Em lang thang tìm hiểu về KCN cho da mặt thì tìm đc bài bác này, khá hữu ích, chia sẻ các mẹ khi chọn kcn, ko phải cứ chọn bừa là đc, tác hại khi dùng kcn cho body lên mặt, mặt là vùng da nhạy cảm nên có sự lựa chọn kĩ càng(u) MỸ PHẨM và DA: Kem chống nắng. DS Trần Việt Hưng. Tia nắng mặt trời được xem là có lợi cho sức khỏe nhưng cũng có thể gây những tác hại không mong muốn trên da như gây cho da bị chóng lão hóa và xa hơn nữa gây ung thư da. Những sản phẩm dùng để chống nắng (kem, thuốc thoa=lotion, thuôc xịt=spray..) đều được xem như thuốc bán tự do, không cần toa bác sĩ (OTC) tại Hoa Kỳ, (khác với kem dưỡng da, kem xóa vết nhăn là những mỹ phẩm). Do đó đối với kem chống nắng, nhãn hiệu, cách sử dụng, thành phần hóa chất...đều phải viết theo luật định bởi FDC. Sản phẩm để thoa chống nắng đầu tiên được nhà hóa học Đức, Frank Greiter 'phát minh' vào năm 1946 dưới tên 'Gletschter Crème' (Crème glacier)..F. Greiter cũng là người đầu tiên đưa ra khái niệm về khả năng chống nắng cùng ký hiệu SPF (1962) để đo mức chống nắng. Tại Hoa Kỳ, Dược sĩ Benjamin Green đã đưa một sản phẩm chống nắng làm bằng vaseline dưới tên Red Vet Pet, không mấy hiệu nghiệm từ 1944... nhưng sau đó Công ty Coppertone đã mua lại bản quyền để tạo ra một sản phẩm khác bán rất chạy trong thập niên 50 là Copperone girl và Bain de soleil.. Bức xạ (Tia) Cực tím (Ultraviolet=UV radiation) Tia nắng mặt trời gồm 45 % là những tia cực tím UV năng lượng cao, 5 % là những tia thấy được bằng mắt thường và 50 % là những tia hồng ngoại (infrared) năng lượng thấp. Vùng cực tim UV là vùng có độ dài sóng từ 100-400 nm được chia thành 3 loại : Tia UVA (315-400 nm), độ sóng dài Tia UVB (280-315 nm), sóng trung bình Tia UVC (100-280 nm), sóng ngắn Lớp ozone trong khí quyển đã hấp thu tất cả UVC, và 95 % UVB. Tuy nhiên UVA không bị hấp thu và UVA chiếm đến 95 % lượng bức xạ mặt trời đến với chúng ta. UVA còn được chia thành UVA I (340-400 nm) và UVA II (320-340nm). Lợi và hại của bức xạ Cực tim : Tia UV có một số lợi ích cho sức khỏe, rõ rệt nhất là trong việc chuyển biến Vitamin D. Dưới bức xạ của tia UVA (trong khoảng 290-300 nm), dạng sơ khởi (provitamin) của vitamin D3 (7-dehydrocholesterol) được chuyển nhanh chóng thành tiền-vitamin (previtamin) D3, để chất này sẽ chuyển biến từ từ dưới tác động của nhiệt thành Vitamin D3 cùng với những chất không hoạt tinh sinh học lumisterol và tacalcitol. Chỉ cần một thời gian rất ngắn khoảng 10 phút để tay và mặt phơi trực tiếp dưới nắng là đã có đủ lượng vitamin D cần thiết/ ngày Chịu bức xạ UV quá mức sẽ làm tăng sự sản xuất các chất lumisterol và tacalcitol, những chất này sẽ được biến đổi trở lại thành 'tiền-vitamin' D3. Vitamin D2 (ergocalciferol) cũng được tổng hợp bằng phương pháp tương tự từ 'tiền-vitamin' D2 (ergoste rol). Phơi nắng quá mức không làm tăng sự sản xuất thêm các vitamin D nhưng lại gây những tổn hại của lớp mô tế bào dermis (Xem bài Kem dưỡng da) qua hai cơ chế phản ứng như sau : Bức xạ UV được các chromophore (một nhóm phân tử có khả năng hấp thu ánh sáng một cách chọn lọc) trong tế bào hấp thu trực tiếp gây ra những phản ứng sinh hóa tác hại. UV cũng gây ra tình trạng mẫn cảm với ánh sáng, UV bị hấp thu bởi những phần tử gây mẫn cảm (sensitizers), những phần tử này khi bị kích ứng sẽ trở thành bị khởi động điện tử đưa đến những phản ứng hóa học tạo ra những ROS (reactive oxygen species). ROS gây những tác hại do oxyd-hóa cho DNA, protein, acid béo và saccharides của cơ thể đưa đến những rối loạn trong sự biến dưỡng của tế bào, những thay đổi về cấu trúc tế bào. ROS cũng ngăn trở các tiến trình sinh học, làm thay đổi các sự phân cắt, sinh sản và cả tiến trình apoptosis (tế bào mã hóa để tự diệt) của tế bào da. Các tác hại này gây ra đầu tiên là sự phỏng da do nắng : da trở nên đỏ, đau và rát khi bị chạm phải. Sự phỏng nắng thường xẩy ra sau khi phơi nắng vài giờ và vết phỏng cần một thời gian, có khi từ vài ngày đến vài tuần để trở lại bình thường. Chịu bức xạ UV quá mức còn gây cho da lão hóa nhanh hơn, gây hư hại các elastin= mô sợi đàn hồi của da ( solar elasto sis), gây những vết lở tiền ung thư dưới da (actinic keratose) và ung thư da loại carcinoma. Lão hóa của da do bức xạ : Lão hóa do bức xạ (photoaging) còn được gọi dưới tên 'khoa học' hơn dermatoheliosis là một nhóm các tác hại gây ra do tia UV, tạo sự thay đổi hư hại cho lớp tế bào da ngoài cùng của biểu bì (epidermis). Điều nguy hiểm là những thay đổi này không xuất hiện ngay, nhưng tiềm ẩn và kéo dài có khi hàng chục năm khi tiếp tục chịu tác động của tia nắng, khiến người liên hệ không ngờ và cứ nghĩ là mình vẫn an toàn. Mức độ lão hóa da thay đổi tùy theo màu da : người da trắng dễ bị ảnh hưởng hơn người da màu.. Những thay đổi của lớp epidermis do lão hóa bởi tia nắng có thể gồm: da có vết nhăn, trở thành nhám, nhão, khô, có vết như bị bầm, có vết của những tĩnh mạch (telangiectasias). Tại một số vùng nơi da có nhiều sắc tố, xuất hiện những đốm hay vệt xậm màu thường gọi là vết nám, vết đòi mồi (age spots, liver spots) hay chuyên môn hơn solar lentigines. Tại những vùng da chịu tác dụng của tia nắng cũng có thể có những đám da bị mất sắc tố, trông như những vết trắng nhỏ giống những vết sẹo đã lành. Nhiều người 'không chịu' chấp nhận là những biểu hiện lão hóa của da là kết quả của những thời gian phơi nắng không cần thiết khi còn trẻ. Các bác sĩ thường chứng minh bằng cách so sánh trạng thái của da nơi cánh tay và mặt với da của vùng mông, vì trên nguyên tắc tất cả mọi vùng da của cơ thể đều bị lão hóa dần dần như nhau..và sự thay đổi của da nơi vùng chịu tác dộng của ánh nắng khác hẳn với những vùng được quần áo che kín.. Tác hại của tia nắng trên các elastin (xem bài Kem xóa vết nhăn) hay solar elastosis cũng là một dạng thức của tác hại tia nằng trên da. Danh từ này thường được dùng để gọi những tác hại vào lớp mô dermis nằm dưới lớp epidermis. Lớp dermis có những sợi collagen (tạo sức chịu đựng) và elastin (tạo sự đàn hồi cho da) Phơi nắng quá độ làm cho các sợi đàn hồi biến đổi thành một khối sợi đông đặc, rối lại, mất khả năng thun-giãn và làm da dầy đi một cách bất thường. Các sợi collagen bị suy thoái làm da mất sức chịu đựng. Những thay đổi rõ rệt nhất là có sự xuất hiện của những vết nhăn sâu, những nếp xếp nơi da mặt và những vùng bị nắng chiếu; vùng da nơi trán và sau gáy ngả sang vàng nhạt. Những vùng thiếu sự chống đỡ của xương như hai bên má, sống mũi..bị xệ xuống, môi dưới xệ, mí mắt sụp, tai cũng dài ra.. Kem chống nắng : Có hai loại chính, đặt tên theo cách hoạt động là : sunscreen và sunblock : Sunscreen : là những sản phẩm có khả năng 'lọc' (filter) hay 'hấp thu' (absorb) tia cực tím (UV). Sunscreen còn được gọi thêm là 'chemical sunscreen' Sunblock : có khả năng 'phản chiếu' (reflect) tia UV, còn gọi là 'physical sunsdreen) Cả hai loại đều được xem là có công hiệu phòng ngừa tác hại của tia nắng, ngừa phỏng nắng và ngừa nắng làm nhăn da. Thành phần hóa chất trong Kem chống nắng : Kem chống nắng có thể chứa những hoạt chất (đơn độc hay phối hợp) thuộc các loại : Hợp chất hữu cơ (organic) hấp thu tia UV Phân tử hóa chất vô cơ dạng hạt nhỏ, phản chiếu, phân tán hay hấp thu tia UV như titanium oxide, kẽm dioxide.. Hợp chất hữu cơ dạng hạt, cũng hấp thu tia UV, nhưng chứa nhiều chromophore để có thể phản chiếu, phân tán tia UV như nhóm vô cơ như trường hợp của Tinosorb M (Sự phản chiếu và phân tán tia UV tùy thuộc vào kích thước của hạt, nên các hoạt chất phải ở dạng li ti, thật nhỏ chỉ cỡ 200 nm) Cấu trúc hóa học của các phân tử hóa chất trong kem chống nắng giúp hấp thu các tia UV có năng lượng cao, đồng thời phóng thích năng lượng như những tia năng lượng thấp, do đó giúp bảo vệ da khỏi bị tổn thương: Khi da chịu ảnh hưởng của tia UV, đa số các hóa chất trong kem (ngoại trừ avobenzone) không bị biến đổi nên vẫn giữ được khả năng hấp thu UV. Trong công thức của một số kem (loại dùng hoạt chất avobenzone) còn có thêm những chất làm ổn định (stabilizers) để giúp avobenzone không bị phân hủy như Helioplex, Avotriplex.. Tại Hoa Kỳ, FDA cho phép bán các thành phẩm dùng chống nắng được chứa các hóa chất theo các tỷ lệ sau : Para Amino Benzoic Acid= PABA : 15 % (cũng dùng tại Úc, nhưng bị cấm tại Âu châu từ 10/2009).Tuy có khả năng bảo vệ chuột không bị ung thư da nhưng gây những biến đổi về cơ cấu DNA. Hấp thu UVB Avobenzone = Parsol 1789 : 3 % còn có các tên Butylmetho xydibenzoyl methane, Eusolex 9020. Âu châu và Úc cho dùng 5%, Nhật dùng 10 %. Hấp thu UVA Cinoxate : 3 % hay 2-Ethoxyethyl p-methoxycinnamate. Úc cho dùng đến 6 %. Hấp thu UVB Dioxybenzone : 3 % (Benzophenone 8) .Hấp thu UVA và UVB Homosalate : 15 % (Homomethyl salicylate=HMS). Úc dùng 15 %, Nhật và Âu châu 10 %. Hấp thu UVB Menthyl anthranilate : 5 % (Meradimate), chỉ dùng tại Úc và Hoa Kỳ. Hấp thu UVA Octocrylene : 10 % (Eusolex OCR), có thể gây tăng ROS. Hấp thu UVB. Octyl methoxycinnamate : 7.5 % (Octinoxate, EMC, Parsol MCX), Úc và Âu châu dùng 10 %, Nhật dùng đến 20 %. Hấp thu UVB Octyl salicylate : 5 % (Octisalate, Escalol 587). Úc, Âu châu và Mỹ dùng 5 %, Nhật dùng 10 %. Hấp thu UVB Oxybenzone : 6 % (Benzophenone-3, Eusolex 4360, Escalol 567). Úc và Âu châu dùng 10 %, Nhật chỉ dùng 5 %. Hấp thu UVA và UVB. Padimate O : 8 % (OD-PABA, sigma-PABA), hiện không còn dùng tại Âu châu. Nhật dùng 10%. Hấp thu UBV. Phenylbenzimidazole sulfonic acid : 4 % (Ensulizone, Euso lex 232, Parsol HS ). Úc dùng 4 %, Âu châu 8 %, Nhật chỉ dùng 3 %. Hấp thu UBV Sulisobenzone : 10 % (Benzophenone-4, Escalol 577). Mỹ, Nhật và Úc đều dùng 10 %, Âu châu chỉ dùng 5 %. Hấp thu UBV và UBA. Titanium dioxide : 25 % (C177891). Tại Nhật, tỷ lệ sử dụng không bị kiểm soát. Trolamine salicylate : 12 % (Triethanolamine salicylate), chỉ dùng tại Mỹ và Úc. Hâp thu UVB. Zinc oxide : 25 % . Úc cho dùng 20%,Âu châu dùng 25 % dưới dạng hạt > 100 nm, Nhật không giới hạn. Riêng Ecamsule (Meroxyl SX,Terephthalydene, Dicamphor Sulfonic Acid), tuy được dùng tại Úc và Âu châu với tỷ lệ 10 %, nhưng tại Hoa Kỳ, FDA chỉ cho phép dùng tối đa 3 % trong những thành phẩm cần xin phép riêng (New Drug Application) Tại Âu châu và tại Nhật kem chống nắng có thể có những hóa chất không nằm trong danh sách này như Tinosorb N, Tinosorb S Mexoryl, Uvasorb HEB, Parsol HLB. Kem chứa titanium dioxide và zinc dioxide thường để lại trên da những vệt bợn trắng. Các công thức hỗn hợp cũng được tạo ra, pha trộn 2, 3 chất kể trên để khả năng chống nắng được bao quát hơn : có thể gồm avobenzone (có hoạt tinh chống UVA) pha trộn với oxid kẽm hay avobenzone pha trộn với ensulizone.. Những danh từ chuyên môn : FDA và các nhà sản xuất kem chống nắng dùng một số danh từ chuyên môn để thử nghiệm và tiêu chuẩn hóa kem. Minimum Erythema Dose (MED) Khi chúng ta ra nắng, sau một thời gian, da đỏ lên : khoảng thời gian này được gọi là MED. Mỗi người có một MED khác nhau, tùy thuộc vào nhiều yếu tố như chủng tộc..Người da trắng (toc vàng, mắt xanh) gốc Ái nhĩ lan (Irish) thường có MED nhỏ nhất : chỉ khoảng 10 phút. (trên nguyên tắc, người này nếu dùng kem chống nắng có SPF=20, sẽ phải phơi nắng 200 phút mới bị đỏ da..nhưng trên thực tế không hẳn như vậy ?). Sun Protection Factor (SPF) : Đây là một con số để chỉ mức hiệu nghiệm của thuốc thoa chống nắng. Con số này là tỷ lệ MED của da được thoa thuốc/ MED của da để trần, không thoa thuốc. Để thử nghiệm kem chống nắng : các phòng thí nghiệm dùng da lưng của những người tình nguyện (thường là nam giơi). Một phần da để trần (dùng làm đối chứng, kiểm soát=control) và một phần da được thoa thuốc. Lượng thuốc sử dụng : 2 mg/ centimét vuông. Sau đó dùng solar simulator, một dụng cụ tại tia UV rọi trên lưng người chịu thử nghiệm đên khi da ửng đỏ (giông như khi phơi nắng) Theo lý thuyết, SPF càng lớn thì sự hiệu nghiệm sẽ càng tăng cao. Nhưng trên thực tế, tỷ lệ này không phải là một tỷ lệ thuận hoàn toàn vì khi SPF đạt đến mức 30, tỷ lệ hiệu nghiệm không còn là một đường thẳng (linear function) nữa. SPF 15 ngăn chặn được khoảng 93.3 % UV SFP 30 ngăn chặn được 97 % Và sau đó, mức hiệu nghiệm hầu như không tăng thêm nữa.. Tại Âu châu , mức SPF cao nhất được phép ghi trên thành phẩm là 50. Tại Úc là 30. Tại Hoa Kỳ, dự thảo của FDA đưa ra trong các năm 2007 và 2011 cũng cho phép ghi tối đa là 50. Ngoài ra còn có khá nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thử nghiệm để định con số SPF, đồng thời cách sử dụng kem chống nằng cũng làm thay đổi khả năng bảo vệ thật sự của kem : Nhìn sự thay đổi của da (độ ửng đỏ) tùy thuộc vào khả năng của người quan sát (nghĩa là rất chủ quan), chịu những biến đổi theo nhân sinh quan (human variations) Lượng thuốc dùng trong thử nghiệm khá cao, tính ra lên đến 35 ml mỗi lần thoa trên 1 phân vuông, trên thực tế, người tắm nắng chì thoa khoảng 5 ml.. Tác dụng chống nắng tùy thuộc loại (màu) da : Bảng phân loại Fitzpatrick xếp da người Á đông vào nhóm 'da trung bình' 'không dễ phỏng' (Class III, IV) nên lượng thuốc cần dùng sẽ..ít hơn người Âu, da trắng..Hệ thống Fitzpatrick không thật sự chính xác, kêt quả dựa vào những câu trả lời phỏng vấn của những người phơi nắng tại Boston Persistent pigment darkening (PPD) PPD là một phương pháp để đo khả năng chống UVA, tương tự như phương pháp SPF để đo khả năng chống UVB. Phương pháp này được dùng tại Nhật và Công ty l'Oreal áp dụng cho các sản phẩm của công ty. Thay vì dùng tiêu chuẩn gây mẩn hay đỏ da khi bị chiếu nắng như trong SPF, PPD dùng UVA chiếu đến khi da xậm màu hơn : trên lý thuyết PPD=10 sẽ biểu tượng là sản phẩm cho phép người thoa chịu được tác dụng của UVA trong thơì gian kéo dài gấp 10 lần người không thoa... Màu da và MED: American Academy of Dermatology (AAD) đã phân loại màu da, đặc điểm chủng tộc và thời gian(phút) chịu MED như sau: Loại da Đặc điểm Chủng tộc Phút/MSD I Da trắng, nhạt, dễ bị Celtic 20 phỏng nắng mắt xanh, tóc vàng 2 Da nhạt , dễ phỏng Nordic 25-30 3 Da trắng, bắt nắng Dân da trắng 35-40 trung bình (nói chung) 4 Da vàng, ít bắt nắng Địa trung hải 40-50 mắt đen, tóc đen Tàu/Nhật/VN Thổ dân Hoa Kỳ 5 Da nâu, ít bắt nắng Ả rập, Mã lai,Mễ 50-60 6 Da đen, không bắt nắng Đen (negro) 60-75 AAD ghi chú thêm : MED được tính theo thời gian tối thiểu để da bị ửng đỏ trong vòng 24 giờ, sau khi chịu tác động của ánh nắng giữa trưa, thời gian giữa mùa hè ở vùng có vĩ tuyến 40-45 độ như Bắc California, Kansas City. Không nên phơi nắng 'giữa trưa hè' dù là loại da nào và bất kể chủng tộc nào. Dự trù của FDA về nhãn trên chai kem chống nắng :Từ tháng 8 năm 2007, FDA đã đưa ra một số đề nghị thay đổi một số điểm trên các nhãn của kem chống nắng với mục đich giúp người tiêu thụ dễ sử dụng hơn. FDA cũng dự trù sẽ áp dụng những điều lệ này vào cuối năm 2012. Ghi thêm khả năng chống UVA : Ký hiệu SPF chỉ giới hạn trong việc cho biết khả năng chống UBV của kem, nhưng trong tia nắng còn có UVA cũng gây tác hại cho da tuy không gây đỏ da, nhưng gây thương tổn cho DNA trong tế bào lớp dermis có thể đưa đến ung thư. FDA bắt buộc các nhà sản xuất kem chống nắng phải làm thêm 2 thử nghiệm mới để xác định khả năng chống UVA của sản phẩm (trước khi đưa ra thị trường) : Thử nghiệm trong phòng thi nghiệm (in vitro) dùng dĩa thạch anh (quartz plate), để đo khả năng làm giảm bớt lượng tia UVA sau khi đi qua kem. Thử nghiệm lâm sàng (clinical), tương tự như khi thử UVB, đo khả năng làm giảm bớt tác động của UVA trong việc gây da trở thành xậm. Kết quả của 2 thử nghiệm trên sẽ được phối hợp chung thành : mức độ bảo vệ chống UVA của sản phẩm, xếp hạng từ 'thấp đến cao nhất'. Phương thức ghi kết quả UVA được FDA đề nghị là dùng một hệ thống biểu tượng bằng các ngôi sao, thay vì con số như UVB. Theo FDA thì phương thức này sẽ giúp người tiêu thụ dễ phân biệt giữa tác dụng chống UVB và UVA. Khả năng chống UVA sẽ được đánh giá bằng hệ thống gồm 4 ngôi sao, đi từ thấp nhất là một sao đến cao nhất là 4 sao, đồng thời nếu sản phẩm không 'chống UVA' cũng phải ghi rõ điều này trên nhãn Nhãn sẽ cần có 2 phần : Tên sản phẩm (Brand X) Kem chống nắng (Sunscreen) UVB UVA SPF * * * * 45 (ngôi sao được in đậm) Cao Cao Trong ví dụ trên : UVB với SPF=45 được xếp hạng cao. UVA với 3 sao đậm được xếp hạng cao Sản phẩm 1 sao chỉ bảo vệ chống UVA yếu, thấp (low), 2 sao chỉ tác dụng trung bình (medium), 3 sao=cao (high) và 4 sao=cao nhất (highest). Các sản phẩm không chống UVA phãi ghi rõ :'No UVA protection' Tuy nhiên tháng 8/2007, FDA đã hoãn việc ghi giá trị sản phẩm bằng hệ thống 'sao' ..do có thể gây..khó khăn hơn cho người tiêu thụ.?) Tại Âu châu, sản phẩm chống nắng cần có khả năng bảo vệ da chống UVA , PF cần bằng 1/3 của SPF để được 'in thêm' dấu UVA trên sản phẩm.. Hệ thống đánh giá kem chống nắng hay tỷ lệ UVA/UBV bằng số lượng các ngôi sai đã được dùng tại Anh và Ái nhĩ Lan (còn gọi là hệ thống Boosts) Tại Á châu, nhất là Nhật, khả năng chống UVA được ghi nhận bằng PA (Protection Grade of UVA) dựa theo thử nghiệm PPD. Theo Japan Cosmetic Industry Association thì PA + có khả năng chống UVA, PF=2-4 PA ++, PF=4-8 PA +++. PF > 8 Định nghĩa lại SPF: FDA định nghĩa lại SPF từ Sun Protector Factor thành Sunburn Protection Factor, đồng thời buộc phải ghi những chữ UBV ngay trước con số SPF để người tiêu thụ biết là SPF chỉ là giá trị chống UBV. Trước 1999, FDA chỉ cho phép ghi SPF đến tối đa là +30, nhưng hiện nay mức SPF được chấp nhận là +50. Đồng thời sản phẩm có SPF từ 2 đến < 5 được ghi là 'thấp' (low), từ 15 đến Broad Spectrum sunscreen : Kem có thể được ghi là có'phổ rộng' nếu chống được cả UVB lẫn UVA Những khuyến cáo của FDA: FDA và AAD đưa ra những khuyến cáo về Kem chống nắng sau : Khi sinh hoạt ngoài trời, nên tránh khoảng thời gian từ 10 giờ sáng đến 3 giờ chiều, là thời điểm tia nắng tác động trực tiếp và mức độ gây tai hại cao nhất. Mặc quần áo che phần da (quần dài, áo tay dài) đội mũ có vành. Đeo kính mát, có khả năng chống UV (nếu sinh hoạt trên tàu thuyền, đi bộ nên dùng loại kính có thể lọc 95 % UVB và 60 % UVA. Khi ra bãi biển, cần che dù để giảm bị các tia nắng chiếu trực tiếp. Vẫn có thể bị phỏng nắng dù trời có mây (từ 70-90 %), tia UV đi qua mây. Mặt nước, cát và tuyết đều phản chiếu UV. Thoa kem chống nắng thành lớp dày, thoa 15 đến 30 phút trước khi ra nắng, sau đó nên thoa lại mổi 2 giờ (Các nghiên cứu cẩn trong hơn cho rằng : an toàn nhất là dùng số SPF chia đôi để định thời gia cần thoa lại kem : Ví dụ kem có SPF=40, nên thoa lại kem sau mỗi 20 phút phơi nắng) Lượng kem cần thoa, theo tiêu chuẩn của AAD là khoảng 30 ml/ lần (người lớn) trong đó 2.5- 5ml thoa mặt và cổ; 5-7.5 ml thoa cánh tay và vai; 5-7.5 ml cho phần thân trên,; 10-2.5 ml cho đùi và chân. DS Trần Việt Hưng(Oregon).
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng phải thoa nhiều thế cơ ạ :| mỗi lần e dùng chỉ bằng nửa đốt ngón tay út cho mặt thôi
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng trẻ ko bảo vệ đến 30t là bị nám đấy, rồi lão hóa các b ạ phòng bệnh hơn chữa bênh mà
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Cảm ơn chủ top đã chia sẻ,e đang tìm loại kem chống nắng dành cho da dầu mà chưa biết mua loại nào,mẹ nào có kinh nghiệm chia sẻ giúp em với ạ.
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Mình thích nhất loại kem chống nắng sunplay dành riêng cho da mặt, dùng rất thích vì nó cung cấp độ ẩm nuôi dưỡng da.
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng sunplay bị các mẹ bên wtt cho vào black list đấy, em thấy cái lọ của nó chả ghi rõ thành phần j cả, nên ko tin dùng 1 tí nào, hàng Vn chất lượng chán lắm
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Mùa hè đến, kcn là thứ song hành cùng chị em chúng mình. Nhà em cũng có kcn của Hàn, SPF 50 nhé.
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Em đang cần loại cho da mặt nhạy cảm và hỗn hợp tìm đc mấy loại mà toàn cho da khô, da mặt khó chiều lắm ạ
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng M dag dug loại cua Uc danh cho da nhay cam ne. Sunsational sunscreen spf 30+ uva/uvb. Loại nay chua co o vn ah. E gai m gui ve cho may tuyp neu me no quan tam thi m de lai cho. Co j inbox nhe.
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Chị dùng Biore loại của Nhật xem, nhiều người khen tốt lắm. Em cũng đang dùng, thấy khá ổn.
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng ui tui thấy có mỗi nàng hợp cái này nhờn bí rít hic hic dùng mẩn lên chán
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng mình thì dùng loại chống nắng dành cho mọi loại da,nhưng mà giờ bầu bí rùi k sd đc
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Bạn da dầu à, dùng thử KCN của the faceshop or 3w clinic í, chống nắng tốt mà lại không nhờn Mình có bà chị làm tiếp viên nên hay lấy giúp hàng về dùng, mình cũng hay lấy giúp mọi người lắm, nếu bạn có nhu cầu, mình lây giúp cho, hàng đảm bảo, chứ mua ngoài không yên tâm đâu
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Mùa hè đến rồi, để bảo vệ và chăm sóc tốt làn da của mình muốn dùng gì thì dùng, không thể thiếu được kem chống nắng các mẹ nhé.
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Cac me chi dug kcn vao mua he luc di bien la k on dau.mua nao va thoi tiet nao cug dug moi dc ay.cac me cu phan van loai cho da dau hay da thuog thi s k chon loai cho da nhay cam luon di.da nhay cam la loai kho chieu nhat ma dung dc thi cac loai da khac dung ok tat
Ðề: Hiểu biết về Kem chống nắng Em là em kết nhất cái chống nắng Ohui của nhà em, hihi. Mỗi tuýp dùng được khá lâu, phải 1 năm ý, mà mỗi lần dùng cũng ko tốn mấy chỉ có 1 lượng nhỏ như hạt đỗ là có thể dùng cho toàn mặt. Độ dưỡng da thì nhiều, có thể dùng thay kem lót trang điểm thích lắm ý, em dùng 1 tuýp mà mãi chưa hết, hì.