Động lực nhà giáo và những câu hỏi treo

Thảo luận trong 'Các vấn đề giáo dục khác' bởi Tô-Mô-Ê, 12/9/2009.

  1. Tô-Mô-Ê

    Tô-Mô-Ê Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    23/3/2009
    Bài viết:
    106
    Đã được thích:
    77
    Điểm thành tích:
    28
    Động lực của nhà giáo là gì, các yếu tố nào tác động tới động lực, làm thế nào để nâng cao động lực nhà giáo, chúng ta chưa bao giờ quan tâm nghiên cứu đầy đủ và cặn kẽ để có câu trả lời thoả đáng cho việc hoàn thiện chính sách.

    Năm học mới 2009- 2010 đã bắt đầu. Cả xã hội lại tiếp tục quan tâm tới giáo dục với tất cả lo lắng, mong đợi và… hy vọng.

    Nhân dịp này, TuanVietNam giới thiệu bài viết hai kỳ của tác giả Phạm Đỗ Nhật Tiến về những vấn đề “treo” của đội ngũ giáo viên, yếu tố mang tính quyết định nhất tới chất lượng giáo dục.

    Cách đây 12 năm, tại Hội nghị Trung ương 2 (khoá VIII), một trong bốn nhóm giải pháp chủ yếu được vạch ra để phát triển GD trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước: “Xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo động lực cho người dạy, người học”.

    Trong thực tế, các chính sách đối với nhà giáo đã được bổ sung với định hướng bảo đảm các điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để nhà giáo thực hiện được vai trò và trách nhiệm của mình. Có điều sự tác động về chính sách đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo chưa được như mong muốn.

    Nguyên nhân của vấn đề thường được giải thích là chính sách chưa tạo được động lực đủ mạnh cho nhà giáo.

    Tuy nhiên, động lực của nhà giáo là gì, các yếu tố nào tác động tới động lực, làm thế nào để nâng cao động lực nhà giáo, thì dường như các nhà làm chính sách chưa bao giờ quan tâm nghiên cứu đầy đủ và cặn kẽ để có câu trả lời thoả đáng cho việc hoàn thiện các chế độ, chính sách. Trong lĩnh vực này, cũng như trong nhiều lĩnh vực khác của GD, tư duy cảm tính còn nặng và vì thế các biện pháp đề ra thường là tình thế, thiếu đồng bộ và không bền vững.

    Ảnh tư liệu

    Động lực nhà giáo trong mối quan hệ với nhu cầu

    Động lực nhà giáo thường được hiểu là cái tạo nên sức mạnh bên trong kích thích nhà giáo nỗ lực thực hiện nhiệm vụ được giao, nâng cao chất lượng dạy học.

    Một nghiên cứu mới đây về động lực nhà giáo ở Châu Á và Tiểu Sahara cho biết: “Các nhà tâm lý học về công việc thường cho rằng bản thân tiền lương không có tác dụng nâng cao động lực. Tuy nhiên, xem ra động lực tiền nong chiếm vị trí chủ đạo đối với giáo viên các nước thu nhập thấp, nơi mà tiền lương cùng các lợi ích vật chất khác không đáp ứng nổi nhu cầu sinh tồn của cá nhân và gia đình họ. Chỉ khi các nhu cầu cơ bản đó được đáp ứng mới có thể nói đến các như cầu bậc cao, tức là các nhu cầu đem lại sự thoả mãn thực sự trong công việc”.

    Kết luận trên có liên quan đến nghiên cứu của Maslow về động lực con người trong mối quan hệ với nhu cầu. Trên cơ sở nghiên cứu điển hình một số nhân vật nổi tiểng và các sinh viên giỏi, Maslow khái quát hoá nhu cầu con người trên một thang 5 bậc, từ thấp đến cao.

    Bậc thấp nhất là các nhu cầu sinh lý, như ăn, mặc, ở, ngủ, bài tiết, tình dục. Bậc tiếp theo là các nhu cầu an toàn đối với cá nhân, sức khoẻ, việc làm, gia đình, tài sản. Tiếp nữa là các nhu cầu tình yêu trong quan hệ gia đình, bạn bè, họ hàng. Cao hơn là các nhu cầu quý trọng, bao gồm sự tự trọng, lòng tôn trọng người khác, sự được người khác tôn trọng, niềm tin, sự hoàn tất trong công việc. Cao nhất là các nhu cầu tự hoàn thiện, bao gồm nhu cầu sáng tạo, giải quyết vấn đề, làm gương…

    Maslow cho rằng chỉ khi nhu cầu bậc dưới được đáp ứng thì người ta mới có động lực để vươn tới nhu cầu bậc cao tiếp theo. Vì thế một số nhà nghiên cứu cho rằng, nếu coi nhà giáo như người làm công ăn lương thì các yếu tố tác động tới động lực nhà giáo có sự khác biệt tuỳ theo trình độ phát triển của quốc gia.

    A. Maslow (1908-1970), GS, nhà tâm lý học người Mỹ, công bố lý thuyết về nhu cầu con người năm 1940. Lý thuyết này được sử dụng trong các nghiên cứu về quản lý dưới tên gọi Lý thuyết về thứ bậc nhu cầu của Maslow.

    F. Herzberg (1923-2000), GS, nhà tâm lý học người Mỹ, công bố lý thuyết về sự thỏa mãn của con người trong công việc năm 1950. Lý thuyết này hiện được sử dụng rộng rãi trong quản lý doanh nghiệp, dưới tên gọi Lý thuyết hai yếu tố của Herzberg.
    Ở các nước phát triển, các nhu cầu về sinh lý và an toàn đã được giải quyết về cơ bản, vì thế các yếu tố chính tác động tới động lực nhà giáo là việc đáp ứng các nhu cầu bậc cao. Nhưng ở các nước đang phát triển, tình hình không như vậy; các yếu tố chính tác động tới động lực lại là các yếu tố có liên quan đến việc đáp ứng các nhu cầu sinh lý và nhu cầu an toàn của nhà giáo. Vì thế cần ưu tiên giải quyết thật tốt các yếu tố cơ bản là tiền lương và các loại phụ cấp, nhà ở cùng các điều kiện về điện nước, khối lượng công việc cùng các điều kiện làm việc, sự an toàn đối với cá nhân và gia đình nhà giáo.

    Động lực nhà giáo và đặc trưng nghề nghiệp

    Nhà giáo không chỉ là người làm công ăn lương, mà là người chịu trách nhiệm GD thế hệ tương lai cho đất nước. Đó là sứ mệnh của họ và rất nhiều người khi chọn con đường dạy học vì họ yêu lớp trẻ, yêu sự tương tác hàng ngày với những người đang khao khát sự hiểu biết. Vì vậy, nghề dạy học có những đặc trưng riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về mối quan hệ giữa động lực nhà giáo với các đặc trưng nghề nghiệp còn rất ít. Vì thế, khi xét tới mối quan hệ này, người ta vẫn thường dựa vào thuyết hai yếu tố của Herzberg.

    Trên cơ sở phỏng vấn và thu thập số liệu từ những người làm việc trong doanh nghiệp, Herzberg cho rằng có hai nhóm yếu tố khác nhau tác động tới động lực con người trong việc làm. Nhóm thứ nhất, gọi là nhóm các yếu tố duy trì, liên quan chủ yếu đến môi trường làm việc, cụ thể là tiền lương, điều kiện làm việc, an toàn lao động, chất lượng giám sát, công tác quản lý, quan hệ nội bộ. Nhóm thứ hai, gọi là nhóm các yếu tố tăng trưởng, liên quan đến bản chất công việc, sự hoàn thành nhiệm vụ, việc được công nhận, trách nhiệm được giao, sự thăng tiến cá nhân.

    Herzberg cho rằng nhóm các yếu tố duy trì có tác động chủ yếu tới sự hài lòng và không hài lòng trong công việc, còn nhóm các yếu tố tăng trưởng mới thực sự tác động tới động lực người lao động. Như vậy, nếu nhà quản lý muốn khắc phục tình trạng không hài lòng thì cần tập trung vào nhóm các yếu tố duy trì; còn nếu muốn tạo động lực thì cần tập trung vào nhóm các yếu tố tăng trưởng. Trong thực tế, nhà quản lý phải tập trung vào cả hai nhóm yếu tố.

    Ảnh: Hoa học trò

    Trong GD, một số nghiên cứu chỉ ra rằng, việc áp dụng thuyết hai yếu tố của Herzberg cần được xem xét thận trọng. Chẳng hạn, đã có công trình nghiên cứu cho thấy đối với giáo viên phổ thông, cả hai nhóm yếu tố đều có tác động quan trọng tới động lực, trong đó riêng yếu tố tiền lương được nhiều nhà giáo coi là động lực số một. Tuy nhiên, để làm rõ động lực nhà giáo, người ta thường sử dụng thuyết Herzberg phối hợp với thuyết của Maslow trong quan hệ bổ sung cho nhau.

    Như thế, ngoài các yếu tố tác động đến động lực liên quan đến các nhu cầu về tâm sinh lý và an toàn của nhà giáo như đã trình bày ở trên, cần chú ý đến các yếu tố liên quan đến đặc trưng của nghề dạy học. Các yếu tố này bao gồm bản chất cao quý của việc dạy học, kết quả học tập của học sinh sinh viên, sự phát triển nghề, công tác quản lý, sự hỗ trợ của cộng đồng và xã hội, tiếng nói của nhà giáo.

    Từ những điều trình bày trên, hiển nhiên đối với nước ta cần tập trung nghiên cứu, giải quyết một loạt yếu tố đang tác động tiêu cực tới động lực nhà giáo. Trước mắt, xin nêu một số vấn đề “treo”, cần được giải đáp thoả đáng, để làm cơ sở cho việc xây dựng các chính sách thực sự có hiệu lực và hiệu quả trong việc tạo động lực người dạy.

    Tiền lương nhà giáo

    Chính sách khuyến khích và cơ chế ưu đãi của nhà nước đối với nhà giáo đã góp phần đáng kể trong việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của họ, nhưng câu hỏi liệu nhà giáo đã đủ sống để yên tâm với nghề chưa vẫn đang là một dấu hỏi(?) lớn…

    Một số nhà hoạch định chính sách cho rằng lương giáo viên hiện đã vào loại cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp. Trái lại, nhiều ý kiến giáo giới và các nhà khoa học cho rằng nhà giáo vẫn chưa thoát khỏi nỗi lo cơm, áo, gạo, tiền. Dù sao, mọi ý kiến hiện nay về lương nhà giáo đều nặng về cảm tính, chưa có điều tra khảo sát một cách khoa học.

    Thường thì có một ngưỡng về thu nhập mà vượt qua đó thì nhà giáo có được động lực để hướng tới các nhu cầu bậc cao. Chẳng hạn, một khuyến cáo của UNESCO cho rằng ở các nước đang phát triển, cần đảm bảo tiền lương trung bình của giáo viên phổ thông vào khoảng 3,5 lần GDP bình quân đầu người.

    Nghĩa là, nếu GDP bình quân đầu người của nước ta hiện nay là 1.000USD thì lương trung bình của giáo viên phổ thông phải là 3.500USD/năm, tức là khoảng 300 USD/tháng. Vấn đề cơ bản là phải có điều tra để có câu trả lời xác thực. Một nghiên cứu mới đây ở t/p Hồ Chí Minh đi tới kết luận là 9/10 công chức không sống được bằng lương. Ngành GD cũng cần có nghiên cứu cụ thể về đời sống nhà giáo trong quan hệ với thu nhập để có cơ sở xác đáng cho việc đề xuất về tiền lương và phụ cấp.

    (Còn nữa)


    Phạm Đỗ Nhật Tiến

    http://tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay//7904/index.aspx
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi Tô-Mô-Ê
    Đang tải...


  2. Tô-Mô-Ê

    Tô-Mô-Ê Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    23/3/2009
    Bài viết:
    106
    Đã được thích:
    77
    Điểm thành tích:
    28
    Dưới con mắt của nhiều cấp chính quyền, nhà giáo là đối tượng dễ “bắt nạt” nhất. Dưới con mắt của nhiều bậc phụ huynh, hình ảnh cao quý của nhà giáo cũng đang nhạt nhoà. Dưới con mắt của một bộ phận công chúng, nhà giáo là nguyên nhân làm GD sa sút.

    Vị thế nhà giáo trong nền kinh tế thị trường

    Xã hội ta có truyền thống tôn sư trọng đạo. Thậm chí, khó mà tìm thấy luật giáo dục nước nào trong đó có quy định như Luật GD nước ta: “Nhà nước có chính sách giữ gìn và phát huy truyền thống quý trọng nhà giáo, tôn vinh nghề dạy học”.

    Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong quá trình chuyển đổi của đất nước, khoảng cách giữa vị thế nhà giáo trong luật với vị thế nhà giáo trong đời sống đang có xu thế gia tăng. Dưới con mắt của nhiều cấp chính quyền, nhà giáo là đối tượng dễ “bắt nạt” nhất. Dưới con mắt của nhiều bậc phụ huynh, hình ảnh cao quý của nhà giáo cũng đang nhạt nhoà. Dưới con mắt của một bộ phận công chúng, nhà giáo là nguyên nhân làm GD sa sút.

    Nhà giáo cảm nhận được điều này; trên hết là một cảm giác nhức nhối về sự không an toàn đối với thân thể, đối với danh dự, đối với nghề. Vì thế, cái động lực gắn liền với bản chất cao quý của nghề cũng đang bị sứt mẻ.

    Dĩ nhiên, sự chao đảo về vị thế nhà giáo có nguyên nhân từ hành vi biến chất của một số ít nhà giáo, dẫn đến hiện tượng con sâu làm rầu nồi canh. Tuy nhiên, nguyên nhân cốt lõi là từ những đảo lộn giá trị do tác động mặt trái của nền kinh tế thị trường.

    Định hướng XHCN chỉ có tác dụng chủ yếu ở tầm vĩ mô để đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Còn ở cấp độ cá nhân, nhà giáo bị nhào nặn trong một guồng máy lạnh lùng, trong đó đồng tiền đang leo tới vị trí cao nhất trên thang giá trị.

    Khi mà lý tưởng cống hiến đang nhường chỗ cho lý tưởng làm giầu thì nhà giáo không dễ gì bấu víu vào cái động lực truyền thống xem ra đã lỗi thời. Vì thế, rất cần có nghiên cứu sâu về vị thế thực của nhà giáo hiện nay để có chính sách phù hợp nhằm hiện thực hoá điều mà Luật GD đã long trọng tuyên bố.

    Cơ chế cạnh tranh và động lực nhà giáo.

    Nước ta đã là thành viên của WTO. Chúng ta đã ký cam kết về GATS trong GD, chấp nhận mở cửa GD cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, một “thị trường GD”, dù còn nhỏ bé, đã hình thành. Cơ chế cạnh tranh cũng đã được chính thức đưa vào trong hoạt động GD.

    Một trong những quan điểm chỉ đạo trong dự thảo Chiến lược GD là: “Phát triển dịch vụ GD và tăng cường yếu tố cạnh tranh trong hệ thống GD là một trong những động lực phát triển GD”. Sự cạnh tranh ở đây bao gồm cạnh tranh giữa các cơ sở GD và giữa các cá nhân tham gia GD. Đối với nhà giáo, điều đó có nghĩa cụ thể là một mặt, chế độ hợp đồng sẽ thay thế dần chế độ biên chế trong tuyển dụng và sử dụng; mặt khác nhà giáo sẽ được trả lương theo kết quả giảng dạy.

    Các giải pháp trên đã được áp dụng ở một số nước như Anh, Úc, Mỹ, Niu Dilân, Thuỵ Điển, Chilê, Nam Phi, khoảng hai thập kỷ nay, khi các nước này tiến hành cải cách GD theo hướng thị trường hoá. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tranh cãi về cái được và cái mất của các giải pháp này.

    Một số nghiên cứu khoa học cho rằng các giải pháp này chỉ có tác dụng nhất thời, ngắn hạn và không bền vững. Hậu quả lâu dài của nó là cạnh tranh làm tinh thần và đạo đức nhà giáo sa sút, chi phí quản lý tăng, trong khi đó không có bằng chứng là chất lượng GD được nâng cao.

    Nhà giáo khác với doanh nhân. Doanh nhân, trên con đường săn tìm lợi nhuận, chấp nhận cạnh tranh như một động lực. Còn nhà giáo khi đến với nghề dạy học, họ đến với giới trẻ bằng tình yêu nghề và muốn chọn con đường ổn định để sống, làm việc và cống hiến. Cạnh tranh tạo cho họ áp lực, chứ không phải động lực.

    Áp lực này bên cạnh mặt tích cực là buộc nhà giáo phải không ngừng cố gắng, lại có mặt phản tác dụng là làm thui chột dần cái động lực tinh thần rất quan trọng là tình yêu đối với nghề dạy học.

    Tiếng nói của nhà giáo

    GD nước ta đang trong quá trình dân chủ hoá. Nhà trường và nhà giáo có quyền và có nghĩa vụ tham gia nhiều hơn vào việc xây dựng chính sách GD. Đây là bước tiến đáng kể so với cung cách quản lý GD tập trung, quan liêu, bao cấp trước đây.

    Tuy nhiên, trong rất nhiều vấn đề liên quan thiết thân đến nhà giáo như tiền lương, tiền thưởng, chương trình GD, phương pháp dạy học, sách giáo khoa, công tác đào tạo-bồi dưỡng giáo viên, quyền tự chủ trường học, chuẩn nghề nghiệp v.v…nhà giáo thường cảm thấy mình là người được hỏi cuối cùng khi mọi sự đã gần như an bài.

    Thậm chí, ở nhiều nơi, việc hỏi ý kiến nhà giáo chỉ là chiếu lệ, mang tính hình thức. Nhà giáo cũng chưa thực sự mặn mà và yên tâm trong việc đưa ra các ý kiến phản biện; tâm lý thường thấy là sự e ngại, có nói cũng chẳng ai nghe, còn nói thẳng thì biết đâu lại “vạ miệng”(!).

    Ngày nay, trong việc xây dựng chính sách GD ở nhiều nước trên thế giới, đang có sự thay đổi quan trọng về cách tiếp cận. Đó là cách tiếp cận trong đó quan điểm, năng lực và nhu cầu của nhà giáo phải được đặt ở trung tâm của quá trình hoạch định, thực hiện và đánh giá chính sách.

    Đó là vì nhà giáo chính là người thực thi chính sách, chỉ khi họ có tiếng nói đầy đủ, họ mới có động lực cần thiết để đưa chính sách GD đến thành công. Vì thế, việc tạo điều kiện và đảm bảo nhà giáo được nói và được lắng nghe là một yêu cầu đặc biệt quan trọng để khơi dạy động lực cho nhà giáo nước ta.

    Phạm Đỗ Nhật Tiến
    http://tuanvietnam.net/vn/sukiennonghomnay/7926/index.aspx
     

Chia sẻ trang này