Hà Nội: So sánh hai giáo trình tiếng Nhật chủ yếu hiện nay!

Thảo luận trong 'CÁC SẢN PHẨM, DỊCH VỤ KHÁC' bởi Thuy Duong Japanese, 28/1/2015.

  1. Thuy Duong Japanese

    Thuy Duong Japanese Thành viên tập sự

    Tham gia:
    1/7/2014
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    3
    Minna no Nihongo và Genki là hai giáo trình rất quen thuộc đối với những ai mới làm quen với tiếng Nhật. Phần đông những trung tâm tiếng nhật ở Việt Nam chọn Minna no Nihongo làm giáo trình chính, tuy nhiên vẫn có những bạn sử dụng Genki để bắt đầu học tiếng nhật. Vậy những ưu điểm, khuyết điểm của hai giáo trình là gì, và lựa chọn nào sẽ là phù hợp cho trường hợp của bạn? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu.

    [​IMG]

    Minna no Nihongo là giáo trình được viết hoàn toàn bằng tiếng Nhật. So với Genki có phần giải thích bằng tiếng Anh thì Minna no Nihongo được đánh giá là không thân thiện với người học tiếng Nhật sơ cấp. Nhưng nếu bạn đã học qua một vài bài và quen với cách thiệt kế bài giảng cũng như cách giải thích của giáo trình, thì Minna no Nihongo sẽ trở nên vô cùng hữu ích vì bạn sẽ học tiếng Nhật bằng tiếng Nhật. Bản chất của việc học ngôn ngữ là cọ xát thực tế. Chính vì thế, nếu bạn học tiếng Nhật bằng Minna no Nihongo, bạn sẽ có cơ hội tiếp xúc với tiếng Nhật nhiều hơn học bằng Genki, qua đó tiến bộ nhanh chóng hơn. Tuy nhiên, đối với những ai tự học, không tự tin với khả năng tiếp thu tiếng Nhật của mình hoặc muốn học tiếng Nhật thông qua tiếng Anh, thì Genki là một lựa chọn đúng đắn.

    Nội dung của Minna no Nihongo cũng được đánh giá là phức tạp hơn so với Genki. Trong khi phần từ vựng của Genki chỉ có khoảng 1700 từ, thì Minna no Nihongo lại cung cấp đến hơn gần 2200 từ, và có nhiều từ rất hữu dụng trong đời sống hằng ngày. Ngoài ra, phần ngữ pháp của Minna no Nihongo đề cập đến nhiều mẫu ngữ pháp hơn, tất cả đều được sử dụng rất nhiều trong đối giao tiếp đời thường, chẳng hạn như 〜 ように、〜ために、ばかり、ところ、 て・で , đồng thời còn giới thiệu những cách dùng cao cấp hơn của những mẫu ngữ pháp đấy. Phần bài tập của Minna no Nihongo buộc người học phải áp dụng những mẫu ngữ pháp đã học nhiều lần một cách thật cẩn thận vì nhiều bài tập sử dụng những biến thể ngữ pháp hiếm gặp.

    [​IMG]

    Đặc biệt, Minna no Nihongo có cả phần Trung cấp, dành cho những ai đã hoàn thành giáo trình sơ cấp muốn tiếp tục tìm hiểu thêm về tiếng Nhật, trong khi Genki lại không có phần này. Tuy nhiên, giáo trình Minna no Nihongo lại được chia thành nhiều quyển khác nhau ứng với một kĩ năng riêng biệt như nghe, nói, đọc, viết, kanji… Điều này có thể là lợi thế đối với các bạn muốn hoàn thiện nhiều kĩ năng, nhưng lại khá rắc rối khi tập hợp cho đủ bộ. Trong khi đó, giáo trình Genki tổng hợp mọi kĩ năng trong cùng một quyển sách, giúp người học thuận lợi hơn trong việc tìm mua.

    Tóm lại, Minna no Nihongo và Genki đều là những giáo trình phù hợp cho những bạn mới bắt đầu học tiếng Nhật. Tuy nhiên giữa hai giáo trình vẫn có một sự khác biệt về đối tượng. Nếu bạn đã quyết định đầu tư thời gian cho tiếng Nhật một cách nghiêm túc, thì Minna no Nihongo là lựa chọn chính xác. Còn nếu bạn vì một lý do nào đó vẫn chưa toàn tâm cho tiếng Nhật, hoặc không muốn tìm hiểu sâu hơn, thì Genki sẽ là một lựa chọn không tồi.

    Bạn thì sao? Bạn đang học tiếng Nhật bằng giáo trình nào? Bạn có đồng ý với những so sánh trên không? Hãy cùng comment và chia sẻ nhé.



    Nguồn: Akira Education - Trung tâm tiếng nhật tại Hà Nội - Học tiếng nhật tại hà nội
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi Thuy Duong Japanese
  2. Phonghuyen2010

    Phonghuyen2010

    Tham gia:
    6/9/2012
    Bài viết:
    11,858
    Đã được thích:
    1,435
    Điểm thành tích:
    963
    Ðề: So sánh hai giáo trình tiếng Nhật chủ yếu hiện nay!

    nhìn sách này lạ thế mình chưa thấy lần nào luôn chắc cũng hay lắm :)
     
  3. Thuy Duong Japanese

    Thuy Duong Japanese Thành viên tập sự

    Tham gia:
    1/7/2014
    Bài viết:
    18
    Đã được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    3
    Tiếng Nhật và những quy tắc biến âm!

    “Biến âm” là một phần rất quan trọng khi học tiếng nhật. Các bạn có thể gặp nhiều biến âm trong tiếng Nhật, ví dụ: “koi” là “tình yêu”, “hito” là người còn người yêu là “koibito”. Chữ “hito” được biến thành “bito” cho dễ đọc.

    [​IMG]

    Các bạn có thể xem danh sách ví dụ dưới đây:

    恋 koi + 人 hito = こいびと koibito (hi thành bi) (người yêu)

    手 te + 紙 kami = てがみ tegami (ka thành ga) (lá thư)

    国 koku + 家 ka = こっか kokka (ku thành âm lặp tsu nhỏ) (quốc gia)

    発 hatsu + 展 ten = はってん hatten (tsu thành âm lặp tsu nhỏ) (phát triển)

    脱 datsu + 出 shutsu = だっふつ dasshutsu (tsu thành âm lặp tsu nhỏ) (thoát ra)

    つけっ放し tsukeppanashi (bật máy móc, điện,… rồi để đó không dùng): hanashi thành panashi

    日々: hibi (ngày ngày), chữ 々 là để chỉ lặp lại chữ trước đó, “hi” biến thành “bi”

    人々: hitobito (người người), chữ “hito” thứ hai biến thành “bito”

    国々: kuniguni (các nước), “kuni” thành “guni”

    近頃: chika (gần) và koro (dạo) thành chikagoro = “dạo này” (koro thành goro)

    賃金: chin (tiền công) và kin (tiền) thành chingin (tiền công), “kin” thành “gin”

    順風満帆: “thuận phong mãn phàn” (thuận lợi như được gió căng buồm), các chữ riêng là “jun + fuu + man + han” thành jumpuumampan

    それぞれ: sorezore (lần lượt là, từng cái là)

    青空=あおぞら: ao + sora = aozora (bầu trời xanh)

    Các bạn có thể thấy là cách đọc một số âm trong từ ghép hay từ lặp có thay đổi trong các ví dụ trên.

    Tại sao lại biến âm như vậy? Mục đích là để cho dễ đọc và tránh nói nhầm.

    Ví dụ chữ 賃金 nếu nói nguyên là “chinkin” thì rất khó phát âm còn nói là “chingin” thì dễ phát âm hơn.

    Các âm đục bao giờ cũng dễ phát âm hơn các âm trong, ví dụ “sore zore” dễ phát âm hơn “sore sore”.

    Dưới đây là các quy tắc biến âm trong tiếng Nhật



    Một số quy tắc biến âm trong tiếng Nhật

    (1) Từ ghép hay từ lặp: Hàng “ha” (ha hi fu he ho) thành hàng “ba” (ba bi bu be bo) vốn là âm đục của hàng “ha”.

    は ひ ふ へ ほ → ば び ぶ べ ぼ

    Các bạn có thể thấy là âm đục có cách viết y nguyên chỉ thêm vào dấu nháy ký hiệu.

    Ví dụ: koi + hito = koibito, 日 hi + 日 hi = 日々 hibi (ngày ngày)

    (2) Hàng “ka” thì thành hàng “ga”

    か き く け こ → が ぎ ぐ げ ご

    Ví dụ: 近頃 chika + koro = chikagoro

    (3) Hàng “sa” thành hàng “za”

    さ し す せ そ → ざ じ ず ぜ ぞ

    Ví dụ 矢印 ya (mũi tên) + shirushi (dấu) = yajirushi, 中島 naka + shima = nakajima (tên người)

    (4) Hàng “ka” mà được tiếp nối bởi một âm hàng “ka” tiếp thì biến thành âm lặp (tsu nhỏ)

    Ví dụ: 国旗 (quốc kỳ) koku + ki = kokki こっき chứ không thành kokuki

    (5) Hàng “ha” mà đi theo sau chữ “tsu” つ thì chữ “tsu” biến thành âm lặp (tsu nhỏ) còn hàng “ha” sẽ thành hàng “pa”

    は ひ ふ へ ほ → ぱ ぴ ぷ ぺ ぽ

    Ví dụ: 活発(かつ+はつ)=かっぱつ, katsu + hatsu = kappatsu

    Hàng “ha” mà đi sau âm lặp (chữ “tsu” nhỏ = “っ”) thì thành hàng “pa”

    Ví dụ: つけっぱなし

    (6) Hàng “ka” mà đi sau “n” (ん) thì thành hàng “ga”

    Ví dụ: 賃金=ちんぎん

    (7) Hàng “ha” đi sau “n” (ん) thì thường thành hàng “pa” (phần lớn) hoặc hàng “ba” (ít hơn)

    Ví dụ: 根本=こんぽん, kon + hon = kompon (căn bản)

    (8) Âm “n” (ん) ở ngay trước hàng “pa” hay hàng “ba” hay hàng “ma” thì phải đọc là “m” thay vì “n”

    Ví dụ: 根本=こんぽん kompon, 日本橋=にほんばし nihombashi, あんまり ammari



    Nguồn: Trung tâm tiếng nhật Akira Education - Trung tâm tiếng nhật tại Hà Nội - Học tiếng nhật tại hà nội
     

Chia sẻ trang này