Ra máu là một trong những dấu hiệu đầu tiên cảnh báo nguy cơ sảy thai. Mặc dù sảy thai thường gặp ở quý I nhưng nó cũng có thể diễn ra ở nửa cuối quý II, đầu quý III. >> Ra máu trong quý I và quý II Ngoài ra, còn có những nguy cơ sức khỏe khác khi thai phụ có dấu hiệu ra máu trong quý III. Chuyển dạ sớm Nếu ra máu nhẹ đi kèm với những cơn co tử cung, đau lưng hoặc cảm thấy sức ép ở vùng xương chậu thì có thể bạn đang phải đối mặt với nguy cơ chuyển dạ sớm. Trục trặc ở cổ tử cung Cổ tử cung viêm nhiễm cũng là yếu tố khiến âm đạo ra máu. Một số trường hợp, ra máu nhẹ là dấu hiệu dự báo cổ tử cung mở sớm (có thể dẫn tới chuyển dạ sớm). Nhau thai có vấn đề Ra máu kèm theo dấu hiệu đau vùng bụng có thể cảnh báo nguy cơ nhau thai bao phủ một phần hoặc hoàn toàn cổ tử cung. Tình trạng ra máu có thể tạm ngưng một thời gian nhưng nó có khả năng quay trở lại sau một vài ngày (hoặc một vài tuần). Nhau thai bị đứt: Một số ít trường hợp, nhau thai bị đứt khỏi thành trong của tử cung trước khi có dấu hiệu chuyển dạ. Điều này làm xuất hiện tình trạng ra máu nhỏ giọt trong quý III. Ra máu thường đi kèm với dấu hiệu đau bụng. Thủng dạ con Một số hiếm trường hợp, dạ con bị rách do ảnh hưởng từ vết sẹo của lần sinh mổ trước. Đây là nguyên nhân của tình trạng ra máu, đau bụng ở thai phụ. Nếu vết rách ở dạ con có nguy cơ trầm trọng (trước hoặc trong quá trình chuyển dạ), bác sĩ có thể quyết định cách mổ đẻ khẩn cấp. Dấu hiệu nên đi khám Ra máu trong quý II hoặc quý III thường cảnh báo nguy cơ bất ổn về sức khỏe. Bạn nên nhanh chóng đi khám. Nếu ra máu kèm những dấu hiệu sau, bạn càng nên đi khám khẩn cấp. - Đau bụng dữ dội. - Chuột rút. - Bạn bị sốt. - Bạn có cảm giác ớn lạnh. - Bạn xuất hiện những cơn co tử cung. Điều trị Sau khi thăm khám, bác sĩ sẽ tìm hiểu nguyên nhân ra máu qua siêu âm đi cùng việc kiểm tra âm đạo. Vì nguyên nhân gây ra máu trong quý III khác nhau, nên bác sĩ có thể áp dụng cách điều trị bằng nghỉ ngơi, dùng thuốc hoặc chỉ định mổ đẻ. Lưu ý: Cho dù bạn đã từng có kinh nghiệm ra máu trong thai kỳ, bạn cũng không nên tự ý “đoán bệnh” cho bản thân. Bạn nên trình bày kỹ càng về tần suất, thời điểm ra máu với bác sĩ. Điều này giúp bác sĩ chẩn đoán chính xác tình trạng ra máu có bất thường không.