Định hướng tương lai cho trẻ Hẳn các bậc cha mẹ đều hiểu nền giáo dục của Việt Nam còn khá nhiều bất cập, với cách học thiên về lý thuyết hơn thực hành, khiến trẻ thụ động và thiếu kỹ năng sống. Vì vậy, phần lớn cha mẹ đều muốn tìm một hướng đi khác cho con, tự cải cách cho con mình trước khi đợi sự thay đổi chung. Và điều này rất nên làm từ khi con còn nhỏ, ở lứa tuổi lớp 1 trở đi. Tuy vậy, với lứa tuổi nhỏ, cách định hướng cũng cần uyển chuyển, khôn khéo, để trẻ dễ tiếp thu, nhưng cũng không rơi vào thế bị động. Vậy, nên làm như thế nào? Phần đông cha mẹ đều hiểu chỉ nên đứng ở góc độ là chuyên viên tư vấn, hỗ trợ, phân tích cho con hiểu liệu con có khả năng bao nhiêu để theo đuổi các ngành nghề yêu thích để có thể phát triển trong tương lai. Và khuyến khích con nên theo đuổi ước mơ và dũng cảm kiên trì con đường mà con đã lựa chọn. Khi con biết được ước muốn sẽ làm ngành gì khi lớn, cha mẹ đừng quên cùng con phân tích những ưu – khuyết của con đối với ngành học mà con yêu thích, cố tạo ra cơ hội cho con trải nghiệm nghề nghiệp gần giống để từ đó, cùng con vượt qua những thử thách, khó khăn. Tuy vậy, trẻ con lứa tuổi 6 – 12 lại không phải là đối tượng cha mẹ bảo gì nghe nấy, mà chúng cần một sự trải nghiệm, nghe, nhìn, cảm nhận theo cách riêng của chúng. Cha mẹ sẽ rất đau đầu khi chỉ cho con thấy làm một bác sĩ là như thế nào, cần những kỹ năng và tố chất gì. Hoặc giả, khi xem phim, trẻ sẽ biết được làm cảnh sát, luật sư, phóng viên… là như thế nào. Nhưng trẻ con cần nhiều hơn thế, cần một sự trải nghiệm.
Ðề: Định hướng tương lai cho trẻ ! Ứng phó với những câu nói “khó nghe” của bé “Con ghét mẹ!” – Hãy tin rằng bạn không phải người mẹ duy nhất cảm thấy chạnh lòng khi nghe con nói thế. Nên làm gì với bé đây? Chị Cẩm Tú (Phương Mai, Hà Nội) đã phản ứng khá nhanh khi bé Bi, con trai 5 tuổi của chị nói ghét mẹ chỉ vì mẹ làm rơi sách truyện của cậu xuống sàn: “Được rồi, con nên tận hưởng nốt đêm nay ngủ trong nhà bố mẹ. Mai mẹ sẽ tìm cho con một người mẹ mới và con đến ở với cô ấy, không được mang theo đồ chơi”. Cách phản ứng hay hơn: Các chuyên gia đều khuyên mọi bà mẹ không nên cảm thấy tự ái hay chạnh lòng, bé không thực sự nghĩ như vậy khi nói ra điều đó, chỉ là bé đang nóng giận mà thôi. Tất nhiên không dễ dàng khi phải nghe bé nói không thích bạn hay phê phán kỹ năng làm mẹ của bạn, nhưng để bé nghĩ rằng bạn hoàn toàn vui vẻ nếu “thoát khỏi” khỏi bé, hay tệ hơn là để bé nghĩ bạn cũng ghét bé – là điều không nên. Bởi trẻ dưới 9 tuổi mới chỉ hiểu được nghĩa đen của lời nói, chưa thể nắm bắt được các yếu tố tâm lý phức tạp sau mỗi lời nói. Bạn sẽ phá hỏng lòng tin nơi bé dành cho bạn. Để giữ được bình tĩnh, hãy cố gắng tìm hiểu nguyên nhân thực sự khiến bé nói “con ghét mẹ”. Bé hay nói vậy vào thời điểm điển hình nào không? Lúc quá mệt, hay khi bé thất vọng vì một chuyện gì đó? Hãy chờ cho tới khi bé bình tĩnh trở lại rồi bạn nói: “Mẹ thấy buồn khi nghe con bảo con ghét mẹ”. Hầu hết trẻ sẽ có cảm giác hối hận khi cơn nóng giận qua đi. Thêm một điều nữa bạn nên lưu ý, cho dù là cha mẹ, bạn vẫn không phải người hoàn hảo và không cần tỏ ra hoàn hảo trước mặt con. Hãy biết nói “bố/mẹ xin lỗi” và thay đổi cách cư xử nếu thực sự thấy mình có điều chưa đúng với con. “Mẹ chẳng cho con làm gì cả!” Sẽ có lúc đứa con 10 tuổi nói với bạn rằng “mẹ không bao giờ cho con làm gì con muốn”. Cách phản ứng tốt nhất là nói với con: “Có chuyện gì à? Mẹ có cảm giác con đang buồn không chỉ vì không được sang nhà bạn Tít?”. Dù lời bạn nói có đúng hay không bé cũng muốn giãi bày với bạn, ít ra bạn đã mở cánh cửa để bé chấp nhận chia sẻ với bạn rồi. “Con muốn ngay bây giờ!” Bạn đang chuẩn bị bữa tối còn bé thì nói: “Mẹ, con muốn ăn bánh quy”. Bất kể lời bạn nói rằng con sẽ được ăn bánh quy sau khi đã dùng xong bữa tối, bé vẫn nằng nặc “con muốn ăn luôn bây giờ”. Bạn sẽ xử lý ra sao? Cách phản ứng hay nhất là nói “không” một hay hai lần, sau đó lờ đi nếu bé tiếp tục nằn nì, đánh lạc hướng bé bằng một việc khác, ví dụ như giả bộ đột nhiên nhớ ra rồi hỏi bé: “À mẹ định hỏi con mà cứ quên mất, bài “Bà ơi bà” phải múa như thế nào ấy nhỉ?”. Bé sẽ vui vẻ trình diễn ngay mà chẳng thèm đoái hoài đến bánh quy nữa đâu.
Ðề: Định hướng tương lai cho trẻ ! Cách tính chiều cao của trẻ Áp dụng công thức tính chiều cao của trẻ dưới đây, con bạn có phát triển đúng chuẩn? Chiều cao chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố: mạnh nhất là yếu tố dinh dưỡng (32%), sau đó là yếu tố di truyền (23%), vận động thể lực (20%), môi trường và ánh nắng, tình hình bệnh tật, giấc ngủ … Nếu được chăm sóc tốt thì thế hệ sau luôn có chiều cao vượt lên so vớ thế hệ trước. Các mốc phát triển chiều cao của trẻ - Giai đoạn trong bào thai: trong 9 tháng mang thai, nếu người mẹ được ăn uống tốt tăng từ 10 – 20kg thì con sẽ đạt được chiều cao 50cm lúc chào đời và nặng từ 3kg trở lên. - Giai đoạn sơ sinh đến 3 tuổi: 12 tháng đầu trẻ tăng 25cm; 2 năm tiếp theo mỗi năm trẻ cao thêm 10cm nếu được nuôi dưỡng tốt. - Giai đoạn dậy thì: bình thường con gái từ 10 – 16 tuổi và con trai từ 12 – 18 tuổi. Trong thời gian dậy thì sẽ có 1 – 2 năm chiều cao tăng vọt từ 8 – 12cm mỗi năm nếu được nuôi dưỡng tốt. Nhưng trong thực tế, chúng ta không thể biết chính xác năm đó là năm nào nên vẫn phải đảm bảo dinh dưỡng tốt cho trẻ suốt trong thời gian dậy thì để trẻ phát triển. Sau thời kỳ dậy thì, cơ thể trẻ cũng tăng chiều cao nhưng với tốc độ rất chậm, tổng cộng số tăng chiều cao của các năm sau không bằng một năm chiều cao tăng vọt của thời kỳ dậy thì. Người ta thường ước tính chiều cao của trẻ khi trưởng thành sẽ gấp đôi chiều cao lúc 2 tuổi (chẳng hạn lúc 2 tuổi trẻ cao 82cm, thì khi lớn sẽ cao 1,64m). Hoặc chiều cao lúc trưởng thành bằng chiều cao lúc 10 tuổi nhân với 1,25 (ví dụ khi 10 tuổi trẻ cao 1,4m thì lúc trưởng thành trẻ sẽ cao 1,75m). Qua đó chúng ta thấy sự chăm sóc nuôi dưỡng trong các giai đoạn mang thai, 3 năm đầu và giai đoạn dậy thì là rất quan trọng để phát triển chiều cao của trẻ. Công thức tính chiều cao của trẻ X = 75cm + 5cm x (N – 1) Trong đó: X = chiều cao hiện tại của trẻ 75 = chiều cao của trẻ lúc 1 tuổi 5 = Chiều cao tăng trung bình trong một năm N = Số tuổi của trẻ (tính theo năm) Ví dụ: Nếu con bạn 4 tuổi: X = 75 + 5(4-1) = 90 cm Như vậy, một đứa trẻ đúng 4 tuổi, phát triển bình thường sẽ có chiều cao là 90cm. Tuy nhiên sự phát triển chiều cao của trẻ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như di truyền, chế độ dinh dưỡng cũng như tình hình bệnh tật của trẻ và chế độ luyện tập cũng như môi trường sống của trẻ. Để giúp bé có được một chiều cao lý tưởng, bạn nên chú ý chế độ dinh dưỡng tốt, thực phẩm nhiều canxi, tắm nắng và năng cho trẻ vân động ngoài trời, môi trường sống của trẻ nên trong lành. Đặc biệt chú trọng vào thời điểm trong 2 năm đầu tiên và trong giai đoạn trước dậy thì. Theo Eva
Ðề: Định hướng tương lai cho trẻ ! Trẻ vận động bao nhiêu là đủ? Mùa hè là dịp trẻ có nhiều thời gian để vui chơi, giải trí. Đó cũng là cách tốt để trẻ có bạn và học được các kỹ năng vận động cũng như quan hệ xã hội. Tuy nhiên, cách vui chơi của trẻ sẽ tuỳ thuộc nhiều vào định hướng của gia đình. Hoạt động thể chất đều đặn mỗi ngày không chỉ là niềm vui thích mà còn có lợi cho sức khoẻ, để trẻ phát triển và tăng trưởng Không nhất thiết liên tục Trẻ nên vận động tối thiểu 60 phút mỗi ngày. Tuy nhiên, nếu trẻ hoạt động nhiều hơn sẽ tốt hơn, có thể lên đến vài giờ mỗi ngày với sự kết hợp hoạt động cường độ vừa phải và cường độ mạnh phù hợp lứa tuổi, giới, các giai đoạn phát triển thể chất và vận động. Có thể không vận động liên tục 60 phút mỗi ngày mà chia thành các đợt vận động 10, 15, 20 hoặc 30 phút, kết hợp giữa cường độ vừa và mạnh. Bất cứ hoạt động nào có tiêu hao năng lượng cũng đều bổ ích cho trẻ. Trẻ nhũ nhi và trẻ mới chập chững đi cũng cần được tạo nhiều cơ hội trong ngày để vận động. Trong một khoảng không gian an toàn nên cho trẻ nằm sấp, ngửa, nghiêng, lăn, bò và trườn. Cố gắng giới hạn thời gian trẻ không hoạt động và khuyến khích bản năng bẩm sinh của trẻ trong vận động. Bên cạnh hoạt động thể chất, trẻ cần được dinh dưỡng đầy đủ để tăng trưởng và phát triển tốt. Phải phù hợp sở thích của trẻ Tốt nhất là có sự kết hợp giữa hoạt động mức độ vừa phải và mức độ mạnh nhưng phải tuỳ theo khả năng mỗi trẻ. Nếu cường độ vận động tối đa theo sức của trẻ là 10 thì mức độ vừa là khoảng 5 – 6. Khi đó, tim trẻ sẽ đập nhanh hơn, thở nhanh hơn bình thường. Một hoạt động thể chất có cường độ vừa phải là các hoạt động vừa sức như đi bộ nhanh hoặc có thể là các loại vận động toàn bộ cơ thể như đi xe đạp. Hoạt động có cường độ mạnh (nghĩa là ở mức 7-8) sẽ làm tim trẻ đập nhanh hơn nữa, thở dồn dập hơn nữa (thở hổn hển) như đá banh, bóng rổ, chạy, bơi lội, hoặc múa balê. Quan trọng nhất, trẻ cần được tạo cơ hội để tham gia những hoạt động đa dạng, vui, phù hợp sở thích, kỹ năng và khả năng. Sự đa dạng trong vận động sẽ có lợi cho sức khoẻ, giúp trẻ có kinh nghiệm và sự thử thách từ các trò chơi (phản xạ nhanh, lanh trí, hưng phấn). Có thể cho tập ba loại hoạt động sau: Aerobic: vận động kết hợp thở (tối thiểu 60 phút/ngày) bao gồm cường độ trung bình (đi bộ nhanh, tập thể dục nhịp điệu vừa phải, đạp xe đạp, trò chơi ném và bắt bóng) hoặc mạnh (chạy bộ, rượt đuổi, đá bóng, bơi, tennis, thể dục nhịp điệu động tác mạnh). Làm mạnh khối cơ: tập thể hình (hít đất, kéo co, trèo cây, thụt dầu…) tối thiểu ba ngày/tuần. Làm mạnh khối xương: chạy, nhảy, bóng rổ, bóng chuyền, nhảy bao bố, yoga… tối thiểu ba ngày/tuần. Trẻ nhỏ có thể tập đá (tư thế nằm ngửa), giấu đồ vật sau lưng cho trẻ tìm, khuyến khích trẻ trườn hoặc bò đến bắt lấy đồ vật, đổ nước (cát) từ ly này sang ly khác, đi nhón chân, chạy bước nhỏ, đi thăng bằng, nhảy qua chướng ngại vật thấp… Làm gì với trẻ ít vận động? Trẻ thừa cân, béo phì thường ít vận động do lười hoặc do mặc cảm. Cần khuyến khích trẻ vận động để giảm cân, linh hoạt và tự tin hơn. Có thể giảm thời gian hoạt động tĩnh của trẻ (xem tivi, chơi game…) và thay vào đó cha mẹ nói chuyện với trẻ để tìm trò chơi mà cha mẹ có thể cùng tham gia. Nên chọn các trò chơi thú vị với trẻ (tuỳ lứa tuổi). Nếu trẻ chỉ mới bắt đầu vận động thì nên bắt đầu với những hoạt động có cường độ vừa phải khoảng 30 phút mỗi ngày và tăng dần lên. Khuyến khích trẻ đi bộ, đi xe đạp đến trường (nếu an toàn). Chuẩn bị sẵn các môn thể thao thay thế khi trẻ đã chán môn thể thao cũ. Tác động đến trường học của trẻ để tăng cơ hội cho trẻ được hoạt động thể chất. Kết hợp đi bộ và trò chuyện (có thể tập đánh vần, làm toán nhân hoặc kể chuyện trong lúc đi bộ…) Tặng quà, đồ chơi có tính thúc đẩy vận động thể chất như banh, vợt, dây để nhảy, patin hoặc xe đạp. Theo TS.BS Trần Thị Minh Hạnh Sài Gòn tiếp thị
Ðề: Định hướng tương lai cho trẻ ! Những cách giúp phát triển não bé Có bao giờ bạn nhìn một đứa trẻ rồi tự hỏi xem bé đang suy nghĩ gì không? Thật ra bé suy nghĩ nhiều hơn chúng ta tưởng. Theo một nghiên cứu mới nhất, não bộ của bé thậm chí đã bắt đầu hoạt động ngay từ khi bé còn trong bụng mẹ. Khi được sinh ra, não bé có khoảng 100 triệu nơ ron thần kinh. Và ngay sau đó, giữa các tế bào não này có một sự liên kết bao xung quanh các khớp thần kinh và các khớp thần kinh này sẽ kích thích việc truyền nhận tín hiệu giữa các tế bào não. Hệ thống các nơ-ron và các khớp thần kinh giúp điều khiển các chức năng trong cơ thể bé như là khả năng nhìn được, nghe được và vận động. Ở tuổi lên ba, não bộ của bé đã có khoảng 1000 tỷ khớp thần kinh gấp 2 lần so với một người lớn. Những nếu não bé không được kích thích ngay từ khi mới sinh ra thì những khớp thần kinh này sẽ không thể phát triển, làm giảm khả năng học hỏi và tăng trưởng của bé đi rất nhiều. Điều này có ý nghĩa gì với các bậc cha mẹ? Theo cô Angie Dorell, giám đốc chương trình giảng dạy tại Học viện La Petit (một trường mầm non lớn thứ 2 tại Mỹ) phát biểu: “Về cơ bản, nghiên cứu này nhằm khẳng định tầm quan trọng của những việc mà cha mẹ nên làm hằng ngày- như là đọc sách cho bé nghe, ôm ấp bé và trò chuyện thủ thỉ với bé”. Cô ấy cũng nói rằng, 5 việc mà các bậc cha mẹ nên thực hành mỗi ngày này sẽ đảm bảo cho việc phát triển trí não bé: 1. Bé cần được ôm ấp, yêu thương và lắng nghe: Nghiên cứu cho thấy rằng, nếu bé được chăm sóc tốt: được vuốt ve, nựng nịu, được đu đưa lắc lư, được trò chuyện và được cha mẹ mỉm cười thường xuyên thì khi lớn lên bé sẽ có khả năng vượt qua khó khăn dễ hơn những bé không được cha mẹ âu yếm. Điều này cũng kích thích khả năng học hỏi, thể hiện bản thân của bé nhiều hơn những bé khác. 2. Bé cần được trò chuyện, thích được cha mẹ đọc sách báo hoặc hát cho nghe: Giao tiếp với bé sẽ là nền tảng vững chắc cho việc học hỏi của bé sau này. Trò chuyện và hát cho bé nghe mỗi ngày. Đọc truyện cho bé nghe và hướng bé vào những câu hỏi- khuyến khích bé trả lời, cho bé xem và chỉ cho bé những tranh ảnh nhiều màu sắc trong truyện hoặc lặp đi lặp lại những giai điệu dễ nhớ. 3. Khuyến khích bé khám phá xung quanh và chơi trò chơi: Chúng ta thường đặt nặng những gì bé cần phải học, thật ra trong giai đoạn này, bé có thể học thông qua những trò chơi. Lắp ráp, xếp hình, hoặc các hoạt động thiên về nghệ thuật… sẽ kích thích khả năng khám phá của bé, tăng sự tự tin, khả năng dùng từ ngữ của bé cũng như kỹ năng giải quyết vấn đề. Hãy để bé tự do lựa chọn những trò chơi này. Nếu bé chưa thích, hãy nhẫn nại với bé và tốt hơn hết chúng ta nên để bé tự khám phá những trò chơi này. 4. Nên dùng đến kỷ luật khi cần dạy bé điều gì: Dùng kỷ luật khi bé có những hành động khác thường. Các bậc cha mẹ nên đặt ra các giới hạn mà bé được phép thay vì phải phạt bé. Chẳng hạn, hãy cho bé biết cụ thể những hành động nào chấp nhận được và truyền đi những thông điệp mang tính tích cực đối với bé dạng như: “Nào con, con có thể đứng ở đây thôi!” thay vì hét toáng lên “Leo xuống khỏi cái ghế đó ngay!”. 5. Lựa chọn trường mầm non có chất lượng tốt: Nghiên cứu cho thấy, nếu cho bé đi học sớm và tại một trường mầm non có chất lượng thì sẽ thúc đẩy việc học hỏi của bé cũng như giúp bé phát triển những kỹ năng xã hội tốt hơn.