Kinh nghiệm: Teo 'của quý' vì uống thuốc chữa rụng tóc

Thảo luận trong 'Sức khỏe gia đình' bởi Huongphamtiki, 28/3/2015.

  1. ThuyTo35

    ThuyTo35 Thành viên mới

    Tham gia:
    28/5/2015
    Bài viết:
    43
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    8
    hichic giờ bệnh gì cũng ghê hết
     
    Đang tải...


  2. hieupede

    hieupede

    Tham gia:
    5/4/2013
    Bài viết:
    10,963
    Đã được thích:
    2,087
    Điểm thành tích:
    913
    mình hay ăn vặt, và cứ ăn no xong là buồn ngủ, liệu có nguy cơ tiểu đường k đây :(
     
  3. Nguyen Do Thien Thanh

    Nguyen Do Thien Thanh Thành viên tập sự

    Tham gia:
    22/6/2015
    Bài viết:
    9
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    1
    Mình lâu rùi không đi khám không biết sao nữa.......
     
  4. giabaotran

    giabaotran Thành viên tập sự

    Tham gia:
    25/6/2015
    Bài viết:
    11
    Đã được thích:
    3
    Điểm thành tích:
    3
    chết , dạo này đang béo lên trông thấy, đặc biệt là béo bụng ý
     
  5. minhtue14409

    minhtue14409 Thành viên mới

    Tham gia:
    26/6/2015
    Bài viết:
    33
    Đã được thích:
    7
    Điểm thành tích:
    8
    cảm ơn bạn nhé
     
  6. tuannhien

    tuannhien Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    4/12/2014
    Bài viết:
    1,828
    Đã được thích:
    195
    Điểm thành tích:
    103
    h việt nam nh người bị bệnh này lắm
     
  7. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    Nên đi bộ sau khi ăn khoảng 15p các bạn à, mình thấy bác sỹ tư vấn thế
     
  8. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    Gửi các bạn thêm bài viết này về chế độ ăn uống dành cho bệnh nhân tiểu đường này:

    Chế độ ăn uống kiêng kị cho bệnh tiểu đường

    Tiểu đường còn được gọi là đái tháo đường là một bệnh nội tiết do trong cơ thể thiếu hoặc không có nội tiết tố insulin. Chế độ ăn kiêng giữ một vai trò quan trọng trong việc điều trị bệnh tiểu đường. Bệnh tiểu đường có thể được điều trị bằng chế độ ăn trong trường hợp tiểu đường (đái đường) nhẹ, tiểu đường tiềm tàng) hoặc kết hợp với các thuốc hạ đường huyết đối với các thể tiểu đường (đái đường) mức độ trung bình và nặng.
    Ở bệnh nhân cân nặng bình thường (tiểu đường phụ thuộc Insulin hay không phụ thuộc Insulin), chế độ ăn kiêng phải được chuẩn về chất lượng (hạn chế gluxit và lipit) và cố định về số lượng.
    Chế độ ăn kiêng cần được điều chỉnh theo từng bệnh nhân và theo mục tiêu điều trị của bác sĩ.
    Trong những ngày đầu hay trong những tuần đầu tiên, thức ăn phải được cân để sau đó bệnh nhân biết cách ước tính trọng lượng của các loại thực phẩm một cách tương đối.

    Chế độ ăn đáp ứng nhu cầu năng lượng: Nhu cầu tính theo thể trạng và tính chất lao động

    Thể trạng

    Lao động nhẹ

    Lao động vừa

    Lao động nặng

    Gầy

    35 Kcal/kg

    40 Kcal/kg

    45 Kcal/kg

    Trung bình

    30 Kcal/kg

    35 Kcal/kg

    40 Kcal/kg

    Mập

    25 Kcal/kg

    30 Kcal/kg

    35 Kcal/kg

    Chế độ ăn phải đảm bảo đầy đủ lượng protit, lipit cần thiết cho cơ thể trong đó lượng gluxit chiếm 50% lượng calo chung của khẩu phần, protid chiếm 15%, lipit 35%.
    Một số áp dụng trên thực tế:
    - Thực phẩm cung cấp gluxit : Bánh mì 40g, gạo 25g, mì sợi 30g, khoai tây 100g, khoai mì tươi 60g, đậu 40g, 1 trái cam vừa, 1 trái chuối vừa, 1 trái táo, 100g nho, 250g dâu tây, 1 trái thơm, 1 trái xoài vừa đều tương đương với 20g gluxit.
    - Thực phẩm cung cấp protit: 100g thịt nạc tương đương với 15-18g protit
    - Thực phẩm cung cấp lipit: 100g dầu ăn tương đương với 90-100g lipit.

    1. Đối với thức ăn chứa tinh bột: Nên ăn các loại bánh mì không pha trộn với phụ gia như bánh mì đen, gạo lứt, khoai tây, khoai sọ... lượng tinh bột đưa vào cơ thể người tiểu đường nên bằng khoảng 50-60% người thường. Sử dụng thường xuyên các loại ngũ cốc thô, chà xát ít vì lớp vỏ có chứa nhiều Vitamin và khoáng chất có lợi cho sức khỏe. Phương thức chế biến chủ yếu là luộc, nướng hoặc hầm chứ không nên chiên xào.
    2. Đối với chất đạm:

    [​IMG]
    Hạn chế tối đa thịt hộp, patê, xúc xích... thay vào đó hãy ăn cá, trứng sữa, các sản phẩm chế biến từ sữa, đậu... nên ưu tiên cá mòi và cá chích vì trong hai loại cá này có chứa chất béo có lợi cho việc chống lại bệnh tim mạch và ung thư. Người tiểu đường (đái đường) có thể ăn các loại thịt lợn, thịt bò đã lấy sạch mỡ. Tránh tuyệt đối da gà, da vịt bởi nó có chứa rất nhiều cholesterol. Cũng như thực phẩm chứa tinh bột, nên chọn cách chế biến là luộc, kho, nướng hơn là chiên.
    3. Đối với chất béo: Phải hết sức hạn chế mỡ, các bác sĩ khuyến cáo lượng cholesteron đưa vào phải dưới 300mg mỗi ngày và lượng mỡ bão hòa phải thay bằng các loại dầu thực vật như dầu đậu nành, dầu olive, dầu mè

    4. Rau, trái cây tươi: Một ngày bệnh nhân tiểu đường (đái đường) nên ăn khoảng 400 gram rau và trái cây tươi, rau quả tươi vừa có tác dụng chống lão hóa, vừa là thức ăn bổ sung vitamin, muối khoáng tốt nhất. Nên ăn cả xác hơn là ép lấy nước uống, chất xơ ở rau quả là thành phần quan trọng làm giảm đường, làm chậm hấp thu đường và đỡ tăng đường sau khi ăn. Tuy nhiên, không phải loại trái cây nào cũng tốt, người mắc bệnh tiểu đường phải tránh các loại trái cây ngọt như nho, xoài, na, nhãn...
    5. Chất ngọt Chất ngọt là nguyên nhân trực tiếp gây bệnh đái tháo đường, nó làm trầm trọng thêm quá trình bệnh lý, tăng các biến chứng nặng nề của bệnh. Lời khuyên của bác sĩ là tránh xa tuyệt đối các loại bánh kẹo, nước ngọt có ga, rượu... Bệnh nhân tiểu đường nên sử dụng các chất ngọt nhân tạo có thể thay đường trong nước uống như Aspartam và sacharine vừa giúp làm giảm lượng đường ăn vào mà vẫn giữ được ngon miệng.
    Giữ vững thành phần và thời gian ăn là quan trọng, kết hợp với thể dục thể thao thường xuyên chính là phương pháp điều trị bệnh hiệu quả nhất. Tuy nhiên, chế độ ăn cụ thể phải dựa trên từng bệnh nhân, cân nặng, lượng đường trong máu, bệnh đã có các biến chứng hay chưa. Do vậy cần tham khảo ý kiến của bác sĩ đang theo dõi và điều trị.
    Ăn kiêng như thế nào?

    -Thực phẩm cấm: Đường, mía, tất cả các loại sữa chế biến, cà phê, kẹo, đá chanh, trái cây đóng hộp, nước quả ép, kẹo, mứt, chè, mỡ.

    -Thực phẩm hạn chế: Cơm, mì xào, hủ tiếu, bánh canh, bánh mì, các loại khoai ( khoai lang, khoai mì...), bánh bích qui, trái cây ngọt.
    -Thực phẩm không hạn chế: Thịt, tôm, cá, cua, mắm, rau, tất cả các loại đậu.

    [​IMG]
    Các thực phẩm như trái cây (nhất là lê, táo), rau, đậu, ngũ cốc có thể cung cấp cho cơ thể một lượng đường chậm (tức đường phải qua quá trình tiêu hóa mới trở thành đường hấp thu vào cơ thể) điều đó sẽ giúp cho lượng đường trong máu không quá cao hoặc quá thấp đồng thời cung cấp chất xơ có ích và chất khoáng chứa vcom kiểm soát lượng đường trong máu.

    Ở bệnh nhân tiểu đường, đường huyết thường tăng cao sau bữa ăn. Vì thế nên cho bệnh nhân ăn nhiều lần và phân bố lượng calo mỗi bữa cho thích hợp.

    Nếu cần: - 1200-1600 Kcalo/ngày thì nên chia ba bữa theo tỉ lệ 1/3 - 1/3 - 1/3
    - 2000-2500 Kcalo/ngày thì nên chia bốn bữa theo tỉ lệ 2/7 - 2/7 - 2/7 - 1/7
    - trên 2500 Kcalo/ngày thì nên chia năm bữa theo tỉ lệ 2/9 - 2/9 - 2/9 - 2/9 - 1/9

    Trường hợp đang dùng thuốc hạ đường huyết thì nên ăn trước khi ngủ hay thêm bữa vào những bữa ăn chính.

    Các thực phẩm giàu chất xơ sẽ làm giảm đỉnh cao đường huyết sau khi ăn và có thể kéo dài sự hấp thu của chất đường. Chất xơ cũng còn có tác dụng giữ nước, hấp thu axit mật, thường có trong cám ngũ cốc, khoai tây, rau xanh, trái cây nhất là các loại họ đậu.

    Vì thế người ta khuyên nên ăn gạo không chà kỹ quá. Nên hạn chế rượu vì rượu có thể thúc đẩy hạ đường huyết trên bệnh nhân đang điều trị với thuốc hạ đường huyết.

    docqua.com
     
  9. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    Chế độ ăn có vai trò quan trọng trong điều trị tiểu đường. Chế độ ăn hợp lý giúp cho bệnh nhân ổn định mức đường trong máu, giảm được liều thuốc cần sử dụng, ngăn chặn hoặc làm chậm xuất hiện các biến chứng, kéo dài tuổi thọ bệnh nhân. Chế độ ăn hợp lý còn giúp bệnh nhân cảm thấy thoải mái, tự tin trong cuộc sống, ít có cảm giác bị tách biệt trong đời sống xã hội.

    II. Nguyên tắc chung xây dựng chế độ ăn cho bệnh nhân tiểu đường
    - Đảm bảo đủ năng lượng để giữ cân nặng bình thường.

    + Bệnh nhân tiểu đường cũng có nhu cầu năng lượng giống như người bình thường.

    + Nhu cầu phụ thuộc vào: tuổi, giới, loại công việc (nặng hay nhẹ), thể trạng (gày hay béo). Đối với cân nặng lý tưởng (BMI = 22): 30 calo/kg/ngày. Với người lao động nhẹ cần 30 kcal/kg/ngày, lao động trung bình cần 35 kcal/kg/ngày, lao động nặng cần 40-45 kcal/kg/ngày; nếu điều trị nội trú cần 25 kcal/kg/ngày; nếu cần giảm cân, cần 20 kcal/kg/ngày.

    + Bệnh nhân ăn thừa năng lượng hoặc thiếu năng lượng đều làm cho đường máu rơi vào vùng nguy hiểm.
    - Chế độ ăn phải cung cấp đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng sinh năng lượng theo một tỷ lệ cân đối: chất đạm (protid) chiếm 15-20% tổng năng lượng khẩu phần, chất béo (lipid) chiếm 25-30%, chất đường bột (glucid): 55-60%

    - Chế độ ăn nên giàu chất xơ vì nó có tác dụng khống chế việc tăng glucoza, cholesterol, triglycerid sau bữa ăn. Thực phẩm giàu chất xơ làm chậm lại quá trình hấp thu đường vào máu, qua đó giữ cho mức đường trong máu không bị tăng đột ngột ngay sau bữa ăn, mà tiêu hóa hấp thu từ từ, giữ cho lượng đường trong máu không xuống quá thấp, có lợi cho quá trình điều trị bệnh. Nên có chế độ ăn giàu chất xơ, khoảng 30-40g/ngày.

    [​IMG]
    - Các thực phẩm giàu vitamin, đặc biệt vitamin nhóm B (B1, B2, PP) cũng cần có mặt trong khẩu phần ăn, vì các vitamin này giúp ngăn ngừa tạo thành thể cetonic.

    - Khẩu phần ăn của người tiểu đường cần hạn chế muối (ít hơn 6 g/ngày)

    - Chia nhỏ thành nhiều bữa ăn trong ngày (5-6 bữa/ngày) để góp phần khống chế đường huyết, không để xảy ra tăng đường huyết quá mức sau bữa ăn và chống hạ đường huyết khi đói nhất là với bệnh nhân có dùng thuốc hạ đường huyết. Với bệnh nhân điều trị bằng Insulin tác dụng chậm có thể bị hạ đường huyết trong đêm, do vậy nên cho ăn thêm bữa phụ trước khi đi ngủ.

    - Ăn đúng giờ, không bỏ bữa, ăn chậm nhai kỹ, không ăn quá nhiều trong một bữa

    - Chế biến thức ăn dạng luộc và nấu là chính, không rán, rang với mỡ.

    - Bỏ rượu, bia, thuốc lá...

    III. Lựạ chọn glucid trong bữa ăn của người tiểu đường
    - Có 2 loại glucid:

    + Các mono và disaccarid (glucoz, fructoz, saccaroz) hoặc đường hấp thụ nhanh bởi ống tiêu hóa: đường mía, mật, mứt, sôcôla, bánh ngọt, bánh ngọt khô, kẹo nuga, trái cây khô hoặc làm thành mứt, kem, bánh flan và món ăn ngọt tráng miệng công nghiệp phẩm, nước trái cây có đường, bia, rượu ngọt, nước giải khát công nghiệp phẩm có đường (nước chanh, coca-cola).

    + Các glucid phức hợp hấp thụ chậm bởi đường tiêu hóa: ngũ cốc, trái cây, rau xanh, chất bột...

    - Trong chế độ ăn của người đái tháo đường, phải giảm bớt những glucid hấp thụ nhanh để nhường chỗ cho những glucid hấp thụ chậm bởi đường tiêu hóa. Chỉ dùng đường hấp thu nhanh trong trường hợp giảm đường huyết.

    + Nhóm tinh bột như cơm, mì, ngô... phải hạn chế, vì chúng đều có hàm lượng glucid từ 70-80%. Thay vào đó, người tiểu đường nên ăn khoai tây, miến dong, vì các thực phẩm này rất ít glucid.

    + Bệnh nhân đái tháo đường nên dùng nhiều rau quả tươi, vì nó chống lại toan, cung cấp nhiều vitamin, muối khoáng, bệnh nhân có thể ăn nhiều mà không sợ bị tăng lượng đường trong máu. Tuy nhiên, nên tránh những loại trái cây nhiều đường như dưa hấu, mít, na...

    IV. Lựa chọn protid cung cấp hàng ngày cho bệnh nhân đái tháo đường
    - 15-20% năng lượng cung cấp hàng ngày cho bệnh nhân đái tháo đường phải xuất xứ từ các protid, tức là khoảng 75-100g protid mỗi ngày trong một chế độ ăn 2000 kilocalo.

    - Nguồn gốc protein:

    [​IMG]
    + Protein nguồn gốc thực vật: xuất xứ chủ yếu từ ngũ cốc (90% protein), bột nhão (15%), gạo (8-10%). Vì ngũ cốc phải được hạn chế do chứa nhiều tinh bột, bệnh nhân đái tháo đường chỉ có được một phần nhỏ các protid của họ từ các ngũ cốc. Mặt khác, các protein thực vật lại không chứa đủ các acid amin thiết yếu (lysin, trytophan, acid amin có lưu huỳnh).

    + Protein động vật: xuất xứ từ thịt cá và các chế phẩm sữa. Các protein động vật có nhược điểm là cung cấp khoảng 1 gam chất béo bão hòa trong mỗi gam protein. Khuyến cáo bệnh nhân đái tháo đường chỉ ăn thịt nạc, thịt gà (bỏ da), cá, sữa đã loại bỏ kem, yaourt chế biến từ sữa loại bỏ kem, phomát trắng không có chất béo.

    - Ngoài các loại rau như rau muống, rau diếp, cà chua, bắp cải, súp lơ, cà, bầu, bí, cà rốt... người bệnh tiểu đường nên ăn nhiều các loại đậu đỗ, vì đậu giàu protein.

    - Thịt, cá, trứng rất giàu protein, nhưng chỉ nên dùng ở mức vừa phải, vì sẽ không tốt cho thành mạch máu và thận - vốn đã rất yếu khi bị đái tháo đường

    - Sữa là thức ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng, dễ tiêu, nhiều protein và các acid amin cần thiết, mà còn cung cấp dồi dào lượng khoáng chất cần thiết cho bệnh nhân tiểu đường như canxi, sắt, kẽm, ma-giê…

    - Cá sông rất tốt cho người đái tháo đường là: cá lóc, cá rô, cá chạch, cá chốt, cá trê, cá bống, cá thác lác. Một số cá biển như: cá chim, cá thu, cá mực, tôm, cua, nghêu, ốc, hến đều có thể dùng.

    V. Loại Lipid (chất béo) bệnh nhân đái tháo đường nên dùng
    - Lượng chất béo cần hơn người bình thường vì chất béo cung cấp năng lượng (bù lại phần năng lượng do gluxit cung cấp)

    - Kiêng ăn các loại mỡ động vật: lợn, gà, vịt, ngan... vì có nhiều axit béo bão hoà dễ gây xơ vữa động mạch

    - Nên thiên về dùng magarin (bơ thực vật) hơn là dùng bơ động vật

    - Chế độ ăn của người tiểu đường nên có các axit béo không bão hòa có trong dầu thực vật để ngăn ngừa xơ vữa động mạch. Dầu hướng dương, dầu ngô và dầu đậu nành là những loại dầu chứa nhiều acid béo không bão hòa hơn là dầu ôliu và dầu lạc.


    Nguồn: docqua.com
     
  10. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    "Thưa Bác sĩ! Cháu là nam giới, sinh năm 1995. Cháu muốn hỏi tại sao cháu toàn hay suy nghĩ lung tung? Lúc nào cũng suy nghĩ thôi? Mong Bác sĩ trả lời giúp cháu? Có phải cháu bịbệnh tự kỷkhông?

    ThS. Chu Văn Điểu - Chuyên khoa Thần kinh - Từng làm việc tại Bệnh viện Tâm thần TW
    Nam 19 tuổi hay suy nghĩ là bệnh gì?
    Chào cháu!
    Cháu đang đi học phải không, trong học tập và công tác cháu có bị sức ép gì nặng nề không? Nếu có hoặc không có lý do mà cháu có hiện tượng lúc nào cũng nghĩ lung tung thì đều biểu hiện bất thường rồi. Những điều bất thường đều là bệnh lý, với một người bình thường thì bao giờ cũng chủ động trong suy nghĩ và hành động. Triệu chứng suy nghĩ miên man hoặc dòng suy nghĩ dồn dập đến trong đầu không dừng lại được, đó là triệu chứng của bệnh tâm thần. Chuyên khoa tâm thần có khoảng 300 loại bệnh khác nhau. Mỗi bệnh đều có tiêu chuẩn chẩn đoán riêng. Trong tiêu chuẩn chẩn đoán gồm nhiều triệu chứng, trường hợp của cháu như cháu nói thì chỉ có một triệu chứng là suy nghĩ lung tung, như vậy chưa thể chẩn đoán là bệnh gì được. Có thể cháu chưa nói hết các triệu chứng mà có ở cháu . Theo bác cháu nên tới phòng khám để khám xem cháu bị bệnh gì sớm có hướng điều trị tốt cho cháu.
    Chúc cháu khỏe mạnh.
     
  11. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    01685969716
    Chào Bác sĩ! Cháu năm nay 19 tuổi giới tính nữ ít nói, không thích nói chuyện vơi bạn bè khi nói chuyện cháu thường nhìn thẳng vào mắt người nói và hay buồn vô cớ không có lí do từ nhỏ cháu đã bị như vậy rồi xin hỏi Bác sĩ cháu có thể bị bệnh gì ạ? cảm ơn Bác sĩ nhiều


    Cảm ơn
    ThS. Chu Văn Điểu - Chuyên khoa Thần kinh - Từng làm việc tại Bệnh viện Tâm thần TW
    Có phải cháu bịtự kỷtrầm cảmkhông thưa Bác sĩ
    Chào cháu! Trong xã hội mỗi người có một tính khác nhau, do vậy trong cư xử và giao tiếp với nhau theo cách riêng của mỗi người. Tính cách hay tính của con người là tính chất, đăc điểm nội tâm của họ, nó có ảnh hưởng trược tiếp đến suy nghĩ, lời nói và hành động của người đó. Một người có thể có nhiều tính cách và nhiều người có thể có cùng một tính cách.Tính cách là yếu tố quan trọng nhất của con người. Có thể thông qua hành động, lời nói, cử chỉ, suy nghĩ của con người để suy ra tính cách của con người đó. Tính cách được hình thành do yếu tố bẩm sinh và thông qua yếu tố giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội mà hình thành lên tính cách. Cháu nói là cháu ít nói, không thích nói chuyện với bạn bè và khi nói chuyện cháu thường nhìn thẳng vào mắt người đang nói chuyện với mình. Điều đó là bình thường nó thể hiện tính cách riêng của cháu, đó không phải là bệnh lý.Mỗi người khi giao tiếp có tính cách tác phong khác nhau. Có người tính tình cởi mở hay nói chuyện với bạn bè, hay cười nói vui vẻ, khi nói chuyện lúc nhìn vào mắt bạn lúc không…Có người tính tình nhút nhát không nói được trước đám đông, khi nói không giám nhìn thẳng mà nhìn sang nơi khác….Tóm lại cách giao tiếp là thuộc tính cách và thói quen cũng như tác phong của mỗi người. Những điều gì bất thường khác biệt hẳn mọi người mới là bệnh lý.
    Một vấn đề nữa cháu nói là cháu hay buồn vô cớ, hiện tượng này có từ khi còn nhỏ. Nếu hiện tượng buồn vô cớ mới xuất hiện khoảng 2 tuần nay thì bác khẳng định ngay đó là bệnh lý, nhưng hiện tượng đó có từ khi nhỏ thì rất khó đánh giá. Có thể đó cũng là bản tính riêng của cháu, có người bản tính sống nội tâm, ít cởi mở và đôi khi hơi mơ mộng, nhạy cảm với thiên nhiên, hay có những xúc cảm buồn mang mát không có lý do theo kiểu tâm hồn nghệ sỹ.Trong rối loạn trầm cảm cũng có triệu chứng buồn vô cớ và thường kèm theo lo âu và ý tưởng chán sống. Với một số hượng tượng mà cháu kể nó chưa đủ tiêu chuẩn để chẩn đoán là một bệnh gì cả. Cháu nên chủ động sống hòa đồng với mọi người, nên giao lưu bạn bè, hoạt động các công tác xã hội, vui chơi giải trí, thể dục thể thao… Để tạo cho cuộc sống của mình thêm sinh động. Như vậy sẽ đẩy lùi và tiến tới xóa bỏ các triệu chứng đang tồn tại ở con người cháu. Chúc cháu thành công.
     
  12. mehiuhiu

    mehiuhiu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    17/7/2012
    Bài viết:
    4,334
    Đã được thích:
    578
    Điểm thành tích:
    773
    Cảm ơn chủ top chia sẻ thông tin hữu ích :)
     
  13. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    [​IMG]
    Tuần trước, chúng ta đã có dịp bàn luận về nguyên nhân, triệu chứng của bệnh tiểu đường, cùng cách truy tìm căn bệnh. Hôm nay, chúng ta trò chuyện tiếp về các biến chứng (complications) hay xảy ra khi bị tiểu đường.
    Tiểu đường có thể gây nhiều biến chứng lắm. Có biến chứng cấp thời, đe dọa tính mạng ngay bây giờ, có những biến chứng xa, làm giảm tuổi thọ, làm ta thấy đời kém vui.. Bệnh xảy ra càng sớm, càng gây nhiều biến chứng.
    Chúng ta đã biết, tiểu đường có 2 loại: loại 1 xảy ra sớm, trước tuổi 40, do thiếu chất insulin trong cơ thể, loại 2 thường xảy ra muộn hơn, sau tuổi 40, do các tế bào không sử dụng được chất insulin, dù insulin có sẵn đấy. Tiểu đường loại 1 gây nhiều biến chứng hơn loại 2.
    Chúng ta sẽ lần lượt đi qua những biến chứng của tiểu đường.
    Biến chứng cấp thời
    1. Hôn mê do đường máu lên quá cao:
    Đường trong máu lên cao quá có thể gây hôn mê, nguy đến tính mạng.
    Hôn mê do đường máu quá cao hay xảy ra ở người bị tiểu đường loại 1, khi họ quên chích insulin. Hôn mê có khi cũng xảy ra khi người bệnh gặp những căng thẳng về tinh thần (buồn bực, âu lo) hay thể chất (bị bệnh nhiễm trùng, sau khi giải phẫu, ...), dù vẫn đang dùng thuốc chích insulin đều mỗi ngày. Hôn mê do đường máu lên quá cao được báo hiệu bằng các triệu chứng tiêu hóa: ăn không ngon miệng, buồn nôn, ói mửa, đau bụng, đi tiểu nhiều. Người bệnh cần được nhập viện ngay để chữa trị, nếu không, sẽ đâm mất sáng suốt rồi đi dần vào hôm mê. Khi thử máu, thường thấy đường máu cao đến 500 mg/dl.
    Người bị tiểu đường loại 2 cũng có khi bị hôn mê khi đường máu lên quá cao (thường 1.000 mg/dl), tuy theo một cơ chế khác.
    2. Hôn mê do đường máu xuống quá thấp:
    Đường máu xuống quá thấp cũng gây hôn mê. Đường xuống thấp do ta dùng thuốc, nhưng có hôm vui quá, quên cả ăn, hoặc có hôm hăng quá, vận động hơi nhiều. Có khi đường xuống thấp chẳng vì lý do nào rõ rệt.
    Nếu đường xuống thấp ban ngày, ta thấy đói lắm, đến toát mồ hôi, run cả tay chân, nóng nảy, nổi quạu. Đường xuống thấp ban đêm, có khi không gây triệu chứng, có khi khiến ta gặp ác mộng, toát mồ hôi, hoặc bị nhức đầu buổi sáng lúc mới thức. Rủi đường xuống thấp thêm nữa, đầu óc ta bắt đầu mất sáng suốt, có những hành vi khác thường, và rồi hôn mê, hoặc giật kinh phong.
    Sự chữa trị cần khẩn cấp. Không khó. Nếu còn tỉnh, hãy dùng ngay bất cứ thứ gì có đường: kẹo, các thức uống ngọt. Nếu không còn tỉnh, trong môi trường nhà thương, bác sĩ sẽ truyền ngay vào tĩnh mạch cho ta một ống thuốc chứa nước đường. Chỉ vài phút sau, ta lại mở mắt, vui vẻ chuyện trò với bác sĩ. Cũng nên trữ sẵn ở nhà thuốc chích glucagon. Khi chưa kịp gọi 911, một mũi thuốc chích glucagon 1 mg thường rất được việc, giúp ta qua cơn nguy khốn (glucagon là chất có tác dụng ngược với insulin, làm đường tăng cao trong máu).
    Các biến chứng xa
    Có người may mắn không bao giờ bị những biến chứng xa, về lâu về dài củatiểu đường, ngược lại có người bị, và bị nhiều biến chứng cùng lúc. Nói chung, các biến chứng thường xảy ra 15-20 năm sau khi bệnh định ra.
    1. Các biến chứng tim mạch:
    Tiểu đườnghay làm hư hoại các mạch máu, đưa đến bệnh ở nhiều cơ quan khác nhau. Nếu bệnh làm hư hoại các mạch máu ngoại biên dẫn máu đến nuôi chân, các mạch máu này tắc nghẽn, gây chứng đau các bắp thịt chân khi đi đứng, chứng hoại thư (gangrene) bàn chân. Nếu bệnh làm hỏng mạch máu dẫn máu đến cơ quan sinh dục, bệnh gây chứng bất lực ở đàn ông.
    Hậu quả hẹp tắc các động mạch tim (coronary artery disease) và tai biến mạch máu não (stroke) cũng hay xảy ra. Bệnh hẹp tắc các động mạch dẫn máu đến nuôi tim có thể đưa đến chết cơ tim cấp tính (hay được gọi nôm na “heart attack”). Thường chết cơ tim cấp tính gây đau ngực dữ dội, song, ngườitiểu đườngcó khi không cảm thấy đau vì những thần kinh dẫn truyền cảm giác từ tim cũng đã hư hoại mất rồi. Sự định bệnh chết cơ tim cấp tính ở người tiểu đường khó khăn hơn ở người không mangbệnh tiểu đường. Tiểu đường còn có thể làm sưng cơ tim, gây suy tim.
    Bạn biết rồi, thuốc lá, cao áp-huyết cũng gây bệnh hẹp tắc động mạch tim. Thuốc lá làm nghẽn luôn các mạch máu ngoại biên. Người tiểu đường, đã có sẵn những hư hoại gây do tiểu đường, tuyệt đối nên giã từ thuốc lá. Nếu người tiểu đường cũng có cao áp huyết, để cứu vãn mọi sự, việc chữa trị bệnh cao áp-huyết cần sớm và mạnh. Tiểu đường và cao áp huyết lại hay đi đôi với nhau. Thuốc chữa cao áp huyết nhiều loại. Có loại làm đường cao thêm trong máu, do ngăn cản sự tiết insulin từ tụy tạng. Có loại làm mỡ trong máu (cholesterol, triglycerides) lên cao. Thường bác sĩ sẽ tránh dùng những loại thuốc này cho bạn, nếu bạn vừa cao áp huyết, vừa bị tiểu đường.
    2. Biến chứng ở mắt:
    Mắt giống một máy ảnh, giúp ta nhìn thấy các hình ảnh của thế giới bên ngoài. Trong mắt có một màng lót nằm ở phía sau gọi là võng mạc (retina), hoạt động như phim của máy ảnh. Võng mạc nối liền với thần kinh thị giác. Các hình ảnh khi vào mắt, chiếu lên võng mạc. Võng mạc thu nhận các hình ảnh, và thần kinh thị giác biến những hình ảnh này thành những tín hiệu truyền về óc. Nếu phim trong máy ảnh xấu, hư, ảnh rửa ra tất nhòa, không rõ. Tương tự như vậy, nếu võng mạc bị hư hoại, các hình ảnh thu nhận trên võng mạc bị mờ. Thần kinh thị giác dù tốt, cũng chỉ trung thực truyền những tín hiệu mờ trên võng mạch về óc, và kết quả là ta không nhìn thấy rõ. Khi võng mạc hư hoại nhiều quá, ta bị mù. Ở Mỹ, xứ không có chiến tranh và ít các bệnh nhiễm trùng mắt nguy hiểm, tiểu đường là nguyên nhân dẫn đầu gây mù lòa. Khám đáy mắt có thể thấy những tổn thương do tiểu đường gây trên võng mạc.
    Biến chứng hư hoại võng mạc mắt tùy thuộc vào tuổi của người bệnh lúc mới bị tiểu đường, cũng như thời gian mang bệnh. Càng sớm bị, thời gian mang bệnh càng lâu, càng nguy. Khoảng 85% người tiểu đường sau sẽ có biến chứng tổn thương võng mạc. Những người còn lại may mắn không bao giờ bị tổn thương võng mạc. Tổn thương võng mạc do tiểu đường có cách chữa: bắn tia Laser đốt những vết thương trên võng mạc (photocoagulation). Bị tiểu đường, nên đi khám bác sĩ mắt hàng năm.
    Ngoài sự hư hoại võng mạc, tiểu đường còn gây bệnh tăng áp suất trong mắt (glaucoma), đục thủy tinh thể (cataract). Dù các biến chứng vừa kể không xảy ra, khi đường lên cao, mắt cũng hay mờ. Mang bệnh tiểu đường, và tự nhiên thấy mắt kém đi, nhìn một thành hai, mắt lúc tỏ lúc lu, thấy những điểm lờ mờ trôi lờ lững trước mắt (floating spots), hoặc đau trong ổ mắt, bạn nhớ cho bác sĩ biết.
    3. Biến chứng suy thận:
    Ở Mỹ, khoảng nửa số người suy thận là do tiểu đường. Suy thận là nguyên nhân dẫn đầu gây tử vong và tàn tật cho những vị bị tiểu đường.
    Suy thận thường xảy ra 12 năm sau khi tiểu đường bắt đầu xuất hiện. Bệnh thận càng tiến triển mau lẹ nếu có cao áp huyết đi cùng. Suy thận ở giai đoạn cuối cần lọc thận hay thay thận. Chữa trị tiểu đường cẩn thận có thể làm chậm tiến triển của suy thận. Bị thêm cao áp huyết, cao áp huyết cần được kiểm soát chặt chẽ. Một số thuốc chữa cao áp huyết có thêm tác dụng làm giảm sự tiến triển của bệnh thận gây dotiểu đường.
    Nhiễm trùng đường tiểu (urinary tract infection) làm thận người tiểu đường suy nhanh hơn, nên nếu xảy ra, cần được chữa trị tới nơi tới chốn. Một vấn đề nữa: các thuốc có thể hại cho thận, như những thuốc chống đau nhức Advil, Ibuprofen, Motrin, Naprosyn, ..., nên tránh dùng nếu không thực sự cần thiết.
    4. Các tổn thương ở hệ thần kinh:
    Tiểu đường còn làm thương tổn hệ thần kinh ở khắp nơi trong cơ thể, có lẽ chỉ trừ trên óc. Các tổn thương tuy không thực sự nguy hiểm, nhưng khiến ta khó chịu:
    - Khi các thần kinh nhỏ ở tay, chân tổn thương, sẽ gây tê, đau ở tay hay chân, thường là cả hai bên. Cái đau như điện giật, cảm thấy sâu trong xương, nặng hơn về đêm.
    Sự chữa đau không dễ. Đầu tiên, ta nỗ lực đưa đường máu xuống mức bình thường. Nếu không ăn thua, loại thuốc trị bệnh sầu buồn như Elavil, hoặc thuốc Tegretol (dùng chữa bệnh kinh giật) được thử để làm giảm đau. Những thuốc này có tác dụng xoa dịu những cái đau gây do thần kinh. Thuốc thoa Bengaz chẳng ăn thua gì, nhưng kem thoa có tên Capsaicin (mua không cần toa bác sĩ) các bác sĩ lại cho rằng tốt. Với những cơn đau dữ dội, có khi phải cần đến thuốc giảm đau mạnh chứa chất nha phiến như codeine.
    Người tiểu đường cũng có thể bất ngờ liệt bàn chân, bàn tay, không nhấc bàn chân, bàn tay lên được, hoặc mắt tự nhiên lé. Những biến chứng này từ từ sẽ bớt.
    - Khi các thần kinh tự động (autonomic nervous system) điều khiển sự hoạt động của các cơ quan bên trong cơ thể bị tổn thương, nhiều triệu chứng xảy ra. Thường nhất là các triệu chứng tiêu hoá: khó nuốt, đầy hơi sau khi ăn, bón hoặc tiêu chảy. Tiêu chảy hay xảy ra về đêm, ảnh hưởng đến giấc ngủ. May thay, các thuốc cầm tiêu chảy thường dùng có thể kiểm soát được tiêu chảy do tiểu đường. Với tiểu đường, bệnh dội ngược bao tử - thực quản (gastro-esophageal reflux, các thức trong bao tử dội ngược lên thực quản sau khi ăn) cũng hay xảy ra.
    Bình thường, khi ta đứng lên ngồi xuống, hệ thần kinh tự động nhanh chóng điều chỉnh hệ thống tim mạch, để áp huyết luôn ở trạng thái cân bằng, và lúc nào cũng có đủ máu lên óc ta. Khi hệ thần kinh tự động đã hư hoại vì tiểu đường, cơ chế điều chỉnh áp huyết bị xáo trộn. Đang nằm hoặc ngồi mà đột ngột đứng lên, áp huyết hay bất ngờ hạ thấp, khiến người bệnh thấy chóng mặt, có khi ngất xỉu. Trường hợp này, người bệnh được khuyên nằm ngủ với đầu giường nâng cao (bằng cách chèn gỗ hoặc vật cứng dưới đầu giường). Người bệnh cũng nên tránh đứng bật dậy buổi sáng lúc mới thức. Ngược lại, nên ngồi dậy chầm chậm, và ngồi ở cạnh giường một lát trước khi đi lại. Các vớ chân đặc biệt (giúp máu từ chân về tim nhiều hơn) cũng giúp làm giảm triệu chứng. Khi hệ thần kinh tự động hư hoại, bọng đái hay làm việc bất thường, gây khó tiểu hoặc không kiểm soát được nước tiểu. Đàn ông thường ghétbệnh tiểu đườnghơn phụ nữ, vì sự tổn thương các dây thần kinh tự động do tiểu đường còn khiến dương vật không thể cương cứng, gây bệnh bất lực.
    5. Các vết loét và nhiễm trùng ở chân:
    Một trong những biến chứng quan trọng khác của tiểu đường là những vết loét ở chân và bàn chân. Tiểu đường làm hư hoại các dây thần kinh cảm giác ngoại biên, nên chân người tiểu đường ít, hoặc không cảm thấy đau khi bị vật lạ đâm vào. Chân dễ thương tổn, do người bệnh không cảm thấy đau nên không để ý, tìm cách tránh né các vật làm hại. Giầy không vừa chân cũng hay làm bỏng phồng, trầy lở da chân, gây các vết loét. Phần khác, như ta đã biết, tiểu đường làm hỏng các mạch máu ngoại biên dẫn máu đến nuôi chân và bàn chân. Các vết loét vì thế lâu lành và hay bị nhiễm trùng. Nhiễm trùng nếu nặng, có thể đưa đến cưa bàn chân hay chân.
    Những phương cách sau được xem là hữu hiệu để ngừa các vết loét và nhiễm trùng bàn chân khi bị tiểu đường: mỗi ngày bạn nên tự thăm khám chân, bàn chân và để ý những dấu chứng:
    - Sưng, đỏ, đau, có mủ, có đường đỏ chạy dài từ bàn chân lên chân.
    - Các chỗ da chai cứng (corns, calluses): da dưới những chỗ này hay bị thương tổn.
    - Móng chân dài quá, cần cắt ngắn bớt.
    - Những vùng đau ở chân gây do giầy chật. Những vùng hay bị sót, thường không được để ý kỹ là vùng gót chân và giữa các ngón chân.
    Nếu mắt bạn kém, nhìn không rõ, bạn có thể nhờ người nhà xem xét bàn chân hộ. Đồng thời, nhờ bác sĩ khám chân cho bạn ít nhất mỗi năm 1 lần.
    Mỗi ngày bạn rửa chân với xà-bông nhẹ và nước ấm, sau đó dùng lotion chống khô da (moisturizing lotion) thoa chân giúp da chân khỏi khô (da khô dễ tổn thương và nhiễm trùng). Bạn tránh dùng nước nóng, và nhớ dùng tay thử trước, xem nước nóng đến mức độ nào trước khi nhúng chân vào bồn tắm. Đừng đi chân đất bạn ạ, dù ở nhà, và nên đi giầy thật vừa vặn hầu tránh bị trầy lở chân, hoặc có những chỗ chai cứng (corns, calluses) gây do giầy. Bạn nhớ bỏ giầy ra ít nhất 1 lần mỗi ngày. Khi mang giầy mới, những ngày đầu, bạn chỉ nên mang giầy tối đa 1 tiếng mỗi ngày để khỏi phồng da chân. Có nhiều loại giầy được chế tạo đặc biệt để bảo vệ chân, tốt cho chân của người tiểu đường. Nếu không, bạn có thể dùng các giầy thể thao cũng tốt. Trước khi xỏ chân vào giầy, bạn nhớ xem xét cẩn thận, tìm các vật lạ trong giầy có thể làm thương tổn chân bạn. Vớ nên thay mỗi ngày. Dùng những loại vớ đặc biệt giúp tránh phồng da (antiblister socks) càng thêm tốt. Khi cắt móng chân, bạn nên cắt ngang các móng chân, thay vì cắt vanh tròn. Cắt vanh tròn theo ngón chân dễ phạm phải thịt. Bạn cũng nên đi khám podiatrist (chuyên viên săn sóc bàn chân) đều đặn. Podiatrist giúp cắt bỏ các chỗ da bàn chân dầy cứng, những móng chân mọc bất thường, đâm sâu vào thịt (ingrown toenails).
    6. Các biến chứng nhiễm trùng khác:
    Ngoài những nhiễm trùng ở chân, người tiểu đường cũng dễ bị nhiễm trùng ở những nơi khác trong cơ thể, vì sức kháng cự của cơ thể giảm. Một vài bệnh nhiễm trùng, do vi trùng hay nấm, ít xảy ra ở người bình thường, lại hay xảy ra nơi người tiểu đường. Chẳng hạn, bệnh lao, bệnh nấm âm đạo (gây ngứa âm đạo), bệnh viêm tai ngoài rất nguy hiểm do vi trùng Pseudomonas.
    Như ta thấy,bệnh tiểu đườngđưa đến nhiều biến chứng quan trọng. Sự chữa trị ngoài mục đích làm giảm các triệu chứng do tiểu đường gây ra (mệt mỏi, xuống cân, tiểu nhiều, tiểu đêm, khát nước, ...), còn nhắm ngăn ngừa các biến chứng.

    Suckhoenhaban.blogspot.com
     
  14. Minhhoa2801

    Minhhoa2801 Thành viên tập sự

    Tham gia:
    7/7/2015
    Bài viết:
    11
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    3
    đọc cái này sợ thật, bố mình vừa mới phát hiện bị tiểu đường, cũng đag lo quá
     
  15. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
    Hình như người bị tiểu đường để nên đi loại giầy dép riêng để tránh biến chứng
     
  16. Minhhoa2801

    Minhhoa2801 Thành viên tập sự

    Tham gia:
    7/7/2015
    Bài viết:
    11
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    3
    cái này ko có đâu bạn, chỉ kiêng trong ăn uống thôi
     
  17. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
  18. bingbang7786

    bingbang7786 Thành viên đạt chuẩn

    Tham gia:
    8/7/2015
    Bài viết:
    70
    Đã được thích:
    11
    Điểm thành tích:
    8
    nếu phát hiện sớm, và tuân thủ chế độ ăn thì cũng bt thôi mà
     
  19. Huongphamtiki

    Huongphamtiki Thành viên chính thức

    Tham gia:
    9/3/2015
    Bài viết:
    173
    Đã được thích:
    9
    Điểm thành tích:
    18
  20. tuannhien

    tuannhien Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    4/12/2014
    Bài viết:
    1,828
    Đã được thích:
    195
    Điểm thành tích:
    103
    khổ thân ít tóc quá cũng khổ
     

Chia sẻ trang này