(Dân trí) - Phó Thống đốc NHNN Nguyễn Đồng Tiến cho biết có ít nhất là “mươi” (mang tính chất phiếm chỉ - PV) TCTD vào dạng yếu kém, có nguy cơ đổ vỡ. NHNN sẽ thông báo tới từng đơn vị, và không tiết lộ danh tính các đơn vị này. Không công bố danh sách của từng nhóm Chiều 14/2, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Đồng Tiến đã chủ trì họp báo Triển khai Thực hiện Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 3/1/2012 của Chính phủ. Bà Nguyễn Thị Hồng Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ NHNN cho biết: Quy định hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2012 được chia theo 4 nhóm: nhóm 1 tăng trưởng tối đa 17%, nhóm 2 tăng trưởng tối đa 15%, nhóm 3 tăng trưởng tối đa 8% và nhóm 4 không được tăng trưởng. Lần đầu tiên, NHNN cũng cụ thể hóa khái niệm “cho vay phi sản xuất” bằng cụm từ “lĩnh vực không khuyến khích” gồm dư nợ cho vay bất động sản, cho vay tiêu dùng, chứng khoán. NHNN cũng nêu rõ sẽ tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VNĐ đối với các ngân hàng có mức tăng trưởng tín dụng hoặc tỷ trọng dư nợ cho vay đối với lĩnh vực không khuyến khích vượt mức quy định nêu trên. Theo Phó thống đốc Nguyễn Đồng Tiến, đối với kiểm soát tín dụng theo từng nhóm không có vấn đề gì mới. Khi NHNN đặt vấn đề kiểm soát, bản thân dư luận cũng từng có ý kiến không nên cào bằng mà căn cứ vào năng lực tài chính, khả năng kiểm soát chất lượng hoạt động của từng TCTD nên NHNN cân nhắc tiếp tục đưa vào trong nội dung Chỉ thị 01 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2012. Theo đó, các tổ chức tín dụng được chia theo 4 nhóm. Nhóm 1 là các TCTD hoạt động tương đối an toàn lành mạnh, ổn định, được tăng trưởng cao nhất; nhóm 2 yếu hơn một chút; nhóm 3 ở mức độ thấp hơn nữa và nhóm 4 là thuộc diện đang phải cơ cấu lại có nguy cơ lớn và biểu hiện mất an toàn thì không được tăng trưởng tín dụng. “NHNN sẽ không công bố danh sách cụ thể mà sẽ thông báo đến từng tổ chức tín dụng và sẽ cố gắng duy trì tổng mức tăng trưởng từ 15-17%. Thực tế có những TCTD nước ngoài mới sẽ được cho phép tăng trưởng tín dụng tối đa ở mức vốn điều lệ có”, Phó Thống đốc Tiến nhấn mạnh. Theo đó, dự kiến đến tháng 6, NHNN sẽ xem xét lại, có sự điều chỉnh về các nhóm tăng trưởng. Nếu các TCTD tốt hơn, sẽ có sự điều chỉnh lên nhưng nếu thấp hơn sẽ điều chỉnh xuống. Phó Thống đốc Nguyễn Đồng Tiến cũng cho biết, những vấn đề này NHNN đã nói rõ trong cuộc họp tổng kết ngành ngân hàng vào cuối tháng 12/2011 nên bản thân các TCTD cũng không có lý do gì để phàn nàn, bởi tăng trưởng tín dụng phải theo “sức khỏe”. Sẽ xem xét cấp tín dụng cho một vài dự án BĐS Bày tỏ quan điểm trước câu hỏi của báo giới về việc “cứu” thị trường chứng khoán, Phó thống đốc Nguyễn Đồng Tiến cho biết: Thị trường chứng khoán là một thực thể của nền kinh tế; tuy nhiên những giải pháp hiện nay của Chính phủ nói chung và NHNN nói riêng đều tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, nguồn vốn tập trung ưu tiên cho sản xuất. Do đó, bất động sản và chứng khoán tiếp tục được xem là tín dụng phi sản xuất nên không được ưu tiên. Tuy nhiên, riêng lĩnh vực bất động sản, NHNN sẽ xem xét mức đóng góp tới tăng trưởng kinh tế vĩ mô của từng dự án cụ thể để cấp tín dụng trong năm 2012. “Trong năm 2012, NHNN sẽ kiểm soát cho vay 13,5% và có thể có TCTD được cho vay vượt lên mức 16% đối với “lĩnh vực không ưu tiên”. Trước đây, tỷ trọng cho vay BĐS ở mức trên 10%, nhưng tại thời điểm hiện ở mức khoảng 9%”, Phó thống đốc Nguyễn Đồng Tiến nói.
Ðề: Có bao nhiêu ngân hàng "yếu kém, nguy cơ cao"? Sao lại không minh bạch thế nhỉ? Phải chăng là tất cả hay hầu hết các ngân hàng đều yếu kém và sắp phá sản rồi?
Ðề: Có bao nhiêu ngân hàng "yếu kém, nguy cơ cao"? Nợ xấu cao, nhiều ngân hàng có nguy cơ mất vốn Năm 2011, trong khi một số TCTD trong nước có tỷ lệ nợ xấu cao thì khối ngân hàng nước ngoài và liên doanh hoạt động trên địa bàn lại có kết quả kinh doanh tăng gấp 4 lần, tỷ lệ nợ xấu chỉ ở mức 1,17%. Báo cáo tổng kết về tình hình hoạt động ngân hàng trên địa bàn năm 2011 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi nhánh TPHCM có kết luận, trong năm vừa qua, tỷ lệ tổ chức tín dụng (TCTD) kinh doanh kém hiệu quả (lãi ít hoặc lỗ), nợ xấu phát sinh cao, chủ yếu là các TCTD có cho vay bất động sản với các dự án lớn và mang tính chất đầu cơ. Một số tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu cao hơn 5%, tỷ trọng nợ tại nhóm khách hàng có khả năng mất vốn chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ xấu. Nợ xấu gia tăng, cùng những khó khăn trong việc trả nợ vay của doanh nghiệp, của khách hàng khiến dòng luân chuyển vốn trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại (NHTM) chậm lại, một vài NHTM có dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất (như bất động sản, giấy tờ có giá..) cao thì lại càng khó khăn hơn. Trong khi đó, huy động vốn trong những tháng gần đây có xu hướng giảm, gia tăng áp lực lên thanh khoản tại các ngân hàng này, nhu cầu vốn trong thanh toán cao, tiếp cận vốn từ các thị trường khó hơn và khó khăn thanh khoản cục bộ đã xuất hiện. Tuy nhiên, NHNN đã và đang sử dụng các công cụ quản lý kết hợp với công cụ tái cấp vốn, thị trường mở và các biện pháp khác để đảm bảo đáp ứng nhu cầu vốn thanh toán cho các ngân hàng, ổn định hoạt động và an toàn hệ thống. Những giải pháp trung hạn đã và đang thực hiện theo hướng sắp xếp, cơ cấu hệ thống ngân hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, đủ mạnh để khắc phục tồn tại khó khăn và phát triển. Trong công văn cũng nêu rõ, ngoài rủi ro tín dụng do nợ xấu gia tăng, rủi ro kỳ hạn cũng tiềm ẩn và cần quan tâm đặc biệt. Theo đó, đại bộ phận nguồn vốn huy động hiện nay chủ yếu kỳ hạn ngắn: tiền gửi rất hoạt kỳ và biến động. Trong khi đó việc điều chỉnh dư nợ cho vay trung dài hạn cho phù hợp với cơ cấu nguồn vốn hiện nay là rất khó do thực hiện hợp đồng và do kỳ hạn nợ dài. Thực trạng này gây áp lực lên quá trình khai thác và sử dụng vốn tại các NHTM là không nhỏ, tiềm ẩn rủi ro kỳ hạn, khi có biến động lớn về tiền gửi và khó khăn trong thu hồi nợ. Năm 2012, NHNN cũng lưu ý rằng, những khó khăn kinh tế vĩ mô, khó khăn từ thị trường bất động sản và khó khăn của doanh nghiệp được dự báo vẫn còn diễn biến phức tạp – điều này tiềm ẩn và chứa đựng rủi ro đối với hoạt động tín dụng ngân hàng. Vì vậy, phía NHNN cảnh báo các TCTD đặc biệt quan tâm, có giải pháp xử lý nợ xấu và quản trị rủi ro hiệu quả. Ngân hàng nước ngoài: Bức tranh tương phản! Trong khi đó, báo cáo của NHNN chi nhánh TPHCM cũng đưa ra một bức tranh tương phản về hoạt động của các NHTM nước ngoài, ngân hàng liên doanh. So với khối ngân hàng trong nước, nhóm ngân hàng này lại hoạt động hiệu quả hơn. Cạnh tranh của những ngân hàng này bằng chất lượng dịch vụ, bằng sản phẩm dịch vụ cung cấp trọn gói cho doanh nghiệp khách hàng, tư vấn tạo mối quan hệ chặt chẽ, tín nhiệm và truyền thống; quản trị kinh doanh tốt; khai thác và sử dụng vốn hợp lý, phù hợp – báo cáo nêu. Vì vậy, ngay cả trong điều kiện khó khăn như hiện nay, nhóm ngân hàng này vẫn hoạt động ổn định, tăng trưởng bền vững. So với cuối năm 2010, 10 tháng đầu năm 2011 tổng huy động vốn của nhóm ngân hàng nước ngoài tăng 19,06%; dư nợ tín dụng tăng 6,97%, kết quả kinh doanh tăng gấp 4 lần. Đặc biệt là nợ xấu nhóm này rất thấp, tỷ lệ nợ xấu chỉ là 1,17%.
Ðề: Có bao nhiêu ngân hàng "yếu kém, nguy cơ cao"? Công khai nợ xấu của ngân hàng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa ban hành thông tư hướng dẫn công bố và cung cấp thông tin, trong đó sẽ công bố năm chỉ tiêu quan trọng của các ngân hàng thương mại theo chuẩn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). Trao đổi về vấn đề này, ông Đào Minh Tú - chánh văn phòng NHNN - cho biết: Đây là bước tiến mới, rất quan trọng của VN nhằm công khai, minh bạch hơn nữa các thông tin về tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Số lượng thông tin được công bố sẽ nhiều hơn trước đây, thậm chí một số thông tin trước đây thuộc dạng không công bố hoặc không chính thức công bố thì sắp tới cũng sẽ được công khai. Trong giai đoạn hiện nay, việc công khai này là bước đi cần thiết nhằm tăng minh bạch, củng cố niềm tin vào hệ thống ngân hàng, cũng như phát triển hệ thống ngân hàng lành mạnh, an toàn, hiệu quả. Đồng thời giúp bảo vệ tốt hơn quyền lợi của người gửi tiền, nhà đầu tư. Cụ thể NHNN sẽ công bố những thông tin gì và có theo chuẩn thế giới không, thưa ông? Theo quy định của thông tư mới, NHNN sẽ chủ động thông tin để người dân biết: tình hình diễn biến tiền tệ và ngân hàng; văn bản quy phạm pháp luật về tiền tệ, ngân hàng; chủ trương, quyết định điều hành của thống đốc NHNN về tiền tệ và ngân hàng; các thông tin về việc thành lập, mua, bán, chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, phá sản, giải thể, thu hồi giấy phép, chấp thuận mở rộng mạng lưới và xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức tín dụng. Riêng việc công bố thông tin về kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng sẽ được NHNN hướng dẫn riêng tại thông tư quy định về kiểm soát đặc biệt. Điểm quan trọng nữa là có 5/12 chỉ số cốt lõi trong bộ chỉ số lành mạnh tài chính của mỗi quốc gia theo tiêu chuẩn của IMF cũng sẽ được NHNN công bố gồm: tỉ lệ an toàn vốn tối thiểu, tỉ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, dư nợ của từng lĩnh vực trong tổng dư nợ, chỉ số ROA (lợi nhuận trên tài sản) và ROE (lợi nhuận trên vốn đầu tư) của hệ thống ngân hàng VN. Các chỉ tiêu này vốn được Ngân hàng Thế giới và các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm, mong muốn VN công khai thì nay sẽ được công bố một cách đầy đủ, chính thức và định kỳ tháng, quý, sáu tháng, năm/lần tùy theo từng chỉ số. Trong trường hợp bất thường có thể có thông báo đột xuất. Việc công bố này sẽ cho thấy rõ hơn chất lượng hoạt động của ngân hàng thương mại. Nếu các chỉ số tốt thì người dân có thông tin, nếu không tốt thì đó cũng là áp lực buộc các ngân hàng phải có biện pháp để lấy lòng tin và cạnh tranh, tiếp tục phát triển. Bao giờ thì VN có thể cung cấp được đầy đủ 12 chỉ số cốt lõi theo chuẩn của IMF? Hiện VN mới công bố 5/12 chỉ số cốt lõi, đó là bước tiếp cận ban đầu và sắp tới chắc chắn chúng ta sẽ tăng cường theo điều kiện thống kê của VN. Việc công bố phải đảm bảo các số liệu chính xác. Vì vậy, chúng ta phải làm từng bước. Các nước có trình độ phát triển cao hơn VN cũng không phải đã có thể cung cấp đầy đủ tất cả các chỉ tiêu của IMF. Một số chuyên gia cho rằng dù công bố nhưng các chỉ số thống kê của VN như nợ xấu chưa theo đúng chuẩn thế giới? Bản thân Thống đốc Nguyễn Văn Bình cũng rất quan tâm đến chất lượng thống kê, thống đốc đã chỉ đạo, yêu cầu phải điều hành trên định lượng chứ không định tính như một số thời điểm trước đây. NHNN cũng đã thành lập riêng một Vụ Dự báo thống kê tiền tệ và NHNN đã có những cải cách quan trọng về công tác thống kê. Có phản ánh hết tình hình, theo đầy đủ thông lệ quốc tế hay chưa còn phụ thuộc vào chế độ thông tin báo cáo và phương pháp thống kê hiện hành tại VN. Điều này còn có nhiều ý kiến khác nhau, nhưng chúng tôi khẳng định các thống kê trong ngành ngân hàng VN cũng như thống kê về nợ xấu đảm bảo phản ánh đúng tình hình. Quy định cụ thể thời hạn cung cấp thông tin Thông tư 35/2011 của NHNN cũng quy định cụ thể từng chỉ số, thông tin sẽ được công bố trong thời hạn bao lâu và do cơ quan nào chịu trách nhiệm. Như chỉ số lãi suất do NHNN quy định, Vụ Chính sách tiền tệ phải công bố trong vòng một ngày kể từ khi văn bản được ban hành. Tốc độ tăng trưởng và số dư tiền gửi của khách hàng tại tổ chức tín dụng; tốc độ tăng trưởng và dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế; tỉ lệ nợ xấu sẽ được Vụ Dự báo thống kê tiền tệ thông tin trong vòng 45 ngày kể từ ngày kết thúc tháng báo cáo.
Ðề: Có bao nhiêu ngân hàng "yếu kém, nguy cơ cao"? Sẽ còn nhiều ngân hàng báo lỗ trong năm nay “Một số ngân hàng những năm vừa qua đã đẩy nợ xấu ra ngoài bảng hạch toán. Nếu năm nay họ không thể thu hồi được những khoản này thì sẽ được thể hiện lên trên sổ sách và số ngân hàng sẽ báo lỗ tăng lên, nhiều ngân hàng báo lời sẽ giảm…”. TS.Nguyễn Trí Hiếu, Chuyên gia hoạt động 30 năm trong lĩnh vực tài chính ngân hàng cho biết. TS.Nguyễn Trí Hiếu (ảnh:NH). Ông đánh giá thế nào về lợi nhuận ngân hàng năm 2011? Tôi mừng vì nhiều ngân hàng làm ăn hiệu quả, kết quả kinh doanh khả quan trong khi nền kinh tế khó khăn, doanh nghiệp làm ăn lao đao. Dù dư luận có ý kiến trái chiều về lợi nhuận ngân hàng trong bối cảnh doanh nghiệp làm ăn khó khăn. Tuy nhiên, với một số ngân hàng vừa thông báo kết quả kinh doanh lỗ, nhất là lĩnh vực kinhdoanh ngoại hối? Thị trường ngoại hối là thị trường rủi ro lớn, các ngân hàng tham gia kinh doanh lĩnh vực này với chức năng hỗ trợ khách hàng khi giao dịch xuất nhập khẩu. Khi tham gia vào thị trường ngoại hối với nhiều biến động thì việc lời lỗ là hiển nhiên. Tôi không thấy đó là điều cần phải lo lắng trong lúc này. Dĩ nhiên, một ngân hàng đi vào thị trường ngoại hối với quy mô lớn với nhiều rủi ro thì cần phải xem xét. Một số ngân hàng công bố kết quả kinh doanh lỗ còn do nợ xấu. Theo ông, nguyên nhân do tín dụng thiếu chặt chẽ hay doanh nghiệp không trả nợ được? Cả hai, ngoài ra còn có thêm một nguyên nhân nữa. Nợ xấu năm 2011 là hệ lụy của nhiều năm kinh doanh về trước, chứ không phải mới phát sinh trong năm 2011. Vì trong những năm trước, ngành ngân hàng tăng trưởng rất nóng với mức trung bình từ 30 - 40%, có ngân hàng tăng trưởng tín dụng 100%, đây là tỷ lệ tăng trưởng rất nóng (ở Mỹ, ngành ngân hàng tăng trưởng từ 5 - 10% được đánh giá là quá tốt rồi). Điều đặc biệt mà tôi quan tâm là tăng trưởng tín dụng/trên tăng trưởng của GDP lên mức 6 - 7 lần. Nền kinh tế tăng trưởng 6% thì ngành ngân hàng tăng trưởng gấp 6 - 7 lần như thế. Ví dụ tăng trưởng GDP là 6%, còn tăng trưởng tín dụng lên đến 42%, mức tăng gấp 7 lần. Hệ lụy của tăng trưởng nóng đó cũng như cơ thể của một con người vậy. Một đứa trẻ tăng trưởng quá nhanh thường để lại hệ lụy về sức khỏe và ngành ngân hàng cũng không khác gì tiến trình phát triển sinh lý của con người. Khi tăng trưởng nóng như vậy thì đâu đó ngành ngân hàng chấp nhận hoặc thâu nhận những rủi ro rất lớn. Những rủi ro lớn mà ông vừa đề cập là những gì? Trong ngành ngân hàng có 3 rủi ro lớn: Rủi ro về tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro về nghiệp vụ, đặc biệt là rủi ro về tín dụng là rủi ro rất lớn trong vấn đề tăng trưởng nhanh. Trong thời gian qua, tín dụng bất động sản có lẽ là khâu tín dụng tạo ra rủi ro lớn nhất. Tín dụng bất động sản trong tất cả các nền kinh tế luôn là nguồn khai thác béo bở cho tất cả các ngân hàng. Trước cuộc khủng hoảng tài chính, các ngân hàng đua nhau đổ tín dụng vào thị trường bất động sản và các ngân hàng muốn tăng trưởng tín dụng đều nhảy ngay vào bất động sản bởi đây là ngành tăng trưởng nhanh và rất có lời, khá hấp dẫn nhưng cũng là cái bẫy khủng hoảng. Khi khủng hoảng, giá bất động sản sẽ sụt giảm rất nhanh và sụt giảm nhiều. Trường hợp một số ngân hàng báo lỗ đang phải gánh chịu những hệ quả, hệ lụy của việc tăng trưởng nóng, trong đó có tăng trưởng tín dụng bất động sản là vì thế. Nhưng cũng có ý kiến nợ xấu năm 2011 đến từ lãi suất cho vay quá cao? Tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm này. Tín dụng bất động sản chỉ là một nguyên nhân dẫn đến nợ xấu. Lãi suất cao cũng là nguyên nhân. Khi lãi suất cho vay hơn 20%/năm thì liệu có bao nhiêu doanh nghiệp Việt Nam có thể chịu đựng nổi gánh nặng tài chính lớn lao như vậy? Ngay cả những doanh nghiệp lớn cũng khó khăn khi trả những khoản vay “nặng lãi” như vậy. Từ “nặng lãi” tôi rất ít dùng cho vay trong ngân hàng, nhưng với mức lãi suất này thì tôi nghĩ rằng đây là cho vay nặng lãi. Năm 2011 nhiều doanh nghiệp đã ngừng hoạt động hoặc là bị mua lãi, sáp nhập. Nhiều doanh nghiệp mất khả năng trả lãi cho ngân hàng, gây ra tình trạng nợ xấu tăng cao. Theo dự báo của ông, mặt bằng lãi suất trong năm 2012 sẽ thế nào? Khó có thể đoán được chừng nào lãi suất sẽ giảm và giảm đến chừng nào. Mọi người cũng kỳ vọng rằng lạm phát giảm trong những tháng cuối năm 2011 và tiếp tục trong năm 2012. Với sự giảm của lạm phát thì kỳ vọng lãi suất sẽ giảm theo. Thế nhưng lãi suất vẫn còn rất cao và ngay Ngân hàng Nhà nước cũng có quan điểm rằng việc giảm lãi suất ngay trong thời điểm này là rất khó khăn. Dù mong muốn của các doanh nghiệp là lãi suất phải hạ xuống để gánh nặng chi phí nhẹ đi. Nhưng nếu nhìn ở khía cạnh này thì thấy việc giảm lãi suất là rất khó khăn. Trong những ngày trước Tết Nguyên đán, các ngân hàng đã cạnh tranh rất ráo riết để huy động vốn. Nhiều ngân hàng đứng trước bờ vực mất thanh khoản, đã chạy đôn chạy đáo đi huy động vốn và đẩy lãi suất vượt xa trần quy định. Có ngân hàng đẩy lên mức 18%, 19%/năm, thậm chí còn hơn. Dù đến thời điểm này, tình hình căng thẳng thanh khoản đã giảm, nhưng tình hình giảm lãi suất chưa giảm vì để hấp dẫn tiền gửi huy động từ nền kinh tế, nhiều ngân hàng vẫn chào mời với mức lãi suất rất cao. Vì vậy, nếu đưa lãi suất huy động xuống mức thấp hơn thì sẽ đẩy một số ngân hàng ra khỏi “sân chơi”, điều này lại trái với mục tiêu của Chính phủ là không để cho ngân hàng nào bị phá sản. Chúng ta đang đứng ở ngã ba đường, muốn lãi suất giảm nhưng thực trạng của ngành ngân hàng lại chưa cho phép thực hiện điều đó. Như vậy, năm 2012 sẽ có nhiều ngân hàng thông báo lỗ hơn? Tôi nghĩ dự đoán này có lẽ chính xác. Một số ngân hàng trong những năm vừa qua đã đẩy nợ xấu ra ngoài bảng hạch toán. Trong nhiều trường hợp, họ đã không hạch toán nợ xấu một cách đầy đủ, nhiều khoản nợ đã được điều chỉnh sang nửa đầu năm 2012. Nếu như trong năm 2012 này, họ không thể thu hồi được những khoản cho vay này thì sẽ được thể hiện lên trên sổ sách. Và lúc bây giờ, ngân hàng sẽ phải hạch toán những khoản nợ có nguy cơ mất vốn này vào sổ sách. Như vậy, dự đoán năm 2012 số ngân hàng báo lỗ tăng lên và nhiều ngân hàng báo lời ít hơn - Xin cám ơn ông!
Ðề: Có bao nhiêu ngân hàng "yếu kém, nguy cơ cao"? Ngân hàng yếu kém không được tăng trưởng tín dụng Tại chỉ thị 01/2012, Thống đốc NHNN chính thức giao chỉ tiêu tăng trưởng cho 4 nhóm ngân hàng. Trong đó, các ngân hàng thuộc nhóm 4 (nhóm hoạt động yếu kém) không được tăng trưởng trong năm nay. Hôm nay 13/2, Thống đốc Nguyễn Văn Bình đã ký ban hành chỉ thị 01/2012 CT - NHNN về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả 2012. Ngân hàng được yêu cầu công khai lãi suất (ảnh minh họa). TCTD nhóm 4 không được tăng trưởng tín dụng trong năm nay Theo chỉ thị của NHNN, các TCTD thực hiện tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ thận trọng, linh hoạt, phối hợp hài hòa với các chính sách tài khóa; Đảm bảo khả năng thanh khoản của các TCTD; kiểm soát tốc độ tăng tổn phương tiện thanh toán khoảng 14-16% và tín dụng khoảng 15-17%. Chỉ thị của NHNN cũng yêu cầu các TCTD giảm mặt bằng lãi suất ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, điều hành tỷ giá linhhoạt phù hợp với các diễn biến thị trường, cung - cầu ngoại tệ. NHNN giao chỉ tiêu tín tăng trưởng tín dụng nhóm 1 tăng trưởng tối đa 17%, nhóm 2 tăng trưởng tối đa 15%, nhóm 3 tăng trưởng tối đa 8% và nhóm 4 không được tăng trưởng tín dụng. Trước đó, NHNN thực hiện phân loại 4 nhóm tổ chức tín dụng, gồm nhóm 1 - hoạt động lành mạnh, nhóm 2 - hoạt động trung bình, nhóm 3 - hoạt động dưới trung bình và nhóm 4 - hoạt động yếu kém. Sau 6 tháng thực hiện NHNN sẽ xem xét điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng đối với các TCTD cho phù hợp với diễn biến tiền tệ, tín dụng, hoạt động ngân hàng, đảm bảo đạt được mục tiêu chính sách tiền tệ. Dư nợ cho vay lĩnh vực không ưu tiên không quá 16% Một trong những điểm chú ý của Chỉ thị là các TCTD kiểm soát tín dụng cho lĩnh vực không ưu tiên với dư nợ cho vay không quá 16% trong suốt cả năm 2012. Dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực không khuyến khích bao gồm: Dư nợ cho vay để đầu tư chứng khoán; nhu cầu vốn để phục vụ đời sống, cho vay tiêu dùng; vốn kinh doanh bất động sản… Đối với trường hợp TCTD có mức tăng trưởng tín dụng và/hoặc tỷ trọng cho vay lĩnh cực không khuyến khích vượt quá mức quy định sẽ áp dụng tỷ lệ DTBB gấp 2 lần so với tỷ lệ DTBB bằng đồng Việt Nam và các biện pháp hạn chế phạm vi hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, Chỉ thị cũng yêu cầu các TCTD niêm yết công khai các mức lãi suất huy động, cho vay phù hợp với quy định của pháp luật; Cơ cấu lại tài sản nợ và tài sản có, nâng cao quản trị doanh nghiệp…