐS
Dinh dưỡng cho người cao tuổi Băn khoăn về tuổi già Phần lớn người qua tuổi 50 rất "sốc" về sự biến đổi, suy giảm trong cơ thể diễn ra mỗi lúc một khác. Họ còn ngạc nhiên hơn khi phát hiện ra khi trí nhớ giảm sút thì sự nhạy cảm trong nhận biết mùi vị thức ăn cũng dần mất đi. Theo ý kiến của các bác sĩ lão khoa, điều này là lẽ tự nhiên, vì khi về già, các hoạt động của con người thường bị giảm đi khoảng 1/3 so với thời trẻ. Cùng với khả năng thụ cảm suy giảm, khối lượng não cũng giảm dần (còn khoảng 1.180g ở nam và 1.060 ở nữ khi bước qua tuổi 80). Quá trình lão hóa xảy ra ở 5 mức (phân tử, tế bào, cơ quan, hệ thống và toàn cơ thể). Tuổi càng cao, quá trình lão hóa càng diễn ra mạnh mẽ. Do vậy lượng chất đạm phải được cung cấp đầy đủ để phục vụ cho việc tái tạo các tổ chức mô. Một số người, vì một lý do nào đó (do không nhận thức được ý nghĩa của việc ăn uống điều độ và hợp lý, do bệnh tật, do hoàn cảnh, do yếu tố tâm lý...) thường ăn ít, đặc biệt là ăn không đủ các chất đạm và kết quả là cơ thể gầy yếu, mệt mỏi, suy giảm khả năng đề kháng của cơ thể và dễ bị mắc bệnh. Cho dù cơ thể người lớn tuổi cần được cung cấp một lượng tinh bột đầy đủ, song cần hạn chế dùng đường và bánh kẹo ngọt. Giảm sử dụng mỡ sẽ giảm được lượng calo sử dụng chung và giúp phòng chống xơ vữa động mạch, bệnh tim mạch, đái tháo đường, đau khớp... Trong khẩu phần ăn của người già, tỷ lệ năng lượng do mỡ cung cấp nên dưới 20%. Tuổi già và bệnh tật Già không phải là bệnh nhưng tuổi già lại tạo điều kiện cho nhiều căn bệnh phát sinh. Khoảng 85% người có tuổi bị ít nhất một bệnh mãn tính và họ có thể cải thiện tình hình sức khỏe thông qua chế độ ăn. Giáo sư Albert Barrocas, chuyên gia về ngoại khoa và dinh dưỡng tại New Orleans, người đã đưa ra thí dụ về sự khó thở của người bị bệnh phổi khi ăn nhiều đường, nói: "Chế độ ăn tốt không phải phương thuốc trị bệnh, nhưng nó có thể giảm bớt những đau đớn của người bệnh. Thậm chí còn giúp một số người không phải dùng thuốc". Trong khi ở người trẻ tuổi, thừa cân là nguy cơ lớn gây đái tháo đường và bệnh tim mạch, thì người già lại phải đối đầu với nguy cơ suy dinh dưỡng. Khi bạn đời khuất núi, người còn lại sẽ chẳng thiết nấu nướng hoặc không biết làm thế nào để có bữa ăn lành mạnh. Bệnh viêm khớp, bệnh tim hay các bệnh khác khiến việc nấu ăn trở nên khó khăn. Bệnh Alzheimer làm người bệnh quên ăn. Khi dùng kháng sinh, người bệnh có thể thấy miệng đắng ngắt. Cùng với đó, thói quen ăn nhiều cơm ít thức ăn của người Việt Nam, đặc biệt là ở vùng nông thôn, là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt các vitamin và khoáng chất ở nhiều người cao tuổi. Bên cạnh đó, cơ thể người cao tuổi lại khó hấp thụ các vitamin, nên việc bổ sung vitamin là điều cần thiết. Đặc biệt, với những người cao tuổi vừa trải qua phẫu thuật hoặc gặp các bệnh nguy hiểm như ung bướu, tim mạch... cần hồi sức nhanh, nhu cầu bổ sung dưỡng chất lại càng trở nên cấp thiết. Theo các chuyên gia dinh dưỡng, với người có tuổi, thừa 10% trọng lượng tốt hơn là thiếu 10%. Vì thế, nếu gia đình bạn có người lớn tuổi, bạn nên đặc biệt chú ý đến thực đơn của các bữa ăn, vì nhu cầu về dinh dưỡng của người già đặc biệt hơn các thành viên khác trong gia đình. Sàng lọc dinh dưỡng Các chuyên gia của Hội dinh dưỡng Mỹ đã kết hợp với Viện hàn lâm Bác sĩ Gia đình (tổ chức bác sĩ về chăm sóc sức khỏe ban đầu lớn nhất nước Mỹ), đã đề ra những hướng dẫn thiết thực (còn ít được biết đến) về chế độ dinh dưỡng của người có tuổi, liên quan tới các bệnh già trong đó chủ yếu là 8 bệnh mãn tính như ung thư, sa sút trí tuệ, đái tháo đường, huyết áp cao, loãng xương... Theo đó, thức ăn của người già cần chứa nhiều vitamin khác nhau, các khoáng chất và chất xơ. Chất xơ có tác dụng phòng ngừa bệnh táo bón ở tuổi già, ngoài ra chất xơ còn có tác dụng làm giảm cholesterol trong máu. Chất xơ có trong trái cây, rau và ngũ cốc. Người già thường không hay quan tâm đến việc ăn hoa quả và rau. Nhiều người trong số họ không có thói quen uống sữa, nguồn cung cấp chủ yếu canxi để phòng ngừa bệnh loãng xương... Tất cả những thói quen đó, kết hợp với khả năng hấp thụ kém các chất của cơ thể người già dẫn đến tình trạng cơ thể thiếu các loại vitamin và khoáng chất khác nhau. Người già cần phải thường xuyên uống từ 2-3 cốc sữa mỗi ngày để phòng ngừa bệnh loãng xương. Tuy nhiên cần chú ý rằng, ở người già, khả năng tiêu hóa sữa kém hơn, do vậy, nên uống làm nhiều lần mỗi ngày. Cùng với tuổi tác, hệ tiêu hóa làm việc kém hiệu quả hơn, cường độ trao đổi chất trong cơ thể người lớn tuổi diễn ra chậm. Do vậy, thức ăn cần được chế biến kỹ, tinh. Tránh ăn các thức ăn khó tiêu như đồ rán, thịt mỡ, sụn, gân, da, và cổ cánh gia cầm... Người lớn tuổi nên ăn làm nhiều bữa trong ngày. Có thể là 4 hoặc 5 bữa. Theo Tư vấn tiêu dùng
Thực phẩm người già nên tránh Người già nên tránh những thực phẩm chiên rán có nhiều dầu mỡ Khoa học đã chứng minh người già cần thận trọng khi dùng một số loại thực phẩm vì nó có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Các loại thực phẩm chiên, rán Loại thực phẩm này không chỉ không tốt cho người già mà còn không tốt cho tất cả mọi người. Thực phẩm chiên, rán thường ngấm nhiều mỡ, dễ gây béo phì, ung thư. Thay vì ăn đồ rán, nướng, hãy thay thế bằng các món luộc, hấp... Các thực phẩm dầm, muối Những loại thực phẩm này thường quá mặn. Ăn mặn có nguy cơ bị thận, tăng huyết áp và gây ra các bệnh nhiễm khuẩn đường ruột khác. Các loại tương, mắm Những loại đồ chấm này có độ mặn cao trong khi đó người già cần phải ăn hơi nhạt. Các thực phẩm nhiều đường Các thực phẩm như bánh ngọt, kẹo bánh các loại, người già không nên ăn vì nó có nguy cơ làm tăng đường huyết trong máu, gia tăng nguy cơ xơ vữa động mạch. Các thực phẩm đông lạnh Hệ tiêu hoá của người già thường yếu, vì vậy không nên ăn các thực phẩm đông lạnh để phòng bệnh về đường ruột. Thêm nữa, thực phẩm đông lạnh cũng không tốt cho hệ tim mạch của người già. Tiết và nội tạng động vật Có chứa nhiều cholesterol dễ gây bệnh xơ vữa động mạch, cao huyết áp, tim mạch, tiểu đường... Các thức ăn liền Những thực phẩm như mì ăn liền, đồ chế biến sẵn, đồ khô... lượng dinh dưỡng và vitamin thấp, dễ gây thiếu chất. Theo Sức khỏe & Tiêu dùng
Phòng bệnh thoái hóa khớp ở người cao tuổi Từ lúc ngoài 40 tuổi, bạn cần tập luyện nhẹ nhàng, đều đặn để phòng tránh hiện tượng thoái hóa khớp xảy ra khi cao tuổi Người cao tuổi thường mắc các bệnh về xương khớp, trong đó bệnh thoái hóa khớp (THK) là hay gặp nhất. Khi bị THK mà không phát hiện sớm để điều trị thì rất dễ dẫn đến tình trạng biến dạng khớp, làm hạn chế vận động, đôi khi làm cứng khớp. Cấu tạo của khớp Khớp chính là phần tiếp nối giữa 2 đầu xương trong cùng một cơ thể, có bao khớp bao bọc xung quanh, có một lớp sụn mềm giữa 2 đầu xương và một loại dịch nhầy (dịch khớp) rất trơn để cho khớp cử động một cách dễ dàng… Nói đến THK thường muốn ám chỉ lớp sụn mềm ở ngay đầu xương bị thoái hóa là chính, ngoài ra THK còn có hiện tượng giảm phản xạ đầu xương và giảm thiểu đáng kể việc tiết dịch nhầy của khớp (dịch khớp). Những khớp xương nào dễ bị thoái hóa nhất? Có nhiều khớp xương dễ bị thoái hóa nhưng hay gặp nhất vẫn là khớp gối, khớp đốt sống cổ, khớp đốt sống thắt lưng, khớp háng, khớp cổ chân, bàn chân... Nguyên nhân của THK THK là hiện tượng khớp bị tổn hại (xơ hóa, biến dạng, vôi hóa…) có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng có 2 loại nguyên nhân chính: Nguyên nhân nguyên phát: là nguyên nhân hay gặp ở những người tuổi cao. Tuổi càng cao thì hiện tượng lão hóa các cơ quan càng mạnh, trong đó có khớp xương. Có nhiều yếu tố thuận lợi gặp ở người cao tuổi bị THK xương như: tình trạng béo phì, di truyền, có chấn thương nhẹ nhưng thường hay xảy ra ở khớp. Nguyên nhân thứ phát: xảy ra sau viêm khớp dạng thấp, viêm khớp do nhiễm trùng (do vi khuẩn lao, vi khuẩn mycoplasma, vi khuẩn lậu…). Một số trường hợp do trong tiền sử có chấn thương mạnh tại khớp như: bị ngã, tai nạn lao động, tai nạn trong chơi thể thao (bóng đá, bóng chuyền…). Ngoài ra, người ta cũng nhắc đến nguyên nhân tự miễn cũng có vai trò nào đó trong THK ở người cao tuổi. Người ta cho rằng, người trên 40 tuổi hay gặp THK có lẽ ở chừng mực nào đó có liên quan đến yếu tố tự miễn, cũng giống như trong viêm đa khớp dạng thấp, người ta thấy có các tự kháng thể thuộc loại globulin to kiểu IgM có tính đặc hiệu cao. Triệu chứng chính Đau tại khớp bị thoái hóa là dấu hiệu bao giờ cũng có, ví dụ như khớp gối bị thoái hóa có khi đau làm cho đi lại rất khó khăn và bị hạn chế trong vận động. Trong thoái hóa đốt sống thắt lưng thì khi cúi xuống, đứng lên, quay ngang… đều đau, đôi khi do thần kinh bị chèn ép làm cho đau dọc xuống dưới chân. Đau khớp thường vào buổi sáng kéo dài khoảng nửa giờ, xuất hiện một vài khớp riêng lẻ bị thoái hóa, đau không có đối xứng. Thông thường, đau trong THK không kèm theo các dấu hiệu của viêm như: sưng, nóng, đỏ. Cứng khớp hay gặp nhất là vào buổi sáng sớm lúc vừa ngủ dậy làm cho việc co, duỗi, đi lại khó khăn. Cứng khớp do THK chỉ kéo dài một thời gian ngắn (ít khi quá 15 phút). Ngoài các triệu chứng điển hình vừa nêu trên, chẩn đoán THK cũng nên chụp X-quang, cộng hưởng từ để biết tình trạng của khớp như: hẹp khe khớp, mỏm gai bờ rìa, vành xương của sụn khớp xương đốt sống thắt lưng và các dấu hiệu khác, tuy nhiên trong các trường hợp mới bị THK thì các dấu hiệu này có khi chưa xuất hiện. Khi đã bị THK nên làm gì? Nếu bị đau nhiều cần giảm đau, động tác đầu tiên nên chườm lạnh (dùng khăn thấm nước lạnh), sau đó chườm bằng nước nóng (dùng khăn thấm nước nóng, nếu có điều kiện thì ngâm trong bồn tắm có nước ấm để cho người ấm lên, sau đó lau người khô và mặc quần áo). Nếu không có điều kiện hoặc không muốn chườm lạnh, chườm nóng thì có thể xoa, bóp nhẹ nhàng rồi dùng dầu (ví dụ dầu gió), kem (typ kem deefheat) xoa vào khớp làm cho nóng lên. Nếu thấy có hiện tượng cứng khớp thì cần tập co, duỗi (khớp gối, cổ chân), vặn mình nhẹ nhàng (khớp đốt sống lưng, thắt lưng), xoay cổ sang phải, sang trái một cách nhẹ nhàng (khớp đốt sống cổ). Nếu các động tác vừa nêu trên thực hiện đều đặn mà không thấy bệnh thuyên giảm hoặc thuyên giảm nhưng rất chậm thì nên đi khám bác sĩ để được chỉ định dùng thuốc và tư vấn thêm, tuyệt đối không tự động mua thuốc để uống hoặc tiêm vì các loại thuốc dùng trong điều trị THK cần được hiểu rõ cơ chế tác dụng chính và đặc biệt là các tác dụng phụ. Phòng bệnh THK Để hạn chế THK, người cao tuổi nên có một chế độ sinh hoạt cho hợp lý (ăn, uống, đi lại, tập luyện…) tùy theo điều kiện của mỗi một người. Để phòng tránh hiện tượng THK xảy ra thì ngay từ lúc tuổi ngoài 40 nên có chế độ sinh hoạt và tập luyện nhẹ nhàng, đều đặn hàng ngày như chơi thể thao, đi bộ, bơi… hạn chế mang vác nặng, làm các động tác quá sức. Khi có hiện tượng nghi ngờ về khớp cần đi khám bác sĩ ngay để được tư vấn đầy đủ. Nên đi khám bệnh định kỳ để biết tình trạng sức khỏe của mình và biết cách phòng tránh. Đối với người cao tuổi cũng cần tập luyện nhẹ nhàng tùy theo sức mình và hoàn cảnh của riêng mình. Cần có sự tập luyện các khớp xương như: xoay, xoa bóp, đi lại trong nhà, trong sân, trong ngõ (khi lên xuống cầu thang phải hết sức cẩn thận, đặc biệt những cụ tuổi đã cao, sức yếu thì không nên lên xuống cầu thang vì dễ bị sảy chân rất nguy hiểm). Đi bộ là một hình thức tập luyện rất được nhiều người ưa chuộng nhưng cũng không nên đi xa quá và chiếm nhiều thời gian gây mệt mỏi, đôi khi còn phản tác dụng. ThS.BS. MAI HƯƠNG Theo SK&ĐS