Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “hot” Hài Vui Nhộn Cho Ae

Thảo luận trong 'Thư giãn, giải trí' bởi anhsaodem12, 28/11/2020.

  1. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Những câu chuyện linh dị chưa bao giờ ngừng hấp dẫn bạn đọc như trong thời gian qua. Thế nên Lạp Miên Hoa Đường Đích Thố Tử vừa giới thiệu đến bạn đọc Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot” càng thêm chứng tỏ sức hút của thể loại này.
    Tóm tắt nội dung:
    Người sống đến âm phủ làm chức quan nhỏ, được xưng là “Đi Vô Thường”*.
    Lan Hà lăn lộn trong giới giải trí, nhưng vì không có “cơ” nên vẫn dậm chân mãi ở tuyến 38.
    Hồi đầu mới biết mình phải làm Vô Thường bán thời gian, ăn cơm âm phủ thì anh đã từ chối đấy, mãi đến khi phát hiện ra… Ủa sao đi làm ở âm phủ mà còn giúp mình hót hòn họt ở dương gian vậy nhỉ?
    Lan Hà: Là tôi đây – Tên lưu manh “độc địa” nhất âm phủ, và lưu lượng nổi nhất dương gian.
    (*Chú thích: Đi Vô Thường – Trong Liêu Trai Chí Dị, thi thoảng âm phủ sẽ sai người sống trên dương gian đi làm âm sai, làm xong nhiệm vụ thì lại quay về dương thế thì được gọi là “Đi Vô Thường”.)
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi anhsaodem12
    Đang tải...


  2. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 1: Mùi Của Quỷ

    Công tác quay bộ phim truyền hình “Vật báu” đã đi đến hồi kết, đa số vai diễn đã hết đất diễn, những người còn lại phải chạy đến thôn Nhạn Đường quay nốt số cảnh còn thiếu. Thôn này hãy còn mấy trăm ngôi nhà cổ, bao gồm một số từ đường thời Minh-Thanh và các loại kiến trúc sân khấu kịch, đều được bảo tồn khá trọn vẹn.

    Chính phủ thành phố vẫn luôn muốn khai phá nơi này, cũng dẫn đoàn làm phim quay ở đây thật.

    Xe dừng ở bãi đỗ xe cổng thôn, người người trong đoàn phim nối đuôi nhau mà đi.

    Lan Hà xách theo vali của mình xuống xe, ở trên núi mát hơn chân núi nhiều. Anh mặc áo nỉ và quần túi hộp sẫm màu, và vì vai diễn yêu cầu nên tóc mái dài đến nỗi hầu như che hết mắt.

    Trong bộ phim không có nhiều vai nam này, anh chỉ tạm xem là vai nam số 5. Nhưng là một diễn viên tuyến 18 vô danh tiểu tốt, công ty lẫn đoàn phim đều không cử trợ lí cho anh, nên đương nhiên hễ có việc gì cứ phải tự mình ra trận thôi.

    Lan Hà không ngại. Đoàn phim thuê nhà dân làm chỗ ở, hành trình tiếp theo phải cuốc bộ, anh vừa đi vừa tám chuyện với Trình Hải Đông – người quay phim trong đoàn. Hai người quen nhau trong đoàn làm phim, tuy khác nghề nhưng đều là đồng hương, lại hợp cạ nhau, sau hai ba tháng thì thành bạn bè.

    Dọc bên đường toàn là các công trình kiến trúc phong cách nhà Thanh, đoàn phim chỉ cử người đến quan sát, ấy thế mà cán bộ thôn ra tiếp đón vẫn giới thiệu liến thoắng cho mọi người nghe: “Hai con sư tử được chạm trổ ở đây, một lớn một nhỏ, sư tử lớn và sư tử nhỏ đọc nghe gần giống như Thái Sư và Thiếu Sư, tức là chỗ chúng tôi từng có người làm quan…”

    (*Sư tử lớn 太狮 |tài shī| đồng âm với Thái Sư 太师 |tài shī|.

    Sư tử nhỏ 少狮 |shǎo shī| đồng âm với Thiếu Sư 少师 |shǎo shī|.

    Trong hệ thống quan lại trung ương, Thái Sư là một trong Tam Công chuyên nuôi nấng, dạy dỗ Vua còn Thiếu Sư ở một cấp thấp hơn Thái Sư, thuộc Tam Thiếu, chuyên giúp đỡ Tam Công.)

    Lan Hà nhìn theo, thảo nào lại chọn lấy cảnh ở đây, việc bảo tồn khá là hoàn hảo, từng có tu sửa nhưng cũng tìm các thợ thủ công già dặn làm theo phương pháp truyền thống, giữ nguyên những đặc điểm cũ.

    Cán bộ thôn tiếp tục ba hoa về việc tổ tiên từng làm quan kia đã mời hậu duệ của Quỷ Cốc Tử* xem phong thủy, thiết kế nhà cửa. Ai cũng cười xòa cho qua, mấy cái chuyện đồ vặt vãnh đi đâu cũng gắn mác liên quan đến Hoàng đế thời cổ đại hay danh nhân nào đó ấy mà, cứ nghe suông thế thôi.

    (*Quỷ Cốc Tử là nhân vật trong lịch sử cổ đại Trung Quốc. Họ tên không rõ ràng con người ông được người đời sau hư cấu nên mang tính huyền bí, theo sách Đông Chu liệt quốc tên ông là Vương Hủ người đời Tấn Bình công, là bạn thân của Tôn Tử và Mặc Tử.)

    Dù đoàn phim đã bớt đi nhiều người thì số còn lại cũng không hề ít ỏi. Phía trước có tiếng pháo và tiếng huyên náo, đoàn người đang đi bèn chậm bước lại.

    “Hắt xì!” Lan Hà quệt mũi, nghe tiếng nói đâu đó từ phía trước lọt vào tai: “Trong thôn có người mất, đang lo liệu tang lễ…”

    Xuất phát từ lòng tôn trọng người chết nên lúc đi ngang qua, mọi người đều cúi đầu, có người còn cúi rạp mình xuống, đương nhiên tốc độ đi sẽ chậm lại.

    Tầm nhìn bị đoàn người che khuất nên lúc Lan Hà bước ra đằng trước mới thấy một khoảnh đất. Người ta lập linh đường ở đó, trong đặt quan tài, bày một cái bàn bát tiên, trên bàn là ảnh người chết, còn cả đèn chong nối điện, hai bên có bé trai bé gái bằng giấy. Trước bàn là chậu sắt, có người đang hóa vàng mã không ngơi nghỉ, khói lửa lượn lờ.

    Trên giao lộ phía bên kia, vài thanh niên trai tráng đang định dựng phướn giấy lên.

    Chỗ này không có vật đỡ nên họ định dùng gậy gỗ để chống. Phướn gọi hồn có bốn khúc, phải lắp thân phướn thẳng tắp, nhưng chẳng hiểu sao mà dựng mãi cũng không xong.

    Dân trong thôn trắng trợn bàn tán:

    “Không dựng được phướn gọi hồn à? Con cháu mất trắng tiền rồi?”

    “Ai biết tại sao không dựng được phướn gọi hồn cơ chứ…”

    Nghe mấy lời đàm tiếu đó, sắc mặt con cháu nhà có tang càng lúc càng khó coi hơn.

    Trình Hải Đông chắp tay vái, nhỏ giọng thì thầm: “Thế là sao nhỉ, sao dựng mãi vẫn không được?”

    Anh ta chưa bao giờ kinh qua tập tục mai táng truyền thống nào, mà thôn Nhạn Đường thì hãy còn giữ lễ nghi mai táng từ xa xưa.

    Lan Hà đáp: “Là cờ phướn vàng, là một loại đồ hàng mã lớn khó có được, dùng để mai táng. Một cái cũng phải lên đến một nghìn tệ, thường phải dựng ở giao lộ bắt mắt nhất.”

    Chú quay phim chính cũng đứng bên cạnh, nghe thế bèn liếc Lan Hà với vẻ bất ngờ, “Cậu còn chưa già mà đã biết mấy cái này hả? Lần trước cậu với Đông Tử rút quẻ, còn là rút quẻ điện tử trên điện thoại, nhưng đến một tệ giải quẻ cũng có muốn tiêu đâu.”

    Lan Hà: “… Đâu cần phải thuật lại đầy đủ thế.”

    Trình Hải Đông cũng lầu bà lầu bầu, cứ một tệ là có thể bị lừa à.

    Lan Hà lại nhìn đống hàng mã, nói với giọng hoài niệm: “Ngày xưa ông nội tôi cũng hóa mấy cái này. Không phải nhà nào cũng bỏ tiền ra mua được đồ mã lớn cỡ đó, một năm chẳng cúng được mấy lần.”

    Thì ra là thế, chú quay phim chính gật đầu, “Ừ, tập tục của lớp người già ấy mà, cờ phướn gọi hồn này là để tích đức chiêu phúc cho người chết, không dựng được sẽ bị trách cứ… Hầy, không liên quan gì đến chúng ta, ai biết cơ sự thế nào. Đi thôi đi thôi.”



    Tuy chỗ thuê là nhà cổ, nhưng quanh năm vẫn có người ở, ngoài việc bắt sáng không tốt nên âm u một chút ra thì điều kiện ở cũng chẳng tệ lắm. Lan Hà sửa soạn hành lí xong thì thấy Trình Hải Đông vào phòng mình, hai người ở cách vách nhau.

    Trình Hải Đông đang gặm chân gà kho chẳng biết đào đâu ra, vừa gặm vừa nói: “Chả phải đêm nay đã quyết là sẽ quay cảnh đêm ở nhà dân đó sao, hình như địa điểm là ở bên kia đường của linh đường ấy. Anh vừa nghe nói đạo diễn đang bàn vụ này…”

    “Sẽ đổi à?” Lan Hà hỏi.

    “Không biết, chắc vậy.” Trình Hải Đông đáp.

    Ăn xong, hai người bèn nhận được thông báo tạm thời buổi quay đêm nay bị hủy.

    “Chắc đạo diễn sợ quấy rầy người chết.” Trình Hải Đông nói, “Cảnh đêm bị hoãn, đợi bên kia xong tang sự đã. Đang sửa giấy thông báo, sáng mai lại quay.”

    Người chết vào ngày hôm qua, linh đường dựng ở một khu vực gần địa điểm quay, họ cũng chẳng thể đoán trước được; mà ở cái ngành này, không ít người có kiêng kị nên sẵn lòng hoãn lại việc quay phim, kết quả này không nằm ngoài dự đoán của mọi người cho lắm.

    “Đi mua bao thuốc lá với anh đi.” Trình Hải Đông rủ rê Lan Hà, anh ta nghiện thuốc lá. Trong thôn có một cửa hàng tạp hóa nằm trên đường chính.

    Lan Hà than vãn, “Có phải hồi học tiểu học anh cũng bắt bạn cùng lớp đi vệ sinh cùng không mà sao giờ thạo vậy?”

    Chỉ nói thế thôi chứ vẫn đi với Trình Hải Đông.

    Lại đến vùng xung quanh linh đường, lúc này màn đêm mới buông xuống, dựa theo tập tục thì chủ nhà phải gác đêm, và đó mới chỉ là bắt đầu thôi. Con cháu nhà chịu tang lại định dựng cờ phướn lên ở giao lộ như không muốn để phí món hàng mua hơn một nghìn tệ này.

    Trình Hải Đông lẩm bẩm như đang tự nhủ: “Sao vẫn chưa dựng được nhỉ?”

    Lan Hà nghĩ, nếu cứ lắp ngược thế kia thì quả thật là rất khó để dựng cột phướn.

    Trình Hải Đông bước vào tiệm tạp hóa mua điếu thuốc lá, không để ý rằng Lan Hà đi bên cạnh đã mất tăm, đến khi anh ta đi ra ngoài thấy Lan Hà bước ra từ linh đường mới giật mình hỏi: “Chú làm gì thế?”

    Lan Hà quay đầu liếc, “Không có gì, cứ đứng đây mãi cũng ngại nên thắp nén hương cho ông cụ.”

    Nhưng chất lượng nén hương kia không được tốt, bột hương không đều, thậm chí anh còn có thể ngửi được mùi ẩm mốc.

    “Thế à?” Trình Hải Đông mờ mịt, nhức đầu, “… Thế anh phải đi không?”

    Lan Hà: “Ha ha, không sao. Đi thôi.”

    Vào cửa rồi mà Trình Hải Đông còn lải nhải, “Ấy khoan, sang nhà bên lấy hai cái chân gà đã, ngon hết sảy luôn.”

    Đoàn phim mời phụ nữ trong thôn làm đồ ăn và tập hợp họ ở nhà bên vì bên ngoài có giếng, tiện cho các cô các dì rửa thức ăn.

    Vừa đến cửa, Trình Hải Đông đã nháy mắt ra hiệu bảo Lan Hà mở lời. Ban ngày anh ta đã đến một lần rồi, vả lại dựa theo kinh nghiệm của anh ta thì nếu Lan Hà bắt chuyện sẽ được đãi ngộ cao hơn.

    Lúc bấy giờ trong sân có mấy người phụ nữ đang chuẩn bị nguyên liệu nấu cho bữa sáng ngày mai. Lan Hà gõ nhẹ cửa hai cái, đoạn hỏi một cách lễ phép, “Chị ơi, em muốn mua hai cái chân gà được không ạ?”

    Dù có mấy chị không biết Lan Hà nhưng trông anh đẹp trai, mắt trong veo, lúc cười còn có má lúm đồng điếu làm người ta vô thức mềm lòng.

    “Mua gì mà mua, nhà chị làm cả một bát to, kho còn nhiều hơn đây, đợi chị lấy cho cậu mấy miếng…” Tức thì có người lau tay đi lấy món chân gà bí quyết.

    Lan Hà bám gót định trả tiền thì mấy chị đã hỏi tình hình về anh loạn hết cả lên: Mấy tuổi rồi, chắc cậu là diễn viên nhỉ, đóng bộ nào rồi, có bạn gái chưa…

    Trình Hải Đông than thở, quả nhiên sau khi các chị gái gặp Lan Hà là chắc cú sẽ mở cửa lòng chỉ trong vòng ba phút.

    Lan Hà chẳng để ý mấy câu hỏi này lắm, chỉ nhìn chằm chằm chân gà.

    Cái bát sứ đựng chân gà thoạt trông đã lâu năm rồi, chân gà bị cắt thành hai nửa, kho thành màu trong suốt, đỏ phơn phớt trông ngon miệng. Hành gừng, ớt khô, rau thơm tô điểm món kho đậm màu hơn, mùi mằn mặn và tươi ngon thơm ngào ngạt phả vào mặt.

    Có một bàn tay bỗng cầm cái cổ tay đương duỗi về phía chân gà của Lan Hà, chị nhặt rau cười mỉm ra chiều bí ẩn: “Chàng trai à, tối nay hai đứa phải cẩn thận đấy. Viện cách vách là nơi ngày xưa ông Tống vừa chết ở.”

    Cái điếu thuốc Trình Hải Đông ngậm trong miệng nhất thời mất hẳn mùi thơm, bèn chửi “Đậu má”, chị ơi chị huỵch toẹt thế này có hơi quá rồi đó, “Sao thôn các chị vẫn cho bọn tôi thuê cái nhà kia vậy? Ông cụ sống ở phòng nào?”

    “Con trai ông Tống cho thuê đó chứ, là cái phòng phía Đông.”

    “Đừng dọa hai đứa nó, đám thanh niên thời nay không tin mấy thứ đó nữa đâu. Vả lại hai ngày trước cái nhà đó đã chuyển đi rồi, ông ta chết trong nhà con trai mình cơ.”

    “Ban đầu bọn chị cũng chả tiện nói… Thôn quyết định thế rồi…”

    Các chị mồm năm miệng bảy giải thích dù đó là nơi người chết đã ở nhưng không phải nơi tắt thở, chỉ là đằng nào cũng là nơi ở lúc còn sống, mới chết chưa được bao lâu.

    Căn phòng phía Đông chính là căn phòng Trình Hải Đông ở, có khi trong đống đồ dùng sinh hoạt trong phòng vẫn còn đồ mà ông cụ từng dùng cũng nên… Anh ta bất giác cắn đầu lọc, nhìn Lan Hà thì chỉ thấy Lan Hà vẫn nhìn chân gà trân trân, “Này? Chú vẫn còn có chứ?”

    “Đây.” Lan Hà chẳng nỡ dời mắt đi, “Anh tìm hậu cần đoàn phim xem có phòng khác không, không thì em đổi phòng với anh.”

    Giọng điệu anh rất ung dung, Trình Hải Đông nhất thời nghĩ mình chỉ sợ bóng sợ gió quá thôi, bị các chị dọa. Song ngẫm lại, anh ta vẫn thấy không hay lắm bèn đi tìm hậu cần đoàn phim đổi phòng, tiếc là bây giờ người ta đang bận tối mắt tối mũi, cứ ậm ừ cho qua chuyện.

    Lan Hà nói là làm, anh đổi phòng ngủ với Trình Hải Đông. Trình Hải Đông càng thấy ngại hơn, chiều cao cân nặng của anh ta thuộc dạng 1m8, làm gì mà mảnh mai bằng Lan Hà, “Không hay đâu…”

    “Hắt xì!” Lan Hà lại nhảy mũi, “Không sao, đổi đi.”

    Người ta hay bảo thấy lạ thì đừng sợ quá, tự nó sẽ biến mất thôi. Lan Hà như thế trông còn gan dạ hơn cả anh ta, Trình Hải Đông xấu hổ bắt chước fan từng đi tham ban: “Cảm ơn anh nha, anh bị cảm hả? Chú ý sức khỏe nhé!”



    Trình Hải Đông chuyển sang căn phòng của Lan Hà. Đây vốn không phải phòng ngủ, mà cũng chẳng biết ban đầu dùng để làm gì mà đặt khá nhiều lá trà. Đó toàn là trà tự tay trồng, không ít người thôn Nhạn Đường trồng trà.

    Vì phòng cho đoàn phim thuê nên có đặt một cái giường lò xo giản dị, nhưng đối với người đi theo đoàn riết quen như anh ta thì chẳng kén chọn lắm.

    Nếu phải nói có chỗ nào bất tiện thì đó là muốn đi vệ sinh ở cái nhà cũ này là phải ra khỏi phòng.

    Buổi đêm ở thôn chẳng có nổi ánh sáng, trong sân chỉ có ánh đèn màu vàng nhập nhèm trơ trọi, người ở viện khác không biết đã ngủ như chết chưa mà xung quanh anh ta gần như im phăng phắc. Thế nhưng Trình Hải Đông lại loáng thoáng nghe được tiếng trống nhạc bay tới từ phương xa.

    Là nhạc tang ở linh đường, ngoài ra không còn âm thanh nào khác.

    Trình Hải Đông nổi da gà, tự an ủi là mình không thể tưởng tượng rồi tự hù chết thế được. Anh ta bèn quay đầu nhìn sang phòng Lan Hà hãy còn sáng đèn, chợt thấy yên tâm hơn, vội đi vệ sinh xong rồi về, bò lên giường.

    Ngủ thôi ngủ thôi, mai còn phải dậy vất vả làm việc nữa.

    Đương lúc Trình Hải Đông nửa mê nửa tỉnh thì thấy người mình lành lạnh, tay sờ soạng toan tìm điều khiển điều hòa chỉnh nhiệt độ lên cao hơn. Bỗng dưng anh ta nghe thấy tiếng ho khan hơi gắng sức của người già, còn cả tiếng thở hổn hển như sắp đứt hơi vậy, “Khụ! Khụ khụ!”

    Anh ta choàng tỉnh, ngặt nỗi mắt vẫn chưa mở, chỉ cảm thấy mặt mình lám nhám. Có khi cái âm thanh nghe đâu đó là do anh ta nằm mơ hoặc do cách âm không tốt, có người dân trong thôn đi ngang qua mà thôi.

    Song, Trình Hải Đông nghĩ, căn phòng này làm gì có điều hòa, cùng lắm là ban ngày phòng mát mẻ chứ đâu có lạnh đến thế, dưới người quả là lạnh thấu xương, càng lúc càng lạnh.

    Dù đang nhắm mắt mà anh ta vẫn vô cớ thấy tối tăm và áp lực, cứ như trên đầu có thứ gì đó đang đè xuống.

    Cách. Đây là tiếng bộ đồ trà. Róc rách. Tiếng rót trà. Cót két. Ghế trúc bị ngồi xuống gây ra tiếng động.

    Âm thanh như gần trong gang tấc, rõ ràng đó là những tiếng động hết sức đời thường mà lại khiến người ta hoảng sợ. Anh ta muốn nhổm dậy kêu cứu, song người nặng trịch không dậy nổi, trong đầu đã hoàn hoàn quên mất tên của những người trong đoàn phim là gì… Có nghĩ thế nào cũng không ra, cũng không gọi được một chữ nào.

    “Cốc cốc.”

    Cửa đột nhiên bị gõ.

    Cả thế giới sáng bừng lên, Trình Hải Đông như bất thình lình lên bờ, ngũ quan bỗng thư thái hẳn, mở mắt ra, thật sự tỉnh lại.

    Anh ta chỉ cảm thấy ngực đã ướt đẫm, bên tai chỉ nghe mỗi tiếng trái tim đập thình thịch, lòng toàn dòng suy nghĩ kinh khủng.

    Ban nãy…

    “Anh Trình?”

    Là giọng Lan Hà.

    Trình Hải Đông vận động cái tảng thịt 90 kg của mình trườn xuống giường đi mở cửa, lúc trông thấy Lan Hà đã rất muốn khóc, “Chú em à, căn phòng này rất…”

    Rất quái dị!

    Nhưng anh ta không dám nói hai chữ đó ra khỏi miệng. Người ta bảo ban đêm không nên nói mấy từ này một cách tùy tiện. Qua chuyện vừa rồi, anh ta sợ là mình đã chọc phải thứ gì đó.

    Trước đây từng nghe nơi nồi chỗ kha khá câu chuyện, nhưng đây vẫn là lần đầu tiên tự mình kinh qua.

    Cái trạng thái có làm cách nào cũng không tỉnh dậy được không giống gặp ác mộng bình thường làm anh ta nghĩ đến bóng đè trong truyền thuyết, dù rằng anh ta không ngủ trong căn phòng ông cụ kia ở.

    Gượm đã, người ta bảo người già khó ngủ, ông cụ không thích lên giường ngủ nên sang phòng cách vách uống trà?

    … Đúng là bất tiện, tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa! Sao mình lại đổi sang phòng này nhỉ!

    “Anh gặp ác mộng à? Em nghe tiếng anh nói mớ to lắm.” Lan Hà hỏi, “Anh muốn sang phòng em ngủ không?”

    “Không!” Lỡ ông cụ uống trà no rồi lại muốn về phòng ngủ thì làm sao?

    “Chú cũng đừng ở phòng đó nữa, tìm đại một người qua ngủ cùng đi. Thật đấy, ban nãy anh… Cậu hiểu chứ?” Mặt Trình Hải Đông trắng bệch, anh ta chỉ đứng ở cửa thôi mà vẫn hoảng, “Anh đi tìm anh Trần ngủ cùng.”

    Anh Trần là một người quay phim khác trong đoàn phim của họ, cũng ở cùng một sân. Thời gian mọi người đi làm là như nhau, mà quan trọng hơn là ngày xưa anh Trần từng tập võ, anh ta nghe bảo người như thế có hỏa khí mạnh, không sợ mấy cái thứ ma quái này.

    “Được, thế anh đi đi… Hắt xì!” Lan Hà lùi một bước ra sau.

    “Chú phải cẩn thận đấy nhé, đừng để bị cảm.” Trình Hải Đông nghĩ Lan Hà quả là can đảm, nhưng sao cứ có cảm giác Lan Hà không để lời mình vào tai vậy nhỉ, chắc là cũng chỉ xem như mình gặp ác mộng thôi. Trình Hải Đông rầu rĩ dặn xong thì đi gõ cửa phòng anh Trần, bị mắng mỏ chút ít là được vào phòng.

    Lan Hà dời mắt khỏi anh ta, quạt tay trước mũi.

    Hồi hãy còn rất nhỏ, ông nội từng dẫn anh đi dự một tang lễ của người bác ở xa. Anh từng hỏi ông nội liệu bác có về không. Thế là ông nội rỉ tai anh hay, rằng người chết đến “đầu thất” sẽ hiện hồn về, bác của cháu sẽ quay về gặp cháu.

    Anh hỏi, lỡ cháu đang ngủ thì sao ạ, làm sao cháu biết là bác cháu có đến hay không.

    Ông nội đáp, thế cháu cứ ngửi thôi, ngửi thấy mùi tro tức là bác cháu đã về.

    *Chú thích: Trong phong tục tang lễ của người xưa, “đầu thất” là chỉ ngày thứ 7 sau khi người chết tạ thế. Mọi người đều tin rằng vào ngày “đầu thất”, linh hồn người chết sẽ trở về nhà. Người nhà cần chuẩn bị một mâm cơm, sau đó trốn đi trước khi linh hồn người thân trở về (có thể trốn trong chăn, hoặc đi ngủ. Nếu hồn nhìn thấy người nhà sẽ tưởng nhớ không muốn rời đi, từ đó ảnh hưởng tới việc đầu thai. Lại có người nói vào giờ Tý của ngày “đầu thất” người nhà nên đốt một đồ vật có giống như hình cái thang để linh hồn có thể theo chiếc thang này lên trời.
     
  3. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 2: Gấp Trăm Ngọn Núi Vàng, Hóa Vạn Lụa U Minh

    Ngày hôm sau, ánh mặt trời tiếp thêm lòng can đảm cho Trình Hải Đông. Anh ta thêm mắm dặm muối bô bô kể chuyện mình đã nếm trải ra, cũng than thở nếu không có Lan Hà gan dạ với tấm lòng bao la đánh thức anh ta dậy thì không biết sẽ ra sao nữa.

    Ai cũng biết chuyện anh ta bị bóng đè trong căn phòng của ông cụ đã qua đời, đúng là hãi hùng khiếp vía. Rất nhanh sau đó, chuyện tối qua có anh quay phim gặp phải quỷ đã lan truyền ra khắp đoàn phim.

    Hành động hủy kế hoạch quay phim của đạo diễn hãy còn chưa dậy nổi sóng gì vào tối qua, đến hôm nay đã nghiễm nhiên thành đạo diễn đã nhận ra nơi quái dị từ bảy đời. Nét cổ kính của thôn Nhạn Đường trong một đêm đã thành quỷ khí dày đặc.

    Đạo diễn chẳng vui tí nào, cảm thấy cái thôn này không tốt lành gì sất, nhà đã thế còn cho họ thuê, họ vẫn muốn tôn trọng người chết cơ mà. Ông nghĩ thôi cũng chẳng mấy ngày bèn gọi Trình Hải Đông đến an ủi, đoạn sắp xếp cho họ đến căn phòng ngay cạnh mình.

    Đoàn làm phim mời người trong thôn đến nấu cơm, thậm chí là đóng vai quần chúng. Tin tức này được lan truyền ra từ đoàn phim đến cả thôn, thôn dân khó tránh khỏi ngồi lê đôi mách.

    Trình Hải Đông gặp quỷ một lần, mặt tái đi nhiều, song vẫn tiếp tục kể lể, “Trong thôn đang rỉ tai nhau nghe, cái món đồ lớn mà chú bảo, nghe nói cái phướn là làm ẩu nên mới không dựng được. Ông cụ vẫn chưa đi cũng là vì thế. Chú nói coi, ông cụ giận con cháu thì đi tìm chính chủ đi, tìm anh làm quái gì, bộ xem anh là cháu trai cụ hả…”

    Lan Hà nghe vậy không thấy lạ gì, trái lại còn thấu tỏ. Hôm qua anh thắp hương cho ông cụ, trên hương có mùi mốc.

    Ngoài ra, tiền giấy toàn là tiền giấy vàng, bây giờ có rất nhiều người thu giấy về đóng dấu, mà người dùng tiền giấy kiểu cũ cũng không hề ít, cái này thì không phải ngạc nhiên. Nhưng anh chú ý đến con dấu mờ trên giấy, làm khá ẩu tả.

    Đó là dấu gì? Loại tiền giấy truyền thống này phải dùng đến con dấu đặc chế, lấy búa đập xuống giấy vàng thành dấu tiền.

    Thời xưa người ta toàn mời thợ đến nhà đóng dấu, còn có cái nghề “đóng tiền” nữa là. Bây giờ mua về hoặc người trong nhà đóng cũng được, chỉ khi đóng dấu vào thì nó mới tính là “tiền” giấy. Nếu không, nó sẽ chỉ là một tờ giấy bỏ đi như công văn không có dấu mà thôi.

    Vậy nên trong số đống tiền giấy hóa vàng này có một phần vẫn là giấy vàng bình thường, đến âm phủ không thể lưu thông.

    Lan Hà còn lấy làm lạ, phướn vàng còn bỏ tiền ra mua được thì sao lại ki bo với hương nhang và đồ mã thế nhỉ. Bây giờ anh biết phướn đó cũng làm ẩu, quả là cùng một giuộc.



    Vì chuyện Trình Hải Đông mà cả đoàn phim bàn tán với nhau, tám giờ tối hôm đó kết thúc công việc xong vẫn ngồi buôn dưa xem có cách trừ tà nào không, ví dụ như nhét dao, nhét tiền dưới gối các kiểu.

    Mặc dù buổi tối đã hết việc nhưng không phải nghỉ ngơi hẳn, ai ai cũng bắt tay chuẩn bị công việc ngày mai. Trình Hải Đông đến phòng sếp sòng của họ, Lan Hà thì ở phòng mình chuẩn bị cho cảnh diễn ngày mai.

    Tầm mười hai giờ đêm, Lan Hà mới nghe tiếng Trình Hải Đông về sân, không biết đang thì thầm đôi câu với ai trong sân nữa.

    Căn phòng này gần như chẳng có hiệu quả cách âm mấy, Lan Hà nghe tiếng trò chuyện kết thúc thì lại không nghe tiếng cửa phòng cách vách đâu, mới đầu còn tưởng Trình Hải Đông đi vệ sinh, song lại thấy sai sai bèn ra ngoài ngó xem.

    Anh chỉ thấy Trình Hải Đông đang ngồi trên bậc thang, quay lưng về phía cửa, cúi đầu không biết làm gì.

    “Đông Tử?” Lan Hà bước tới gọi một tiếng, Trình Hải Đông không đáp. Đến khi anh lại gần, ngửi thấy mùi tro giấy mới vội đẩy Trình Hải Đông. Giờ anh mới thấy mắt anh ta vô hồn, dại ra như một khúc gỗ.

    Lan Hà chửi thầm một câu, ngó nghiêng chẳng thấy bóng dáng ai bèn đỡ Trình Hải Đông đến phòng mình. Anh ta đi thì vẫn đi được đấy, ngặt nỗi không còn ý thức riêng nữa, căn bản là mất hồn rồi.

    Lan Hà ngửi được mùi mốc kém chất lượng lẫn trong mùi tro giấy này rất quen, thế là biết có khi ông Tống quắp đi. Hôm qua Trình Hải Đông mới bị bóng đè, vốn dĩ hỏa khí đã thấp rồi, hôm nay bị dẫn đi thẳng luôn.

    Ông nội Lan Hà là “thợ đồ thủ công” mở cửa hàng đồ mã – “Đồ” ở đây là cách gọi chung cho đồ hàng mã bằng giấy cúng người chết, lớn có đồ to như phướn vàng phướn bạc, hàng mã hình đồ vật, hình con người; nhỏ có tiền giấy, phải làm ra hết.

    Làm cái nghề này thường khó tránh khỏi việc giao tiếp với quỷ thần, cũng bị người ta xem là ăn cơm âm phủ, bởi vì việc kinh doanh có liên quan đến âm phủ.

    Từ nhỏ Lan Hà đã mưa dầm thấm đất, thừa hiểu nếu không tìm Trình Hải Đông về thì sẽ thành một tên ngốc.

    Tuy hiện nay người ta vẫn tuân theo “người và quỷ không đi chung đường”, kiểu như nếu không cần thiết lắm thì sẽ chẳng bận tâm đến chuyện âm phủ, nhưng Lan Hà không thể trơ mắt nhìn anh em của mình bị mất hồn được, bèn lật đật tìm tòi trong phòng.

    Tới gần tiết Thanh Minh, khá nhiều dân trong thôn chuẩn bị các món đồ như nhang đèn tiền giấy. Lan Hà lục tung cả phòng thì tìm được một xấp giấy vàng, chỉ là phía trên chưa có dấu tiền. Ngón tay anh gấp giấy nhanh thoăn thoắt, cứ mỗi một lần gấp là ra một đĩnh vàng to.

    Lan Hà sống với ông nội nhiều năm, cũng biết giúp đỡ ông, rất quen làm thủ công, một ngày có thể gấp được mấy nghìn cái. Tuy lâu lắm rồi không ra tay nhưng cũng chỉ một lát là anh đã gấp được một xấp nhỏ.

    Gấp giấy thành đĩnh vàng xong, anh lại tìm giấy trắng gấp thành áo giấy. Cũng có giấy màu, song áo giấy dành cho người mới xuống mồ phải dùng giấy trắng, quỷ mới chết không dám mặc màu rực rỡ quá. Anh gấp cho ông Tống mới để tang nên dĩ nhiên là dùng màu trắng.

    Lại gấp một cái người giấy, viết tên và ngày tháng năm sinh dựa theo chứng minh thư của Trình Hải Đông.

    Trên một phong bì khác, anh viết tên đầy đủ và năm sinh năm mất của ông cụ – Đó là những gì anh đọc được trên cáo phó dán ở quan tài lúc dâng hương. Viết họ tên lên mới có thể đảm bảo người chết nhận được.

    Lan Hà ôm đống đồ ra ngoài, xếp đĩnh vàng chồng lên nhau, sau đó là áo giấy và người giấy, cầm bật lửa của Trình Hải Đông trong tay.

    Hóa người giấy là để làm thế thân cho Trình Hải Đông, gọi anh ta về dễ hơn. Đĩnh vàng và quần áo là vì Lan Hà nhớ đến chuyện con cháu nhà ông cụ vẫn chưa hóa cho ông thứ gì nên hồn.

    Có những thứ này, ông cụ sẽ sống tốt hơn.

    Lan Hà nhấn bật lửa, ngọn lửa nho nhỏ dần bùng lên, phản chiếu trong con ngươi anh.

    Gấp trăm ngọn núi vàng, hóa vạn lụa u minh, hình thành con đường thông đến nơi chín suối giúp người chết.

    Lan Hà chợt thấy tay đau nhói, duỗi ra trước như mất khống chế, ngọn lửa trên bật lửa chạm phải đĩnh vàng bèn nhanh chóng bắt lửa, núi vàng bốc lửa hừng hực!

    Đĩnh vàng cháy rất nhanh, làn gió chẳng biết thổi tới từ đâu cuốn theo tro nhảy múa lên trên như bươm bướm, bay rất cao, cao đến nỗi thậm chí còn vượt qua nóc nhà.

    Con ngươi Lan Hà co lại, đĩnh vàng cháy quá nhanh, chưa gì đã cháy rụi vô số kể. Anh không kịp đặt phong bì xuống, như vậy thì làm sao đảm bảo người chết sẽ nhận được đĩnh vàng chứ.

    Vả lại tro bay ngang mới là dấu hiệu người chết nhận được, còn nghe nói nếu gió thổi dọc lên trên thì…

    Vù.

    Một luồng gió lạnh lẽo lùa vào cổ.

    Trong xương có cảm giác ê ẩm, tưởng chừng như gió âm còn len lỏi vào tận khớp.

    Ở trên khoảnh sân mang phong cách thời Thanh vào đêm khuya chỉ có ánh trăng lành lạnh là còn sáng, hầu như không có bất cứ một âm thanh hay màu sắc nào nữa. Ngoài con bướm giấy đang vỗ cánh bay ra, chỉ còn luồng hơi thở nhè nhẹ như gần trong gang tấc, như đang ở ngay… đang ở ngay…

    Lan Hà chầm chậm thở ra, bất chấp xoay người lại đối mặt với một gương mặt xám ngoét, con ngươi đen thăm thẳm không ánh sáng, hơi thở lạnh buốt phả lên mặt Lan Hà.

    Tim Lan Hà thắt lại, bấm móng tay vào lòng bàn tay mới giữ bình tĩnh nổi!

    Khoảng cách giữa cả hai không quá một mét, Lan Hà đối mặt với ánh nhìn của y, chỉ cảm thấy hơi thở buốt giá đó đang quấn quanh cơ thể mình.

    Sau hai giây đối mặt, đối phương ghé sát mặt lại, quan sát Lan Hà hầu như không phản ứng gì, đôi mắt đen ngòm đầy vẻ xoi mói.

    “… Ưm.” Lan Hà cầm phong bì quạt quạt, nhìn thẳng ra phía trước, “Đói bụng ghê.”

    Đối phương nhìn Lan Hà với vẻ hoài nghi, và rồi vẫn nhìn trân trân ở khoảng cách gần.

    Nếu người thường mà bị nhìn gần như thế thì chắc sẽ hoảng từ lâu rồi.

    Lan Hà cũng nhìn rõ hơn. Y mặc một bộ đồ trắng toàn thân, đội cái mũ cao kều, trên mũ có bốn chữ: Gặp là đi đời. Tay cầm đèn lồng đỏ, trên đèn lồng viết bốn chữ: Âm ty Đông Nhạc(1).

    Đây là… Bạch Vô Thường?

    Một vị nổi hàng đầu trong lớp âm sai địa phủ, sứ giả câu hồn trong truyền thuyết – Quỷ Vô Thường. Ở Trung Quốc, ai ai cũng biết đến hình tượng này.

    Người ta hay bảo ác quỷ là đáng sợ nhất, nhưng hiển nhiên các âm sai phụ trách tróc nã ác quỷ cũng chẳng kém cạnh. Quỷ Vô Thường cũng là quỷ, dù bản tính có hiền lành đến đâu thì sau khi làm nhiệm vụ như vậy nhiều lần cũng tỏa sát khí khắp người.

    Ác quỷ gặp là sợ, huống chi là người sống trên dương gian. Nghe nói nếu bất cẩn gặp phải thì sẽ đổ bệnh nặng một trận.

    Lan Hà cũng chỉ biết đại khái theo lí thuyết, tro bay lên cao quả đúng là dấu hiệu bị quỷ thần địa phủ chiếm đoạt. Chỉ là hơi lạ, trong truyền thuyết Bạch Vô Thường cũng được xem là lão làng dưới âm phủ, là âm sai đứng đầu, chuyên tróc nã ác quỷ, tỉ lệ người thường nhìn thấy y thật sự là rất thấp.

    Anh quá là “may mắn”, được Bạch Vô Thường trộm đĩnh vàng? Đúng rồi, nghe nói trên mũ Hắc Vô Thường viết “Thiên hạ thái bình”, còn mũ của Bạch Vô Thường viết “Gặp là phát tài”, sao trên cái mũ của Vô Thường này lại viết chữ “Tài” kia nhỉ?

    (*Vốn dĩ cụm từ trên mũ phải là 一见生财, tài trong phát tài. Còn Bạch Vô Thường trong truyện lại viết 一见生材, tài trong quan tài. Lại nhớ đến vụ quỷ gặp Vô Thường là bị bắt nên tôi mới hiểu theo ý đó.)

    Lan Hà hơi nghi nghi, nhưng vẫn nhìn phía trước, nét mặt ung dung.

    Đó là sự rèn luyện hằng ngày của diễn viên: Kể cả có chạm mắt với Bạch Vô Thường cũng có thể giả vờ như không nhìn thấy gì.

    Anh chỉ muốn cứu Trình Hải Đông, không muốn giao tiếp gì với thế giới đó.

    Chỉ thấy Bạch Vô Thường cứ nhìn chòng chọc Lan Hà một lúc lâu mới bước sang hai bước, chất giọng lạnh đến nỗi có thể hóa thành nước đá, song niềm hân hoan lại là thật, “Tốt, hàng chất lượng!”

    Y càng nhìn càng thích, lại bất thình lình hỏi Lan Hà: “Mua từ đâu vậy?”

    Lan Hà mắt điếc tai ngơ, núi đĩnh vàng đã cháy rụi, anh cầm chổi bắt đầu quét tro.

    Vô Thường chẳng gạ hỏi nữa, hừ một tiếng, lòng nghi ngờ dần biến mất, thoải mái nhét núi vàng vào lồng ngực như không đáy, thậm chí còn móc mũi.

    Lan Hà: “…”

    Anh đi vào nhà như không có việc gì, lại nghe giọng nói lạnh băng của tên Vô Thường kia đột nhiên cất lên từ phía sau:

    “Lệnh cho hồn Lan Hà nhập vào âm ty Đông Nhạc làm âm sai thứ bảy mươi hai!”

    … Đạ mấu, làm sao y biết tên mình được nhỉ? Lan Hà chỉ thấy cơ thể nhẹ bẫng, bất giác nhắm nghiền mắt.



    Lúc anh mở mắt lại, hai chân đã hơi cách mặt đất. Anh cúi đầu bèn thấy cơ thể mình đang ngã sõng soài dưới đất. Anh không mất hồn như Trình Hải Đông, mà hồn và vía anh đều rời khỏi xác như đã chết.

    Bạch Vô Thường nhìn anh với vẻ khiếp sợ, cầm một tờ điệp trong tay: “Cậu là Lan Hà? Vậy ban nãy cậu không thể không nhìn thấy ta được!”

    Lan Hà: “…”

    Bạch Vô Thường: “…”

    Lan Hà: “…”

    Có hơi xí hổ.

    Bạch Vô Thường cũng tức quá hóa cười, “Đến cả quỷ mà cậu cũng lừa? Hay, hay lắm anh bạn nhỏ, có tiềm năng đấy. Nói cho cậu biết, từ hôm nay trở đi, cậu là một mãnh tướng của âm ty Đông Nhạc bọn ta.”

    Lan Hà nghệt mặt ra: “Ý anh là một nhân viên tạm thời.”

    Anh đã ngộ ra vụ này là sao rồi. Công việc ở âm phủ bộn bề, nếu Vô Thường làm không xuể thì sẽ điều động người sống từ dương gian làm (âm) sai, đi dẫn hồn giúp bọn họ, làm xong thì trả về.

    Cái việc vặt này tên là “Đi Vô Thường”, “Đi âm”, người như thế được xưng là “Vô Thường sống”, vì họ là người sống, nhưng vẫn ngang hàng với quỷ Vô Thường.

    Đương nhiên, dựa theo cách nói của thời nay thì cũng có thể gọi là nhân viên tạm thời của âm phủ.

    Song, Lan Hà không biết tại sao mình lại có tên trong cái danh sách này và bị ép gia nhập.

    “Cậu muốn gọi sao cũng được.” Bạch Vô Thường mỉm cười, “Dạo này bên dưới thiếu người, cậu đi làm với ta cho tốt thì ắt sẽ không bạc đãi cậu.”

    Lan Hà dò hỏi: “Bạch Vô Thường đại nhân, chí tôi không ở đó…”

    Có lẽ mấy bà đồng với pháp sư sẽ mong mỏi được móc nối với âm sai đấy, nhưng Lan Hà đã có công việc của riêng mình, không muốn làm bán thời gian cho lắm. Vả lại, bát cơm âm phủ này không hề ngon lành gì cho cam.

    Bạch Vô Thường sờ mặt, cuối cùng cũng lộ vẻ mừng rỡ, chỉ là trông hơi quái dị trên cái bản mặt bặm trợn của y thôi, “Ây chà, ta đâu phải Tạ gia, cậu nhận lầm rồi. Đương nhiên Tạ gia là tấm gương của ta… Cậu cứ gọi ta lão Bạch là được.”

    Nghe nói tên của “Bạch Vô Thường” tên là Tạ Tất An. Lan Hà giật mình, hóa ra y chỉ là một âm sai bình thường chứ không phải Bạch Vô Thường chính tông, chắc là ngưỡng mộ Bạch Vô Thường nên mới ăn mặc như vậy. “À, chả trách chữ ‘tài’ trong ‘Gặp là phát tài’ của anh bị viết sai.”

    Lão Bạch: “Đó là thông giả tự* thôi.”

    Lan Hà: “…”

    (*Thông giả tự: Một mình thức của phép giả tá, vay mượn âm của chữ khác để tạm thay thế chữ gốc.)

    Anh… Lan Hà nhịn, đoạn nói: “Tôi sẽ viết đơn xin từ chức rồi đốt, nhờ Bạch đại nhân thu xếp cho.”

    Thật ra anh không hiểu tại sao mình lại lọt mắt xanh, nhưng âm phủ ép buộc người sống chưa bao giờ quan tâm đến mong muốn của người đó, hoàn toàn mang tính cưỡng ép, kì kèo với họ là vô ích, chỉ có thể cố gắng chu toàn hết sức có thể mà thôi.

    “Nực cười thật, nào có ai đi cò kè với quỷ thần bao giờ!” Quả nhiên, lão Bạch quát lên, “Phàm là hồn người sống bị điều động thì ít nhất cũng phải làm việc tròn mười hai năm mới được từ chức.”

    Lan Hà: “Đĩnh vàng với áo giấy kia là tôi gấp cả đấy.”

    Bản mặt chết của lão Bạch tức thì nổi màu sắc khác nhau. Thế hả…

    Trên dương gian ai biết phân biệt tiền giấy thật hay giả đâu? Toàn đến ngân hàng hỏi cả. Cho nên không phải tờ tiền mã được hóa nào cũng đạt chuẩn, chất lượng đủ tốt.

    Xuống âm phủ có núi tiền rởm, đa số chất lượng tiền mà con người hóa trên dương gian không đạt điều kiện, chất lượng hoàn toàn không đủ để làm tiền lưu thông nên đành vất sang một bên, chồng chất thành núi.

    Đĩnh vàng Lan Hà gấp trước đó thì khác, đã lâu rồi lão Bạch chưa được gặp đĩnh vàng nào có chất lượng tốt đến thế. Mặc dù chất liệu vẫn vậy, song không phải ai cũng có tay nghề tuyệt bằng.

    Lão Bạch tức thì nảy ý, dè dặt nói: “Thôi được, nể mặt tấm lòng thành của cậu đấy… Nhưng cũng phải làm tròn mười hai tháng.”

    Tiền có thể kết nối với quỷ thần, lão Bạch “giảm giá” một cái, từ mười hai năm xuống còn một năm luôn.

    Một năm cũng dài, Lan Hà đành hỏi: “Thế có thể cho tôi làm công việc giấy tờ được không?”

    Đi Vô Thường không chỉ gồm mỗi việc dẫn hồn, cái này chỉ chiếm đa số thôi, cũng có thể làm công việc khác.

    Lão Bạch cũng đáp một cách miễn cưỡng: “Sẽ cố hết sức có thể.”

    “Cảm ơn.” Lan Hà mặc cả xong bèn rầu rĩ nhận lời.

    Đúng là tai bay vạ gió, làm việc tạm thời một năm cho âm phủ, đã không có lương thì chớ, lại còn phải tự bỏ tiền ra.

    Lão Bạch lấy một bộ đồ đặc chế từ ngực ra, bao gồm một cái mũ cao như y cùng với một cái dây xích và một cái quạt. “Này, của cậu đó, tất cả được làm dựa theo bộ đồ gốc của Hắc Bạch Vô Thường, nhưng chữ trên mũ thì phải tự viết.”

    … Xem ra đám âm sai này sùng bái thủ lĩnh của họ thật, Lan Hà cầm mũ nghĩ đoạn.

    Lão Bạch lại giơ bút ra cho anh: “Cậu muốn viết ‘Gặp là phát tài’ hay ‘Thiên hạ thái bình’?”

    Lan Hà hỏi: “Chỉ được chọn một trong hai thôi hả?”

    Lão Bạch nhìn anh như thấy lạ lắm: “Không phải… Nhưng về cơ bản thì ai cũng chọn một trong hai. Danh tiếng của Hắc Bạch Vô Thường ở hai giới âm dương rất vang dội, bọn ta học cách ăn mặc của hai ngài thì cũng tương đương với mượn hào quang của hai ngài, âm hồn thấy cũng phải e ngại ba phần.”

    Lan Hà hiểu ý của y, “Không phải tôi có thể làm công việc giấy tờ à, cần gì phải lo vụ này?”

    Anh dứt lời, lão Bạch chưa kịp cản lại thì đã viết đại bốn chữ lên mũ: Đến cũng đến rồi.

    Lão Bạch: “???”

    “Đúng rồi, hồn bạn tôi đã lạc mất rồi, tôi có thể dùng cái này tìm anh ấy về không?” Lan Hà cầm cây quạt hỏi. Xích câu hồn chỉ dùng để câu hồn, quạt trả hồn thì có thể dẫn hồn về cơ thể.

    “Đương nhiên là được, chuyện cỏn con ấy mà.” Lão Bạch nhìn Trình Hải Đông, “Nhưng hôm nay cậu phải bắt một linh hồn tên là Tống Cần Dân. Thành Hoàng nơi đây bẩm báo rằng ông ta cứ nán lại ở nhân gian không chịu đi, đang cần hồn người sống là cậu giúp đỡ.”

    Tống Cần Dân không phải là tên của ông Tống mới mất hả?

    Lan Hà: “Có lẽ tôi biết ông ấy ở đâu.”



    Lan Hà ở dạng linh hồn dẫn lão Bạch bay tới nhà ông Tống. Nhìn từ xa anh đã thấy ông Tống và Trình Hải Đông ở ngay cửa, ông cụ muốn kéo Trình Hải Đông vào, Trình Hải Đông thì bám khung cửa dùng dằng không chịu đi.

    Quả nhiên là bị ông Tống quắp đi…

    Lan Hà nghĩ đoạn, giơ quạt lên che mặt.

    “Cậu làm gì đấy?” Lão Bạch hỏi.

    “Tôi muốn đeo cái mặt nạ ấy mà.” Lan Hà nói bằng giọng rầu rĩ.

    Anh bị ép làm công việc bán thời gian này nên không muốn lộ tên, đỡ phải dính dáng đến mấy chuyện rắc rối sau khi hết một năm.

    Thêm nữa là dù ông Tống chưa xem phim anh đóng nhưng có khả năng đã nhìn thấy anh ở trong thôn rồi. Trình Hải Đông lại quen biết anh, nếu thấy anh ăn diện thế này lại chả mất hồn mất vía à? Che đi thì tốt hơn.

    Lão Bạch cười ha ha, cũng lấy làm bất ngờ. Mấy cái tên ăn cơm âm phủ được điều đi chỉ hận không nổi như cồn, tiện thể vơ vét tiền của trên dương gian, trong khi Lan Hà thì khác.

    Còn Tống Cần Dân thấy cái đèn lồng đỏ họ cầm là đã trốn ngay sau cánh cửa rồi.

    Trình Hải Đông khẽ thở phào, vừa ngồi bệt xuống đất thì thấy hai bóng quỷ bay tới, đội mũ cao, trên mũ viết bốn chữ “Gặp là đi đời” và “Đến cũng đến rồi”, cầm xích trong tay, một vị trong đó còn che mặt.

    Trình Hải Đông hốt cả hền, hôm nay chẳng những gặp quỷ mà còn gặp cả quỷ sai!

    Mà sao chữ trên cái ông quỷ sai này cứ lạ lạ thế nhỉ…

    Trình Hải Đông lơ tơ mơ bị ông cụ đưa đến đây, ông cụ nói là muốn mời anh ta uống trà, nhưng đến cửa rồi mới đột nhiên phát hiện mình đã đến nơi này.

    Quỷ khí của Vô Thường rất dày, bình thường người sống gặp phải sẽ đổ bệnh nặng, quỷ nhìn thấy sẽ run như cầy sấy. Dù rằng Trình Hải Đông không biết họ nhưng bản thân vẫn biết sợ từ tận sâu trong linh hồn, thế là ngồi sát tường, nước mắt lưng tròng, “Tôi không muốn chết…”

    Anh ta nhìn dòng chữ “Đến cũng đến rồi” trên cái mũ kia mà khiếp vía, rất sợ họ sẽ mở miệng nói: “Đến cũng đến rồi, quỷ không đi một chuyến vô ích, đưa cả ngươi đi luôn.”

    May là quỷ sai chỉ nói bằng giọng u ám: “Nhóc con chưa hết dương thọ, Bạch gia đưa ngươi về.”

    Trình Hải Đông mừng như điên, “Cảm ơn, cảm ơn anh đại… Bạch gia ạ.”

    Anh ta thấy cái vị “Đến cũng đến rồi” chẳng ừ hử gì, kể cả không trông thấy mặt mũi cũng sợ chết khiếp, “Cũng, cũng cảm ơn…”

    Lão Bạch thuận miệng giới thiệu: “Lan gia!”

    Lan Hà không kịp cản, lắc đầu với lão Bạch đằng sau cái quạt. Không được để lộ tên thật, mặt nạ mà lộ mất nửa thì còn gì nữa.

    Cũng may Trình Hải Đông vẫn chẳng nghĩ đến cậu bạn thân kia của mình. Anh ta chỉ nghệt mặt ra, lẩm bà lẩm bẩm: “Bạch… Lam… Lam Bạch Vô Thường? Tôi mới chỉ nghe đến Hắc Bạch Vô Thường thôi, âm phủ mà cũng có xanh Navy(2) ấy hả?”

    *Chú thích:

    (1) Âm ty Đông Nhạc thuộc cai quản của Đông Nhạc Đại Đế – một trong Ngũ Nhạc Đại Đế, tức năm vị thần trông coi Ngũ Nhạc – năm ngọn núi thiêng của Đạo giáo tại Trung Quốc.

    Đông nhạc Thái sơn Thiên tề Nhân thánh đại đế: trông coi Thái SơnNam nhạc Hành sơn Tư thiên Chiêu thánh đại đế: trông coi Hành SơnTrung nhạc Tung sơn Trung thiên Sùng thánh đại đế: trông coi Tung SơnBắc nhạc Hằng sơn Anh thiên Huyền thánh đại đế: trông coi Hằng SơnTây nhạc Hoa sơn Kim thiên Nguyện thánh đại đế: trông coi Hoa Sơn(2) Chữ Lan trong tên Lan Hà là |lán|, đọc giống Lam |lán| trong xanh lam. Ở đây Trình Hải Đông liên tưởng đến màu xanh Navy, tức 海军蓝白.
     
  4. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 3: Tui Có Một Kĩ Năng Diễn Đặc Biệt

    Còn cả Bạch Vô Thường xanh Navy ư? Có hiểu học thuyết âm dương không đấy?

    Lão Bạch xị mặt: “Đừng nói linh tinh!”

    Quạt trong tay y phất lên, nhìn thì nhẹ nhàng mà lại tạo thành một làn gió âm, thổi trúng hồn Trình Hải Đông làm nó lắc lư, bay về phía thân xác. Chắc là trả hồn về thôi.

    Lan Hà nhìn Tống Cần Dân lấp ló đằng sau cửa, chỉ lộ nửa người. Đến lượt ông rồi.

    Sau khi chết, con người phải đến báo tên ở chỗ Thành Hoàng. Tống Cần Dân nán lại dương nên mới khiến lão Bạch đến bắt hồn, còn về chuyện vì sao ông cụ có thể nán lại thì…

    Lão Bạch lại xị mặt: “Căn nhà này được xây rất khéo, rất nhiều đồ trấn yểm, quỷ ở âm phủ muốn đi vào sẽ dễ lạc hướng. Song, nó vẫn tuân theo phương pháp tạo mệnh nên không gây ảnh hưởng tới chủ nhà. Ông ta trốn nhờ cái này, nhưng cậu là hồn người sống, không bị ảnh hưởng, có thể lôi được ông ta ra.”

    Câu giải thích này của lão Bạch không chỉ để Lan Hà nghe mà còn là để hù dọa Tống Cần Dân.

    Quả nhiên Tống Cần Dân vừa nghe đã quýnh cả lên. Ông cụ tưởng hai vị này không có cách bắt ông như các âm sai trước đó, giờ mới cuống cuồng chạy vào phòng.

    Lan Hà sực nhớ đến vụ cán bộ thôn ngày đó từng thổi phồng chuyện thiết kế phong thủy nhà cửa thôn Nhạn Đường. Xem ra thầy phong thủy trăm năm trước có phải hậu duệ của Quỷ Cốc Tử không thì không biết, nhưng quả là một cao nhân!

    Dù anh đang ở dạng linh hồn thì cũng không phải quỷ thật, hiện giờ vào phòng chẳng thấy khó chịu gì bèn quăng xích đi.

    Lan Hà chỉ quăng bừa thôi, anh và Tống Cần Dân cách nhau tận mấy mét cơ mà, song xích câu hồn vẫn tóm được Tống Cần Dân không trượt phát nào. Tống Cần Dân vốn dĩ không phải lệ quỷ, chỉ là lòng ôm chấp niệm nên mượn sức mạnh của nhà tổ để nán lại dương gian mà thôi.

    Bị xích câu hồn trói lại, giờ đây ông cụ đã đứng yên tại chỗ không nhúc nhích nổi.

    Lan Hà kéo xích về, Tống Cần Dân cũng bay tới, về cơ bản thì không nặng gì, bị Lan Hà dẫn ra ngoài.

    “Quan lớn, quan lớn ơi, ngài tha cho tôi đi, tôi không muốn đi.” Tống Cần Dân cầu xin.

    “Ông ơi ông, đừng gọi cháu như thế.” Lan Hà đáp, “Ông phối hợp bọn cháu làm việc đi.”

    Tống Cần Dân: “…”

    Ông cụ không hiểu tại sao âm sai lại gọi mình là “ông”. Chẳng phải truyền thuyết bảo Vô Thường sống trăm nghìn năm à, với cả sao cứ thấy ngữ điệu này nghe quen đến lạ…

    Tống Cần Dân nghĩ lại cẩn thận, hơi giống cách nói của cậu cán bộ lưu trú trẻ lúc đến nhà mình làm việc.

    “Ông nói xem, ông trốn làm gì? Ở lại nhân gian làm cô hồn dã quỷ, sống được mấy năm mà chẳng được thờ cúng hay thưởng thụ gì, chỉ biết cắn răng chịu đói, một năm ăn một bữa cơm thì có gì hay!” Lão Bạch lấy làm lạ, “Ông xem, bao nhiêu dã quỷ quanh quẩn trên dương thế toàn khóc lóc đòi xuống âm phủ đấy thôi.”

    Tống Cần Dân mới chết, làm gì mà biết nhiều như vậy. Ông cụ vẫn mạnh miệng: “Có phải tôi không phối hợp với công việc chính phủ đâu (Lan Hà: ??). Ngài xem, thôn khuyến khích trồng trà, tôi tiên phong trồng trà; bảo sửa nhà vệ sinh tôi cũng ủng hộ… Nhưng từ lâu tôi đã tích tiền để lo ma chay rồi. Ấy vậy mà con tôi bất hiếu, gạt một con quỷ đã chết là tôi đây, chỉ dùng chưa đến nửa số tiền đó, tôi không cam lòng!”

    Tống Cần Dân bắt đầu trách móc con trai mình, trông đúng là không cam lòng thật.

    Con trai ông cụ không tôn trọng người đã khuất, Lan Hà bèn hỏi lão Bạch: “Giúp ông ấy được không?”

    Lão Bạch dửng dưng: “Người và quỷ không chung đường!”

    Lan Hà nghĩ đến chuyện ông cụ còn trì hoãn vụ phướn chiêu phúc nên kìm lòng không đậu: “Không có cách nào cả ư? Kiểu như chúng ta đi ngang qua nhà con trai ông ấy thì trộm lại tiền của ông ấy về đi mua đồ cúng, vậy là ông ấy có thể yên tâm ra đi rồi.”

    Tống Cần Dân hãy còn chưa nói gì thì lão Bạch đã nói: “Vậy phải thu 30% phí thủ tục! Ông Tống kia, ông có đồng ý không!”

    Lan Hà: “…”

    Anh nghĩ nên viết “Thấy tiền sáng mắt” lên mũ của lão Bạch mới phải.

    Tống Cần Dân mơ lơ: “Chắc, chắc được.”

    Thế là họ đến nhà con trai Tống Cần Dân, mò ra được một xấp tiền mặt đặt ở tủ đầu giường. Đó toàn là tiền tích góp của Tống Cần Dân cả.

    Ông cụ không có một đồng lương hưu nào, cả một xấp tuổi rồi còn trồng trà kiếm tiền, lại chẳng có thói quen gửi ngân hàng, chỉ bọc lại bằng vải bố, khá nhiều đồng tiền lẻ 10 tệ 5 tệ.

    Lúc này, con cháu của Tống Cần Dân đều đang gác đêm ở linh đường, trong nhà chẳng có ai. Ông cụ nhét mấy thứ vào ngăn kéo rồi than thở: “Thằng nhóc chết dẫm này…”

    “Được rồi, đi thôi.” Lão Bạch đứng một bên giục.

    “Đợi thêm lát nữa đi.” Tống Cần Dân cầu xin, “Cháu trai tôi mới lên lớp 9, năm nay sẽ thi lên cấp ba, tôi vẫn muốn nhìn cháu nó. Còn cả lá trà của tôi nữa…”

    Đã xong một chuyện mà Tống Cần Dân hãy còn rất nhiều nuối tiếc và vướng bận.

    Lan Hà nhìn dáng vẻ van nài của ông cụ bèn nghĩ bụng ông cụ ở lại dương thế không hoàn toàn là bởi không cam lòng nhỉ. Dù ghét hay yêu, ông cụ vẫn chẳng bận tâm đến cái sự cơ cực khi ở lại nhân gian và vẫn muốn tiếp tục ở lại nơi đây, sống một cuộc sống tạm bợ thậm chí là chẳng mấy mỹ mãn.

    Lão Bạch đã nhìn quen rồi, lạnh lùng nói: “Lệnh âm phủ mà dám không tuân theo, quỷ mới đi xuống Hoàng Tuyền với ta!”

    Tống Cần Dân nghe vậy thì òa khóc, “Cho tôi ở lại một đêm đi, một đêm thôi!”

    Lan Hà đương khó xử thì bỗng dưng cảm nhận được một luồng cảm xúc mãnh liệt từ đầu ngón tay mình len lỏi vào đáy lòng. Mịt mờ, bất cam, hoảng sợ và tuyệt vọng nhanh chóng nhấn chìm anh như thủy triều.

    Lan Hà giật mình, cả người anh bị những cảm xúc mạnh mẽ và phức tạp này lướt qua. Anh nhìn Tống Cần Dân rồi chợt ngộ ra đây là cảm xúc của ông cụ, đoạn nói với giọng khó chịu: “Sao tôi lại… Hình như tôi cảm nhận được tâm trạng của ông ấy.”

    Lão Bạch nhìn vào hai mắt anh, “Con người quả là phức tạp.”

    Lan Hà: “Nghĩa là sao?”

    Lão Bạch: “Trước và sau khi con người mới chết, cảm xúc sẽ rất dữ dội và phong phú. Xích câu hồn gắn với hồn nên cũng sẽ truyền tải những cảm xúc mãnh liệt đó. Càng là người nhạy cảm càng dễ truyền… Không ngờ cậu vừa lừa quỷ vừa đồng cảm với quỷ! Nếu lấy mấy phần lòng dạ cứng cựa lúc cậu gạt ta ra thì sẽ chẳng gặp chuyện đó đâu!”

    Lan Hà: “…”

    Dù thế nào đi chăng nữa thì Lan Hà cũng học được một kiến thức mới. Nước dẫn điện, xích câu hồn dẫn tình cảm. Đồng thời, anh còn có cảm nhận sâu sắc vì sao người ta nói cơm âm phủ không dễ ăn, vì sao có vài người “đi âm” lại rơi vào tình trạng nửa điên nửa dại.

    Cái kiểu giao tiếp giữa hồn và hồn này còn tấn công người ta mạnh bạo hơn bất cứ một giác quan nào khác, khiến họ rất dễ bị cuốn vào cảm xúc của vong hồn.

    Mà thật ra thì vẫn có vài diễn viên quá nhập vai mà xem mình thành vong hồn thật… Lan Hà hít sâu hai lần, thoát khỏi luồng cảm xúc mãnh liệt này.

    Âm sai đã bắt quá nhiều hồn, dù có nhạy cảm như Lan Hà thì bao cảm xúc cũng đã chết lặng. Lão Bạch trói linh hồn của Tống Cần Dân vào sợi xích của mình, dặn Lan Hà: “Đã không còn sớm nữa, cậu tiễn đến giao lộ là được. Lần sau gặp lại.”

    Y nói xong thì chà tay mang tính ám chỉ.

    Lan Hà: “… Biết rồi!”



    Hôm sau.

    Con trai Tống Cần Dân gác suốt đêm, sáng tinh mơ đi thanh toán tiền cho nhóm đánh trống nhạc, dẫn họ vào nhà mình lấy tiền.

    Kết quả, trước mặt tay nhạc, gã ta mở ngăn kéo đựng tiền ra thì chỉ thấy một lớp tro giấy bên trong!

    … So ra thì chuyện đêm qua của Trình Hải Đông chỉ đáng xách dép.

    Hôm qua anh ta kể bị bóng đè vẫn có khá nhiều người tin. Nhưng Lam Bạch Vô Thường với cái mũ “Đến cũng đến rồi” khá là khó tưởng tượng, thậm chí còn buồn cười nữa là. Cho dù Trình Hải Đông có miêu tả lại bầu không khí kì dị lúc đó ra sao thì cũng chẳng ai bị cuốn hút nổi.

    Trình Hải Đông bực bội than vãn, “Anh nói thật mà, tối qua mấy giờ chú đi ngủ thế hả Lan Hà? Buổi tối anh về thì gặp ông Tống trong sân. Sau đó ông cụ lôi anh đi, là Lam Vô Thường và Bạch Vô Thường thả anh về.”

    “Không, anh nằm mơ thì chớ, đã thế còn thêm nhân vật vào. Chưa bao giờ nghe âm phủ có Lam Bạch Vô Thường bao giờ.” Lam Vô Thường nói, “Có phải anh ngắm chị Tiểu Hoa lâu quá không?”

    Chị Tiểu Hoa là một stylist trong đoàn, thường hay mặc áo phông với họa tiết màu xanh trắng.

    Trình Hải Đông: “…”

    Gì dị.

    Anh ta vò tóc, lẽ nào mình nằm mơ thật, “Không đúng không đúng, chắc chắn anh đã gặp rồi… Ôi, các chú có tin anh đâu. Chả ai gặp, mỗi anh thấy, lẽ nào anh là người được trời chọn?”

    Mắt Lan Hà mông lung. Trình Hải Đông có phải người được trời chọn không thì anh không biết, nhưng chắc cú anh là người được đất chọn đây này…

    Dù rằng anh ta vẫn khư khư cho là mình đã gặp quỷ, song vì tất cả mọi người không tin lắm vào câu chuyện lần thứ hai này nên cuối cùng Trình Hải Đông chỉ đành thành thật đi làm thôi.

    May là Tống Cần Dân đã đầu thai, sau này Trình Hải Đông có thể sống yên ổn.

    Thoắt cái mười ngày quay phim kết thúc, đoàn làm phim bèn tổ chức bữa tiệc nhỏ ở thôn.

    Trình Hải Đông cụng chén với Lan Hà , “Sau này chú có dự định gì?”

    Lan Hà đáp: “Nghỉ nửa tháng rồi tham gia đoàn phim mới. Anh thì sao?”

    Trình Hải Đông chỉ đợi anh hỏi mỗi câu này, duỗi eo nói: “Chuẩn bị vào đoàn của Liễu Thuần Dương!”

    Liễu Thuần Dương là một đạo diễn có độ phủ sóng khá cao trong nước, theo nghề đã lâu năm, sau khi hình thành phong cách riêng thì tác phẩm nào cũng được khen ngợi và ăn khách. Vả lại, đạo diễn Liễu cũng xuất thân từ nghề quay phim, vào đoàn của ông ta tức là Trình Hải Đông có thể học được khá nhiều thứ, lí lịch cũng đẹp hơn.

    “Liễu Thuần Dương sắp quay bộ mới rồi hả?” Lan Hà ở trong đoàn bận tối mày tối mặt, một ngày không nhìn điện thoại được mấy lần nên không biết vụ này, “Anh cừ ghê.”

    Trình Hải Đông: “Ha ha, thì ăn bám thầy mà… Vẫn đang trong khâu chuẩn bị, thầy anh về sẽ bắt đầu đọc kịch bản cùng. Nghe bảo khoản đầu tư đầu tiên đã rót vào, bộ phim của anh ta chắc chắn không thiếu tiền đâu.”

    “Chẳng những không thiếu tiền mà còn không thiếu diễn viên.” Lan Hà cảm khái. Đương nhiên vai diễn của Liễu Thuần Dương có tính cạnh tranh cao, tiếc thay Liễu Thuần Dương có cá tính riêng. Ông rất thích dùng diễn viên ruột, vai diễn lớn hay nhỏ cũng vậy, lựa chọn diễn viên mới rất rất cẩn thận. Cuối cùng, những vai diễn còn lại để tranh giành là rất có hạn.

    “Đi đi, chúc đạo diễn đi.”

    Lúc này có người gọi, Lan Hà cũng cũng bám gót theo họ.

    Tâm trạng đạo diễn đang tốt, lần lượt chuyện trò với họ. Gặp mặt là duyên, sau khi đoàn làm phim này giải tán, không biết sau này còn có cơ hội làm việc với nhau nữa không.

    “Lan Hà.” Đạo diễn vỗ vai Lan Hà, “Chú thấy cháu diễn khá ổn đấy.”

    Đạo diễn và Lan Hà đã từng hợp tác hai lần với nhau, mặc dù đất diễn của Lan Hà không nặng lắm, song ông nhìn nhận sự cố gắng của Lan Hà, vả lại tính cách Lan Hà không tệ, không thích đi đường ngang ngõ tắt, chứ không với cái vẻ ngoài của anh thì dễ như ăn cháo.

    “Cảm ơn đạo diễn ạ.” Lan Hà vội đáp.

    “Đôi khi kĩ năng diễn thì nhiều nhưng có vẻ bộc lộ cảm xúc vẫn chưa đủ… Cái này ấy à, cháu còn trẻ, vẫn có thể tích lũy dần, cảm nhận cuộc đời nhiều hơn.” Đạo diễn đã uống đến độ giọng lè nhè, nói úp mở.

    Lan Hà gật đầu một cách nghiêm túc.

    Đạo diễn buồn hiu: “Còn cơ duyên thì hãy đợi thêm nữa nhé… Vụ này thì khó nói hơn nỗ lực.”

    Lan Hà mỉm cười, “Mình vui là được ạ.”

    “Đúng, vui là được.” Đạo diễn giơ chén rượu lên, bỗng dưng khóc rống, “Đó cũng là lí do mà chú quay tuyệt cú mèo thế kia! Mà sao nhà đầu tư chả sủng ái chú gì cả! Đến cả việc gặp quỷ cũng không phải chú gặp, rốt cuộc cơ duyên đang nơi đâu! Chú muốn quay một bộ bom tấn lắm rồi!”

    Lan Hà: “…”

    .

    .

    Hôm sau Lan Hà về Bắc Kinh. Anh vốn là người tỉnh Hồ Nam lên Bắc Kinh. Công ty cho thuê một căn hộ chung cư, giá thuê của khu chung cư khá cao. Anh chỉ là một diễn viên không tiếng tăm, chẳng cần phải ở một nơi mang tính riêng tư và tốt hơn làm gì.

    Lan Hà về lại bận chuẩn bị bộ phim tiếp theo, song chưa tới hai ngày sau đã nhận điện thoại của công ty báo cho anh biết đã gặp biến cố, đoàn phim đã kí hợp đồng gặp chuyện không may nên giải tán.

    Trình độ nghề nghiệp và vẻ bề ngoài của Lan Hà đủ để anh có được rất nhiều cơ hội thử vai, nhưng có thể qua được vòng đầu, vòng sàng lọc cuối cùng và được vai diễn gì thì còn nhiều nhân tố quyết định lắm.

    Dù có lấy được vai và kí hợp đồng rồi thì cũng có khả năng đoàn phim sẽ giải tán như bây giờ vậy. Thậm chí vào đoàn phim rồi vẫn có thể xảy ra chuyện ngoài ý muốn.

    Làm việc mấy năm nay nên anh cũng biết phải điều chỉnh cảm xúc như thế nào, thế là anh dốc sức đối phó với sự thất vọng này.

    Lan Hà đành làm cho mình hai món, ăn nhiều lên… Mà cũng chẳng dám ăn nhiều, phải giữ cân nặng, chỉ mượn ăn để an ủi mình mà thôi.

    Ngày hôm sau tỉnh dậy, đương lúc đánh răng lại nhận được cuộc gọi từ công ty bảo có một bộ phim thần tượng chia vai khá ổn, công ty cũng đã nộp một vài hồ sơ của diễn viên có lịch trình phù hợp dưới trướng lên, giành vai nam ba cho Lan Hà, thông báo đi thử vai.

    Lan Hà vừa mất một công việc nên đương nhiên đã lên dây cót sẵn, đến nơi hẹn đúng ngày. Trước đây bộ phim thần tượng của đạo diễn này từng gặt hái thành tích khá tốt, một vai nam ba nhiều đất diễn thế này… chắc sẽ cạnh tranh gay gắt lắm đây.

    Văn phòng của đoàn phim được đặt trong một tòa nhà, Lan Hà được gửi kịch bản một cảnh, người ở khu vực chờ không hề ít ỏi. Anh nghiền ngẫm kịch bản, đọc đi đọc lại bèn có tí linh cảm. Đợi tầm hai tiếng sau thì bị gọi vào văn phòng.

    Lan Hà đã từng tra thông tin của đạo diễn, cho nên anh nhận ra người đàn ông trung niên bụng bia đứng trước cửa sổ sát đất đang tám chuyện với một người đàn ông đội mũ lưỡi trai là đạo diễn của bộ phim này – Vương Mậu.

    “Đạo diễn Vương?” Nhà sản xuất ngoái đầu gọi, Vương Mậu và người đàn ông đội mũ lưỡi trai kia gật đầu ngồi xuống. Người đội mũ lưỡi trai vẫn đứng quay lưng trước cửa sổ, không để lộ mặt.

    Vương Mậu hất cằm nói với một nhân viên nữ đứng bên: “Mao Mao đóng với diễn viên này đi.”

    Cô gái tên Mao Mao bèn bước tới trước mặt Lan Hà.

    Cô không phải diễn viên mà là trợ lý của đạo diễn, cũng không biết diễn, chỉ là lúc cần thiết thì làm nhân vật nền thôi. Song Lan Hà trông rất đẹp, tâm trạng của nhân vật nền như cô cũng khá khẩm hơn.

    Dù không biết diễn thì làm người diễn nền lâu, cô cũng thuộc nằm lòng lời thoại, cũng hiểu đại khái lối diễn của các diễn viên.

    Bộ phim này đi theo kịch bản gốc, cảnh này là về nam ba – anh trai của nữ chính – vì là đối thủ một mất một với nam chính mà cãi nhau om sòm với nữ chính, lúc này nam ba đã mắc bệnh nan y.

    Sau khi anh đẹp trai nhập vai vào nhân vật, ánh mắt cũng thay đổi, lạnh lùng nói: “Em muốn ở bên nó, trừ phi anh chết.”

    Mao Mao sửng sốt. Đa số các diễn viên trước đều giữ thiết lập là một người hướng ngoại của nam ba, bộc lộ tình cảm hay ngôn ngữ cơ thể cũng khá là phong phú, vừa diễn là bắt vai, trong lời nói cũng chứa đựng nỗi căm hận với nam chính, sự bất cam khi sự nghiệp bị hủy bởi nam chính, sau đó mới để lộ vẻ đau đớn do chịu đựng căn bệnh.

    Mao Mao không biết người ta diễn đạt đến mức độ nào, bình thường cô chỉ phân biệt được người ta có gượng hay không thôi.

    Nhưng thoắt cái, Mao Mao chẳng còn lòng dạ nào để nghĩ đến những chuyện khác nữa, bởi vì ánh mắt của Lan Hà đã thực sự khắc sâu vào lòng cô. Lời thoại hơi máu chó nghe rất thuyết phục dưới cách diễn của anh ta.

    Anh ta nhìn cô chằm chằm, trong mắt như ngưng kết toàn bộ sức lực. Dưới lớp vỏ bọc cương quyết là tự biết thuyền chìm khó vớt, sông Ngân sụp đổ, nhưng không chỉ dừng lại ở lòng bất cam mà dường như còn những cảm xúc khác nữa.

    Mao Mao hoàn toàn bị rung động, thậm chí quên mất lời thoại tiếp theo. Trông cô có hơi sợ, đôi mắt này rất phức tạp, chẳng cần giảng giải cũng làm cô nghĩ đến, nghĩ đến một người sắp chết…

    Mao Mao không chú ý rằng từ khi màn diễn này bắt đầu, căn phòng lặng đi tự bao giờ, ai ai cũng bị cuốn hút theo.

    Chẳng biết từ bao giờ mà người đàn ông đội mũ lưỡi trai trước cửa sổ cũng đã xoay người im lặng quan sát.



    “Khá thú vị…” Vương Mậu vuốt cằm, trao đổi với nhà sản xuất, “Tình cảm tinh tế, rất lôi cuốn, cung bậc phong phú, đến cả tôi cũng hơi nổi da gà đây này.”

    Một diễn viên trẻ mà muốn diễn cảnh liên quan đến cái chết một cách sâu sắc như thế này… là hiếm có!

    Ông tinh tường phát hiện đây là một diễn viên có thể nâng tầm vai diễn.

    Nam ba là vai phụ, cuồng em gái, đa số cảnh diễn khá hài hước, bản thân cũng có một câu chuyện nhất định, nhưng khá gian xảo, không thể hiện nhiều. Lúc này nếu diễn viên diễn tốt, thêm sức thuyết phục thì hoàn toàn có thể tăng chiều sâu của nhân vật lên.

    Nhà sản xuất cũng gật đầu, chuyện này quả là hiếm thấy. Nhân vật chưa nói chuyện mình bị bệnh, mà kể ra thì các diễn viên trước cũng thể hiện ổn, nhưng so sánh rồi mới làm người ta tức chết. Lan Hà diễn quá quá quá thuyết phục, vả lại cũng rất hàm súc, cứ thế tôn lên tính cách của cả nhân vật.

    Nhà sản xuất còn chưa kịp ừ hử gì thì người đàn ông đội mũ lưỡi trai đằng sau đã cất lời: “Hừm, tôi cân nhắc cái đã.”

    “Hả… Hả? Ông thì cân nhắc gì cơ? Mắc mớ gì đến ông?” Vương Mậu ngoái đầu nói, “Anh giai à, bây giờ chúng tôi đang tuyển vai đó.”

    Người đàn ông đội mũ lưỡi trai im ỉm, đè thấp vành mũ xuống.

    Vương Mậu liếc một cái nhìn khinh bỉ.

    Bên kia, Lan Hà nhắm mắt lại, âm thầm thở phào, dần dần thoát vai.

    Kể cũng lạ. Thật ra ban nãy anh đã sực nhớ đến cảm xúc mà mình từng phải trải nghiệm khi tiếp xúc với ông Tống.

    Dù rằng ông Tống hầu như chẳng liên quan gì đến vai nam ba trong một bộ phim thần tượng, ngay cả cảnh đóng cũng khác, nhưng cảm xúc thì giống nhau.

    Luồng cảm xúc lần đầu tiên cảm nhận được qua linh hồn để lại một ấn tượng sâu sắc cho anh, cũng vì cảm nhận lúc là hồn nên rất khó quên.

    Lúc diễn, anh không ngừng nhớ lại, bất giác đắm chìm vào trạng thái đó, đồng thời hòa mình vào vai diễn.

    Lan Hà nói một câu với Mao Mao diễn chung: “Cảm ơn cô.”

    “Không, không có gì…” Mao Mao lắp bắp, hoảng hốt nhìn một Lan Hà đầy sức sống lần nữa.

    “Được đấy, diễn rất tốt.” Vương Mậu đã bước tới, “Lan Hà phải không?”

    Lan Hà để ý người đàn ông đội mũ lưỡi trai kia cũng bước tới, chỉ là vẫn không nhìn rõ mặt. Anh không bận tâm nữa, nhân viên đâu có ít, đoạn vươn tay ra với Vương Mậu, “Chào đạo diễn Vương, đúng vậy.”

    Vương Mậu bắt tay với anh, “Diễn rất hút mắt, tôi rất thích. Có thể diễn ngẫu hứng cho chúng tôi xem được không?”

    Lan Hà hân hoan trong lòng, muốn thử thách anh tức là có hứng thú với cách diễn của anh, cơ hội nhận vai nhoáng cái cao hơn.

    “Vâng, để cháu nghĩ đã.” Anh đang nghĩ xem nên diễn gì thì thấy một bóng dáng nhẹ nhàng đi vào từ ngoài cửa sổ, đeo bản mặt người chết, cầm dây xích, trên mũ cao viết “Gặp là đi đời” – Đúng là lão Bạch, “bạn thân” của loài người.

    “Việc gấp! Lại đây lại đây lại đây!” Mắt lão Bạch dính ngay chỗ Lan Hà, vửa mở miệng đã giục.

    Đậu xanh rau má.

    Lan Hà có hơi sốt sắng, bởi vì anh phát hiện ra lão Bạch đã bắt đầu lấy tờ điệp ra mà lại không có cách nào cản lại…

    Điều quan trọng lúc này là văn phòng to tổ bố thế này, một khi lão Bạch điều anh đi, hồn rời khỏi xác, xác rơi sấp xuống, thì cái thân xác không có hồn này sẽ như đã chết vậy, anh phải giải thích với người xung quanh ra sao? Kể cả có nghĩ anh không mắc bệnh lạ thì cũng chẳng hay ho lắm?

    Không được, nhất định sau này anh phải nói rõ với lão Bạch, không được gọi anh tùy tiện thế được. Anh khác với những người chuyên đi Vô Thường nói đi là đi kia. Anh không chỉ có công việc cá nhân mà còn phải giả vờ không nhìn thấy quỷ lúc ở dương gian nữa kìa!

    Lan Hà động não, vội vàng nói với Vương Mậu: “Đạo diễn à, cháu diễn cảnh qua đời tại chỗ cho chú xem nhé.”

    Vương Mậu: “… Hả??”

    Ông hãy còn chưa kịp phản ứng thì ngay sau đó, chàng trai trẻ này đã ôm tim, mặt lộ vẻ đau khổ, nằm uể oải trên đất, không nhúc nhích nữa.

    Vương Mậu: “…”

    Vương Mậu ngạc nhiên, mãi sau mới không nhịn được, Phụt, ông bật cười, “Ha ha ha ha!”

    Qua đời tại chỗ? Để lưu lại ấn tượng sâu đậm với đạo diễn mà thanh niên thời nay biết tạo điểm nhấn thật đấy.

    Ông cười, những người khác cũng cầm lòng không đậu cười theo, nhất thời cả văn phòng ngập tràn trong niềm vui.

    Người đàn ông đội mũ lưỡi trai bất thình lình lên tiếng: “Diễn hay đấy.”

    “Hở?” Vương Mậu nghe xong thì nhìn kĩ, sắc mặt tức thì nghiêm túc lại. Đúng thật, Lan Hà không chỉ im lặng thôi đâu, “Đừng bao giờ nói diễn xác chết không cần kĩ năng nữa nhé. Cậu nhìn người ta đi, ngực còn chả phập phồng tí nào.”

    Ai nấy cũng nhìn anh, song chẳng nhìn ra sơ hở nào.

    Lúc cảnh chết xuất hiện trong phim, người xem luôn thích dòm ngó, xoi mói xem “cái xác” thở ở đâu, mí mắt rung rung ở đâu. Những lúc ấy, họ rất muốn phỉ nhổ, diễn viên đã cố gắng lắm rồi, đâu thể bảo người ta chết là chết thật đâu, làm sao ngừng thở được.

    Nhưng diễn viên trước mắt này diễn thật quá, thật đến khó tin, ngay cả môi cũng như trắng bệch hẳn ra.

    Thậm chí Mao Mao cũng không khỏi chọt tay Lan Hà rồi sờ lại để xác nhận, đoạn nói với giọng run rẩy: “Đạo diễn Vương ơi, sao, sao giống như… lạnh ngắt thế này…”

    Mọi người: ???

    *Tác giả: Công vẫn chưa xuất hiện! Chắc chắn không phải lão Bạch! Làm sao công lại đi móc mũi được!
     
  5. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 4: Diễn Viên Là Như Này Sao?

    Lan Hà cảm giác hồn mình bị rút ra, nhân lúc vẫn chưa có ai phát hiện ra anh tắt thở thì kháng nghị với lão Bạch ngay: “Tôi vẫn đang làm việc mà, anh đừng bắt hồn tôi một cách tùy tiện được không?”

    Xưa nay người đi Vô Thường toàn là nói ngã là ngã, nhưng Lan Hà lại nghĩ rõ là có không gian cải thiện cơ mà, âm phủ hạch sách quá.

    Lão Bạch: “Có việc gấp.”

    Lan Hà: “Việc gấp gì?”

    Lão Bạch: “Cho vài đồng tiền tiêu.”

    Lan Hà: “…”

    … Xém tí nữa là tức chết, nếu thêm một từ “xin (hãy)” vào sẽ chẳng nghe mất nết như này.

    Lão Bạch nói hùng hồn: “Phí thủ tục lần trước đã bảo vẫn chưa đưa cho ta, tiền đã đưa thì tiêu sạch rồi.”

    Nhiều tiền như vậy mà sạch bách? Lan Hà không biết bây giờ sức mua cụ thể bằng đĩnh vàng ở dưới âm phủ ra sao, nhưng anh biết gia đình bình thường hóa vàng cho người đã khuất thì sẽ một lần hóa tầm bốn xấp.

    Chất lượng đĩnh vàng anh gấp tốt hơn, song ai ngờ lão Bạch lại tiêu nhanh như này.

    Lan Hà nghĩ đến bộ phim gia đình đã từng đóng bèn kìm lòng không đặng hỏi: “Anh xem tôi là cây ATM đấy hả?”

    Lão Bạch: “Là máy in tiền cơ.”

    Lan Hà: “…”

    Anh cạn lời: “Thôi, đằng nào cũng đã rồi. Anh đợi tôi làm việc ở đây xong thì về lấy tiền với tôi.”

    Hai ngày nay Lan Hà vừa chuẩn bị thử vai vừa gấp đĩnh vàng cho Tống Cần Dân và lão Bạch, thậm chí anh còn làm một vài nén hương thủ công.

    Trên bản mặt người chết của lão Bạch lại xuất hiện vẻ hí hửng, trông thật hãi hùng khiếp vía.

    Lan Hà nhìn người đoàn phim đã cuống hết cả lên: “Thôi, tí nữa nói, tôi gấp lắm rồi!”



    “Làm gì có chuyện đó được? Không thở, thật sự không thở nữa!”

    “Đừng lay cậu ta, tôi gọi điện thoại cấp cứu!”

    “Không cần hô hấp nhân tạo thật hả? Tôi từng học chút đỉnh này.”

    Lan Hà chậm rãi mở mắt, (cố tình) vững giọng nói: “Tôi không sao, không phải gọi xe cấp cứu đâu.”

    Mọi người thấy anh tỉnh lại thì dây đàn kéo căng trong lòng chùng xuống, thậm chí còn muốn cảm ơn ông trời, bảo ngất cái là ngất y như thật.

    Ban nãy còn ngừng thở hù họ chết khiếp, chỉ sợ xảy ra chuyện gì.

    Làm sao… nói qua đời là lạnh ngắt hay vậy nhỉ?

    “Không sao thật chứ? Hay cậu cứ đi bệnh viện khám xem? Ban nãy cậu mất ý thức, giọng cũng là lạ.” Vương Mậu lo lắng. Nếu sức khỏe Lan Hà không ổn thì dù diễn xuất có tốt đến đâu cũng chẳng dám dùng, đoàn phim thường phải làm việc với cường độ cao.

    Ban nãy dùng sức nói hơi mạnh, Lan Hà chỉnh lại cách phát âm: “Có thể gặp chuyện gì chứ, ban nãy cháu chả bảo là diễn cảnh qua đời mà?”

    Mọi người: “…”

    Họ không quá tin vào điều mình chứng kiến nữa. Vậy nghĩa là ban nãy chỉ là diễn?

    Sao vậy được! Lạnh, lạnh ngắt thế kia cơ mà!

    Môi cũng trắng bệch ra, vẻ hồng hào trên mặt biến mất tăm, chẳng sờ thấy tiếng tim đập, rõ ràng thêm lát nữa thôi là người cứng còng luôn.

    Lan Hà nghĩ mình quả là xui tận mạng, lại bịa lí do, “Tôi… luyện yoga, biết khống chế tần suất thở của mình, hạ xuống đến rất thấp rất mỏng, thoạt trông như bất tỉnh, nhưng thật ra là đang diễn.”

    Yoga? Còn có tác dụng như vậy hả?

    Chẳng ai tin nổi câu nói này… Bảo Lan Hà mắc căn bệnh lạ nào đó còn đáng tin hơn.

    Vương Mậu hoài nghi: “Nhưng sao gọi cậu mãi vẫn không tỉnh, cậu không… ngất thật?”

    “Tại vẫn chưa diễn xong ạ. Người qua đời sẽ không phản ứng, cháu chỉ diễn trạng thái đó một lát thôi.” Lan Hà nhìn thoáng qua quỷ đòi tiền lão Bạch hãy còn đứng bên cạnh, đoạn nói với vẻ bình tĩnh, “Ban nãy Mao Mao sờ cháu hai cái, nói cháu lạnh ngắt. Sau đó đạo diễn Vương nói…”

    Anh kể từng hành động lẫn ngôn từ ban nãy ra hết, dù rằng vừa rồi anh rơi vào trạng thái chết giả nhưng hồn vẫn ở trong phòng, khi nói chuyện với lão Bạch cũng thu hết vào mắt.

    Nghe Lan Hà nói vậy, đến giờ mọi người mới dần tin, nhưng trong nét mặt vẫn là vẻ khó tin.

    Ai cũng đã làm cái nghề này lâu mà chưa bao giờ gặp một diễn viên nào có thể diễn xác chết đến trình độ này, suýt chút nữa là họ đã gọi cả xe cấp cứu rồi.

    “Tôi cứ nghĩ cậu chỉ muốn đùa tí cho vui, ai ngờ là tuyệt chiêu thật!” Vương Mậu bình tĩnh lại, sực nhớ ra chuyện gì đó, “Tôi chợt nhớ ra hình như hồi trước từng đọc được trên mạng bảo cái gì mà bậc thầy yoga người nước ngoài rơi vào trạng thái chết giả mấy năm, đào lên bèn sống lại… Ban đầu tôi tưởng đó chỉ là truyền thuyết, hóa ra là thật. Cậu đã tập bao nhiêu năm rồi? Có khó tập không?”

    Lan Hà cứng lưỡi: “Khó chứ ạ, phải dựa vào thiên phú.”

    “Đỉnh đấy.” Nhà sản xuất cũng cầm lòng không đậu vỗ tay, “Rất thật, rất tuyệt. Nếu muốn tôi phải nói thì giả sử giao vai diễn này cho Lan Hà, chúng ta nên quay cảnh trọn màn dành riêng cho tuyệt kĩ này của cậu ta. Đợi bao giờ vai diễn của cậu ta kết thúc thì quay lại để xem cư dân mạng có thể phát hiện hơi thở của cậu ta không.”

    Lan Hà: “… Ha ha ha ha.” Anh nghĩ bụng, nghĩa là nhà sản xuất hài lòng về anh rồi?

    Câu nói của nhà sản xuất chỉ là một lời bông đùa nhằm xoa dịu bầu không khí mà thôi, song ai nấy bắt đầu tưởng tượng linh tinh hết cả lên.

    Vương Mậu cũng cười khà: “Vậy chắc người Lan Hà dẻo lắm nhỉ? Xoạc chân cho mọi người nhìn thử xem nào? Chân cậu có vòng được qua đầu không?”

    Lan Hà: “…”

    … Nói dối hại mình!

    Thật ra nếu họ cứ khư khư muốn anh xoạc thì không phải không làm được, nhưng xoạc xong chưa chắc anh đã khép chân nổi.

    Lan Hà cười gượng: “Đây chỉ là tài mọn thôi. Chú đã chứng kiến cả tuyệt chiêu rồi thì xem mấy cái tài lẻ cỏn con đó làm gì nữa.”

    Người đàn ông đội mũ lưỡi trai tháo mũ xuống, điềm nhiên chen miệng: “Chiêu này quả thật rất tuyệt.”

    Những người khác bèn dừng lời, ai cũng biết thân phận của người này. Lan Hà vô ý nhìn rõ mặt ông, cũng ngẩn người: “… Liễu Thuần Dương, đạo diễn Liễu Thuần Dương?!”

    Với độ nổi tiếng của Liễu Thuần Dương, kể cả Lan Hà không lên mạng tìm hiểu trước thì cứ kéo đại một thanh niên nào đó trên đường cũng có thể nhận ra ông.

    Tuy Lan Hà không biết nhiều, nhưng thật ra ngày xưa Vương Mậu và Liễu Thuần Dương là bạn cùng lớp, chỉ là một người đi quay phim truyền hình, một kẻ đi quay phim điện ảnh, xuất hiện ở đoàn phim của nhau chẳng có gì là lạ.

    Liễu Thuần Dương vốn vẫn khá là hứng thú với Lan Hà, chiêu qua đời tại chỗ ban nãy đã để lại ấn tượng sâu sắc cho ông, bèn nói ngay: “Cảnh diễn ban nãy của cậu khá ổn đấy. Tôi có một bộ phim đang chuẩn bị quay, cậu có muốn thử vai không?”

    Lan Hà kích động, Liễu Thuần Dương thích dùng diễn viên ruột mà lại bằng lòng dùng người mới, còn chủ động mời chào là một chuyện hiếm có biết bao!

    Lan Hà chưa kịp đáp thì Vương Mậu đã nói: “Này, có ai đi tuyển người ở ngay đoàn phim của tôi không!”

    Lan Hà tức thì bình tĩnh lại. Đúng, hôm nay anh tới thử vai cho phim của Vương Mậu mà.

    Liễu Thuần Dương đáp: “Vậy hôm nào hẹn sau, chúng ta kết bạn wechat đi.”

    Vương Mậu: “…”

    Nhà sản xuất nhịn cười: “Đạo diễn Vương, đạo diễn Liễu, hai anh đừng dọa đám thanh niên nữa. Lan Hà đừng sợ, chưa chắc thời gian của hai đoàn phim trùng nhau. Cậu nên thử vai đi, họ chỉ là hai ông bạn gei hay cãi chí chóe với nhau thôi.”

    Thật ra họ cũng biết thừa dù bên họ vẫn chưa quyết định, chỉ mới chấm Lan Hà ở vòng sơ tuyển, và Liễu Thuần Dương cũng chưa nói là thử vai nào nhưng đặt trong điều kiện ngang nhau, ai cũng sẽ chọn Liễu Thuần Dương và phim điện ảnh.

    Đồng thời Lan Hà cũng hiểu, một lời mời không có nghĩa là đã quyết xong xuôi. Dựa theo kinh nghiệm của anh, cuối cùng trượt cả hai không phải là không thể. Bây giờ muốn anh chọn Liễu Thuần Dương hay Vương Mậu thì chẳng khác gì bảo học sinh tiểu học chọn đại học top 2, nghĩ nhiều quá rồi…

    Anh đáp một cách chân thành: “Cảm ơn cơ hội hai đạo diễn cho cháu ạ.”

    Bên Vương Mậu, anh đã qua vòng sơ tuyển. Phía họ phải cân nhắc, trưng cầu ý kiến cuối cùng của nhà sản xuất, thậm chí có thể yêu cầu thử vòng hai mới quyết được.

    Liễu Thuần Dương cũng kết bạn wechat với Lan Hà, nói khi về sẽ gửi cho anh một cảnh diễn, hẹn lúc khác thử vai.

    Thật ra Liễu Thuần Dương vẫn chưa bắt đầu tuyển vai, vẫn đang mồi chài diễn viên chính. Chỉ là sau khi gặp Lan Hà, ông nghĩ anh sẽ khá là hợp với vai phản diện trong bộ phim mới.

    Cảnh diễn xác chết của Lan Hà khơi dậy hứng thú nơi ông, cảnh chết ông viết cho nhân vật phản diện cũng yêu cầu kĩ năng diễn xuất tinh tế và có sức hút như vậy. Mặc dù Lan Hà đi thử vai cho phim của Vương Mậu, song Liễu Thuần Dương cảm thấy anh cho ông cái cảm giác giống với điều ông muốn.

    Lan Hà không có gương mặt của một vai phản diện, thậm chí lúc cười còn khá là đáng yêu nữa là, nhưng hình tượng trong lòng Liễu Thuần Dương là vẻ bề ngoài và mặt phản diện phải khác nhau hoàn toàn, như vậy mới tạo ra sự tương phản, và cũng là một điểm khác mà ông vừa ý.

    Song, Liễu Thuần Dương vẫn muốn thử thách thêm, đánh giá xem Lan Hà có khả năng hoàn thành những khía cạnh khác của nhân vật này hay không, cho nên ông đưa Lan Hà một cảnh diễn mang tính biểu tượng.



    Sau khi uyển chuyển từ chối lời đề nghị muốn xem chân vòng qua cổ của đạo diễn Vương lần nữa, Lan Hà ngồi tàu điện ngầm về, tiện thể gửi tin nhắn wechat cho công ty kể lại tình hình. Bên kia hết sức coi trọng, còn hỏi Lan Hà có muốn tìm thầy hướng dẫn gấp không, Lan Hà lại từ chối uyển chuyển.

    Lão Bạch đứng ngay cạnh anh, chợt cảm thán: “Trước đây chỉ có mỗi bọn ta đi dưới lòng đất thôi.”

    Người trên tàu điện ngầm không hề ít, Lan Hà đứa dựa vào thanh chắn, bình tĩnh nhìn thẳng ra phía trước như không nhìn thấy lão Bạch.

    Lão Bạch lại mở mang khả năng giả ngu giả dại của anh, “Ồ, diễn viên là như này sao?”

    Lan Hà đưa lão Bạch về căn hộ chung cư của mình thì gặp người thuê phòng cách vách trong thang máy. Đó là một chàng trai mặc Đường trang hai vạt cân xứng, chừng 20, 30 tuổi. Gã chuyển đến đây muộn hơn Lan Hà, thuê một căn hộ hai phòng. Hai người làm hàng xóm non nửa năm, bình thường chỉ quen sơ, đến cả tên cũng không biết.

    “Lâu rồi không gặp, tôi còn tưởng anh chuyển đi rồi.” Hàng xóm nhận ra Lan Hà bèn mỉm cười bắt chuyện.

    Lan Hà vừa nhấn thang máy vừa đáp: “Đi công tác, hôm trước vừa về.”

    Anh duỗi tay ra làm lộ một đoạn cổ tay, trên đó có một vết lằn đỏ rõ mồn một.

    Hàng xóm nhìn thoáng qua vết lằn trông đáng sợ này, “Này, tay anh bị sao thế?”

    “Không sao, bị lằn thôi.” Lan Hà đáp mập mờ. Ban đầu không có vết lằn này, nhưng kể từ khi anh quấn xích câu hồn tại đây, tỉnh lại bèn phát hiện cổ tay có vết lằn, không sưng không đau, cũng chẳng bị làm sao.

    Khi sắp đến tầng, hàng xóm nghe máy, đáp mấy câu: “… Ông chủ à, nghe nói là lệ quỷ, đã thế còn nhắm trúng anh, rõ là muốn tìm thế thân… Vâng, rất phiền phức, phải thêm tiền.”

    Lan Hà và lão Bạch không khỏi quay đầu sang nhìn hàng xóm.

    Hàng xóm thấy anh nhìn với vẻ mặt quái gở bèn lật đật bịt điện thoại nhỏ giọng: “Anh đừng sợ, tôi chỉ là một tên lừa đảo thôi.”

    Lan Hà: “…”

    Lão Bạch: “…”

    Sau khi vào nhà, lão Bạch nói: “Hàng xóm của cậu cũng là diễn viên?”

    Lan Hà: “… Sao cơ?”

    Lão Bạch đáp: “Trên người có mùi cổ quỷ rất rõ, thế mà còn giả vờ không nhìn thấy ta, tự nhận mình là một tên lừa đảo.”

    Lan Hà là người tỉnh Hồ Nam, mẹ là người dân tộc Miêu, song trình độ Hán hóa của anh khá cao, chính anh cũng đăng kí là dân tộc Hán. Ngày xưa nơi đó thịnh hành vu cổ, anh cũng thường nghe phong thanh mấy câu chuyện về cổ trùng nên không ngạc nhiên mấy, chỉ là anh chưa bao giờ để ý hàng xóm là người nuôi cổ, “Chắc là lo tôi sợ hoặc nghĩ anh ta bị điên.”

    Anh không quan tâm hàng xóm làm gì, đoạn nói với lão Bạch: “Anh đứng yên đây, tôi đi lấy ít tiền.”

    Lão Bạch bực, tại sao phải đứng, không cho người ta ngồi à.

    Lan Hà cầm hết số đĩnh vàng và hương nhang mình làm ra, nguyên liệu là dùng tiền Tống Cần Dân mua.

    So với đám hương khói kém chất lượng nổi mốc mà Tống Cần Dân hưởng trước đó thì những nén hương Lan Hà làm là bằng phương pháp ông nội để lại. Bột hương là hỗn hợp của vỏ cây lim nghiền bột, bột đàn hương và vài bột liệu Đông y bôi lên thanh tre thẳng tắp, đã phơi xong.

    Anh hóa cả đĩnh vàng và nén hương trong chậu.

    Lão Bạch ịn mông trên sofa hít khói hương, trông rất đỗi hưởng thụ. Đây là… hương nhang làm thủ công tinh xảo với mùi vị tuyệt vời làm y sướng khôn tả. Mãi lâu sau, y mới cất lời: “Cậu gấp vài con trâu con ngựa ngon nghẻ cho ta đi…”

    “Gấp cho anh cũng được thôi, nhưng anh phải đồng ý với tôi là sau này không gọi hồn tôi một cách tùy tiện nữa.” Lan Hà nói.

    Lão Bạch không ngờ Lan Hà lại nhận lời lẹ thế, vì vụ này còn tốn sức hơn gấp đĩnh vàng nên dĩ nhiên y đồng ý, “Được được!”

    Lan Hà có câu trả lời khẳng định của lão Bạch mới cầm giấy vàng bắt đầu gấp.

    Lão Bạch nhìn kích thước của tờ giấy vàng đó là biết tại sao Lan Hà lại đồng ý thoải mái vậy. Bình thường thợ thủ công làm trâu giấy ngựa giấy toàn phải dựng khung bằng trúc, trực tiếp gấp giấy thành hình là vô cùng khó khăn.

    Nhưng thật ra cách gấp lại nằm ở kết cấu và tay nghề.

    Nếu nắm vững tay nghề tốt thì dù chỉ là cắt giấy cũng hóa thành trâu thành ngựa, kích cỡ lại càng không quan trọng.

    Dù rằng Lan Hà không cắt giấy thành thú thì trang giấy trong tay anh cũng to bằng cỡ một bàn tay. Anh dần gấp thành hình, đỡ tốn sức hơn các thợ thủ công bình thường.

    Xưa kia ông nội Lan Hà muốn tiện hơn bèn làm như vậy, song nhiều khi dù có thể đỡ rườm rà hơn thì ông vẫn phải gấp to hơn, tinh xảo hơn. Bởi vì ngoài phục vụ cho âm phủ ra thì ông cũng phải phục vụ cho dương gian nữa.

    Lan Hà vừa gấp vừa nghĩ đến kịch bản Liễu Thuần Dương gửi. Anh không quen kẻ ác nào. Tuy đã từng xem kha khá phim điện ảnh và truyền hình nhưng anh nghĩ có lẽ lão Bạch đã gặp trường hợp thật nên muốn gom nhặt tài liệu sống. “Anh nói xem, một kẻ biến thái coi thường mạng sống thường sẽ có những đặc điểm như thế nào?”

    “Nhiều lắm. Kẻ ác, ác quỷ… không giống nhau.” Lão Bạch khoan khoái đến độ gác cả chân lên, mùi hương khói lởn vởn bị y hít hết, “Giống như năm xưa ta từng phụng mệnh bắt một lệ quỷ, khi còn sống hại người, sau khi chết làm điều ác, huyết khí bay tận trời…”

    Lão Bạch càng kể càng hăng, cuối cùng chốt lại: “Nếu lần sau có cơ hội, ta dẫn cậu đi gặp ác quỷ là cậu biết.”

    Hương đã hít xong, y đứng dậy cất đĩnh vàng, đoạn nói: “Ta đi trước đây, làm xong trâu ngựa thì gửi cho ta.”

    Đối với người dưới âm phủ, “đốt” và “gửi” cùng một nghĩa.

    “Được.” Lan Hà vốn chỉ muốn làm tí công việc giấy tờ chứ không muốn làm việc bên ngoài nữa, nhưng vai diễn đang nghiền ngẫm bây giờ làm anh lại nảy ý muốn mở mang kiến thức với lão Bạch, nếu chỉ nhìn mỗi trên giấy thì nông cạn quá.

    Lão Bạch đã đi, Lan Hà tiếp tục gấp trâu ngựa giấy, cuối cùng chỉ còn mỗi một tờ, anh bèn xé ra gấp thành một con lừa con.

    Xong. Lan Hà rót cốc nước uống, bây giờ đã sắp mười hai giờ, chợt nghe tiếng động rõ to bên ngoài, nước của Lan Hà đổ ra bàn.

    Có chuyện gì vậy nhỉ? Lan Hà thuận tay lau con lừa con đã bị ướt, đứng dậy đi đến cửa dòm qua mắt mèo.

    Anh bắt gặp hàng xóm vừa gặp mấy tiếng trước đứng bên ngoài, tay nhỏ máu, cửa nhà mở tan hoang, loáng thoáng có thể thấy được chỗ huyền quan bị xáo tung lên, cửa thang máy mở ra đóng lại như bị hỏng, đèn cũng lúc sáng lúc tối.

    Lan Hà bình tĩnh nhìn ba giây, đoạn hỏi với qua cánh cửa: “Người anh em à, anh không sao chứ?”

    Anh hít mũi, ngửi thấy mùi hôi thoang thoảng.

    “Không, không sao. Tôi ngã thôi! Cậu đừng ra!” Hàng xóm hô lên.

    Lan Hà: “Tôi cũng chả định ra, nhưng anh cứ làm ồn nữa là tôi sẽ gọi cho chủ đất đấy.”

    Hàng xóm: “…”

    Gương mặt của hàng xóm qua mắt mèo trông hơi méo mó, mà có lẽ là đang méo mó thật.

    Gã bấu tường muốn đi về phía cầu thang bộ, kết quả cửa thang máy bỗng dưng mở toang, một ống tay áo màu xanh lá đậm thò ra, tóm gã vào, để lại một vệt máu trên đất.

    Sau đó là tiếng Sầm, cửa thang máy đóng sập lại.

    Lan Hà nhíu mày, màu xanh lá? Quỷ mới chết mặc màu trắng, chết lâu năm sẽ có thể mặc màu sặc sỡ hơn, mà mấy màu thuần sáng như đỏ và xanh lá không tự dưng mà có, chắc chắn là lệ quỷ. Lệ quỷ – Anh nghĩ đến lời hàng xóm nói trong thang máy sáng nay.

    Lan Hà xoay người rút một tờ giấy viết một dòng chữ rồi đốt, nghĩa là gửi thư cho lão Bạch.

    Nhưng chưa chắc lão Bạch có thể đến ngay, đành đến chỗ hàng xóm trước đã.

    Dù rằng Lan Hà không thích giao tiếp với âm phủ, khéo làm sao mà thành Vô Thường sống, nhưng anh chẳng phải hạng người thấy chết mà không cứu. Anh suy nghĩ, đoạn cắt một cái khẩu trang, ngả người xuống sofa, hồn lìa khỏi xác, lần đầu chủ động sử dụng kĩ năng của Vô Thường sống: Người lạnh ngắt tại chỗ… À không, là xuất hồn.



    Khẩu trang của Lan Hà che khuất hơn nửa khuôn mặt, mắt cũng bị bóng của cái mũ cao chót vót bị cố tình kéo xuống che đi. Anh thấy thang máy dừng ở tầng hầm một bèn vội vàng đi xuống tầng, bay đi quả nhiên nhanh hơn.

    Trong bãi đỗ xe chỉ có mỗi ánh đèn nhập nhèm, thang máy hãy còn dừng ở tầng này, cửa đóng chặt, anh bước tới nhấn nút.

    Két, cửa thang máy mở ra dần dần.

    Anh chàng hàng xóm đang ngồi trong vết máu rải đầy đất, vẫn còn hơi thở nhưng ý thức đã không còn tỉnh táo nữa.

    Mùi hôi thối thoang thoảng hãy còn đó…

    Lan Hà đương cảnh giác quan sát thì gã bỗng ngẩng phắt đầu lên, gương mặt đẫm máu đột nhiên nở nụ cười gian xảo, hoàn toàn không giống con người, hiển nhiên đã bị đoạt xác.

    Cùng lúc đó, hai má Lan Hà như bị thứ gì đó phất qua. Anh thoáng nhìn xuống bèn thấy lọn tóc dài màu đen, đằng sau có kẻ lạnh lùng thốt: “Vô Thường? Lại thêm một kẻ chõ mũi vào chuyện của người khác…”

    Lan Hà khó có thể miêu tả giọng điệu của ả, dường như từng chữ một đều chứa huyết khí và oán khí.

    Vậy tức là… Không chỉ có một lệ quỷ, mà là hai? Hơn nữa lệ khí nặng, đã đến độ dám khiêu khích cả âm sai.

    Lão Bạch vẫn chưa tới, Lan Hà chỉ là một Vô Thường bán thời gian mới nhậm chức mà thôi. Anh tự ngẫm xem nên vừa tự bảo vệ mình vừa giữ cái mạng nhỏ của hàng xóm ra sao.

    “Cô hiểu lầm rồi, ta chỉ đi ngang qua thôi.” Lan Hà nói từ tốn.

    “Hì hì… Ngài Vô Thường đây biết nói đùa thật.” Tóc dài bay phấp phới mà chẳng cần gió, lại dính lên mặt Lan Hà.

    Lan Hà dần xoay người lại, “Cô nhìn mũ ta mà xem.”

    Anh trông thấy một cô ả mặc đồ đỏ đằng sau, là một đỏ một xanh với kẻ trước mặt.

    Nếu bàn về mặt thì thật ra chẳng kinh khủng bằng mấy quả trang điểm đặc hiệu* Lan Hà từng thấy ở trường quay, nhưng mùi máu tươi quá nồng làm cái mũi nhạy cảm của Lan Hà gần như không chịu nổi.

    (*Trang điểm đặc hiệu là kiểu trang điểm bôi trét vẽ vời mà mình thường thấy trong các phim kinh dị.)

    Tiểu Hồng đọc chữ trên mũ Lan Hà, bất giác đọc thành tiếng: “Đến cũng đến rồi?”

    Củ lạc giòn tan?

    Lệ quỷ chả hiểu quái gì.

    Lan Hà đẩy mũ mình lên: “Cô chưa thấy câu này bao giờ nhỉ? Dù ta là âm sai thì các cô cũng nên biết, âm sai chia ra thành nhiều nghề, tình huống này không thuộc quản lí của ta.”

    Tiểu Hồng nghi ngờ: “Làm gì có âm sai nào nhàn tản mặc kệ sự đời đâu?”

    Hàng xóm bị Tiểu Lục đoạt xác cũng hỏi: “Ngươi là âm sai thuộc sở vụ nào, địa phủ nào?”

    Lan Hà trưng vẻ thành thật: “Ban bếp núc.”
     
  6. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 5: “Này, Cô Ác Hơn Tí Nữa Được Không?”

    Quỷ nữ không biết đến âm ty. Các ả là lệ quỷ nán lại nhân gian, chỉ nghe phong thanh âm ty có sở vụ nào, chứ chẳng ai kể các ban ngành hậu cần của âm ty là gì.

    Nhưng mà.

    Ả nhìn vào đôi mắt của Vô Thường này bèn nghĩ tên này quá là thành thật.

    Lan Hà phô tài diễn xuất của mình: “Khẩu trang trên mặt ta là để phòng khi dầu bắn. Cô biết khách sạn Lộc Uyển ở Bắc Kinh không? Trước khi chết, ta từng là đầu bếp chính ở đó. Bọn ta làm món Hoài Dương là chủ yếu, cũng hầm cả dược thiện, vì yêu cầu của cấp trên mà còn học làm trà bánh. Bình thường ta không xuất hiện đâu, nhưng cô cũng biết tập tục ở âm phủ rồi đó, không có sắc rau xanh nên phải dùng lá vàng điểm chác, còn bắt ta phải tự chìa lá vàng ra cơ. Thật ra lá vàng có ảnh hưởng đến mùi vị không? Không hề, chỉ tăng giá trị lên xíu xiu thôi. Ta nghèo kiết xác, đi tìm khắp nơi xem có quỷ nào có vàng không thì ta… xin tí.”

    Hồi đi học, sở trường của anh là diễn ngẫu hứng. Vả lại, anh từng diễn đầu bếp thật, lại thêm tham khảo hình tượng tham tiền của lão Bạch, diễn rất tròn vai.

    Hiện giờ người xem là quỷ cũng chẳng sao, bãi đỗ xe là sân khấu của anh.

    Tiểu Hồng Tiểu Lục nhìn Lan Hà, càng cảm thấy anh không hề nói phét.

    Có lẽ ban đầu đúng là vì ngửi thấy mùi quỷ nên muốn đến vơ vét chút đỉnh?

    Các ả phân tích bằng cái lí trí không nhiều nhặn cho lắm của mình. Nếu tên âm sai này đến đây không phải vì lo chuyện bao đồng thì cũng chẳng cần dây dưa gì lắm, dù làm ở ban bếp núc cũng là âm sai.

    “Thôi được, tên đầu bếp này dong dài quá.” Tiểu Lục mất kiên nhẫn cất tiếng bằng miệng của hàng xóm, “Cút mau, có làm gì ngươi thì cũng thành ra bọn ta lấy nhiều bắt nạt ít.”

    Hàng xóm đã mất sức chiến đấu, hai nữ quỷ, một Lan Hà, đúng là lấy nhiều bắt nạt ít thật.

    Lan Hà nhún vai, “Gặp lại sau nhé, chúc các cô sớm xuống suối vàng.”

    Anh lùi về sau mấy bước, bất thình lình lấy một xấp ngựa trâu giấy từ ngực ra ném.

    “Trâu ngựa biết đường đến Âm thành, đời đời rời khỏi núi cao âm u. Giấy mực khó tả, xin ý Diêm Quân, trời trăng dừng chiếu, mắt ta sáng tỏ.”

    Trâu ngựa giấy đón gió bèn dài ra, nhoáng cái đã thành đàn, đầu đuôi vừa lắc là sống lại, kế đó tách Tiểu Hồng và người hàng xóm bị đoạt xác ra.

    Âm phủ và dương gian vốn đã có một phần trùng lên nhau, chỉ là đôi bên không nhìn thấy được. Quỷ phải dùng đồ mã, phải có người ở thế giới bên kia “gửi đến” (hóa vàng), còn Lan Hà thì tự tay đưa chúng đến thế giới linh hồn, tất nhiên sẽ làm cả việc “gửi đến” này, chỉ cần khai quang nữa là được.

    (*Khai quang là thủ tục để linh vật nhận chủ nhân. Sau khi khai quang, linh vật sẽ nhận và phù trợ cho chủ.)

    Lan Hà hạ tay phải xuống, dây xích quấn quanh cổ tay cũng thõng xuống.

    Nhìn thế trận này, sao Tiểu Hồng và Tiểu Lục có thể không biết là mình đã bị lừa, rằng một tên đầu bếp mà lại mang xích câu hồn bên mình.

    Tiểu Hồng bị lộ, màu đỏ trên người ả càng rực rỡ, trông như máu vậy. Ngặt nỗi ả còn chưa kịp làm gì thì hết tiếng trâu kêu lại đến tiếng ngựa hí cất lên, đàn trâu ngựa cất vó chạy như bay, húc ngã ả xong lại giẫm thêm mười lần nữa.

    Lấy nhiều bắt nạt ít? Đây mới là lấy nhiều bắt nạt ít này.

    Lan Hà đứng một bên, đoạn ném xích câu hồn lên người “hàng xóm”.

    “Hàng xóm” chịu kích thích lớn, gào thét ngã ngửa xuống đất, quằn quại mấy bận, không cam lòng rời khỏi xác.

    Lan Hà tiếp tục quấn thêm xích thì thấy cơ thể gã run bần bật để lộ cái bóng màu xanh chồng chéo lên nhau.

    “Hàng xóm” bỗng nhiên đứng bật dậy, hai tay nhuốm màu xanh đen, muốn bóp Lan Hà.

    Lan Hà nghiêng đầu, ra sức nện một cú lên mặt “hàng xóm”.

    Trông anh trắng trẻo, thậm chí là hơi gầy, song không phải dạng gầy còm mà có tập tành thường xuyên, sức khỏe không tốt làm sao chịu được việc thức đêm đóng phim được.

    Một cú đấm này có thể nói là bắt hồn vật lý. “Hàng xóm” chảy máu mũi ròng ròng, ngã ngửa ra sau, mà con quỷ xanh hãy còn ngồi nguyên chỗ cũ, không khống chế được thể xác nữa.

    “Qua đây!” Lan Hà thuận thế kéo xích về, Tiểu Lục hoàn toàn rời khỏi thân xác của hàng xóm. Ả bị Lan Hà kéo mà vẫn giãy dụa muốn đánh Lan Hà.

    Hàng xóm vẫn ngồi phịch tại chỗ, bất tỉnh nhân sự.

    Bên kia, vụ giẫm đạp đương lúc kịch liệt, Tiểu Hồng sắp bị giẫm bẹp thì vùng vẫy đứng dậy rít một tiếng.

    Bóng đèn trong bãi đỗ xe chớp tắt theo tiếng rít đó, móng tay ả dài ra, cào đám trâu ngựa này một cách điên cuồng. Dầu gì cũng chỉ làm từ giấy nên có vài con đã bị ả cào nát bươm, chúng gầm gừ mấy tiếng, đoạn bước về chỗ cũ mà chết, hóa thành vụn giấy.

    Lan Hà ném hết số trâu giấy và ngựa giấy còn lại. Thật ra giờ anh muốn ra tay thì cũng có thể chọn dùng xích câu hồn, song đây là lần đầu tiên anh chứng kiến giấy mình gấp hóa thành đồ thật bèn không khỏi lấy làm ngạc nhiên, muốn nhìn lại lần nữa.

    Tiểu Hồng thấy Lan Hà đã khóa cứng Tiểu Lục lại bèn nổi giận, nóng máu xé rách hết tất cả những thứ trước mặt.

    Xích câu hồn kiềm chế âm hồn, dù nó là hàng nhái của dây xích trong tay Hắc Bạch Vô Thường thì vẫn đủ để khống chế hai ả.

    Tiểu Lục chỉ sợ không ổn bèn cầu xin Lan Hà: “Đại nhân, ta có lá vàng, là người ta muốn hại trước đây hóa cho ta, có khoảng một nắm. Ta cho ngài hết, ngài thu số trâu ngựa này lại đi, cô ấy không chịu nổi đâu.”

    Điều kiện dưới âm phủ không được tốt, tình hình âm sai tham ô rất nghiêm trọng, nhưng chất lượng tất cả số vàng quỷ thu được cũng chỉ đến thế, sau khi loại đống tiền kém chất lượng ra thì không còn dư dả.

    Ả nghĩ dù Lan Hà không phải đầu bếp thì cũng chẳng đến mức không cần vàng.

    Lan Hà còn chưa kịp nói gì thì một cái dây xích bay tới, trói gô Tiểu Hồng lại.

    Lan Hà ngoái đầu nhìn, cũng là một âm sai mặc bộ đồ y hệt, tay cũng cầm đèn lồng viết dòng “Âm tào địa phủ”, trên cái mũ cao thì là “Thiên hạ thái bình”.

    Âm sai này cũng sở hữu một gương mặt xám ngắt như người chết, đôi mắt hẹp dài, mỉm cười với Lan Hà: “Bỉ nhân tên Nghiêm Tam. Lão Bạch đã nhận được bức thư cậu đưa, chỉ là hắn ta đang có việc nên chia nửa núi vàng cậu đưa cho ta, bảo ta đến giúp một tay.”

    Tiểu Lục: “…”

    Tiểu Hồng tức tối: “Ngươi không phải âm sai ở ban bếp núc!”

    Nghiêm Tam nhìn hai ả, cười gian hai tiếng, “Âm phủ có biên chế bao giờ, thế mà các ngươi cũng tin có ban bếp núc cho được?”

    Gã thấy dáng dấp thê thảm của Tiểu Hồng, lại nhìn đám ngựa trâu giấy này cũng ra hình ra dạng, thậm chí tinh xảo khôn kể, tư thái hung hãn còn hơn hầu hết đồ hàng mã gã từng thấy. Thảo nào tên này có thể gấp ra những đĩnh vàng chất lượng tốt như vậy.

    Tiểu Hồng và Tiểu Lục im bặt, sau đó chửi Lan Hà té tát.

    Lan Hà vẫn hùng hồn: “Tôi là người làm hậu cần thật, chuyên cung cấp tiền và trang bị, hai nghề có khác lắm đâu!”

    Tiểu Lục chửi điên cuồng, khác nhiều lắm được chứ!

    Lan Hà chỉ cảm thấy luồng cảm xúc đầy căm hận đó truyền tới từ dây xích. Ngặt nỗi trừ việc cảm xúc khác nhau ra thì chẳng thấy sục sôi như từng cảm nhận được.

    Đó là một điều bất ngờ. Lan Hà đang muốn bảo lão Bạch dẫn mình đi gặp ác quỷ để lấy tài liệu thì đã đích thân trải nghiệm cảm xúc của Tiểu Lục rồi.

    Lan Hà: “Này, cô ác hơn tí nữa được không?”

    Tiểu Lục: “…”

    Tiểu Lục bị chọc tức trợn trắng mắt. Đây là lần đầu tiên ả nghe một người bảo lệ quỷ như ả không đủ ác!! Tên này khinh thường ả hả? Ả không ác thì sao cái tên kia lại nằm thẳng cẳng đằng kia?

    Rốt cuộc đây là tên lưu manh nào vậy trời?

    Bị Lan Hà cho một cú như vậy, ban đầu chỉ là oán hận thì giờ đã thành căm thù rồi.

    Hai mắt Tiểu Lục chảy máu, hung tợn nhìn Lan Hà chằm chằm. Lan Hà hãy còn đang bận cảm nhận cảm xúc này: Ác ý, thù hằn, và cả nỗi đau khổ cùng cực vì không được siêu độ…

    Nghiêm Tam lẩm bẩm: “Cái sở thích gì thế này…”

    Lão Bạch kể gã nghe tên Vô Thường sống mới rước về rất nhẹ dạ, còn dễ bảo nữa, chỉ là đôi khi hơi gian xảo một chút. Giờ xem ra lời đồn và người thật chẳng giống nhau.

    Lan Hà hút cảm xúc ra xong bèn nói một cách thành khẩn với Tiểu Lục: “Cảm ơn nhé.”

    Tiểu Lục: “Hừ.”

    Nghiêm Tam áng chừng lũ quỷ, “Đúng rồi, ta xem tuổi quỷ của các ngươi chưa đủ ba năm. Quỷ đột tử bắt kẻ thế thân cũng phải tròn ba năm mới phải, các ngươi lén học thuật bắt hồn người sống như thế nào? Mau nói hết ngọn nguồn cho ông nghe!”

    Tiểu Hồng và Tiểu Lục im re.

    Lan Hà chẳng biết quy củ này. Anh chỉ là con người và anh giúp hàng xóm thôi, còn chuyện bắt thế thân là do hai ả dựa vào bản lĩnh riêng.

    Anh chỉ hiểu sơ sơ qua cuộc trò chuyện của hàng xóm. Có lẽ Tiểu Hồng và Tiểu Lục muốn bám một kẻ, kẻ đó tìm hàng xóm anh giúp đỡ, quá trình hết sức đơn giản. Nào ngờ, Tiểu Hồng và Tiểu Lục lại vi phạm quy tắc.

    Tiểu Hồng và Tiểu Lục cứ im ỉm, Nghiêm Tam cười lạnh hai tiếng, “Thôi được, đến tiết này thể nào cũng có yêu tà xuất hiện…”

    Tiết gì, tiết Thanh Minh ư? Lan Hà tưởng Nghiêm Tam nhắc đến cái này, “Bây giờ nên làm gì đây, đưa hai ả đến âm ty Đông Nhạc để xét xử sao?”

    “Ha ha ha, loại lệ quỷ đột tử như hai ả không thể đến âm ty nào cũng được, vả lại hai ả còn vi phạm quy củ, dù có cao nhân siêu độ, gột rửa oan nghiệt thì cũng chỉ là tạm thời mà thôi… Chưa kể dù có thể dẫn đi thì ta cũng không thể đưa hai ả xuống âm ty Đông Nhạc được.” Nghiêm Tam ra hiệu Lan Hà nhìn đèn lồng của gã, trên đó viết âm tào địa phủ.

    “Âm ty… không chỉ có một?” Lúc trước Lan Hà cũng từng nhìn thấy dòng chữ tương tự trên đèn lồng, song anh tưởng là cùng một nơi nhưng cách diễn đạt khác nhau nên mới hoang mang hỏi.

    “Đương nhiên địa phủ thì chỉ có một, nhưng có mấy sếp lận. Tuy cả ta và cậu được xem là đồng nghiệp nhau, song, ta không thể đi báo cáo với sếp cậu được.” Nghiêm Tam giải thích tiếp, “Nói một cách đơn giản hơn là thần linh thiêng nhờ con người! Ngày xưa người tin vào âm ty Đông Nhạc là nhiều nhất, Phủ quân bèn trở thành người đứng đầu địa phủ. Sau này, số người tin vào Diêm La Vương nhiều hơn bèn phân quyền, Phủ quân cũng thêm một chức danh mới: ‘Thái Sơn Vương’ trong Thập Điện Diêm La. Chức vụ của các ngài vẫn đầy đủ, song mỗi bên thiên một mảng, hoặc xử án chính, hoặc tống ngục chính.”

    Lan Hà chẳng tìm tòi kĩ về hệ thống âm phủ, nghe gã kể vậy bèn thấy âm phủ và dương gian không thoát khỏi liên quan đến nhau, cũng có thay đổi quyền lực.

    Hơn nữa, chính anh cũng hiểu được ý Nghiêm Tam chưa nói thẳng ra: Diêm La là khái niệm của Phật Giáo, còn Thái Sơn Vương lại xuất phát từ hệ thống thần linh Đạo Giáo. Số người tin vào Diêm La nhiều hơn là bởi Phật Giáo truyền vào Trung Quốc, hai giáo dần hòa vào nhau ở phương diện này, cuối cùng hình thành kết cấu như bây giờ.

    “Cảm ơn nhiều. Tôi không biết siêu độ, nên làm gì với họ đây?” Lan Hà chẳng nghĩ ra cách nào hay, cũng không thể thả đi được, ai đảm bảo sau này hai ả sẽ không làm gì nữa?

    “Tưởng gì, đưa đi cho người ta siêu độ là được. Đây là Bắc Kinh, là nơi nhiều kẻ lừa đảo nhất Trung Quốc, cũng là nơi nhiều cao nhân nhất.” Nghiêm Tam dửng dưng đáp.

    Lan Hà: “…”

    Anh cạn lời, nhưng nghĩ lại thì đúng thật, đằng nào cũng là thủ đô, dù cao nhân khó gặp song vẫn có thể mời đến đây.

    Nghiêm Tam híp mắt, bắt đầu đếm, “Hòa thượng, đạo sĩ, xem phong thủy, đỉnh tiên*,… Chia trung bình ra thì mỗi một khu chung cư sẽ có một đến hai người ăn cơm âm phủ, và sẽ luôn có loại người tốt bụng, siêu độ mà không thiết giá cả.”

    (*Đỉnh tiên: Ý chỉ hiện tượng/hành động các loại yêu ma tu hành nhập vào con người để chữa bệnh, trừ tà, xem bói. Kiểu như lên đồng.)

    “Xem ra anh rất có kinh nghiệm, nên đưa hai ả đi đâu?” Lan Hà nghĩ đến hàng xóm của mình, gã là một cổ sư chăng?

    “Thường thì Vô Thường bọn ta sẽ mặc kệ chuyện này, nhưng là đồng nghiệp với nhau, cậu đã mở miệng rồi thì…” Nghiêm Tam nói đến đây thì ngừng.

    “Một ngọn núi vàng.” Lan Hà đã quen quá rồi. Anh nghĩ bụng, thôi cứ coi như thằng bạn cá biệt mất nết đến nhà chơi.

    Quả nhiên, Nghiêm Tam thẳng thắn ngay, “Vậy đi chùa Giác Tuệ đi, hòa thượng ở đó thích làm mấy cái này nhất!”

    Lan Hà đã từng nghe đến chùa Giác Tuệ. Nơi đó rất nổi tiếng với bề dày trăm năm lịch sử, từng là nơi hoàng thất cầu phúc, trong chùa còn có một cái chuông Phật rất to, là di sản văn hóa thời Minh, nặng khoảng mấy chục tấn, được xưng là vua chuông. Nghe nói nơi này hương khói linh thiêng, rất có tiếng ở Bắc Kinh, một số ngôi sao trong giới cũng thích đi.



    “Không chết được đâu, đi thôi!”

    Trước khi đi, Lan Hà còn định xem vết thương của hàng xóm thì nghe Nghiêm Tam giục mình. Anh đang nghĩ nếu lấy sức mình đi dìu, đi cứu hàng xóm thì phải giải thích ra sao, còn Nghiêm Tam nghiễm nhiên muốn anh mặc kệ.

    Nếu là người khác nói câu này, chắc chắn anh sẽ thấy họ lạnh lùng quá, song Nghiêm Tam nói như vậy… lại là một câu nói thật. Hàng xóm chưa hết dương thọ, có quan tâm cũng chẳng ích gì.

    “Thôi được.”

    Họ đi trên âm lộ, dọc đường gặp phải tốp năm tốp ba quỷ hồn: Có quỷ không thể xuống suối vàng, có quỷ không thể không xuống – có kẻ cam nguyện, có kẻ bất đắc dĩ.

    Nghiêm Tam cầm đèn lồng, cô hồn dã quỷ nhìn thấy từ xa bèn chủ động né tránh.

    Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là lúc đi đến một ngã tư, họ bắt gặp một người đàn ông ngồi trên tảng đá ven đường, hắn thấy họ mà không tránh gì cả. Đuôi tóc ngắn đến tai của hắn hơi cong, mặc bộ đồ đen, mắt cũng đen thăm thẳm như viên ngọc đen, là một vẻ đẹp đầy kiêu kì.

    Trên cổ áo hắn lấp ló tràng hạt gỗ màu nhạt, nó quấn đến sau gáy thì lộ nhiều hơn. Sợi tua dài thòng treo một viên ngọc Bối Ngư(1) hình hoa sen màu vàng đè lên tà áo dài rộng thùng thình, trông khá là khí phách.

    Lan Hà không khỏi nhìn nhiều thêm, lấy làm lạ vì sao đối phương không chạy, mà hình như anh không ngửi thấy mùi tro giấy thì phải…

    Nghiêm Tam cắt ngang dòng suy nghĩ của anh: “Này, chút nữa là đến chùa Giác Tuệ rồi. Khi ấy ngươi cứ đặt hai ả ta ở cửa, gõ cửa, lủi đi, đợi nhà sư đi ra nhặt là được…”

    Lan Hà: “…” Nghe cứ sai sai.

    Tiểu Hồng và Tiểu Lục nghe xong cũng chửi ầm lên. Không phải hai ả ý kiến gì với nơi phải đi mà chỉ là muốn chửi Lan Hà thôi.

    “Quỷ Vô Thường, đồ khốn kiếp!”

    “Đừng để bọn ta gặp lại ngươi lần hai!”

    “Đồ lưu manh, đồ vô sỉ, gạt bọn ta là người ban bếp núc!”

    Nhớ lại thì chuyện xấu là xấu ở chỗ bị cái câu “Ban bếp núc” của tên Vô Thường chó chết kia lừa.

    Giọng hai ả the thé, ngay cả người đàn ông vốn ngồi im như tượng ven đường cũng liếc nhìn.

    Lan Hà mắng lại: “Các cô vi phạm quy tắc đi hại người, các cô mới là kẻ lưu manh, là kẻ vô sỉ.”

    Có lẽ sau này phải cải tiến lại chức năng của xích câu hồn để quỷ bị trói không nói được nữa.

    Lan Hà và Nghiêm Tam đưa hai ả đến cửa chùa Giác Tuệ. Lan Hà làm theo như lời Nghiêm Tam nói, dán tờ giấy sau gáy hai ả, gõ cửa rồi trốn, dù nhà sư không thấy quỷ thì vẫn thấy tờ giấy. Vậy là anh chứng kiến cảnh hai ả bị nhà sư nhận vào.

    “Như vậy là sau khi siêu độ sẽ có Thành Hoàng tiếp nhận.” Nghiêm Tam nói, “Chúng ta xong việc rồi đấy. Này, Tiểu Lai, cậu có biết cách về không đó?”

    Tiểu Lai là ai? Lan Hà nghệt một chốc mới ngộ ra ý gã là cái tên trên mũ mình…

    Vì Lan Hà giấu tên nên dù lão Bạch có mất nết đến đâu thì cầm tiền cái là kín miệng, không kể cho đồng nghiệp mình thành thử Nghiêm Tam mới gọi như vậy.

    “Biết chứ. Cảm ơn tiền bối, hôm nay làm phiền đến anh rồi.” Lan Hà cũng nói câu cảm ơn. Thôi được, Tiểu Lai thì Tiểu Lai.

    “Ha ha, việc nhỏ, việc nhỏ thôi.” Bắt người tay ngắn ấy mà, Nghiêm Tam vẫy tay, cầm đèn lồng đi xa dần.



    Lan Hà đi về đường cũ, lúc đi ngang qua ngã tư đường nọ bèn thấy người đàn ông mặc đồ đen hãy còn ngồi chỗ cũ. Anh cũng tò mò, là quỷ mà sao không có mùi quỷ? Quỷ chết trên bờ có mùi tro giấy, quỷ chết trong nước có mùi tanh tưởi, lệ quỷ sặc mùi máu tươi… Nhưng người đàn ông đồ đen này không có mùi nào.

    Lan Hà dừng chân nhìn đăm đăm, thậm chí anh còn cảm thấy người này trông quen quen. Chẳng biết đó là ảo giác, hay là những người đẹp trai luôn có điểm giống nhau nữa.

    Anh cầm lòng không đậu bắt chuyện: “Này anh bạn, anh chết như thế nào?”

    Tống Phù Đàn ngước mắt nhìn âm sai này, y chỉ để lộ hai mắt, mí mắt rất mỏng, con ngươi màu nâu ấm, không có tử khí hay sát khí như quỷ thần bình thường. Trên mũ cao viết “Đến cũng đến rồi” mà hắn chưa bao giờ thấy, trước đó y còn cãi nhau với quỷ, hiếm có âm sai nào hừng hực sức sống đến vậy.

    Bình thường Tống Phù Đàn không thích giao tiếp với quỷ – Hoặc đến cả người hắn cũng không thích nói chuyện cùng. Song, chẳng hiểu sao hắn lại khá là muốn đáp lại âm sai chủ động bắt chuyện này.

    “Ta chưa chết.”

    Hồn người sống hả? Lan Hà tưởng hắn là quỷ chủ yếu là vì người thường hồn lìa khỏi xác sẽ chẳng bình tĩnh nhường ấy, họ thường sẽ giống như Trình Hải Đông.

    “Anh cũng ăn cơm âm phủ?” Lan Hà hỏi.

    “Ngươi nấu cơm âm phủ?” Tống Phù Đàn hỏi ngược lại, ban nãy hắn nghe Tiểu Hồng Tiểu Lục nhắc đến ban bếp núc.

    Lan Hà: “Tôi không nấu.”

    Tống Phù Đàn: “Ta cũng chẳng ăn.”

    Hai người đối đáp hết sức thuận lợi, vừa dứt lời cái là lại im lặng.

    Một lát sau, Lan Hà bật cười, đoạn nghĩ bắt chuyện với người ta mới thấy suy nghĩ cả hai khá là ăn ý.

    Trong mắt Tống Phù Đàn cũng chứa chan ý cười.

    Hắn nghĩ đoạn, bèn giải thích: “Hồn ta bất cẩn lìa xác lạc đường nên đợi ở nơi tiện đi lại, đợi người nhà gọi hồn dẫn ta về.”

    Lan Hà sửng sốt, có người bình tĩnh như này thật sao? Xuất hồn mà còn biết ngồi ở giao lộ đợi người nhà gọi hồn, thậm chí còn không sợ âm sai luôn?

    Mà cũng có khả năng tập mãi thành quen như anh cũng nên, mặc dù anh thì khác.

    Lan Hà nghĩ, cứ xem như giúp người làm vui vậy, “Thôi được, gặp nhau là cái duyên, bổn Vô Thường sẽ ra roi thúc ngựa đưa anh về.”

    Lan Hà mò vào ngực mình lấy tờ giấy gấp cuối cùng ra rồi vứt xuống đất. Anh chưa thuần thục dùng năng lực của mình lắm, không biết thể xác của người ta ở xa chừng nào để cẩn thận chọn phương tiện đi lại.

    Chỉ là khi tờ giấy kia to lên lại hóa thành một con lừa con.

    Tống Phù Đàn trầm tư, ra roi thúc ngựa?

    “À, chỉ còn mỗi con lừa thôi.” Lan Hà sờ đầu lừa, “Không sao, giống nhau cả. Anh ngồi lên đi?”

    Tống Phù Đàn chẳng nhúc nhích.

    Con lừa thấy hắn ngồi im bèn lấy đầu đẩy hắn.

    Tống Phù Đàn trưng biểu cảm ghét bỏ, nghiêng người né ra.

    “Anh xem, đáng yêu biết bao. Anh tạm chấp nhận đi mà!” Lan Hà nhìn Tống Phù Đàn. Anh thấp hơn Tống Phù Đàn một đoạn, lúc nhìn còn phải hơi ngước đầu lên.

    Đáng yêu biết bao…

    Mắt Tống Phù Đàn sáng quắc, bèn phá chướng ngại tâm lý thật. Hắn cưỡi lừa con, lừa con lập tức lắc đầu đầy hưng phấn.

    Tống Phù Đàn: “Ngươi…”

    Đương lúc Tống Phù Đàn chần chừ, Lan Hà đã rút quạt ra quạt mạnh lên con lừa giấy, “Không cần cảm ơn đâu, anh về đi!!”

    Lừa con kêu hai tiếng đầy “hiên ngang” rồi tung vó chạy như điên.

    Tốc độ rất nhanh, dưới móng nổi gió, chỉ là mình lừa lúc cao lúc thấp, xóc nảy khôn kể. Tống Phù Đàn cúi đầu nhìn bèn thấy một cái chân sau của nó bị thương. Đây là một con lừa què!

    Tống Phù Đàn: “????”

    Lan Hà cũng thấy tư thế chạy của con lừa, ngay cả người anh em kia cũng nghiêng ngả khó tả, quay phắt đầu trừng mình.

    Anh ngẩn ra, bây giờ mới nhớ lại hình như lúc gấp con lừa giấy này, chân sau của nó bị ướt.

    Con lừa đã chạy lộc cộc quá xa, què mà vẫn nhanh thoăn thoắt. Lan Hà rướn cổ gào một câu: “Người anh em, cưỡi cũng cưỡi rồi, chịu tí nha…”



    “Phù Đàn? Con tỉnh rồi à?”

    Tống Phù Đàn dần tỉnh lại, nhìn gương mặt đầy quan tâm của mẹ. Hắn chống giường ngồi dậy.

    Mẹ Tống lo lắng hỏi: “Con cảm thấy thế nào? Mẹ mới gọi cho bố con, ông ấy vẫn đang quay cảnh đêm ở trường quay, sáng mai sẽ về nhà ngay.”

    Tống Phù Đàn lắc đầu, “Không cần đâu mẹ, con không sao.”

    “… Ôi, thôi được.” Mẹ Tống thở dài, con mình đã quen rồi. Song, bà vẫn có vài thắc mắc, “Sao lần này chưa gọi hồn mà con đã về rồi?”

    Trí nhớ lúc mới hồi hồn có hơi mơ hồ, Tống Phù Đàn ngơ ngẩn nghĩ một lúc mới nhớ ra âm sai che mặt, chỉ lộ một đôi mắt màu nâu ấm kia… Mà tại dọc đường đi xóc nảy quá nên lần hồi hồn này choáng đến lạ.

    Ngón tay Tống Phù Đàn giật giật, đến giờ hắn mới nhận ra có thứ gì đó bèn xòe tay ra.

    Mẹ Tống lấy làm lạ: “Đây là gì? Từ đâu ra?”

    Chỉ thấy trong lòng bàn tay Tống Phù Đàn có một con lừa con gấp từ giấy vàng, chân sau phía bên phải hơi nát.

    *Về xưng hô: Thống nhất là khi Lan Hà chưa bị phát hiện thân phận thì trong mắt người ngoài, anh là quỷ sai, cho nên sẽ là “ta-ngươi”. Điều này cũng y hệt như lúc Lan Hà và Tống Phù Đàn nói chuyện với nhau. Lan Hà biết Tống Phù Đàn là con người còn Tống Phù Đàn thì không, vả lại nếu nhìn từ góc độ Tống Phù Đàn thì sẽ miêu tả Lan Hà là “y”, chứ không phải “anh”.

    *Chú thích:

    (1) Tràng hạt Tống Phù Đàn đeo. Đá Bối Ngư là cái được khoanh tròn chính giữa.
     
  7. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 6: Cách Đi Vô Thường Đích Thực

    Ứng Thiều tỉnh vì quá lạnh, vốn dĩ đã mất kha khá máu lại còn đang giữa độ mùa xuân mà còn nằm trên đất nửa buổi tối, suýt nữa đã yên giấc ngàn thu rồi.

    Gã run cầm cập bò dậy mới cảm thấy mặt cũng đau nhức, mũi như bị xe tải cán qua. Gã bưng mũi mới thấy mình đang ở bãi đỗ xe, hai lệ quỷ đã mất dạng, chẳng còn dấu vết nào ngoài đôi chút tro giấy ở cách đó không xa ra – nhưng điều này chẳng khiến gã chú ý nhiều lắm.

    “Rứa hôm qua đã xảy ra chuyện chi hầy?” Ứng Thiều thốt giọng địa phương. Hắn nhớ lại kĩ, hình như lúc mình không tỉnh táo đã thấy một người đội mũ cao cầm dây xích…

    Âm sai?

    “Có âm sai tới ư?” Ứng Thiều hỏi Kim Tàm cổ mình nuôi.

    Kim Tàm cổ đặc biệt hơn các loài cổ khác – Nó có linh hồn, có thể sai khiến linh hồn kẻ khác. Vì lẽ đó mà một cổ sư như Ứng Thiều mới dám nhận công việc thu phục lệ quỷ này. Nó cũng là “cổ quỷ” trong miệng lão Bạch.

    Tiếc rằng Ứng Thiều không ngờ hai chị em kia lại giỏi đến nỗi làm gã mắc mưu của hai ả.

    Kim Tàm cổ đưa ra một câu trả lời chắc nịch cho Ứng Thiều. Đêm qua nó không địch lại lệ quỷ, song vẫn còn chút ý thức. Sau khi chủ nhân ngất, nó vẫn luôn bảo vệ chủ nhân, không đến nỗi lạnh đến chết.

    Ứng Thiều trầm tư, vậy là lệ quỷ bị âm sai bắt lại thật?

    Thật đáng ngạc nhiên, âm sai chẳng thích chõ mũi vào chuyện kẻ khác, muốn mời họ đến đã khó càng thêm khó. Người có thể mời âm sai đến giúp không phải hạng tầm thường. Lẽ nào gã gặp phải một âm sai tốt bụng đi ngang qua tiện tay cứu, hoặc hai ả lệ quỷ kia vốn đã đắc tội người ta?

    Ứng Thiều nghĩ mãi vẫn cảm thấy cái vế sau có khả năng hơn, hai ả kia nhìn là biết rất có thể đã phạm tội.

    Ài, vận may cũng là một dạng thực lực, mình vẫn kiếm được bộn tiền, rủng rỉnh trả tiền thuê phòng rồi. Ứng Thiều vừa lết xác đi bệnh viện vừa gửi tin cho chủ thuê: Chuyện đã xong xuôi, hãy chuyển tiền ngay nhé.

    Đến khi Ứng Thiều vai quấn băng vải, mũi dán băng gạc quay về thì thấy quản lý chung cư đang đứng trước cửa nhà gã nói chuyện gì đó với hàng xóm gã.

    Hàng xóm có vẻ ngoài xinh trai, thường không hay ở nhà. Ứng Thiều hoài nghi anh ta là người mẫu hoặc diễn viên, ngặt nỗi có vẻ chẳng mê tín lắm, chẳng đào ra cách nào để kiếm chác từ anh ta.

    Ôi, suýt nữa quên béng mất nơi này vẫn còn hổ lốn lắm, không biết hàng xóm đã báo như nào nữa. Đêm qua tình hình bên gã rất quái dị, chưa kể còn tự xưng mình là kẻ lừa đảo trước mặt hàng xóm. Ứng Thiều vò tóc, sẽ không phải đổi chỗ ở nữa chứ.

    Quản lý nhìn Ứng Thiều mặt mũi bầm dập, “Cậu Ứng… Là cậu đúng không?”

    Với cái bản mặt của Ứng Thiều thì khó nhận ra nổi.

    “Cuối cùng cậu cũng về rồi. Nghe nói tối qua nhà cậu ầm ĩ quá, hôm nay hàng xóm cậu thức dậy còn thấy bên ngoài có máu, cửa mở toang. Chúng tôi nhìn camera giám sát mà chả hiểu sao nó lại hỏng, thang máy có vết lõm, cậu thì mất tăm… Tôi còn đang nghĩ xem có nên báo cảnh sát hay không.”

    Quản lý hỏi dò, “Cậu Lan hỏi có phải cậu mắc bệnh phải đi bệnh viện không?”

    Tuy camera giám sát trong thang máy bị hỏng nhưng camera ở khu chung cư lại chẳng thấy người ngoài vào. Lan Hà cũng đáp là không có người nào, nên dù quản lý có thấy dấu vết trông như ẩu đả thì vẫn không có bằng chứng để chứng minh. Song, nếu đổ bệnh thì bệnh gì mới tạo ra cái cảnh đó?

    “Hả? À đúng, hôm qua tôi cãi nhau với người ta khá là nóng máu nên đập phá trong nhà, sau đó lại đụng phải tường chảy máu mũi, rồi tại đau quá nên đánh méo thang máy luôn. Tôi sẽ bồi thường phí sửa thang máy, anh cứ đưa hóa đơn cho tôi.” Ứng Thiều ba xạo.

    Nghe thực sự hơi gượng, quản lý không biết là bệnh gì mà máu mũi từa lưa thế kia, song không có bằng chứng, lại thấy tinh thần Ứng Thiều khá ổn đành nói: “Vậy cậu giữ gìn sức khỏe nhé…”

    Quản lý lại nói đôi câu với gã mới đi.

    Anh hàng xóm kia đứng ở cửa nhìn Ứng Thiều: “Ngại quá, tối qua tôi không để ý là anh bệnh. Anh đỡ hơn chưa?”

    “Hơi đỡ rồi, tại tôi gây phiền phức cho anh.” Ứng Thiều đáp, “À, tôi tên là Ứng Thiều. Thật lòng xin lỗi vì đã quấy rầy.”

    “Tôi là Lan Hà.” Lan Hà cũng bắt tay với gã ra chiều lịch sự, “Không sao, anh ngã bệnh mà. Tối qua tôi không biết việc đó, sau này cần gì giúp cứ nói thẳng nhé, miễn là lúc đó tôi ở nhà.”

    “Ha ha, được.” Ứng Thiều nghĩ bụng, mình phải cảm ơn anh hàng xóm chẳng biết gì này mới được, dù có nghe mấy câu xàm chó của gã vẫn tin, cho là gã đổ bệnh, ngay cả quản lý cũng bị lừa.

    Gã đang nói dở thì mũi đau điếng, nước mắt sắp ứa ra. Đậu xanh rau má, tối qua trí nhớ gã mơ hồ, chẳng biết ả lệ quỷ kia nhẫn tâm kiểu gì mà đấm mũi gã thành như vậy!

    Ứng Thiều thấy hàng xóm nhìn mình chằm chặp bèn ồm giọng an ủi: “Tôi không sao, không đau tí nào, ha ha.”

    Lan Hà: “Ừ.”



    Đống giấy gấp anh chuẩn bị cho lão Bạch ngày hôm qua đã vơi đi nhiều. Nếu không có Tiểu Hồng và Tiểu Lục thì có lẽ anh sẽ dùng khá lâu, trâu ngựa giấy anh gấp có chất lượng số dách mà.

    May là lão Bạch không muốn ngay, Lan Hà đang dư nhiều thời gian chuẩn bị thử vai nên lại lục tục gấp tiếp.

    Tiếp xúc với lệ quỷ quả là đã đem đến cho anh không ít cảm xúc, chưa kể không phải đánh vào lòng mà vào tận linh hồn, sâu đậm khó tả. Anh phải cảm ơn sự trả giá của Tiểu Lục đã giúp anh có thể thấu tỏ cách xây dựng nhân vật.

    Đến ngày hẹn, Lan Hà và Liễu Thuần Dương gặp nhau ở một nhà hàng riêng tư. Ngoài việc quay phim tuyệt đỉnh ra thì Liễu Thuần Dương cũng nổi tiếng về khoản ăn uống. Trên các bài báo liên quan đến ông toàn đề cập đến những hiệu ăn lớn.

    Quy luật này sớm đã bị cư dân mạng tổng kết lại. Dựa theo kinh nghiệm của họ, quán nào xuất hiện hơn ba lần trên các bài báo là chắc cú ngon đáo để. Đạo diễn Liễu nghiễm nhiên trở thành thang đo ẩm thực.

    Tính riêng tư ở nơi đây cực kì cao, chỉ có mỗi mình Liễu Thuần Dương ở đó. Ông thấy Lan Hà vào phòng bèn vẫy tay, “Nào, ngồi xuống đi, chúng ta ăn trước rồi hẵng thử vai sau.”

    Không hổ là đạo diễn Liễu. Lan Hà vừa đặt mông xuống thì nghe đạo diễn Liễu hỏi: “Hôm qua tôi có tán gẫu với đạo diễn hình ảnh. Tôi nhắc đến cậu thì ông ấy nói các cậu vừa mới hợp tác xong một bộ?”

    “Đúng vậy ạ.” Lan Hà gật đầu.

    “Được được, không tồi.” Liễu Thuần Dương nghe đạo diễn hình ảnh kể về biểu hiện của Lan Hà trong đoàn, cũng khá ổn, bản thân Lan Hà rất mạnh mẽ, ông thích dùng diễn viên như vậy. “Tôi nghe nói trong đoàn các cậu gặp chuyện ma quái? Còn ở ngay cách vách cậu?”

    “Vâng, nghe nói là bóng đè, nhưng cháu không chứng kiến nên chỉ nửa tin nửa ngờ thôi.” Lan Hà nói khá là mập mờ. Anh nghĩ nhận định ngay là không hề có sẽ rất kì quặc. Đây mới là tâm lý của đa số.

    “Cũng phải, chuyện quỷ thần vẫn khá là ảo. Tôi nghĩ trên đời không có quỷ.” Liễu Thuần Dương nói.

    Giọng điệu ông nghe rất chắc chắn, Lan Hà gật đầu theo.

    Liễu Thuần Dương: “Nhưng có một lần làm lễ khai máy, quay phim của chúng tôi chả thắp hương, sau đó thiết bị bị hỏng một cách vô cớ.”

    Lan Hà: “…”

    Tức là chú tin hay không tin?

    Liễu Thuần Dương kể đến đây thì món ăn cũng được đưa lên, “Tôi gọi mấy món đắt khách nhất, thử xem.”

    Đó giờ Lan Hà rất thích mỹ thực, tửu lượng cũng chẳng tệ, song công ty đã rào trước thành thử anh không dám ăn nhiều quá, rượu vẫn kiểm soát được. Bây giờ Liễu Thuần Dương gọi một bàn đồ ăn ngon nghẻ, nhìn mà anh phải nuốt nước miếng.

    Cá bẹt xào nấm Suillus, xương cá đã bị gỡ sạch, nhìn miếng thịt cá trông rất mềm, mùi thơm ngon nức mũi của nấm cũng bốc lên; một món truyền thống của Bắc Kinh thời xưa, thịt nướng xào, dùng thịt bò tẩm ướp ngon miệng với chảo gang, mùi thơm phưng phức bay vào mũi Lan Hà; cải rổ xào xanh mướt ngon miệng…

    Tay nghề của đầu bếp tốt thật đấy, nhất là món thịt nướng xào kia, Lan Hà cứ ngỡ mình ăn ở nhà hàng ngon nhất Bắc Kinh ấy chứ. Anh ăn no sáu phần rồi dằn lòng đặt đũa xuống.

    “Không ăn nữa à? Ăn thêm đi, lát nữa còn có món tráng miệng sau khi ăn xong đấy.” Liễu Thuần Dương vừa ăn lấy ăn để mất hết hình tượng vừa nói với Lan Hà.

    Lan Hà: “…”

    Trông Liễu Thuần Dương ăn rất ngon lành, ông còn rưới nước sốt thịt vào cơm, hạt nào hạt nấy đổi sang màu nước sốt, lại gắp thêm đồ ăn, ăn một miếng là hết nửa bát.

    “Vậy, vậy cháu ăn thêm nửa bát nữa vậy.” Bình thường Lan Hà vẫn có nghị lực lắm nhưng là do không được hấp dẫn như bây giờ, Liễu Thuần Dương chọn tiệm ăn mát tay thật.

    Lan Hà lại ăn thêm nửa bát, thấy cũng no rồi bèn dè dặt đặt đũa xuống.

    Khó lắm Liễu Thuần Dưỡng cũng chén xong, đoạn lau miệng, “Được rồi, chúng ta bắt đầu nhé?”

    Lan Hà giật mình, trong đầu vẫn hơi căng thẳng.

    Liễu Thuần Dương lấy kịch bản ra bảo Lan Hà diễn.

    Trong cảnh này, vai phản diện Lan Hà đóng lần đầu chuyện trò với nam chính trước mặt người khác, cũng đồng ý giúp đỡ nam chính. Sau khi nam chính vừa mất bóng, gã bắt đầu bộc lộ một khía cạnh khác trong nội tâm.

    Phải diễn hai trạng thái của một con người, sự tương phản đủ lớn mới rung động lòng người xem, ngay cả chính vai diễn cũng sẽ thêm phần thuyết phục hơn.

    Lan Hà diễn hình tượng trước mặt người ngoài ngon ơ. Do ngoại hình nên anh cũng hay đóng mấy vai diễn tương đối hiền lành và đáng yêu.

    Chẳng thiếu diễn viên đóng vai kiểu đó, ấy vậy mà lúc Liễu Thuần Dương trông thấy anh nhoẻn miệng cười để lộ đôi má lúm đồng điếu, đôi mắt như dòng suối lấp lánh ánh mặt trời thì cảm thấy cách diễn không bị gò bó, rất ngọt rất hiền nhưng không hề ngu ngốc, khá là có hồn.

    “Vậy nhờ anh nhé.” Liễu Thuần Dương thốt ra câu thoại cuối cùng, kéo ghế dựa ra tượng trưng cho việc rời đi đóng cửa.

    Lan Hà vẫn ngồi tại chỗ cũ cúi gằm im lặng, đoạn giơ tay lên. Lúc này Liễu Thuần Dương mới phát hiện chẳng biết anh đã có một con dao trong tay tự bao giờ. Trong kịch bản không có vụ này, con dao là đồ trang trí không được mài sắc trong phòng bao. Ông không hề phát hiện Lan Hà cầm nó lên, có khi là tạm thời nảy ý.

    Lan Hà cầm con dao, ngón tay anh múa một cách khéo léo trông rất đẹp, thu hút sự chú ý của người khác vào tay anh ngay.

    Đồ vàng mã cỡ lớn phải chẻ tre, anh thạo lắm.

    Cái này như một khúc nhạc dạo, như một phép ẩn dụ. Liễu Thuần Dương im lặng, ngôn ngữ cơ thể của Lan Hà đã giúp ông cảm nhận được rõ, thiết lập tăng thêm này rất trọn vẹn, động tác trôi chảy, sắc sảo, trông như một mặt khác của nhân vật.

    Bỗng, con dao đâm xuống hoa quả – Dù là dao trang trí thì vẫn cắm vào hoa quả được.

    Lan Hà ngước đầu lên, vào giây phút này ánh mắt anh thay đổi, nhìn như hững hờ song toát lên lệ khí ngùn ngụt, mặc dù anh vẫn chưa thốt một câu nào, vẫn chưa để lộ nét tàn nhẫn một cách trắng trợn.

    Đến cả Liễu Thuần Dương cũng đứng ngồi không yên. Ông thảng thốt nhận ra mình bị Lan Hà nhìn mà lạnh cả sống lưng!

    Cũng vào nháy mắt này, Liễu Thuần Dương biết, chính là cậu ta.

    Nếu Liễu Thuần Dương chưa xem qua lí lịch sơ lược của Lan Hà với xuất thân sạch sẽ chính quy, chưa từng lăn lộn trong xã hội thì với cái khí chất này, với ánh mắt này của anh, ông sẽ suýt tưởng Lan Hà đã ngồi trong cục cảnh sát hơn mười năm.

    Vả lại, Lan Hà vẫn giữ lại vài đặc điểm của nhân cách trước đó. Ví dụ như anh vẫn sẽ cười ngọt, vậy thì khoảng cách giữa ngụy trang và bộ mặt thật không bị tách rời nhau, cũng làm vai diễn bỗng khiến người ta phải lạnh gáy.

    Liễu Thuần Dương khá là sửng sốt. Lan Hà còn trẻ mà có thể thể hiện diễn xuất đến mức đó.



    “Tôi sẽ bảo người ta liên lạc với công ty cậu để kí hợp đồng. Nếu thời gian đóng cho lão Vương xung đột với tôi thì cứ gạt ông ấy qua một bên! Ngoài ra, tôi vẫn chưa quyết vai chính, đến lúc đó cậu đi với tôi diễn chung với người thử vai.” Liễu Thuần Dương tìm được diễn viên nên tâm trạng rất tốt.

    Diễn viên không chỉ có diễn xuất là đủ, tương tác với các diễn viên đóng cùng cũng rất quan trọng. Ông vẫn đang do dự quyết định người được chọn cho vai chính, bây giờ có vai đối thủ rồi bèn nảy ý tưởng.

    “Cảm ơn đạo diễn Liễu!” Lan Hà khó dằn nỗi sung sướng.

    Liễu Thuần Dương có linh cảm bèn gọi điện thoại ngay, “Tinh Dương à? Ừ, là chú, vẫn đang ở trường quay hả? Chị cháu sắp sinh rồi phải không? Ha ha, mai về chơi với con bé đi. Cháu định nghỉ bao lâu, có kiếm chác từ tiền lì xì của cháu trai không đó…”

    Lan Hà nghe cái tên “Tinh Dương” lại còn người chị sắp sinh bèn nghĩ có khi là Trần Tinh Dương và Trần Tinh Ngữ, mà hai người này là đàn anh đàn chị cùng trường với anh.

    Cặp chị em diễn viên song sinh này thi đậu vào cùng một học viện điện ảnh, sau này cùng nhau thành danh, đều đã từng hợp tác với Liễu Thuần Dương. Hơn nữa họ rất ham việc, Trần Tinh Ngữ mang bầu mà vẫn làm việc mãi đến giờ bụng lớn rồi mới nghỉ sinh.

    Liễu Thuần Dương tám chuyện mất mấy phút, hẹn Trần Tinh Dương đi thử vai, cúp máy rồi bảo: “Tôi nghĩ thằng bé sẽ hợp. Mấy ngày nay nó đang đóng phim cho đoàn của Tống Khởi Vân.”

    Cái tên Tống Khởi Vân nghe thì nhu mì nhưng thật ra lại là tên của đàn ông, cũng là một đạo diễn tên tuổi vang dội trong ngành, chỉ riêng giải thưởng và thành tích là đã trên cơ Liễu Thuần Dương rồi.

    Vợ ông là người phụ nữ cực kì xuất sắc trong giới, đứa con trai duy nhất của cả hai lại kém nổi hơn, cũng chẳng xuất hiện trước mặt công chúng, nhưng mấy năm nay đã nổi chun chút. Tên thật của con trai đạo diễn Tống bị rỉ tai trên mạng với những phiên bản khác nhau, điều ai nấy đều biết là cái bút danh “Huyền Quang”. Hắn đã dùng bút danh đó để sửa một kịch bản, viết hai kịch bản cho bố và được tán tụng, cũng đoạt giải thưởng.

    Nhưng đến cả việc đi lấy giải cũng là do nhân viên của Tống Khởi Vân đến lấy. Gia đình nhà này sống rất khiêm tốn.

    Bình thường Lan Hà chẳng thấy tin tức gì về việc Liễu Thuần Dương và Tống Khởi Vân là bạn bè, song Liễu Thuần Dương nhắc đến ông nghe có vẻ quen thân, lại nghĩ cả hai đều là đạo diễn nổi tiếng, đằng nào cũng gặp nhau.

    Hiện giờ món tráng miệng sau bữa cơm đã được bưng lên theo lời dặn của Liễu Thuần Dương. Lan Hà nhìn đăm đăm, nghĩ bụng có nên ăn một miếng không nhỉ, đằng nào anh cũng nếm thử mỹ thực đạo diễn Liễu chọn lần đầu mà…

    Liễu Thuần Dương từ tốn nói: “Phải rồi, vai diễn của tôi có hình tượng tương đối gầy. Với cái cân nặng hiện giờ của cậu thì tôi ước chừng phải giảm đi hai cân rưỡi nữa.”

    Lan Hà nhất thời không kịp phản ứng: “Dạ?”

    Liễu Thuần Dương: “Cậu, giảm đi hai cân rưỡi nữa.”

    Lan Hà: “… Vậy sao ban nãy chú còn bảo cháu ăn?”

    Liễu Thuần Dương đáp đầy thâm ý: “Bởi vì đó có thể là một bữa cơm no cuối cùng trong mấy tháng tới của cậu.”

    Lan Hà: “…”



    Lan Hà và Liễu Thuần Dương tạm biệt nhau chưa được bao lâu thì bên công ty đã gửi rất nhiều tin nhắn wechat hỏi kết quả, rất đỗi quan tâm đến vụ này. Anh trả lời, kể tin tốt này cho họ nghe, bên kia mừng phát điên.

    Buổi chiều Trình Hải Đông cũng gọi điện thoại tới, còn chạy sang nhà Lan Hà chúc mừng anh, “Chú hay nhỉ, chả kể anh nghe chuyện đi thử vai cho đạo diễn Liễu tí nào, toàn do thầy anh kể anh hay. Thế là hai ta sẽ làm việc cùng một đoàn phim rồi.”

    “Em cũng không biết có thể thành công hay không mà.” Lan Hà đáp, nhìn anh ta đặt một hộp bánh ngọt xuống bèn dở khóc dở cười, “Anh còn mua bánh ngọt làm gì?”

    “Thì để chúc mừng chú đó!” Thậm chí Trình Hải Đông còn mang cả nến theo, “Nào, chúc giàu lên! Chúc nổi tiếng!”

    “Không khéo là đạo diễn Liễu vừa mới bảo em phải giảm đi hai cân rưỡi cho vai diễn.” Lan Hà uể oải đáp.

    “Chú thảm vãi đạn…” Trình Hải Đông trưng bản mặt đồng cảm, “Diễn viên không tốt ở cái điểm đó, vì để hợp vai mà lúc phải giảm béo, lúc phải tăng cân. Giống y chang cậu, bây giờ toàn đóng vai giảm béo đấy thôi?”

    Với vẻ bề ngoài như Lan Hà, tính đến bây giờ vẫn chưa có một vai diễn nào yêu cầu anh phải tăng cân.

    Lan Hà im lặng: “Thôi anh đừng nói nữa, em đói cồn cào rồi đây này.”

    Nhưng lại không được ăn, trước đó anh đã ăn một bữa với Liễu Thuần Dương, giờ vẫn ình bụng.

    Trình Hải Đông hào hứng kể: “Có vài người thích lắm, tự gò ép bản thân mình. Có một diễn viên nữ từng kể với anh, muốn bắt cô ấy từ bỏ việc ăn uống thì trừ phi cổ chết quách cho rồi!”

    “Cái này quá…” Lan Hà vừa thốt được mấy chữ bèn dừng lại, “Gượm đã, trừ phi chết quách cho rồi?”

    Trình Hải Đông chỉ thấy Lan Hà dứt lời, nét mặt thay đổi, bỗng hơi sờ sợ, “Biểu cảm cậu là sao?”

    Lan Hà càng nghĩ, biểu cảm càng quái gở: “Không có gì, em chỉ thèm thôi.”

    Trình Hải Đông lạnh người, cái cậu diễn viên này bị đói phát điên mất rồi.

    Lan Hà chợt nghĩ quỷ đã chết đều có thể hưởng dụng đồ cúng, vậy lúc anh đi Vô Thường, chắc cũng có thể chấm mút đôi tí khi ở trạng thái linh hồn nhỉ? Chắc sẽ không ảnh hưởng gì đến thể xác đâu nhỉ?

    Lẽ nào đây mới là cách đi Vô Thường đích thực…

    Làm một người được dưới đất chọn, đóng phim nuôi gia đình, đi âm sống tạm.

    *Tác giả:

    Lan Hà: Cơm âm phủ thơm ghê!
     
  8. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 7: Quỷ Đói Cũng Có Thể Làm Quỷ Sai

    Trình Hải Đông ở lại nhà Lan Hà đến tối thì Lan Hà mới đứng dậy tiễn anh ta xuống nhà.

    “À đúng rồi, anh nói chú hay, lần trước sau khi gặp phải mấy thứ ‘bẩn’ kia, khi về anh bèn lên miếu xin bùa bình an, cũng không biết có phải tại tác dụng tâm lý không mà đến tối ngủ ngon hơn nhiều.” Trình Hải Đông nói xong, còn đưa bùa ra cho anh xem.

    Lan Hà hỏi: “Vậy à? Thế thì tốt.”

    Trình Hải Đông lầu bầu: “Chú đừng có qua quýt với anh, sao chú không tin anh chứ?”

    Lan Hà đáp: “Không phải em không tin mà là nghĩ anh đừng nghĩ đâu đâu suốt ngày nữa, càng nghĩ tinh thần càng bất ổn. Hơn nữa, anh có thể đi chùa Giác Tuệ, nơi đó khá nổi tiếng. Nếu là mua thì chi bằng mua ở nơi có tên tuổi lâu đời, sẽ an tâm hơn.”

    Ban đầu anh cũng chỉ nghe hơi nồi chõ chùa Giác Tuệ cực kì nổi tiếng, nhưng qua trải nghiệm lần trước mới biết chùa này cũng có tiếng ở chỗ âm sai, đành đề cử cho Trình Hải Đông.

    Trình Hải Đông ngẫm lại: “Cũng được, lần sau anh đi chùa Giác Tuệ.”

    Đến dưới chung cư, Trình Hải Đông bảo anh đừng tiễn nữa.

    “Lái xe cẩn thận nhé.” Lan Hà đứng ở cửa dặn đôi câu, lúc chuẩn bị quay về thì Ứng Thiều cũng về.

    Ứng Thiều còn dẫn theo hai sư huynh đệ, trong tay hoặc xách hoặc ôm đồ cúng nhang đèn.

    Ánh mắt Lan Hà lưu luyến trên con gà quay của họ, thấy Ứng Thiều nhìn mình bèn khẽ cười: “Đều là lừa đảo cả à?”

    Ứng Thiếu: “… Phải.”

    Các sư đệ: Goát đờ hợi!



    Vừa vào cửa, các sư đệ Ứng Thiều phàn nàn: “Anh nói cái gì thế, sao tự xưng là lừa đảo?”

    Ứng Thiều bình tĩnh đáp: “Vậy hai đứa muốn anh mày phải trả lời sao, nói cho hàng xóm không tin ma quỷ rằng chúng ta là cổ sư? Nhưng anh ta chưa chắc đã biết cổ sư, vậy nói chúng ta là ‘Người cung cấp dịch vụ tôn giáo hộ gia đình’ à?”

    Sư đệ: “…”

    Gia, gia gì cơ?

    Đậu xanh, người học đại học có khác, chẳng lần nào cãi nổi sư huynh Ứng Thiều, thậm chí chỉ hiểu được nửa câu gã nói.

    Ứng Thiều ậm ừ, ba người bắt đầu bày đồ cúng, “Sư huynh, dạo này hình như Bắc Kinh ngày một loạn. Cơ hội để trở nên xuất chúng mà sư phụ bảo là hiện giờ sao?”

    “Anh mày cũng muốn lắm, ngặt nỗi Bắc Kinh người tài hết lớp này đến lớp khác, ngay cả đến sư phụ cũng chưa chắc đã có thể… Thôi, kiếm đủ phí sinh hoạt hẵng nói sau.” Ứng Thiều cẩn thận xem xét không sai lầm gì nữa bèn chỉ đạo các sư đệ cùng hát “Bài dâng hương”, đồng thời chuẩn bị quay video để chủ thuê xem.

    Vì kiếm tiền mà thời nay phạm vi nghề nghiệp của mọi người ngày càng trải rộng. Ngày xưa nuôi cổ quỷ đâu cần phải an hồn. Họ nhận việc này là để trấn an linh hồn người đã khuất, nhắn nhủ lời của con cháu, hi vọng tổ tiên của chủ thuê sống tốt, cũng phù hộ con cháu.

    Làm một lần ba trăm tệ, làm mãi thành quen.

    Ứng Thiều mở miệng cất tiếng hát: “Một nén hương thơm đến tám phương, quỷ sai Thành Hoàng đến dẫn đường…”

    Kiểu chú ngữ này dù có linh hay không thì nghe cũng siêu đỉnh, hở tí là bảo quỷ sai dẫn đường, thần tiên làm việc cho mình các kiểu.

    Ứng Thiều vừa mới hát một câu thì đã thấy Kim Tàm cổ trong ngực hơi ngọ nguậy như đang dự báo điều gì đó, thoáng cái căn phòng đã nổi gió âm.

    “Hả?”

    Sư đệ ngó dáo dác, biểu cảm căng thẳng. Cửa sổ không mở, gió lạnh đâu ra.

    Ngay sau đó, một bóng trắng đi xuyên tường, trên đầu đội mũ cao viết dòng “Đến cũng đến rồi”, chưa kể nửa gương mặt bị khẩu trang che mất, cổ tay quấn dây xích, bên hông dắt cây quạt – Đúng là cách ăn mặc của quỷ Vô Thường. Người đó vừa mở miệng đã hỏi: “Kẻ nào gọi quỷ sai?”

    Cả ba: “……”

    Họ ngu người luôn rồi, làm sao họ… có thể đưa âm sai tới thật?!

    Đó chỉ là lời hát ba xạo cả, đến nay vẫn chưa bao giờ gọi được ai tới, làm gì có chuyện âm sai có thể nhàn nhã cả ngày mà nhận lời của mấy người làm nghề không tiếng tăm này đâu.

    Vả lại mới chỉ hát đúng một câu! Trình độ kiểu quái thế này? Đừng nói là sư phụ, ngay cả sư phụ của sư phụ cũng chẳng làm được ấy chứ!

    Chỉ thấy vị Vô Thường nọ sải bước đến chỗ bàn thờ của họ hết sức tự nhiên và thành thạo. Bởi vì Ứng Thiều có hơi túng thiếu nên con gà quay này chỉ có một nửa. Anh vừa ăn vừa hỏi: “Cần giúp vụ gì? Gửi thư cho vong hồn à?”

    “Phải, phải… Làm phiền ngài rồi…” Bây giờ Ứng Thiều vẫn chưa liên tưởng đến cảnh mình gặp trước đó, chỉ thấy khó tin thôi.

    Còn sư đệ gã thì nhỏ giọng hỏi: “Bộ chả phải chúng ta mời âm sai của Thành Hoàng hả anh?”

    Thành Hoàng ở mỗi vùng cũng giống như chủ tịch thành phố vậy. Hễ có việc gì là báo trước cho bộ máy Thành Hoàng rồi mới báo dần lên các âm ty phía trên.

    Thôi thì hình dung như này, kiểu như họ chỉ muốn mời cảnh sát đồn thôi, kết quả người bên tổ trọng án đến mẹ nó luôn!

    Mũ của người tổ trọng án viết “Đến cũng đến rồi”, song cả bọn chưa gặp âm sai được mấy bận, nào dám mở miệng hỏi vụ này, lỡ chọc giận người ta thì sao.

    Lan Hà cũng nghe được, bèn ra vẻ ngại ngùng: “À… ta chưa nghe gì cả.”

    Cả ba: “…”

    Lúc này, Kim Tàm cổ vẫn nhúc nhích truyền tin. Ứng Thiểu cảm nhận, giờ mới ngộ ra: “Có phải lần trước ngài đã… cứu tôi?”

    Lan Hà đáp mập mờ: “Chắc vậy, ta không nhớ.”

    Anh nói xong, mắt vẫn nhìn trân trân Kushikatsu họ mua ngoài về.

    Ứng Thiều: “…”

    Đúng là không thèm giấu ánh mắt.

    Đối mặt với ân nhân cứu mạng kiêm âm sai, một kẻ ăn cơm âm phủ như Ứng Thiều dĩ nhiên lẹ tay bưng Kushikatsu: “Món này… ngài muốn thử không? Cả hương khói nữa…”

    Lan Hà cóc thèm nhìn hương khói. Chưa kể bây giờ anh muốn Kushikatsu mình ao ước đã lâu hơn thì thân là một hồn sống, anh không có hứng ăn hương khói lắm.

    Thứ quỷ thần ăn khác với con người. Trong “Tử bất ngữ” đã từng nói, “Tất cả ẩm thực, ngửi mà không nuốt. Đồ nóng bị ngửi, nguội đi nhanh chóng.”

    Lúc quỷ thần ăn cơm, thứ cho vào thật ra là “khí” như tinh khí, nhiệt khí, chứ không ăn thật. Mà sau khi tinh túy bị hưởng dụng rồi, tất nhiên món ăn sẽ mất mùi, mất chất, nhạt như nước ốc. Nóng, cũng sẽ nguội ngắt.

    Cả bọn chứng kiến Vô Thường đại nhân chè chén no nê, viết thư gửi đến âm phủ rồi đi mất dạng.

    “Khoan đã, không biết tôn tính đại danh của đại nhân là?” Ứng Thiều sốt sắng hỏi.

    Nghệ danh ở giới diễn xuất của Lan Hà chưa nổi, huống chi là âm phủ. Anh nghĩ đến xưng hô Nghiêm Tam gọi bèn đáp qua loa: “Gọi anh Đến đi.”

    Sau khi Vô Thường đi, cả ba nhìn nhau cả buổi mới thực sự cảm nhận được ban nãy họ đã gọi được âm sai tới!

    Ứng Thiều xuất video ra, chỉ thấy mặc dù không có hoa rụng nhưng trong video, họ hát một câu xong là nói chuyện với không khí. Sự hưng phấn của Ứng Thiều bỗng chốc hạ xuống: “Chúng mày nói coi nếu ông chủ nhìn thấy có chấp nhận không?”

    Sư đệ: “…”

    Đương nhiên… là không!

    Cho dù họ có mời âm sai thật nhưng xét thấy quay không ổn nên chỉ còn nước quay lại lần nữa nộp cho ông chủ.

    Ứng Thiều nhìn xiên nướng. Gã mới chỉ nghe nói món ăn bị quỷ thần hưởng dụng xong sẽ mất mùi vị, song chưa bao giờ kinh qua chuyện thật nên không khỏi cầm một cái xiên lên…

    “Sao?” Các sư đệ cũng nhìn hắn đăm đăm mà hỏi. Đằng nào thì đây cũng là bữa khuya của cả bọn.

    Ứng Thiều nếm: “Ừm… Đúng là không có mùi vị nào nữa, hơi giống mì căn… Mì căn, bỏ thêm tí bột thì là Ai Cập với muối rồi chúng ta nướng mì căn mà ăn đi. Đừng để phí.”

    Sư đệ: “…”



    Ứng Thiều ăn uống xong xuôi bèn đi ra ngoài vứt rác, vừa khéo gặp hàng xóm cũng xách một túi rác đi ra, cả hai gật đầu cười với nhai.

    Dù Lan Hà hưởng dụng bằng hồn nhưng vẫn có cảm giác trong miệng hãy còn vương mùi, đoạn thỏa mãn chùi miệng.

    “Ăn bữa khuya à?” Ứng Thiều mỉm cười hỏi.

    “Ừ.” Lan Hà nhìn túi rác của gã, “Anh cũng vậy hả?”

    Ứng Thiều ợ một cái: “Ăn mì căn nướng.”

    Lan Hà: “… À.”

    Gì cơ, mì căn nướng đâu ra? Sao ban nãy anh chưa được ăn nhỉ?

    .

    .

    Lan Hà gấp xong đống trâu ngựa giấy cho Lão Bạch, đúng lúc y rảnh bèn tự tay đến lấy.

    “Thêm tí tiền tiêu nữa đi! Sắp mười tám tháng tư rồi, có thêm trâu ngựa, ta muốn lên núi Diệu Cảm!” Lão Bạch giục.

    “Lên làm gì, tham gia hội chùa à?” Lan Hà lấy làm khó hiểu.

    Lão Bạch kinh hãi nhìn anh, “Đi nịnh hót chớ!”

    Hai thần nữ có hương khói nghi ngút nhất dân gian: Phương Nam là Mẫu Tổ, phương Bắc là Bích Hà Nguyên Quân(1). Một người là thần biển, một người là thần núi. Lan Hà là người phía Nam nên không hiểu những mối quan hệ ở đây.

    Rốt cuộc Bích Hà Nguyên Quân là ai? Bà tu đạo ở Thái Sơn, được người ta xưng tụng là Thiên Tiên Ngọc Nữ của Đông Nhạc Thái Sơn – Bích Hà Nguyên Quân, cũng được gọi là Thái Sơn nương nương, đồng thời là lãnh đạo trực tiếp của Phủ quân Thái Sơn, con gái của Đông Nhạc Đại Đế chủ quản địa phủ.

    Nói theo một cách khác, bà là con gái của ông sếp chức cao nhất của lão Bạch. Người khác có thể không để ý tới nhưng đến sinh nhật bà, các âm sai đương nhiên phải tặng quà – Còn như Nghiêm Tam thì chắc chắn không cần tặng. Mà cũng chẳng cần chạy đến Thái Sơn, vậy sẽ rất phiền phức, trong khu vực hoặc chỗ xung quanh mình có miếu thì cúng vái là được.

    Hành cung Thái Sơn cung phụng Bích Hà Nguyên Quân nằm rải rác khắp nơi, con số lên tới hàng nghìn hàng vạn. Chỉ riêng ở Bắc Kinh thôi, trong “ba núi bốn đỉnh” toàn là miếu thờ của bà. Sở dĩ gọi “đỉnh” là dựa theo cách nói “Miếu Bích Hà” trên “đỉnh” núi Thái Sơn.

    Ngoài năm đỉnh trên thì còn đỉnh thứ sáu – Đỉnh Vàng núi Diệu Cảm do Hoàng đế ngự phong. Xưa kia hương khói cường thịnh, thậm chí còn hấp dẫn rất nhiều người ngoài tới dâng hương.

    Đám trâu giấy ngựa giấy lão Bạch bảo Lan Hà gấp cho, một là dùng để chở quà lên núi, hai là chính chúng cũng xem như một phần quà.

    “Tôi giúp anh tặng cùng.” Lan Hà chủ động mở lời. Trước kia trong cảm nhận của anh, núi Diệu Cảm chỉ là một thắng cảnh dân tộc, đồ ăn chay khá nổi tiếng mà thôi.

    “Ủa, chả phải cậu rất không muốn làm việc bên ngoài hả, sao giờ lại sẵn lòng rồi?” Lão Bạch thốt ra câu này với giọng nghe rất lạ, song vẫn nhận lời ngay, “Vậy đi thôi, bây giờ đủ số người rồi.”



    Núi Diệu Cảm.

    Nơi đây có độ cao hơn 1000 m so với mặt biển, thời xưa khi vẫn chưa sửa đường, leo núi dâng hương rất vất vả. Đi từ Bắc Kinh đến chân núi phải mất cả nửa ngày trời, đường núi gập ghềnh lại tốn thêm một ngày nữa mới leo lên được.

    Bây giờ dương gian đã cho tu sửa lại đường xong xuôi, thành thử tiện cho âm phủ. Đằng nào bao nhiêu cầu đường ở âm phủ toàn dùng ké dương gian cả.

    Lão Bạch xách đèn lồng đỏ, một đại đội trâu ngựa giấy chở hàng hóa đầy ắp đi đằng trước, Lan Hà xách đèn lồng đi đằng sau. Nếu là người yếu bóng vía thì có lẽ sẽ nhìn thấy hai ngọn đèn nhỏ lấp lóe giữa đêm khuya.

    Âm binh qua đường trong truyền thuyết dân gian chính là như vậy.

    Lan Hà đã đến Bắc Kinh mấy năm mà chưa lên núi Diệu Cảm bao giờ, nghe bảo hiện giờ nơi đây sẽ tổ chức hội chùa. Lần này, anh tới “chạy việc” một chuyến.

    Đường buổi đêm đen như mực, cũng chẳng có côn trùng kêu hay chim muông hót.

    Trong cái bóng đêm đen ngòm và im phăng phắc này, bỗng dưng có tiếng khóc ré của trẻ con cất lên: “Oa… Oa…”

    Tần số tiếng khóc của trẻ con vốn đã cao, giờ còn là đêm hôm khuya khoắt trên núi hoang vu chẳng bóng người, bất thình thình nghe tiếng khóc của trẻ con làm da đầu người ta run lên.

    “… Sao, sao lại có trẻ con?”

    “Cậu đi ngó xem.” Lão Bạch làm biếng.

    Nói thật, tiếng khóc này rất đáng sợ. Lan Hà nao núng, cho dù anh vẫn thường hay gặp quỷ, năng lực chấp nhận đã cao hơn người khác.

    “Không đi được không? Tôi có cảm giác đi qua đó sẽ bị hù dọa, phim kinh dị toàn thế.” Những gì Lan Hà tôi luyện suốt chừng ấy năm là nếu không cần thiết thì đừng nhìn, cũng đừng rước chuyện vào người.

    Lão Bạch: “Hù dọa? Cậu là một Vô Thường, cậu có tư cách sợ không?”

    Lan Hà: “…… Tôi không.”

    Chưa gì đã mất quyền sợ rồi, Lan Hà đành phải xách đèn lồng đi đến nơi truyền ra âm thanh. Anh cất vài bước về phía bụi cỏ, giơ đèn lồng chiếu xuống.

    Chỉ thấy một đứa trẻ trần truồng mặc mỗi cái yếm đương ngồi khóc lã chã dưới đất, trên đầu còn có một vết thương. Bên cạnh lại là dốc, chắc là ngã xuống.

    Nghe tiếng khóc ré đáng sợ thật đấy, song đứa bé không đáng sợ lắm. Lan Hà bình tĩnh lại, “Con cái nhà ai đây?”

    Lão Bạch nhìn rồi đáp: “À đúng rồi, có lẽ là từ miếu đấy. Ngoài quán xuyến việc thiện ác trong nhân gian ra thì Thái Sơn nương nương còn quản lí việc sinh đẻ, trong miếu có không ít trẻ con.”

    Y biết hơn nửa là Lan Hà không biết gì nên giải thích thêm. Nương nương thiện tâm, một vài hồn trẻ con sẽ được bà thu nhận, tặng cho tín đồ nuôi nấng.

    “Này nhóc, bé có ổn không?” Lan Hà bước tới toan ôm đứa trẻ lên.

    Lão Bạch dặn: “Cẩn thận, mấy đứa trẻ này nhát như cáy. Lần trước ta thè lưỡi mà chúng khóc sưng cả mặt…”

    Giọng nhỏ đi dần, Lan Hà đã ôm bé con lên một cách khá là thuần thục. Bố mẹ anh đều là giáo viên tiểu học, cô anh là giáo viên mầm non, tạm xem là gia truyền, coi như cũng thạo việc chăm trẻ.

    Bé con cởi truồng nằm trong lòng Lan Hà chẳng tỏ vẻ sợ sệt gì, thậm chí bé còn rúc vào lòng anh, bàn tay nho nhỏ duỗi ra, kéo khẩu trang Lan Hà xuống.

    Lan Hà tháo khẩu trang xuống, vì là một đứa trẻ nên anh không bận tâm lắm.

    Bé con nhìn thấy mặt Lan Hà thì càng thích anh hơn.

    “Để chú thổi cho nhé, không đau nữa.” Lan Hà thừa thế thổi vết thương cho bé. Ban đầu anh còn định bảo đi tiêm nữa cơ, song ngẫm lại ai cũng là hồn cả… Bèn thôi.

    “Blè.” Lão Bạch lại thè lưỡi.

    Lan Hà: “…”

    Anh biết vì sao trẻ con không thích anh không? Lưỡi anh dài sắp chạm ngực rồi kìa.

    Lan Hà đeo khẩu trang vào, ôm bé con tiếp tục đi lên núi, còn lấy lá cỏ làm châu chấu cho bé. Bé con được anh dỗ dành nên rất ngoan.

    Đến trước miếu Phổ Tế trên đỉnh núi thì hai người bắt gặp một cô gái mặc áo vạt ngắn và váy đang đứng đếm đám trẻ cởi truồng bên cạnh, miệng lẩm nhẩm đầy âu lo: “Một đứa nữa đâu? Một đứa nữa đâu?”

    “Âm ty Thái Sơn có quà đến…” Lão Bạch cất cao giọng, đoạn gọi cô gái kia, “Cô Hồ, cô xem có phải miếu các cô thiếu một đứa trẻ không? Nó chạy đến giữa sườn núi bị bọn ta nhặt được.”

    Nhiều đứa trẻ như này, dĩ nhiên không thể đâu đâu cũng do nương nương chăm bẵm. Quà đưa tới cũng không thể do nương nương đích thân xuống miếu nhận được. Một cái miếu thờ to đến nhường này đương nhiên phải có người hầu.

    Cô gái kia ngước đầu lên, hàng lông mày lá liễu kết hợp với đôi mắt xếch trông cực kì xinh đẹp. Vào khảnh khắc chị trông thấy đứa trẻ trong tay Lan Hà bèn mừng rỡ, chỉ là lúc chị cười tươi, mắt càng hẹp hơn, miệng cũng toét hơn, trông có hơi cứng ngắc và quỷ dị, “Nguy hiểm thật nguy hiểm thật, ta cứ tưởng là mất một đứa rồi chứ.”

    Chị vừa bước vừa đánh eo đến trước mặt Lan Hà, “Cảm ơn chú em âm sai nhé.” Nhác thấy gương mặt của bé con, chị nổi giận, “Vết thương trên mặt e là sẽ để lại sẹo.”

    Chị vươn tay muốn đón đứa trẻ.

    Bé mập rất thích Lan Hà, níu vạt áo anh mãi không chịu thả.

    Lan Hà thấy chị Hồ vươn tay ra, móng tay dài sắc bèn né người, “Này chị đẹp, móng tay chị dài quá, không hợp để ôm trẻ đâu!”

    Chị Hồ sửng sốt.

    Lão Bạch vội nói: “Cậu cứ đưa cho cô ấy đi, cô ấy có chừng mực.”

    Lan Hà trù trừ đưa bé con ra, “Tôi nghĩ tốt nhất là chị nên cắt móng tay đi, dài vậy gãi cũng bất tiện.”

    Chẳng hiểu sao mà chị Hồ lại cười khanh khách.

    Nếu nói đến khuôn mặt của chị Hồ thì thực sự rất đẹp và thanh tú, ngặt nỗi mỗi khi chị cười, vẻ đẹp đó bèn nhuốm vẻ kì dị.

    Chị vừa cười một cái là Lan Hà chưa bao giờ trải nghiệm việc này tóc gáy dựng đứng, không khỏi lùi về sau một bước, bị lão Bạch đỡ lưng.

    Lan Hà nhận được lời ám chỉ của y: Có nhớ cậu có tư cách sợ không?

    … Tôi không, tôi không có tư cách để sợ.

    Mình là người đại diện cho âm ty đến xã giao. Lan Hà lẩm bẩm, đoạn cười gượng: “Mà thôi, tiên nữ không ngứa đâu nhỉ?”

    Chị Hồ cười sằng sặc, cười run cả người, may là trông bé mập chẳng bị móng tay chị cào phải. Chị ôm bé mập vừa đi vừa nói: “Ngốc thế thì chắc là Vô Thường sống rồi… Vất vả cậu rồi, để ta đi tìm gì đó ăn cho.”

    Chị Hồ đi mất dạng, lão Bạch quạu: “Sau này không được tùy tiện bảo người khác cắt móng tay nữa, móng tay giống như một phần hồn vậy. Bình thường Hồ gia dễ nổi nóng lắm đấy, xem như hôm nay cậu giúp cô ấy một phen nên mới không mắng nhiếc cậu. Chứ như lúc thường ta đến nào có cơm mà ăn, đừng tưởng cô ấy tốt bụng.”

    “Tôi biết là móng tay rất quan trọng, nhưng cũng không cho nói hả?” Lan Hà đã từng nghe đủ loại truyền thuyết, rằng dùng tóc và móng tay của kẻ khác có thể làm phép.

    Lão Bạch: “Cậu biết Ma Cô(2) không? Ngày xưa cô ta xuống nhân gian, một người tên là Thái Kinh nhìn thấy bèn nghĩ bụng, Ồ, bàn tay cô gái này đẹp thật. Nếu có thể gãi lưng cho mình thì tốt quá. Thế mà chỉ nghĩ đoạn đã ngã giữa phố, mắt chảy máu ròng ròng.”

    Đó là hình phạt của Ma Cô. Kẻ đó không nói ra, mới chỉ nghĩ thầm trong lòng.

    Lan Hà không ngờ lại nghiêm trọng đến mức đó, “Thôi được rồi, tại tôi không để ý… Lát nữa sẽ xin lỗi chị ấy.”

    Chị Hồ đi chuẩn bị đồ ăn xong xuôi bèn dẫn lão Bạch và Lan Hà hưởng dụng. Cả ba đi qua miếu Phổ Tế, Lan Hà bèn thấy nơi đây vẫn có điện Quan Âm, “Ơ, tôi nói sai hai người đừng trách nhé. Sao ở đây còn cung phụng cả tượng Bồ Tát?”

    “Miếu Phổ Tế vốn chỉ lấy nương nương làm chính, nhưng cũng có cả thần linh Phật giáo, Nho giáo, tục thần trong dân gian. Tại dân chúng có nhu cầu mà.” Chị Hồ cười nhạt, “Quan Âm trong cung điện này là Quan Âm Độ Hải(3), hồi trước vốn là Quan Âm Tống Tử(4). Chẳng phải xưa kia có một khoảng thời gian khởi xướng kế hoạch hóa gia đình sao, thế là bị quản lý khu thắng cảnh đổi.”

    Lan Hà: “……”

    … Thôi được, đằng nào cũng chẳng đổi Bích Hà nương nương được.

    Vả lại sinh đẻ cũng chỉ là một trong những lĩnh vực quán xuyến chính của Bích Hà Nguyên Quân, không giống Quan Âm Tống Tử chỉ tặng con.

    Đến một nơi nọ, anh bèn thấy sáu món ăn bày trên bàn cùng một bầu rượu.

    Chị Hồ nói: “Không còn cơm chay nữa. Đây là món người phàm cúng, hai người ăn đi.”

    Lan Hà nhìn một cái là nước bọt tiết ra điên cuồng.

    Chị Hồ thoạt trông cũng là một nhà ẩm thực, “Con cá quế này được cứa lát hoa mẫu đơn, ướp xong thì tẩm trứng gà chiên lên, đảm bảo dưới lớp da giòn rụm là thịt thà mềm tan, ngon miệng dậy hương. Nhìn con vịt hấp lò này đi, nấu thêm cải thảo, hít sốt vịt vào. Ưm…”

    “Được rồi được rồi, ăn mau lên.” Lão Bạch lười nghe chị nói nhiều.

    Lão Bạch vừa mở lời cái là Lan Hà hít thức ăn nhanh như một cơn gió.

    Một diễn viên đã lâu chưa được ăn no, ăn một bữa no là đủ chắc? Dĩ nhiên là không!

    Cái gì gọi là thơm nức mà không ngấy? Cái gì gọi là giòn rụm ngon miệng? Ngay cả cải thảo cũng thấm nước canh đậm vị, dù Lan Hà chỉ hít thức ăn nhưng chẳng hề ảnh hưởng tới mùi vị, đó là một cảm giác vô dùng diệu kì. Sườn non vào miệng làm anh sướng muốn bay lên trời.

    Sự thật cũng đúng là như vậy. Lão Bạch và chị Hồ tận mắt chứng kiến anh ăn bao nhiêu, người cao lên bấy nhiêu, à thật ra là hồn bay cao lên bấy nhiêu… Cả người nằm sấp xuống, tay cầm khẩu trang, hít lấy hít để.

    Lão Bạch nhìn mà sững sờ. Y nói chứ sao lần này Lan Hà lại tích cực ra ngoài đến thế!

    Chị Hồ cũng ngơ ngác hỏi: “Chả phải sau khi quỷ đói được siêu độ thì phải đủ tư cách mới đậu lên làm quỷ sai ư?”

    Lão Bạch: “…”

    Lan Hà chống bàn nằm nhoài ra một lúc mới dần ngồi xuống lại, nơi răng má vẫn còn thơm phưng phức.

    Chị Hồ ngạc nhiên: “Ăn nhiều vậy à.”

    Lão Bạch cũng tặc lưỡi lấy làm lạ, nhưng không tiện nói: Kẻ đói hơn cả quỷ đói là diễn viên.

    Lan Hà nở nụ cười ngại ngùng, lại quay về làm một chàng thanh niên xinh trai, đôi mắt màu nâu toát lên sự xấu hổ, “Tôi xin lỗi, nhất thời cầm lòng không đậu.”

    Chị Hồ bị anh nhìn một cái, “Không sao không sao, cứ ăn đi thôi.”

    Lão Bạch nói: “Thằng nhóc này của bọn ta còn trẻ quá, mỗi tí này đã no. Nếu hỏi đồ cúng ở đâu là tốt nhất thì ta nghĩ vẫn là ở chùa Giác Tuệ. Dù đó chỉ là đồ chay, nhưng hương vị thì… ăn một lần nhớ ba năm.”

    Lan Hà vừa nghe đã rục rịch, song anh nghĩ hòa thượng ở chùa Giác Tuệ không dễ lừa như Ứng Thiều, “Lão Bạch à… Lần sau anh đi thì dẫn tôi ăn cùng với?”

    Lão Bạch liếc xéo anh: “Cậu xem việc đi Vô Thường là cái gì, một phương tiện để ăn uống no say à?”

    Lan Hà: “Tôi cảm thấy Vô Thường là một nghề rất cao cả, giúp đỡ làm việc chính nghĩa ở cả hai giới âm dương. Nhất là âm ty Thái Sơn có tiền bối như anh quả là nâng cao trật tự âm phủ.”

    Lão Bạch nghe mà sướng rơn, dù thừa biết Lan Hà chỉ đang tâng bốc thôi: “Cậu bớt đội mũ cao* cho ta cái…”

    Lan Hà: “…”

    Lão Bạch: “…”

    Lão Bạch mặt tỉnh bơ đỡ mũ mình, “Thành thật hơn đi.”

    (*Đội mũ cao cũng đồng nghĩa với xu nịnh. Ý ở đây là lão Bạch bảo Lan Hà bớt xu nịnh ổng đi, cơ mà chính ổng lại đang đội mũ cao aka xu nịnh rồi.)

    Lan Hà nói với cả hai: “Chị Hồ, lão Bạch, tôi mời hai người ăn chút gì nhé.”

    Vì là tặng quà nên Lan Hà gửi hết số nén hương đã làm ra. Lúc anh lấy ra không đếm số lượng, số còn lại cất tiệt, có lẽ chia chác chút đỉnh cũng chẳng đáng kể.

    Chị Hồ chỉ bật cười. Vừa xúc động một cái là khóe miệng anh đào chúm chím lại toác ra gần như đến mang tai, bèn lật đật lấy khăn che: “Đừng trách ta nói thẳng chứ chính cậu còn rặt vẻ ba năm chẳng được ăn hạt cơm nào thì có thể có đồ gì ngon lành chia sẻ với bọn ta?”

    Lão Bạch nuốt nước miếng theo phản xạ: “Cô không nên nói vậy…”
     
  9. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 8: “Anh À, Em Cũng Chẳng Muốn Gồng Nữa…”

    Lan Hà không những biết làm nén hương mà còn biết xếp thành núi hương nữa.

    Ba nén hương dài dựng thành khung, những nén khác xếp dựa theo khung đó thành hình tháp dưới nhiều trên ít – Vì cớ đó mà cái này cũng được gọi là tháp hương, ở giữa để trống tiện đốt.

    Lúc Lan Hà xếp núi hương, chị Hồ đã ngửi thấy mùi rồi, mắt chị cứ nhìn lom lom anh xếp núi hương mà cong dần.

    Đúng rồi… Cậu ta là Vô Thường sống, mặc dù cậu ta thấy thức ăn ngon, nhưng chưa chắc đã không có thứ chị thích, ví dụ như đám hương khói mà hồn người sống không thích kia…

    Xếp xong, Lan Hà đốt lửa thiêu hương. Phừng, ngọn lửa nổi lên từ phía dưới, mùi hương nhang nồng nặc bay lên. Tàn hương bị đốt thành màu trắng rơi xuống bệ hương, chất lượng vẫn tốt.

    Lan Hà nhìn khói hương hóa thành hai luồng lần lượt bay vào mũi chị Hồ và lão Bạch.

    Kể cũng thú vị, trước khi chúng bay vào mũi chị Hồ, khói hương uốn thành hình hóa đoa rồi mới bị chị hít vào.

    Cô Hồ hít một hơi khói, mắt lóe ánh xanh, miệng toét rất rộng, ngay cả động tác hít và nuốt khói hương này có thể nói là rất mạnh mẽ. Lưỡi thi thoảng thè ra, dài đến nỗi tưởng chừng như có thể rửa mặt cho bản thân.

    Ban nãy chị còn nghĩ Lan Hà rất giống quỷ đói, ai ngờ đến lượt mình trông còn vã hơn cả Lan Hà.

    Lan Hà chưa quen nhìn dáng vẻ của chị Hồ, mắt bắt đầu láo liên, hệt như mỗi lần chẳng đếm xỉa đến đám quỷ anh không muốn gặp. Anh nghi chị Hồ là động vật thành tinh, đôi khi lão Bạch cũng làm mấy bản mặt hãi hùng khiếp vía nhưng không có sắc thái như loài động vật.

    Vả lại, họ của chị Hồ làm Lan Hà nghi ngờ chị không phải người hay quỷ, mà là hồ ly.

    Các cụ hay nói Nam quỷ Bắc hồ. Phía Nam nhiều truyền thuyết về ma quỷ, phía Bắc nhiều động vật thành tinh, nhất là loài hồ ly. Còn có câu ngạn ngữ rằng “Không có hồ ly thì không có thôn xóm”.

    Kỷ Hiểu Lam đã từng viết trong “Duyệt Vi thảo đường bút ký”*: Con người và động vật khác loài, hồ ly ở giữa; âm phủ và dương gian khác đường, hồ ly ở giữa; Tiên và yêu không chung đường, hồ ly ở giữa.

    (*Tác phẩm này được Kỷ Hiểu Lam (Kỷ Quân) viết khi đã nhiều tuổi, về nghỉ hưu ở quê nhà. Ngoài đề tài là ma quái kinh dị hấp dẫn, gián tiếp phản ánh hiện thực, Duyệt Vi thảo đường bút ký còn có nhiều bài phản ánh một cách trực tiếp thế lực quan trường hắc ám đời Thanh, đả kích thói đạo đức giả dối của tầng lớp nho sĩ, vì danh vì lợi có thể làm bất kì điều xấu xa, tàn ác nào. Vạch trần những gian dối trong buôn bán, nạn hàng giả, nạn lừa đảo trong thương trường cũng đã được Kỷ Quân nói đến, mang đầy màu sắc của thương trường hiện đại.)

    Ý bảo hồ ly là hình tượng vừa chính vừa tà. Nếu chị Hồ đã là người hầu nơi đây, cho dù hình tượng có thi thoảng dị hợm đôi chút thì vẫn thuộc chính phái.

    Lan Hà suy diễn như vậy, cũng là để an ủi mình mà nhìn thẳng chị Hồ.

    Cô Hồ hít hương khói đã đời, đoạn thờ dài đầy thỏa mãn, “Mùi hương thơm tuyệt.”

    “Phải, chưa kể đám hương này đều là do cậu ấy làm ra cả. Đám trâu giấy ngựa giấy cũng là do cậu ấy gấp. Đây là một mãnh tướng của âm ty Đông Nhạc chúng ta.” Lão Bạch đắc chí khoe khoang.

    “Cậu ta làm?” Đôi mắt chị Hồ toát lên vẻ ao ước. Mặc dù hay bảo ai nấy đều là người một nhà, sếp của chị là con gái của sếp lớn Lan Hà, nhưng chung quy vẫn khác. Chị lắp bắp nói với Lan Hà, “Cậu sống ở đâu? Ta theo cậu về nhà.”

    Lan Hà: “…”

    Lan Hà phát hoảng, làm sao đây, vì bữa ăn mà lấy thân báo đáp?

    “Ờm, không, không được, không hay đâu chị.”

    Nuôi hồ ly tinh? Thôi xin kiếu.

    Cô Hồ nhìn móng tay: “Cậu thấy móng tay ta dài quá?”

    Dài thì đúng là dài quá thật, nhưng mà… Lan Hà nhìn lão Bạch cầu xin.

    “Vì mấy cây hương cỏn con mà luồn cúi, chị muốn vứt hết thể diện của nương nương sao!” Lão Bạch trách cứ, đoạn nhìn Lan Hà với vẻ nghiêm túc, “Anh à, em cũng chẳng muốn gồng nữa…”

    Lão Bạch biết Lan Hà còn muốn từ chức đi Vô Thường thì đời nào chịu đi nuôi hồ ly. Y trêu xong bèn giải vây cho anh: “Cô Hồ này, cô cũng biết bây giờ là tiết gì mà, bọn ta bận lắm, đưa cô về cũng chả lo cho được.”

    “Vậy thôi.” Chị Hồ nhìn Lan Hà với vẻ tiếc nuối.



    Quà đã tặng, cơm đã ăn, là lúc nên về rồi.

    Bé mập ôm chân Lan Hà khóc vòi không cho anh đi. Lan Hà bế bé lên: “Sau này chú sẽ đến thăm cháu tiếp.”

    “Còn ta nữa nha.” Chị Hồ lại cười, khóe miệng vô thức nhỏ hai giọt nước miếng.

    Lan Hà: “… Được.”

    Lão Bạch và Lan Hà xuống núi, y bảo còn có việc bèn rẽ hướng khác đi, Lan Hà chỉ đành về thành phố một mình.

    Mình là một Vô Thường sống, chẳng sợ cái quái gì. Lan Hà lẩm bẩm bay về, đi được nửa chừng bèn nghe tiếng chiêng trống.

    Lan Hà lấy làm lạ, chỗ này là nơi đồng không mông quạnh, đèn ở các tòa kiến trúc gần đây nhất cũng nằm ở nơi rất xa, cũng chẳng có mấy xe cộ đi ngang qua trong đêm, vậy tiếng chiêng trống rộn ràng đó từ đâu ra?

    Anh dỏng tai nghe kĩ, không chỉ mỗi tiếng chiêng trống mà còn mang máng có tiếng hát hí réo rắt.

    .

    Mộng Tinh là một diễn viên Xuyên kịch*, hằng năm sẽ trú diễn tại một quán trà ở Bắc Kinh với đoàn kịch các cô. Tuy gọi là đoàn kịch, song vẫn mang phong cách rất hiện đại, thậm chí còn đăng kí công ty.

    (*Xuyên kịch tức hí kịch Tứ Xuyên.)

    Bắc Kinh là trung tâm văn hóa, dù rằng các cô chỉ hát hí khúc địa phương thì vẫn có người thưởng thức. Bình thường các cô còn có thể nhận một vài sự kiện kịch.

    Ví như bây giờ có một ông chủ quê Tứ Xuyên mời các cô đến sơn trang nghỉ dưỡng mình mở để dựng kịch.

    Một cái xe buýt chở tất cả đến sơn trang nghỉ dưỡng ngoài ngoại ô Bắc Kinh. Ai nấy đều đang buôn dưa rôm rả trên xe về chuyện dạo gần đây có chuỗi nhà hàng lẩu muốn lôi kéo đoàn kịch các cô. Diễn viên trong đoàn kịch cơ bản toàn là người gốc Tứ Xuyên, ai ai cũng quen tám chuyện bằng giọng quê hương, tiếng chửi “ngu ngốc” vang rền khắp xe.

    Đặt chân đến sơn trang nghỉ dưỡng xong, đến tối sẽ bắt đầu diễn, sân khấu ngoài trời nên ai cũng tranh thủ bắt đầu trang điểm.

    Hôm nay phải diễn một vở kịch quỷ kinh điển, “Tình thám”* trong “Phần hương ký”.

    (*“Phần hương ký” là một tác phẩm truyền kì thời Minh, tác giả là Vương Ngọc Phong, chủ yếu là nói về chuyện tình yêu giữa Vương Khôi và Tiêu Quế Anh. Nội dung của “Tình thám” là: Vương Khôi rớt cử nhân gặp gỡ với một danh kĩ là Tiêu Quế Anh, nên duyên vợ chồng. Vương Khôi vào kinh thành đi thi, sau khi giành giải Trạng Nguyên thì vong ân phụ nghĩa, Quế Anh nhận thư đòi bỏ vợ bèn đến miếu Hải Thần khóc òa kể tội Vương Khôi, thắt cổ tự vẫn, cuối cùng phán quan cho tiểu quỷ đến bắt sống Vương Khôi.

    *Tình thám có thể hiểu là “Sự thử thách của tình yêu”.)

    Xuyên kịch có nhiều kịch liên quan đến ma quỷ, kịch quỷ nhắc đến những câu chuyện có quỷ, thậm chí còn có hí khúc lấy quỷ làm nhân vật chính. Cũng như vở kịch quỷ được xưng là hàng đầu “Ô bồn ký”*, nó có cái tên gốc rất đáng yêu “Đinh đang quỷ chậu”, nhưng chính bản thân vở kịch lại nổi tiếng là kinh khủng.

    (*Ô bồn ký: Nằm ở hồi 5 trong tác phẩm cổ điển nổi tiếng “Tam Hiệp Ngũ Nghĩa”, kể về chuyện Bao Công đến huyện Định Viễn phá vụ án mạng tham tài hành hung. Chữ ô bồn ở đây được hiểu là cái chậu bẩn, ở Việt Nam được dịch thành “Vụ án chiếc chậu sành”. Thương nhân Lý Hạo trên đường trở về nhà gặp Đinh Thiên, một tên tướng cướp đã rửa tay gác kiếm nay làm nghề chế tác chậu sành. Đinh Thiên vô tình phát hiện Lý Hạo mang theo nhiều vàng bạc nên nổi lòng tham, giết chết anh rồi cùng đồng bọn Giang Vạn Lý đốt xác và lấy tro làm thành một chiếc chậu sành đem bán. Vương Tiến, người đã bán chiếc đèn lồng cho Lý Hạo để anh đem về tặng con vô tình lại là người mua chiếc chậu oan nghiệt đó. Oan hồn Lý Hạo không siêu thoát, hiện lên cầu xin Vương Tiến đi đánh trống kêu oan cho mình, đồng thời bộc lộ mong muốn về thăm vợ con. Chu Vân Nương vợ Lý Hạo biết chồng chết oan quyết khăn gói lên phủ Khai Phong cầu xin Bao Công tìm ra hung thủ.)

    Và đa số các kịch quỷ trong Xuyên kịch thậm chí còn sản sinh ra một loại nghề đào kép độc đáo: Quỷ hồ đán.

    Trong đó người ta còn chia ra quỷ đán và tiên hồ đán, lần lượt là những cô gái đóng quỷ và hồ ly thành tinh. Quỷ đán gắn lĩnh*, hồ đán gắn lông đuôi trĩ, là một trong những thứ kì công nhất của quỷ hồ đán.

    (*Lĩnh là một loại vải mỏng dùng cho tranh chữ.)

    Mà trong vở “Tình thám” của ngày hôm nay, Mộng Tinh diễn vai quỷ nữ Tiêu Quế Anh.

    Mộng Tinh hóa trang đổi mặt* một cách tỉ mỉ, đoạn nhớ tới chuyện ngày xưa từng diễn quỷ, cô treo tờ tiền lên tai làm kí hiệu.

    (*Trong Xuyên kịch, người ta sẽ bôi thuốc màu hóa trang ở từng bộ phận riêng trên khuôn mặt, lúc trình diễn thì lấy tay quệt lên mặt để thay đổi sang sắc mặt khác.)

    Lúc này, Mộng Tinh nghe chủ gánh hỏi: “Linh Quan đâu? Linh Quan đi đâu rồi?”

    “Linh Quan” không phải tên của người. Theo truyền thống Xuyên kịch, phàm là phải diễn kịch quỷ liên tục, nhất là khi diễn vở kịch Mục Liên* với đông đảo nhân vật quỷ, để phòng ngừa việc dẫn quỷ chính tông đến gây chuyện, người ta sẽ mời một diễn viên – thường sẽ là diễn viên nam chính của đoàn kịch – sắm vai thần Vương Linh Quan*. Lúc mở màn, người đó sẽ bước ra trấn yểm sân khấu; lúc kết thúc lại ra “quét” sân khấu, ngụ ý là quét sạch đám yêu ma quỷ quái.

    (*Mục Liên là một vở kịch Phật gia kinh điển, kể về câu chuyện Mục Liên vượt qua bao chông gai khó khăn để cứu mẹ khỏi địa ngục.

    *Vương Linh Quan là thần Hộ Pháp đời đầu trong Đạo giáo.

    *Ở đây là 当家花脸 – Tức diễn viên nam chính của đoàn kịch, chuyên đóng vai nam mạnh mẽ, dữ dội. Cảm ơn cô Manh nha.)

    Bởi vì vở kịch này không phải một vở kịch lớn với nhiều diễn viên nên họ đã tương đối đơn giản hóa nghi thức này, mở màn trấn yểm sân khấu chỉ niệm mỗi một câu chú, lúc kết thúc “quét” sân khấu cũng chẳng mở lời, lấy cái chổi quơ bốn hướng là được.

    Nhưng dù có đơn giản cách mấy thì cũng chẳng thể không tìm thấy người chứ.

    Bầu gánh tìm tới tìm lui, cuối cùng mới tìm được người đó ở nhà vệ sinh. Diễn viên kia chẳng hiểu ăn phải thứ gì mà bị tiêu chảy.

    Bầu gánh bóp mũi bắt chuyện với anh ta mãi cũng chẳng tài nào ra ngoài được. Bình thường toàn anh ta sắm vai Linh Quan, bầu gánh hết cách bèn tìm diễn viên khác thay tạm.

    Lúc Mộng Tinh đợi lên sân khấu thì trông thấy Linh Quan thay thế đương cầm pháp khí roi vàng đứng niệm chú trấn yểm ở phía trước.

    Cô kìm lòng không đậu hỏi diễn viên đóng nam chính Vương Khôi đứng cạnh: “Anh ta niệm sai thì phải?”

    Diễn viên đóng Vương Khôi tên là Lê Xuyên, anh ta cũng gật đầu, “Hình như vậy.”

    Dù họ chưa bao giờ niệm chú thì nghe lâu cũng biết câu chú người đứng trước mặt đang niệm sai lè. Vốn dĩ chỉ là thay người tạm thời, vả lại người xem dưới sân khấu không ai hay, thành thử coi như cho qua.

    Thời đại đã khác, không ai quá để tâm nữa.

    Đoạn kịch “Tình thám” này được xem là phần cao trào của “Phần hương ký”.

    Nó kể về chuyện nữ chính Tiêu Quế Anh sau khi tự vẫn đã hóa thành quỷ, đi đến thư phòng của tên Vương Khôi phụ tình. Cô thấy đùa gã ta chán ngắt bèn lấy mạng ngay tại chỗ.

    Thoắt cái, Mộng Tinh phải lên sân khấu.

    Cô đi quanh sân khấu, bước chân nhẹ nhàng, lĩnh chẳng cần gió vẫn phấp phới, không lộ chân ra, trông thật giống hồn ma đang bay. Kiến thức cơ bản vững chắc tức thì dẫn tới sự ủng hộ của người xem dưới sân khấu.

    Tình tiết phát triển dần, sau khi quỷ đán dịu dàng phát hiện gã đàn ông cặn bã đã phụ lòng mình bèn nháy mắt trở thành lệ quỷ đòi mạng, tình tiết cực kì hồi hộp và kịch liệt.

    Diễn trên sân khấu ngoài trời, lại còn đang giữa đêm hôm thành thử luôn cảm nhận được luồng gió lạnh thổi vù vù. Dù Mộng Tinh có dốc sức diễn ra sao, người có nóng thế nào vẫn cảm giác sau gáy se lạnh. Có lẽ là mồ hôi bị gió thổi lạnh.

    Mộng Tinh xuống sân khấu trong tiếng vỗ tay, chân hơi nhũn nhưng may có Lê Xuyên đỡ cô, đoạn cả hai chuẩn bị đi tháo trang sức. Sân khấu được dựng ngoài quảng trường để tiện cho người xem nên đương nhiên “hậu đài” được đặt trong một căn gần đó.

    Sơn trang nghỉ dưỡng này nằm chếch, đứng bên trong dõi mắt ra xa sẽ nhìn thấy núi, dọc đường đi chỉ có ánh đèn nhập nhèm trong bụi hoa bụi cỏ.

    Mộng Tinh càng đi càng thấy lạ: “Có phải chúng ta đi nhầm đường không anh, sao chỉ có mỗi hai đứa thế này?”

    Không chỉ mỗi họ chào cảm ơn mà còn các diễn viên khác nữa, chưa kể người xem cũng giải tán, dù có ra sao cũng không thể vắng tanh vắng ngắt đến mức này mới đúng.

    “Không thể nào, anh nhớ rất rõ là đường này.” Trí nhớ Lê Xuyên khá tốt, anh ta tin chắc mình không đi nhầm đường, song nhìn bốn phía chẳng lấy một bóng người làm anh ta cũng thấy kì lạ, “Có lẽ họ đi đường khác… Đi thôi, đằng nào chúng ta sắp đến nơi rồi.”

    Không một bóng người thực sự rất quái dị. Mộng Tinh giật thót, ngay lúc này có giọng nói cất lên từ sau lưng: “Cô Mộng Tinh, cậu Lê Xuyên!”

    Mộng Tinh dừng bước ngoái đầu bèn thấy một người đàn ông trung niên mặc áo kiểu Tôn Trung Sơn đuổi theo từ đằng sau. Trong bóng tối, gương mặt ông ta dần lộ ra, mắt to mũi cao, nhìn quen quen, “Chào hai người, ban nãy tôi mới xem vở kịch của các cô cậu, diễn rất hay!”

    “Cảm ơn chú.” Mộng Tinh nghĩ, hóa ra là người mê kịch, hình như ban nãy có thấy ông ta dưới sân khấu thật, còn đứng xem đầy hưng phấn nữa là.

    Người đàn ông trung niên hết sức nhiệt tình, “Cô Mộng Tinh vừa xuất hiện trên sân khấu là tôi đã thấy kĩ năng diễn vô cùng tốt rồi, đặc điểm ‘lướt đi theo gió’ của quỷ được cô nắm bắt rất chuẩn. Và cả lúc lấy mạng gã đàn ông cặn bã kia nữa, cái thần thái đó thật sự làm tôi nhớ tới Thái Nguyệt Thu! Ngặt nỗi Thái Nguyệt Thu là đàn ông nên mạnh mẽ hơn cô, lúc tôi bắt tay với cậu ta cũng có thể cảm nhận được luồng sức mạnh đó. Ôi, lạc đề rồi, tóm lại là đã lâu rồi tôi chưa gặp được một Tiêu Quế Anh tuyệt vời đến bậc này, quả là quỷ đán xuất sắc…”

    Ông ta càng trưng nét mặt hào hứng, Mộng Tinh và Lê Xuyên càng kinh ngạc và hoài nghi hơn.

    Thái Nguyệt Thu và một tiền bối tiếng tăm lẫy lừng, đồng thời là một nam đán Xuyên kịch, Tiêu Quế Anh ông đóng cực kì nổi tiếng.

    Người ta hay nói trong tứ đại kinh điển “Chu Vương Tần Lâm Giang hấp thủy, Đàm Vân Tiên u hội phóng bùi. Dương Tố Lan quý phi say rượu, Thái La La miếu Hải Thần bắt sống Vương Khôi”, Thái La La ý chỉ Thái Thu Nguyệt.

    Chỉ là cách nói này đã là khá lâu về trước, đã là cách nói lưu truyền cuối thời Thanh đầu dân quốc.

    Làm sao người đàn ông trung niên này có thể gặp được Thái Nguyệt Thu và bắt tay với người ta!

    Mộng Tinh đang thấy quái quái, nghi ngờ ông ta bị điên thì thấy người đàn ông trung niên vươn tay ra nói: “Thật sự không dám giấu, tôi quen cả tá diễn viên nghiệp dư*, đêm nay chúng tôi cũng gặp nhau, nhưng họ không tin các cô cậu có thể diễn hay, tại có mỗi tôi đến xem mà. Tôi muốn mời hai người diễn một lúc để họ mở mang tầm mắt, được không?”

    (*Từ gốc ở đây là 票友, ý chỉ người đam mê hí kịch đến nỗi tự sắm vai và diễn các vở kịch nghiệp dư.)

    Ông ta vừa ngoắc vừa cất mấy bước.

    Đến giờ Mộng Tinh và Lê Xuyên mới chú ý đến chân ông ta, liếc một cái mà máu đông cứng lạnh. Trên mặt đất không có bóng của người đàn ông này, vả lại, ông ta đang bay.



    Lan Hà dò theo tiếng động tìm sang bên kia. Vốn dĩ anh không muốn nhìn đâu, chỉ là thấy loa phóng thanh và micro nhỏ rơi ven đường vẫn nguyên vẹn, cảm thấy có hơi lạ bèn đi qua xem.

    Chỉ thấy trên bãi đất hoang có dựng một sân khấu kịch thô sơ, trên sân khấu có hai đào kép đã hóa trang đang diễn với nhau, có điều dù hóa trang thì cũng nhìn ra một người trong đó có vóc dáng và mặt mũi cường tráng, có vẻ là nam đán.

    Ngoài trống nhạc bên cạnh thì dưới sân khấu còn có mười mấy người đang tập trung xem.

    Trên sân khấu, cô gái trẻ đẩy người đàn bà già: “Chết tiệt, đồ sống dai nhà bà…”

    Người xem dưới sân khấu bèn căm phẫn chửi: “Đồ mụ vợ ác độc!”

    Lan Hà bay tới từ một bên, anh đứng ở một nơi không xa không gần, nhờ bụi cỏ cao che mà tập trung nhìn.

    Hai diễn viên trên sân khấu có hỏa khí mờ ảo nhưng vẫn đúng là người sống, song cái đám mặt xanh lét, đeo nụ cười cứng ngắc đương tấu nhạc và xem kịch này không phải quỷ mới là lạ, toàn cô hồn dã quỷ.

    Chính vì vậy mà dù hai đào kép đang kẻ này bắt nạt người kia, nhưng mắt rưng rưng, chân run lẩy bẩy.

    Chỉ riêng việc nhìn những gương mặt xanh lét dưới sân khấu là Lê Xuyên và Mộng Tinh đã sợ vỡ mật rồi, song vẫn phải cố gắng diễn tiếp, chỉ sợ diễn không tốt sẽ bị tính sổ.

    Họ diễn vở “Tình thám” còn chưa đủ, mấy tên… “diễn viên nghiệp dư” này còn bắt họ diễn lại. Bao dũng khí dần bị mài mòn, họ không khỏi nghĩ thầm không biết còn có thể về được nữa không.

    Lan Hà đang nhìn thì bất thình lình có người lên tiếng:

    “Là ngươi?”

    Lan Hà cứ ngỡ là quỷ, lúc ngoái đầu nhìn thấy người lạc hồn mặc đồ đen tóc đen, cổ đeo tràng hạt mà anh gặp phải trên đường đi dẫn quỷ với Nghiêm Tam ngày trước, bèn sửng sốt thốt lên: “Là anh!”

    Đúng là ngươi thật rồi. Tống Phù Đàn chưa hỏi tên của quỷ sai này, âm phủ rộng lớn chừng ấy mà vẫn có thể gặp lại.

    Nếu quỷ sai này không đeo khẩu trang, trên mũ viết “Đến cũng đến rồi” và có lẽ chỉ có một thì hắn sẽ chẳng dám nhận bừa.

    Thấy đôi mắt Lan Hà toát lên vẻ mừng lỡ, tâm trạng Tống Phù Đàn cũng thoải mái hơn, dè dặt khẽ gật đầu.

    Lan Hà giật mình nhìn hắn: “Sao anh lại ở đây? Anh chết rồi?”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Tống Phù Đàn: “Hồn lìa khỏi xác.”

    “Không thể nào.” Lan Hà thấy sai sai, “Hôm đó tôi mới đưa anh về mà.”

    Tống Phù Đàn bình tĩnh nhìn anh: “Ngươi nói vụ ‘Ra roi thúc ngựa’ kia?”

    “…” Lan Hà cười ngượng, “Ban đầu muốn đưa ngựa cho anh, ai biết chỉ còn mỗi… Ủa, bộ nó rách nửa chừng nên anh vẫn lảng vảng đến tận giờ?”

    Tống Phù Đàn: “Là lại xuất hồn.”

    Lan Hà cảm thấy rất là bất ngờ, nhịn lắm mới không nói tần suất anh xuất hồn sắp vượt qua tên Vô Thường sống là tôi rồi đó: “Lại xuất hồn? Anh làm gì mà trong thời gian ngắn như vậy đã xuất hồn tiếp? Là bị đám quỷ này dẫn tới à? Nếu chưa rách thì lừa chiến tôi đưa anh đâu? Anh làm mất nó rồi à!”

    Tống Phù Đàn: “??”

    Tống Phù Đàn: “Lừa chiến…?”

    Ngụ ý chắc là: Sao ngươi có thể mặt dày mà nói như vậy?

    Lan Hà: “Có vấn đề gì? Tôi là một mãnh tướng của âm ty Đông Nhạc đó!”

    *Tác giả:

    Lão Bạch: Là mãnh tướng của âm ty Đông Nhạc ta! Siêu mãnh!
     
  10. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 9: “Ngươi Chết Được Ít Nhất Hai Trăm Năm Rồi Nhỉ?”

    Một mãnh tướng?

    Cái tên Vô Thường này hơi thấp hơn hắn, dù chưa nhìn thấy cả gương mặt nhưng mắt thì tròn xoe. Nếu kiểu này mà mãnh thì có lẽ từ “mãnh” đã được định nghĩa một lần nữa lúc hắn chẳng hay biết gì.

    Tống Phù Đàn nhìn cái vẻ hùng hồn của Lan Hà, “Ngươi có biết chiều cao của mũ không được tính vào chiều cao cơ thể không?”

    Lan Hà: “…”

    “Cấp trên của tôi đã xác nhận rồi!” Lan Hà phát bực lôi mũ xuống ôm vào lòng, tóc xù lên như bông, “Lừa chiến của tôi có thể giẫm bẹp ác quỷ, anh chớ có khinh thường nó… Đúng rồi, rốt cuộc nó đang ở đâu?”

    Chất lượng con lư giấy anh gấp cực kì tốt, thấy lão Bạch còn phải đưa nên núi Diệu Cảm chưa? Nếu không phải do lúc làm bị hỏng thì chắc phải dùng rất lâu.

    Tống Phù Đàn dứt lời bèn băn khoăn mình có quá lời quá không, nhưng trông tên Vô Thường này chỉ giận có ba giây, hắn cũng lặng lẽ dời mắt lên mái tóc Lan Hà, dửng dưng đáp, “Nó? Ngươi cứ xem kịch tiếp đi.”

    Lan Hà xoay người xem kịch, cũng đeo lại mũ.

    Chỉ thấy “mẹ chồng” đang bị “con dâu” ức hiếp quá thể đáng thì trời giáng chính nghĩa xuống, một nhân vật mặc áo quan đi ra từ sau màn, bên cạnh còn có một tên quan bé, đoạn lớn tiếng quát: “Ta là Diêm La Vương của âm tào địa phủ, điêu phụ to gan còn không quỳ xuống!”

    Các nhân vật khác lật đật quỳ xuống, bà mẹ chồng ác độc do Lê Xuyên đóng nhìn thoáng qua bèn phát hiện trên tai của tên “Diêm La Vương” này còn treo một tờ tiền giấy. Giữa bao nỗi sợ là sự câm nín. Đây là tập tục xưa, nhưng treo tiền giấy là người sống đóng vai quỷ, một con quỷ như ông ham hố làm gì…

    “Diêm La Vương” đến để bênh vực lẽ phải.

    “Tần thị bất kính với bề trên, tùy tiện bắt nạt nhục nhã người khác, giờ phạt ngươi hóa thành lừa sống, để mẹ chồng cưỡi lừa!”

    “Diêm La Vương” ra lệnh một cái là “con dâu” đã bị đám quan lại vây quanh phủ “lớp da lừa”, biến thành một con lừa, chân sau không được linh hoạt cho lắm.

    Kẻ ác gặp ác báo, người xem dưới sân khấu vỗ tay nhiệt liệt, “Hay! Hay!”

    Chỉ là con lừa què đột ngột xuất hiện đó ngước đầu nhìn lên kêu hi ho rồi đứng dậy.

    Tên quan lại hoảng hốt, “Tần thị kia, ngươi làm gì đấy!”

    Con lừa què cóc thèm quan tâm Tần thị này nọ, móng sau đạp bay tên đó, đoạn nhảy xuống khỏi sân khấu, cũng để lộ Lê Xuyên đang nằm úp sấp đằng sau. Nó không thèm đếm xỉa đến việc thủ thuật che mắt đã lộ, chạy cà nhắc đến trước mặt Lan Hà, dụi đầu vào lòng bàn tay anh.

    Tống Phù Đàn đứng bên giải thích: “Ban nãy bị họ mượn.”

    Sau khi hắn xuất hồn đang muốn cưỡi con lừa giấy này về thì gặp đám cô hồn dã quỷ này, vì muốn hỏi họ mấy câu chuyện cũ về Bắc Kinh cần cho sáng tác nên hắn đồng ý sẽ cho họ mượn lừa làm đạo cụ, chỉ là không yên tâm cho lắm, lỡ lừa giấy bị hỏng thì sao… Bèn đi tới xem cùng.

    Lan Hà vươn tay vuốt ve hai tai của lừa, còn chưa làm gì thì đã nghe đám quỷ bên kia cuối cùng cũng phát hiện ra sự tồn tại của anh gào toáng lên: “Âm sai đến rồi! Chạy mau lên!”

    Lan Hà: “…”

    Không chạy thì thôi, chứ đã chạy thì Lan Hà phải ngăn lại.

    Anh nhìn đám quỷ nhảy tót sang bên cạnh, xòe quạt quạt mạnh hai cái, chúng bất giác bị quật phải lùi lại mấy bước, trong đó có một kẻ thừa cơ muốn chạy thì bị Tống Phù Đàn giơ tan cản.

    Tên dã quỷ kia chẳng thèm đếm xỉa, đây chỉ là một hồn sống mà dám vươn tay bắt gã ư.

    Tống Phù Đàn không tránh, tay quỷ còn chưa duỗi ra trước thì tràng hạt trên cổ hắn đã tỏa ánh sáng vàng nhạt, đâm vào tên dã quỷ làm gã ngã lộn mèo, người cũng mờ hẳn đi. Còn Tống Phù Đàn vẫn đứng nguyên chỗ cũ, điềm nhiên như không.

    Lan Hà bị vượt mặt, quát lên: “Không được nhúc nhích, ôm đầu ngồi xổm tại chỗ!”

    Đám này toàn là cô hồn dã quỷ, nào có gan đối nghịch thẳng mặt với âm sai. Chúng cũng chẳng đủ bản lĩnh, nếu không đã biến ra cái đạo cụ nào đó rồi. Lại thêm sự giúp đỡ của Tống Phù Đàn, thành thử cả đám thành thật ngồi xổm tại chỗ.

    “Hai người không sao chứ?” Đây là Lan Hà hỏi hai người sống nọ, vì anh nhớ ở đây hãy còn hai tên xúi quẩy.

    Giọng điệu anh rất đỗi nhẹ nhàng và thân thiết, ấy vậy mà Mộng Tinh và Lê Xuyên run cầm cập. Trong mắt họ, Lan Hà chẳng khác gì bọn quỷ kia… Đứng run rẩy mãi mới đánh bạo cáo trạng: “Chúng tôi muốn quay về, chúng tôi không hề tự nguyện.”

    Tên tiểu quỷ sắm vai “Diêm La Vương” nọ ngồi xổm nhảy cóc hai bước về phía này, nhanh miệng chủ động nói: “Thưa quan lớn, chúng con biết sai rồi, chỉ là nghiện diễn nên diễn một lúc thôi, đây là lần đầu tiên con diễn Diêm La Vương điện hạ! Con, con sẽ tố cáo, con sẽ lập công chuộc tội!”

    Gã nói xong thì chỉ sang một tên dã quỷ khác: “Trước đây hắn ta thích lén lút diễn ‘Chửi Diêm La’ nhất, thích nhất là cái câu hừ hừ gì mà ‘Ây dà, nghe bảo Ngũ Điện Diêm La Tần Quảng Huy’…”

    “Ta nhổ vào, chả lẽ ngươi chưa bao giờ diễn ‘Sấm phán quan’ chắc?”

    Hai quỷ chửi nhau ỏm tỏi, sau còn quần nhau một trận.

    Lan Hà trợn mắt chấm dứt, vẫn thấy khá là buồn cười, “Thôi được rồi được rồi, ta không truy xét mấy việc này nữa. Nhưng người quỷ không chung đường, các người bắt nạt người sống, bắt ép họ phải hát hí khúc, quả là hành vi ác bá. Phạt các người… nộp hoa quả cho ta!”

    Thật không dám giấu, hắn xuống núi xong lại thấy mình có thể ăn thêm chút đỉnh nữa, song trước đó toàn ăn thịt thành thử muốn ăn rau quả tí…

    Chúng quỷ hai mặt nhìn nhau, quỷ sai bình thường toàn đòi tiền đòi hương mà nhỉ.

    Lan Hà: “Nộp nhanh cho ta, ta biết các người có, tiết Thanh Minh vừa qua chưa được bao lâu!”

    Đám quỷ: “…”

    Người sống: “…”

    Quỷ ăn no cùng lắm sẽ no suốt một năm, đúng là vào tiết Thanh Minh mấy ngày trước chúng đã vớ bở mấy món, hạnh phúc khôn xiết như người sống ăn Tết vậy. Mà cũng có dư mấy món thật, hệt như đồ đêm 30 ăn chưa hết.

    Chỉ là phải nộp cho Vô Thường ư… chẳng nỡ lòng nào.

    Lan Hà: “Mau lên, nộp đồ ăn lên đây.”

    Anh lần lượt thu đồ ăn, đòi bên này một quả cam, đòi bên kia hai quả táo, gom thành một giỏ hoa quả.

    Lan Hà hết sức hài lòng với thành quả này, nhưng đám quỷ thì khóc thút thít, “Khóc cái gì mà khóc, lúc các ngươi đi hù người ta sao không nghĩ đến chuyện khóc đi?”

    Tên quỷ cầm đầu lau nước mắt: “Ngài Lai à, ngài thật sự không truy tra chuyện hát hí khúc nữa sao?”

    Âm sai chẳng đáng tin, hắn ta sợ ngài “Đến cũng đến rồi” cầm hoa quả xong lại muốn truy cứu rồi vơ vét cả bọn đến độ chẳng còn tí canh cặn nào.

    “Đừng hại người bừa bãi, còn ta chõ mũi vào chuyện các người hát hí làm gì đâu?” Lan Hà đáp, “Không nói nữa, hát thì được, lần sau ta lại đến.”

    “…” Cả đám cúi đầu, không dám đáp câu này đành ấp úng, “Đã nộp đồ cống rồi, bọn con cáo lui đây.”

    Lan Hà phất tay, đám quỷ chạy té khói.

    Lan Hà cầm đống hoa quả chôm được, đoạn hỏi Lê Xuyên, Mộng Tinh và Tống Phù Đàn, “Ăn không?”

    Cả ba: “…”

    Nhất là Mộng Tinh, cô cứ nghĩ quỷ sai làm gì mà ôn hòa gần gũi với “con người” thế này được… Làm cho chính “người” cảm thấy sờ sợ.

    Lan Hà cho mỗi người một quả cam: “Hai người đi được rồi đấy, mau về đi.”

    Được đi về sao? Lê Xuyên xém tí nữa đã ngồi thụp xuống, anh ta còn tưởng mình chạy không thoát chứ.

    Lê Xuyên và Mộng Tinh đều nơm nớp lo sợ, nhận cam rồi nhưng nào dám ăn, không chừng ngày mai sẽ hóa thành lá cây, trong “Liêu Trai” toàn diễn vậy…

    Tuy quỷ sai này giúp bọn họ nhưng vẫn là quỷ, trông quá là hãi hùng.

    Hai người đoán chừng người ta có thể đã sống mấy trăm năm nên hành lễ thời xưa như trong vở kịch với anh, lúc này mới tay cầm tay chạy đi chẳng ngoái đầu lại.

    Trông hai người này cùng lắm là sinh sau năm 1980 mà sao tạm biệt còn phải quỳ gối nhỉ? Lan Hà vừa ăn cam vừa nghĩ ngợi.



    Lê Xuyên và Mộng Minh cầm cam chạy như điên trong đêm, chẳng dám ngoảnh đầu lại. May là Lê Xuyên có trí nhớ tốt, chạy thẳng về đến sơn trang nghỉ dưỡng. Đêm khuya cửa chính đóng chặt, chỉ còn mỗi phòng bảo vệ là còn chong đèn.

    Hai người đi qua gõ cửa, bảo vệ nhìn hai người tóc tai bù xù, trang điểm thành đào kép, nét mặt hãy còn kinh hãi bèn nhíu mày hỏi: “Chuyện gì đấy?”

    “Chào chú, bọn cháu là diễn viên của đoàn kịch Xuyên Nguyên hôm nay tới đây diễn. Bọn cháu muốn vào trong kia, được không chú?”

    Bảo vệ quan sát một lát, giống diễn viên thật đấy, nhưng mà…

    “Tất cả người trong đoàn kịch Xuyên Nguyên đều ở bên trong cả, chả ai đi ra ngoài, hơn nữa bây giờ cũng đã diễn xong xuôi rồi, đừng bảo cô cậu là người đến trễ nhé?”

    “Không, bọn cháu là diễn viên thật mà.” Còn là diễn viên chính, song Mộng Tinh không biết phải giải thích ra sao, “Thế này đi. Chú có thể cho bọn cháu mượn gọi một cú điện thoại được không? Bọn cháu gọi bầu gánh ra đón.”

    Bọn họ lên sân khấu diễn không được mang điện thoại theo, vừa ra sau sân khấu thì bị quắp đi.

    Bảo vệ đồng ý, đoạn bấm gọi giúp họ, bầu gánh của đoàn kịch Xuyên Nguyên tới đón thật.

    Bầu gánh nhìn thấy hai người bèn lấy làm lạ, “Ủa hai người chạy ra ngoài từ bao giờ đấy, lén lút đi hẹn hò à? Tôi đang đi tìm hai cô cậu đó. Đã bảo sẽ ăn bữa khuya với nhau mà sao diễn xong lại chả thấy tăm hơi đâu. Thôi coi như cô cậu về đúng lúc, bữa khuya mới nấu xong.”

    “Phù… Thưa ông chủ, chúng tôi…” Lê Xuyên vừa mới nói đến đây bèn dừng lại, nghĩ đến câu nói vừa nãy của bầu gánh, đoạn hỏi, “Vừa mới nấu xong bữa khuya? Ông chủ à, bây giờ là mấy giờ rồi?”

    Bầu gánh nhìn điện thoại, “Mười giờ kém vài phút.”

    “Vẫn chưa đến mười giờ ư?!”

    Lê Xuyên và Mộng Tinh nhìn nhau. Kịch kết thúc lúc chín giờ rưỡi, vậy có nghĩa là sau khi họ diễn xong đã lạc đường mất nửa buổi, diễn kịch rồi lại chạy như điên về mà mới qua nửa tiếng mà thôi?

    “Này, cam đâu ra đấy? Cho tôi đi, thèm quá.” Bầu gánh nào biết họ nghĩ gì. Đôi này trai tài gái sắc, người trong đoàn kịch hay trêu ghẹo, ông nghi họ đi hẹn hò mà còn giả ngu. Xem cái đầu ướt nhẹp mồ hôi kia kìa, ha ha.

    Mộng Tinh đương thất thần thì bầu gánh lấy quả cam. Đó là một quả cam nhỏ, ông bóc vỏ rồi nhét nửa quả vào miệng.

    “… Khoan đã!” Mộng Tinh không kịp ngăn lại đành trơ mắt nhìn gầu bánh nuốt xuống.

    Hai người cẩn thận quan sát bầu gánh, “Chú không sao chứ?”

    “Sao? Có bị gì đâu? Ừm, cảm giác quả cam này không còn tươi nữa.” Bầu gánh đáp.

    Lê Xuyên lẩm bẩm: “Chắc tại để từ tiết Thanh Minh đến bây giờ…”



    Mảnh đất hoang mới rồi còn rất huyên náo nhoáng cái chỉ còn mỗi Lan Hà và Tống Phù Đàn.

    Tống Phù Đàn nhìn Lan Hà nhét cam vào cái miệng dưới khẩu trang. Hắn khá là tò mò gương mặt của tên Vô Thường này, song nếu người ta đã bằng lòng ăn một cách phiền phức mà vẫn không chịu tháo khẩu trang xuống thì có lẽ là do có nỗi đau khó nói.

    Trông y rất hoạt bát, lẽ nào chết thê thảm quá…

    Tống Phù Đàn nhìn anh với ánh mắt tìm tòi, “Tại sao ngươi không truy cứu tên dã quỷ ‘mắng Diêm La’ kia?”

    Lan Hà liếc hắn một cái, đoạn ỉu xìu đáp: “Tôi là thuộc hạ của Thái Sơn Vương, chuyện bên Diêm La Vương có liên quan gì đến tôi đâu.”

    Tống Phù Đàn: “…”

    “Đùa thôi, tôi nghĩ là không cần thiết. Tôi biết bộ phim đó, thật ra nội dung kể rằng có người giải oan cho trung thần mà mắng Diêm La Vương, Diêm La Vương bèn cho người đó hoàn dương. Cũng chả có gì.” Lan Hà đáp.

    Tống Phù Đàn ngẫm lại, cảm thấy câu đùa này khá là mặn mòi đấy.

    Vả lại, người ta hay nói tiểu quỷ khó chơi, y lại rất hiểu lí lẽ.

    “Ngươi nói đúng.” Tống Phù Đàn hỏi, “Ngươi chết bao lâu rồi?”

    Hả?

    Lan Hà sửng sốt, nín cười đáp: “Vậy ngươi nhìn ta trông giống đã chết bao lâu?”

    Tống Phù Đàn nghĩ đến cách hành lễ kiểu xưa của hai người ban nãy, Vô Thường cũng không dị nghị gì, vậy nghĩa là ít nhất phải…

    “Hai trăm năm?”

    Lan Hà: “Tầm đó.”

    Anh lén đỏ mặt, lại phải ba xạo nữa rồi, đây mới là giả thần giả quỷ này.

    Con lừa què kêu hi ho, húc vào eo Tống Phù Đàn.

    Tống Phù Đàn ghét bỏ nhéo tai nó.

    “Nó đang nhắc chúng ta là đã khuya rồi, nên hồi hồn!” Lan Hà nói, “Đi thôi, tôi tiễn anh một đoạn đường… Đừng nhìn tôi như thế, tôi không quạt anh nữa đâu.”

    Đều là về thành phố cả, đường về giống nhau.

    Lần này Tống Phù Đàn không cưỡi lừa giấy nữa, hắn cũng chỉ cưỡi một lần đầu. Lần này, hắn đi với Lan Hà trong đêm tối, tay nắm con lừa khập khiễng.

    Có duyên phết. Lan Hà nghĩ vậy, đoạn hỏi, “Ban nãy… trông tràng hạt của anh có vẻ rất lợi hại, đám quỷ kia chẳng chạm được anh.”

    Bối Ngư xâu bên trong thoạt trông sáng rực hơn. Bối Ngư trong tràng hạt dùng để tụ dương khí. Họ thường hay bảo lưng là dương, ngực là âm, cho nên mới đặt sau lưng.

    Lúc Tống Phù Đàn cản lũ dã quỷ, chúng không thể tiếp cận hắn.

    “Đây là tràng hạt mà một cao tăng để lại.” Tống Phù Đàn vân ve tràng hạt, “Ta thường xuyên xuất hồn, có nó sẽ bảo vệ hồn vía, yêu tà bất xâm.”

    “Thường xuyên xuất hồn à, nghe hơi thảm.” Lan Hà nghĩ bụng thảo nào chưa gì đã gặp lại hắn, “Nhưng may là có cao nhân giúp anh. Đồng nghiệp tôi kể với tôi Bắc Kinh là nơi đông đảo kẻ lừa bịp nhất, cũng là nơi nhiều cao nhân nhất.”

    Tống Phù Đàn hiếm có cơ hội thảo luận chuyện này với người khác, ngay cả viết lách cũng khó miêu tả, hắn cười giễu: “Oan hồn cũng nhiều, trên đời vốn đã là hai nửa người và quỷ. Trong miệng bọn lừa đảo, hễ cứ mất ngủ mơ nhiều thì sẽ thành oan hồn trăm tuổi quấn thân, quỷ chẳng là gì sất.”

    Lan Hà không khỏi bật cười: “Ha ha ha!”

    Tuy không nhìn thấy nửa mặt dưới nhưng đôi mắt anh cong lên ngậm ý cười.

    Tống Phù Đàn cũng nhếch miệng, làm dịu đi vẻ kiêu căng và ngũ quan đẹp trai lạnh lùng.

    Hai người chạm mắt nhau vài giây, đoạn suy nghĩ gì đó, rồi lại im lặng một chốc.

    Tên họ là dấu hiệu quan trọng trong thế giới quỷ thần.

    Nó có ý nghĩa đặc biệt hơn thế giới người sống nhiều, toàn bộ sinh vật đối xử với nó cẩn thận hơn.

    Tự đáy lòng Lan Hà có phần muốn hỏi tên người ta, song anh băn khoăn bây giờ mình là Vô Thường, nào có ai bằng lòng nói tên cho quỷ sai, người thường toàn sợ bị quỷ gọi tên mà chết tức tưởi.

    Đó là lí do anh phải nghĩ mãi mới nói: “Cam chôm về không được tươi cho lắm…”

    Tống Phù Đàn muốn biết tên của Vô Thường này, nhưng quỷ thần sẽ không dễ dàng báo tên cho người khác. Thậm chí trong một tôn giáo, cách viết tên thật của quỷ thần là một phương pháp bí truyền.

    Hắn bèn trù trừ giây lát, đành phụ họa theo: “Đúng là có chút ít, nhưng vẫn xem là ngọt.”



    Ở nhà họ Tống.

    Thân xác Tống Phù Đàn vẫn nằm thẳng trên giường không nhúc nhích.

    Mẹ Tống xoa mi tâm, “Làm sao đây anh, tại sao tần suất xuất hồn của Phù Đàn lại cao dần lên, sẽ không sao chứ? Anh xem, sao chuyện này lại…”

    Tống Khởi Vân an ủi vợ: “Em đừng sốt ruột, chúng mình gọi cho pháp sư Bất Động đi.”

    Bây giờ đã là đêm hôm khuya khắt, chuông đổ mãi mới nối được với bên kia, song không phải pháp sư Bất Động, “Ngài Tống à, tôi là Tư Không. Sư phụ đã ngủ, người nói nếu đêm nay ngài gọi tới thì bảo với ngài rằng Phù Đàn không có việc gì.”

    “… Xin lỗi, đã quấy rầy rồi.” Vợ chồng Tống Khởi Vân nghĩ thầm, quả không hổ là pháp sư Bất Động, ông sớm đã biết họ sẽ gọi điện thoại, điều này cũng làm hai người an tâm chun chút, “Nhưng thầy Tư Không có thể nói cho chúng tôi biết chuyện này là vì lí do gì được không? Đây đã là lần thứ hai nó xuất hồn trong tuần này rồi.”

    Giọng Tư Không trong điện thoại toát lên vẻ hiền hòa và bình tĩnh: “Chỉ là do dạo này Bắc Kinh không yên ổn thôi, nhưng sư phụ đã nói rồi, Phù Đàn bệnh thân Hồng Liên, tuy thể chất đặc thù dễ dẫn yêu tà tới, nhưng bản tính như hoa sen, không hề lung lay, lại có Phật châu của sư phụ bảo vệ, yêu tà dẫn cậu ấy xuất hồn nhưng không tổn thương đến cậu ấy được. Hai người chỉ cần…”

    Tư Không đang nói dở thì bị mẹ Tống nôn nóng cắt ngang: “Đợi đã, thầy Tư Không.”

    Bà nhìn mặt con trai mình, lại xác nhận thêm lần nữa mới nói như bị dọa sợ: “Phù Đàn vẫn chưa hồi hồn mà nó đang, đang mỉm cười, vậy nghĩa là sao? Trước đây nó chưa bao giờ như vậy cả.”

    Động não nghĩ là biết hồn lìa khỏi xác sẽ toàn gặp phải yêu ma quỷ quái, làm sao cười nổi.

    Hơn nữa, đó không phải nụ cười quái dị, không phải cười thảm, mà là nụ cười vui vẻ hiếm khi lộ ra.

    Đầu kia điện thoại cũng im lặng, sự bình tĩnh của Tư Không đã vỡ tan, ngữ điệu đầy hoang mang: “Sư phụ chưa nói cái này… Có lẽ lần này cậu ấy gặp một con quỷ thú vị nào đó?”
     
  11. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38

    Lan Hà và Tống Phù Đàn đồng hành đi về thành phố, lúc bấy giờ đã sắp bình minh, sao sớm thưa thớt, chân trời hửng nắng, gió lạnh lúc tờ mờ sáng tuy rét nhưng mát. Muôn loài đang đợi chờ ánh ban mai, màu trời đã dần thay đổi đi nhiều, cảnh sắc sống động hơn.

    Dường như xưa nay chưa bao giờ có cảnh tượng nào khiến lòng người phải rung động đến thế.

    “Trời sắp sáng rồi.” Tống Phù Đàn nói.

    Đột nhiên hắn có cảm giác trời cao kia muôn đời vẫn mang hình hài ấy. Thật ra tia nắng mai vẫn luôn đáng yêu, chỉ là hắn không có bụng dạ nào để nhìn ngắm mà thôi.

    Con lừa què nôn nóng, móng nó bới đất vài bận.

    “Sốt sắng làm gì, mặt trời xuất hiện thì chúng ta sẽ hóa tan thành bọt biển được ư?” Nhưng sáng nay Lan Hà có việc, bèn nói với Tống Phù Đàn, “Tôi tiễn anh đến đây thôi, anh mau về đi.”

    “Ừ.” Tống Phù Đàn gật đầu.

    Dù rằng không đến mức hóa thành bọt biển nhưng hồn sống rời xác quá nhiều ngày sẽ không cứu được nữa, vả lại con lừa què cũng được xem như vật cõi âm, không thích mặt trời, bèn giục giã cắn góc áo hắn mãi.

    Lan Hà cũng lùi về một phía mấy bước: “Ừm… Gặp lại sau nhé!”

    Không để lại tên họ, không hỏi bao giờ đến, dù đi đến đâu cũng chỉ mong có duyên gặp lại.

    Tống Phù Đàn: “… Gặp lại sau.”

    .

    Liễu Thuần Dương tìm Lan Hà bảo anh diễn cặp với vai chính nên lần này hẹn cả Trần Tinh Dương đến cùng.

    Liễu Thuần Dương thích thử vai ở nhà hàng.

    “Tôm hùm đất ở nhà hàng này rất ngon, thịt cũng rất chắc.” Liễu Thuần Dương mút nước sốt cay cay rồi mới bóc vỏ tôm đỏ rực để lộ thịt tôm đỏ hỏn chắc nịch. Thịt tôm sau khi hầm dậy mùi với các loại gia vị như hành, gừng, ớt. Dù chỉ nhìn Liễu Thuần Dương nhai thôi cũng có thể mường tượng được cảm giác rồn rột khi nhai và mùi thơm nức mũi, “Shhh… Có hơi cay. Chắc là Lan Hà có thể ăn cay tốt hơn cháu đó, nhưng hai đứa không được ăn, há há há há.”

    Trần Tinh Dương, Lan Hà: “…”

    Mặc dù cả hai mới gặp nhau lần đầu, song một câu của Liễu Thuần Dương bỗng dưng khiến họ kéo quan hệ lại gần nhau hơn.

    Đương nhiên cũng có thể là vì Trần Tinh Dương đã nổi tiếng nhiều năm nay với cái danh tính tình tốt.

    Liễu Thuần Dương bảo cả hai diễn với nhau là thử diễn cảnh tay đôi cuối cùng giữa vai phản diện và vai chính. Nhân vật phản diện mà Lan Hà đóng xong cảnh này là sẽ hết đất diễn.

    Liễu Thuần Dương lau miệng sưng lên vì cay xong thì đột nhiên hứng chí bảo Lan Hà: “Lát nữa cậu chết một lúc đi, để cho nhóc này tận mắt chứng kiến chết hay là như thế nào!”

    Lan Hà: “…”

    Trần Tinh Dương: “???”

    Lan Hà: “Đạo diễn Liễu! Ý khác nhau!”

    Lúc này Liễu Thuần Dương mới ngộ ra: “Ha ha ha, ý chú không phải vậy… Tức là Lan Hà từng luyện yoga, có thể điều chỉnh hô hấp đến gần như không có, nhiệt độ cơ thể cũng sẽ hạ thấp xuống. Đây chẳng những cần kĩ xảo mà còn cần thiên phú nữa. Nghe nói số người có thể làm được trên toàn thế giới chẳng vượt quá con số năm! Phái của họ tìm truyền nhân cực kì khắt khe!”

    Lan Hà: Không… Cháu không hề…

    Rốt cuộc đạo diễn Liễu về nhà đã tra ra những tài liệu quái gì vậy, đến chính Lan Hà cũng không biết trên thế giới này còn có những người có thể làm được điều đó đấy.

    “Thần kì vậy ạ?” Trần Tinh Dương nhìn Lan Hà với vẻ ngạc nhiên, đoạn hỏi anh, “Vậy cậu có thể vòng chân gác sau đầu không? Tôi rất muốn xem.”

    Lan Hà: “…”

    … Sao cái đám này ai cũng lạ lùng hết vậy? Không hổ là diễn viên ruột của Liễu Thuần Dương, mở miệng cái là giạng chân gác ra sau đầu, nếu mà làm được thật thì tôi cũng nên chuyển sang chức Vô Thường toàn thời gian cho rồi!

    Lan Hà giả vờ chưa nghe thấy, “Vậy chúng ta bắt đầu đi, lát nữa nếu cháu lạnh người đừng có cứu cháu nhé.”



    Hiển nhiên màn qua đời tại chỗ của Lan Hà lại làm một người khác phải giật mình.

    Trần Tinh Dương tâm phục khẩu phục, hơn nữa hai người diễn với nhau rất ổn, rất lôi cuốn. Liễu Thuần Dương cũng khá là hài lòng, song không quyết định ngay mà vẫn phải suy nghĩ thêm. Hoặc nói theo một cách khác, Lan Hà là gương mặt mới mà ông mới gặp một lần đã quyết định chọn, vẫn chưa hợp tác bao giờ.

    Trần Tinh Dương xuất phát từ lòng tán thưởng mà trò chuyện với Lan Hà mới phát hiện họ học cùng trường, “Là đàn em sao! Cậu là người ở đâu?”

    Lan Hà đáp là tỉnh Hồ Nam.

    “Bên Tương Tây hả?” Trần Tinh Dương hỏi, “Cậu có thuộc dân tộc thiểu số không? Hình như bên đó có rất nhiều.”

    Lan Hà thành thật đáp: “Mẹ em là người dân tộc Miêu.”

    “À à!” Trần Tinh Dương là người phương Bắc nhưng đã nghe phong thanh không ít truyền thuyết phía Nam, “Nghe nói dân tộc Miêu biết nuôi cổ, cậu thấy bao giờ chưa? Có biết nuôi không?”

    Lan Hà nghiêm mặt đáp: “Anh, đương nhiên là em không biết rồi, có phải người Miêu nào cũng nuôi cổ đâu!”

    Trần Tinh Dương: “À, ha ha, chỉ là truyền thuyết thôi nhỉ.”

    Lan Hà: “Vâng!”

    … Đúng là không biết nuôi cổ, chỉ biết đi Vô Thường!

    Vì Liễu Thuần Dương hay dẫn Lan Hà đi các nhà hàng lớn gặp người thử vai, thành thử chuyện ông duyệt Lan Hà là nam phụ cũng được truyền đi với tốc độ chóng mặt.

    Những cánh nhà báo truyền thông khác chưa gì đã dò la ra được, sức hút phim của Liễu Thuần Dương xưa nay luôn rất cao.

    Tin tức sau khi tìm hiểu được là: Lan Hà chẳng những là nam phụ mà còn là diễn viên đầu tiên được chấm. Liễu Thuần Dương lấy anh để tìm kiếm các diễn viên khác, chưa kể trước đó họ chưa bao giờ hợp tác với nhau. Người này kí hợp đồng với một công ty không có tiếng, các vai diễn trước đó toàn là nhân vật nhỏ, trong suốt đến độ không thể trong suốt hơn.

    Vậy diễn viên đó đã chinh phục được Liễu Thuần Dương như thế nào?

    Lan Hà đúng là kém nổi, chẳng ai đến phỏng vấn anh mà chỉ đến nhà hàng chặn Liễu Thuần Dương và hỏi ông kha khá tin tức về bộ phim mới, cũng như hỏi vì sao lại dùng một diễn viên nhỏ chưa bao giờ hợp tác cho vai diễn quan trọng.

    Liễu Thuần Dương quá kín miệng, căn bản không tiết lộ chuyện về phim mới, song lúc họ ép hỏi tới việc vì sao lại chọn Lan Hà, ông ngẫm nghĩ rồi ôm ý định đuổi người ta đi mà đáp: “Có lẽ vì cậu ấy quá là thạo giả chết.”

    Phóng viên: “???”

    Ngài thốt một câu tầm bậy tầm bạ, linh ta linh tinh để đuổi phóng viên đi là hay lắm sao?

    … Đến một lúc nào đó trong tương lai, mọi người nhớ lại mới phát hiện thật ra lời Liễu Thuần Dương nói chẳng sai tẹo nào, thậm chí còn ngầm spoil nữa là.

    .

    Liễu Thuần Dương và Lan Hà kí hợp đồng chưa bao lâu thì vai nam thứ ba trong bộ phim thần tượng “Bao nhiêu mộng đẹp” của đạo diễn Vương cũng dĩ nhiên rơi xuống đầu Lan Hà.

    Liễu Thuần Dương có thể tự quyết, còn bên Vương Mậu vẫn phải bàn bạc khắp nơi mới đồng ý chọn Lan Hà, thành thử chậm chân hơn.

    Đều là người quen nên ba bên cùng nhau thương lượng một cách hữu nghị. Bên Liễu Thuần Dương cố gắng quay cảnh của Lan Hà trước, bên Vương Mậu dồn cảnh lại, vả lại thời gian khởi quay của hai bên vốn dĩ đã khác nhau nên sẽ quay tách nhau ra.

    Cũng may ở cả hai bên, Lan Hà không phải diễn viên chính nên có thể chạy qua chạy lại được.

    Bộ phim của Liễu Thuần Dương tạm lấy tên là “Truy đuổi”. Trong quá trình trù bị, các bộ phận đều đã xác định xong phương án, diễn viên cũng lục tục kí kết, Lan Hà ở nhà ngoan ngoãn chuẩn bị cho vai diễn, trong khoảng thời gian đó cũng phối hợp hoàn thành công tác tạo hình nhân vật.

    Đến đầu hè, “Truy đuổi” khởi quay.

    Ngoài Lan Hà ra thì từ nam chính, nữ chính, nam phụ, nữ phụ toàn là diễn viên ruột của Liễu Thuần Dương. Trần Tinh Dương thuận lợi giành được vai nam chính, thậm chí đến cả một vài vai diễn khá đặc sắc cũng là diễn viên khách mời lão làng.

    Lễ khai máy được quyết định tổ chức vào 8 giờ 18 phút sáng, đương nhiên người ta cố tình chọn, nghe nói là để được êm xuôi.

    Lan Hà sớm đã đi đến hiện trường, ngồi trong góc buôn dưa với Trình Hải Đông.

    Cứ là lễ khai máy thì về cơ bản là na ná nhau, đều toát lên sắc thái truyền thống: Máy quay phim được phủ vải đỏ, lập bàn thờ xong cũng trải vải đỏ, đồng thời phải chuẩn bị nhang đèn, hoa quả, đầu lợn để cúng.

    Trong đó, đầu lợn là quan trọng nhất. Trong gia súc lợn xếp đầu, đầu lợn cũng đứng đầu trong các loại đầu gia súc. Dùng đầu lợn để cúng là thể hiện sự tôn kính. Thời xưa thậm chí có Hoàng đế nuôi lợn thần để chiêu phúc trừ tà.

    Còn hai mươi phút nữa là đến 8 giờ 18 phút, đồ đạc đã chuẩn bị xong xuôi thì bỗng dưng nghe Liễu Thuần Dương tự xưng là không tin quỷ thần gào lên: “Ai mua cái đầu lợn này vậy! Ai! Sao cái đầu lợn lại như này, giải thích tôi coi!”

    Lan Hà giật mình, lúc thử vai trông Liễu Thuần Dương cực kì hiền lành, thích ăn uống lại còn hay nói đùa, vào đoàn phim cái là như thành một người khác.

    Đầu lợn bị gì vậy nhỉ? Sẽ không xảy ra chuyện gì chứ?

    Lan Hà cẩn thận ngửi, ủa hình như không ngửi thấy mùi gì lạ mà.

    “Đi ra xem!” Trình Hải Đông nhảy tót lên ngay tức thì, trưng biểu cảm hưng phấn, “Đi hóng hớt!”

    Lan Hà sa mạc lời, bị anh ta tóm chạy theo rồi còn muốn chen lên đầu hàng để hóng. Cái tên này gặp quỷ thì nhát như cáy, vậy mà sức lại chẳng yếu tẹo nào.

    “Đầu lợn làm sao? Đầu lợn làm sao?” Trình Hải Đông rướn cổ.

    Đó cũng là nghi vấn trong lòng rất nhiều người, đồ cúng có thể có vấn đề gì chứ. Nhưng nếu đồ cúng có gì sai thật thì với tính tình của đạo diễn, chắc chắn sẽ nghĩ là có điềm xấu.

    Chỉ thấy Liễu Thuần Dương giơ cả cái đầu lợn lẫn đĩa lên, “Nhìn đi, cái đầu lợn này có vẻ mặt dữ tợn như kia thì hợp để bày đồ cúng thế nào được! Ai mua đây, lẽ nào không chọn được một con có nét mặt thanh thản hơn ư?!”

    Mọi người: “…”

    Có được xem là điềm xấu không nhỉ… Chắc có…

    Nghe có hơi buồn cười, nhưng đừng nói chứ, nhìn kĩ thì trông cái đầu lợn này rất dữ dằn như chết không nhắm mắt vậy, làm người ta nhìn mà thấy khó chịu.

    Nhân viên phụ trách mua lợn cuống quýt đáp: “Vậy để tôi đi mua lại cái đầu khác.”

    Liễu Thuần Dương: “Bây giờ đã 8 giờ 5 phút rồi, cậu chạy đi đâu mua?”

    Chẳng lẽ hoãn lễ khai máy, đợi mua đầu lợn về hay sao?

    Lan Hà nhìn nhân viên bị mắng té tát bèn nhỏ giọng mở miệng: “Đạo diễn Liễu ơi, hay là…”

    Anh vừa cất tiếng là mọi người đổ dồn ánh mắt về phía anh làm anh phải đứng hình mất một lúc.

    Ở đây có rất nhiều diễn viên ruột của Liễu Thuần Dương, họ thừa biết tính của ông. Ở trường quay ông là một người nóng tính, song nhiều khi ông mắng cũng có tình có lí cả, nghe là được, không có việc gì tuyệt đối đừng chối bỏ hay xin tha.

    Lan Hà vừa mở miệng là đã thu hút sự chú ý của họ. Họ thấy anh là diễn viên mới hợp tác bèn nghĩ thảo nào không biết tính đạo diễn Liễu.

    Lan Hà thấy Liễu Thuần Dương cũng nhìn mình lom lom bèn nói: “Ý cháu là… Chi bằng chúng ta trang điểm cho đầu lợn đi, có phải chuyện to tát đâu mà.”

    Liễu Thuần Dương: “Trang điểm?”

    Lan Hà: “Mua phải đầu lợn trông hung dữ là chuyện khó tránh khỏi, cháu nghĩ tô điểm cho nó tí là được ngay.”

    Có vẻ lòng mê tín của Liễu Thuần Dương không vững, ông chỉ đắn đo đúng một giây đã đáp: “Vậy bảo nhân viên trang điểm lại đây.”

    Nhân viên trang điểm cạn lời: “Tôi…”

    Đầu lợn này phải trang điểm sao đây, anh ta nào biết đạo diễn Liễu muốn kiểu thanh thản gì.

    Ai nấy đều im bặt, đạo diễn Liễu nổi giận vì đầu lợn làm người khác cũng bó tay theo. Có người có thể khuyên đạo diễn Liễu đương nhiên là chuyện tốt, nhưng bây giờ ai đứng ra nhận vụ sửa lại “nhan sắc” đầu lợn này mới được.

    Lan Hà xung phong nhận việc, “Để cháu cho, cháu biết làm.”

    Anh bước tới dùng các nguyên liệu có thể sử dụng được để sửa lại mặt lợn trông tươi tắn hơn – Việc này chẳng khác với vẽ hàng mã cho lắm, cuối cùng dùng một tờ giấy đỏ đặt lên ót con lợn.

    Trong sự im lặng như tờ quỷ dị, những người khác trong đoàn phim chứng kiến chàng diễn viên chủ chốt xinh trai này ngồi trước bàn thờ trang điểm cho đầu lợn…

    Trình Hải Đông dằn cơn xúc động muốn bật cười thành tiếng xuống, đoạn chụp cảnh hậu trường này.

    8 giờ 15 phút là hoàn thành.

    Ai nấy không hẹn mà cùng vỗ tay. Tuyệt vời, mặt con lợn này được tô điểm trông đến là thanh thản!

    “Ok ok, chuẩn bị thắp hương!” Liễu Thuần Dương mừng rỡ bắt đầu gọi.

    Tục ngữ nói hương đến thần biết, ngoài đồ cúng ra thì thứ quan trọng nhất là hương nhang, những người có vai trò then chốt đều phải dâng hương.

    Thắp hương, vái bốn phương, vén vải đỏ, phát lì xì nhỏ, cuối cùng mọi người chia đồ trên bàn thờ là xong lễ.

    Đoàn phim “Truy đuổi” chính thức khởi quay.

    .

    Sau khi ảnh hiện trường lễ khai máy được tung lên, cư dân mạng xem xong bèn nghệt mặt ra:

    Cái anh ôm đầu lợn làm gì thế nhỉ? Không hiểu lắm.

    Hình như người ta nói là lợn chết thảm quá nên đang cho nó “chết nhắm mắt”?

    Ờm, tui nghe bảo chính đạo diễn yêu cầu trang điểm cho mặt lợn.

    Mặt lợn? Cái hành vi kì quặc dzì dzậy?

    ?? Nhân viên trang điểm của đoàn phim đỉnk kout dị hở?

    Ớ đâu, nhìn bức chính diện kia kìa các chế.

    Đẹp, tui duyệt!

    Duyệt cái đầu thím á. Xem mặt đi, hình như không phải nhân viên trang điểm mà là nam phụ của đoàn phim đó. Lan Hà, cái họ này chả hay gặp nên tui nhớ lắm. Đó là… người mà đạo diễn Liễu chọn ra, nói cái gì mà anh ta rất thạo giả chết.

    Hả? Vậy chả phải là ổng tán thưởng còn gì, thế vì sao ổng lại bắt ảnh trang điểm cho đầu lợn?

    Cái khác thì tui không nói chứ thẩm mỹ của đạo diễn Liễu đúng là online mọi lúc! Ánh sáng của trai thẳng! Diễn viên ổng tuyển đẹp quá trời quá đất. Tui ủng hộ việc đạo diễn Liễu trang điểm cho đầu lợn á. Đạo diễn Liễu quay phim chắc chắn phải chọn cái đầu lợn bảnh nhất rồi!

    Càng về sau càng lệch chủ đề, bắt đầu cãi nhau xem rốt cuộc con lợn kia có đẹp nhất không, tại sao anh diễn viên kia lại chịu sự “bức ép” của đạo diễn, trở thành đầu đề hot nhất.



    “Há há há há há há há há há há!!” Đậu Xuân Đình cầm máy tính bảng phì cười vỗ đùi đen đét, hồn nhiên không nhận ra áp suất bên cạnh mình ngày càng thấp.

    “Anh họ, anh họ ơi, anh nhìn cái này đi ha ha ha.” Đậu Xuân Đình muốn đưa máy tính bảng cho Tống Phù Đàn xem.

    Tống Phù Đàn: “Ồn muốn chết.”

    Đậu Xuân Đình ấm ức: “Bác bảo em chơi với anh mà, em không xéo đi được. Em chỉ đưa anh xem một tin tức thú vị thôi. Trong đó bảo bây giờ Liễu Thuần Dương rất quá đáng, không chỉ chọn diễn viên đẹp mà đến cả đầu lợn cúng cho đoàn phim cũng phải đẹp, không đẹp là bắt diễn viên phải trang điểm cho nó.”

    Cậu ta nói xong lại cười nắc nẻ.

    Đối mặt với thằng em họ điểm cười và IQ đều thấp tẹt này, Tống Phù Đàn chỉ đành áp dụng biện pháp ngó lơ.

    Đậu Xuân Đình: “Ầy, lợn đáng yêu hay không thôi không bàn, chứ cái anh diễn viên này thì đúng là đáng yêu đáo để…”

    Đáng yêu sao…

    Suy nghĩ của Tống Phù Đàn bay về nơi xa lắm.

    Đậu Xuân Đình đưa máy tính bảng qua, “Anh xem đi này?”

    Tống Phù Đàn mở máy tính cản tầm nhìn: “Cút.”

    *Tác giả:

    Đạo diễn Liễu (hưng phấn): Lan Hà của bọn tui chết hay lắm!

    Lan Hà: ???
     
  12. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 11: Đó Là Một “Sợi Dây” Khác Của Em Đó.

    Nhân vật Lan Hà đóng tên là Trương Tuần Xuân, bên trong là vai phản diện, bên ngoài là một tiểu thiếu gia đáng yêu, bình thường thích nuôi bồ câu, có cùng sở thích với nam chính – Đó là một trong những đầu mối trong phim.

    Hôm nay Lan Hà phải quay vài cảnh liên quan đến bồ câu. Ví dụ như buổi sáng, nhân vật ngồi trong phòng khắc còi bồ câu.

    (*Ngày xưa người ta làm ra mấy cái còi nhỏ có phần que cắm lên người con chim bồ câu, lúc nào nó bay về, gặp gió với sức gió khác nhau thì sẽ tạo ra tiếng còi trầm bổng. Đây được xem như một đặc điểm của Bắc Kinh thời xưa.)

    Bối cảnh câu chuyện là ở Bắc Kinh. Người Bắc Kinh có sở thích nuôi hoa chim cá bọ, trong đó chim chóc chủ yếu được chia làm ba loại chính: Loại chim dữ, ví dụ như ưng, cắt, đại bàng; loại hót vang, ví dụ như họa mi; loài hay bay muôn nơi với đại diện là bồ câu.

    Nghe nói ban đầu lúc viết kịch bản, Liễu Thuần Dương cũng cân nhắc đến việc để bọn họ nuôi chim ưng thì sẽ kích thích hơn, song lại thấy hơi quá, vả lại sẽ không tốt cho việc đắp nặn nhân vật. Thú cưng vốn là một kiểu ám dụ, vừa rõ mười mươi vừa đầy ẩn ý.

    Còn còi bồ câu thì sao, nó cũng là một truyền thống cũ. Trước đây người ta thả bồ câu sẽ làm một cái còi với kích thước khác nhau để lúc bồ câu chao liệng trên bầu trời, sức gió sẽ làm cái còi phát tiếng. Vì sự thay đổi lúc bay mà âm thanh còi cũng đổi thay theo, chẳng những có thể phân biệt được bồ câu nhà ai, biết bồ câu đang ở xa hay gần mà nghe cũng rất bùi tai. Còi bồ câu có chừng mấy chục loại, chưa kể ngũ âm của chúng đầy đủ, được xưng là bản hòa tấu trên bầu trời.

    Trương Tuần Xuân có thể tự tay làm còi bồ câu – Thật ra trước đó không có thiết lập này, là Liễu Thuần Dương thêm vào.

    Bởi vì ông biết Lan Hà biết dùng dao, thành thử ra ông quay cảnh Lan Hà tự tay khắc còi bồ câu, tiện thể thể hiện tài năng dùng dao, để lại phục bút*, để rồi sau này nhân vật chính và nhân vật phản diện còn đấu tay đôi với nhau.

    (*Phục bút là kỹ thuật được người viết sử dụng để cung cấp các manh mối để độc giả có thể đoán trước điều có thể xảy ra sau đó trong câu chuyện. Nói cách khác, nó là một công cụ văn chương được tác giả sử dụng để gợi ý về một tình tiết và những điều có thể xảy ra trong một tương lai gần, hoặc các chiều hướng phát triển của một tình tiết về sau trong câu chuyện.)

    Đoàn phim mời riêng một tay nuôi bồ câu lão làng, là một ông cụ họ Uông. Ông cụ chẳng những hướng dẫn những tri thức liên quan đến bồ câu mà còn đóng vai khách mời – người hầu giúp Lan Hà nuôi bồ câu.

    Lan Hà được ông chỉ dạy bèn vung dao chẻ tre làm còi.

    Bước này hoàn toàn không cần đến thế tay. Ngoài Liễu Thuần Dương ra, người trong đoàn phim chưa bao giờ chứng kiến Lan Hà chơi dao. Ở đa số bộ phim trước, Lan Hà xuất hiện với hình tượng ngây thơ, bây giờ nhìn anh quá đỗi nhập tâm chơi dao nhỏ, giữa những quang ảnh thi nhau thay đổi thoăn thoắt là ngón tay thon dài cầm con dao sắc bén lóe sáng, rồi bất chợt hạ dao một cách chuẩn chỉnh…

    Không thể không nói, cảnh này gây ra cảm giác làm người ta phải rung động.

    Ông Uông nhìn mà mặt nghiêm túc dần, chàng trai này tuyệt đối có bản lĩnh, kể cả chưa bao giờ làm còi bồ câu thì hạ dao vẫn rất chuẩn.

    Lan Hà làm theo yêu cầu của Liễu Thuần Dương, gọn gẽ lưu loát có thừa, vả lại còn thêm một số động tác mang tính khoe khoang. Cảnh này được quay hết sức thuận lợi, Liễu Thuần Dương cảm thấy hiệu quả đã tương đối tốt bèn cho qua ngay.

    Động tác đẹp mắt và những đầu ngón tay anh xuất hiện trong màn ảnh quả thật là một dạng hưởng thụ thị giác.

    Hơn nữa, Lan Hà làm cái còi kia trông cũng ra hình ra dáng lắm.

    Quay phim chính hợp tác với Lan Hà lần thứ hai, tuy chẳng nói chẳng rằng, song tự đáy lòng lại nghĩ thầm, Lan Hà gặp được Liễu Thuần Dương nghĩa là cơ duyên đã tới.

    Chiều nay còn có một cảnh diễn tay đôi với nam chính, cũng là lần đầu tiên “Trương Tuần Xuân” lên sàn. Sau khi bồ câu nhà gã và bồ câu nhà nam chính đụng độ nhau bèn tách ra. Cái này gọi là “đụng bàn”, “bàn” có nghĩa là đàn bồ câu.

    Đàn bồ câu cũng như quân đội, chỉ có đàn bồ câu được huấn luyện nghiêm chỉnh thì khi đụng độ với đối thủ mới không tan đàn xẻ nghé và bị bắt đi, không tìm thấy nhà đâu.

    Đàn bồ câu mà như binh lính thì tất nhiên chủ nhân là tướng soái rồi. Nam chính tự xưng là người có thể huấn luyện một đàn bồ câu với sức chiến đấu mạnh mẽ. Hắn ta dẫn theo nữ chính chỉ huy bồ câu, chứng kiến đám bồ câu nhà khác nuôi thấy đám bồ câu nhà hắn là bay vòng, không dám chạm mặt.

    Bồ câu nhà khác thôi khỏi nhắc tới, tiếng còi bồ câu cao vút đến lạ truyền tới từ đằng xa. Hóa ra đàn bồ câu của tay chơi lớn, tức nhân vật phản diện, xuất hiện. Chúng chẳng những không né tránh mà còn truy đuổi đàn bồ câu nọ, chủ động bay tới.

    Đôi bên bèn chỉ huy bồ câu “chém giết” nhau một phen. Bồ câu nhân vật phản diện nuôi cực kì hung hãn, đã thế còn rất kiên nhẫn, kỉ luật nghiêm minh. Nam chính thấy tình hình không ổn, tuy có phái ra một đàn khác bắt mấy tên “lính mới” chưa huấn luyện đến nơi đến chốn của bên nhân vật phản diện đi thì vẫn tức tối.

    Trong quá trình đó, tiếng còi bồ câu vẫn văng vẳng tận mây xanh như một bản nhạc nền tự lên xuống trầm bổng cho hợp với nhịp tấu… Dĩ nhiên người ta chẳng dễ gì thu âm, cũng thiếu đi vẻ phô trương, chắc chắn quay xong phải hậu kì mới ra sản phẩm, thể hiện phần quan trọng này bằng hiệu ứng.

    Sau khi kết thúc, nhân vật phản diện nhảy lên đầu tường thì đôi bên mới gặp mặt.

    Đến đoạn này, nhân vật phản diện trông khờ khạo và chân chất, nhưng vẫn ám chỉ thật ra tác phong của gã giống hệt đàn bồ câu.

    Các cảnh diễn khác đều ổn áp cả, chỉ duy một cảnh Lan Hà phải thả bồ câu lên nhà, và anh buộc phải cầm được bồ câu lên đã.

    Lan Hà muốn tiếp cận con bồ câu nọ dựa theo bí quyết ông Uông chỉ. Nếu bồ câu gặp phải môi trường và người lạ thì chắc chắn sẽ bất an, song con này ngoan, vả lại được huấn luyện từ nhỏ nên bây giờ mới có thể lấy đến mà quay. Đoàn phim cũng giữ im lặng đặng không dọa sợ chú bồ câu.

    Như Trần Tinh Dương ban nãy cũng đóng một cảnh y hệt, vô cùng thuận lợi. Anh ta cầm bồ câu thả đi trông khá là trầm ổn và cool ngầu, bồ câu cũng rất phối hợp.

    Ai biết vừa mới đến tay Lan Hà thì chú bồ câu này giãy nảy lên như phát điên.

    “Ủa, sao vậy? Không thoải mái à?” Ông Uông vội tách cả hai ra.

    Có cảnh động vật không dễ quay, nhưng họ đã có phương án dự phòng nên đổi sang con bồ câu khác. Kết quả, đổi sang con khác mà nó vẫn phản kháng kịch liệt, hơn nữa đám bồ câu này cứ tiếp xúc với Lan Hà là hoảng sợ, nếu tách ra là lại ngoan ngoãn liền.

    “Chúng nó bị làm sao vậy nhỉ…” Lan Hà lùi về sau một bước, đứng trước lồng bồ câu. Phía sau toàn là đám bồ câu tham gia đóng phim. Anh vừa tới gần là chúng nó sẽ xù hết cả lông lên, con nào con nấy dồn về một góc, rất giống như cố tình muốn cách xa anh ra.

    Lan Hà: “…”

    Lúc bấy giờ ai nấy mới láng máng cảm thấy sai sai, hình như đám bồ câu chỉ nhằm vào…

    Liễu Thuần Dương: “Cháu đứng ra xa tí coi.”

    Lan Hà đi xa mấy bước.

    Đám bồ câu tức thì bình thường trở lại, tản ra khắp nơi.

    Liễu Thuần Dương: “Tiến lên một chút.”

    … Lan Hà lại đến gần lồng bồ câu.

    Đám bồ câu nhoáng cái rúc trong một góc.

    Liễu Thuần Dương đứng dậy: “Cái quái gì vậy, trên người cháu có gì à?”

    Ai nấy trong đoàn làm phim đều cảm thấy lạ. Họ cũng tới gần lồng bồ câu mà làm gì xảy ra tình huống này. Thoạt trông chúng sợ Lan Hà một phép.

    “Có gì đâu ạ.” Lan Hà thấy oan uổng khôn kể, “Cháu mặc đồ trong phim, đâu có mang cái gì.” Ban nãy anh cũng có làm gì dọa đám bồ câu đâu nhỉ.

    Liễu Thuần Dương dùng bồ câu làm đầu mối nên cũng nắm không ít kiến thức liên quan. Ông ngẫm lại, đoạn hỏi: “Có phải cháu đã tiếp xúc với động vật như chó mèo các kiểu làm người dây mùi không? Chẳng phải bồ câu sợ mấy con kia ư?”

    Cùng lúc đó, mọi người trong đoàn ngó nghiêng khắp nơi xem có mèo chó nào đi lạc vào đây không.

    “Không ạ, cháu nhớ là không thấy ở đây có mèo chó. Sáng nay cháu mới tắm, cùng lắm là có mùi sữa tắm thôi.” Lan Hà nhớ lại.

    “Ờm…” Ông Uông trưng biểu cảm muốn nói lại thôi làm mọi người dồn mắt về phía ông.

    Mãi lâu sau ông mới do dự cất tiếng: “Nhóc này, cháu có tin vào… quỷ thần không?”

    Lan Hà: “Không ạ.”

    Không tin à.

    Ông Uông ngẫm lại: “Ừm… Vậy có thể là bồ câu cảm nhận từ trường sinh ra từ dòng điện trên người sinh vật của cháu không đúng. Có thể cháu đã đi đến một nơi lạ nào đó, chạm phải thứ gì đó lạ nên từ trường không được sạch sẽ. Hoặc là từ khi sinh ra từ trường của cháu và bồ câu đã không hợp nhau.”

    Lan Hà: “…”

    Những người khác: “…”

    … Ý kiến của ông cụ nhiều phết nhỉ.

    Bồ câu là một loài chim rất nhạy cảm, nghe nói chúng có thể cảm nhận được từ trường Trái Đất nên mới có khả năng phân biệt phương hướng rất mạnh. Cũng có người cho rằng bồ câu cũng rất nhạy cảm với những “thứ kia”.

    Tự đáy lòng Lan Hà cũng hiểu đôi phần. Anh là Vô Thường sống, lại bởi vậy mà tiếp xúc vài lần với ma quỷ nên có lẽ mùi của anh làm đám động vật nhỏ này sợ.

    Nhưng đối mặt với ánh mắt của mọi người, anh vẫn đáp lại vô cùng thản nhiên: “Có lẽ là vì ngày xưa cháu thích ăn canh bồ câu ấy mà!”

    Mọi người: “…”

    Trần Tinh Dương nhịn không nổi nữa: “Thật ra có người bẩm sinh đã chẳng có duyên với các loài động vật nhỏ. Trong bộ phim tôi đóng trước đó có một diễn viên bị chó rượt nữa là.”

    Cũng có lí.

    Ông Uông cũng đã nói ra suy đoán, tuy rằng ai nấy vẫn thấy lạ lùng, song chẳng nhìn Lan Hà với ánh mắt kì quặc nữa, chỉ xem như đây là chuyện lạ mà thôi.

    Dù Liễu Thuần Dương mê tín nhưng cũng chỉ thốt: “Cảnh này đóng thế tay rồi cắt nối lại.”



    Liễu Thuần Dương đối xử với Lan Hà khá tốt, Lan Hà cứ đinh ninh chuyện sẽ qua thôi, vậy mà lúc nghỉ ngơi ông còn cố ý tìm Lan Hà an ủi, “Có lẽ mọi người sẽ bàn tán vụ này dăm ba ngày, cháu đừng để bụng nhé.”

    Lan Hà gật đầu, “Cháu biết ạ, chính cháu cũng chả tin hay bận tâm đến mấy chuyện này đâu.”

    “Ừ.” Liễu Thuần Dương hạ giọng ra vẻ bí ẩn, “Chú nghĩ có lẽ là tại lúc các cháu quay ‘Vật báu’, cháu đã ở phòng bên cạnh Trình Hải Đông, tức cái phòng cũ của ông cụ kia ấy. Tuy có mỗi Trình Hải Đông đụng phải nhưng có khi chính cháu cũng đụng phải mấy thứ bẩn thỉu đó, chẳng qua cháu gan hơn Trình Hải Đông nên không xảy ra chuyện gì. Có điều, nếu rảnh cháu vẫn nên đi chùa Giác Tuệ thắp nén nhang hóa giải đi nhé.”

    Lan Hà: “… Đạo diễn à, cháu nghĩ chỉ tại bản thân cháu không có duyên với bồ câu thôi, quay phim bận tối mắt tối mũi vậy thì cháu đào đâu ra thời gian mà đi.”

    Liễu Thuần Dương: “Cũng phải… Thôi, ăn cơm.”

    Ý ăn cơm ở đây là ông ăn một mình, cả thịt cả rau, còn Lan Hà bị kiểm soát để mang vóc dáng suy dinh dưỡng nên không giống ông.

    Lan Hà cứ nhìn chằm chằm, vậy mà Liễu Thuần Dương vẫn ăn ngon lành.

    Liễu Thuần Dương: “Cháu đói không?”

    Lan Hà: “Có ạ.”

    Liễu Thuần Dương, “Không được, cháu không thể ăn!”

    Lan Hà: “… Đạo diễn ơi, chú cười thành tiếng rồi kìa.”

    Liễu Thuần Dương cầm hộp cơm cười sằng sặc, có người nhìn đăm đăm ông càng ăn ngon hơn.

    Lan Hà u oán đi mất.

    Ban đầu Liễu Thuần Dương còn nghĩ sẽ có người tám chuyện đôi câu về vụ Lan Hà và chim bồ câu.

    Ai ngờ mới đến buổi chiều lại chẳng có ai đàm tiếu. Vào giờ nghỉ, chuyện họ buôn dưa chỉ có một:

    Đoàn phim cách vách gặp chuyện ma quái rồi.

    Bồ câu sợ người đã là gì… Có đoàn phim đang quay ở cùng một phim trường và khách sạn với họ lúc quay cảnh nhân vật chính có một đạo cụ quan trọng – một cái nghiên mực cũ – chẳng hiểu sao cứ bị mất.

    Lần đầu bị mất, họ cầm đạo cụ dự phòng giống y như đúc thay vào. Hai lần sau, ai nấy đều bực mình, bắt đầu chú ý, lần nào cũng cất kĩ nghiên mực.

    Nhưng khi cho rằng đã cất kĩ nó rồi thì nghiên mực vẫn bị mất.

    Lúc bấy giờ mới có người nhận ra trong một cảnh họ từng quay trước đó, lúc mọi người không chú ý, nghiên mực đã xê dịch trong khi chẳng ai động vào!

    Nó tuyệt đối chưa bị động chạm vào, cũng không thấy bên trong có cái gì làm nó chuyển động.

    Tin này không giấu nổi, xôn xao truyền đi khắp nơi, làm người đoàn phim khác sợ chết khiếp.

    Dĩ nhiên bởi vậy mà chẳng ai chú ý đến cái chuyện Lan Hà và bồ câu cỏn con kia nữa.



    Tối đến.

    Lan Hà nằm sấp trong phòng, hồn rời khỏi xác, mở hộp thức ăn ngoài ra, trong đó có bánh trà ngọt lịm anh vừa gọi ngoài về, lúc cắn lớp vỏ mềm thơm còn có nước chảy ra.

    Lan Hà ăn tù tì nửa hộp thì bỗng nghe tiếng Liễu Thuần Dương gọi mình ở ngoài cửa, lúc này mới dừng động tác nhấm nháp chầm chậm của mình, hít một hơi xong xuôi mới lật đật hồi hồn, vác cái miệng còn vương mùi ngọt đi mở cửa, “Đạo diễn à, sao vậy ạ?”

    “Lan Hà à.” Liễu Thuần Dương đi từ ngoài vào, bắt chuyện một câu, Trần Tinh Dương cũng đi theo.

    Ông lấy cái vòng tay sặc sỡ ra, nói với Lan Hà: “Nghe bảo bên cạnh không yên ổn nên chú đưa dây ngũ sắc trừ tà cho mọi người. Cháu cũng đeo lên đi.”

    Lan Hà: “Ơ… Đạo diễn đi ra ngoài hóng chuyện bên đoàn phim cách vách ạ?”

    Liễu Thuần Dương: “Tất nhiên rồi, họ đang bàn chuyện tìm thầy đến trừ tà với xin tư vấn, chú vừa nghe là đã thấy không đáng tin rồi.”

    Lan Hà: “Dạ?”

    Liễu Thuần Dương: “Hở tí là phải dừng quay, cúng bái suốt bảy ngày bảy đêm gì đó, nghe vô lí quá! Cái đám mê tín!”

    Lan Hà: “…”

    Anh đã hoàn toàn nhìn rõ rồi, sự mê tín của đạo diễn Liễu là thuộc phái thực dụng…

    “Cháu mau đeo lên đi, còn ngẩn ra đó làm gì!” Liễu Thuần Dương nói.

    “Còn chưa tới tết Đoan Ngọ thì đeo dây ngũ sắc làm gì đâu ạ.” Lan Hà buồn cười. Chỉ ngũ sắc đại diện cho ngũ hành ngũ phương, nghe nói đeo lên tay có thể trừ quỷ, hiện nay người ta chỉ đeo vào tết Đoan Ngọ.

    Liễu Thuần Dương thấy Lan Hà không bằng lòng lắm bèn một tay xắn tay áo anh lên, gọi Trần Tinh Dương, “Đeo lên cho nhóc này!”

    Trần Tinh Dương bèn đeo vòng dây lên cổ tay Lan Hà.

    Lan Hà chẳng giãy dụa, thật ra anh không muốn phản kháng lắm, vẫn luôn chuẩn bị tâm lý chiều theo người ta. Đằng nào với cái năng lực của anh, ít ra cái vòng này tuy không có ích lắm song cũng chẳng có chỗ xấu.

    Liễu Thuần Dương: “Cháu thì biết cái gì, đây là chỉ ngũ sắc dùng để làm thành bùa, đeo lên chẳng những trừ tà mà gặp phải chuyện gì cũng có thể lấy nó ra để trói quỷ, giống như xích trói quỷ của quỷ sai vậy.”

    Lan Hà: “……”

    Anh muốn nói lại thôi. Thật ra bọn cháu gọi nó là xích câu hồn cơ…

    Trần Tinh Dương: “Để anh nới lỏng ra một chút cho cậu. Cậu xem, sao chỗ này của cậu lại có vết lằn đỏ thế này, đừng đeo chặt quá nhé.”

    Lan Hà: “Vâng…”

    Thật không dám giấu, đó là một “sợi dây” khác của em đó.

    Liễu Thuần Dương nhìn anh đeo dây vào rồi mới hài lòng, lại lướt qua hộp thức ăn ngoài của Lan Hà, “Ơ kìa, cháu ăn cái gì thế kia? Không phải chú đã bảo cháu phải kiểm soát cân nặng rồi à?”

    Lan Hà đáp: “Cháu chưa…”

    “Chưa cái gì mà chưa.” Liễu Thuần Dương mở hộp, “Chú xem xem. Bánh trà ngọt của Duyệt Tâm Cư à? Chậc chậc, bánh này quá ngọt, tịch thu tịch thu. Vừa đúng lúc chú cũng đói bụng, chú không khách sáo nữa nhé.”

    Lan Hà vội la lên: “Đạo diễn!”

    Liễu Thuần Dương như sợ Lan Hà cản lại bèn bốc hai cái bánh lên, tọng vào miệng.

    Ba giây sau, biểu cảm ông sượng ngắt, “??”

    Liễu Thuần Dương nổi cáu, nhồm nhoàm nói, “Cái món lạ hoắc gì đây!”

    Khó mà phòng bị cho được…! Bề ngoài thơm ngon mà thật ra ăn nhạt như nước ốc, quả thật là một sự sỉ nhục khôn xiết cho lưỡi ông mà. Liễu Thuần Dương há miệng toan nhổ ra.

    Lan Hà và Trần Tinh Dương nhanh tay nhanh mắt, người giữ tay, kẻ bịt mồm, bắt ông phải ăn bằng sạch.

    Liễu Thuần Dương: “……”

    Lan Hà bịt chặt mồm ông: “Đó là bữa giảm béo của cháu, bánh trà khô không đường không dầu không muối. Chú cứ nếm đi.”

    Liễu Thuần Dương trợn trắng mắt, “Ưm ưm!”

    Ông giãy dụa gào lên: “Này mà gọi là bánh trà ngọt hả? Chúng làm gì còn hồn nữa!!!”

    Lan Hà: Đúng rồi, vì hồn đã bị cháu hút hết rồi.

    *Tác giả:

    Liễu Thuần Dương: Tui sẽ không bao giờ ngứa miệng khoe mẽ nữa!
     
  13. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 12: Truyền Thuyết Này Quá Ảo

    “Anh cũng có hả?” Lan Hà hỏi.

    “Có chớ.” Trình Hải Đông xắn ống áo lên, để lộ dây ngũ sắc, “Anh đại còn bảo anh đã có bùa bình an cầu ở chùa Giác Tuệ, vả lại lần trước đi, anh cũng rung chuông cầu phúc ở chùa rồi. Nhưng anh vẫn nghĩ với cái kiểu người được chọn như anh ấy à, có nhiều đồ bảo vệ vẫn cứ là tốt hơn.”

    — Bẵng đi một khoảng thời gian ngắn, tâm trạng Trình Hải Đông đã trở lại bình thường, thậm chí còn xem chuyện gặp quỷ như đầu đề xạo quần sau khi uống rượu, có khoảng không dưới mười bàn người đã nghe “sự tích” của anh ta rồi.

    “Lần sau chú phải chứng minh giúp anh đó. Hôm nay anh kể vụ này với biên kịch Ngô để bảo chị ấy làm tài liệu sống, chị ấy còn chê anh bốc phét.” Trình Hải Đông nói. Biên kịch Ngô anh ta nhắc tới là biên kịch Ngô Linh của bộ phim này, vì Liễu Thuần Dương thi thoảng nảy ý tưởng mới nên chị vẫn ở trường quay.

    Lan Hà: “Anh lại kể chuyện Lam Bạch Vô Thường với người khác à? Chả ai đi tin anh đâu…”

    Trình Hải Đông bướng bỉnh ưỡn người: “Anh cóc thèm quan tâm… Ối.”

    Anh ta dùng sức quá đà thành thử đau eo.

    Trình Hải Đông là quay phim Steadicam*, thiết bị rất nặng, người thường vác suốt một ca là eo sẽ khó chịu, huống chi là người làm công việc với trách nhiệm cao như anh ta.

    (*Steadicam là một dạng thiết bị cân bằng cơ học được phát minh vào năm 1976 bởi Garrett Brown. Người ta sử dụng nó để quay những thước quay chuyển động một cách trôi chảy quanh nhân vật hay đối tượng.)

    “Chết chết, đi mua mấy miếng dán giảm đau hộ anh với, eo anh xong đời rồi.” Trình Hải Đông nói với Lan Hà.

    Hai lần quay tới sẽ không có cảnh của Lan Hà, trong khi Trình Hải Đông lại khác. Anh ta chỉ nghỉ ngơi ngắn rồi lại phải làm việc ngay, đúng là không rảnh để tự đi mua miếng dán giảm đau thật.

    “Vâng.” Lan Hà đáp, đoạn đi ra ngoài.

    Trong phim trường không thiếu cửa hàng, Lan Hà đương tìm miếng dán giảm đau thì nghe tiếng hai cô gái nói chuyện:

    “… Cái đạo cụ đó là cố tình mua theo nguyên tác, lúc đó có mua mấy cái dự phòng luôn. Tuy chẳng phải đồ cổ nhưng hình như cũng đã lâu đời rồi, có rẻ rúng gì đâu, những mấy nghìn tệ.”

    “Ừ, nên bây giờ ai cũng kháo nhau nghe con quỷ kia là nhã quỷ*, nó đến đây vì cái nghiên mực tốt kia.”

    (*Ý chỉ quỷ thích văn vẻ các thứ. Nhã trong văn nhã, nhã nhặn.)

    “Nhưng khi trước đã quay nhiều cảnh có nghiên mực rồi mà. Làm sao đây nhỉ, phải quay lại hết một lượt ư?”

    “Bó tay rồi… Vẫn chưa tìm ra cái bị mất đang ở đâu nữa. Mà cũng chẳng biết có phải ngừng quay không, hình như vẫn đang bàn bạc.”

    Lan Hà nghĩ có lẽ các cô là người đoàn phim cách vách gặp chuyện ma quái trong lời đồn nọ, cũng coi như vô tình giải vây giúp anh. Nhưng Lan Hà không chõ mũi vào, chỉ yên lặng lấy đồ, thanh toán rồi về.

    Trên đường Lan Hà về trường quay bèn thấy biên kịch Ngô Linh từ xa, bên người chị có một cô gái mặt mộc.

    Còn Trình Hải Đông thì tranh thủ bắt chuyện với Ngô Linh lúc đạo diễn đang diễn giải cảnh quay cho diễn viên: “Chị Ngô ơi, chị xem này, Lan Hà đã về rồi, không tin chị cứ hỏi cậu ấy xem có phải hồi trước em từng gặp quỷ không!”

    “Biên kịch Ngô.” Lan Hà và Ngô Linh chào nhau. Anh không biết cô gái bên cạnh Ngô Linh, chỉ thấy quen quen, chắc cũng là một nhân viên của đoàn phim nên gật đầu đầy thiện chí, cô gái kia cũng nhìn anh nhoẻn miệng cười.

    Ngô Linh buồn cười: “Không phải chị không tin mà thấy phiên bản của cậu nghe trật lất quá.”

    Trình Hải Đông hỏi: “Trật là trật thế nào được? Biên kịch Ngô à, em hỏi chị, chị có biết Nữ Oa vá trời như thế nào không?”

    Ngô Linh chẳng cần nghĩ gì: “Dùng đá ngũ sắc chứ sao.”

    Trình Hài Đông lắc ngón tay, “Em có một người bạn dân Bắc kể, truyền thuyết trong thôn họ lại là góc Đông Bắc bị thủng nên Nữ Oa nương nương bèn cắm băng vào, cho nên Đông Bắc mới rét mướt như vậy, một trận gió Đông Bắc cũng lạnh run cả người.”

    Ngô Linh: “…”

    Những người khác: “…”

    Ngô Linh có hơi bị thuyết phục thật: “Cũng có lí, sẽ có vài nơi có một vài phiên bản dân gian mang đặc điểm địa phương đó. Nhưng quả thật là chị chưa bao giờ nghe Nữ Oa vá trời bằng băng, cũng chưa bao giờ nghe trên mũ Vô Thường viết ‘Đến cũng đến rồi’ cả. Thường thì trong dân gian có hai cách nói, trên mũ Hắc Bạch Vô Thường viết ‘Gặp là phát tài’ và ‘Thiên hạ thái bình’, hoặc ‘Ngươi cũng đến rồi’ và ‘Đang bắt ngươi đấy’…”

    Chị ngẫm lại bèn thấy khá là hài hước: “Nếu có một Vô Thường viết ‘Đến cũng đến rồi’ thì Vô Thường còn lại sẽ viết gì? ‘Ra vào bình an’? ‘Nhãi con còn non’?”

    Chị nhìn xung quanh một vòng, đoạn nhìn vào mắt Lan Hà tìm kiếm sự tán thành của anh.

    Đương nhiên Lan Hà cũng quẳng lại một ánh mắt khẳng định rồi: “Đúng ạ!”

    “Không đúng!” Đôi mắt cô gái đang đứng im bên cạnh bỗng trợn lên, “Chị Ngô, có ‘Đến cũng đến rồi’ thật mà!”

    “… Hả?” Ngô Linh ngớ người, “Em nói gì cơ?”

    “Chị Ngô, chị tin em đi.” Cô gái nọ nói một cách nghiêm túc, “Có ‘Đến cũng đến rồi’ thật đấy chị. Tháng trước em đi diễn, bạn diễn và em diễn xong bèn gặp phải mấy thứ bẩn thỉu đó tìm bọn em diễn. Sau đó có một quỷ sai đến, trên mũ viết ‘Đến cũng đến rồi’ và thả bọn em về.”

    Nói xong, cô cũng nhìn xung quanh, đoạn nhìn Lan Hà chằm chằm nhằm tìm kiếm sự tán thành.

    Lan Hà: “…”

    Thảo nào anh cứ nhìn cô gái này quen quen!

    Hóa ra không phải người trong đoàn mà là diễn viên Xuyên kịch hồi trước gặp phải, giờ tẩy trang nên không nhận ra nổi.

    Thật ra, vì có hai cảnh diễn cần diễn viên Xuyên kịch nên đoàn phim cố tình mời người trong nghề đến. Ngô Linh vừa khéo quen Mộng Tinh nên tìm cô tới, bây giờ vẫn chưa trang điểm, đứng nói chuyện với nhau.

    Mộng Tinh không nhận ra Lan Hà. Lúc đó cô nào dám nhìn thẳng mặt Vô Thường, dù có nhìn cũng chỉ thấy mỗi mắt, Lan Hà đeo khẩu trang mà.

    “Ôi thần linh ơi, này cô gái xinh đẹp, cô cũng từng gặp quỷ sai rồi?” Trình Hải Đông kích động như gặp người thân, “Tốt quá, tôi bị oan lâu lắm rồi! Tôi đã bảo mà, quỷ sai có viết dòng chữ đó, nhưng họ toàn tưởng tôi ba xạo thôi.”

    “Vậy hả…” Ngô Linh vốn cảm thấy cách nói của Trình Hải Đông quá hài hước, nhưng ví dụ Trình Hải Đông đưa ra làm chị nửa tin nửa ngờ, bây giờ đến cả Mộng Tinh không hề quen biết Trình Hải Đông cũng nói vậy, còn tự xưng là trải nghiệm thật sự, thành thử cũng đáng suy ngẫm phết.

    “Khá là thú vị đây, chị phải đi hỏi thêm một vài người nữa… Thật ra cách nói này lôi cuốn hơn hai cái kia!” Ngô Linh càng nói càng hưng phấn, “Đúng là Vô Thường này thú vị hơn mấy phần thật.”

    Lan Hà thấy hơi cạn lời, đừng bảo từ nay về sau sẽ sinh ra một truyền thuyết mới nhé…

    Lúc này, Liễu Thuần Dương hô một tiếng, Trình Hải Đông lại lủi về vị trí của mình, chuẩn bị quay. Mộng Tinh cũng phải chuẩn bị trang điểm.

    Ngô Linh ghi lại lời Mộng Tinh vừa nói vào điện thoại.

    Lan Hà hỏi một câu: “Biên kịch Ngô này, lần tới chị chuẩn bị viết một kịch bản quỷ thần à?”

    “Phải, chị muốn viết một bộ thần quái series riêng* nên đang sưu tầm tài liệu thực tế ở các nơi. Đúng rồi, Lan Hà à, chị nghe quay phim chính bảo ông nội em mở cửa hàng bán đồ hàng mã, em có trải nghiệm giông giống nào không?” Ngô Linh hỏi.

    (*Ý ở đây là series mà các tập không liên quan đến nhau.)

    “Ờm… Chuyện này ấy à, tin thì có mà không tin thì không có.” Lan Hà úp mở, “Em chỉ biết một vài điều kiêng kị của lớp người xưa thôi, để em kể chị cho.”

    “Được được.” Thật ra Ngô Linh chẳng có hứng mấy về việc rốt cuộc trên thế giới này có quỷ hay không. Nếu có, chị chỉ muốn biết câu chuyện của con quỷ đó có đặc sắc không, bối cảnh có li kì không.

    Lan Hà vừa nhớ lại vừa kể: “Kiểu như cây kéo chúng em dùng để làm đồ vàng mã không được mang tới nhà người khác, sẽ là xui rủi…”

    Lan Hà kể một vài thứ mình biết về phong tục tập quán của dân tộc cho Ngô Linh nghe. Ngô Linh ghi lại xong bèn bất giác lẩm bẩm: “Cũng không mấy ai biết ‘Đến cũng đến rồi’ nhỉ.”

    Lan Hà: “Khó mà nói ạ.”

    … Cái này phải xem sau này em sẽ gặp thêm bao nhiêu người sống nữa.

    .

    Mỗi ngày đoàn phim quay chừng mười mấy tiếng, thi thoảng giữa đó không có cảnh diễn của mình thì Lan Hà có thể nghỉ ngơi được một lát. Anh tan làm đi về, lại phải tắm rửa chuẩn bị cảnh ngày mai.

    Tối nay trông Lan Hà mệt đứ đừ, anh đi ra khỏi phòng toan mua đồ uống ở máy bán tự động của khách sạn.

    Vừa khéo gặp Trần Tinh Dương cũng xuống mua đồ uống, anh ta bèn hếch cằm gọi cái tên trong phim của anh với vẻ bông đùa, “Tuần Xuân.”

    Lan Hà cũng muốn nói đùa dăm câu với Trần Tinh Dương, nhưng không phải bằng tính cách bên ngoài của Trương Tuần Xuân, mà là mặt tối tăm hơn, đoạn dùng chất giọng trầm gọi tên vai chính: “Mạnh Cảnh…”

    Anh vừa gọi là đèn nhấp nháy hai cái.

    Tầng này im phăng phắc chẳng có tiếng ai, đèn lại nhấp nháy như vậy làm Trần Tinh Dương sợ điếng người.

    “Đệt, anh sợ chết khiếp!”

    “Em cũng không biết là đèn sẽ nhấp nháy.” Lan Hà chưa tắt nụ cười.

    Hai người trò chuyện thêm đôi câu bèn sóng vai về với nhau, hành lang dài đằng đẵng kéo cái bóng của họ dài đến lạ.

    Trên hành lang khách sạn có một tủ trang sức đặt một bức tượng, lúc đi ngang qua có tiếng “cộp” từ trong tủ như có thứ gì đó rơi xuống.

    “Cái gì vậy?” Trần Tinh Dương cảm thấy tiếng động lớn quá bèn duỗi tay ra định xem.

    “Đừng nhìn, có lẽ là chuột thôi.” Lan Hà chẳng tài nào hiểu nổi những người quá tò mò này.

    Tiếng thì kệ tiếng, có phải cảnh báo đâu, anh mở tủ ra nhìn làm chi.

    Trần Tinh Dương mở cửa tủ ra bèn thấy mấy cái nghiên mực bị xếp chồng lên nhau, trong đó có một cái bị lật, có lẽ là ngọn nguồn phát ra tiếng ban nãy.

    Màu đá nghiên mực này được phân bố đều, trơn nhẵn, vả lại trông có hơi cũ. Trần Tinh Dương cầm lên nhìn, đoạn ngoái đầu với vẻ nghi hoặc: “Đoàn phim cách vách kia… mất hết nghiên mực phải không nhỉ?”

    Không phải là mấy cái này chứ? Giọng anh ta nhỏ dần. Vậy mà mình còn lớn gan đi cầm nghiên mực này. Tay anh ta run bắn, nghiên mực rớt xuống.

    “Đừng…”

    Giọng nói mỏng vang lên, cùng lúc đó, Lan Hà cũng nhanh chóng duỗi tay ra đón cái nghiên mực này. Cái nghiên mực thoạt trông nhẵn nhụi xưa cũ, ấy vậy mà tỏa ra mùi tanh tưởi thoang thoảng.

    “Hu hu… đừng…”

    Lại là giọng nói mỏng đó.

    Trần Tinh Dương không nghe thấy.

    Lan Hà lại nghe được, nhìn lướt qua bên cạnh mình như lơ đãng bèn thấy một người đàn ông râu dài mặc áo dài nát bươm ngồi xổm cạnh tủ. Ông ta thấp giọng nói: “Đừng lấy bia mộ của tôi đi mà.”

    Tay Lan Hà suýt tí thì nhũn ra, yên lặng đặt nghiên mực trở lại.

    Bia mộ?

    Đây rõ là nghiên mực, sao lại là bia mộ được?

    Lan Hà chưa kịp nghĩ nhiều, bèn nói với Trần Tinh Dương đã sởn cả gai ốc lên: “Thật ra có thể là người trong đoàn phim trộm đi xong giấu ở đây, chẳng phải họ ở cùng một cái khách sạn với chúng ta hay sao? Chúng ta đừng rút dây động rừng, cứ đặt ở chỗ cũ, ngày mai hẵng nói nhỏ họ hay.”

    Trần Tinh Dương vốn bị dọa kinh hồn táng đảm, Lan Hà nói vậy, còn trưng biểu cảm bình tĩnh và nghiêm túc làm anh ta thấy khá là hợp lí, ban nãy mình làm rơi có thể là do không cầm chắc mà thôi, ngẫm lại mình vẫn chiếm thế kiểm soát, bèn ngạc nhiên thốt, “Được!”

    Quỷ áo dài ôm chân, tiếp tục u oán lẩm bẩm.

    Lan Hà vờ như không nhìn thấy, đứng lên nói: “Vậy em về nghỉ ngơi trước đây. Chúc anh ngủ ngon.”



    Dù vinh dự thăng lên thành diễn viên đóng vai phản diện, cũng tức là nam hai, Lan Hà vẫn là một diễn viên vô danh tiểu tốt, hẹn ở cùng một phòng với Trình Hải Đông, anh không phải bận tâm lắm. Đến khi về đã thấy Trình Hải Đông say giấc nồng, anh cũng chuẩn bị ngả đầu xuống gối.

    Chỉ là con quỷ áo dài kia có thể nghe được chuyện anh và Trần Tinh Dương hẹn nhau ngày mai sẽ báo nên đang đi đi lại lại giữa hai phòng, miệng cứ lẩm bà lẩm bẩm: “Đừng… Đừng động vào bia mộ của tôi…”

    Lan Hà bị quấy rầy trằn trọc không ngủ được. Mỗi lần anh muốn ngủ là y như rằng con quỷ áo dài kia lại bay từ phòng Trần Tinh Dương sang.

    Bia mộ, bia mộ gì nhỉ… Lan Hà phát bực, sau đó hồn lìa khỏi xác, đeo khẩu trang lên.

    Con quỷ áo dài mới đi tới từ phòng Trần Tinh Dương thì đâm đầu vào một Vô Thường mặc đồng phục, mắt trợn trừng.

    Lan Hà: “Ông gặp chuyện gì mà gây ồn ở đây?”

    Phản ứng đầu tiên sau khi quỷ áo dài hoàn hồn là muốn chạy, nhưng sau đó mới nhận ra người ta đang hỏi tình huống của ông ta. Môi ông ta nhất thời run rẩy, “Quan, quan lớn ơi, tôi khổ quá mà!! Hu hu!!”

    Ông ta nhào tới ôm chân Lan Hà.

    Cái thói quen quái gì thế này! Lan Hà hoảng hồn bay lên trên mấy tấc, đoạn cúi người xuống hỏi: “Ông có việc gì thì nói mau.”

    Quỷ áo dài dùng tay áo lau nước mắt, “Bẩm quan lớn, vì hài cốt tôi không được đủ nên không thể đầu thai, vẫn luôn canh giữ bên mộ của mình. Tôi ngay thẳng lắm, chưa làm bất cứ chuyện ác nào suốt mấy chục năm nay! Nhưng có một kẻ đáng chết trộm bia mộ của tôi!”

    Bao lâu nay quan tài đã tàn tạ, tên đó còn trộm bia mộ của ông ta đi.

    Lan Hà: “Trộm bia mộ của ông? Sau đó đưa nó đi đâu?”

    Anh đã láng máng đoán ra được rồi, song vẫn phải vờ như không biết.

    “Đưa đến chỗ này!” Quỷ áo dài khóc lóc, “Quan lớn ơi, tên đó rất xấu xa. Chúng trộm bia mộ của người khác đi, mài sạch chữ, bán đi làm bia mộ lần nữa hoặc làm thành chế phẩm khác. Một buổi tối hắn ta sẽ trộm vài cái bia mộ, trộm khắp nơi. Bia mộ của tôi làm từ đá Kỳ Dương lên bị hắn ta chia ra thành rất nhiều nghiên mực. Bia mộ kia của tôi là tôi khó lắm mới kiếm tiền mua được mà hu hu…”

    Đá Kỳ Dương còn được gọi là đá Vĩnh Cửu, sản xuất ở tỉnh Hồ Nam, rất hợp để dùng làm nghiên mực, được xưng là nghiên mực đá Kỳ Dương. Đương nhiên nếu đủ điều kiện có đá to dùng làm bình phong hay bia mộ cũng được, ví như con quỷ áo dài này.

    Tiếc là đã bị bọn vô lại trộm đi mất.

    Quỷ áo dài càng khóc càng buồn, càng khóc càng ấm ức, “Tên đó rất hung dữ, tôi không dọa nổi hắn ta. Tôi chỉ muốn lấy bia mộ của mình về thôi, nhưng có lẽ người mua nghiên mực sắp phát hiện ra rồi.”

    Lan Hà nhìn ông ta khóc bù lu bù loa đến nỗi quỷ cũng thu nhỏ lại, ầm ĩ làm anh nhức hết cả đầu, “Đừng khóc nữa, ông nói ta nghe tên trộm mộ đang ở đâu, chắc chắn ông vẫn nhớ đúng chứ? Và cũng phải báo tên của ông cho ta nữa, ta sẽ hóa… Ta bảo người ta ‘gửi’ bộ đồ cho ông.”

    Quỷ áo dài choáng, rụt rè hỏi: “Thật, thật không ngài? Tôi không có tiền.”

    Đừng nói ông ta không có tiền, mà dù có tiền cũng khó mà cầu được âm sai để ý đến chuyện vặt vãnh của loại cô hồn dã quỷ này.

    “Không cần tiền của ông.” Lan Hà nghiêm mặt đáp, “Bây giờ ông tìm một chỗ im lặng mà đợi, đợi ta nhắn là được.”

    “Cảm ơn, cảm ơn quan lớn! Cảm ơn quan lớn!” Quỷ áo dài mừng rơn, song vẫn chẳng dám tin, “Thật không ngài? Đây là sự thật sao? Không phải ý xấu nhưng tôi đã ở vùng hoang vu vài chục năm nay, không ngờ quan lớn có thể giải quyết miễn phí giúp tôi. Hôm nay là ngày tốt gì không biết.”

    Lan Hà thầm nhủ Vô Thường bình thường ăn ở thế nào mà mình chỉ tiện tay giúp thôi cũng bị nghi ngờ nhỉ. Anh bịa đại cho qua: “Hôm nay… Hôm nay âm ty đưa chính nghĩa về làng xóm!”

    *Tác giả:

    Lan Hà: Làm một người sáng tạo truyền thuyết (ít được để ý).
     
  14. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 13: “Này Ông, Cho Hỏi Đường Hoàng Tuyền Đi Như Nào Với!”

    Lan Hà không biết các quỷ sai khác giải quyết chuyện kiểu này như thế nào. Anh nghi ngờ cực mạnh về cái thói ăn ở cổ lỗ sĩ của lão Bạch lắm: Hoặc là mặc kệ, hoặc là kéo luôn tên trộm xuống âm phủ đe dọa một phen.

    Nhưng theo quan điểm của Lan Hà thì vẫn nên để tên đó chịu sự trừng phạt của pháp luật, cũng để phòng ngừa sau này lại có chuyện giống hệt xảy ra. Bọn trộm bia mộ quá là thất đức.

    Vì ôm công việc vào người, lại không muốn để lộ ra mình có liên quan đến nó, kể cả là trước mặt tên quỷ áo dài kia nên Lan Hà bèn quyết định lấy thân phận Vô Thường để đi tìm… cảnh sát.

    Về phần tìm ra sao thì không thể không kể đến kĩ năng truyền thống của âm phủ: Báo mộng.



    Vương Lạp Lạp là một viên cảnh sát nhân dân bình thường ở Bắc Kinh, hằng ngày cần cù làm việc, thi thoảng tăng ca, về kí túc xá là ngả lưng ra ngủ. Bình thường chất lượng giấc ngủ của gã rất là tốt, hôm nay sau khi ngủ cũng nằm mơ. Đó là một giấc mơ vừa hư cấu vừa chân thật.

    Một quỷ sai ăn mặc y chang tạo hình trong các bộ phim ma che mặt đứng trước mặt gã, hỏi gã: “Anh sẽ bỏ qua hay nhúng tay vào vụ án trộm cắp?”

    “Nếu thuộc khu quản hạt của chúng tôi thì sẽ nhúng tay vào. Anh là ai?” Thực chất trong lòng Vương Lạp Lạp biết mình chỉ đang nằm mơ nên không thấy sợ hãi gì cả, thậm chí còn ứng đối một cách tự nhiên, chẳng hề nghi ngờ cảnh tượng quỷ dị này.

    “Ta và anh xem như cùng ngành, nhưng ta làm việc dưới âm phủ, nay đặc biệt đến đây báo cho anh rằng có manh mối về một vụ án trộm cắp.” Lan Hà nói.

    Vương Lạp Lạp giật mình: “Manh mối gì mà phải kết hợp luật pháp hai nơi?”

    Lan Hà nhìn địa chỉ mình đã chép xuống, “Tên chủ hộ họ Trần ở địa chỉ này thường hay trộm cắp bia mộ, chế tạo lại rồi bán ra ngoài.”

    Để tăng thêm phần chú trọng, anh còn bổ sung thêm một câu, “Có ảnh hưởng hết sức to lớn ở âm phủ!”

    “Còn có kẻ đi trộm bia mộ sao? Ồ, chắc là vụ này tính là trọng án ở chỗ các anh nhỉ?” Vương Lạp Lạp cũng thấy mới lạ, lại nhìn địa chỉ, “Chỗ này thuộc khu vực quản hạt của chúng tôi, tôi có chút ấn tượng.”

    Trọng án? Hình như không phải. Lan Hà nói: “Tóm lại là làm phiền anh rồi. Nhất định phải điều tra nhé. Hắn ta chế tạo lại bia mộ rồi bán cho người khác, cũng gây ra kha khá phiền phức, trong đó có một con quỷ tên là Từ Quý bị quấy rầy bởi chuyện này, hi vọng sẽ tìm lại được bia mộ.”

    Anh dứt lời, lại ngập ngừng hỏi, “Đúng rồi… Ta có thể mượn chút giấy từ chỗ anh không?”

    Vương Lạp Lạp hãy còn suy nghĩ về Từ Quý gì đó, “Giấy? Giấy gì, vì sao?”

    “Một trang giấy của cảnh sát dương gian các anh sẽ có chính khí, sát khí, sẽ giúp đỡ cho công việc của ta hơn.” Lan Hà nói, “Ta nghĩ, đến cũng đến rồi thì ta mượn được chứ?”

    Ánh mắt Vương Lạp Lạp dời lên trên đầu anh, ấn tượng về bốn chữ này càng sâu sắc hơn, đến cũng đến rồi cơ à, “Vậy được.”

    Đối phương cảm ơn hết sức lịch sự, sau đó lại dặn gã phải chắc chắn phá vụ án trộm cắp này đặng giúp Từ Quý và những con quỷ xui xẻo khác.

    Lúc Vương Lạp Lạp choàng tỉnh khỏi cơn mơ, lời nói đó hãy còn văng vẳng bên tai.

    Gã cảm thấy khó tin, mặc dù là mơ nhưng giấc mơ này khác với những giấc mơ trước đây, chẳng những không tỉnh dậy là quên mà còn có cảm giác thật đến lạ.

    Hơn nữa, cảm xúc của gã trong mơ đã phai nhạt đi nhiều, vừa không thấy sợ vừa không thấy lạ khi trên mũ quỷ sai nọ viết dòng “Đến cũng đến rồi”, thậm chí còn đeo khẩu trang trên mặt… Bây giờ nhớ lại mới cảm thấy hình tượng này có hơi kì quặc.

    Và cả địa chỉ của cái “kẻ tình nghi” gì đó và tên người bị hại, gã cũng nhớ rõ mồn một.

    Vương Lạp Lạp xoay người dậy trong sự mông lung, đang chuẩn bị đi rửa mặt bèn thấy cuốn sổ mình đặt trên bàn bị mở ra. Cuốn sổ ghi này là đơn vị phát cho, dùng để ghi chép họp hành các thứ nên mới chỉ dùng được một nửa.

    Nhưng hiện nay một nửa số trang trống của cuốn sổ chẳng biết bị ai xé đi sạch.

    “Cái… đệt?” Vương Lạp Lạp cầm quyển sổ giở ra, bèn sực nhớ tới trong giấc mơ hãy còn rõ mười mươi kia, quỷ sai đã hỏi mượn gã mấy tờ giấy.

    Vương Lạp Lạp nổi da gà khắp mình mẩy.

    Gã tự nhận bình thường mình cũng tính là gan dạ, nhưng gặp phải chuyện này vẫn thấy sợ tụt quần, nhất là khi gã kiểm tra một lúc lại phát hiện khóa cửa không hỏng, cũng chỉ có gã cầm chìa khóa…

    Không đúng, dù có hỏng thì cũng chưa chắc có tên trộm nào trộm đến cả kí túc xá của cục cảnh sát được, đã thế còn chỉ trộm nửa cuốn sổ?

    Chưa kể gã lại vừa khéo nằm mơ thấy quỷ sai mượn giấy? Trùng hợp biết bao nhiêu.

    Gã ôm tâm trạng hoang mang đi rửa mặt xong bèn xem camera giám sát xem có sự trùng hợp một phần vạn nào không, nhưng kết quả lại là thực sự chẳng có ai tới.

    Gặp quỷ rồi, gặp quỷ thật rồi!

    Vương Lạp Lạp không biết kể chuyện này với ai, ai sẽ tin gã chứ.

    Vương Lạp Lạp bỗng nhớ tới cái địa chỉ quỷ sai kia báo cho mình, cảm xúc bất thình thình sục sôi. Quỷ sai này rất lịch sự, không hù họa gã mà còn mời gã tra án. Giấy đã bị mượn đi thật, phải chăng vụ án cũng có thật?

    Trên đời có mấy người gặp được chuyện này nào? Vụ này tính là gì, hai giới âm dương chung tay hợp tác? Tuy rằng vụ án không lớn nhưng tên tuổi thì vang dội quá, mình là người được trời chọn gì gì đó sao… Thôi đi tra!

    Vương Lạp Lạp mặc bộ đồ thường ngày chạy tới địa chỉ kia bèn thấy đó là một căn nhà dân một tầng, cửa chính đang mở, kha khá sản phẩm làm bằng đá đặt bên trong, trông rất thô kệch. Cũng phải thôi, một kẻ chẳng muốn mua một cái nguyên liệu nào thì làm gì có chuyện đi thuê một cửa hàng.

    Lúc đọc được nội dung kinh doanh, Vương Lạp Lạp càng thêm chắc chắn trong lòng rằng giấc mơ kia là đúng.

    Gã giả vờ như đang xem sản phẩm, thừa dịp ông chủ không chú ý tới bèn đi đến phòng chế tạo, “Bạn tôi giới thiệu tôi đến đây, những cái này vẫn chưa được gia công xong sao?”

    Ông chủ chẳng mấy bận tâm: “Phải, chỗ tôi giá rẻ, anh muốn đặt không? Tôi khắc chữ cho anh.”

    “Tôi xem chất lượng cái đã…” Gã ngồi xổm xuống dò xét bèn thấy dòng chữ trên một tấm bia đá vẫn chưa bị mài sạch, có thể thấy mơ hồ dòng chữ mờ viết “Mộ của” và “Lập nên”.

    Giấc mơ của mình là thật, thực sự có quỷ sai báo mộng cho mình!

    Vương Lạp Lạp ngầm hiểu, dằn xúc động đứng dậy: “Hình như hơi mỏng, để tôi nghĩ đã.”

    — Vốn dĩ là bia mộ trộm được, lại phải mài chữ nên dĩ nhiên là mỏng rồi. Ông chủ bĩu môi, “Chỗ chúng tôi rẻ lắm, chỉ bị mỏng tí thôi. Anh cứ nghĩ đi, chẳng có nơi nào bán rẻ được như vậy đâu. Đúng rồi, anh có mua cái gì khác không?”

    “Không.” Vương Lạp Lạp thầm chửi một câu đồ thất đức rồi bước đi.

    .

    “Trời má, tối qua chú ngủ say như chết, anh gọi mãi không chịu tỉnh.” Trình Hải Đông ngáp dài ngáp ngắn, “Tối qua anh tỉnh dậy uống cốc nước, vấp phải người chú, hỏi chú có bị sao không mà chú chả hé răng nửa lời.”

    Nhưng anh ta buồn ngủ quá, Lan Hà không đáp, anh ta uống nước xong cũng vào giấc. Bây giờ nhớ lại bèn thấy vậy là không hay, lỡ Lan Hà ngất thật ra đó thì chẳng phải anh ta không hay biết gì hay sao.

    “Em mệt quá nên ngủ hơi sâu.” Lan Hà đâu thể nói là nửa đêm… đi tập yoga được.

    Hôm đó Trần Tinh Dương nói nhỏ chuyện nghiên mực cho đoàn phim cách vách hay, đoàn phim nọ cũng lén lút điều tra hai ngày, xem cả camera giám sát mà bắt được cảnh ai giấu nghiên mực đi.

    Đã tìm thấy nghiên mực rồi mà họ vẫn không dám dùng, lúc đang cân nhắc xem có phải cúng vái bảy ngày không thì cảnh sát đến cửa.

    Cảnh sát bày tỏ họ vừa mới phá một vụ án trộm bia mộ, kẻ phạm tội đã mài chữ trên bia mộ rồi bán đi, thi thoảng có một vài đá tốt sẽ chế tạo thành vật khác để bán.

    Bây giờ họ đang liên lạc với người bị hại, bất kể là gia đình có bia mộ bị trộm hay người mua sản phẩm.

    Dựa theo sổ sách và lời của kẻ phạm tội, trong số đó có thứ đoàn phim mua về làm đạo cụ.

    Nghe xong, người bên đoàn phim cách vách đứng hình.

    Thảo nào! Họ cứ thấy nghiên mực sai sai, cứ hay gặp chuyện quái lạ, còn có người nói đó là một con quỷ nho nhã nhìn trúng cái nghiên mực cũ, ai ngờ là làm từ bia mộ!

    Nhân viên đạo cụ vẫn luôn giữ gìn cái nghiên mực sắp ngất đến nơi. Vậy tức là anh ta ở chung một căn phòng với một cái bia mộ ư?

    Người tới chính là Vương Lạp Lạp, gã nhìn sắc mặt nhân viên đoàn phim sai sai bèn truy hỏi.

    “Nói ra anh đừng nghĩ chúng tôi… đang lừa anh nhé.” Đối phương chần chờ, “Mấy ngày trước, chúng tôi vẫn chẳng thấy nghiên mực đâu, sau này mới phát hiện tự dưng nó chạy đến tủ khách sạn, nhìn camera giám sát nhưng không thấy người đặt nghiên mực đâu, vả lại trong đoạn phim đó, nghiên mực còn có thể tự động đậy.”

    Vương Lạp Lạp: “Ồ…”

    Người trong đoàn phim hơi sửng sốt, tại sao đồng chí cảnh sát lại bình tĩnh vậy ta?

    Vương Lạp Lạp còn bị quỷ sai báo mộng kia kìa, cho nên gã chẳng thấy vụ này có gì lạ. Nếu gã đang không có chức trách trong người thì còn muốn nói việc của mấy người có là gì, nhìn tôi đây này, sổ tôi còn bị quỷ sai mượn cơ!

    Đương nhiên, gã chắc chắn không thể nói ra miệng được rồi.

    Vương Lạp Lạp hắng giọng: “Chuyện này thì tôi vẫn sẽ lấy cái nghiên mực đi, chuyện tiền nong bao giờ chúng tôi xử lý xong vụ án này tất sẽ liên lạc với mọi người, xem có thể nhận bồi thường bao nhiêu.”

    “Được được, không sao.” Họ đang lo sứt đầu mẻ trán xem phải giải quyết cái nghiên mực này như thế nào. Người ta hay nói cảnh sát có đủ chính khí, nếu đến họ còn chẳng trấn áp nổi thì toi, song đã phát hiện ra nguồn căn chuyện này rồi, tốt nhất vẫn nên mời ai đó đến xua tà khí đi, nghe rợn người quá.

    Lại nói đến Vương Lạp Lạp, lúc gã đi thì bị một đám bồ câu hút mắt.

    Nói một cách chính xác hơn là một đàn bồ câu đang bay nhặng hòng né khỏi một diễn viên nam.

    Hình như người ta đang quay một bộ phim, cậu diễn viên đó cần phải tiếp xúc với đàn bồ câu, song chúng nó cứ tránh mãi, không tài nào cho vào cảnh quay được. Đạo diễn đương hô hào bảo diễn viên nam kia nhanh chân lên, thừa cơ bọn bồ câu không chú ý thì quay chung với chúng. Cậu diễn viên nọ cạn lời, đáp rằng làm sao cháu nhanh hơn bồ câu được hả chú.

    Vương Lạp Lạp nhìn mà thấy buồn cười, bên kia đã quay xong cảnh này ở một vị trí khác, diễn viên nam mệt lử đi lấy nước uống.

    Vương Lạp Lạp đứng một bên, trường quay đông người, chẳng ai đếm xỉa đến gã.

    Nhìn vào đôi mắt kia, Vương Lạp Lạp cảm thấy cậu diễn viên này hơi quen mắt, đặc biệt là đôi mắt đó…

    Lúc này, cậu diễn viên cũng ngẩng đầu chạm mắt với gã.

    Vương Lạp Lạp đắn đo, đoạn hỏi: “Chào cậu, cậu…”

    Cậu diễn viên nhanh miệng cắt ngang lời gã: “Muốn chụp ảnh chung phải không!”

    Vương Lạp Lạp “A” một tiếng rồi cũng mơ màng đáp theo: “Phải phải.”

    Vậy là gã lấy điện thoại ra chụp chung với người ta. Gã nghĩ, nhìn quen mắt thì chắc là do từng xem bộ phim cậu này đóng rồi, đẹp trai đáo để, chắc đang hot lắm, ấy thế mà vẫn gần gũi bình dị.

    Nhưng gã ngại hỏi người ta tên gì, chẳng phải xí hổ lắm sao?

    “Ừm, cảm ơn cậu!” Vương Lạp Lạp không muốn bị lộ bèn ấp úng nói, “… Y, yêu, yêu anh.”

    Lan Hà: “…”

    Cảnh sát Vương, anh không cần phải vậy đâu, thật đó…

    .

    Ban đêm.

    Lan Hà lại hồn rời khỏi xác, tìm đến Từ Quý.

    Từ Quý đã thay sang một bộ đồ mới toanh. Lan Hà đốt một bộ áo dài dựa theo thói quen của ông ta, chỉ là gọn gàng và đẹp hơn chút đỉnh. Ông ta vừa thấy Lan Hà đã thốt câu cảm ơn, “Cảm ơn ngài đã giải oan cho tôi!”

    “Không sao, chủ yếu là do cảnh sát dương gian giải quyết ấy mà.” Lan Hà nói, “Ta sẽ lập một bia mộ mới cho ông, có lẽ bên đoàn phim sẽ cúng bái cho ông nữa. Bây giờ ông có dự định gì chưa?”

    Từ Quý ậm ừ: “Tôi chỉ là một dã quỷ, nào có dự định gì…”

    Lan Hà ngẫm lại: “Tuy rằng hài cốt ông không trọn vẹn, không thể đầu thai nhưng vẫn có thể đi chùa miếu hay đạo quán các thứ, lắng nghe kinh Phật, hoặc thi thoảng còn có thi thực*. Dần dần có thể sẽ gặp cơ duyên siêu bạt.”

    (*Thi thực là đồ ăn mà chốn cửa Phật thường hay làm để bố thí cho chúng quỷ đói.

    *Siêu bạt: Siêu độ có nghĩa là với tâm chân thành muốn giúp đỡ những người đã khuất, phần lớn việc siêu độ là người mất hiện tiền tạo tác nhiều nghiệp chướng, đã có nghiệp chướng thì không tránh khỏi thác sinh vào các đường khổ. Cho nên, chúng ta siêu độ là giúp cho họ giảm bớt đau khổ. Trong khi đó, “bạt” của “bạt độ” nghĩa là nhổ lên, “độ” là vượt qua, thoát khỏi, tức là nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi.)

    Từ Quý cúi đầu đáp: “Tôi biết, nhưng quan lớn à, quỷ lực tôi thấp kém, không rời khỏi nơi chết quá xa được.”

    Ông ta là một con quỷ thấp cổ bé họng trong số các tiểu quỷ, không sành sỏi nhiều kĩ năng, phạm vi hoạt động cũng không rộng lắm. Nếu nghiên mực bị bán đi xa hơn, có lẽ ông ta sẽ không thể động tí tay chân như vậy được.

    “Vậy à?” Lan Hà suy nghĩ xem mình có thời gian rảnh không, “Vậy ta đưa ông đến chùa Giác Tuệ.”

    Từ Quý quỳ xuống toan dập đầu thì bị Lan Hà cản lại, “Đã không còn thịnh hành cái này nữa rồi.”

    Ban đầu đúng là Lan Hà cảm thấy Từ Quý quá là làm phiền đến mình nên mới bận tâm đến Từ Quý, nhưng rồi lại lo luôn vụ này. Từ Quý số con rệp, giúp quỷ thì giúp đến cùng, Lan Hà dẫn ông ta đi về hướng chùa Giác Tuệ.

    Có Lan Hà dẫn, tất nhiên Từ Quý đi đâu cũng được.

    Chẳng mấy chốc đã đến ngoài chùa Giác Tuệ, từ xa Lan Hà đã thấy một ngọn đèn đỏ bèn biết thể nào cũng là đồng nghiệp. Anh bước tới, ra là người quen, “Anh Nghiêm Tam!”

    “Ợ?” Nghiêm Tam ngoảnh đầu nhìn lại, lè nhè dụi mắt, “Là… Tiểu Lai đấy hả.”

    Lan Hà trông thấy xích câu hồn trong tay Nghiêm Tam đang móc cả một hàng quỷ dài dằng dặc, hiển nhiên là vừa xong việc, định dẫn đám quỷ này về âm ty. Chỉ là cái mùi rượu kia, đứng từ xa vẫn ngửi thấy được.

    “Ợ, hôm nay… uống nhiều rượu quá, còn phải nhanh chóng phục mệnh, không nói nhiều nữa.” Nghiêm Tam rất gấp nên chỉ chào một cái rồi vẫy tay với Lan Hà, dẫn đám hồn vội vã bay đi.

    Lan Hà nhìn đến khi bóng dáng Nghiêm Tam mất hút bèn ngoái đầu nói với Từ Quý: “Ông đợi lát nhé, ta vào chùa xem có gì ăn không. Nếu có, ông với ta cùng ăn một bữa với nhau. Ta nghe bảo mùi thức ăn chay của chùa Giác Tuệ thơm nức mũi.”

    Từ Quý: “…”

    Ông bèn thành thật đứng đợi tại chỗ, lúc này lại có một con quỷ dần hiện hình ngay bên cạnh, trong tay còn cầm bầu rượu, nét mặt căng thẳng, rón ra rón rén muốn đi.

    Từ Quý nhìn con quỷ này bèn sửng sốt: “A, chẳng phải ông là…”

    Đó không phải là một con quỷ trong đám quỷ bị ngài âm sai ban nãy kéo đi hay sao? Chuyện khác ông ta không rành, chứ trí nhớ vẫn khá tốt, mới bẵng đi chưa được bao lâu nên nhìn ra được.

    “Suỵt.” Con quỷ này mang hình dáng của một cụ già, cười đầy bí ẩn, “Mọi người đều là quỷ, đừng quấy nhiễu đến âm sai kia.”

    Từ Quý nghĩ bụng, không được, tôi phải báo với ngài kia.

    Lão quỷ nhìn nét mặt ông ta sai sai bèn mồi chài ông ta: “Gượm đã, ông có muốn đi đầu thai không?”

    Từ Quý đứng hình.

    Lão quỷ thấy vẻ mặt Từ Quý khác thường bèn nói tiếp: “Ha, nếu ông không tố cáo thì ta sẽ dạy cho ông cách làm sao để làm được, đó là sử dụng tên của ta. Dù rằng không thể đầu thai ngay lập tức thì cũng có thể thoát khỏi cái khổ ở dương gian. Trông ông ủ dột thế kia, sống không được tốt lắm nhỉ? Đám âm sai này toàn ỷ thế ức hiếp người khác, sẽ cướp tiền cướp của đấy, ông cần gì phải giúp bọn chúng, đám quỷ chúng ta mới nên phải hợp tác với nhau cơ!”

    Mỗi con quỷ có chí riêng. Tuy Từ Quý không muốn xuống âm phủ, song đối với ông ta mà nói, được xuống âm phủ âu cũng là một chuyện tốt.

    Từ Quý trưng biểu cảm giãy dụa, lần lữa một lúc lâu mới đáp, “Được…”

    Trong mắt lão quỷ lóe lên vẻ gian xảo, nếu tên dã quỷ này dùng tên của lão thì đừng nói là không thể đầu thai, chỉ e sẽ phải chịu hình phạt, mà có khi còn giúp lão miễn bị lùng bắt, ít nhất cũng kéo được một thời gian ngắn, “Ừ, vậy ta dạy ông cho…”

    Lão còn chưa nói xong thì Từ Quý đã thừa cơ lão mất cảnh giác mà ôm cứng chân lão, hô lên: “Ngài Đến ơi! Ở đây có một con quỷ chạy trốn này!”

    “Mày!” Lão quỷ giận dữ, “Mày còn nịnh, nịnh hót có giúp mày đầu thai được không!”

    Từ Quý chỉ biết ôm chặt cứng lấy lão, “Ông thì biết cái gì, ngài Đến là đại diện cho chính nghĩa.”

    Lan Hà nghe Từ Quý hô to bèn nghĩ bụng chạy gì mà chạy, vừa quay lại bèn thấy Từ Quý đang ôm chặt một lão quỷ không chịu thả, bị lão đạp mạnh lên, hồn mờ đi không nói, còn gào to hơn báo đây là quỷ vừa nãy thoát khỏi xích câu hồn của Nghiêm Tam.

    Lan Hà giật thót, vội vàng lấy xích câu hồn của mình ra. Vừa móc lấy lão một cái là lão quỷ kia tức thì đứng im, chỉ còn mỗi miệng là chửi Lan Hà té tát, mắt đỏ ngầu, gào tiếng lòng từ lồng ngực: “Mệnh của ta do ta tự quyết, không phải do trời…”

    Lan Hà thụi cho một cú, “Đậu má, ông ồn ào quá.”

    Anh nhủ thầm, thôi chết, Nghiêm Tam vội vã phục mệnh, lại uống quá chén — xem ra là bị con quỷ này cố ý chuốc say. Lỡ xuống âm phủ mới phát hiện thiếu mất một con quỷ thì chẳng phải sẽ bị chịu phạt hay sao?

    Lan Hà vội viết thư đốt, nhưng Nghiêm Tam đang say quắc cần câu, mãi vẫn chẳng thấy đáp.

    Anh nghĩ, không được, vẫn nên xách lão quỷ này đuổi theo thôi. Dù Nghiêm Tam có quay đầu phát hiện thì cũng có thể giảm bớt một quãng đường đi cho gã.

    “Ông đợi ở đây, ta có việc phải làm!” Lan Hà nói với Từ Quý, đoạn vội vàng túm lão quỷ bị anh đánh bẹp đầu hãy còn đang hoa mắt bỏ đi.

    Từ Quý đứng đằng sau phất cờ cổ vũ: “Ngài Đến uy vũ!”



    Lan Hà dẫn lão quỷ đi lên âm lộ, lùng theo hướng của Nghiêm Tam, đến giờ mới muộn màng nhớ ra một chuyện:

    Anh… không biết đường!

    Đường của âm phủ có một nửa là phụ thuộc vào đường dương gian. Hai không gian đan xen nhau, đến quỷ còn dễ lạc đường nữa là, mà những thứ này được gọi chung là âm lộ. Song, muốn đến địa phủ còn phải bước lên đường Hoàng Tuyền trong truyền thuyết, hoặc bạn nói nó là con đường chính dẫn đến âm phủ cũng đúng.

    Lan Hà vừa nhậm chức là đã lập giao dịch với lão Bạch để không cần phải làm việc bên ngoài. Anh chỉ mới làm việc dẫn hồn được một lần, đã vậy còn nửa chừng đứt gánh.

    Hơn nữa, mặc dù Lan Hà có làm trọn cả quá trình cũng vô ích thôi, bởi do một số vấn đề lịch sử lưu truyền lại mà đa số ban ngành của âm ty Đông Nhạc hãy còn đang làm việc dưới Đông Nhạc, mà Nghiêm Tam lại đi âm tào địa phủ, đường đi căn bản là khác nhau.

    Vậy phải đi xuống địa phủ thế nào?

    Lan Hà sốt ruột, ngẩng đầu ngó nghiêng, đoạn tóm một dã quỷ thoạt trông nhiều tuổi ven đường.

    Đối phương không kịp trốn, run bắn: “Quan, quan lớn, tôi không có tiền đâu!”

    “Không cần tiền!” Lan Hà hỏi, “Này ông, cho hỏi đường Hoàng Tuyền đi như nào với!”

    Dã quỷ: “???”

    Đúng là chết lâu nên cái gì cũng được chứng kiến. Đây là lần đầu tiên ông ta nghe được câu hỏi này, mà người đặt câu hỏi còn là một âm sai?

    Dú: Từ chương trước tôi đã đổi “địa phủ Đông Nhạc” thành “âm ty Đông Nhạc” rồi, chính ra “âm ty” cũng mang nghĩa là “âm phủ”, “địa phủ”, “địa ngục”. Nguyên nhân là do từ này có xuất hiện cùng với “địa phủ” ở mấy chương sau nên tôi đổi lại hết cho thống nhất.
     
  15. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 14: Ta Sẵn Sàng Quyên Góp Tu Sửa Đường Hoàng Tuyền

    “Ta mới nhậm chức, không quen đường xá, ông chỉ cho ta với!” Lan Hà thấy con quỷ kia đơ một cục bèn thúc giục.

    Dã quỷ ngu luôn, nghĩ bụng nếu không quen đường, bộ chẳng lẽ ngài vẫn chưa chết ư…

    Ông ta nhác thấy mũ trên đầu và khẩu trang trên mặt đối phương, chợt nhớ ra dạo này âm phủ kháo nhau ở khu vực Bắc Kinh có một “Ngài Đến” trực, tính tình hơi quái gở, chắc là vị trước mắt này rồi. Ông ta không dám hỏi nhiều, đỡ chuốc phiền phức.

    “Cái, cái này… Tôi chưa có tư cách đi lên đường Hoàng Tuyền, chỉ biết là đi từ miếu Thành Hoàng khoảng ba bước rưỡi.”

    Lan Hà hỏi: “Ba bước rưỡi? Đi ba bước rưỡi về hướng nào?”

    Dã quỷ hoang mang: “Là hướng đến âm tào địa phủ chứ sao.”

    Ông ta bày ra vẻ khó xử, đằng nào cũng chưa đi bao giờ. Thậm chí ông ta còn bắt đầu nghi ngờ thân phận của Lan Hà, cổ càng rướn càng dài, trưng biểu cảm như muốn nhìn thẻ tên của Lan Hà.

    “Nhìn gì vậy, ta mù đường thôi.” Lan Hà cất cao giọng, đối phương tức thì rụt cổ lại, làm bộ như chưa xảy ra chuyện gì.

    Thôi, cứ đi miếu Thành Hoàng trước cái đã, anh biết nó nằm ở đâu vì sẽ tương xứng với dương gian. Anh dẫn lão quỷ chạy về phía miếu Thành Hoàng.

    Ngoài cửa miếu có vài minh lại* của miếu Thành Hoàng đang nhàn nhã ngồi xổm, họ cũng được xem như đồng nghiệp của Lan Hà, có điều họ làm việc tại địa phương, bình thường chỉ thu nhặt hồn ma bản địa, trong khi Lan Hà lại thuộc âm ty Thái Sơn.

    (*Chữ “lại” ở đây sẽ được xuất hiện trong truyện kha khá lần, đại khái là chức vụ không có phẩm cấp.)

    Lan Hà biết âm sai lười làm việc nên không dám phó thác lão quỷ này cho họ, “Phiền các anh cho ta hỏi với, đi đường Hoàng Tuyền từ đây phải không? Ta là ma mới của âm ty Đông Nhạc, vẫn chưa quen đường.”

    Đám âm sai ngờ ngẫn gật đầu, nghĩ bụng quả là ma mới, lần đầu có đồng nghiệp đi hỏi trụ sở chính ở đâu, non đến độ chẳng biết đường nằm ở cái xó xỉnh nào. Song, bọn họ vẫn chỉ phương hướng nào đó theo phản xạ, ngặt nỗi mỗi hướng mỗi âm sai chỉ lại khác nhau.

    Theo lý thì Vô Thường đi lên đường Hoàng Tuyền không cần phiền phức như người hay quỷ khác…

    Lan Hà nhìn hướng họ chỉ không giống nhau bèn đăm chiêu, đoạn kéo lão quỷ chọn đại một hướng: “Đi xuống Cửu Tuyền với ta!”

    Anh vừa bước một bước, tầm mắt tối sầm lại. Bước nhanh thêm hai bước nữa, môi trường bốn phía bắt đầu mờ dần, vặn vẹo mơ hồ. Khi bước chân cuối cùng vừa nhấc lên, xung quanh thay đổi. Anh cúi đầu nhìn bèn thấy chân trái đã giẫm lên một con đường rải đất vàng.

    Nói là đất vàng, còn không bằng nói là bùn vàng. Chúng vẫn luôn chảy nước bùn, gập ghềnh nhấp nhô, thực sự không phải một con đường dễ đi.

    Đường Hoàng Tuyền dài mà tĩnh mịch, quỷ ảnh trên đường chồng lên nhau, đều đi về một hướng. Tay họ dắt trâu ngựa, có lẽ là đồ mã người nhà hóa cho. Vài tên có thể đã phạm lỗi mà bị áp giải.

    Lan Hà túm lão quỷ chạy như điên trên đường, vừa chạy vừa gào: “Anh Nghiêm Tam! Anh Nghiêm Tam!”

    Đường Hoàng Tuyền vốn dĩ chẳng có bất cứ một âm thanh nào, tiếng gào của Lan Hà bật ra đột ngột làm đám quỷ ảnh này quay đầu lại, rồi dần dần quay đi. Trong đó có vài đồng nghiệp, cũng đeo bản mặt bợt bạt, chợt thấy mấy người chỉ tay ra đằng trước như ý bảo anh rằng Nghiêm Tam ở phía trước.

    “Cảm ơn!” Lan Hà vội vàng chắp tay, mà cũng chẳng chú ý nhiều đến vậy, đoạn đi về phía trước.

    Thời gian ở dưới địa phủ dài hơn nhân gian. Trong khoảng thời gian bị kéo dài đó, Lan Hà chẳng biết mình đã chạy mất bao lâu mới đuổi kịp Nghiêm Tam ở trước một tòa thành nguy nga.

    Tường thành cao ngun ngút, trên cánh cổng chính khắc “U Đô” theo kiểu chữ Triện. Quả là u minh dưới đất, đô phủ cõi âm, ngoài cửa là hai tên quỷ lại áo xanh đứng gác, du hồn lục tục vào thành.

    Nghiêm Tam đang bắt chuyện với một tên quỷ lại áo xanh trong số đó, còn chia chác cho tên kia một ít tiền mọn, người vẫn nồng mùi rượu, dường như vẫn chưa phát hiện mình đã để xổng một con quỷ.

    “Anh Nghiêm Tam.” Lan Hà vỗ vai Nghiêm Tam từ đằng sau, gã đờ đẫn quá, nhất thời không ngoái đầu nhìn.

    Lan Hà kéo Nghiêm Tam sang một bên rồi nhỏ giọng bảo, “Anh để xổng một con quỷ kìa.”

    “Tiểu Lai?” Nghiêm Tam dụi mắt, mất nửa nhịp mới tiêu hóa được lời Lan Hà, đang say cũng bị dọa cho tỉnh lại, cầm xích câu hồn của mình lên bèn phát hiện phần đuôi bị đứt từ bao giờ, bèn lẩm bẩm, “Thôi chết thôi chết, xích câu hồn bị đứt rồi, còn một khắc nữa sẽ phải phục mệnh, sẽ bị phạt mất.”

    Gã nhìn lão quỷ Lan Hà trói, tức quá hóa cười, “Hay lắm, ta tự nhủ sao ngươi lại ân cần vậy làm gì cơ chứ. Ngươi chẳng những đã bỏ thứ gì đó vào rượu mà còn dám làm đứt xích câu hồn?”

    Nói thật thì lão quỷ đã bị Lan Hà đấm cho một cú ngu người, dọc đường lại bị tóm bay nhanh như gió, bây giờ vẫn chưa tỉnh táo lại hẳn. Lão nhìn thẳng vào Nghiêm Tam, nở nụ cười khinh miệt: “Ha ha!”

    Nghiêm Tam nổi quạu: “Ngươi còn dám cười ngu!”

    Lão quỷ: “??”

    Lão nhìn Lan Hà với vẻ ai oán, tại thằng nhãi này đánh lão phát choáng, làm lão cười thôi cũng mất tự chủ!

    Lan Hà giơ nắm đấm lên, thấy lão sợ cun cút bèn nói với Nghiêm Tam, “Đừng răn đe lão làm gì… Để tôi thử cái đã.”

    Anh chần chờ, lấy dây ngũ sắc Liễu Thuần Dương tặng, lại lấy một tờ giấy trong lòng ra, xoắn giấy vài lần, thắt đầu lại, dùng bút tô đen, sau đó nối vào phần đuôi của xích câu hồn của Nghiêm Tam.

    Sửa sang lại như thế, chẳng mấy chốc sau đã trông ổn thỏa rồi.

    Nghiêm Tam vừa mừng vừa hãi, xách lên: “Cái này mà cũng sửa được?”

    Gã lấy làm kinh ngạc nhìn Lan Hà, đây không chỉ là máy in tiền mà còn là xưởng chế tạo binh khí nữa!

    Gã cầm lòng không đặng hỏi: “Cậu có nghĩ đến chuyện đi ăn máng khác không? Không đúng, phải nói là điều đến đô phủ chớ. Âm ty Đông Nhạc cũng là âm ty, nói trắng ra cũng là một trong mười điện, phát triển thế nào cũng là tốt cho đô phủ cả.”

    Không ngờ anh Nghiêm Tam và lão Bạch chỉ là anh em ngoài mặt thôi, còn lén mồi chài kia kìa…

    Nhưng Lan Hà còn chẳng thèm làm đúng chức của mình, huống chi là đi ăn máng khác.

    Lan Hà cười khì, “Anh như này là hơi bị mất nết đấy nhé.”

    Nghiêm Tam chẳng ngượng, “Công là công, tư là tư.”

    Cái câu này còn được dùng như vậy à? Lan Hà không thèm đếm xỉa đến nữa: “Cái giấy này tôi mượn từ cảnh sát dương gian đấy, chắc là có thể dùng tạm được. Đây cũng là lần đầu tiên tôi thử làm, anh cứ phục mệnh trước rồi bàn sau.”

    Nghiêm Tam mừng rỡ, “Được được, hôm nay Tiểu Lai đã cứu ta một lần, chứ không có khi Phán quan sẽ phạt ta mất.”

    Lan Hà đắn đo: “Anh Tam phải chú ý thêm đấy. Bị chuốc say một lần, có thể sẽ có lần thứ hai.”

    Nhưng không phải lần nào cũng gặp được người tốt bụng như tôi đâu.

    “Ừ… Nhớ rồi nhớ rồi.” Nghiêm Tam cười ngượng, đoạn trói lão quỷ chạy thoát vào dây xích mới sửa của mình, đổi sắc mặt, “Ơn lớn không lời nào cảm ơn xuể, lần sau ta tìm cậu uống rượu!”

    “Đi đi.” Lan Hà cũng khẽ thở phào, nhìn gã đi vào thành.

    Lúc bóng dáng Nghiêm Tam vẫn chưa chìm trong đám quỷ ảnh, Lan Hà xoay người lại thì cảm thấy góc áo mình bị giật giật.

    Anh cúi đầu xuống… Thôi được, có lẽ lừa giấy ở dưới cõi âm không nhiều lắm đâu nhỉ.

    “Sao mày lại ở đây?” Lan Hà hãy còn đang rất là ngạc nhiên, đoạn ngẩng phắt đầu nhìn xung quanh. Nếu con lừa què này ở đây thì anh ta…

    Giữa vô số quỷ ảnh đông nườm nượp, anh bắt gặp một người đàn ông đồ đen cao ráo đứng ở trong thành, đi ngược hướng với đám quỷ vào thành nên trông rất bắt mắt. Hắn cũng vừa lúc nhìn qua, bốn mắt chạm nhau từ xa.

    Là anh ta thật kìa?

    Lan Hà không ngờ lại gặp được Tống Phù Đàn ở đây. Hai lần trước là do xuất hồn, sao mà lần này xui xẻo bị kéo đến U Đô vậy nhỉ, đừng nói lần này ngủm củ tỏi thật rồi nhé.

    Lan Hà dắt con lừa què đi vào cổng thành, lúc đứng trước mặt, còn chưa kịp mở lời, Tống Phù Đàn nhìn chằm chằm cái miệng hé ra của anh, câu nói đầu tiên là: “Ta chưa chết.”

    Lan Hà: “…”

    “Ha ha ha.” Lan Hà cười thành tiếng, “Chúng ta gặp nhau đến lần thứ ba rồi, chẳng lẽ lần nào tôi cũng muốn hỏi anh là anh chết chưa hay sao?”

    Tống Phù Đàn nhìn anh, cũng lấy làm bất đắc dĩ…

    Nói mới nhớ, đã gần hai tháng trôi qua kể từ lần cuối họ gặp nhau, xuân đã lắc mình sang hè. Đột nhiên gặp lại, hắn tưởng chừng như mình được sống lại – Song sự thật là, bây giờ hắn đang đứng ngay rìa cái chết.

    “Nói đi, tại sao lần này lại đến tận U Đô vậy? Chỗ này chỉ cách cái chết có nửa bước thôi.” Lan Hà hỏi.

    Tống Phù Đàn không phải người sống đầu tiên đến nơi đây, một vài hồn người sống bị tóm nhầm cũng sẽ tới đây, Vô Thường làm việc không thể luôn luôn hoàn hảo được.

    Có vài người may mắn gặp được Thành Hoàng, Phán quan các kiểu thì sẽ được hóa giải hiểu lầm nhanh chóng, còn có thể về đúng lúc và sống lại. Kẻ nào xui hơn, không kịp đi qua thủ tục thì thảm rồi, chỉ đành đến thành Uổng Mạng. Khi hồn vía rời khỏi thân xác quá lâu, trời đất cũng hết cách.

    “Trúng kế.” Tống Phù Đàn chỉ giải thích qua loa bằng vài câu.

    Đối với hắn, chuyện đám quỷ cứ hay rình mò hắn là quá bình thường, ngặt nỗi lần này gặp phải một loài yêu tà quá ư xảo quyệt, dù không mê hoặc được hắn, cũng chẳng lay chuyển được hắn thì vẫn tìm cách len lén trói hắn vào xích câu hồn của quỷ sai, kéo thẳng xuống Hoàng Tuyền.

    Tống Phù Đàn không giãy nổi, cũng may con lừa què này bám theo hắn suốt dọc đường, lại nhảy nhót trước mặt quỷ sai nên mới thoát được. Chỉ là tên quỷ sai nọ không biết là do vội vàng đi phục mệnh hay rảnh quá mà bỏ quên hồn sống vô tình đi theo mình trong thành.

    Tống Phù Đàn sờ tràng hạt dưới áo, từ khi đến U Đô nó vẫn tỏa ánh sáng mờ ảo như dạ minh châu. Hắn điềm nhiên kể: “Ta vẫn chưa đợi được Thành Hoàng hoặc Phán quan nào, ban nãy vốn muốn xông vào, thà sau này bị âm phủ ghi nợ còn hơn là đến thành Uổng Mạng.”

    “Anh tài cao mà cũng gan dạ phết đấy!” Lan Hà nghe hắn kể, dù rằng ngữ điệu hắn bình tĩnh, song vẫn biết nguy hiểm ở đâu.

    Vả lại, hắn không phải chỉ gặp chuyện này một hai lần, mà là không ngừng bị quấy rầy, chỉ sơ sẩy tí thôi là uy hiếp đến tính mạng, đúng kiểu cứ mãi phát rồ quanh quẩn bên bờ vực sự sống và cái chết.

    Thảo nào đến tận Hoàng Tuyền rồi mà vẫn có thể bình tĩnh nhường ấy…

    “Xông vào vẫn có rủi ro, chi bằng đi với tôi thử xem.” Lan Hà đắn đo, dầu gì anh cũng là một Vô Thường, có lẽ vẫn xử lý được.

    Tống Phù Đàn chẳng hề do dự, đồng ý ngay.



    Lan Hà đang định hỏi Nghiêm Tam xem có cách nào không, nhưng Nghiêm Tam đã đi phục mệnh. Viết thư cho lão Bạch, y lại bận. Tống Phù Đàn đã quanh quẩn ở đây lâu mà vẫn chẳng được gặp, còn muốn xông vào. Thời gian không đủ, Lan Hà quyết định trực tiếp đi thẳng.

    Anh quấn xích câu hồn lên người Tống Phù Đàn, lừa què cũng bám gót theo sau, đi ra ngoài thành.

    Vào thành dễ ra thành khó, vả lại lúc Lan Hà đổi góc đi ra ngoài bèn phát hiện con đường lúc đến đã khác hẳn, tuy vẫn là bùn vàng nhưng phương hướng đã khác. Có lẽ là để đề phòng quỷ chạy trốn giữa chừng.

    Ở cổng, hai tên quỷ lại áo xanh thoạt trông uể oải cản cả hai lại, vào thành nhiều ra thành ít, đa phần là có công chuyện. Tống Phù Đàn cực kì nổi bật, họ chỉ vào Tống Phù Đàn: “Quỷ không được ra khỏi thành!”

    Lan Hà trưng bản mặt bình tĩnh đáp: “Ngại quá, đây là hồn sống ta lỡ dẫn tới, đang định đưa anh ta về.”

    Quỷ lại nhìn Lan Hà, một quỷ sai hàng thật này. Một tên trong đó bèn hỏi: “Đã qua thủ tục, được phê chuẩn giấy phép chưa?”

    Quả nhiên dù Lan Hà có là quỷ sai thì vẫn phải qua thủ tục cái đã, vả lại thủ tục rất chi là rườm rà, lấy ví dụ như cái giấy phép đi đường chính tông treo tượng Diêm La, phía dưới phải có ba cái ấn lần lượt là của Diêm La Vương, Thành Hoàng U Đô và huyện phủ.

    Tống Phù Đàn căn bản không đợi kịp.

    Lan Hà cũng không hoảng, bày tờ điệp của mình ra, “Ngại quá, ta là Vô Thường của âm ty Đông Nhạc, đến chỗ này để tìm Vô Thường Nghiêm Tam có việc, quỷ này là ta lỡ dẫn tới, ban đầu bảo đứng đợi bên ngoài mà bất cẩn đi vào. Nếu có báo sai lên thì ta cũng phải về Đông Nhạc báo chứ. Hai vị à, ta đã thấy hai người trò chuyện với anh Nghiêm Tam rồi, mọi người quen nhau cả mà, châm chước tí đi.”

    Lan Hà nhét vài cái đĩnh vàng qua, may là anh có chuẩn bị chút đỉnh mang theo người vì cái đám mất nết kia.

    Một tên quỷ lại áo xanh trong đó nhận đĩnh vàng, thấy chất lượng cái là mừng húm, “Hóa ra là người bên âm ty Đông Nhạc, xem ra dạo này chỗ các ngươi thu hoạch kha khá đấy. Bình thường bọn ta vất vả lắm…”

    Lan Hà hào phóng, tên đó đột nhiên nổi lòng tham, cảm thấy đĩnh vàng này vẫn chưa đủ.

    Lúc nói câu này, tên đó vẫn đứng chôn chân ngăn ở cửa, nhìn Lan Hà với ánh mắt ám chỉ.

    Lan Hà im bặt, “Thật ra ta cũng sống chẳng mấy khá giả, không thì cứ để anh ta ở lại thành tiếp thôi.”

    Anh im ỉm vươn tay giật đĩnh vàng trong tay quỷ lại tham tiền kia.

    Quỷ lại: “…”

    Lan Hà: “…”

    Thả tay ra đi chứ… Không chịu làm gì còn muốn lấy tiền à? Lan Hà dốc sức giật tiếp…

    Quỷ lại tham tiền hô lên: “Bố ơi gượm đã!”

    Lan Hà: “???”

    Quỷ lại tham tiền cười khà hai tiếng, thừa cơ Lan Hà sửng sốt bèn nhanh chóng nhét đĩnh vàng vào lòng.

    Lan Hà: “…”

    Quỷ lại tham tiền cười toe toét: “Mọi người đều là người dưới âm phủ, cần gì phải căng thế. Không phải chỉ là dẫn lầm một hồn sống bé nhỏ thôi à, chỉ cần ngươi viết một tờ chứng minh để lại đây là được, miễn cho sau này gặp phiền phức, không biết phải đi đâu tìm ngươi.”

    “Cái này dễ ợt.” Lan Hà hí hửng, viết chứng minh hoàn toàn không thành vấn đề, Tống Phù Đàn là hồn sống thật mà.

    Nhưng ngay lúc này, tên quỷ lại áo xanh nãy giờ vẫn im lặng cũng cất lời: “Đợi đã, tên này đeo Phật châu thì sao lại là quỷ ở âm ty Đông Nhạc các ngươi được?”

    Tràng hạt này xuống cõi âm vẫn luôn tỏa sáng lờ mờ, không phù hợp với một U Đô hội tụ âm khí, căn bản không giấu nổi.

    Lan Hà nhất thời cứng lưỡi. Đúng vậy, dù rằng bây giờ ai nấy đều là cùng một “tập đoàn” rồi, nhưng quy củ chốn giang hồ ấy mà, vẫn ngấm ngầm thừa nhận có ma quỷ với những tín ngưỡng rõ ràng, ngoài mặt chia ra nơi nhận nơi xử.

    Phải giải thích vụ này sao đây…

    “Đây không phải Phật châu mà là vòng mua chơi thôi.” Tống Phù Đàn bất thình lình đáp. Hắn hơi hếch cằm, giọng điệu thành khẩn đến khó tin.

    “…” Lan Hà chậm rãi quay đầu nhìn hắn, có hơi muốn cười.

    Quỷ áo xanh lại lấy làm bất ngờ, “Gì cơ, nó đang tỏa Phật quang kia kìa, hiển nhiên là do một cao tăng có Phật hiệu uyên thâm coi sóc cho mới trở thành pháp khí!”

    “Ta không biết, ta chỉ mua thôi.” Tống Phù Đàn chắp một tay ra sau lưng. Chỉ nhìn mỗi gương mặt bình tĩnh và nghe ngữ điệu hòa nhã của hắn thôi là người ta đã khó lòng nảy sinh suy nghĩ phản bác trong đầu rồi, “Đây là Phật quang ư? Ta tưởng là sáng do bao tương* chủ nhân trước chà* mà ra.”

    (*Bao tương là một thuật ngữ trong giới đồ cổ, ý chỉ rằng các đồ cổ bị ô-xi hóa trong thời gian dài mà hình thành một lớp ô-xi hóa khiến bề mặt nó sáng bóng một cách tự nhiên. Càng để lâu thì bao tương càng dày, càng sáng.

    *Người ta tin rằng khi đeo tràng hạt, nếu úp bằng hai lòng bàn tay và chà nó thì sẽ tạo ra bao tương, khiến chuỗi hạt sáng bóng hơn.)

    Quỷ lại áo xanh: “…”

    Lan Hà cố gắng nhịn cười, lại kì kèo: “Đúng, đúng vậy, anh ta là một người thích chà hạt, chẳng liên quan gì đến tín ngưỡng cả. Anh à, anh cũng nhận tiền rồi mà, ta đưa chứng minh cho anh, anh thả ta về phục mệnh nha?”

    Quỷ lại tham tiền kia vò đầu, cảm thấy không phản bác nổi, “Chuyện này… Đi đi, đi đi.”

    Quỷ lại còn lại liếc bọn họ với cái nhìn bặm trợn, cứ bám dai như đỉa: “Chỉ với một chút tiền cỏn con đó, dù có mang cái danh của âm ty Đông Nhạc thì đã sao? Muốn trên đường Hoàng Tuyền địa phủ ta? Có biết đường Hoàng Tuyền, quỷ môn quan, mười người cả mười khó quay lại không?”

    Lan Hà càng nghĩ càng thấy hắn ta khác với những kẻ khác, hắn ta không chú trọng đến tiền bạc.

    Vả lại chẳng biết tự bao giờ mà có kha khá quỷ xáp lại hóng hớt, chúng còn xì xồ bàn tán, trong đó có những từ mấu chốt như cõi âm, địa phủ các thứ.

    Nghĩ đến chuyện tuy rằng hai ty sớm đã hợp lại thành một, quỷ sai dưới cấp còn lui tới với nhau nhưng cũng chẳng thiếu xung đột, mỗi quỷ khác nhau mà.

    Lan Hà ngẫm nghĩ cẩn thận rồi nói ngay: “Tuy ta không đại diện cho cả âm ty Đông Nhạc nổi, nhưng tại sao vẫn không thể bước lên đường Hoàng Tuyền?”

    Mặc dù anh nhậm chức chưa được bao lâu, cũng không có lòng trung thành, nhưng mặc cho lão Bạch có mất nết đến đâu, anh cũng không thể gài lão Bạch để chúng quỷ thừa cơ chửi âm ty Đông Nhạc được. Vả lại, lẽ nào anh chẳng biết xù lông chắc?

    Bởi vậy, Lan Hà nói tiếp: “Ta không có gì ngoài tiền hết. Nếu thiếu tiền, ta thực sự có thể quyên góp để giúp xây dựng đường Hoàng Tuyền, chứ con đường này của các anh toàn là nước bùn cả, nhão nhoét quá. Đã bao giờ nghe câu ‘Muốn giàu, phải sửa đường trước’ chưa?”

    Quỷ lại áo xanh: “???”

    Đám tiểu quỷ hóng hớt cười thành tiếng. Đường Hoàng Tuyền khó đi không phải chuyện mới một trăm, hai trăm năm nay, không tu sửa là do cố ý cả. Cái tên Vô Thường Đông Nhạc này nói lảng đã đành, miệng còn biết khịa thế chứ lị!

    Vẫn chưa hết đâu, Lan Hà cười gian: “Vậy ta có tư cách đi rồi nhỉ. Nhưng dựa theo quy củ của giang hồ thì có phải đường Hoàng Tuyền này cũng sẽ phải đổi tên thành đường Ngài Đến để tỏ lòng biết ơn không?”

    Quỷ lại áo xanh: “…”

    *Tác giả:

    Quỷ lại áo xanh: Tui tức mà tui ngất xỉu luôn á, hai cái tên này sao mà đứa này mở mồm còn mất rại hơn đứa kia vậy?
     
  16. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 15: Nhân Vật Chính Tên Là Tiểu Lai

    Tên quỷ lại áo xanh bị Lan Hà chọc tức nổ phổi, cả giận quát: “Ai muốn ngươi giúp xây chứ, ai muốn!”

    Đám quỷ hóng hớt xì xà xì xồ, ai nấy đều đang ngóng drama. Hắn ta càng xị mặt xuống… mà đúng là xị đến tận ngực thật, đoạn gào lên: “Nhìn cái gì, các ngươi nhìn cái gì! Còn nhìn nữa thì xéo đến thành Uổng Mạng luôn đi!”

    Xoẹt, quỷ ảnh thoắt cái biến mất, chẳng dám hóng hớt nữa, nhưng chúng đã nhớ kĩ Vô Thường Lan Hà này rồi.

    Lan Hà từ tốn nói như không có chuyện gì xảy ra: “Là chính anh bảo ta không có tư cách bước chân lên trước. Sao, không đùa được nữa à?”

    Quỷ lại áo xanh: “…”

    Lan Hà lại cố tình, “Đùa mấy câu thôi mà, bỏ qua đi. Bây giờ ta đi được chưa?”

    Mọi người thuộc hệ thống khác nhau, quỷ lại áo xanh đành bó tay với anh, nếu tố cáo có khi mình còn bị mắng nữa là… Thật ra nếu hắn ta gọi cấp trên đến thật thì sẽ giải quyết được vấn đề của Lan Hà, Tống Phù Đàn không phải lo không tìm thấy quan viên địa phủ để chứng minh hắn là hồn sống.

    Chỉ thấy quỷ lại áo xanh hừ một tiếng, liếc xéo Lan Hà một cái, xoay người đi không nói một câu.

    Tên quỷ lại tham tiền mắt láo liên, cười làm lành: “Mấy câu đùa thôi ấy mà, không phải để bụng quá. Người anh em hãy bớt giận…”

    Quỷ lại áo xanh còn chưa kịp hừ thành tiếng thì tên này lại nói với Lan Hà: “Mời bố về ạ.”

    Quỷ lại áo xanh: “…”

    Hắn ta quay đầu nhìn đồng nghiệp bằng ánh mắt căm tức, biết tỏng tên này cố tình.

    Lan Hà buồn cười, tên quỷ lại này rất có lập trường ấy chứ — Mặc xác mày là người địa phủ hay âm ty, chỉ cần cho tiền là sẽ được làm bố tao. Anh bèn chắp tay, “Vậy cảm ơn nhé!”



    Lan Hà và Tống Phù Đàn cùng nhau dắt lừa bước chân lên con đường Hoàng Tuyền lầy lội dài dằng dặc.

    “Vậy tức là… Nơi ngươi làm việc không phải ở đây?” Mặc dù Tống Phù Đàn xuất hồn nhiều lần, nhưng không phải đã chết nhiều lần, bởi vậy không biết mối quan hệ giữa âm tào địa phủ và âm ty Đông Nhạc.

    “Tôi ở âm ty Đông Nhạc.” Dù rằng Lan Hà chưa từng đến âm ty Đông Nhạc bao giờ, “Anh có biết đó là một nơi như thế nào không?”

    Thấy Tống Phù Đàn lắc đầu, Lan Hà lại nói, “Nhưng chắc anh biết mối quan hệ giữa các miếu Thành Hoàng và âm tào địa phủ nhỉ?”

    Tống Phù Đàn gật đầu: “Là chính quyền địa phương và trung ương.”

    Mỗi một thành phố sẽ có chính quyền của âm phủ, cũng tức là miếu Thành Hoàng. Miếu Thành Hoàng sẽ bị chia ra thành các cấp: Có Huyện Thành Hoàng, Châu Thành Hoàng, Phủ Thành Hoàng, về cơ bản sẽ tương ứng với huyện, thành phố, tỉnh ở trên dương gian. Âm tào địa phủ là trụ sở chính, tọa lạc tại U Đô, cũng tức là thủ đô của âm phủ.

    Lan Hà: “Vậy âm ty Đông Nhạc sẽ được xem là nhà cầm quyền tiền nhiệm, thuộc về hệ thống Đạo giáo. Còn âm tào địa phủ hiện nay có lai lịch từ Phật giáo, sau khi thế lực bành trướng bèn sáp nhập cả âm ty Đông Nhạc vào, trở thành một điện trong mười điện âm phủ. Do vẫn chưa hoàn toàn hòa nhập với nhau nên chúng tôi vẫn thích dùng cái tên cũ là âm ty Đông Nhạc. Nếu buộc phải nói thì thật ra phải là ‘Điện thứ bảy’, người đứng đầu Điện thứ bảy là Thái Sơn Vương của bây giờ, cũng tức là Phủ quân Thái Sơn ngày xưa.”

    “Anh xem, vì vấn đề lưu truyền lịch sử mà hiện nay cứ là người có tín ngưỡng, nếu là tín đồ Đạo giáo sẽ đến Đông Nhạc, tín đồ Phật giáo sẽ về địa phủ. Sau này nếu anh chết, chắc cũng sẽ không đến âm ty Đông Nhạc chúng tôi đâu…”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Nhắc đến chuyện chết làm hắn bỗng dưng dở khóc dở cười, lại thấy hơi hụt hẫng.

    Lan Hà không biết hắn đang nghĩ gì, chỉ ra đằng trước: “Ôi, anh xem đầu kia có cái gì kìa.”

    Đường lúc đến và đường lúc đi hoàn toàn khác nhau. Lúc đến, quỷ ảnh chồng chéo lên nhau, vô số u hồn vất vưởng nơi đây; nhưng đường lúc đi lại trống trải đến độ Lan Hà vừa liếc mắt một cái là đã trông thấy một cửa hàng ven đường.

    “Hoàng Tuyền không có nhà trọ, tối nay qua đêm chốn nào?”

    Trên đường Hoàng Tuyền không có nhà trọ, mà chẳng hiểu tại sao bỗng dưng mọc ra một cái tiệm ăn, lẽ nào mở riêng cho quỷ sai?

    Tống Phù Đàn nghĩ bụng, xem ra y rất hiếm khi xuống địa phủ, trông chẳng quen đường xá cho lắm.

    Tiệm ăn nọ trông rất giống tiệm ăn ở dương gian, ngoài cửa có lồng hấp, còn có thớt, ông chủ đang băm thịt, thấy họ bèn hét to: “Bánh bao thịt mới ra lò đây, bánh bao thịt bố thí đây!”

    Ý chỉ bánh bao thịt miễn phí.

    Ông chủ nhoẻn miệng cười với cả hai: “Muốn bánh bao thịt không? Bánh bao thịt mới hấp đây.”

    Ông chủ cười chân chất, song Tống Phù Đàn và Lan Hà lại không dám nhận cái bánh bao nọ.

    Ăn thức ăn của âm phủ không đến nỗi không quay về được, nhưng chẳng mấy chốc sẽ gặp chuyện. Bây giờ nhìn thì ngon đấy, chứ bao giờ đến dương gian, đó toàn là những thức đồ hư thối bị gác lại lâu ngày, ăn vào bụng mấy thứ này, không chết cũng mất nửa cái mạng.

    “Không ăn thật sao? Đường hồi hồn còn dài lắm, không ăn no sao đi được.” Ông chủ mời chào.

    “Sao ông biết anh ấy hồi hồn?” Lan Hà bỗng hỏi.

    Ông chủ mắt sáng quắc, nói liến thoắng: “Ừ thì, ngài áp giải mà, lẽ nào không phải là đi hồi hồn…”

    Cũng chưa chắc, lỡ là đưa đi âm ty Đông Nhạc thì sao? Lan Hà nhìn kĩ ông chủ này với ánh mắt hoài nghi. Có phải người này… là người mà tên quỷ lại áo xanh kia ghi hận rồi phái tới?

    Đằng nào với cái mắt nhìn chuyên nghiệp của anh, diễn xuất của ông chủ này có hơi tệ. Không phải do quỷ lại phái tới thì cũng là không có ý tốt, có khi ghen tị vì người ta có thể hồi hồn cũng nên.

    Ông chủ cố gắng giữ nét mặt tươi tỉnh: “Còn có nhân rau nữa…”

    Ông ta cố tình lấy một cái bánh bao từ trong lồng ra rồi đưa ra trước mặt Tống Phù Đàn, nói bằng ngữ điệu cám dỗ: “Ngửi xem, cậu ngửi xem.”

    Mùi hương đó cực kì cuốn hút, song Tống Phù Đàn chỉ lạnh lùng nhìn thoáng qua, chẳng bị ảnh hưởng tí nào.

    Hắn sống hai mươi mấy năm dưới sự nhòm ngó của bầy quỷ, làm sao một cái bánh bao thịt chỉ bỏ chút nguyên liệu là có thể hấp dẫn hắn được?

    Tống Phù Đàn nói: “Đi thôi.”

    Mặt ông chủ toát lên vẻ thất vọng, sao có nghị lực dữ vậy…

    “Gượm đã.” Lan Hà chẳng chịu đi, “Ông chủ này, ta hỏi ông, chỉ bán mỗi thịt được không?”

    Ông chủ thấy có đường xoay chuyển bèn mừng húm, nhưng vẫn thấy là lạ, bởi vì thoạt trông rõ là họ đã nghi ngờ ông ta rồi, đoạn nói bằng giọng do dự: “Cũng được…”

    Tống Phù Đàn còn tưởng y bị mê hoặc, nhưng nhìn kĩ lại thì mắt y vẫn tỉnh táo lắm. Đó là muốn cho bản thân ăn nhỉ, đằng nào âm sai cũng đâu sợ mấy cái này.

    Lan Hà: “Vậy ta muốn năm cân thịt nạc, thái thật mỏng, đừng để ta thấy mỡ trên thịt.”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Ông chủ: “……”

    Ông chủ suýt quỳ mọp xuống, “Quan lớn à, tôi không biết thái như vậy đâu, tôi bán bánh bao thôi mà, ngài đi tìm nơi khác đi!”

    “Từ từ, mới nãy ông còn nhận lời mà, chưa gì đã đổi ý à.” Lan Hàn xách cổ áo ông ta lên, bắt chước lệ quỷ mình từng gặp mà nói một cách bặm trợn, “Ông giỡn mặt với ta chắc?”

    “Tôi sai rồi tôi sai rồi, tôi sai thật rồi, tôi chỉ chịu ủy thác của quỷ thôi.” Ông chủ thấy mắt Lan Hà toát lên vẻ hung dữ, từ sâu trong linh hồn đã sợ chết khiếp, nói toạc ra hết, “Lần sau sẽ không dám nữa.”

    “Vậy ông thái thịt ta muốn cái đã.” Lan Hà vẫn chẳng bỏ qua, “Trừ năm cân thịt nạc, còn thêm năm cân thịt mỡ, năm cân xương sụn, tất cả đều được thái thành lát, tách hẳn ra, không được để dính vào nhau một chút nào. Sau đó đưa hết cho kẻ kia, bảo là cho hắn làm sủi cảo mà ăn.”

    … Vẫn chạy trời không khỏi nắng. Ông chủ bị hù dọa rưng rưng gật đầu: “Huhu, vâng…”

    Vẻ dữ dằn của Lan Hà bị thu lại, nhập vai thoát vai hết sức tự nhiên: “Vậy ông đi đi.”

    Ông chủ ngẩn ra, càng thấy sợ té đái. Vô Thường Đông Nhạc này đổi mặt nhanh hơn lật sách, chẳng biết lúc sinh thời là ai!

    “Đi thôi.” Lan Hà tỏa khí thế ra xong bèn kêu Tống Phù Đàn đi tiếp.

    Tống Phù Đàn cười khẽ lắc đầu: “Trông thế này thì ngươi đúng là một mãnh tướng.”

    Lan Hà chống nạnh cười hơ hớ: “Đâu có đâu có.”

    Hai người lại đi thêm một đoạn, đằng trước xuất hiện đường rẽ. Lan Hà nhìn kĩ nhưng không phân biệt nổi nên đi bên nào.

    Đường Hoàng Tuyền khó đi, nhưng đó là đối với vong hồn bình thường mà thôi.

    Song, Lan Hà là Vô Thường, anh không nên có cảm giác bị lạc này mới đúng chứ, cứ như anh muốn đi lên đường Hoàng Tuyền, đi được ba bước rưỡi thì bỗng dưng thấy mình đang bước trên đường Hoàng Tuyền rồi.

    “Vẫn chưa nhận được nhân sủi cảo à, sao vẫn chèn ép mình vậy nhỉ.” Lan Hà lẩm bẩm, “Đúng là tiểu quỷ khó chơi.”

    Tống Phù Đàn nhìn anh.

    Dù không nói năng gì nhưng Lan Hà vẫn chợt ngộ ra ý của hắn: “Tôi không phải tiểu quỷ. Anh quên rồi à, mới nãy chính miệng anh đã bảo tôi là mãnh tướng mà.”

    Tống Phù Đàn bật cười.

    Chính vào lúc này, từ sâu trong một con đường loáng thoáng truyền tới âm thanh hùng hậu, trầm lắng và du dương, “Coong…”

    Tống Phù Đàn nghe thấy tiếng chuông bèn nói: “Là người nhà ta gọi hồn.”

    Lan Hà mừng thay, “Tiếng gì mà có thể truyền xa như vậy?”

    Tống Phù Đàn đáp: “Tiếng chuông.”

    Dư âm tiếng chuông hãy còn văng vẳng, ngân mãi không thôi.

    Lan Hà cũng tạm thời không nghĩ gì nữa. Cả hai rảo bước nhanh hơn về phía âm thanh nọ, bất giác bước đến dương gian, quanh người bừng sáng hẳn.

    Có điều họ chẳng xuất hiện ở miếu Thành Hoàng mà lại là ở một ngã tư đường, cách đó không xa là chùa Giác Tuệ.

    “Hóa ra là tiếng chuông của chùa Giác Tuệ?” Lan Hà giật mình.

    Cái chuông cổ hơn mười tấn của chùa Giác Tuệ được xưng là vua của các loài chuông, đã có lịch sử sáu trăm năm, nghe nói tiếng chuông có thể vang xa hơn mười dặm, âm cuối dài hơn hai phút.

    Chỉ là Lan Hà không biết tiếng chuông này có thể truyền xuống dưới u tuyền.

    Từ Quý hãy còn đứng ở chỗ cũ đợi Lan Hà, thấy anh đến bèn vội vã bước tới: “Ngài Đến ơi, ngài đã quay về rồi, có thuận lợi không?”

    Tống Phù Đàn nghe ông ta gọi y mới sực nhớ dạo trước y cũng tự xưng là ngài Đến với âm sai khác, bèn nghĩ bụng, hóa ra gọi là “Đến” à.

    “Xem như thuận lợi.” Lan Hà lại dặn dò Từ Quý sau này sống cạnh đây tu hành, nhất định phải mỗi ngày hướng về phía dưới… Sớm ngày xuống địa phủ.

    Dứt lời, Lan Hà nhìn sang phía Tống Phù Đàn. Anh cũng nên quay về rồi, chỉ là vào thời khắc chia tay này, bầu không khí khẩn trương và sôi nổi ban nãy lúc đi trên đường Hoàng Tuyền chẳng còn sót lại chút gì, “Tôi còn phải làm việc, tự anh về đi nhé, bảo con lừa giấy kia đưa anh về…”

    Thật ra lúc này vẫn là nửa đêm, nhưng anh phải dậy sớm trang điểm quay phim, thời gian sắp không còn kịp.

    Tống Phù Đàn tiu ngỉu như hụt hẫng: “Ừm, tạm biệt…”

    Tống Phù Đàn dõi mắt nhìn y đi xa dần, ánh mắt ảm đạm vài phần. Lần trước từ biệt là hai tháng, lần này không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau.

    Thử nghĩ mà xem, nếu người ta không phải Vô Thường thì hai người với tuổi tác cách nhau hàng trăm năm trời không thể quen biết được. Chẳng qua cũng bởi vì lẽ đó mà chia cách âm dương, không phải đồng loại. Thậm chí ngay cả sau khi hắn chết, hắn cũng sẽ không đi báo tên ở âm ty Đông Nhạc.



    Tống Khởi Vân đỡ Tống Phù Đàn dậy, “Tỉnh rồi hả? Thầy Tư Không nói lần này hơi nguy hiểm, may là pháp sư Bất Động tự mình gõ chuông cổ dẫn con về.”

    “Vâng.” Tống Phù Đàn chỉ đáp gọn.

    Tống Khởi Vân muốn nói lại thôi, ông cứ cảm thấy con trai mình nặng trĩu tâm sự. Song, con trai chưa bao giờ kể những gì đã diễn ra ở âm phủ với họ, có lẽ hỏi cũng phí công.

    Tống Khởi Vân đành phải hỏi sang một câu tẻ nhạt hơn: “Dàn ý lần trước con viết ấy, cái cậu thiếu niên vai chính đó đã đặt tên chưa? Bố vẫn đang cân nhắc đến chuyện đặt cho cậu đó một cái tên…”

    Tống Phù Đàn cắt ngang lời ông: “Tên là Tiểu Lai.”

    .

    .

    “Lan Hà? Lan Hà? Ngủ mà như chết vậy?”

    Lan Hà xoay người thức giấc bèn thấy Trình Hải Đông đang lẩm bà lẩm bẩm, chuông báo thức đã kêu mất một lúc lâu, “Chưa gì mà anh đã tỉnh rồi?”

    Bình thường Trình Hải Đông toàn nằm ườn cho đến đúng mười lăm phút cuối cùng.

    “Nó đánh thức anh dậy từ bảy đời rồi.” Trình Hải Đông ngáp một cái, “Chú không nghe thấy tiếng chuông à? Anh còn đang lướt weibo, cứ nhủ tại sao lại nghe tiếng chuông cổ nhỉ.”

    “À à.” Lan Hà vội đáp, “Có lẽ là hòa thượng nhìn lầm giờ?”

    “Không thể nào, chuông cổ của chùa Giác Tuệ đã sáu trăm tuổi, bình thường không được gõ tùy tiện, chỉ gõ đúng ba lần vào dịp đón năm mới thôi. Bình thường mọi người đi cầu phúc toàn gõ chuông thường chùa đưa cho. Đêm nay tiếng chuông ngân xa xăm, chỉ có thể là chuông cổ. Nhưng cái giờ này làm sao nhìn lầm được, bây giờ cũng chẳng phải Tết nhất gì. Tiếng chuông lúc nửa đêm nghe lạ quá.”

    “Vậy à…” Lan Hà không biết quy định này thật, nếu là vậy thì quan hệ giữa “anh ta” và hòa thượng ở chùa Giác Tuệ rất tốt nhỉ, mà cũng phải thôi, trên người còn có tràng hạt của cao tăng mà.

    Trình Hải Đông vẫn đang kể bằng giọng bí ẩn: “Đúng rồi, trên cái chuông cổ này có khắc hàng trăm loại kinh văn, tận mấy trăm nghìn chữ, cho nên lúc nó vang lên chẳng khác gì đọc hết toàn bộ kinh văn một lượt, ban đầu đúc nó ra là để siêu độ vong hồn mà. Chú nói xem, có phải tối qua người ta đang siêu độ cái gì không?”

    Lan Hà: “Cũng có thể cũng có thể.”

    Trình Hải Đông nghe cái giọng hời hợt này của anh là tụt hết cả hứng.



    Ban ngày, Lan Hà và Trần Tinh Dương diễn cảnh tay đôi, vừa được nghỉ cái là trợ lý của Trần Tinh Dương đi qua nói: “Anh Dương, chị Tinh Ngữ đến rồi, em đón chị ấy đến khách sạn nhé.”

    “Được.” Trần Tinh Dương gật đầu, lại quay sang giải thích cho Lan Hà đang tò mò nhìn mình hay chuyện, “Chị gái anh và đạo diễn Liễu đã hẹn với nhau qua làm khách mời, coi như Easter Egg*.”

    (*Easter Egg chỉ chi tiết thú vị nếu không để ý sẽ dễ bị bỏ qua. Ví dụ như trong phim hoạt hình Disney có hiden mickey hoặc sự xuất hiện của các nhân vật thuộc về series khác dưới dạng tượng gỗ hoặc tranh ảnh. Tên này được cho là bắt nguồn từ trò tìm trứng phục sinh.)

    Trần Tinh Ngữ vừa mới sinh con xong, không thể tham gia diễn được, nhưng vì đã từng hợp tác với Liễu Thuần Dương nên nhận lời sang làm khách mời.

    Hóa ra Trần Tinh Ngữ sắp đến, Lan Hà có hơi hiếu kì. Đó cũng là đàn chị của anh, là một diễn viên tiền bối rất được yêu thích.

    Bẵng đi một lúc lâu, Trần Tinh Ngữ mới xuất hiện. Chị bắt tay với Liễu Thuần Dương trước rồi mới uể oải nói: “Cháu xin lỗi, bé con cứ khóc mãi, ban nãy mới ngủ.”

    Em bé hãy còn quá nhỏ, bây giờ đang được ông bố kiêm người đại diện của Trần Tinh Ngữ ở lại khách sạn trông nom.

    Trần Tinh Dương giản dị dễ gần hơn, bạn bè quây quần, còn Trần Tinh Ngữ lại có vẻ khác, xử sự không quá nhiệt tình, thậm chí có thể nói là lầm lì, thường hay bị tung tin ai đó bị chị nhẫn tâm ngáng đường.

    Bởi vậy, tuy sở hữu một gương mặt giống Trần Tinh Dương đến bảy tám phần, nhưng chị lại đem đến cho người ta cảm khác hoàn toàn khác.

    Lan Hà bắt tay với chị qua sự giới thiệu của Trần Tinh Dương cũng cảm giác mình sắp bị đông cứng chết.

    Liễu Thuần Dương và Trần Tinh Ngữ chuyện trò: “Con cháu vẫn khóc mãi à? Thấy hồi trước cháu đăng trong vòng bạn bè bảo sau khi sinh thằng bé vẫn chưa ngừng khóc, không phải là thổi phồng lên thật?”

    Trần Tinh Ngữ xoa mi tâm, “Vâng, tự dưng khóc vậy đấy ạ. Cháu hỏi bác sĩ mấy lần rồi mà vẫn chả nhìn ra vấn đề, cũng không dỗ nổi. Bà ngoại cháu nói khóc tròn một trăm ngày là tốt lên thôi, thế mà đến một năm ngày rồi mà con nó vẫn khóc.”

    Liễu Thuần Dương suy ngẫm, đoạn hỏi chị: “Cháu đi lên núi Diệu Cảm làm lễ tạ thần chưa?”

    Lan Hà vốn đang ngồi một bên chợp mắt nghỉ, nghe được ba chữ núi Diệu Cảm bèn dỏng tai lên nghe.

    Anh đã được lão Bạch phổ cập kiến thức nên biết là có thể cầu con cái ở núi Diệu Cảm, hoặc có thể nói rằng, hễ là xin ở bất cứ một hành cung nào của Bích Hà Nguyên Quân, người ta cũng có thể cầu xin con cái. Nơi nổi tiếng nhất đương nhiên vẫn là cầu con ở núi Thái Sơn. Việc này cũng được gọi là “Quấn búp bê” hoặc “Áp tử”.

    Bây giờ Liễu Thuần Dương hỏi như vậy thì tức là có khả năng Trần Tinh Ngữ đã từng đi cầu cầu con, đến nay vẫn chưa có tin đồn mà chỉ truyền tai nhau rất nhiều lần là Trần Tinh Ngữ chuẩn bị sinh con.

    Nói một cách cụ thể hơn về quấn búp bê. Trong hành cung của nương nương có kha khá búp bê, ngày xưa là búp bê bùn, bây giờ có cả búp bê thạch cao, búp bê sứ và búp bê nhựa.

    Phụ nữ cầu con sẽ thắp hương cầu nguyện ở đây, chọn một con búp bê rồi để đạo sĩ trong điện thờ quấn một cái dây đỏ lên cổ búp bê, một đoạn dây nối với tiền đồng. Đạo sĩ lay dây đỏ, dùng tiền đồng gõ khánh*, niệm chú là có thể bọc búp bê bằng vải đỏ, bảo người đó mang về nhà, xem như hoàn thành nghi lễ.

    (*Khánh ở đây là một loại nhạc cụ cổ của Trung Quốc.)

    Nếu mấy ngày sau linh nghiệm thật thì phải dâng lễ tạ thần, trả búp bê về.

    Trần Tinh Ngữ đáp: “Cháu trả rồi mà… Không liên quan gì đến việc này chứ?”

    Thật ra chính chị cũng không tin vào những chuyện này cho lắm, tại cố mang thai mà không được, người lớn trong nhà bảo cái này linh nghiệm nên mới đi… Núi Thái Sơn quá xa, núi Diệu Cảm cầu con rất nổi ở khu vực Bắc Kinh, vì lẽ đó mà chị thực sự không nghĩ sẽ liên quan gì đến cúng lễ tạ thần, vả lại chị trả rồi cơ mà.

    “Hỏi mới biết chứ, sao vẫn còn khóc vậy nhỉ.” Liễu Thuần Dương cũng bắt đầu suy nghĩ, bỗng nghĩ ra cái gì đó, “Cháu xin bao nhiêu lần, trả mấy con búp bê?”

    “Dạ?” Trần Tinh Ngữ đáp, “Cháu xin ba lần, trả một con, hai con trước đó vẫn đang ở nhà, cháu chỉ cầm một. Sao vậy hả chú, có vấn đề gì ạ?”

    — Xin ba lần, mà cũng chỉ có thể xin ba lần, quá tam ba bận. Hễ là người đi cầu xin con cái ở miếu của Bích Hà Nguyên Quân, ba tháng không linh nghiệm có thể đi thêm một lần nữa, nếu cứ lặp đi lặp lại hết ba lần mà vẫn không được thì không thể cầu xin thêm.

    Liễu Thuần Dương vỗ đùi cái đét, “Đương nhiên là có rồi. Cháu xin bao nhiêu lần, sau này sinh con ra rồi là phải trả về hết.”

    Trần Tinh Ngữ đáp: “Tại sao cơ chứ, cháu mới chỉ sinh có một đứa, tại sao phải trả cả ba?”

    Mọi người: “……”

    Liễu Thuần Dương túa mồ hôi như mưa, nhất thời cứng lưỡi, “Cái này, cái này… Quy định cũ là vậy… Ôi dào, cháu keo kiệt thế! Cháu còn muốn so đo hai đứa với nương nương hay sao!”

    Chẳng lẽ không phải là nương nương đang so đo với cháu ư? Trần Tinh Ngữ nhún vai: “Cháu chỉ nói vậy thôi. Nếu đã thế thì hôm nào cháu trả lại cả hai búp bê kia, hi vọng là có tác dụng.”

    Chị ngáp một tiếng, đứa trẻ này làm vợ chồng chị đau đầu khôn kể. Lúc nó tỉnh chủ yếu toàn khóc hết nước mắt, căn bản không có cách nào dỗ nín cả.

    “Phải, em muốn tan việc nhanh ghê, đã lâu em không được gặp Tiểu Miểu Miểu rồi. Nhóc con mít ướt này, có lẽ do trong tên có ba chữ Thủy nên mới thích khóc như thế.” Trần Tinh Dương chà tay.

    (*Chữ Miểu có ba chữ Thủy: 淼)

    Miểu Miểu là tên tục của bé con nhà Trần Tinh Ngữ, được đạo sĩ ở núi Diệu Cảm đặt cho. Dựa theo tập tục, cái tên này sẽ do họ viết trên giấy đỏ và mang đi cùng với búp bê, mang thai thành công là phải dùng.

    “Đúng rồi.” Trần Tinh Dương nhìn Lan Hà, trêu một câu, “Cậu về đừng có tới gần phòng của chị anh nhé. Bồ câu thấy cậu còn sợ, lỡ dọa cả cháu trai của anh thì sao!”

    *Tác giả:

    Tống Phù Đàn: Tui rơi nước mắt vì tình yêu của mình.
     
  17. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 16: Chú Dạy Anh Cổ Thuật Kia Của Chú Được Không?

    Nghe Trần Tinh Dương bảo vậy, Lan Hà cũng phì cười: “Cháu trai anh vốn đã khóc mãi không nín rồi, nó mà bị em dọa nữa có khi hết khóc thật.”

    Trần Tinh Dương: “Ha ha, vậy thì cậu tưởng bở rồi, bất kể anh có dọa hay giỡn thằng bé, nó vẫn khóc ré mãi không thôi.”

    “Bồ câu?” Trần Tinh Ngữ vẫn chưa biết vụ bồ câu này bèn hơi hoang mang. Lan Hà trông đáng yêu như này thì có bồ câu nào lại sợ cậu ta chứ?

    “Đám bồ câu sợ cậu ấy một phép đó. Thằng nhóc này kì lạ lắm. Lan Hà, cháu làm mẫu cho Tinh Ngữ xem bồ câu gặp là sầu là gì đi.”

    Lan Hà: “…”

    Đạo diễn Liễu bị sao vậy trời? Anh chỉ đành vác xác đi đến gần chuồng bồ câu của trường quay, vừa lại gần là bồ câu con nào con nấy lùi về như thủy triều, rúc vào nhau run lẩy bẩy, khá là có hiệu quả thị giác.

    “Sao giống như phim hoạt hình ấy nhỉ.” Trần Tinh Ngữ thấy thú vị, “Kì diệu ghê, cậu từng đắc tội với bồ câu à?”

    Câu hỏi này vẫn là một câu đố chưa được giải đáp của đoàn phim “Truy đuổi”…

    Liễu Thuần Dương bỗng hưng phấn: “Còn nữa còn nữa! Lan Hà, cái chuyện kia!”

    Trần Tinh Ngữ: “Còn loài động vật nào sợ cậu ấy nữa ạ?”

    Không phải động vật chị ơi. Lan Hà hoàn toàn hiểu được ý của Liễu Thuần Dương bèn nổi quạu: “Đạo diễn à, bồ câu thì thôi không nói, nhưng chú đừng cứ gặp người quen là bảo cháu chết một lần nữa đi!”

    Trần Tinh Dương nghĩ đến chuyện mình cũng từng chứng kiến “tài năng” của Lan Hà bèn không khỏi cười sằng sặc: “Ha ha ha ha ha! Đúng vậy, đạo diễn Liễu à, sao chú cứ giống như đang khoe con mình vậy? À nhưng mà con trai nhà người ta không biết chiêu này.”

    Đạo diễn Liễu phát cáu: “Cái gì mà con trai với chả không, thôi được… Vậy lần sau nếu Tinh Ngữ có rảnh thì có thể đến xem cảnh thằng nhóc này ngủm củ tỏi. Cậu ấy từng tập yoga, giả chết giống y xì đúc luôn.”

    “Yoga ấy ạ.” Trần Tinh Ngữ gật đầu, đoạn nhìn về phía Lan Hà, “Vậy…”

    Lan Hà: “Cũng không thể gác chân ra sau đầu được.”

    Trần Tinh Ngữ: “…”

    Trần Tinh Ngữ: “Tôi chỉ muốn bảo tôi cũng đang tập yoga, lần sau xin cậu chỉ dạy cho.”

    Lan Hà khẽ thở phào, anh bị hỏi phát sợ luôn rồi, “À à.”

    Anh nghĩ lại bèn cầm lòng không đặng mà hỏi: “Vậy chị có gác được chân ra sau đầu không ạ…”

    Trần Tinh Ngữ: “…”

    Ai nấy cười phá lên, trên gương mặt lạnh lùng của Trần Tinh Ngữ cũng hiện nụ cười dở khóc dở cười.

    Trần Tinh Ngữ chỉ đóng một vai khách mời với vài cảnh quay, chẳng mấy chốc đã quay xong, sau khi hết việc mọi người cùng nhau về khách sạn. Mới đến hành lang, họ chợt nghe thấy tiếng khóc ré lên của trẻ con từ trong một căn phòng mở cửa.

    “Miểu Miểu tỉnh rồi.” Trần Tinh Ngữ nghe là nhận ra tiếng khóc inh tai này ngay, bèn bước nhanh thêm mấy bước đi vào. Chồng chị đang định đút bình sữa vào – đó là sữa mẹ đã vắt ra từ trước – nhưng hiển nhiên đứa bé khóc òa lên không phải vì bị đói, bé cứ lắc đầu nguầy nguậy.

    “Để cậu thử xem nào.” Trần Tinh Dương rửa sạch tay, đoạn ôm Miểu Miểu vào lòng, ngặt nỗi dù đã nằm trong lòng anh ta rồi mà tiếng khóc ré của đứa trẻ vẫn chẳng thay đổi theo xu thế tốt hơn, rõ là bé cũng chẳng nhận cậu nó.

    Liễu Thuần Dương tự biết mình không phải một người biết cách đùa trẻ nên chỉ ngó mắt dòm: “Trông xinh trai đấy, còn chưa nẩy nở đã có thể nhìn ra cháu nó giống cháu rồi.” Ông dứt lời lại liếc sang bố bé con, “Đâu có mặt mâm như lão Lâm.”

    Lão Lâm đành chịu thua: “Mặt cháu to, mặt cháu to ạ.” Là chồng kiêm người đại diện của Trần Tinh Ngữ, bề ngoài anh ta cũng ổn áp đấy, có điều chắc chắn không nổi bật được như Trần Tinh Ngữ, mặt chỉ to một cách tương đối thôi mà vẫn bị Liễu Thuần Dương tuyệt tình cà khịa.

    Khen bé con xinh xong thì Liễu Thuần Dương lại gọi Lan Hà lại ngắm cùng.

    Lan Hà do dự.

    “Cậu lại đây, nhìn cháu trai anh này.” Trần Tinh Dương bảo, “Không phải chứ, hay là cậu sợ sẽ hù cháu trai anh thật?”

    Lan Hà chỉ còn nước đi lên trước mấy bước, thật ra trong lòng anh cũng không chắc mấy, ban nãy vẫn không dám tiếp xúc quá gần. Âm khí trên người anh có thể là điểm mấu chốt, trẻ nhỏ nhạy bén, có khi sẽ bị anh dọa như lũ bồ câu cũng nên.

    Anh dè dặt ngó khi còn cách hai bước, đúng là mắt to mũi cao, nhìn ra là thừa hưởng gen tốt, mặt mày nhăn nhó, mũi hồng hồng, trông có hơi đáng thương.

    Lan Hà vốn chỉ định nhìn một lát là thôi, nào ngờ Miểu Miểu gào khóc đến nỗi nước mắt rơi lã chã, khóc đến quên cả bản thân, nhưng sau hai giây khi Lan Hà ló mặt, mắt bé dần mở to ra, nhìn chằm chằm Lan Hà một lát, tiếng khóc bất giác nhỏ đi, dần dà tắt hẳn.

    “Hả?” Trần Tinh Ngữ và chồng ngạc nhiên cúi đầu nhìn, thằng bé này đã không còn khóc nữa thì chớ, lại còn bắt đầu cười toe toét. Bé cười khanh khách với gương mặt tèm lem nước mắt.

    “Con trai anh… lần đầu tiên cười đúng không em?” Lão Lâm nhìn vợ với vẻ không tin nổi.

    Trần Tinh Ngữ cũng mù tịt: “Đừng nói là cười, tự dưng nín khóc thế này cũng là lần đầu tiên.”

    Trần Tinh Dương vội đưa Miểu Miểu vào tay Trần Tinh Ngữ, “Sao bỗng dưng đỡ hơn vậy nhỉ? Bà ngoại bảo hồi còn bé hai chị em mình khóc tròn một trăm ngày mới đột nhiên ngừng khóc. Có khi một trăm ngày chỉ là áng chừng thôi, vì đã quá mấy ngày rồi mà.”

    Còn chưa kịp tự ngẫm xem logic trong câu nói này có đúng hay không thì Miểu Miểu vừa mới được ôm vào lòng Trần Tinh Ngữ lại khóc ré lên.

    “Có lẽ ban nãy nó chỉ mất tập trung thôi.” Lão Lâm tự giễu.

    Trần Tinh Ngữ: “…”

    Chị ôm Miểu Miểu, rất chi là đau đầu, chỉnh lại tư thế và góc ôm.

    Ai ngờ chỉ mỗi một động tác bâng quơ như vậy thôi mà tiếng khóc của Miểu Miểu lại tắt, vả lại lần này không phải dần dần ngừng mà im bặt ngay tắp lự làm chị bắt đầu nghi ngờ. Hửm?

    Liễu Thuần Dương đứng một bên, chứng kiến rõ ràng hơn bọn họ, lòng nhủ không thể nào, đoạn không khỏi cất giọng bảo: “Ờm, Lan Hà, cháu… xáp lại gần xem sao.”

    “Cháu?” Lan Hà bước lên phía trước với vẻ khó hiểu. Miểu Miểu thấy anh tới bèn mừng rơn, còn vươn tay định chạm.

    Trần Tinh Ngữ chợt nảy suy nghĩ, ban nãy chị chỉnh lại tư thế bế nên Miểu Miểu đối diện với Lan Hà, mà trước đó ngừng khóc cũng là vì…

    Miệng Trần Tinh Dương dần há hốc: “Gì vậy, Miểu Miểu… nhìn thấy cậu sẽ ngừng khóc?!”

    Nét mặt Trần Tinh Ngữ có hơi thay đổi, chị lắp bắp: “Ừm… Đàn em à, cậu có thể, thử coi sao được không…” Chị muốn đưa Miểu Miểu cho Lan Hà ôm thử một cái.

    “Em không biết bế đâu ạ.” Lan Hà cũng luống cuống, không biết chuyện là sao, vả lại anh cũng chỉ từng ôm vài đứa trẻ mấy tuổi đầu, chúng khác với trẻ sơ sinh, chỉ là anh lại không tiện từ chối trước mặt Trần Tinh Ngữ. Ngày nào vợ chồng Trần Tinh Ngữ cũng phải bận lòng bởi đứa bé này, sống chẳng mấy dễ chịu.

    Anh nơm nớp đỡ Miểu Miểu dưới sự chỉ bảo của Trần Tinh Ngữ, chỉ thấy Miểu Miểu bĩu môi, không cười nữa nhưng đã bước vào trạng thái im lặng đáng yêu rồi. Bé chớp hàng mi dài, lần đầu không khóc mà nhìn về phía bố mẹ và cậu của mình, dường như đang quan sát thế giới này.

    Trần Tinh Dương bị chấn động, anh ta tuyệt đối không ngờ rằng Lan Hà chẳng những không dọa cháu trai anh ta sợ mà ngược lại, cháu trai không khóc mà còn cười nữa là!

    “Ồ? Cháu buông tay ra, trả nó về xem.” Liễu Thuần Dương chỉ huy.

    Lan Hà bèn trả bé con về, Miểu Miểu tức thì òa khóc.

    “Bế lên bế lên.” Liễu Thuần Dương tiếp tục nói.

    Lan Hà lại bế, bé con im lặng.

    Trần Tinh Dương hết nhịn nổi bèn lớn tiếng nói: “Đậu má, cái cảnh này nhìn quen ghê!”

    Anh ta muốn tố, đây chẳng phải là cái cảnh Liễu Thuần Dương cho thử nghiệm Lan Hà với đàn bồ câu sao!

    Liễu Thuần Dương cười ngượng, thốt mấy lời đứng đắn: “Đã hoàn toàn xác nhận, Miểu Miểu ‘chỉ thích mỗi mình’ Lan Hà!”

    Nói là ngu người cả tập thể cũng không quá.

    Thậm chí Trần Tinh Dương còn lẩm bẩm: “Từ trái nghĩa với bồ câu là Miểu Miểu ư?”

    Tức thì bị Trần Tinh Ngữ trừng trộ, cậu ruột thật hả?

    Lão Lâm mừng khôn xiết, chưa kể còn ngạc nhiên, kìm lòng không đặng mà nói: “Nếu con trông cũng giống tôi, vả lại vợ tôi cũng không được chính con nó hoan nghênh thì tôi sẽ nghi cậu mới là bố ruột mất. Tôi đã bao giờ thấy con yên tĩnh vậy đâu. Không được, tôi phải quay video gửi bố mẹ xem, quá là hiếm có.”

    Bỗng dưng trở thành người được bé con nhà người khác thích nhất, Lan Hà bèn cứng đờ ôm Miểu Miểu, bị lão Lâm quay video.

    Trần Tinh Ngữ chơi với Miểu Miểu với tư thế này, Miểu Miểu cũng vô cùng phối hợp, thậm chí còn chạm mũi với chị, sau đó bật cười vui vẻ.

    Nguyên nhân tạm thời không rõ, nhưng nhìn tình thế bây giờ đi, chị đã bao giờ có được trải nghiệm này đâu. Từ khi sinh ra đến nay, bé con chưa từng nể mặt người mẹ ruột là chị đây, khó lắm mới chơi được với con làm chị rưng rưng nước mắt.

    “Chào sen* nhé.” Liễu Thuần Dương vỗ vai Lan Hà.

    (*Từ gốc ở đây là 工具人, là ngôn ngữ mạng ý chỉ một người vẫn luôn phải chịu khổ chịu khó, trả giá nhiều cho người khác mà không nhận được đối xử công bằng.)

    Lan Hà: “…”

    Anh cứ như cái giá ôm trẻ để vợ chồng Trần Tinh Ngữ tận dụng cơ hội kì diệu lần đầu gặp phải.

    Trần Tinh Ngữ vươn tay sửa lại mũ cho con, để lộ một vùng nâu nhỏ trên trán.

    Lan Hà lướt nhìn bèn dừng mắt trên đó, “Đây là… bớt ạ?”

    “Phải, bà ngoại tôi nói trên đầu trẻ có bớt thì sau này không được xóa laser đi. Có bớt ở đây, con trẻ sáng dạ nhiều bạn bè, nhưng mọi người nhìn nhóc mít ướt này mà coi…” Trần Tinh Ngữ kể với vẻ bất đắc dĩ, sờ lên chỗ bớt của con.

    Lan Hà càng nhìn càng thấy vị trí và hình dạng của cái bớt quen quen, đoạn nhìn thẳng vào đôi mắt trong veo của Miểu Miểu một chốc, bất giác ngộ ra.

    Trần Tinh Ngữ lên núi Diệu Cảm “quấn búp bê”, anh sực nhớ ra lúc mình và lão Bạch cùng nhau lên núi Diệu Cảm đã nhặt được một bé con bụ bẫm. Lúc đó bé con bị ngã, cũng có vết thương ở chỗ y hệt, chị Hồ còn nói sẽ để lại sẹo các thứ.

    Lão Bạch đã nói như thế nào ấy nhỉ, Bích Hà nương nương sẽ giao trẻ con cho tín đồ nuôi nấng.

    … Không phải chứ?!

    Lan Hà cũng phải giật mình trước suy đoán thầm kín này, ngoài mặt vẫn chẳng biểu lộ gì.

    Dần dần thoát khỏi nỗi khiếp sợ, Trần Tinh Dương xoa cằm, nói bằng giọng chua loét: “Chuyện này ảo quá thể đáng, tại sao cháu trai em lại thích Lan Hà đến thế?”

    Đúng là ảo tung chảo, ai nấy đều chứng kiến Lan Hà còn chẳng làm gì, chỉ ló mỗi cái mặt thôi mà bé con đã nín khóc rồi. Nếu nói trẻ nhỏ thích trai đẹp thì cậu của bé không đủ đẹp trai, mẹ của bé không đủ xinh chắc?

    Lão Lâm mỉm cười: “Hay là có duyên từ kiếp trước?”

    Lan Hà nghĩ bụng, nếu Miểu Miểu thực sự là bé mập kia thì câu này chuẩn không cần chỉnh…

    Liễu Thuần Dương là một người mê tín, còn là một đạo diễn, chưa gì đã nghĩ ra một câu chuyện trọn vẹn rồi: “Chú kể các cháu nghe, một cậu quay phim trong đoàn phim chúng ta hồi trước bị bóng đè, được Lan Hà đánh thức cho. Lần trước cái nghiên mực làm từ bia mộ mà Lan Hà và Tinh Dương cùng nhau nhặt được, Tinh Dương kể nó phát hoảng luôn, thế mà Lan Hà vẫn chẳng xi nhê gì. Có một kiểu người đủ gan dạ, rất có khả năng trấn yểm được… Trẻ con nhìn thấy mấy thứ đó sẽ dễ hoảng sợ, ở bên cạnh Lan Hà có khi sẽ an toàn hơn. Các cháu hiểu chứ.”

    Khỏi phải nói, cách suy diễn này của Liễu Thuần Dương nghe logic lắm chứ đùa.

    Trần Tinh Dương từng đích thân trải nghiệm, bây giờ cũng tán đồng, “Hoặc theo như lời của ông Uông thì đó là vấn đề từ trường sinh ra từ dòng điện của sinh vật… Xem ra từ trường của Lan Hà và Miểu Miểu khá là hợp rơ với nhau. Chị à, hay là chị ở lại thêm mấy ngày nữa đi, Miểu Miểu ở bên Lan Hà nhiều thêm, có lẽ sẽ không sợ gì nữa, sẽ ổn dần lên.”

    Vợ chồng Trần Tinh Ngữ không hề có dị nghị nào, cho dù là bởi kiếp trước có duyên hay bởi Lan Hà chính khí đầy mình thì tóm lại bé con ở bên anh vẫn im lặng hơn. Họ nhìn Lan Hà, ngập ngừng hỏi: “Có quấy rầy đến cậu không?”

    Bây giờ Lan Hà đang cực kì nghi ngờ Miểu Miểu là bé mập mà mình từng bế, bị Trần Tinh Ngữ hỏi như vậy, anh ngẫm nghĩ: “Xem ra em rất có duyên với bé, em cũng sẽ cố gắng hết sức.”

    Liễu Thuần Dương tranh thủ: “Chỉ cần hai đứa không gây ảnh hưởng đến việc diễn viên đóng phim là được.”

    Đâu thể cho họ mang trẻ con theo mãi được, quay phim đã mệt lắm rồi!

    Bởi vậy, Trần Tinh Ngữ chuyển phòng sang cạnh Lan Hà, tối đến họ còn đổi lượt, Lan Hà và lão Lâm thay nhau bế Miểu Miểu. Trần Tinh Ngữ ngủ một mình, Trần Tinh Dương ngủ nhờ phòng người khác.

    Trình Hải Đông hoàn toàn không hay biết gì, anh ta vừa quắp mông về là ngủ ngay, sáng hôm sau tỉnh dậy còn tưởng Lan Hà đã đi trước rồi.



    Kịch hay đến hôm sau mới diễn trước mặt quần chúng.

    Trần Tinh Ngữ bế Miểu Miểu đến trường quay. Chị lo hệ miễn dịch của trẻ em đang yếu bèn đợi ở một nơi vắng người, theo dõi từ xa, Miểu Miểu cũng xem như ngoan ngoãn. Đến khi Lan Hà diễn xong, chị bế bé lại đón.

    Lan Hà đỡ Miểu Miểu, lần này đã thạo hơn rồi.

    Trần Tinh Ngữ ân cần rút khăn giấy ra lau mồ hôi cho Lan Hà, dịu giọng hỏi: “Có mệt không?”

    Bây giờ chị thích Lan Hà lắm nhé! Khỏi bàn đến bản tính, sau khi con trai gào khóc những mấy tháng trời, chị nhìn Lan Hà còn thấy thân thiết hơn người khác!

    “Em không mệt ạ.” Lan Hà ngượng ngùng, “Chị à, chị không cần…”

    Anh trông thấy nụ cười như mẹ hiền trên gương mặt lạnh lùng của chị là đã thấy rùng mình rồi.

    Chính Lan Hà còn thấy có vấn đề, huống chi là những thành viên khác trong đoàn phim, họ trợn mắt há hốc miệng ra cả rồi.

    Họ nào hay chuyện giữa Lan Hà và Miểu Miểu, chỉ chứng kiến mỗi cảnh này mà còn tưởng là Trần Tinh Ngữ với Lan Hà là người một nhà.

    Chuyện là sao vậy nhỉ, hôm qua Trần Tinh Ngữ mới quen Lan Hà nhờ màn giới thiệu của Trần Tinh Dương cơ mà! Trần Tinh Ngữ vẫn luôn nổi danh là cao ngạo lập dị, bạn đã thấy chị đối xử với người khác như vậy bao giờ chưa? Đến cả chồng chị cũng chưa chắc đã có cái đãi ngộ này!

    … Mà nhắc đến chồng, bố đứa bé – Lão Lâm – cũng đã tới, cầm đồ uống và bánh cho Lan Hà ăn, bị đạo diễn Liễu quát không được cho ăn uống gì sất. Đôi bên lời qua tiếng lại, người thì bảo cậu đừng hòng vỗ béo diễn viên của tôi, người thì bảo Lan Hà của bọn cháu mệt lả rồi kia kìa.

    Mọi người: “???”

    Lan Hà của bọn cháu? Cái quái gì vậy, họ bước vào một không gian song song rồi ư?

    Liễu Thuần Dương và Trần Tinh Dương làm gì mà đi kể cho họ nghe vụ này, bởi vậy ai ai cũng chỉ đành há hốc mồm nhìn Lan Hà ở trong trường quay ngoài quay phim ra, lúc nghỉ sẽ ngồi trong một góc, con trai của nữ thần Tinh Ngữ hoặc nằm sấp hoặc ngồi trong lòng anh, còn anh thì đọc kịch bản, gật gà gật gù cũng chẳng gây ra ảnh hưởng gì quá lớn.

    Chưa kể đến chuyện Trần Tinh Ngữ và lão Lâm ngồi quây quần đùa bé con, trông khá giống một nhà bốn người… nhưng quỷ dị hơn chun chút.

    Trình Hải Đông là bạn cùng phòng của Lan Hà bèn bị nhân viên dò hỏi vô số tin tình báo, song anh ta không biết thật, thậm chí còn hoài nghi mình ngủ một giấc thôi mà cũng bỏ lỡ tình tiết nào đó… Anh ta cũng tin chắc hôm qua Trần Tinh Ngữ và Lan Hà ở trường quay vẫn còn lạ lẫm với nhau lắm.

    Nhưng nhìn vợ chồng nữ thần thân thiết với Lan Hà như người một nhà, anh ta vẫn hết nhịn nổi mà lén lút hỏi Lan Hà: “Là anh em thì dạy anh với.”

    Lan Hà: “Dạy gì?”

    Trình Hải Đông: “Cổ thuật của tộc Miêu các chú ấy.”

    Lan Hà: “…”

    Lan Hà: “Cút con mẹ anh đi!”



    Trần Tinh Ngữ vừa để con mình tiếp cận với Lan Hà, mà theo như lời của Liễu Thuần Dương thì là cọ tí chính khí, vừa bớt thì giờ trả hai con búp bê còn lại về núi Diệu Cảm. Ngặt nỗi trả búp bê rồi mà bé con vẫn không đỡ hơn, trừ phi ở bên cạnh Lan Hà.

    “Hay là phải dẫn Miểu Miểu đi cùng nữa?” Lan Hà hỏi, anh nghĩ cách suy nghĩ này rất hợp với logic.

    “Không, chị hỏi rồi, lễ tạ thần không được mang trẻ con đi cùng.” Trần Tinh Ngữ chau mày đáp. Thực chất do có sự xuất hiện của Lan Hà mà hiện tượng kì diệu này đã khiến cho chị bắt đầu nảy sinh hi vọng to lớn vào cách giải quyết của huyền học, chẳng qua kết quả lại không được như ý muốn.

    Mà Lan Hà hỏi như vậy càng thể hiện ra anh không biết gì cả, hoàn toàn dựa vào chính khí của mình để trừ tà thật.

    Lan Hà đúng là không hiểu cớ làm sao, ban đầu anh cứ đinh ninh là do lễ tạ thần chưa hoàn thành, nhưng giờ đã làm lễ rồi mà vẫn không có ích gì. Anh còn cân nhắc đến chuyện có nên viết một bức thư gửi lão Bạch hỏi y xem có biết nguyên do hay không nữa là.

    Lan Hà hãy còn đang đắn đo thì Trần Tinh Dương bước lại: “Em vừa nghe đạo diễn Liễu bảo có khả năng trước khi quay chuyển cảnh phải ngừng quay hai ngày đã.”

    Cảnh diễn của Lan Hà chủ yếu tập trung ở nửa phần trước của giai đoạn quay, tiếp đó họ sớm đã quyết định cả đoàn phim sẽ đến một căn tứ hợp viện ngoại ô Bắc Kinh để lấy cảnh ngoài đời, quay xong phần này là Lan Hà sẽ hết đất diễn.

    Nhưng có vẻ bây giờ việc quay phim đã có vấn đề, không thể quay ngay được. Đoàn phim không thể không để diễn viên tổ A nghỉ hai ngày rồi mới qua bên kia tập hợp để quay.

    Trần Tinh Dương nói đùa: “Hay là hai ngày nay Lan Hà về chỗ bọn anh ở đi?”

    Vậy mà Trần Tinh Ngữ lại nghiêm mặt bác bỏ: “Mấy ngày nay đã quấy rầy Lan Hà nghỉ ngơi lắm rồi, khó lắm mới được nghỉ hai ngày. Chẳng biết bao giờ Miểu Miểu mới đỡ hơn nữa, nhưng cũng không thể không cho cậu ấy nghỉ ngơi được.”

    Thật không dám giấu, chị đã bàn với lão Lâm xem nên cảm ơn Lan Hà ra làm sao luôn rồi.

    Lan Hà biết chị lấy tư cách của người làm cha làm mẹ nói ra câu này cũng là thông cảm cho mình, bèn từ tốn đáp: “Hay là quay video xem có ích gì không ạ…”

    Trần Tinh Dương: “Phụt.”

    Đúng là đôi khi có thể thử xem có tác dụng không.

    Lão Lâm cầm camera bảo Lan Hà nói mấy câu dỗ trẻ, kiểu như là Miểu Miểu đừng khóc nhé, bé cưng ngoan các thứ.

    Lan Hà cứ xem như quay phim, nhanh chóng nhập vai, ghi xong mấy câu này lại nghe Trần Tinh Ngữ nói: “Em quay thêm bài ru con luôn được không? Hoặc nhạc thiếu nhi cũng được.”

    Phải, âm nhạc phong phú hơn ngôn ngữ nhiều. Bố mẹ Lan Hà đều là giáo viên tiểu học, anh vẫn biết hát một vài bài hát thiếu nhi, chỉ là vừa nghĩ tới nhạc thiếu nhi, chẳng hiểu sao anh chợt nhớ đến cái người xuất hồn thành quen mà mình chưa biết tên, sau khi bị mình hố cho bèn cưỡi con lừa què chạy đi.

    Anh vừa nghĩ vừa bật cười thành tiếng, “Ha ha, ừm… Tôi có một chú lừa con, đến nay vẫn chưa cưỡi nó bao giờ. Có một ngày nọ tôi nổi hứng dạt dào dắt nó đi chợ…”

    Cứ ngâm nga như vậy đến khi quay xong, chưa nói đến việc quay phim có tác dụng tẹo nào không, càng đừng nói đến việc lần nào cũng hiệu nghiệm hay không thì Miểu Miểu nghe được giọng Lan Hà sẽ luôn có phản ứng, có thể giúp bọn Trần Tinh Ngữ thoải mái hơn nhiều, cũng tạm thời yên tâm tạm biệt Lan Hà.

    .

    Lan Hà kéo vali về căn chung cư của mình, phim trường và địa điểm quay kế tiếp nằm ở hai đầu của Bắc Kinh. Lần này rất may là có thể ngủ nướng hai lần rồi mới đi công tác.

    Trước khi anh đến thang máy bèn bắt gặp một bóng hình quen thuộc, bèn không khỏi lấy đĩnh vàng ra khỏi ba lô…

    “Ta không đến đòi tiền.” Lão Bạch nghênh ngang bước tới, nhận cái đĩnh vàng, đoạn nói.

    Lan Hà: “??”

    Anh đang nói mớ gì vậy…

    Lão Bạch cất đĩnh vàng, phì cười: “Hì hì, mấy ngày trước cậu đã quẩy tung chảo cả cái âm tào địa phủ rồi à?”

    “Anh biết rồi hả?” Lan Hà hơi lo lo, “Tôi cãi mấy câu với quỷ gác cửa thôi, chuyện này không có gì to tát chứ? Có rước phiền phức cho anh không?”

    “Vụ này thì có là gì, âm ty Đông Nhạc chúng ta có ngày nào mà không cãi cọ với bên kia đâu chứ. Chỉ là phao tin chốn âm phủ nhanh như cắt, cậu nổi như cồn, miệng lưỡi sắc bén.” Có vẻ lão Bạch tán thưởng hành động của Lan Hà là nhiều hơn.

    Lan Hà cảm khái, không ngờ mình ở trên dương gian vẫn là một diễn viên vô danh tiểu tốt mà dưới âm phủ lại thành quỷ tuyến 3 rồi…

    Lão Bạch không biết anh đang nghĩ gì, đoạn nói tiếp: “Nghiêm Tam cảm ơn cậu đấy, ngặt nỗi bây giờ chẳng phân thân nổi, y kể sau đó tên quỷ lại kia còn ngáng chân cậu nữa à? Ta đã đánh gãy răng tên nhãi đó để trả thù cho cậu rồi. À với cả cô Hồ cũng xuống núi làm việc, bèn nhắn ta bảo muốn gặp mặt cậu.”

    Lan Hà tạm gác lại vụ nổi hay không nổi: “Chị Hồ tìm tôi làm gì, không gặp được không?”

    Dù rằng anh rất muốn hỏi chuyện Miểu Miểu, song cứ cảm thấy hỏi lão Bạch là được, không cần phải gặp chị Hồ cho lắm.

    “… Hồ gia hơi bị thù dai đấy nhé, cậu có chắc là không đi không?” Ý lão Bạch là bảo Lan Hà đi gặp.

    Lan Hà: “À, chị ấy đâu có biết tôi là ai, chỉ có thể đi trả đũa anh thôi.”

    Cái này gọi là bố nợ con trả.

    Lão Bạch: “…”

    Lan Hà: “Thôi được rồi được rồi, tôi đi gặp, chị ấy ở đâu?”

    Lão Bạch: “Trong gara, chưa nói cho cô ấy biết nhà cậu ở đâu đâu.”

    Lan Hà không xuất hồn, đằng nào chị Hồ cũng chỉ biết anh là Vô Thường sống mà thôi, bèn lấy cái khẩu trang đeo lên rồi đi xuống với lão Bạch. Hai người bắt gặp chị Hồ đương ngồi xếp bằng trên một chiếc xe nhỏ, thấy họ bèn nhảy xuống, cười khanh khách: “Hôm nay đến làm công chuyện nên muốn ôn chuyện với bạn cũ ấy mà.”

    Tuy rằng mới chỉ gặp một lần nhưng chị Hồ đã nghiễm nhiên xem Lan Hà là tri kỉ. Nguyên nhân thì mọi người biết rồi đó.

    Lan Hà cũng rất thức thời đưa bó hương ra, chị Hồ nhận lấy, hóa thành mặt mũi hồ ly, đoạn sốt sắng hít vài cái rồi mới xoa mũi ra vẻ nhã nhặn, cất hương, cười nhạt nói: “Cậu thật sự không dẫn ta về nhà à?”

    Lão Bạch cản hộ Lan Hà, y nhận tiền xong nên rất chi là sẵn lòng đứng ra giúp, “Bà chị à, đây là người của âm ty Đông Nhạc chúng ta.”

    “Hì hì, ta biết chứ, giúp xây đường Hoàng Tuyền… Ta còn nghe cả vụ này nữa, đúng là một Vô Thường tốt. Chúng ta đều cùng một mạch Đông Nhạc cả, đằng nào cũng là người một nhà, ta chỉ lo Tiểu Lai là Vô Thường sống, dạo gần đây Bắc Kinh bất ổn, lỡ cậu ấy bị liên lụy thì sao.” Chị Hồ cười tít cả mắt, lập lòe sáng.

    “Vì sao Bắc Kinh bất ổn vậy?” Lan Hà không biết, “Chẳng phải tiết Thanh Minh đã qua rồi ư?”

    Chị Hồ quét mắt lên người anh vài lần rồi mới hỏi: “Cậu vẫn chưa biết à? Vậy có biết vật trấn yểm của Bắc Kinh này không?”

    Trong phong thủy Trung Quốc có pháp trấn và vật trấn. Các vật trấn yểm thông thường như bùa đào, sư tử đá, ngói tướng quân(1), toàn là dùng để trấn yêu trừ tà.

    Có điều những thứ đó dùng để trấn trạch, còn thành phố cũng phải có vật trấn yểm, ví dụ không ít thành phố xây tháp để làm vật trấn của thành phố đó.

    Mà đối với một thủ đô, vật trấn phải lợi hại hơn. Bắc Kinh là vùng đất quan trọng, mỗi một triều đại đều có bậc thầy phong thủy của Hoàng gia bố trí vật trấn, ví dụ như Bắc Kinh có năm vật trấn cũ và năm vật trấn mới, đặt các vật trấn ở năm phương Đông – Nam – Tây – Bắc – Trung theo ngũ hành.

    Cũng giống như cái chuông lớn của chùa Giác Tuệ vậy, người ta truyền tai nhau kể rằng nó là vật trấn phương Tây trong năm vật trấn mới, thuộc Kim.

    Lan Hà nói: “Tôi có nghe láng máng, hình như có chuông lớn ở chùa Giác Tuệ. Những thứ khác thì không nhớ, vả lại bất kể là năm vật trấn cũ hay năm vật trấn mới thì có vẻ không chỉ có một phiên bản? Chẳng biết cái nào mới là thật… À đúng rồi, hình như tôi từng nghe phong thanh đến Đỉnh Vàng(2) trên núi Diệu Cảm thật ra cũng là một vật trấn Kim? Phải không?”

    “Cái đó à, có thật có giả, về phần phiên bản nào mới là thật thì…” Chị Hồ giơ ngón trỏ lên môi, ý bảo không được nói bằng lời, “Ngoài năm vật trấn ngoài sáng mà cao nhân phong thủy chốn dương gian bài trí ra thì thực chất còn có ám ngũ trấn* nữa, là những vật trấn mà các tiên gia Bắc Kinh liên thủ bài trí, đã có lịch sử nghìn năm. Ta nói chứ, nếu không nhờ ám ngũ trấn này thì các vật trấn cũ hay mới cũng sẽ chẳng được bài trí một cách thuận lợi đến thế đâu. Cho nên dạo này ám ngũ trấn xảy ra vài vấn đề, thậm chí còn ảnh hưởng đến cả minh ngũ trấn* nữa… Đám yêu ma rục rịch hết cả.”

    (*Ám ngũ trấn tức là năm vật trấn được bài trí ngầm, ngược lại với minh ngũ trấn là năm vật trấn được bài trí công khai.)

    Nhưng cụ thể là vấn đề gì, vấn đề nằm ở đâu thì chị không thể nói tùy tiện được.

    Lan Hà ngẫm kĩ lại, dạo trước nghe họ nói thời điểm không đúng, ngay cả lệ quỷ như Tiểu Hồng và Tiểu Lục còn tác loạn, có lẽ là ám chỉ việc này, với cả tại sao lão Bạch lại cần mượn sức người từ nhân gian? Có khi cũng vì lí do đó.

    “Chị bôn ba vì chuyện này hả? Anh Nghiêm Tam nói Bắc Kinh là nơi nhiều cao nhân nhất, tôi nghĩ sẽ không đến lượt tôi bị liên lụy chứ.” Lan Hà nửa đùa.

    “Chẳng phải ta đang lo cho cậu đấy sao.” Chị Hồ liếc qua lại giữa Lan Hà và lão Bạch, “Cậu xem cậu không hay biết gì về chuyện này, dù rõ là sống ở ngay vùng đất Bắc Kinh. Lão Bạch cũng thật là, không nhắc nhở gì sất.”

    Lão Bạch cười ngượng, y cầm tiền đồng ý không để cho Lan Hà phải làm việc gì rồi, tất nhiên cũng không cần phải kể cho Lan Hà hay chuyện. Nhưng trước đó y có bịa đại cái cớ âm ty bận đầu tắt mặt tối với chị Hồ, bây giờ bị chị Hồ nhìn thấu bèn thấy khá là xấu hổ.

    “Cảm ơn chị Hồ đã nhắc nhé, sau này tôi nhất định sẽ dâng nhiều hương cho chị.” Lan Hà nhanh trí nói ngay, quả nhiên chị Hồ nhoẻn miệng cười liền, anh lại lảng sang chuyện khác, “Đúng rồi, tôi… có quen một đứa trẻ nhà người ta, là bé con ‘quấn’ ở trên núi Diệu Cảm, ở chỗ này trên trán có một cái bớt màu nâu, bình thường hay khóc ré không ngơi, nhưng gặp tôi sẽ nín…”

    “Ồ, cậu gặp Miểu Miểu rồi à?” Chị Hồ hờ hững hỏi.

    Chị ấy biết đứa bé tên là gì sao? Lan Hà ngẫm lại, tên trẻ là do đạo sĩ trong cung nương nương đặt cho, chị Hồ sống trên núi, biết tên cũng không lạ gì.

    Chị Hồ cười tủm tỉm: “Hai người có duyên với nhau đấy, cậu còn cứu nó một lần ở trên núi. Mặc dù nó không còn trí nhớ nữa, nhưng lại mang theo cái duyên này đi đầu thai, gặp cậu sẽ nín khóc.”

    Nếu thật sự là vậy, người thắt duyên thì sao! Lan Hà truy hỏi: “Vậy chị có biết vì sao sau khi sinh bé cứ khóc mãi không? Hồi trước tôi tưởng do chưa làm lễ tạ thần, gần đây mẹ bé đã đi lễ rồi mà bé vẫn cứ khóc mãi, còn thiếu khâu nào hả?”

    “Khóc chẳng liên quan gì đến lễ tạ thần cả.” Chị Hồ suy nghĩ, “Trước khi Miểu Miểu đầu thai vốn đã là một đứa trẻ có linh tính nhất điện. Nương nương thấy Trần Tinh Ngữ xinh xắn nên mới cho cô ấy…”

    Lan Hà suýt thì chửi “Cái đệt”, nương nương xem mặt mới cho á?

    Anh cố giữ miệng không nói.

    Chị Hồ: “… Có lẽ mắt nó linh quá, thường hay thấy mấy thứ nhơ nhuốc kia, dạo này Bắc Kinh tà khí tỏa khắp bốn phương mà. Nếu cậu không ‘quen’ Miểu Miểu từ trước thì gặp cậu, nó cũng sẽ khóc ré lên thôi.”

    Cũng khéo thật, vả lại cách nói của Liễu Thuần Dương đã đúng được nửa, chỉ đoán sai một chút thôi. Lan Hà không phải mang chính chí trên người, mà là âm khí.

    Lan Hà hỏi dò: “Có cách giải quyết không?”

    “Tất nhiên là có…” Chị Hồ bật cười, “Trùng hợp thay, ta cũng muốn cảm ơn cậu, tặng đồ ngon, cậu vươn tay ra đi.”

    Lan Hà liếc lão Bạch một cái, thấy y gật đầu mới vươn tay ra.

    Chị Hồ không vươn tay phải mà chẳng hiểu lấy cái bấm móng tay từ đâu ra, cắt phăng móng tay dài tít tắp ở ngón trỏ, cái móng đó vừa khéo rơi xuống lòng bàn tay Lan Hà.

    Lan Hà: “…”

    Mém tí nữa là anh run tay, làm rơi cái móng tay này. Trông hơi bị mất vệ sinh.

    “Chả phải cậu khuyên ta cắt móng tay hay sao? Bây giờ cắt cho cậu rồi đó.” Chị Hồ nói, “Cái móng này xem như phân thân của ta, mang theo vài phần năng lực của ta. Lúc cậu dùng thì bẻ nó rồi đốt là có thể dùng năng lực của ta rồi. Cậu dùng nó tất sẽ biết cách che đôi mắt nhìn được quỷ của Miểu Miểu. Sau này nếu gặp phải nguy hiểm, cũng có thể dùng.”

    Lão Bạch liếc xéo chị Hồ, bĩu môi nói: “Đây mà xem là cảm ơn à, là để cho Tiểu Lai thử trước mua sau đó chứ. Thử năng lực cô trước, sau đó sẽ đón cô về. Đúng là biết kinh doanh đấy.”

    Lan Hà ngớ ra.

    Chị Hồ che miệng cười, “Cậu cứ thử xem, ai dùng rồi cũng tấm tắc hết!”

    “…” Lan Hà biết câu hồn, không biết giải quyết giúp Miểu Miểu ra sao, cho dù chỉ là một sản phẩm dùng thử thì anh nghĩ cùng lắm cứ kiên quyết chỉ thử không mua là được, đoạn cẩn thận cầm lên bọc lại bằng giấy, “Cảm ơn chị nhé.”

    Anh tạm biệt lão Bạch và chị Hồ rồi đi vào thang máy từ gara lên, vừa đi ra bèn đụng phải Ứng Thiều và hai sư đệ của gã.



    Ứng Thiếu mua một đống đồ làm phép, nghiêm túc nói với hai sư đệ: “Người chúng ta đắc tội lần này không hề đơn giản. Nếu hai đứa bây sợ thì bây giờ còn có cơ hội mua vé tàu mà về quê.”

    Các sư đệ lắc đầu nguầy nguậy, “Không, tuyệt đối không về, quyết xử tên khốn đó đến cùng! Dựa vào cái gì mà họ không tuân thủ quy củ, vừa làm thầy đồng vừa bày trò quỷ lừa tiền chủ thuê, còn chúng ta chỉ ăn ngay nói thật thôi mà.”

    “Chặt đường làm ăn chẳng khác gì giết bố mẹ người ta!” Ứng Thiều nổi đóa, “Lúc đó mày cũng xúc động quá, nói huỵch toẹt ra, ban đầu anh mày chỉ muốn khuyên chủ thuê từ từ.”

    Sư đệ giọng ỉu xìu: “Em xin lỗi sư huynh, em ngu quá. Vậy thì em càng không thể đi được, em không đi đâu.”

    Sư đệ khác cũng bảo: “Em không đi, bọn em không đi, để xem cái tên pháp sư tà ma đó giỏi hơn hay cổ quỷ chúng ta hung tàn hơn, ai sợ ai chứ. Nuốt sạch đám quỷ của chúng mà luyện cổ!”

    Ứng Thiều thấy hai sư đệ buông lời tàn nhẫn bèn cười khổ, trận chiến này không có gì hay mà đánh.

    Gã đương nghĩ vậy, cửa thang máy mở ra, anh chàng hàng xóm xinh trai bước ra, cả đám đụng độ nhau.

    Ứng Thiều sửng sốt, không ngờ anh sẽ về.

    Lan Hà nào biết bọn Ứng Thiều đang nói cái gì, anh liếc cái túi to của Ứng Thiều bèn thấy tiêng tiếc. Không có gà quay rồi, chẳng hiểu cái vụ ăn mì căn sau lưng anh lần trước là sao nữa.

    “À… Anh Lan này.” Ứng Thiều mãi mới tìm được giọng của mình, gọi Lan Hà đang định đi về phía nhà anh lại, “Tôi đọc được tin về anh trên mạng mới biết anh là diễn viên, vả lại còn đóng phim của Liễu Thuần Dương nữa, cừ quá!”

    “Cảm ơn nhé.” Lan Hà mỉm cười, “Phải, tôi chỉ về hai ngày thôi, rồi phải đến trường quay nữa.”

    “Ồ, tức là đêm nay anh ở nhà nhỉ. Ờm, anh có thể kí tên cho tôi được không?” Ứng Thiều chủ động tiến lên, “Tôi có thể khè thiên hạ là tôi quen biết ngôi sao rồi.”

    “Không không, tôi chỉ là một diễn viên vô danh tiểu tốt thôi.” Lan Hà thân thiện kí tên cho gã. Là một diễn viên không tên tuổi, ngoài những lần kí công ty sắp xếp cho thì Lan Hà từng kí tên cho hai người. Ứng Thiều là một, người kia là cảnh sát Vương…

    Lan Hà vừa kí xong, ngước đầu lên bèn thấy Ứng Thiều búng ngón tay, vài giọt nước bắn lên mặt anh.

    Lan Hà: ??

    Cái gì dị.

    Ứng Thiều quát: “Ra khỏi miệng ta, đi vào tim ngươi, Kim Tàm trói hồn, mặc ta sai sử!”

    Có một từ tên là cổ hoặc, kẻ nuôi cổ thôi miên hồn người khác.

    Đúng là Ứng Thiều định bụng thôi miên anh hàng xóm này, đỡ cho đêm nay họ có động tĩnh gì, hàng xóm lại gọi cho quản lý chung cư.

    Lan Hà: “…”

    … Mệt quá, về tận nhà rồi còn phải diễn.

    May rằng Lan Hà là một diễn viên, lại có thói quen giữ bình tĩnh nên anh vẫn chẳng nhúc nhích. Ứng Thiều niệm xong, nhìn anh chằm chằm rồi ra lệnh: “Đêm nay, cho dù có nghe thấy bất cứ âm thanh gì cũng đừng để ý, cứ ngủ trong phòng anh thôi.”

    Lan Hà: “… Được.”

    Ứng Thiều dặn xong, vừa định thu cổ lại, nhưng sực nhớ tới chuyện gì đó, “Đúng rồi, có bí mật gì trong giới giải trí thì nói tôi nghe với. Bạn gái cũ của Trần Tinh Dương là Lê Thiến thật à?”

    Lan Hà: “…”

    Lan Hà: “Tôi không biết, tôi flop lắm.”

    Ứng Thiều nhìn hai mắt anh một cách trìu mến, lại cảm thấy mình méo có cái lập trường gì để đồng cảm với người ta bèn uể oải nói: “Sẽ hot thôi. Được rồi, anh về đi.”

    Ầy, mỗi người mỗi số, hàng xóm của gã có cái vẻ bề ngoài dựa vào mặt là ăn cơm được, đâu giống như mấy cái tên cung cấp dịch vụ tôn giáo hộ gia đình như bọn gã, cạnh tranh khốc liệt, phải song hành với hòa thượng, đạo sĩ, lạt-ma, đỉnh tiên các kiểu, thi thoảng thậm chí còn cướp cả mối làm ăn của thầy đồng nữa… Tiền thuê nhà tiền cơm đều gặp nguy cơ hết.

    Ứng Thiều nhìn hàng xóm bị cổ hoặc xong thì không nhìn họ nữa, mở cửa vào nhà mình, lúc này gã mới gọi các sư đệ về, phải bày trận pháp, bày thế sẵn sàng đón quân địch!



    Lan Hà vừa đóng cửa lại bèn rút khăn giấy lau mặt liền. Bắn nước vào mặt anh mà chẳng biết nước có sạch không nữa, đêm nay hàng xóm còn muốn làm gì đây? Anh đi chân trần vào bếp, nghĩ bụng tại sao cổ hoặc ban nãy không có tác dụng gì tới anh?

    Lan Hà nghĩ mất một lát mới hiểu ra, cổ hoặc vô dụng có lẽ không phải vì anh ta không học thành thạo, cũng không phải vì thân phận Vô Thường của anh – Vô Thường chưa nói là có thể miễn dịch với sự tấn công của cổ độc cơ mà.

    Anh nghĩ là do trên người anh còn có móng tay chị Hồ tặng, mê hoặc lòng người là năng lực đặc biệt của hồ ly, bởi vậy mới không bị thôi miên.

    Anh mặc sức nghĩ ngợi, không để bụng làm gì, cầm bình nước đi ra. Tối nay uống nước, ăn tí hoa quả cho qua.

    Lan Hà ăn hoa quả xong, nằm trên giường đọc kịch bản một lát, đương nghĩ đến tình tiết bèn chợp mắt, nửa đêm mới bị lạnh mà thức giấc, ngồi dậy bèn thấy lão Bạch ngồi ở đầu giường, âm u hỏi: “Cậu còn tiền không?”

    Lan Hà: “…”

    Lan Hà quỳ luôn: “Mới có bao lâu mà anh hết tiền rồi hả? Đến năm tiếng chưa?”

    Có làm thằng con phá của thì cũng không phá đến mức này chứ, “siêng” quá trời quá đất.

    Lão Bạch xoa tay, “Tại cô Hồ hết, cô ta trách ta giấu chỗ cậu ở… Ta có cản cô ta tìm cậu đấy nhé. Cô ta vừa nổi giận cái là kéo ta nằng nặc đòi đánh bạc với ta, rồi thắng sạch tiền của ta luôn.”

    “Hết hết, thật sự hết rồi, tôi không có một cắc nào hết! Mấy ngày nữa anh hẵng đến sau!” Lan Hà ìu xỉu bò dậy, định đóng cửa sổ.

    Từng luồng gió âm thổi ùa vào từ bên ngoài, rõ là đã vào hè mà lại rét run như ở dưới Hoàng Tuyền vậy. Anh cứ đinh ninh là do có lão Bạch ở đây, nào ngờ nhìn ra bên ngoài bèn bắt gặp mười mấy oan hồn.

    Đám oan hồn nay quấn sợi tơ trên cổ tay, lơ lửng trên không, đang phân biệt phương hướng.

    Lan Hà: “Ôi…”

    Mệt quá, không chõ mũi vào được không?

    Nhưng nhìn bọn oan hồn này trông cứ như bị người ta câu tới… Nếu làm như không thấy thì quá là lạnh lùng.

    Cửa sổ phòng Ứng Thiều đã dán bùa lên, đám oan hồn này bị trói tạm thời, nhưng vì là oan hồn nên thần trí không được rõ cho lắm, chúng thấy Lan Hà mở cửa sổ bèn đắn đo rồi đi về phía anh.

    Kết quả xếp thành đội đi vào cửa sổ xong lại thấy Vô Thường ngồi ở đó, không chỉ một mà là là hai Vô Thường, đồ đạc đầy đủ hết.

    Một Vô Thường trong đó nhìn sâu vào chúng, mệt mỏi nói: “Đến cũng đến rồi, đi theo ta thôi.”

    Chúng quỷ: “…”

    Quỷ còn chưa tới tay thì hai Vô Thường đã bàn nhau:

    “Bắt buộc phải đưa đi sao? Ầy, nể mặt cậu, đưa lên chùa Giác Tuệ thôi.”

    Lan Hà sửng sốt, “Anh mà cũng đưa lên chùa Giác Tuệ được hả? Bộ không phải nên tìm một đạo quán sao?”

    Lão Bạch: “Cậu thì biết cái gì, đã tốn tiền cho họ xử thì chớ, siêu độ xong ta còn phải kéo xuống Đông Nhạc.”

    Lan Hà: “…”



    Cách vách.

    Ứng Thiều ngồi ngay ngắn, chuẩn bị đón địch bất cứ lúc nào.

    Hai sư đệ dậm chân, “Sư huynh à, anh nói coi bao giờ chúng mới đến đây, chân em tê rần hết cả rồi đây này.”

    Ứng Thiều thấy đã giờ Tý, bèn nói chắc như đinh đóng cột: “Chắc là sắp rồi!”

    .

    Chùa Giác Tuệ.

    Ánh trăng như nước, Tống Phù Đàn và Tư Không ngồi trong đình viện chơi cờ, Đậu Xuân Đình chán chường chống cằm xem.

    Do lần trước xuất hồn lâu quá, lại còn xuống đến tận Hoàng Tuyền nên sức khỏe Tống Phù Đàn không tốt, bèn ở lại chùa Giác Tuệ thêm mấy ngày đặng nghỉ ngơi, Đậu Xuân Đình cũng bị phái đến chơi với anh họ.

    Tư Không hạ một con cờ xuống, mỉm cười, “Lòng cậu có hơi xao động.”

    Dù rằng Tống Phù Đàn trông vẫn thong dong, nhưng Tư Không có thể nhìn ra từ nước cờ của hắn, rằng lòng hắn đang rối như tơ vò.

    Đậu Xuân Đình vẫn nghệt mặt ra. Làm gì có làm gì có, bác còn dặn cậu ta để ý đến tình hình của anh họ kia kìa, nhưng cậu ta đâu có thấy anh họ phiền lòng đâu, không phải anh ấy vẫn im ỉm, hoặc đọc sách hoặc viết bản thảo đấy sao?

    Tống Phù Đàn bị Tư Không nói toạc ra bèn đặt quân cờ xuống, khảng khái thừa nhận, “Vậy chơi đến đây thôi, tôi không có tâm trạng.”

    Tư Không vuốt cằm, đứng dậy.

    “Tư Không.” Tống Phù Đàn bỗng gọi y lại, “Thầy biết niệm chú Kim Luân không? Dạy tôi được không?”

    Tư Không nhìn hắn với vẻ kinh ngạc, đây là lần đầu tiên Tống Phù Đàn muốn học điều gì đó từ họ, “Biết chứ, nếu cậu muốn học, tất nhiên sẽ học nhanh thôi.”

    Tống Phù Đàn là “Bệnh thân Hồng Liên” trong miệng sư phụ. Phật gia tôn sùng hoa sen, bệnh thân Hồng Liên có nghĩa là phải trải qua kiếp nạn, nhưng tính tình vẫn cứng cáp và thanh tịnh như sen đỏ, không thể lay động. Chính vì nguyên do này mà đến nay yêu tà vẫn chưa thể xâm nhập vào tâm trí hắn, bó tay với hắn.

    Cũng bởi vậy mà một lời chú Kim Luân, Tống Phù Đàn muốn học thì không phải lo sẽ không học được.

    “Chú Kim Luân là gì?” Người ngoài cuộc Đậu Xuân Đình hỏi.

    Tư Không nở nụ cười sâu xa: “Niệm lời chú này, sẽ nằm mơ thấy người mình mong.”

    Ngón tay Tống Phù Đàn gõ vài cái xuống bàn đá, xem như thừa nhận.

    Từ lần đầu tiên gặp mặt đến nay, hắn đã có thiện cảm với Tiểu Lai rồi, đó là điều chưa từng có kể cả ở âm phủ hay dương gian. Thậm chí hắn chưa bao giờ nghĩ rằng mình sẽ cảm thấy một sinh vật cõi âm là đáng yêu.

    Vẻ ngoài đẹp đâu đâu cũng có, linh hồn thú vị lại chết hơn hai trăm năm. Cũng vì đối phương đến từ âm phủ, mà đến cả tên họ đầy đủ của y Tống Phù Đàn cũng không biết, càng không biết đi đâu để gặp y.

    Hắn nóng lòng muốn thử, lại ôm nỗi chần chừ… Giờ đây có lẽ phải lâu nữa mới được gặp nhau, hắn bèn nghĩ, hay là gặp trong mơ xem sao?

    Đậu Xuân Đình “Òa” một tiếng, “Anh họ yêu rồi hả? Không đúng, yêu thì có thể gặp người thật trực tiếp mà, hay là yêu đơn phương?”

    Tống Phù Đàn đứng dậy, không định chia sẻ chuyện của mình cho Đậu Xuân Đình hay, “Cậu về đi ngủ được rồi đó.”

    “Em ứ về, em cũng muốn học câu chú này. Anh à, rốt cuộc anh muốn gặp ai vậy, anh nói cho em đi, em hứa không nói cho hai bác đâu.” Đậu Xuân Đình ôm bàn không chịu đi.

    Ngặt nỗi Tống Phù Đàn rất kiên quyết.

    Đậu Xuân Đình oán giận: “Không nói cho em biết Mộng Cô là ai đã đành, còn không cho em học chú. Anh Hư Trúc, anh keo kiệt quá đi!”(3)

    Tống Phù Đàn: “…”

    Hắn đá Đậu Xuân Đình một cú.
     
  18. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 17: “Tuyệt, Đây Mới Là Phật Mà Mãnh Nam Nên Tu Theo!”

    Đám oan hồn liên quan nào đoán được còn chưa vào nổi cửa thì đã bị hai Vô Thường ngay sát vách tóm lại, hệt như phường đạo chích lẻn vào nhà cảnh sát vậy. Chúng bị Lan Hà và lão Bạch tạm trói lại bằng sợi xích thành một hàng đi đến trước chùa Giác Tuệ, từ đầu chí cuối vẫn mông lung như một trò đùa.

    “Cậu xem, số hồn cậu câu được cũng ít, do chưa biết Vô Thường chúng ta có một thủ pháp tên là Kết Vô Thường đấy, sau khi tung ra sẽ câu được mấy chục con quỷ, cũng khó để xổng.” Lão Bạch biểu diễn cho anh xem, “Không giống âm tào địa phủ, tỉ lệ chạy thoát bên họ cao hơn.”

    Y bắt đầu len lén diss âm tào địa phủ vì đã biết chuyện Nghiêm Tam từng nảy ý chèo kéo người. Dù rằng Lan Hà sẽ không đi, nhưng vẫn phải phòng ngừa chu đáo.

    Có nhiều kĩ năng vẫn hơn, Lan Hà bắt đầu học thật.

    Lão Bạch cười khà: “Còn nói cậu không muốn đi Vô Thường nữa đi, chẳng phải đang học rất nghiêm túc đấy sao?”

    Lan Hà nhìn y: “Lão Bạch à, anh có thấy trên đầu tôi có viết bốn chữ không?”

    Lão Bạch: “Có chứ.”

    Lan Hà: “Đọc xem nào.”

    Lão Bạch: “Đến cũng đến rồi.”

    Lão Bạch: “…”

    … Thôi được, y hiểu rồi.

    Đến chùa Giác Tuệ bèn thấy du hồn ở nơi này chiếm phần đa, thi thoảng có người qua đường đi ngang, bước xuyên qua người chúng thì đám du hồn quỷ lực thấp này sẽ ngơ ngác tản ra một lát, mãi sau mới tụ lại.

    “E là hôm nay sẽ có pháp hội, nhộn nhịp thế này cơ mà. Tuyệt quá, thừa cơ trà trộn vào siêu độ cùng luôn.” Lão Bạch nghe ngóng cẩn thận, đúng là có tiếng niệm kinh thật.

    Chùa miếu tổ chức pháp hội siêu độ, dĩ nhiên du hồn sẽ vây quanh lắng nghe Kinh Phật, hi vọng có cơ hội siêu bạt*. Trong quá trình khoa nghi chú ngữ sẽ mời quỷ sai dẫn hồn đến hội, xem như một lời mời, có thể cho họ tham gia.

    (*Siêu bạt: Siêu độ có nghĩa là với tâm chân thành muốn giúp đỡ những người đã khuất, phần lớn việc siêu độ là người mất hiện tiền tạo tác nhiều nghiệp chướng, đã có nghiệp chướng thì không tránh khỏi thác sinh vào các đường khổ. Cho nên, chúng ta siêu độ là giúp cho họ giảm bớt đau khổ. Trong khi đó, “bạt” của “bạt độ” nghĩa là nhổ lên, “độ” là vượt qua, thoát khỏi, tức là nhổ bật gốc rễ của lòng tham để vượt qua các nẻo luân hồi.)

    “Ngài Đến, ngài Đến ơi!”

    Lan Hà chợt nghe thấy tiếng gọi mình, bèn bắt gặp Từ Quý mặc áo dài nam, trông vóc dáng ông ta đã cô đọng hơn lần trước, “Là ông đấy à, Từ Quý.”

    “Thưa ngài Đến, thưa ngài đây nữa.” Từ Quý chắp tay thi lễ, cười ngu ngơ, “Thỉnh an hai ngài. Ngài Đến à, tôi vừa mới ăn hóa thực*, ngài đến muộn thế, mau vào ăn chút gì đi.”

    (*Từ gốc là 化食 – Tạm thời chưa tìm ra nghĩa, nhưng đoán là thức ăn cúng.)

    “À à!” Lan Hà nhớ tới đồ ăn chay của chùa Giác Tuệ, túm tay lão Bạch, “Đi vào thôi!”

    Sau khi vào, Lan Hà mới phát hiện ra mình nghĩ lầm rồi, đương nhiên pháp hội có bày đồ cúng, nhưng không phải đồ chay, chỉ có mỗi hoa thơm trái cây thôi. Lan Hà lựa ăn kha khá, nhưng tại mới xơi hoa quả tối nay nên khá là ngán.

    “Nếu tôi lượn lờ đi tìm cái ăn thì có bị hòa thượng bắt lại đánh đòn không nhỉ?” Lan Hà do dự hỏi lão Bạch.

    Lão Bạch: “Mặc đồng phục thì sợ quái gì. Nếu gặp cao tăng, cậu cứ bảo cậu tới tham gia pháp hội, đi lạc đường là được.”

    Lan Hà: “Được được.”

    Lan Hà bay về phía khu sinh hoạt của tăng lữ chùa Giác Tuệ, định bụng tìm ra nhà bếp đằng sau, vậy mà bắt gặp Tống Phù Đàn ở một cái viện nhỏ. Hắn đương thong dong say ngủ trên cái sạp gỗ cạnh cửa sổ, cửa sổ mở, ánh trăng và ánh nhìn của Lan Hà bèn dừng lại trên gương mặt điển trai của hắn.

    “À…” Lan Hà chẳng ngạc nhiên lâu, trông Tống Phù Đàn có mối quan hệ rất sâu xa với chùa Giác Tuệ, có xuất hiện ở đây cũng không mấy lạ.

    Lan Hà gần như không nghĩ ngợi gì đã nhẹ nhàng đáp xuống. Anh quan sát một lúc, ngồi xổm thổi khí lạnh vào cổ hắn, “Phù… Phù…”

    Tống Phù Đàn trì tụng chú văn, dần thiếp đi, cảm giác lành lạnh trên cổ làm hắn chậm rãi mở mắt. Bình thường gió âm lướt qua cổ như thế này đều là điềm báo quỷ quái xuất hiện, hắn đã chuẩn bị tâm lí xong xuôi, ai dè mở mắt ra bèn thấy Tiểu Lai ngồi xồm bên giường hù hắn: “Blè blè blè.”

    Tống Phù Đàn sửng sốt, tức thì nhận ra đây có lẽ là cảnh trong mơ của mình. Niệm chú Kim Luân là hắn mơ thấy Tiểu Lai thật.

    Nếu là ở trong mơ… Tống Phù Đàn nhìn chằm chằm vào y: “Ngươi đến rồi.”

    “Ủa? Anh bình tĩnh ghê, lẽ nào anh không giật mình sao!” Lan Hà còn tưởng mình có thể dọa Tống Phù Đàn bật người dậy chứ, bình tĩnh quá đi mất, không hổ là người hay gặp quỷ, “Tôi và đồng nghiệp tôi dẫn oan hồn tới, vốn muốn tìm thứ gì đó lót bụng, không ngờ lại gặp anh ở đây.”

    Tống Phù Đàn: “?”

    Hắn ngầm thấy là lạ, sao giấc mơ này hoàn chỉnh vậy nhỉ, thậm chí còn có tình tiết mà đến chính hắn cũng chẳng biết cơ. Đồng nghiệp, tức là âm sai dưới âm tào địa phủ kia ư?

    Song, mơ vẫn hoàn mơ, vẫn có bug vô lí. Âm sai của âm ty Đông Nhạc sao lại áp giải oan hồn đến chùa Giác Tuệ được.

    Tống Phù Đàn lờ cái bug này, chỉ nói tiếp: “Ngươi muốn ta dẫn đường đến bếp nên mới đánh thức ta dậy sao?”

    “Bị anh phát hiện ra rồi, tôi cá chắc anh biết đồ ăn ở đâu.” Lan Hà cầm xích câu hồn, “Ầy, hay là anh bay đi ăn với tôi đi, tiện mà. Hình như tôi cũng quen nhìn thể linh hồn của anh hơn.”

    “Ừ.”

    Bởi vì đối mặt với Tiểu Lai, lại đang nằm mơ nên Tống Phù Đàn sẵn lòng xuất hồn.

    Lan Hà câu hắn lại rồi gỡ ra, đoạn duỗi tay.

    Tống Phù Đàn nắm tay Lan Hà, thuận thế hoàn toàn rời khỏi thân xác, đứng dậy.

    Sự tiếp xúc giữa hồn và hồn là một loại xúc cảm kì diệu, nó lạnh buốt như đồng, tưởng như ảo mộng mà lại chân thật. Hắn nghĩ, quả nhiên là mơ mới có thể tay nắm tay, thế mà cảm giác chân thật khôn kể.

    “Đi theo ta, ở đơn vị không được ăn ngon hả?” Tống Phù Đàn bèn nghĩ đến quỷ sai đói một bữa no một bữa trong truyền thuyết, cảm thấy Tiểu Lai gầy thật.

    “Quá là tệ ấy chứ!” Người Lan Hà nghĩ đến là Liễu Thuần Dương, “Ôi, cấp trên của tôi không cho tôi ăn no cơ.”

    Dù là ở trong mơ nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của Tiểu Lai, Tống Phù Đàn vẫn cảm thấy đáng thương quá đỗi. Đó đều là phản chiếu từ hiện thực mà ra.

    Tống Phù Đàn tức thì dẫn anh đến phòng bếp, “Ở đây còn có một vài cái bánh củ cải và bít-tết chay, là bữa khuya em họ ta chuẩn bị, ngươi ăn đi.”

    Bánh củ cải làm từ sợi củ cải trắng và bột gạo tỏa mùi thơm phức ngọt lịm của củ cải, mềm mềm ngon miệng, mặn ngọt vừa chuẩn, chẳng ngấy chút nào. Còn bít-tết chay thật ra là được làm từ đậu phụ cứng, sau khi rưới nước sốt lên gần như có thể lấy giả tráo thật, sắc hương vị cực kì gần giống món ăn mặn.

    Lan Hà hí hửng ăn, “Tôi sớm đã nghe nói hương vị đồ chay ở chùa Giác Tuệ ngon tuyệt cú mèo, cuối cùng cũng được ăn, ban nãy phải tìm mãi tìm hoài. Họ nấu kiểu gì mà hương vị tuyệt vời thế nhỉ?”

    Tống Phù Đàn: “Nhà bếp kể với ta là lúc xào nấu sẽ bỏ ‘Kinh Lăng Nghiêm’ vào.”

    Lan Hà: “…”

    Lan Hà lớn tiếng: “Tôi không tin! Anh đừng hòng gạt được Vô Thường Đông Nhạc bọn tôi!”

    Tống Phù Đàn cảm thấy y đáng yêu khôn xiết, “Vì bỏ ‘Kinh Lăng Nghiêm’ vào thì cảm xúc sẽ bình lặng hơn, có thể nấu thành đồ chay cao cấp.”

    Lan Hà: “Thôi được, nghe vậy còn hơi có lí.”

    Đã ở trong mơ thì Tống Phù Đàn không cố kị gì nữa, hắn hỏi: “Nếu sau này ngươi đói bụng thì đến chùa Giác Tuệ ăn đi? Ngươi thích ăn cái gì thì cứ bảo ta, ta chuẩn bị trước cho.”

    Lan Hà: “Duyệt!!!!”

    Tống Phù Đàn nhìn cái vẻ mừng rơn của anh mà nhoẻn miệng cười. Nhưng chẳng mấy chốc hắn lại thấy hơi buồn buồn, nếu đây không phải mơ thì tốt quá.

    Đúng ngay lúc này, lão Bạch lửng lơ bay tới, “Tiểu Lai à, tìm được đồ ăn rồi hả? Ta cũng đói bụng… Ủa đây là ai?”

    “Là một người bạn của tôi.” Lan Hà vẫy tay, lại giới thiệu cho Tống Phù Đàn, “Đây là lão Bạch, đồng nghiệp của tôi.”

    Tống Phù Đàn: “Lão Bạch???”

    Hắn trưng nét mặt không thể tin nổi, đến cả lão Bạch cũng thấy lạ, “Phải… Là ta, có vấn đề gì à?”

    Tống Phù Đàn bỗng dưng cảm thấy sai sai. Hắn chưa gặp lão Bạch bao giờ, đọc chú Kim Luân đêm đến nằm mơ sẽ gặp người mình mong, chứ không mơ thấy người chưa gặp bao giờ.

    Hắn bình tĩnh hỏi dò: “Chả phải ta đang mơ sao?”

    Lan Hà: “Mơ? Anh đang nói gì vậy?”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Lan Hà chợt ngộ ra, lấy làm ngạc nhiên mà hỏi: “Ơ, anh tưởng là anh vẫn đang nằm mơ ấy hả?”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Hắn chầm chậm ngẩng đầu xoa mi tâm, dù rằng hắn muốn gặp Tiểu Lai, song đây không phải kết quả hắn mong muốn…

    Lão Bạch mờ tịt: “Chuyện gì thế này, cái tên này là sao, rốt cuộc là chết rồi hay chưa?”

    Tống Phù Đàn đau đầu: “Nhưng ngươi là âm sai của âm ty Đông Nhạc thì làm sao đến tham gia pháp hội chùa Giác Tuệ được, còn đồng ý với ta là sẽ đến thường xuyên?”

    “Gượm đã, anh nghĩ tôi không thể xuất hiện tại chùa Giác Tuệ nên mới nghĩ đây là mơ?” Lan Hà nghĩ có khi mình tìm được trọng điểm rồi, “Cơ mà tôi với lão Bạch đến để kiếm chác cơ.”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Lão Bạch vẫn mờ tịt: “Sao? Ta còn có đồ ăn ư?”

    Tống Phù Đàn lại lấy một đĩa đồ ăn từ dưới lồng bàn ra, đưa cho lão Bạch. Lão Bạch bèn nhận đồ của mình, không hỏi nữa.

    “Ha ha ha ha ha, anh hài hước quá đi mất! Tôi cứ nhủ anh bị tôi hù thì sao lại bình tĩnh vậy được, hóa ra là tưởng đang mơ.” Lan Hà muộn màng nhớ lại nhiều chi tiết hơn, “Há há há há há há há há!”

    Nội tâm Tống Phù Đàn càng xấu hổ hơn Lan Hà nghĩ nhiều, hắn cố gắng giữ vẻ bình tĩnh trước mặt Lan Hà, “Nhưng ngươi hiếm khi đến đây đúng không, ta dẫn ngươi đi dạo.”

    Hắn thường đến chùa Giác Tuệ, xưa nay chưa bao giờ gặp Tiểu Lai.

    Lan Hà tức thì gật đầu cái rụp, “Chúng ta đi dạo đi, đợi lão Bạch ăn xong tôi sẽ đi.”



    Hai người đi ra ngoài, loáng thoáng nghe được tiếng xướng Kinh, pháp hội siêu độ của các tăng lữ hãy còn đang tiến hành, nếu bay cao hơn nữa là có thể trông thấy chúng quỷ khẩn cầu được siêu bạt.

    “Thật ra mới hôm qua tôi còn nghĩ đến anh và con lừa què, không phải ở trong mơ đâu, nào ngờ đến đây lại gặp nhau.” Lan Hà bật cười, tâm trạng rất tốt vì vụ ban nãy.

    Tống Phù Đàn nghe được câu của anh, trong lòng bất giác viết một dòng chữ, người ấy cũng nhớ mình.

    Lan Hà vừa trò chuyện với hắn vừa bay lên nóc nhà, chỉ thấy một nhà sư trẻ đương ngồi im trước bàn đá trong sân, giống như nhập định.

    Lan Hà thấy quen mắt, lòng tự nhủ đó không phải là pháp sư Tư Không hay sao, nghe nói là người quản lí trẻ nhất từ trước đến nay ở chùa Giác Tuệ, cũng là giám tự*, phụ tá đắc lực của phương trượng, vị trí khá là quan trọng, vả lại còn sở hữu vẻ đẹp trai, từng hot xình xịch một thời trên mạng.

    (*Giám tự: Còn gọi là giám viện, viện chủ, thủ chủ, tự chủ. Chức vụ này chuyên lãnh đạo chúng Tăng, đồng thời cũng giám sát mọi việc trong nhà chùa.)

    Nghe nói không chỉ nổi rần rần trên mạng thôi đâu, mà Phật hiệu cũng rất tinh thâm, rất nổi tiếng trong giới…

    Ngay lúc này lại có vài nhà sư vào sân, một nhà sư già đi tuốt phía trước cầm một cây quải trượng trong tay, mặt vương đầy nếp nhăn, nhưng đôi mắt lại sáng trong, vóc dáng cao to, mặc một bộ tăng y bình thường nhất đi đầu hàng.

    Nhìn thấy Tư Không ngồi ngẩn ở đằng kia, lão tăng ấy hỏi: “Tư Không đang làm gì vậy?”

    Tư Không hoàn hồn, lúng túng đáp: “Con đang nghĩ, thời tiết oi bức thì phải tu thiền như thế nào.”

    “Tại sao không tránh?” Lão tăng nhấc quải trượng đánh lên người Tư Không.

    Đừng nhìn ông đã có tuổi, nhấc tay một cái, tay áo vén lên, cơ bắp cuồn cuộn, chưa kể còn cao hơn Tư Không nửa cái đầu.

    Pháp sư Tư Không vốn đẹp trai trầm tính nhảy dựng lên, mặt cũng bị đau mà nhăn nhó, nơm nớp cúi đầu trước lão tăng.

    Nào ngờ lão tăng lại đánh thêm một cú nữa, Tư Không lại chịu thêm một gậy, cắn răng chịu đựng: “Con đã biết, con đã biết rồi ạ. Không được ép buộc lòng mình phải yên lặng, con sẽ đi bật quạt điện tu thiền!”

    Lúc này lão tăng mới thu quải trượng về, “Đi đi!”

    Ông nhìn Tư Không mặt xám mày tro đi mất, lại quay sang dặn dò chúng tăng đứng bên cạnh.

    Lan Hà trợn mắt há hốc mồm: “Ai vậy?”

    Tống Phù Đàn đáp: “Phương trượng ở đây, pháp sư Bất Động(1), cũng là sư phụ của nhà sư ban nãy.”

    Thảo nào dám đánh cả Tư Không, hóa ra là sư phụ kiêm phương trượng. Lan Hà khá là có ấn tượng với cái tên này, thi thoảng anh có nhìn thấy trên thời sự, là một lão hòa thượng rất nổi tiếng. Nhưng pháp sư Bất Động trong tưởng tượng của anh, hoặc mỗi một lão hòa thượng, thì nên có mặt mũi hiền từ mới phải, ấy vậy mà cái bộ dáng giơ gậy đánh người của ông lại hung hãn quá trời.

    Lan Hà ngứa miệng, cầm lòng không đậu mà hỏi: “Còn ban nãy là sao, đang nói thì tự dưng giơ quải trượng đánh người ta ấy.”

    Tống Phù Đàn: “Đó không phải quải trượng.”

    Lan Hà: “Hở? Thế là gì?”

    Tống Phù Đàn: “Là gậy ông ấy chuyên dùng để đánh người.”

    Lan Hà: “???”

    Lan Hà chấn động: “… Phương trượng này đã lớn tuổi thì chớ, lại còn là võ tăng.”

    Tống Phù Đàn bị chọc cười thành tiếng, “Ngươi nghe ‘Đánh đòn cảnh tỉnh’ bao giờ chưa?”

    Tuy Lan Hà không tin Phật nhưng cũng từng nghe câu thành ngữ này rồi, “Đương nhiên là rồi, nghĩa là đột nhiên hù dọa để bọn họ ngộ ra đạo lý… A, ý của anh là ban nãy đại sư cũng đang đánh đòn cảnh tỉnh hả? Chưa kể còn lấy gậy thật đánh?”

    “Đó là một trong những sở trường của Lâm Tế tông, trong giới Phật học có tên là ‘Tướng quân Lâm Tế’.” Tống Phù Đàn từ tốn giải thích.

    Thật ra hòa thượng cũng có rất nhiều loại, không phải ai cũng hòa nhã “cười hiền”, mà quyền qua cước lại cũng có.

    Phong cách của Lâm Tế tông này vẫn luôn nghiêm khắc như vậy.

    Khi xưa lúc tổ sư Lâm Tế tông – pháp sư Nghĩa Huyền(2) tu hành không chỉ bị đánh một hai lần, mà là hỏi ba lần thì bị đánh hết cả ba. Pháp sư Đức Sơn Tuyên Giám(3) hung dữ, đồ đệ nói thôi cũng chịu ba mươi gậy, im ỉm cũng chịu ba mươi gậy.

    Đức Sơn bổng, Lâm Tế hát(4), chính là nguồn gốc của “Đánh đòn cảnh tỉnh”.

    Có điều người ta dùng gậy là để khai ngộ cho người khác. Sau khi họ nổi danh cũng có người bắt chước theo, đánh bậy, hát bậy, nhưng chẳng có hiệu quả mà đánh cũng như không, cho nên không gọi là nghiêm khắc, mà gọi là lỗ mãng, làm người ta cười chê.

    Pháp sư Bất Động này rất chi là phục cổ, thạo việc bổng hát đệ tử, ở thời đại ngày nay xem như là hiếm gặp. Cũng vì rất có nếp xưa, còn chỉ nghiên cứu “Kinh Kim Cang” giống với pháp sư Đức Sơn nên ở trong giới ông cũng được xưng tụng là pháp sư Kim Cang.

    Vả lại, pháp sư Đức Sơn đánh gậy còn chia ra các loại khác nhau: Có gậy mang tính chiêu thức dẫn người học quay về con đường đúng đắn, có gậy chiêm nghiệm thực hư, có gậy mang tính cổ vũ, vân vân.

    Loại ngầu xì nhất tên là manh gia hạt bổng(5), kiểu đánh này thuộc dạng vô cớ, đưa tay là đánh…

    “Manh gia hạt bổng? Đánh là đánh, không cần lí do.” Lan Hà lần đầu biết “Đánh đòn cảnh tỉnh” còn có hệ thống như vậy, chưa kể đó còn là phong cách đặc thù thuộc về trường phái nhà người ta. Anh nuốt nước miếng, tấm tắc khen: “Tuyệt, đây mới là Phật mà mãnh nam nên tu theo!”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Lúc này, lão hòa thượng đứng phía dưới bỗng dưng ngước đầu lên, đôi mắt sáng trong nhìn qua, trông cực kì sắc bén.

    Lan Hà nhất thời như bị gió Bắc Cực quất vào mặt, nhưng pháp sư Bất Động chỉ nhìn thoáng qua rồi mỉm cười, đi ra khỏi sân.

    Lan Hà im thin thít một lát mới hỏi, “Có phải ông ấy nhìn thấy chúng ta rồi không?”

    Tống Phù Đàn đáp: “Xưa nay vẫn luôn có thể nhìn thấy.”

    Lan Hà quýnh lên: “Ban nãy tôi vừa bảo họ là mãnh nam, chẳng phải cũng nghe thấy hết ư…”

    Tống Phù Đàn toan an ủi thì Lan Hà chợt hí hửng hẳn lên, “Vậy chắc là không sao đâu, tôi đang khen họ cơ mà!”

    Tống Phù Đàn: “…”

    Lan Hà bèn ngồi trên nóc nhà nói chuyện phiếm với Tống Phù Đàn, “Tôi nghe phong thanh dạo này Bắc Kinh hơi loạn, thảo nào anh luôn xuất hồn. Phải cẩn thận hơn nhé.”

    Thấy y quan tâm đến mình, Tống Phù Đàn gật đầu, “Ta biết chứ. Ngươi cũng bận lắm nhỉ.” Đến cả thời gian ăn cơm cũng không có.

    “Thật ra vẫn bình thường. Đúng rồi, cái tên gác cổng lần trước ngáng chân chúng ta đã bị bạn tôi đấm gãy răng rồi, ha ha ha ha ha!” Lan Hà chia sẻ chuyện sau cái hôm ở Hoàng Tuyền cho Tống Phù Đàn nghe.

    Tống Phù Đàn nhìn đôi mắt ngậm ý cười của y, không dằn nổi những xao động ngứa ngáy dưới đáy lòng, bèn nói: “Ta họ Tống…”

    Muốn nói tên cho mình biết à? Lan Hà nửa ngạc nhiên nửa ngộ ra, cứ như thể hắn đã đợi khoảnh khắc này từ lâu.

    Ngặt nỗi, Tống Phù Đàn chưa nói được hai chữ tiếp theo thì thân hình mất khống chế lùi về sau.

    “Chuyện gì vậy?” Lan Hà nhảy dựng lên.

    “… Phải hồi hồn rồi.” Tống Phù Đàn chán nản, vừa dứt lời xong thì đã bị một cơn gió chẳng biết thổi từ đâu tới tiễn bước.

    “Ơ!” Lan Hà ngạc nhiên, đoạn bật cười. Tuy chưa nghe được tên nhưng ít ra cũng biết người ta có tấm lòng này. Anh nhảy cẫng vẫy tay, ung dung nói: “Thôi, lần sau hẵng nói nha!”

    Ừ…

    Tống Phù Đàn chỉ cảm giác ngay lúc này trời đất đảo lộn, hắn cũng quay trở lại thân xác mình. Lúc mở mắt ra, Đậu Xuân Đình đương sốt sắng ghé bên giường nhìn hắn, “Anh họ, anh có sao không? Em thấy anh lại xuất hồn nên vội vàng đi tìm pháp sư Tư Không kéo anh về, thầy còn nói may là anh đi chưa bao xa… Sợ quá, đến cả ở trong chùa miếu cũng có thể xuất hồn được.”

    Tống Phù Đàn trưng bản mặt vô cảm nhìn Đậu Xuân Đình.

    Đậu Xuân Đình: “Anh à?”

    Tống Phù Đàn ngồi dậy bắt đầu tẩn cho thằng em họ này một trận.



    Ứng Thiều canh đến khi mặt trời sáng rực, gã buồn ngủ không chịu được mà vẫn chẳng thấy cái gì xuất hiện.

    Gã rầu quá, “Có phải đang trêu ngươi anh không cơ chứ, còn bảo đêm nay cho anh đẹp mặt, lãng phí hết bao nhiêu là tiền của anh!”

    Các sư đệ cũng rầu lắm chứ, chẳng những bao nhiêu hăng hái bị dập tắt hết mà chính ra là tốn tiền, “Tại mình nghèo quá.”

    “Không được, có thể chúng muốn chúng ta lơ là, đến khắc cuối cùng mới tới.” Ứng Thiều rửa mặt bằng nước lạnh, cố gắng mở to mắt, lúc này cơ thể bỗng run bần bật làm đám sư đệ hét toáng lên.

    “Sư huynh, sư huynh làm sao vậy!”

    “Có phải bị trúng lời nguyền không?”

    “Không sao…” Ứng Thiều lôi điện thoại ra, “Tin nhắn tới.”

    Gã mở ra đọc, là một dãy số lạ, bên trong chỉ có một câu: Xem như mày giỏi! Nupakachi!

    Ứng Thiều: “??”

    Đồ điên.

    Sáng tinh mơ Lan Hà xuống nhà ăn sáng bèn thấy Ứng Thiều vác đôi mắt thâm xì đi mua sữa đậu nành và bánh quẩy. Hai người liếc nhau, “Chào buổi sáng.”

    Lan Hà hỏi: “Anh thức trắng đêm à?”

    Ứng Thiều cười gượng, “Phải.”

    Lan Hà cố tình nói: “Ha ha, tôi ngủ ngon lắm.”

    Ứng Thiều: “…”

    Phí mất cả thôi miên! Phí mất cả thôi miên!

    Vừa không nghe được tin sốt dẻo nào, vừa không gây động tĩnh gì quấy rầy đến hàng xóm! Hoàn toàn là tự giúp hàng xóm ngủ say!



    Lan Hà nghỉ ngơi tại nhà thêm một đêm, sáng hôm sau mới đến tập hợp ở chỗ quay vùng ngoại thành.

    Viện ở đây đã có tuổi thọ khá lâu đời, hoặc có thể nói là kiến trúc ở vùng này đã khá là cổ, xung quanh còn có khu cảnh thôn dân tộc kia kìa.

    Trình Hải Đông nhanh miệng bắt đầu chim lợn, kể rằng hóa ra ban đầu đạo diễn đã đi xem xét cảnh đâu vào đấy rồi, còn thuê nhà làm địa điểm quay, ai ngờ đến lúc lại xảy ra bất trắc, trong thôn có người lỡ uống nhiều quá, đụng phải mấy chỗ ở tường viện, đến cả nhà cửa cũng chịu chút tổn hại, cảnh đã bài trí xong cũng hóa công cốc.

    Liễu Thuần Dương tức chết, tạm thời chọn một nhà khác dựng phông cảnh mới, do vậy mới hoãn đến hai ngày, vì gấp rút mà tiêu khá nhiều tiền.

    Trần Tinh Dương nói, “Chỗ này toàn là giường đất, phải ngủ chung trên một cái giường lớn.”

    Lúc quay phim ấy mà, còn có nơi có điều kiện gay go hơn đây nữa, Lan Hà gật đầu.

    Lan Hà, Trình Hải Đông, Trần Tinh Dương ở khác phòng nhưng cùng viện với Liễu Thuần Dương. Do đổi tạm thời nên lúc họ tới, cái viện này vẫn chưa được dọn xong, đành phải đợi bên ngoài một chốc.

    Chủ nhà ở đây họ Dương, người thu xếp cho họ là đứa con út của ông ta, người đoàn phim gọi cậu ta là Tiểu Dương, cậu ta cũng rất nhiệt tình.

    Có đoàn phim đến, không ít người trong thôn đứng bên cạnh vây xem, “Ồ, lại đưa số tiền này cho nhà họ Dương kiếm chác rồi. Tôi nói chứ cái số nhà ông ấy tốt thật, mấy cái chuyện kí hợp đồng cũng hiểu, người ta toàn chạy sang nhà ông ấy cả.”

    “Nghe nói còn cho thêm tiền ấy chứ, cả đại gia đình nhà ông ấy có những ba bốn cái sân, kiếm bao nhiêu là tiền…”

    Trình Hải Đông nghe vậy bèn nhỏ giọng nói: “Nhà người này đẹp thật, tuy thôn này ở hơi xa, nhưng lại sở hữu cả mảnh đất to như này, còn có lịch sử lâu đời, có thể kiếm cả bộn tiền, mà có lẽ cũng kiếm chác được từ dân tá túc nữa. Ôi, sung sướng hơn anh nhiều.”

    Anh ta nói xong lại bóp cái eo của mình.

    “Ngày nào anh cũng đòi ngủ giường đất, sống ở đây nằm giường đất bất tiện.” Lan Hà an ủi anh ta đôi câu, thấy sửa soạn đã gần như tươm tất bèn đưa vali vào.

    Đổi nơi quay phim xưa nay vẫn rất mệt, Trần Tinh Ngữ và lão Lâm chỉ đến muộn nửa ngày trời, cố tình dẫn cả Miểu Miểu đến xem cùng. Mấy ngày nay họ sống dễ thở hơn nhiều.

    Hiện giờ vợ chồng Trần Tinh Ngữ đã cực kì tin tưởng Lan Hà. Lúc anh bế Miểu Miểu, lão Lâm và Trần Tinh Dương nói chuyện với nhau, Trần Tinh Ngữ cũng chợp mắt. Dù không khóc quấy nữa, nhưng một đứa trẻ sơ sinh nhỏ như thế này dính người vẫn rất mệt.

    Lan Hà thừa dịp lấy móng tay của chị Hồ ra, bẻ một mảnh nhỏ, bọc lại bằng giấy rồi đốt.

    Ngọn lửa cháy tí tách thiêu rụi móng tay, tỏa thứ ánh sáng xanh nhạt rực rỡ. Lan Hà cảm nhận như có một luồng khí bốc lên người mình, rồi dường như anh biết tiếp theo nên làm gì, chưa kể là…

    Lan Hà giơ tay trái lên, chẳng biết tự bao giờ móng tay anh cũng dài ra như chị Hồ vậy. Chúng sắc nhọn vô cùng, lóe ánh sáng lạnh lẽo.

    Lan Hà vội nhìn ra sau, may quá, không bị ai phát hiện.

    Anh tranh thủ úp bàn tay mọc móng dài lên đỉnh đầu Miểu Miểu. Miểu Miểu nhìn thấy tay anh mà chẳng sợ chi, còn cười toe toét.

    “Có phải cháu cũng nhận ra được bàn tay này không?” Lan Hà mỉm cười với bé, rồi bắt đầu niệm chú ba lần: “Công đức tỏa ánh vàng, ánh dương xóa u tối, Định Tuệ sinh hoa sen, chúng thần hồn mãi yên…”

    Niệm xong, Miểu Miểu cũng thiếp đi.

    Lan Hà đi ra ngoài chào hỏi lão Lâm, quay về chỗ mình tắm rửa.

    Chẳng mấy chốc, Miểu Miểu tỉnh lại bèn khóc, lão Lâm lật đật bế lên, cũng chẳng đi quấy rầy Lan Hà ngay mà chỉ dỗ dành. Lão Lâm trông bé có thể là đang đói bụng bèn đút sữa, đút xong Miểu Miểu bỗng im lặng hẳn, mở mắt tròn xoe nhìn xung quanh.

    Dần dần, lão Lâm mới thấy sai ở đâu đó.

    Gượm đã, Miểu Miểu khóc, đút sữa thì nín. Trong quá trình này không hề có Lan Hà, cũng chẳng có video của Lan Hà!

    Anh ta ngớ ra, nghĩ bụng đây phải chăng là trùng hợp, hay là Miểu Miểu… khỏi hẳn rồi?

    Đến khi Trần Tinh Ngữ tỉnh lại, Miểu Miểu đã không khóc không quấy suốt một tiếng, Trần Tinh Dương và lão Lâm đương kích động bế bé, chia sẻ tin này cho Trần Tinh Ngữ.

    Đúng lúc này, Lan Hà mới qua.

    Miểu Miểu vừa thấy anh bèn vỗ tay đòi ôm. Hiển nhiên rằng cho dù Lan Hà đã không còn là bài thuốc nín khóc của bé nữa thì anh vẫn là một trong những người bé thích nhất.

    “Lan Hà à, Miểu Miểu đã khỏi rồi!” Trần Tinh Ngữ quẹt nước mắt, đưa Miểu Miểu cho anh. Tự đáy lòng chị nghĩ nhờ Lan Hà mà Miểu Miểu mới dần khỏi!

    Lan Hà đỡ Miểu Miểu, ôm bé rồi dịu giọng hỏi: “Vậy ạ, nhóc mít ướt đã khỏi rồi sao?”

    Hai vợ chồng khó nén kích động, lão Lâm còn quay một video ngắn, chưa gì đã bị Trần Tinh Ngữ đăng lên weibo của mình bằng chất giọng dạt dào tình cảm: Người mà con tôi thích nhất!

    Nếu không có phim mới thì Trần Tinh Ngữ hiếm lắm mới đăng weibo một lần, ảnh với video đăng tải từ weibo chính chủ còn ít hơn. Chị vừa đăng lên là fans ùa vào liền.

    Chỉ là đọc nội dung xong thấy hoang mang, bạn bè Trần Tinh Ngữ chỉ có mấy mống, đây là ai? Sao còn thành người mà con trai chị ấy thích nhất?

    Hơn nữa, dựa theo sự phân tích của mọi người về các bài đăng trước kia của Trần Tinh Ngữ, phàm là bài nào chị tự tay viết thì rất ít khi dùng dấu chấm than…

    Khả năng trinh sát của cư dân mạng rất mạnh, chưa gì đã đào ra là người hợp tác trong phim mới Trần Tinh Dương đóng, đợt trước Trần Tinh Ngữ còn làm khách mời.

    Hóa ra là tiếp xúc như vậy à? Nhưng dựa theo tính cách của Trần Tinh Ngữ, trong khoảng thời gian ngắn ngủi đã có thể kết bạn là hiếm lắm.

    Lúc này, chẳng biét diễn viên quần chúng hay nhân viên ở phim trường đứng ra đăng một bức ảnh, theo lý thì không được tuồn ra ngoài, nhưng nhiều người thi thoảng cũng khó tránh sơ hở.

    Mà đó cũng chính là bức ảnh chụp cả gia đình ba người Trần Tinh Ngữ và Lan Hà vào giờ nghỉ lúc ở trường quay cũ. Miểu Miểu nằm trong lòng Lan Hà, anh cầm bình sữa, còn Trần Tinh Ngữ và lão Lâm lau mồ hôi đưa nước cho anh. Người tuồn ảnh bày tỏ: Giờ nghỉ mà Lan Hà vẫn trông trẻ cho nhà Trần Tinh Ngữ.

    Đám phóng viên như lên cơn đói tin cấp tốc viết bản thảo với bao nỗi nghi ngờ.

    Cư dân mạng cũng xem với vẻ vô cùng thắc mắc:

    Vì sao lại bế đứa trẻ? Lần đầu tiên thấy ảnh hậu trường kiểu này đó?

    Trợn mắt, Trần Tinh Ngữ đổi tính hay sao mà cho một người mới quen bế! con! mình! Còn lau! mồ! hôi cho cậu ta nữa!

    Mà bế hơi bị siêu nhỉ? Tui không tin, tui cứ tưởng ngôi sao nhiều tiền như vậy thì mời bảo mẫu lành nghề không thành vấn đề cơ mà. Nếu anh ta mà không bế thạo thì tui có nghĩ nát óc cũng chả ra vì sao lại đi nhờ đồng nghiệp…

    Tui phát hiện tin tức về cái anh diễn viên này rất chi là… kì quặc.

    Ai phủ nhận đâu nào, hoặc là giả chết – Giả chết này nghĩa là gì bây giờ vẫn chưa hiểu – hoặc là trang điểm cho đầu lợn, hoặc là… trông con giúp nữ thần Tinh Ngữ nhân lúc nghỉ ở trường quay? Kĩ năng của anh ta hơi bị nhiều rồi đó!

    *Dú: Ờm, chỗ nupakachi gốc là “Hãy đợi đấy”, tôi cố tình để thế cho hài chút, không biết có gây phản cảm không. Cứ góp ý thoải mái nhé.

    gt;gt; Chương 18

    *Chú thích:

    (1) Sau khi đi tra thì phát hiện ra hình như có pháp sư Bất Động thật, nhưng hơi dài, mọi người đọc ở link sau: http://daibaothapmandalataythien.org/1-mong-son-thi-thuc-cam-lo-phap-su-bat-dong-chep

    (2) Pháp sư Nghĩa Huyền: là một vị Thiền sư Trung Quốc, là Tổ khai dòng thiền Lâm Tế. Sư khai sáng dòng thiền Lâm Tế trong thời gian Phật giáo Trung Quốc đang bị đàn áp (842-845) và chính dòng này đã chứng tỏ sức sống mãnh liệt trong thời gian sau, trở thành môn phái quan trọng nhất của Phật giáo Trung Quốc. Song song với dòng Tào Động, dòng thiền của sư được truyền bá tại Nhật Bản cho đến ngày nay gần như dưới dạng nguyên thuỷ.

    (3) Pháp sư Đức Sơn Tuyên Giám: là Thiền sư Trung Quốc, một trong những Thiền sư lỗi lạc nhất đời Đường. Nhân duyên ngộ đạo của sư là một trong những câu chuyện thường được nhắc lại nhất trong giới Thiền. Những lời dạy của sư rất lạ lùng, khó hiểu, chỉ có bậc thượng căn mới có thể hội đôi phần. Những câu nói của Sư, nghe phớt qua người thường có thể gọi là “mắng Phật mạ Tổ” nhưng nếu thấu hiểu thì cao siêu vô cùng.

    (4) Pháp sư Đức Sơn Tuyên Giám nổi danh về việc sử dụng cây gậy để giáo hoá (đập) thiền sinh, từ đó mà sinh ra danh từ Bổng hát, chỉ cây gậy (bổng) ngang dọc của sư và tiếng hét (Hát) vọng vang của Lâm Tế Nghĩa Huyền.

    (5) Manh gia hạt bổng: Gậy đánh bậy vì không sáng mắt.

    (6) Bánh củ cải:
     
  19. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 18: Tổn Thọ Mất Thôi, Đêm Hôm Khuya Khoắt Đạo Diễn Liễu Đi Gõ Cửa

    Công ty quản lý của Lan Hà nhỏ, anh lại quá là vô danh, một lòng đóng phim, đâm ra tin tức có thể tìm được trên mạng về anh vừa ít ỏi vừa chán ngắt, chủ yếu toàn là mấy cái tin tham gia đóng phim nào.

    Hiện nay vì tham gia đóng bộ phim mới của Liễu Thuần Dương nên mới có nhiều tin tức hơn, song theo như lời cư dân mạng thì nội dung khá là kì quặc…

    Bởi vậy, có một điều rất rõ ràng là: Cư dân mạng không tính vụ này là lăng xê. Đằng nào cũng là chính Trần Tinh Ngữ chủ động đăng lên, mà ai cũng biết tính cô rồi; chưa kể Lan Hà còn tham gia đóng phim của Liễu Thuần Dương, lăng xê cái gì mà chẳng được, cùng lắm ấy à, Lan Hà không đẹp trai chắc? Thổi phồng nhan sắc lên lại chả hay?

    Nhờ những nội dung quái gở này và độ hot của Trần Tinh Ngữ, cộng thêm sắc đẹp vượt chỉ tiêu, Lan Hà thực sự hút một lượng theo dõi kha khá về, ngay cả cái weibo vắng tanh chẳng mấy chốc đã đầy ứ những fans với fans, số fans tăng thêm vài vạn — Cái tài khoản này là công ty mở cho sau khi anh vào đoàn, để anh rảnh thì đăng mấy bài thường ngày.

    Chỉ đóng phim mỗi ngày thôi là Lan Hà đã mệt đứ đừ rồi, thành thử chẳng để tâm chuyện đăng weibo lắm, có mỗi mấy bài đăng cỏn con, về cơ bản toàn là ảnh chụp cơm hộp, chia sẻ về mấy món ăn.

    Điều này càng khiến khu bình luận weibo của anh thêm phần khó hiểu, bạn rất khó nhìn ra một bộ phận fans trong số đó đến đây vì lí do gì.

    Cho em hỏi con nít tròn trăm ngày vẫn luôn khóc thì phải làm sao? Đầu chó.jpg.

    Các chị em khu bình luận coi đầu lợn nhà tui đẹp chưa nè, hôm nay thôn bọn tui tế tổ ó.

    Được đó được đó, diễn viên đa tài đa nghệ như này thời nay ít lắm, follow thôi!

    Anh đẹp trai ơi trông món ăn của anh không được ngon nghẻ cho lắm, xin xỏ bên đạo diễn Liễu xem sao.



    Lan Hà đang suy ngẫm xem mấy cô mấy cậu kia có được tính là fan hay không thì Liễu Thuần Dương chia sẻ weibo anh, ghi là “Tôi ké tí fame cái”, sau đó đính kèm thêm một tấm ảnh mỹ thực nhằm so sánh độ tươi ngon, vì vậy mà cư dân mạng cũng xông vào góp vui, đăng hàng tá ảnh mỹ thực lên.

    Lan Hà: “…”

    Anh suýt hộc máu đến nơi, bèn tắt weibo, vẫn nên tập trung đóng phim thôi.

    Ở địa điểm quay này, vai diễn của Lan Hà sẽ kết thúc, thành thử hôm nay sau khi hết việc, anh còn phải bàn về cảnh diễn với Trần Tinh Dương và Liễu Thuần Dương trong phòng, khá là quan trọng.

    Liễu Thuần Dương ăn thịt nướng, lần này ông chẳng dám khiêu khích nữa. Từ khi bị Trần Tinh Dương và Lan Hà xử đẹp một lần, ông đã tem tém đi nhiều ở trường quay. Hôm nay ông còn lên mạng khích tướng Lan Hà, ông hơi bị sợ nếu kích thích quá đáng, Lan Hà sẽ nổi quạu cắn người luôn ấy chứ.

    “Này, tối nay hai đứa ở lại chỗ chú mà ngủ.” Liễu Thuần Dương nói. Phòng ông ở cũng có giường đất, nhưng chỉ mỗi hai người là ông và phó đạo diễn nằm lên thì còn rộng chán.

    Đó cũng là để tiết kiệm thời gian, mọi người ngủ cùng cái giường đất, bàn cũng gần xong, phó đạo diễn giật dây đèn, ngả đầu ngủ ngay.

    Lan Hà từ chối, anh cứ cảm thấy mùi thịt nướng trong phòng vẫn chưa tản đi hết, đi thêm hai bước là như muốn mạng vậy, bởi thế chỉ có Trần Tinh Dương lười đi là ở lại.

    Liễu Thuần Dương ngủ chính giữa, bên trái bên phải lần lượt là phó đạo diễn và Trần Tinh Dương. Cái giường đất này đủ cho năm, sáu người nằm cùng, cho nên họ chẳng thấy chật lắm.

    Không biết đã mấy giờ đêm rồi mà Liễu Thuần Dương chợt cảm thấy bụng mình đau âm ỉ. Ông tỉnh dậy, mắt vẫn khép mà miệng thì lẩm bẩm, sao vậy ta, hay là thịt nướng không sạch sẽ nên bị viêm dạ dày rồi?

    Trời nóng oi nóng bức mà ông lại thấy hơi lạnh.

    Tuy Trần Tinh Dương và phó đạo diễn vẫn im lặng, song Liễu Thuần Dương có thể cảm nhận được sự ân cần của họ, có một bàn tay thò đến từ bên phải chăn, đặt lên bụng Liễu Thuần Dương, xoa cho ông.

    Thế là Liễu Thuần Dương thấy đỡ hơn ngay, “Ừm… Dịch sang bên trái một tẹo… Thoải mái ghê…”

    Bàn tay kia quả là hiểu ý người, lại còn ấm áp, cách một lớp áo ba lỗ xoa xoa làm ông thấy đỡ đi nhiều, chẳng mấy chốc đã không thấy đau nữa, nhưng Liễu Thuần Dương vẫn thòm thèm: “Tinh Dương à, cháu xoa tiếp được không?”

    Trần Tinh Dương mơ màng tỉnh giấc: “Xoa cái gì ạ?”

    Liễu Thuần Dương vẫn đang nhắm mắt, lấy làm lạ mà hỏi: “Tinh Dương, chẳng phải cháu đang xoa cho chú hay sao?”

    Trần Tinh Dương: “Đậu má, đạo diễn Liễu ơi, hợp tác với nhau ba bộ rồi mà giờ chú mới muốn quy tắc ngầm với cháu á, có phải hơi bị chậm tiêu quá rồi không?”

    “……” Liễu Thuần Dương mở mắt, chỉ thấy Trần Tinh Dương nằm cách mình với khoảng cách cỡ một người nằm đang đặt tay lên chính người anh ta, tư thế ngay ngắn.

    Cái đầu mới tỉnh ngủ của Liễu Thuần Dương vẫn hơi mơ hồ, sau vài giây mới ngộ ra, vậy ai xoa bụng ông cơ chứ, lẽ nào tay của phó đạo diễn vòng qua rồi xoa cho?

    Lúc này, bàn tay thoải mái đó đã vén áo ba lỗ của ông lên, sờ lên da thịt trên bụng ông, nhẹ nhàng xoa. Không còn ngăn cách bởi cái áo nữa nên có thể cảm nhận rõ xúc cảm lông lá mượt mà và nóng hầm hập kia.

    Mồ hôi Liễu Thuần Dương tức thì túa ra, não trống rỗng, người tự dưng giật bắn lên, nhảy khỏi giường đất, chửi ba tiếng liên tục: “Đệt đệt đệt.”

    Ông nhớ các cụ từng nói đến quỷ cũng sợ kẻ ác, mở mồm cái là chửi tục mấy câu liền, lại ra sức giẫm lên chăn, “Đừng đùa với ông mày nữa!”

    Phó đạo diễn cũng bị cái miệng chửi bậy của Liễu Thuần Dương đánh thức, duỗi tay bật đèn cho sáng, “Đạo diễn à, có chuyện gì vậy? Nửa đêm nửa hôm đi chửi đổng, lại nghĩ đến chỗ nào chưa quay phải không…”

    “Mịa, có thứ gì đó xoa ông, còn có lông nữa chứ.” Liễu Thuần Dương xốc chăn lên, ông đã giẫm lên rất nhiều lần mà chẳng thấy một cọng lông nào dưới đó, cứ như thể tất cả chỉ là ảo giác.

    Trần Tinh Dương nghi hoặc: “Chú mơ ngủ hả? Cháu có cảm giác được cái gì đâu.”

    Phó đạo diễn cũng nói: “Hay là chuột…”

    Sắc mặt Liễu Thuần Dương đổi lia lịa. Nói thật thì sau khi đèn sáng, tất cả chuyện ban nãy cứ như một giấc mơ chân thật vậy, bụng chẳng còn cảm giác được gì nữa cả. Song, với cái tính cẩn thận của Liễu Thuần Dương, ông vẫn xuống giường, “Tôi đi tìm Lan Hà ngủ cùng!”

    Trần Tinh Dương và phó đạo diễn nhìn nhau, vậy còn họ thì sao?

    Ban nãy Liễu Thuần Dương bảo vậy, dù rằng họ không thấy gì nhưng vẫn lấy làm lạ, bèn cùng nhau đến gõ cửa phòng Lan Hà, đằng nào cũng cùng một cái sân.

    Lan Hà, Trình Hải Đông và hai diễn viên khác nằm chung một phòng, tiếng gõ cửa đánh thức cả bốn người họ.

    Lan Hà đi mở cửa, Trình Hải Đông hỏi: “Ai vậy?”

    Lan Hà: “Đạo diễn Liễu…”

    Cả ba người còn lại thức ngay, chuyện gì vậy trời, đạo diễn nửa đêm đi gõ cửa?

    Trình Hải Đông lẩm bẩm: “Hiếm thấy đấy, anh mới chỉ nghe nói chuyện diễn viên nửa đêm đi gõ cửa đạo diễn thôi.”

    “Cút.” Liễu Thuần Dương nghe thấy, bước vào cửa, “Đêm nay chú ngủ ở đây.”

    “Cả bọn anh nữa.” Trần Tinh Dương và phó đạo diễn cũng bám gót theo sau, “Đạo diễn gặp ác mộng, nói có bàn tay lông lá xoa bụng ông ấy, qua cạ tí chính khí.”

    Liễu Thuần Dương chẳng phản bác cách nói này, xem như một sự kết hợp giữa chuyện đã trải qua và cách giải thích khả thi.

    Trình Hải Đông ngồi bật dậy, “Thật ư?” Anh ta mới là kẻ lo nhất đây này, mình là người được trời chọn đó, là cái thể chất rước chuyện đó.

    Lan Hà vẫn đang đăm chiêu ngửi thử, không có mùi tro giấy, cũng chẳng có mùi tanh. Đạo diễn Liễu nằm mơ à?

    “Ai thèm nói đùa với các cậu, dọa ông đây sợ chết khiếp, khó mà nói rốt cuộc có phải mơ không nữa.” Liễu Thuần Dương cũng chẳng muốn đêm hôm đi hù người khác, nghiêm nghị nói, “Mau ngủ thôi, 4 giờ phải dậy đón ánh mặt trời, chỉ còn một tiếng nữa.”

    Mọi người: “………”

    Cái này còn kinh khủng hơn cả giấc mơ kia nhiều!

    Một nơi chỉ cùng lắm cho năm người ngủ bị chen chúc lên tận bảy người nên dĩ nhiên là cực kì chật chội, song chẳng ai dám phản kháng lại đạo diễn, chỉ đành tự an ủi mình, thôi coi như ngủ cùng với đạo diễn và diễn viên chính, gặt hái được “thành quả” to lớn.

    Phó đạo diễn tắt đèn, Lan Hà nằm trở lại, chẳng bao lâu sau bèn cảm nhận được trong bóng tối có một bàn tay nóng hầm hập thò vào chăn, chầm chậm duỗi tới.

    Đến rồi sao?

    Lan Hà từ từ nhắm mắt lại: “… Đạo diễn Liễu ơi?”

    Liễu Thuần Dương: “Ơi.”

    Lan Hà: “Bỏ tay ra.”

    Liễu Thuần Dương u oán rụt tay về, đầu lại nhích về phía Lan Hà thêm chút đỉnh. Trần Tinh Dương ngủ bên còn lại cũng tương tự, nhích lại gần bên này, cảm thấy nằm cùng với Lan Hà có cảm giác an toàn hơn.

    4 giờ vừa điểm, Lan Hà bật dậy khỏi cái giường chật ních. Ban đầu đã chật lắm rồi, đạo diễn Liễu và Trần Tinh Dương còn dồn về phía anh, anh chẳng ngủ nổi nữa.

    .

    Lan Hà dậy đi rửa mặt rồi trang điểm. Vẫn chưa đến lúc quay, anh thấy nhân viên cầm điện thoại đưa cho đạo diễn Liễu. Chẳng biết ông nói gì với điện thoại mà chửi um lên, nhưng ngày nào đạo diễn Liễu chả mắng mỏ, không ai ngạc nhiên cả.

    Liễu Thuần Dương: “Tôi đã bảo tình hình tốt nhất là mai có thể xong! Không thể xong ngay được! Vậy phải làm sao! Chẳng phải cái nhà lần trước thuê đã hỏng mất rồi à, có phải tôi chưa đưa tiền đâu, giục cái gì mà giục, hay muốn đút thêm tiền!”

    Thời gian thuê chỗ này đã tới hạn, có lẽ gọi hỏi ông có thuê tiếp không. Tâm trạng Liễu Thuần Dương đang tệ, gào một trận, đoạn túm nhân viên hỏi sao chưa nói trước cho Tiểu Dương chuyện tiếp tục ở lại.

    Cúp máy xong, Tiểu Dương cũng chạy lại một chuyến, đòi kí thuê tiếp ngay lập tức rồi để lại giấy tờ như sợ họ chơi xấu vậy.

    Vả lại, Tiểu Dương còn vô cùng không yên tâm về bọn họ, nói phải kiểm tra từng cái phòng một, để xem trong khoảng thời gian này họ có làm hỏng đồ gì không.

    Liễu Thuần Dương hết nói nổi, đa số phòng toàn trống trơn cả, ngoài giường ra chẳng có đồ đạc gì, đạo cụ thì đoàn phim mang theo hết.

    Thứ duy nhất xem như đồ điện ở đây là bình đun nước.

    Càng khỏi nói đến chuyện tối qua, ông nghiến răng nghiến lợi nói với Tiểu Dương: “Tôi đang muốn nói đây, nhà các cậu đã từng gặp chuyện ma quái nào chưa?”

    Tiểu Dương đáp liền: “Đạo diễn Liễu à, làm sao nhà chúng tôi gặp chuyện ma quái được cơ chứ? Chú cứ đi hỏi xung quanh mà xem, trước khi các chú đến, cả nhà tôi còn sống ở đây hết cơ mà, nếu ma quỷ lộng hành thì chúng tôi còn dám ở nữa hay sao. Có phải chú nằm mơ không?”

    Liễu Thuần Dương quan sát kĩ mấy bận, nửa tin nửa ngờ tha cho cậu ta.

    Nói cho cùng, bây giờ đã quay được mấy ngày rồi, còn cách nào nữa đâu, giờ đổi địa điểm quay lại cũng không được. Liễu Thuần Dương chỉ đành suy xét đến việc nhét dao trấn yểm dưới giường.

    Tiểu Dương cười hì hì, kiểm tra hết các phòng một lượt rồi mới đi.

    Hôm nay là cảnh Lan Hà ngủm củ tỏi, Trần Tinh Ngữ cũng cố ý đến trường quay này, định bụng chứng kiến cảnh diễn chết xưa nay chưa từng có trong miệng Liễu Thuần Dương.



    Trương Tuần Xuân mà Lan Hà đóng ngồi trên cái ghế xếp làm từ gỗ hương, ngón tay vuốt ve lên vật trang sức bạc trên ghế xếp. Ngoài cái ghế này ra, đồ trang trí trong căn phòng chẳng phải đồ cũ, dường như chỉ có gã là già dần đi.

    Nam chính đứng ngay trước mặt gã, lúc này đã hết đường để đi, có vẻ chỉ còn nước khoanh tay chịu trói.

    Ngón tay thon của Trương Tuần Xuân bẻ vật trang sức bạc đó, dùng chỗ nhọn hoắt đâm thẳng vào họng mình.

    “Tiểu Xuân!”

    Hắn bước tới ôm lấy Trương Tuần Xuân. Máy quay đặc tả Trương Tuần Xuân vào giây phút này, trong mắt gã ôm thứ tình cảm quá đỗi phức tạp, nhưng dù nó có là bất cam, là sợ hãi, là căm hận, thì chỉ duy hối hận là không hề.

    Trương Tuần Xuân chầm chậm nhắm mắt, hơi thở dần mỏng đi.

    Nam chính và Trương Tuần Xuân đã từng là bạn, lúc này tâm trạng của hắn ta cũng rất nặng nề, lặng người ôm thi thể gã mãi cho đến khi nữ chính tức bạn đồng hành tìm tới khuyên nhủ. Trong giai đoạn đó, dĩ nhiên “Trương Tuần Xuân” vẫn đang chết.

    Trần Tinh Ngữ đứng một bên nhìn chằm chằm, không chỉ mỗi chị mà rất nhiều nhân viên biết đến cái câu nói kia của đạo diễn bèn lần đầu ngộ ra vì sao Liễu Thuần Dương lại nói ông bị cảnh giả chết của Lan Hà chinh phục!

    Tuy mặt đã hóa trang thật, sắc mặt dần xám đi, nhưng điều hãi hùng hơn cả là trông anh như thực sự mất ý thức, không còn sự sống nữa.

    Lan Hà xuất hồn, chống nạnh đứng một bên đợi cảnh chết của mình kết thúc. Anh đi đi lại lại trong căn phòng chẳng mấy to này vài vòng bèn phát hiện đằng sau cái tủ ở đây có một tờ giấy vàng bị kẹp.

    Lan Hà chán muốn chết, thò tay vào sờ bèn cảm thấy chất giấy hơi thô ráp, trông như giấy thủ công, cũng khá dày… Anh gấp giấy lâu năm nên rất rành xúc cảm về giấy. Nhưng trên mặt giấy trống trơn không có gì, cho nên Lan Hà chỉ liếc qua hai cái, phát hiện cảnh diễn sắp kết thúc bèn vội hồi hồn.

    Qua cảnh này, trong tiếng vỗ tay vang dội của mọi người, Liễu Thuần Dương cho Lan Hà một bao lì xì – Không phải vì anh “chết” quá tuyệt vời mà đó là lệ thường của đoàn phim. Hễ là diễn cảnh qua đời hay người chết thì sẽ nhận được một bao lì xì, nhiều hay không không quan trọng, cái chính là vì người ta diễn vai xác chết rất xui, cho lì xì để áp đi.

    Đương nhiên người như Liễu Thuần Dương sẽ nghiêm túc làm theo quy tắc rồi.

    Đến tối, dĩ nhiên Liễu Thuần Dương chẳng chịu ngủ ở căn phòng đó nữa, bèn len lén chạy đến phòng Lan Hà với phó đạo diễn hòng ngủ ké.

    “Chú ngủ ở đây cũng được thôi, nhưng tối đừng có chen lấn cháu, cũng đừng ăn khuya.” Lan Hà nói.

    Liễu Thuần Dương thất thanh kêu: “Cái gì, không được ăn khuya á?”

    Lan Hà: “… Thế rốt cuộc chú sợ cái gì hả?!”

    Anh quyết định nếu tối nay Liễu Thuần mà ăn bữa khuya thì anh sẽ hút hết hồn bữa ăn của Liễu Thuần Dương luôn.

    Lan Hà cầm cái đèn nhỏ có công tắc cảm ứng đặt ở đầu giường để tiện ngồi đọc kịch bản trên giường trước khi ngủ. Thấy đã đến giờ, anh bèn chạm vào đèn, nằm xuống vào giấc ngay.

    Liễu Thuần Dương cũng buồn ngủ, song ông cứ nghĩ đến cái xúc cảm lông xù tối qua là thấy sờ sợ, có điều nếu đã đổi phòng, Lan Hà còn ở bên thì chắc sẽ không có việc gì đâu.

    Liễu Thuần Dương cũng mơ màng ngủ, trong mơ toàn là cảnh ống kính vỡ tan tành. Ông gặp ác mộng, choàng tỉnh dậy, lưng túa mồ hôi lạnh.

    “Phù…” Liễu Thuần Dương thở phào, chẳng hay bây giờ mấy giờ rồi, trong phòng chỉ có tiếng hít thở của những người khác. Ông mở mắt muốn uống cốc nước rồi hẵng ngủ tiếp thì thấy cái đèn cảm ứng đặt ở một góc bỗng dưng sáng lên.

    Tựa như có một bàn tay vô hình chạm vào công tắc, ánh đèn vàng nhạt cứ treo lơ lửng trên đầu ông.

    Liễu Thuần Dương: “!!”

    Ông nghe tiếng răng hàm nghiến ken két đằng sau lưng, sau đó trước mắt tối sầm, không biết cái gì lần mò lên mặt ông, lông mềm như tơ, còn tỏa mùi khai.

    “Ưm! Ưm!” Liễu Thuần Dương ra sức giãy dụa, cảm thấy mình sắp chết ngạt đến nơi.

    Cảm giác này cứ như có loài động vật nào đó ịn mông ngồi lên mặt ông vậy!

    Không khí ngày càng ít đi, mũi như bị nhét đầy lông. Đúng lúc này, cái thứ trên mặt đột nhiên bị túm lên, luồng không khí trong lành ùa vào, Liễu Thuần Dương há mồm thở, “Ha a… Ha a…”

    Tất cả những người khác ngủ chung giường đều bị đánh thức, ngơ ngác nhìn Liễu Thuần Dương. Ban nãy trông mặt ông dữ tợn, tự giày xéo bản thân, gân xanh trên cổ nổi lên.

    Lan Hà nhìn ông: “Đạo diễn Liễu, chú làm sao vậy?”

    Liễu Thuần Dương dùng cả tay lẫn chân ngồi dậy: “Phù, phù, cái gì thế này, mông đầy lông ngồi lên mặt chú, suýt nữa chú đã ngạt hơi mà chết!”

    Ông vừa dứt lời thì thấy ai nấy đều nhìn mình bằng ánh mắt lạ lùng.

    Lan Hà nói: “Cái mông đầy lông? Ý chú là cái áo len phải không? Ban nãy nó phủ lên mặt chú, cháu kéo nó xuống đấy.”

    Liễu Thuần Dương tập trung nhìn, chiếc áo len cũ đang lẳng lặng nằm một góc. Tim ông co lại, cứ như có gió lạnh thổi tới, đoạn cào tóc: “… Cái áo đâu ra thế!”

    “Trông có vẻ là áo trong tủ đồ của chủ nhà, chú lấy nó ra từ bao giờ?” Lan Hà hỏi, kiểu dáng của cái áo len này đã rất cũ, có mùi ẩm mốc, mà trong tủ đồ của chủ nhà cũng có vài món đồ cũ thật, hồi trước họ không để ý, chỉ ở tạm thôi mà.

    Liễu Thuần Dương kêu lên: “Chú chưa bao giờ lấy ra!”

    Lòng Liễu Thuần Dương lạnh ngắt, ông chắc cú mình chưa bao giờ lấy nó ra thì sao cái áo len cũ đó lại xuất hiện ở đây được, chưa kể hai ngày nay gặp giấc mơ kiểu này, dù có là mơ cũng hơi bị kì cục rồi đó. Những người khác cũng càng nghĩ càng thấy khó chịu, chỉ cảm thấy căn phòng cũ kĩ này ngập tràn nguy cơ.

    Trình Hải Đông mặt trắng bệch nghĩ: Thôi xong phim, mình đi tới chỗ nào là chỗ nấy sẽ có chuyện ma quỷ, ông trời chọn trúng mình thật rồi!

    Người duy nhất bình tĩnh là Lan Hà với chính khí khắp người. Anh nhặt cái áo len lên, nhét vào tủ đồ, “Đạo diễn à, giờ trông chú không được tỉnh táo cho lắm, hay là chú ra ngoài sân ngủ ngoài trời đi. Có lẽ phòng kín gió, bức bí làm chú sinh ảo giác thôi.”

    Lời đề nghị của Lan Hà chẳng phải ý kiến hay gì, nhưng cái dáng vẻ bình tĩnh khôn tả của anh và lời đồn chính khí khắp mình làm mọi người như tìm được tâm phúc vậy.

    “Không, chú không đi, chú ngủ với cháu.” Liễu Thuần Dương sực nhớ ra ban nãy chính Lan Hà đã lay tỉnh ông.

    Ông bực khôn xiết, mấy ngày nay quay phim có gặp chuyện quái dị nào đâu, nhưng đến hai ngày này lại xảy ra chuyện. Hôm qua chỉ là xoa bụng, hôm nay lại chụp mặt luôn.

    Phải chăng ông bị người ta hại? Liễu Thuần Dương nhớ các cụ từng kể có một vài thợ thủ công bị bắt nạt sẽ thiết lập mấy cái gây tai họa trong phòng, ví dụ như chôn xương trâu, hoặc vẽ bùa trên một tấm gỗ, vân vân.

    “Vậy ngủ mau đi, cháu buồn ngủ lắm rồi.” Lan Hà nói, vươn tay toan tắt đèn.

    Những người khác: “Đừng!!!!!”

    Lan Hà: “…”

    Thôi được, bật đèn ngủ một đêm vậy.

    Họa vô đơn chí, hôm sau vừa dậy cái là Liễu Thuần Dương hay tin một đống thiết bị bị hỏng, mém tí là tức suýt ngất. Thiết bị toàn là đi thuê, chưa biết tiền sửa là bao nhiêu thì chớ, riêng mỗi việc trễ nải thời gian cũng làm ông rất phiền lòng.

    Liễu Thuần Dương cảm thấy vụ này cứ là lạ thế nào. Bình thường nhân viên ruột của ông làm việc rất chắc chắn, sao tự dưng lại để hỏng cả một đống thiết bị thế này, mà chúng còn được đặt ở cái viện cách vách viện ông ở tối qua nữa chứ.

    Cân nhắc những suy đoán của mình, Liễu Thuần Dương vừa liên lạc với người ta đưa thiết bị đến dùng, vừa lục tung cả cái phòng quay phim.

    Lúc Lan Hà và Trần Tinh Dương đi vào bèn thấy Liễu Thuần Dương đương cầm hai tờ giấy vàng mà bàng hoàng, “Cái gì đây?”

    Trần Tinh Dương đáp: “Giấy vàng, là bùa ư?”

    Lan Hà: “Làm gì có chữ.”

    “Dán đằng sau mặt tủ.” Liễu Thuần Dương rầu rĩ.

    Lan Hà biết chứ, anh cũng nhìn thấy rồi, nhưng anh thấy lạ là lúc anh xuất hồn chỉ thấy mỗi một tờ, bây giờ lại thành hai tờ.

    Liễu Thuần Dương cầm tờ giấy vàng nhìn một lúc lâu, bỗng dưng đắn đo một lát rồi xé tờ giấy vàng nọ, quả nhiên có hai lớp, bên trong còn một tờ nữa.

    Ông rút ra nhìn, có một dòng chữ nhỏ xiêu vẹo trên đó: Đơn xin trú nhờ. Kính báo, ngày 20 vào ở, ngày 31 rời đi. Lại mở tờ khác ra, cũng là đơn xin trú nhờ, viết tiếp nội dung tờ trước: Kính báo, ở lại thêm năm ngày.

    Trần Tinh Dương thấy rợn người, “Đây là… kính báo ai, ban đầu có thứ gì ở trong phòng này?”

    Cả người anh ta khó chịu, cứ cảm thấy ở lại đây chẳng mấy thoải mái.

    “Đậu má.” Liễu Thuần Dương bỗng chửi um lên, “Chú cứ nghĩ tại sao cậu ta lại quay về gấp vậy, hóa ra là muốn làm giấy tờ xin trú tiếp!”

    Không chỉ tên nói họ, nhưng ai cũng chắc kèo là ông đang chửi chủ nhà.

    Liễu Thuần Dương cầm đơn xin trú tiếp, đi lòng vòng tại chỗ, “Kể cũng lạ, đã viết đơn xin trú tiếp rồi mà tại sao tối qua vẫn gặp chuyện?”

    Trần Tinh Dương vẫn chưa hiểu mô tê gì, hỏi ông: “Đạo diễn Liễu, chú biết trú nhờ ai hả?”

    “Còn có thể là ai nữa!” Liễu Thuần Dương hạ giọng lẫn cơn tức xuống, sợ ai cũng nghe thấy, “Trong Tứ Đại Môn, chỉ mỗi Hồ tiên là ở trong một phòng trống!”

    Bình thường Liễu Thuần Dương hay chú ý đến mấy chuyện này, lại còn là người Bắc Kinh gốc, bèn giải thích cho anh ta nghe rõ ràng.

    Nam quỷ Bắc hồ, phía Bắc có rất nhiều động vật được thờ phụng. Hoa Bắc* cho rằng bốn loài động vật như Hồ Môn (Hồ ly), Hoàng Môn (Chồn), Bạch Môn (Nhím) và Liễu Môn (Rắn) là có linh tính nhất, dễ tu luyện thành công, gọi chung là Tứ Đại Môn.

    (*Hoa Bắc tức là Hà Bắc, Sơn Tây và thành phố Bắc Kinh, Thiên Tân.)

    Nếu trong nhà người phàm có gia tiên thì sẽ cung phụng tiên gia có đạo hạnh thuộc Tứ Đại Môn, có thể phù hộ cho nhà làm ăn phát đạt, cho nên người ta cũng gọi chung tiên gia Tứ Đại Môn là thần tài.

    Muốn cung phụng thần tài thì phải xây một cái lầu thần tài nhỏ. Nếu tiên gia coi trọng thì sẽ vào ở, trở thành gia tiên nhà bạn, tiếp đó sẽ là lúc nhà bạn phất lên.

    Nhưng tính cách các tiên gia Tứ Đại Môn không giống nhau, ví dụ như Bạch tiên thích sống ở trong đống rơm hơn. Nếu đống rơm có tiên gia vào ở sẽ gọi là lầu tơ vàng.

    Hồ Môn đứng đầu Tứ Đại Môn không thích sống trong lầu thần tài hay lầu tơ vàng, chúng thích chiếm cứ căn phòng để trống ở nhà người cung phụng nó hơn. Hễ có người ngoài vào ở là phải viết đơn xin trú nhờ, nói cho Hồ tiên biết vào ở khi nào, rời đi khi nào, đồng thời nghiêm túc tuân thủ. Nếu không, gia tiên bị quấy rầy tất sẽ không vui.

    Dựa theo tờ đơn thì không còn nghi ngờ gì nữa, Liễu Thuần Dương đã gặp phải Hồ tiên của nhà này, nhưng chủ nhà cũng đã tuân thủ quy tắc, viết mẩu giấy xin trú tiếp dán trong phòng thì sao nó vẫn phá bĩnh nhỉ?

    Thôi thì cũng coi như Liễu Thuần Dương đã biết nên tìm ai, bèn gọi cho Tiểu Dương bảo cậu ta tới ngay.



    “Đạo diễn Liễu, có chuyện gì thế?” Tiểu Dương mặt mũi bầm dập xuất hiện.

    Liễu Thuần Dương vừa nhìn là cạn lời, càng thêm chắc cú là do vấn đề phòng ở, đoạn nắm chặt tay Lan Hà — Để tiếp thêm can đảm, ông ép Lan Hà đi với mình, Trần Tinh Dương cũng sợ nên đi cùng luôn.

    Lan Hà: “…”

    Tự dưng anh đi làm một con sen, ban nãy anh có nói gì đâu nhỉ… Liễu Thuần Dương đã nói, chú biết cháu không tin, nhưng thế giới này rất kì diệu, đừng chắc chắn quá. Thôi cứ xem như chú sợ, còn cháu thì đi theo chú.

    Liễu Thuần Dương chất vấn Tiểu Dương: “Tôi muốn hỏi cậu, Hồ tiên nhà cậu lên cơn gì vậy hả!”

    Tiểu Dương xấu hổ, “Làm… làm sao chú biết?”

    Liễu Thuần Dương thiếu điều chửi ầm lên, “Đây là cậu hại người khác còn gì!”

    — Với cái tính cẩn thận của Liễu Thuần Dương, nếu biết nhà này cung phụng gia tiên, mà ông lại sợ quấy rầy đến gia tiên thì chắc chắn sẽ không chọn thuê ở đây, lần nào cũng phải nghe ngóng cho rõ trước. Nhà của Tiểu Dương có thể “trúng thầu” là bởi cậu ta cứ kêu là sạch sẽ lắm.

    Tiểu Dương chột dạ: “Tôi cứ đinh ninh là sẽ không có vấn đề gì… Tôi đã dán đơn xin trú nhờ và đơn xin trú tiếp đúng lúc rồi, nào ngờ Hồ tiên vẫn giận. Tôi vừa ra khỏi cửa là bị xe máy tông đây này.”

    Tại sao không thể nổi giận cơ chứ? Nếu người ta thích yên tĩnh thì dù có dán đơn xin trú nhờ cũng sẽ bực mình thôi. Chẳng những quấy rầy Liễu Thuần Dương mà cũng không tha cho cả Tiểu Dương.

    “Nhưng chúng ta vẫn chưa quay xong, bây giờ mà đi thì khác nào phải chụp lại, còn phải đi tìm nơi khác.” Trần Tinh Dương cầm lòng không đậu mà nói, “Chẳng còn cách nào xin Hồ tiên tha thứ hả chú?”

    Liễu Thuần Dương đáp: “Có thể mời một hương đầu* đến nói giúp được không? Chỉ cần ở thêm vài ngày nữa là được. Nếu có thể gia hạn thêm vài ngày, tôi có thể bày đồ cúng cho vị Hồ tiên này nhiều hơn.”

    (*Hương đầu ý chỉ bà đồng, thầy cúng, thầy bói,…)

    Tiên gia trong Tứ Đại Môn cũng được phân loại. Được xây lầu thần tài thờ cúng trong một gia đình gọi là gia tiên, lập đàn hương có người cung phụng thắp hương cầu khấn gọi là đàn tiên. Tiên gia nào có bản lĩnh lớn hơn, phạm vi nghiệp vụ sẽ rộng hơn, sẽ phù hộ những tín đồ thắp hương cho chúng.

    Hương đầu làm hương sai* trong lời Liễu Thuần Dương tức là làm người hầu cho đàn tiên, bởi vì tiên gia không tiện xuất hiện trực tiếp nên họ có thể dùng năng lực của tiên gia để chữa bệnh, trừ tà,… cho người thắp hương cầu khấn, hành đạo tu phúc.

    (*Từ “sai” trong “hương sai” có nghĩa là người chịu sự sai bảo của người khác, ở đây ý chỉ các thầy bói bà đồng sẽ chịu sự sai bảo của đàn tiên mà chữa bệnh, trừ tà,… cho các tín đồ.)

    Dĩ nhiên phạm vi nghiệp vụ của họ cũng bao gồm cái việc như hòa giải này đây.

    Tiểu Dương lại cười khổ: “Có chuyện chú chưa biết rồi, vị Hồ tiên nhà tôi dù là gia tiên nhưng thực lực phi phàm, là tiên gia đứng đầu vùng lân cận này. Ai mà không biết ở đây có ‘Liễu lão thái gia’, ‘Bạch Tam tiên cô’ trứ danh đã từng phải bó tay với vị này, không đủ tư cách hòa giải. Người có đạo hạnh sâu, có tiền duyên với người nhà tôi nên mới đến báo ơn thôi.”

    Liễu Thuần Dương lạnh giọng nói: “Cậu sắp kết ơn thành thù rồi đấy. Vỏ quýt dày có móng tay nhọn, tôi không tin không có ai làm được, rốt cuộc lai lịch cô ta là sao?”

    Tiểu Dương nói: “Đạo diễn Liễu à, nếu ông biết đến Tứ Đại Môn thì chắc cũng biết Tứ Đại Môn trong thiên hạ đều bái Bà Vương Tam, Bà Vương Tam là tín đồ của Bích Hà Nguyên Quân, sống trên núi Diệu Cảm. Thần tài nhà tôi cũng từng may mắn sống ở núi Diệu Cảm, nghe lão thần tiên sai phái! Được ví như Hồ tiên hàng đầu ở Bắc Kinh này!”

    “Sen” Lan Hà ngẩng phắt đầu lên: Hở???

    Tiểu Dương dõi mắt về phía núi Diệu Cảm, ngữ điẹu toát lên sự hối hận xen trong vẻ kiêu ngại: “Vị Hồ tiên nhà tôi có tính rất bạo, được xưng là cô Hồ Số Bảy Chín!”

    Lan Hà: “…”
     
  20. anhsaodem12

    anhsaodem12 Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    23/10/2020
    Bài viết:
    1,120
    Đã được thích:
    6
    Điểm thành tích:
    38
    Sau Khi Làm Vô Thường Bán Thời Gian Thì Tui “Hot”
    Chương 19: "Không Ngờ Chứ Gì, Tôi Duỗi Tay Ra Còn Dài Hơn Cô Đấy."

    Nếu không phải tại đạo diễn Liễu và Tiểu Dương không thể biết chuyện mình đã gặp phải thì Lan Hà sẽ nghi họ đang hợp tác bẫy mình ấy chứ.

    Cô Hồ Bảy Chín? Ở nhà người ta thì là lão thái gia, ở nhà cô thì xếp tận thứ bảy mươi chín, số hồ ly của Hồ gia hưng thịnh đến mức này hả? Mà quan trọng nhất là cái cô Hồ Bảy Chín này có quan hệ gì với chị Hồ anh quen không?

    Nếu có quan hệ, vả lại quan hệ còn không hề kém thì Lan Hà nghĩ anh có thể nói đôi lời.

    Chưa kể, nhờ sự phổ cập của Liễu Thuần Dương mà Lan Hà hiểu chun chút đến chuyện trước đó chị Hồ từng bảo muốn vào nhà anh ở, có khi là dùng cái hình thức này để anh cung phụng chị, làm sai vặt cho chị!

    Song, bởi vì hình tượng bây giờ của anh là chính khí và nghiêm túc, thành thử anh vẫn tiếp tục giả vờ làm người câm, im ỉm xem diễn biến.

    Liễu Thuần Dương nào biết Lan Hà còn biết cả cô chị cả, dù ông có hiểu biết về Tứ Đại Môn thì nhất thời cũng thấy khó xử.

    Hơn nữa, quan hệ giữa Hồ Môn với Bích Hà Nguyên Quân khăng khít hơn ba Môn kia. Nghe đồn khi Hồ tộc trong thiên hạ tu hành sẽ phải đến chỗ Thái Sơn nương nương để khảo hạch, chẳng biết có phải vì lí do này mà họ mới đứng đầu trong Tứ Đại Môn hay không.

    Bảng xếp hạng của tiên gia cũng chia theo thứ tự, nếu sắp xếp dựa theo dòng dõi thì dĩ nhiên Hồ Môn sẽ đứng đầu, thứ hai là Hoàng Môn. Hồ Hoàng trong thiên hạ không tách nhau, con đường tu luyện của hai nhà này khá tốt. Thứ ba là Bạch Môn, hạng bét là Liễu Môn.

    Nếu xếp dựa theo bản lĩnh thì sao? Nếu Tứ Đại Môn đều thần phục dưới tay Bích Hà Nguyên Môn thì bậc cao nhất đương nhiên là Môn có thể tu hành trên Đỉnh Vàng núi Diệu Cảm rồi. Bậc thứ hai là Môn làm hầu tại năm miếu Bích Hà thuộc năm Đỉnh. Bậc thứ ba là Môn sở hữu các miếu thờ có hương đàn Tứ Đại Môn. Bậc thứ tư là Môn có đám đệ tử làm hương sai tự xây đàn khẩu*. Bậc chót nhất là gia tiên được cung phụng trong gia đình.

    (*Đàn khẩu tức là những căn phòng được lập ra để thờ cúng, tế bái.)

    Cô Hồ Bảy Chín mà Tiểu Dương nhắc đến, dù là dựa theo dòng dõi hay bản lĩnh thì có vẻ đều thuộc hàng đầu, nghe hơi bị khó giải quyết đây.

    Song, để quay phim mà Liễu Thuần Dương bất chấp khó khăn luôn, chứ không thời gian và chi phí bị tổn thất của ông phải làm sao. Ông oan uổng quá, nhất định phải quay xong phim đã, "Cậu... Cậu đợi nhé, tôi đi tìm người hỏi thăm xem."

    Trần Tinh Dương nói nhỏ: "Cháu không hiểu mấy vụ này lắm, nhưng Bích Hà Nguyên Quân là con gái của Đông Nhạc Đại Đế kia mà, tại sao mình không đến miếu Đông Nhạc mời đạo sĩ, kiểu gì cũng đánh gục được cô Hồ Bảy Chín kia... Hầy, cái tên này dài quá đi mất!"

    Liễu Thuần Dương: "......"

    Bắc Kinh nhiều chùa miếu, người ta hay nói gõ chuông ở chùa Giác Tuệ, vay đĩnh vàng ở miếu Thần Tài, xem hỏa phán ở miếu Thành Hoàng, bước đậu vàng ở miếu Đông Nhạc, cho nên miếu Đông Nhạc cũng có chút tiếng tăm.

    Ngặt nỗi rất nhiều chuyện không thể nhìn là xong, không phải pháp sư nào cũng linh nghiệm, họ tiếp đãi chúng tín đồ với sự thiên vị khác nhau — Chưa kể do có quá nhiều cao nhân tại Bắc Kinh nên họ còn ước gì có thể rạch ròi một hai chuyện làm việc với nhau ấy chứ.

    Mạng lưới quan hệ của Liễu Thuần Dương rất ổn áp, lại còn được thúc đẩy, gọi vài cuộc xong bèn phái xe đi lên chùa Giác Tuệ đón hòa thượng xuống!

    Tiểu Dương cũng đáng thương, thậm chí cậu ta còn khá là mong đợi nữa là. Cậu ta đắc tội gia tiên, muốn trông chờ tiện thể cầu tình giúp cậu ta luôn. Cậu ta dâng hương cho thần tài mà thần tài chẳng đoái hoài gì cả.

    Người từ chùa Giác Tuệ vừa đến là những người khác thuộc đoàn phim vốn không biết có chuyện xảy ra chắc cũng đoán được rồi. Đó là nơi cầu phúc nức tiếng tại Bắc Kinh, còn mời một sư thầy rất nổi xình xịch, pháp danh là Tư Minh.

    Phương trượng pháp sư Bất Động của chùa Giác Tuệ đã không dễ rời núi từ lâu, đệ tử xuất sắc nhất dưới trướng ông là Tư Không lại là giám tự nên sự vụ bận rộn. Trừ hai người này ra thì Tư Minh cũng là một người nổi tiếng trong số các hòa thượng. Có thể mời được y là đã hiếm có lắm rồi.

    Liễu Thuần Dương đã phải mất hết bao nhiêu là công sức: Ông gọi cho Tống Khởi Vân. Nếu có chuyện nào không được nhiều người biết đến thì đó sẽ là Tống Khởi Vân có mối quan hệ qua lại rất tốt với cao tăng chùa Giác Tuệ.

    Liễu Thuần Dương chẳng chơi thân với Tống Khởi Vân cho cam, song đều ở trong giới nhiều năm rồi, thể diện cũng ở đây nốt, bạn bè chung lại nhiều, Tống Khởi Vân nghe ông gặp việc khó xử bèn ra mặt mời Tư Minh đến giúp.

    Pháp sư Tư Minh vẫn chưa đến tuổi trung niên, hàng mày thô rậm, vóc dáng cao to, cầm một cái gậy trong tay, khẩu âm phương Bắc.

    Trình Hải Đông vừa thấy bèn cầm lòng không đậu to nhỏ với Lan Hà: "Trông như võ tăng ấy."

    Không hổ là bạn thân, xỉa xói cũng giống anh như đúc. Lan Hà nghĩ, cái gậy này quả là vật cha truyền con nối của sư môn, ra ngoài cũng phải mang theo, có lẽ nói không hợp ý cái là sẽ đánh Hồ tiên ngay, không hổ là mãnh nam Lâm Tế tông!

    Đã có dân chuyên nghiệp đứng ra hòa giải, Lan Hà bèn nghĩ, vậy mình cứ tạm thời án binh bất động thôi. Hai giới âm dương đều tán thành sự linh nghiệm của chùa Giác Tuệ, pháp sư Bất Động anh trông thấy lần trước cũng rất chi là trâu bò, có lẽ không cần anh phải lo chuyện bao đồng đâu.

    Liễu Thuần Dương và pháp sư Tư Minh bàn bạc với nhau rồi để y làm lễ cúng bái, cũng canh ở đây vài ngày. Có thể làm Hồ tiên nguôi giận là tốt nhất, mà không nguôi thì cũng ngừa được việc mấy ngày nay sẽ không xảy ra chuyện gì ảnh hưởng tới việc quay phim, đằng nào cảnh quay ở đây cũng còn chút nữa là xong, quay tiếp là hết.

    Dĩ nhiên lúc quay phim đừng gây tiếng tránh ảnh hưởng đến việc thu âm là được...

    ...

    Tối đến, cả đoàn phim chẳng thức đêm nữa, 10 giờ là vội vã xong việc. Liễu Thuần Dương bảo mọi người về phòng, có nghe được tiếng gì cũng không được đi ra ngoài — Ai ai cũng chen chúc trong một cái viện khác. Mấy viện Hồ tiên chiếm đóng, từ địa điểm quay đến chỗ tá túc, đều phải dọn ra hết.

    Chẳng ai thấy căng thẳng cả, Liễu Thuần Dương đâu chỉ hò la lần đầu, bạn không thấy biểu cảm đầu lợn sai sai là ông ấy đã quát tháo lên rồi à.

    Lan Hà ngồi trong phòng đọc sách, Trình Hải Đông ghé đầu bên cửa sổ, lắng nghe tiếng động cách vách. Đó là pháp sư Tư Minh đang làm lễ, Lan Hà có thể ngửi thấy mùi nhang đèn thoang thoảng, "Kì cục ghê, chú nói coi hòa thượng có thể thu phục được không? Anh thấy pháp sư có pháp khí nào đâu."

    Lan Hà: "Anh ta cầm cái gậy còn gì?"

    "Chú em à, chú bình tĩnh thật đấy." Trình Hải Đông bật ngón tay cái với anh, rất ngưỡng mộ kiểu người chính khí toàn thân thế này, trong khi anh ta thì lo sốt vó lên, "Ôi, cái gậy kia trông chả khác gì chày cán bột, còn làm từ gỗ thường nữa chứ. Anh nghe nói phải dùng gậy làm từ gỗ đào, đánh lên người yêu quái thì mới thu phục được chúng."

    Lan Hà: "Em nghĩ... Gậy gỗ đánh lên người, ai mà chẳng khuất phục? Không nhất thiết phải dùng gậy gỗ đào đâu."

    Trình Hải Đông: "..."

    Trình Hải Đông: "Chú thì biết quái gì! Anh hết chuyện để nói với cái người không mê tín như chú rồi!"

    Lan Hà im lặng, cái giọng này nghe cứ như thể em mới là người mê tín ấy chứ.

    Liễu Thuần Dương đã dặn mọi người đi ngủ sớm, họ cũng chẳng nói được mấy câu là ngả lưng ngủ ngay.

    Khoảng đến 12 giờ đêm, Lan Hà bị tiếng động ngoài phòng đánh thức. Anh mở mắt bèn phát hiện Trình Hải Đông đã tỉnh, đương dán tai bên cửa sổ nghe ngóng, đoạn nhìn anh, hơi hốt hoảng: "Hình như anh nghe thấy tiếng của đạo diễn Liễu."

    "Gì?" Lan Hà cũng dỏng tai nghe, quả thật bên ngoài có tiếng của đạo diễn Liễu, vừa kêu thảm thiết vừa chửi um lên, "Tổ, tổ sư mày, cách xa ông mày hộ cái. Người đâu!"

    "Ở viện cách vách." Giọng Trình Hải Đông nhẹ đi, "Ông ấy không cho chúng ta ra ngoài cơ mà, sao tự đi ra làm gì? Làm sao đây hả Lan Hà, chúng ta ra ngoài cứu đạo diễn đi?"

    Lan Hà còn chưa kịp nói gì thì wechat trong máy cả hai đồng thời rung lên, nhấn mở, có người gửi tin nhắn trong nhóm của đoàn phim.

    Liễu Thuần Dương: Má nó, tôi chưa ra khỏi cửa đâu! Tất cả mọi người đừng đi ra ngoài!!!!!

    Lan Hà: "..."

    Trình Hải Đông rùng mình, chửi nhỏ thành tiếng: "Đệt..."

    Đạo diễn Liễu chưa ra khỏi cửa thì người đang đứng chửi đổng ngoài kia là ai?

    "Hức hức hức anh sợ." Trình Hải Đông nép mình vào người Lan Hà. Ngoài hai người ra thì những người khác đều ngủ say như chết — Ban ngày đã mệt như tó, lại không có nhiều gánh nặng tâm lý, 12 giờ đêm rồi, đắp chăn đi ngủ thôi.

    Lan Hà lưỡng lự, chợt nói nhảm: "Hay là có người nhặt điện thoại của đạo diễn Liễu, hoặc đạo diễn Liễu lại gặp ảo giác, mộng du?"

    Trình Hải Đông: "Hu hu, chú nói thêm vài câu nữa đi, anh sợ lắm."

    Lan Hà: "..."

    Trình Hải Đông rúc vào chăn, bịt tai lại: "A di đà phật, cao tăng cố lên. Anh vẫn nên đi ngủ thôi."

    Lan Hà vừa nằm xuống thì lại nghe ngoài kia có người gân cổ quát: "Một chữ là gì? Hai chữ là gì? Ba chữ là gì? Bốn chữ là gì?"

    Giọng nói này có hơi xa lạ, Lan Hà phải mất một lát mới nhớ ra là giọng của pháp sư Tư Minh.

    "Anh ta đang nói gì vậy trời..." Trình Hải Đông lè nhè hỏi, chẳng mấy chốc sau anh ta bèn chắc mẩm có lẽ y đang niệm kinh. Thôi đừng chõ mũi vào nữa, ngủ thôi, nghiêm túc thực hiện lời đạo diễn dặn.

    Lan Hà nằm trên giường nghĩ một phút, cứ thấy là lạ sao đó. Cái vụ này quá hung, mà anh nhớ trước đó vẫn có mùi nhang đèn thoang thoảng, giờ không còn nữa.

    Lẽ nào đại hòa thượng chùa Giác Tuệ cũng ngủm rồi? Lan Hà khó tin, nhắm mắt lại, hồn rời khỏi xác, định bụng ngó cái xem sao.

    Trình Hải Đông vẫn nơm nớp lo sợ, nhìn trần nhà: "Anh, anh hơi mất ngủ, chú thì sao?"

    Vừa quay đầu sang, Lan Hà đã quay lưng về phía anh ta ngủ say như chết, không có động tĩnh gì, người được trời chọn – Trình Hải Đông – ứa giọt nước mắt hâm mộ.

    ...

    Lan Hà chuẩn bị một phen, đeo khẩu trang đi ra cửa, bay qua đầu tường sang viện cách vách bèn nhìn thấy đạo diễn Liễu nằm sõng soài trên đất, đã mất ý thức, áo ba lỗ bị vén lên, bụng lộ ra.

    ... Giọng nói ban nãy là của đạo diễn Liễu thật? Vậy ai đã gửi tin nhắn?

    Pháp sư Tư Minh đương ngồi thiền bắt chéo chân bên cạnh bàn thờ, chẳng hiểu sao ngũ quan lại vặn vẹo, mắt xếch lên, miệng nhọn hoắt.

    Y xoay đầu nhìn Lan Hà, còn tưởng là âm sai đi ngang qua, chẳng đoái hoài tới nữa, phủi đùi ngân giọng tự hỏi tự đáp: "Một chữ à, là tăng. Hai chữ là hòa thượng. Ba chữ là quỷ nhạc quan. Bốn chữ là sắc trung ngạ quỷ*!"

    (*Đây là một câu nói trong Thủy Hử, ý chỉ chửi người xuất gia, nằm trong cảnh Dương Hùng say rượu chửi Phan Xảo Vân, Thạch Tú giết Bùi Như Hải. Trước đó, Phan Xảo Vân – vợ Dương Hùng – đã lang chạ với hòa thượng Bùi Như Hải.)

    Lan Hà: "..."

    Nghĩ cũng biết chắc chắn đây không phải pháp sư Tư Minh rồi, chứ làm sao có chuyện mặt mũi trông như hồ ly, còn chửi cả hòa thượng thế kia.

    Lan Hà cầm một thứ trong tay, tiến lên lịch sự hỏi: "Xin hỏi, cô là cô Hồ Bảy Chín sao?"

    "Pháp sư Tư Minh" lé mắt nhìn anh, "Đúng là bản tiên cô, ngươi có việc gì?"

    Lan Hà chắp tay, "Kẻ hèn này là Tiểu Lai thuộc âm ty Đông Nhạc. Tôi có chút giao tình với hòa thượng chùa Giác Tuệ này, xin cô Bảy Chín hãy nương tay, tha cho anh ta một lần."

    Hồ tiên nhập vào thân xác này nhổ một bãi nước miếng xuống đất, vuốt cái đầu trọc lốc của mình, "Bảo ta tha cho hắn? Ngươi cũng biết tại sao hắn lại làm càn ở địa bàn của ta rồi đấy. Trông dữ dằn thì chớ, đang nói bình thường tự dưng quát lên, muốn lấy gậy đánh ta. Xùy, đúng là không trọc không độc, không độc không trọc* mà, cái đồ đầu trọc chết tiệt không hiểu lí lẽ!"

    (*Cũng là câu trong Thủy Hử và mang ý chửi hòa thượng.)

    Cô ta càng nói, giọng càng rít lên cao, sau cùng chẳng còn giống giọng của pháp sư Tư Minh nữa.

    Lan Hà: "..."

    Cô Bảy Chín chửi nghe cũng logic đấy chứ...

    Nhưng anh phải nói giúp cho Tư Minh về vụ này, cô ta hiểu lầm pháp sư Tư Minh rồi, có lẽ người ta chỉ muốn bổng hát Hồ tiên này tí thôi, ai ngờ Hồ tiên này không phải người tu thiền, chẳng có ngộ tính nào.

    Cô Hồ Bảy Chín chửi đến là hăng say, liếc xéo Lan Hà: "Tốt nhất là ngươi đừng có lo chuyện bao đồng. Nếu không, đừng trách tiên cô không nể mặt."

    Xem ra thể diện của Vô Thường vẫn chưa đủ trước mặt Hồ tiên. Lan Hà đành hỏi dò: "Tôi với chị cả Hồ có quen biết nhau, chẳng hay có thể nể mặt chị ấy không..."

    Lúc này Hồ tiên mới nhìn Lan Hà: "Ngươi quen chị cả à?" Cô và chị cả cùng tông cùng tộc, đều ở Bắc Kinh, ba đời là người một nhà, nhưng luận về thứ hạng thì chị cả giỏi hơn nhiều. Chị cả sinh ra đã có chữ "Thiên" trên bụng, sau này làm người hầu cho nương nương trên núi Diệu Cảm, tương lai tốt hơn các cô nhiều.

    Lan Hà nhìn dáng dấp cô ta là đã âm thầm nắm chắc rồi. Lúc cô ta nhắc đến chị cả, ngữ điệu khá là tôn kính, tức là không phải họ hàng gần thì cũng là tiền bối cùng tộc. Cũng phải thôi, chẳng phải cả hai đều đã từng ở trên núi Diệu Cảm đấy sao.

    Lan Hà gật đầu, "Phải, có thể pháp sư Tư Minh nói năng chưa thỏa đáng, chứ thật ra... Họ rất có thành tín, muốn cô nguôi giận, vốn dĩ chuyện này chỉ là ngoài ý muốn, Tiểu Dương chưa nói chuyện trong nhà cung phụng gia tiên."

    Hồ Bảy Chín nhảy xuống bàn, đi tới: "Hừ, ta biết chứ. Ban đầu ta cũng nhịn, thấy tên họ Liễu kia đau bụng còn có lòng xoa bụng giúp ông ta, ai ngờ ông ta còn chửi ngược lại ta. Chửi xong không chịu đi mà vẫn ở lại tiếp. Còn cái nhà họ Dương này nữa, tham lam vô độ, ngày càng quá quắt!"

    Mỗi một tiên gia sở hữu năng lực khác nhau. Đa số gia tiên phù hộ gia đình bình an, thịnh vượng phát tài; trong khi đàn tiên có nhiều công năng hơn, như chữa bệnh, trừ tà, vân vân. Hồ Bảy Chín khác với các gia tiên tầm thường khác, cho nên cô ta còn biết chữa bệnh nữa. Lúc đó Liễu Thuần Dương bị viêm dạ dày cấp tính, cô ta tốt bụng xoa bụng cho Liễu Thuần Dương, còn xoa đến khi khỏi hẳn.

    Lan Hà nghiêm túc lắng nghe, chỉ thấy cô ta bước đến trước mặt rồi đột ngột duỗi tay, để lộ móng tay nhọn hoắt, quào về phía Lan Hà!

    Lan Hà giật thót, nhanh chân bay về sau né, chỉ để lại một đường cào trên đồng phục: "Cô làm gì vậy?"

    Hồ Bảy Chín lạnh giọng: "Đám Vô Thường các ngươi ba hoa thành thói, gặp chị cả là dám xưng thân quen. Cho dù ngươi là ai, theo quy củ của Hồ gia ta, muốn nói chuyện với ta thì phải có cái tư cách này!"

    Cô ta lại vươn tay, để lộ móng tay dài cho Lan Hà xem, còn tỏ vẻ khoe khoang.

    Lan Hà không biết tác phong của Tứ Đại Môn các cô lại là như thế này, trước đây qua lại với chị Hồ còn thấy dễ gần lắm cơ mà. Anh không biết rằng tuy Tứ Đại Môn được xưng là "tiên gia" và cũng tu hành, nhưng chỉ cần để ý là biết tính cách khác nhau. Rất nhiều Hồ tiên vốn có tính tà, vậy sẽ có vài tiên gia Tứ Đại Môn hay làm chuyện xằng bậy rồi.

    May là Lan Hà đã có chuẩn bị mà đến, thấy vậy bèn đốt móng tay sau lưng, cũng vươn tay ra, móng tay trái vừa dài vừa nhọn, tỏa hàn quang lạnh buốt, lập lòe trước mắt cô Bảy Chín.

    Hồ Bảy Chín ngạc nhiên: "Ngươi!"

    Lan Hà: "Không ngờ chứ gì, tôi duỗi tay ra còn dài hơn cô đấy."

    Hồ Bảy Chín: "......"

    Cô ta vẫn không cam lòng, muốn thách chiến bản lĩnh của Lan Hà, lại duỗi tay ra.

    Nhưng lần này Lan Hà đã có chuẩn bị, năng lực của chị cả dâng khắp người, tốc độ của cô Bảy Chín trong mắt anh quá chậm, vừa duỗi tay là đã bắt được cổ tay cô Bảy Chín, làm cô ta muốn thoát cũng chẳng thoát nổi, giữ cô ta lại dễ như chơi.

    Tay còn lại của Lan Hà lấy một sợi dây xoắn bằng giấy trói cổ tay cô ta lại. Đó là giấy lần trước mượn từ chỗ cảnh sát Vương, dẫn theo chính khí dương gian. Cô Hồ Bảy Chín tức thì hét toáng lên, cơ thể nhoáng cái nhảy ra khỏi người pháp sư Tư Minh, kêu lên: "Ta nhận thua! Ta nhận thua!"

    Chỉ thấy chân thân của cô ta là một cô gái mười bảy, mười tám tuổi, mặc váy Mã Diện thêu sao trăng, đôi mắt xếch có vài phần giống chị cả, song ngũ quan lại diễm lệ hơn. Giấy của cảnh sát làm cô ta không chịu được, quan lại trên dương gian có tác dụng kiềm chế nhất định đối với người cõi âm.

    Cô nhấc chân lên như phải bỏng, đau khôn kể, đặt mông ngồi trên bụng Liễu Thuần Dương khóc nức nở, chẳng còn vẻ hung hãn ban nãy, ngay cả ngũ quan sắc bén cũng nhu hòa đi mấy phần.

    Liễu Thuần Dương lẩm bẩm đôi tiếng, lại không thốt thành lời, chỉ nhắm mắt nhíu mày, chắc là gặp ác mộng, có khả năng lần này bị cái mông đầy lông đè lên bụng.

    Lan Hà: "Cô đứng dậy trước cái đã..."

    Bây giờ lại thành ra như thể anh đang bắt nạt một cô gái vậy.

    Nhưng có lẽ vì quá đau nên Hồ Bảy Chín cứ khóc rưng rức mãi.

    Lan Hà lấy làm bất đắc dĩ, nhác thấy trên bàn thờ còn có gà quay Liễu Thuần Dương mua bèn đi tới, xé một nửa bắt đầu ăn, "Thật ra thì tôi vẫn luôn muốn nói chuyện một cách hòa nhã với cô về vụ này..."

    Hồ Bảy Chín sửng sốt, chẳng nghe lọt lời anh mà chỉ nhìn con gà quay của mình bị xé mất nửa rồi khóc to hơn nữa.

    Bình thường cô mà khóc như vậy là ít nhiều gì người ta cũng sẽ nể mặt cho, ấy vậy mà ngài Đến này rất là lạnh lùng, ăn nhanh như một cơn gió, thậm chí tay kia còn duỗi đến nửa còn lại, "Chúng ta vừa ăn vừa nói nhé."

    Hoặc có thể nói là anh ăn, Hồ tiên nhìn và nói.

    Hồ Bảy Chín khóc suýt hết hơi, tức thì nhào tới, mặt xám mày tro: "Chúng, chúng ta nói chuyện đi!"

    Ngài Đến vẫn chưa tha cho con gà quay, "À, vậy nói thôi."

    Hai bàn tay trắng trẻo của Hồ Bảy Chín quệt nước mắt, quật cường nói: "Tiên gia chúng ta so chiêu, nói chuyện bằng bản lĩnh, kẻ thua không có tư cách nói lí. Ta phục Vô Thường nhà ngươi rồi đấy, ngươi muốn ta làm gì cứ nói là được, cớ sao ngươi cứ phải nhằm vào ta, đừng lấy gà của ta nữa..."

    "Ớ? Xin lỗi nha." Lan Hà vẫn lưu luyến ăn nốt cái chân gà cuối cùng rồi mới ngồi ngay ngắn lặp lại, "Nghe nói vài ngày nữa đoàn phim kia mới xong việc, trước đó họ không biết nơi đây có tiên gia, sẵn lòng nhận lỗi. Cô nói đi, đằng nào cũng là cô bị quấy rầy, xem có thể cố tìm cái chung, gác lại cái bất đồng không."

    Hồ Bảy Chín rưng rưng bĩu môi, giọng điệu vẫn cương quyết lắm, "Được, vậy ta cũng thẳng thắn luôn. Thật ra ta đã quyết định rời khỏi nhà họ Dương, trở về núi tu hành từ lâu rồi, vừa khéo dạo này cũng bất ổn. Nể mặt ngươi, ta cũng bỏ qua cho tên hòa thượng và đạo diễn này, nhưng hãy bảo người đoàn phim lấy bài vị của ta ra khỏi nhà họ Dương, cung kính tiễn ta một đoạn đường. Ta sẽ rời đi như vậy, tuyệt đối không quấy rầy nữa."

    Cái này thì dễ, đúng là Hồ Bảy Chín không thích quậy thật sự. Lan Hà lại hỏi: "Vậy có cần hương khói gì không?"

    Hồ Bảy Chín ngẩng đầu: "Vừa thua ngươi, chẳng muốn gì hết!"

    Lan Hà cầm một bó hương ra: "Là đám hương này này..."

    Hồ Bảy Chín nhảy tót tới, dùng mặt hồ ly hít sâu, ngũ quan co rúm thành một cục, "Thơm quá đi mất thôi!!!"

    Lan Hà: "..."

    "Muốn chứ muốn chứ!!! Ta muốn chứ, ngươi lấy đâu ra vậy!" Hồ Bảy Chín cất hương đi rồi nói với Lan Hà: "Gượm đã, ta mượn thân xác hắn làm một chuyện đã." Cô ta chỉ vào người Tư Minh.

    Lan Hà mang máng đoán ra, "Được. Vậy sau khi cô xong việc cứ nói thẳng với anh ta là cô muốn họ phải sắp đặt bài vị cho cô như thế nào nhé. Bên ta còn có việc."

    Hồ Bảy Chín đồng ý, thế là anh về luôn, thực sự không muốn giáp mặt nói câu nào với Tư Minh cả.

    Hồ Bảy Chín thấy là lạ, ngẫm nghĩ nhìn sườn mặt anh một lát, nghĩ bụng hành vi của tên Vô Thường này cứ...

    Mặt cô ta tỉnh rụi, lại nhập vào thân xác của pháp sư Tư Minh, hoặc nói theo lời họ thì là "trảo tọa", mượn cơ thể của Tư Minh để nói chuyện. Lần này, cô ta đi đến phòng Tiểu Dương gõ cửa.

    Một lúc lâu sau, Tiểu Dương mới nơm nớp mở cửa. Do Liễu Thuần Dương đã dặn đừng mở tùy tiện nên cậu ta nhìn ra cửa sổ thấy bên ngoài là Tư Minh mới mở, đoạn đắn đo hỏi, "Pháp sư...? Sao vậy, xong việc chưa?"

    Bèn nghe vị "pháp sư" này điềm nhiên nói: "Ta và nhà ngươi vốn có duyên kiếp trước, vào bảo vệ cái nhà này đã mười năm. Nhưng những năm gần đây, các ngươi không hề tu phúc như lời ta nói, ngược lại ngày càng nảy lòng tham, thậm chí còn lừa đoàn phim đến thuê nữa."

    Lúc bấy giờ Tiểu Dương mới nhận ra đây không phải pháp sư mà là tiên gia đang nhập vào để nói chuyện!

    Thật ra không phải lúc nào gia tiên cũng để lộ tung tích, đối thoại lại càng hiếm. Tiểu Dương chỉ nhớ hồi còn bé có lần ngã trầy chân, cậu ta khóc rấm rứt thiêm thiếp ngủ. Trong lúc mơ màng, có một bàn tay nhỏ xoa đầu gối cho cậu ta, thế là chân khỏi ngay, ông nội nói đó là nhờ gia tiên phù hộ.

    "Pháp sư" nổi lòng thương tiếc: "Ta hãy còn nhớ lúc bé ngươi còn nói với ông nội ngươi, sau này lớn lên ngươi muốn làm bác sĩ trị bệnh cứu người, cứu những căn bệnh ngoài đời thực mà tiên gia phải bó tay. Nhưng người nhà họ Dương bây giờ đã thay đổi rồi. Duyên phận giữa ta và nhà ngươi đã hết, vài ngày nữa sẽ rời đi!"

    Tiểu Dương nhất thời có cảm giác bứt rứt. Hóa ra gia tiên đã nghe thấy mấy câu nói thời còn thơ mà ngay cả chính cậu ta cũng đã quên mất, "Thần tài à, chúng tôi..."

    Còn chưa dứt lời, Hồ Bảy Chín đã thổi hơi vào cậu ta, cậu ta mặt dại ra quay về ngủ.

    Cô Hồ Bảy Chín xoay người: "Thôi cứ vậy đi."

    ...

    Hôm nay.

    Liễu Thuần Dương chẳng biết chuyện quái gì đã xảy ra đêm qua, nào là mình chửi quỷ này quỷ nọ bên ngoài sân, nào là gửi tin nhắn... Hoàn toàn không biết gì hết, cứ như mộng du. Thứ duy nhất ông nhớ là cái bụng trong mơ cứ âm ỉ khó chịu, như bị vật nặng nào đó đè lên.

    Tư Minh cũng ngơ ngác giữa chừng, y không địch lại vị Hồ tiên kia, bị nhập vào. Nhưng sau đó, Hồ tiên này bỗng dưng nói cho y biết có một Vô Thường xin tha cho y, cô ta đã nhận lời với Vô Thường rồi. Vì lẽ đó, chỉ cần làm theo lời cô ta nói rồi tiễn bước cô ta đi là được, cô ta sẽ không ở lại nhà họ Dương nữa. Tư Minh đã gặp Vô Thường, song không biết cố nhân nào giúp cho mà Hồ tiên bằng lòng rời đi.

    "Quan tâm làm gì, tiễn bước được là tốt rồi." Liễu Thuần Dương chẳng quan tâm nhiều như vậy, bèn gọi Tiểu Dương dậy, hỏi xin bài vị Hồ tiên nhà cậu ta.

    Vì muốn gạt đoàn phim nên bài vị Hồ tiên vốn nên cung phụng đàng hoàng cũng bị Tiểu Dương cất đi. Cậu ta còn tưởng tối qua chỉ nằm mơ mà thôi, nào ngờ Hồ tiên đi thật. Cậu ta ngơ ngác đưa bài vị ra.

    Cũng vào lúc này, Tiểu Dương nhận một cuộc gọi – là bố cậu ta gọi tới, nói cho cậu ta biết mình bất cẩn bị lũ lừa đảo lừa bịp, một khoản tiền gửi ngân hàng kếch sù bị mất sạch.

    — Gia tiên vượng gia, đem vận may tới. Nếu đi thì bao nhiêu vận may từng có được cũng sẽ không cánh mà bay.

    Tiểu Dương nổi đóa chửi ầm lên, vội vã muốn đi đòi tiền, nhưng nghĩ lại cũng vô ích.

    Liễu Thuần Dương thờ ơ nhìn: "Nhà cung phụng gia tiên phất lên nhanh, nhưng không giữ được bản tâm thì cũng sẽ không giữ được tài phú. Mà sau khi hưởng thụ những tháng ngày tốt đẹp, không phải ai cũng có thể giữ được tấm lòng thuở ban sơ."

    .

    Chùa Giác Tuệ.

    Tư Minh bị nhập một lần, sắc mặt chẳng mấy tốt đẹp, bên Liễu Thuần Dương chủ động bày tỏ họ sẽ chịu trách nhiệm đưa bài vị lên núi là được. Y quay về an vị ngồi dưới ánh mặt trời hưởng nắng, khôi phục dương khí.

    Tống Phù Đàn cũng ngồi dưới bóng cây gõ chữ, hai người gặp nhau bèn gật đầu chào hỏi. Đậu Xuân Đình gác chân ngủ nướng trên ghế đá, thấy y bèn hỏi một câu: "Pháp sư à, gậy của thầy đâu?"

    Tư Minh ỉu xìu: "Gãy rồi."

    Đậu Xuân Đình ngồi bật dậy, "Ủa, sao lại gãy?"

    Còn không phải bị Hồ tiên bẻ gãy à, Tư Minh còn chưa kịp đáp thì Tống Khởi Vân đã tới. Hôm nay ông đến chùa thăm con trai, còn mang mấy quả trái cây, thấy Tư Minh bèn bắt chuyện: "Pháp sư Tư Minh, cuối cùng cũng gặp được thầy rồi, lại ăn vài trái đi. Tôi nghe Liễu Thuần Dương kể là chuyện đã giải quyết xong xuôi, còn tưởng sáng nay thầy sẽ về mà chẳng tìm thấy thầy đâu... Cảm ơn thầy nhé!"

    "Ngại quá ngại quá, sáng nay tôi có việc!" Tư Minh không kể công, chỉ đáp, "Thật ra không hề liên quan gì đến tôi, cũng chẳng biết nhờ phúc của sư trưởng nào mà đến gậy còn bị Hồ tiên bẻ gãy, nhưng Hồ tiên này lại nói cô ta chịu sự nhờ vả của một Vô Thường, Vô Thường này thường qua lại tốt với người trong chùa, cho nên nể mặt y, chuyện mới được giải quyết."

    Tống Khởi Vân nói ngay: "Vậy vẫn là làm phiền đến thầy rồi! Ngại thật đấy..."

    Tống Khởi Vân đang nói dở thì con trai ông bỗng dưng xoay đầu sang hỏi: "Vô Thường, có qua lại? Thầy đã gặp Vô Thường đó chưa?"

    Tư Minh gãi cái đầu trọc lốc, đoạn xuýt xoa. Hồ tiên kia cào rách da đầu y, trên người cũng có vết thương, thành thử sáng nay y phải đi tiêm vắc-xin ngừa bệnh dại rồi mới về, "Vẫn chưa gặp. Sau khi tôi tỉnh thì Vô Thường đã đi mất rồi. Sao vậy Phù Đàn, cậu biết cái gì à?"

    Tống Phù Đàn lắc đầu im lặng, nhưng trong lòng đã đoán ra đó là Tiểu Lai, nể tình hắn và chùa Giác Tuệ nên mới ra tay giúp Tư Minh... Y tốt bụng thật.

    Tống Khởi Vân và Tư Minh lại hàn huyên thêm đôi câu, Đậu Xuân Đình nhìn lén màn hình của Tống Phù Đàn: "Anh ơi, viết cốt truyện mới hả? Em đọc dàn ý của anh rồi, hình như bị thiếu cái gì đó?"

    Tống Phù Đàn lờ cậu ta đi.

    Nhưng Tống Khởi Vân quay đầu lại hỏi, "Hửm? Cháu nói thiếu cái gì cơ?"

    Đậu Xuân Đình cười khì, "Ha ha, thiếu tuyến tình cảm ấy ạ. Cốt truyện thì rất kịch tính, nhưng sao không có người yêu đương với nam chính?"

    Tống Phù Đàn đang viết cốt truyện mới, lúc đắp nặn nhân vật bất giác thả bóng hình Tiểu Lai vào, cũng dùng tên của Tiểu Lai. Ban đầu hắn chưa nghĩ nhiều, tại hắn chưa nghĩ ra kiểu người như thế nào sẽ xứng đôi với Tiểu Lai thôi.

    Càng về sau này, khi số lần hắn và Tiểu Lai gặp nhau nhiều lên, nhân vật dưới ngòi bút hắn cũng ngày một tròn vẹn, không muốn sửa nữa. Thậm chí, hắn có phần không muốn đưa cho Tống Khởi Vân quay. Chứ không thì ai có thể đóng Tiểu Lai đây?

    Tống Khởi Vân nghĩ đoạn: "Không phải bộ phim điện ảnh nào cũng phải có tình cảm, nhưng nhân vật Tiểu Lai này rất đáng yêu, con có thể suy nghĩ bỏ thêm một vài tình tiết tình cảm mờ ám vào, ví dụ như người yêu thanh mai trúc mã chẳng hạn, chứ vai này mà độc chiếm hết sự chú ý thì..."

    Tống Phù Đàn lạnh lùng nói: "Không bỏ thêm."

    Tống Khởi Vân đành rút lời lại.
     

Chia sẻ trang này