Trong cơ thể con người, nhiệt độ là một trong 4 dấu hiệu sinh tồn quan trọng bao gồm: mạch, huyết áp, nhiệt độ và nhịp thở. Trong đó, nhiệt độ cơ thể là một dấu hiệu chỉ báo đơn giản, khách quan và chính xác nhằm báo hiệu chính xác trạng thái sinh lý của cơ thể con người Chính vì vậy, sốt là một dấu hiệu cực kỳ quan trọng trong việc đánh giá tình trạng sức khỏe, cũng như mức độ trầm trọng của bệnh tật, thậm chí nó còn giúp cho thầy thuốc đánh giá chính xác mức độ ảnh hưởng lên cơ thể của một phương pháp điều trị bệnh nào đó đang được áp dụng cho bệnh nhân. Tác hại của Sốt mà bạn cần lưu ý Tác hại của nó đối với con người cũng không nhiều. Đầu tiên sốt làm gia tăng quá trình chuyển hóa của cơ thể, làm teo cơ bắp, gia tăng nhịp tim, tăng tiết mồ hôi dẫn đến mất nước và muối nếu nặng có thể đưa đến rối loạn nước và điện giải. Thông thường, sốt hay đi kèm với tình trạng khó chịu do nhức đầu, sợ ánh sáng, mệt mỏi toàn thân hay nóng bức quá mức. Sốt cao có thể thúc đẩy quá trình hình thành những cơn co giật ở những người có tiền sử động kinh. Rét run và vã mồ hôi của những cơn sốt do nhiễm khuẩn gây khó chịu nhiều đối với người bệnh. Ở những người cao tuổi đang mắc bệnh tim hay bệnh mạch máu não thì sốt cao đặc biệt nguy hiểm. Nên xử lý sốt như thế nào cho phù hợp? Sốt thông thường ít gây tác hại, không gây khó chịu nhiều và lại có thể có lợi đối với cơ chế phòng chống bệnh tật của cơ thể con người. Cho nên việc dùng thuốc hạ nhiệt không phải là điều cốt yếu giúp cho người bệnh dễ chịu. Mặt khác, nó có thể gây nhiễu trong việc đánh giá hiệu quả điều trị của thầy thuốc hoặc đối với diễn biến tự nhiên của bệnh. Tuy nhiên, cũng có khá nhiều trường hợp việc hạ sốt là rất quan trọng có tính chất sống còn như: trúng nóng, sốt cao sau mổ, hôn mê do sốt cao, sốt cao co giật hoặc sốc có kèm sốt và suy tim. Dùng khăn chườm lạnh để hạ thấp thân nhiệt là phương pháp điều trị được áp dụng đầu tiên và rất có hiệu quả. Một số trường hợp có thể tưới dung dịch muối sinh lý để lạnh hay đặt các khăn lạnh lên trán, lên mình. Việc xoa cồn để làm mát cơ thể không có lợi vì có thể gây kích ứng khó chịu cho bệnh nhân. Các loại thuốc hạ nhiệt có thể được sử dụng sau đó hay ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ cao về tim mạch, tuổi già… Tuy nhiên các loại thuốc hạ nhiệt đang sử dụng rộng rãi có thể làm vã mồ hôi, rét run, có thể làm giảm huyết áp… Để giảm bớt hiện tượng này cần khuyến khích bệnh nhân uống nhiều nước, uống thuốc nhiều lần và cách nhau từ 2 - 3 giờ.