Quyển này đọc rất hay, cảm động. Chia sẻ đến các bạn nhân dịp đầu năm rảnh rỗi I. Tháng mười hai năm 2011 Tôi đã trở thành tôi như ngày hôm nay từ tuổi mười hai, vào một ngày lạnh lẽo, ảm đạm mùa đông năm 1975. Tôi nhớ chính xác lúc đó đang khom người sau bức tường đất sụp đổ, nhòm trộm vào lối nhỏ gần khe suối đóng băng. Thời đó lâu lắm rồi, nhưng tôi biét những gì người ta nói về quá khứ, mà tôi đã học được, về việc anh có thể chôn vùi nó đi, là một điều sai lầm. Bởi vì quá khứ còn đang thay đổi. Bây giờ nhìn lại, tôi nhận ra tôi vẫn đang nhòm vào cái lối nhỏ hoang vắng đo suốt hai mươi sáu năm qua. Mùa hè vừa rồi, một hôm chú Rahim Khan gọi cho tôi từ Pakistan. Chú yêu cầu tôi tới gặp chú. Đứng trong bếp, với máy nghe bên tai, tôi hiểu đó không phải là chú Rahim Khan trên máy. Đó là quá khứ tội lỗi không được chuộc của tôi. Sau khi treo máy, tôi đi dạo dọc hồ Spreckels ở phía bắc công viên Cổng Vàng. Mặt trời buổi chiều lấp lánh nước hồ, trên đó hàng chục những chiếc thuyền con đang giong buồm theo làn gió nhẹ khô. Rồi tôi liếc nhìn lên, thấy một đôi diều màu đỏ với những chiếc đuôi dài màu xanh lơ bay vút lên trời. Đôi diều nhào lộn tầng không, bên trên những hàng cây đầu phía Tây công viên, bay qua những cối xay gió, bồng bềnh bên nhau như một cặp mắt nhìn xuống San Francisco, thành phố giờ đây tôi gọi là quê hương. Và bất chợt giọng nói của Hassan thìa thào trong đầu tôi: vì cậu, cả ngàn lần rồi. Hassan người đua diều môi hẻ. Tôi ngồi trên băng ghế công viên cạnh một cây liễu rủ. Tôi nghĩ tới điều gì đó Rahim Khan đã nói trước khi cú máy, gần như lại nghĩ thêm: luôn có một con đường để tốt lành trở lại. Tôi ngước nhìn cặp diều sinh đôi. Tôi nghĩ về Hassan. Nghĩ về Baba. Aloi. Khabul. Tôi nghĩ về cuộc đời tôi đã từng sống, cho tới khi mùa đông năm 1975 ập đến, làm thay đổi tất cả, và khiến tôi trở thành tôi như ngày hôm nay.
Ðề: Người đua diều Tối nay bận chuẩn bị hàng nên giờ mới post được hihi. Chuyện ban đầu hơi dài dòng nhưng càng đọc càng cảm động II Khi còn là hai đứa trẻ, Hassan và tôi thường trèo lên những cây bạch dương trên con đường xe chạy vào nhà cha tôi, và dùng một mảnh gương chiếu ánh nắng vào nhà những người hàng xóm của chúng tôi làm họ tức giận. Chúng tôi thường ngồi chéo nhau, trên một cặp cành cây cao, chân trần đung đưa, túi quần đầy quả dâu tằm phơi khô và quả óc chó, thay nhau chiếu gương, vừa ăn dâu tằm vừa ném vào nhau, khúc khích, cười vang. Tôi vẫn như còn thấy Hassan trên cái cây đó, nắng lung linh xuyên qua kẽ lá chiếu lên khuôn mặt gần như tròn xoe của cậu. một khuôn mặt giống như búp bê Tàu được gọt từ gỗ cứng: mũi nở và tẹt, mắt vừa hẹp vừa xếch như lá tre, đôi mắt nếu nhìn vào, tùy theo ánh sáng, lúc vàng, lúc xanh, lúc cả màu ngọc bích nữa. Tôi vẫn có thể thấy đôi tai nhỏ mọc thấp, và mẩu cằm nhô ra có vẻ như đắp thêm chút thịt, như sau đó mới thêm vào. Và chiếc môi hẻ tách ra ở chính giữa, nơi mà người làm búp bê Tàu có thể đã để trượt đồ nghề, hoặc có lẽ lúc đó chỉ đơn giản thấm mệt thành ra bất cẩn. Đôi khi, ngồi trên những ngọn cây đó, tôi xui Hassan lấy súng cao su bắn quả óc chó vào con chó chăn cừu giống Đức chột mắt của ông hàng xóm. Hassan chẳng bao giờ muốn vậy, nhưng nếu tôi yêu cầu, thực sự yêu cầu, cậu sẽ không từ tối. Hassan chẳng bao giờ từ chối tôi bất cứ điều gì. Và cậu bắn súng cao su chính xác chết người. Cha của Hassan, ông Ali, thường bắt gặp chúng tôi và phát điên lên, điên theo cách người hiền hậu như Ali có thể làm được. Ông thường bật ngón tay, vẫy chúng tôi tụt xuống. Ông giật lấy mảnh gương và bảo chúng tôi bà nội của Hassan đã dạy ông rằng quỷ dữ cũng chiếu những mảnh gương, chiếu để làm rối trí các tín đồ Hồi giáo trong lúc cầu nguyện. Ông luôn quắc mắt nhìn con trai mình nói thêm “ và quỷ cũng cười hô hố trong khi làm như vậy.” “Vâng, thưa cha”, Hasan thường lẩm bẩm, vừa nhìn xuống dưới chân. Nhưng không bao giờ cậu đổi cho tôi. Không bao giờ nói rằng mảnh gương cũng như việc bắn quả óc chó vào con chó của ông làng giềng luôn luôn là trò nghịch ngợm của tôi. Những cây bạch dương xếp thành hàng dọc con đường xe chạy lát gạch đỏ dẫn tới đôi cổng sắt uốn. Đôi cổng kế tiếp mở vào phần mở rộng của đường xe vào tư dinh của cha tôi. Ngôi nhà tọa lạc phía bên dưới con đường gạch, sân sau ở cuối đường. Mọi người đều đồng ý là cha tôi, tức Baba của tôi, đã xây một ngôi nhà đẹp nhất quận Wazir Akar Khan, vùng phụ cận mới và giàu có ở phần Bắc Kabul. Vài người còn nghĩ đó là ngôi nhà xinh đẹp nhất trong toàn bộ Kabul. Một lối vào rộng, hai bên là những khóm hồng dẫn tới một tòa nhà trải dài với sàn nhà bằng đá cẩm thạch và những cửa sổ rộng. Những viên gạch khảm khắc cầu kỳ, mà Baba tự tay lựa chọn ở Isfahan, được lát cho sàn của bốn phòng tắm. Những tấm thảm thêu sợi vàng, Baba mua ở Calcuatta, chăng dọc các bức tường. Một chum đèn pha lê treo dưới vòm trần. Trên gác là phòng ngủ của tôi, phòng ngủ của Baba, phòng đọc của ông, còn được coi như “phòng hút”, nơi không ngừng tỏa ra mùi thuốc lá và mùi quế. Baba và bạn ông ngả người trên chiếc ghế đẹm da màu đen ở đó, sau khi Ali đã phục vụ cơm tối, Họ nhồi tẩu thuốc – riêng Baba luôn gọi đó là “vỗ béo tẩu thuốc” – và tranh luận về ba đề tài ưa thích: chính trị, kinh doanh và bong đá. Đôi khi tôi hỏi Baba liệu tôi có thể ngồi cùng họ được không, nhưng Baba thường đứng chặn trước cửa và nói “Làm việc của con đi, nhanh lên nào. Giờ là lúc người lớn nói chuyện. Sao con không đọc một cuốn sách nào đó của con?” Ông thường đóng cửa lại, để mặc tôi ngạc nhiên không hiểu tại sao ông cứ “lúc người lớn nói chuyện” mãi thế. Tôi thường ôm đầu gối ngồi ngay bên cửa. Đôi khi tôi ngồi đó một tiếng đồng hồ, có khi hai tiếng, lắng nghe họ cười, họ chuyện gẫu với nhau.
Ðề: Người đua diều Phòng khách ở tầng dưới có một bức tường cong với những chiếc tủ đóng theo phong cách truyền thống. Trong phòng treo những bức ảnh gia đình. Một tấm ảnh giấy lụa cũ của ông nội tôi và Quốc vương Nadir Shah chụp năm 1931, hai năm trước khi Quốc vương bị ám sát. Hai người đang đứng bên ngắm một con nai chêt, chân đi ủng cao tận đầu gối, súng khoác qua vai. Kia là một bức hình đêm cưới cha mẹ tôi, Baba sang trọng trong bộ lễ phục đen và mẹ tôi váy trắng với nụ cười của một nữ quận chúa trẻ. Đây là Baba và người bạn quý nhất, bạn kinh doanh của ông, chú Rahim Khan, đứng trước nhà của chúng tôi, chẳng ai mỉm cười. Tôi là đứa bé trong bức ảnh Baba đang bế tôi, trông có vẻ mệt mỏi và nghiêm khắc. Tôi ở trong tay ông, nhưng những ngón tay tôi cong lên ngoắ lấy ngòn út của chú Rahim Khan. Bức tường cong dẫn vào phòng ăn, giữa phòng là một chiếc bàn bằng gỗ gụ có thể phục vụ thoải mái ba mươi thực khách – và hợp với sở thích của cha tôi, những bữa tiệc cực kỳ tốn kém hầu như tuần nào cũng có. Ở đầu kia của phòng ăn là một lò sưởi cao lớn bằng đá cẩm thạch, luôn luôn cháy sang ngọn lửa màu da cam trong suốt mùa đông. Một cửa kính trượt rộng lớn mở ra cái hiên bán nguyệt bao quát non một hécta đất phía sau và những hàng cây anh đào. Baba và Ali đã trồng một vườn rau nhỏ dọc theo dãy tường phía Đông, gồm cà chua, húng bạc hà, ớt và cả một hàng ngô chẳng bao giờ thu hoạch mà Hassan và tôi quen gọi là “Bức tường ngô ốm”.
Ðề: Người đua diều Đầu phía nam của khu vườn, dưới bóng cây sơn trà là nhà của những người giúp việc, một túp lều nhỏ tường đất khiêm tốn, nơi Hassan sống cùng với bố mình. Chính ở đó, trong túp lều nhỏ ấy, Hassan được sinh ra vào mùa đông năm 1964, đúng một năm sau khi mẹ tôi mất lúc sinh tôi. Mười tám năm sống trong ngôi nhà này, tôi chỉ bước vào lãnh địa của Hassan và Ali một vài lần. Khi mặt trời xuống thấp sau những dãy đồi và chúng tôi đã chơi đùa hết cả ngày, Hassan và tôi, ai về đường nấy. Tôi đi qua những khóm hoa hồng về tòa lầu của Baba, Hassan về túp lều đất nơi cậu đã được sinh ra, nơi cậu sống đời mình. Tôi vẫn còn nhớ nơi đó vắng vẻ, sạch sẽ và leo lét sáng nhờ hai cây đèn dầu. Có hai tấm đệm ở hai phía đối diện căn lều, ở giữa là một tấm thảm Herati nhỏ đã cũ, xung quanh mòn xơ, một chiếc ghế đẩu ba chân và chiếc bàn gỗ ở góc nhà để Hassan vẽ tranh. Tường xung quanh trần trụi, ngoại trừ một tấm thảm duy nhất đính các hạt cườm thành mấy từ Allab-u-akbar, Baba đã mua nó cho ông Ali trong chuyến Mashad. Chính trong túp lều đó mà mẹ của Hassan, bà Sanaubar đã sinh ra cậu vào một ngày đông giá năm 1964. Trong khi mẹ tôi băng huyết khi sinh tôi, Hassan lại mất mẹ lúc sinh ra chưa đầy một tuần. Mất mẹ, thì hầu hết người Áp-ghan đều coi là còn tệ hại hơn mẹ chết nhiều: Bà ấy bỏ đi theo một bộ tộc vũ công và du ca.
Ðề: Người đua diều Hassan chẳng bao giờ nói về mẹ, như thể bà ấy chưa bao giờ tồn tại. Tôi luôn luôn thắc mắc không hiểu liệu cậu có mơ thấy mẹ mình không, bà ấy trông như thế nào và đang ở đâu. Tôi không hiểu liệu cậu có mong gặp mẹ không. Cậu có đau khổ về mẹ như tôi đau khổ vì không bao giờ được gặp mẹ? Một hôm, chúng tôi đang cuốc bộ từ ngôi nhà của cha tôi đến rạp chiếu phim Zainab để xem bộ phim mới của Iran. Chúng tôi đã đi tắt qua trại lính gần trường trung học Istiqlal – Baba đã cấm chúng tôi đi lối tắt ấy, nhưng lúc này ông chú cùng Rahim Khan đang ở Pakistan. Chúng tôi nhảy qua hàng rào vây quanh doanh trại, băng qua khe nước nhỏ và đột nhập vào một bãi đất trống bẩn thỉu có những chiếc xe tăng cổ lỗ bỏ hoang phủ đầy bụi. Đám lính tụ tập dưới bong một chiếc xe tăng vừa hút thuốc lá vừa đánh bài. Một gã trông thấy chúng tôi, huých khuỷu tay vào gã ngồi bên, gọi Hassan: - Ê, thằng nhỏ, - hắn nói. – Tao biết mày đấy. Trước đó, chúng tôi đã bao giờ gặp hắn đâu. Hắn là một gã đàn ông to bè, thấp béo, đầu cạo trọc, râu đen lởm chởm trên mặt. Cái cách hắn nhăn nhở cười với chúng tôi, liếc nhìn dâm dật khiến tôi hoảng sợ. “Kệ, cứ đi,” tôi lúng búng bảo Hassan. - Mày! Thằng Hazara! Hãy nhìn tao khi tao nói với mày, - tên lính sủa. Hắn đưa điếu thuốc đang hút cho thằng ngồi bên, một tay ngoắc ngón cái vào ngón trỏ thành một vòng tròn. Ngón giữa tay bên kia thọc vào vòng tròn đó. Thọc vào thọc ra. Thọc vào, thọc ra, - tao biết mẹ mày đấy, mày có hiểu không? Tao biết mẹ mày hàng thật. Tao chơi mẹ mày từ phía sau, bên khe nước, chỗ kia kìa. Bọn lính cười rộ. Một tên trong bọn kêu ré lên. Tôi bảo Hassan cứ đi, kệ cứ đi. - Cái lều xinh xinh nhỏ xíu của mẹ mày mới mùi mẫn làm sao! Tên lính vừa nói vừa nhăn nhở cười. bắt tay những tên khác. Lát sau, trong bóng tối, sau khi bộ phim bắt đầu chiếu, tôi nghe thấy tiếng Hassan ngồi bên tôi đang sụt sịt. Nước mắt chảy ròng ròng trên đôi má. Tôi ngồi xích lại, dang cánh tay ôm lấy người cậu, kéo cậu sát vào tôi. Cậu ngả lên vai tôi. “Hắn nhầm cậu với ai đấy,” tôi thì thào. “Hắn nhầm cậu với ai mà!”
Ðề: Người đua diều Tôi nghe nói chẳng một ai thực sự ngạc nhiên khi Sanaubar bỏ nhà đi. Mọi người đều phải nhướn mày khi Ali, một người đàn ông làu làu kinh Koran, cưới Sanaubar, người đàn bà mười chín, trông trẻ hơn tuổi, một người đàn bà đẹp nhưng tai tiếng, buông thả, sống bất chấp những điều ô nhục. Cũng giống như Ali, bà ta là một tín đồ Hồi giáo Shi’a và thuộc chủng tộc Hazara. Bà cũng là em họ, con cô con cậu của ông và điều đó dẫn đến sự chọn lựa tự nhiên cho hôn phối. Nhưng ngoài sự tương đồng ấy, Ali và Sanaubar hầu như chẳng có điểm giống nhau nào, ít nhất là mọi vẻ bề ngoài tương ứng. Trong khi đôi mắt Sanaubar long lanh xanh biếc, bộ mặt ranh ma, nghe đồn đã dụ dỗ không biết bao nhiêu đàn ông rơi vào tội lỗi, thì Ali lại bị liệt bẩm sinh cơ mặt dưới, nguyên nhân khiến ông không thể mỉm cười, khiến ông mãi mãi có bộ mặt nghiêm khắc. Nếu thấy được bộ mặt như đá tạc của Ali sung sướng hoặc buồn rầu thì đó là một điều kỳ lạ, bởi vì chỉ có đôi mắt xếch màu nâu của ông lóe lên thay cho nụ cười và tuôn ra nỗi sầu. Người ta bảo đôi mắt là cửa sổ của tâm hòn. Chẳng bao giờ có trường hợp nào đúng hơn thế với Ali, con người chỉ có thể thộ lộ tâm can mình qua đôi mắt. Tôi nghe đồn rằng những bước đi khêu gợi và cái hông đung đưa của Sanaubar đã khiến bao người đàn ông phải mơ đến cảnh phản bội vợ con. Nhưng bệnh viêm tủy xám gây bại liệt đã để lại cho Ali chân phải vặn vẹo, teo cơ, lớp da vàng sạm bên dưới chỉ là một lớp cơ mỏng bọc xương. Tôi nhớ một hôm, năm tôi tám tuổi, Ali đem tôi ra phố chợ mua một ít bánh naan. Tôi bước phía sau ông, bụm miệng, cố bắt chước bước đi của ông. Tôi quan sát ông ngoáy chiếc chân khẳng khiu theo một vòng cung quét đất. Tôi quan sát toàn thân ông nghiêng một cách khó khăn về bên phải mỗi lần ông đặt chân đó xuống. Mỗi bước đi như vậy mà ông không bị lật nhào dường như đã là một điều thần kỳ nho nhỏ. Khi cố bắt chước ông, tôi suýt bị ngã xuống rãnh nước. Khiến tôi khúc khích cười. Ali quay lại, bắt gặp tôi nhại theo ông. Ông không nói gì. Không lúc ấy. Không bao giờ hết. Ông chỉ tiếp tục bước đi. Bộ mặt của Ali và bước đi của ông làm dám trẻ nhỏ trong vùng hoảng sợ. Nhưng điều phiền nhiễu thực sự lại là những đứa lớn hơn. Chúng bám theo ông trên đường phố, và nhại theo ông mỗi khi ông cà nhắc đi qua. Có đứa còn gọi ông là Bababu hay Ngoao’ ộp. “Ê, Bababu, hôm nay ăn thịt ai rồi.” Chúng đồng thanh sủa lên và cười phá. “Đồ Batabu Mũi Tẹt, mi ăn thịt ai rồi?”
Ðề: Người đua diều Chúng gọi ông là “đồ mũi tẹt” bởi vì Ali và Hassan mang đặc trưng chủng tộc Hazara gốc Mông Cổ. Đã bao năm rồi, tất cả những gì tôi biết về người Hazara là họ là hậu duệ của người Mông Cổ thời Đế chế Mogul và trông giống như những người Trung Hoa bé nhỏ. Sách giáo khoa trong nhà trường chỉ nhắc đến tổ tiên của họ một cách qua loa. Thế rồi một hôm, tôi ở trong phòng đọc của Baba, xem qua những sách linh tinh của ông, tôi tìm thấy một trong những cuốn cổ sử của mẹ tôi. Cuốn sach do một người Iran có tên là Khorami viết. Tôi thổi bụi đi, lén đem nó về giường tôi và đọc đêm đó, và sửng sốt thấy cả một chương viết về lịch sử của người Hazara. Cả một chương riêng về dân tộc của Hassan! Trong chương ấy, tôi đọc thấy dân tộc tôi, tộc Pashtun đã ngược đãi và hà hiếp người Hazara. Chương sách nói người Hazara đã gắng sức vùng lên chống lại người Pashtun vào thế kỷ mười chín, nhưng người Pashtun đã “nghiền nát họ bằng bạo lực không thể tả xiết bằng lời.” Cuốn sách nói dân chúng tôi đã giết người Hazara, đuổi họ khỏi đất đai của họ, đốt nhà của họ, bán vợ con họ. Cuốn sách nói, một phần lý do khiến người Pashtun áp bức người Hazara vì người Pashtun là những tín đồ hồi giáo Sunni, trong khi đó người Hazara lại là hồi giáo Shi’a. Cuốn sach viết nhiều điều mà tôi không hiểu, những điều mà các thầy giáo tôi không nói đến. Những điều mà cả Baba cũng chẳng bao giờ đề cập. Nó cũng nói một số điều tôi đã biết, như mọi người gọi người Hazara là bọn ăn thịt chuột, mũi tẹt, lũ lừa ưa nặng. Tôi đã từng nghe thấy mấy thằng nhãi ở vùng lân cận hét lên những biệt hiệu ấy với Hassan. Tuần sau đó, sau giờ học, tôi giơ cuốn sách cho thầy giáo tôi và chỉ và chương nói về người Hazara. Ông xem lướt qua vài chương, cười khẩy và trả lại tôi cuốn sach. “Đó là điều duy nhất dân Shi’a làm đúng,” ông nói tiếp, vừa thu dọn sach vở, “làm như những kẻ tuẫn đạo.” Ông nhăn mũi khi nói từ Shi’a, như thể nó là một loại bệnh nào đó. Nhưng mặc dầu kế thừa cùng dòng máu gia đình và chủng tộc với ông, Sanaubar vẫn vào hùa với lũ trẻ trong vùng nhục mạ Ali. Tôi được nghe nói bà ta chẳng cần giấu giếm gì việc bà ta khinh thị vẻ ngoài của ông. - Thế này mà là chồng ư? – bà ta thường cười nhạo. – Tôi thấy mấy con lừa già làm chồng còn thích hợp hơn. Rốt cuộc, phần lớn mọi người đều ngờ cuộc hôn nhân này vốn là một sự dàn xếp giữa Ali và cậu mình, cha của Sanaubar. Họ nói Ali đã cưới cô em họ để giúp phục hồi đôi chút danh dự cho tên tuổi bị ô uế của cậu, cho dù Ali, mồ côi từ hồi năm tuổi, đâu có chút của cải vật chất hay tài khoản thừa kế nào.
Ðề: Người đua diều Ali không bao giờ trả đũa bất kỳ kẻ nào hành hạ ông, tôi cho rằng một phần vì ông không bao giờ có thể đuổi kịp họ bằng cái chân xoắn vặn kéo lê phía sau. Nhưng chủ yếu bởi Ali đã miễn nhiễm trước những lời lăng nhục của đám người công kích ông. Ông đã tìm thấy niềm nui, thấy thứ thuốc giải độc của mình, lúc Sanaubar hạ sinh Hassan. Việc đó vốn khá đơn giản. Không có nhân viên sản khoa, không có người gây mê, không có những thiết bị kiểm tra thích hợp. Đúng là Sanaubar chỉ nằm ngửa ra trên một tấm đệm trần bẩn thỉu, với Ali và một bà đỡ giúp việc sinh nở. Thật ra, Sanaubar cũng chẳng cần giúp lắm, bởi vì, ngay trong khi ra đời, Hassan đã giống hệt như bản chất của mình rồi. Cậu không thể làm tổn thương bất kỳ ai. Cằn nhằn vài câu, đẩy mấy cái, thế là tòi ra Hassan. Tòi ra và cười. Theo như lời thổ lộ với đày tớ nhà một người hàng xóm của cái bà đỡ hay buôn chuyện, người đã kể lại với bất kỳ ai muốn nghe, thì Sanaubar liếc mắt nhìn đứa trẻ trong cánh tay Ali, thấy cái môi hẻ, đã xổ ra một chuỗi cười cay đắng. - Đó – Sanaubar nói. – Bây giờ thì ông đã có đứa con ngu xuẩn của chính ông để nó cười hộ ông rồi đó! – Bà ta đã không chịu ngay cả bế Hassan, và đúng năm ngày sau đó thì bỏ đi. Baba thuê chính bà vú đã từng cho tôi bú để cho Hassan bú. Ali kể cho chúng tôi, bà vú là một người đàn bà Hazara mắt xanh quê ở Bamiyan, thành phố của những bức tượng Phật khổng lồ. “Bà ấy có giọng hát ru mới ngọt ngào làm sao chứ!” Ông thường nói với chúng tôi như thế. Bà ấy hát thế nào, Hassan và tôi luôn hỏi, dẫu hai đứa đã biết thừa – thật ra vì Ali đã kể lại cho chúng tôi không biết bao lần. Chúng tôi chỉ muốn nghe Ali hát. Ông hắng giọng và bắt đầu: Trên một ngọn núi cao tôi đứng, Và gọi to tên của Ali, con Sư tử của Thượng đế. Ôi Ali, Sư tử của Thượng đế, Vua của Con người, Hãy mang lại niềm vui cho những trái tim sầu não của chúng tôi. Hát xong, ông thường nhắc nhở chúng tôi rằng có một tình anh em giữa những con người được bú cùng một bầu vú mẹ, tình máu mủ mà ngay cả thời gian cũng không thể phá vỡ. Hassan và tôi bú cũng một bầu vú. Chúng tôi chập chững những bước đi đầu tiên trên cùng một bãi cỏ trong cùng một chiếc sân. Và dưới cùng một mái nhà, chúng tôi bập bẹ những tiếng nói đầu tiên: Của tôi là Baba. Của cậu ấy là Amir. Tên tôi. Bây giờ nhìn lại, tôi nghĩ khởi nguồn của những gì đã xảy ra trong mùa đông năm 1975 – và tất cả những gì tiếp theo sau đó – đã nằm sẵn trong những tiếng bập bẹ đầu tiên ấy.
Ðề: Người đua diều III Tương truyền cha tôi, một bận, bằng hai tay không đã vật nhau với một con gấu đen ở Baluchistan. Nếu chuyện kể về một ai khác, hẳn nó sẽ bị gạt bỏ coi như chuyện Laaf, rằng người Afghan có khuynh hướng thổi phồng mọi chuyện - buồn thay, hầu như đo lại là nỗi đau của đất nước. Nếu ai đó khoe khoang con mình là bác sỹ, may ra đứa trẻ từng có lần vượt qua một cuộc trắc khảo sinh học ở trường trung học. Nhưng lại chẳng một ai mảy may nghi nghờ tính chính xác của bất kỳ chuyện nào về Baba. Và nếu họ nghi ngờ, được thôi, Baba đã có ba vết sẹo sóng hàng xuống thành một đường xù xì ở lưng ông. Tôi đã bao lần tưởng tượng ra những cuộc đấu vật của Baba, cả mơ thấy nữa. Và trong những giấc mơ ấy, tôi chẳng bao giờ phân biệt rõ Baba và con gấu. Chính chú Rahim Khan là người đầu tiên gọi Baba bằng cái tên sau này trở thành biệt danh nổi tiếng của ông, Toophanagha, hoặc "Ngài bão tố". Đó là cái biệt danh khá thích hợp. Cha tôi là một sức mạnh từ trong bản chất, một mẫu người Pashtun cao to sừng sững với bộ râu rậm, mớ tóc quăn màu nâu cắt ngắn phóng túng không theo trật tự nào, như chính bản thân ông, đôi bàn tay tưởng có thể nhổ bật rễ cả một cây liễu, và cái nhìn trừng trừng giận dữ như muốn "bắt con quỷ quỳ xuống xin tha tội," như chú Rahim vẫn thường nói. Tại những bữa tiệc, khi cái thân hình một mét tám mươi lăm của ông thình thịch bước vào phòng ăn, mọi con mắt theo dõi theo ông như hoa hướng dương hướng về mặt trời. Không thể nào mà lờ ông đi được, kể cả khi ông ngủ. Tôi thường phải nút đầy bông vào hai tai, kéo chăn trùm kín đầu mà vẫn nghe thấy tiếng Baba ngáy - to đến nỗi giống như tiếng gầm của động cơ xe tải - xuyên qua cả tường. Từ phòng ngủ của tôi phải qua đại sảnh mới đến ngủ của cha tôi. Mẹ tôi làm thế nào để ngủ được cùng phòng với ông quả là một điều bí ẩn đối với tôi. Có cả một danh sách những chuyện tôi muốn hỏi mẹ, nếu lúc nào đó tôi gặp được mẹ.