Đặt vòng tránh thai là một trong những biện pháp tránh thai đã được sử dụng từ rất lâu và được coi là lý tưởng với hiệu quả tránh thai cao. Khi nói đến vòng tránh thai, chắc chắn chị em nào cũng biết nhưng để quyết định có áp dụng nó hay không thì chị em cần hiểu rõ hơn và xem có phù hợp với mình hay không. Vòng tránh thai có hai loại: đó là loại chứa đồng và loại chứa levonorgestrel. Vòng tránh thai có tác dụng 5 -10 năm, không ảnh hưởng sữa mẹ. Nhược điểm của phương pháp này là không phòng tránh được các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Thời điểm đặt vòng tránh thai là vào ngày thứ 3 hoặc 4 của kỳ đèn đỏ. Các bạn cần lưu ý không nên đặt vòng tránh thai ngay sau sinh nở. Hãy chờ cho tử cung được hồi phục và trở lại kích thước bình thường. Nếu không, khi cổ tử cung còn mở hoặc giãn rộng thì vòng tránh thai có thể bị rơi ra ngoài. Nên đặt vòng tránh thai trong khoảng 4 – 6 tuần sau sinh (lâu hơn càng tốt). Nếu sinh mổ, nên chờ 6 tháng mới đặt. Thông thường, đặt vòng không ảnh hưởng đến khả năng có con lại. Một số trường hợp viêm nhiễm đường sinh dục trong lúc đang đặt vòng hay nhiễm Chlamydia thì có thể gây tắc vòi trứng, khó có thai lại. Mặc dù biện pháp tránh thai này khá phổ biến và dễ áp dụng, ít tác dụng phụ nhưng không phải ai cũng có thể áp dụng. Những chị em thuộc nhóm đối tượng dưới đây thì cần tuyệt đối tránh đặt vòng tránh thai để không ảnh hưởng sức khỏe và hiệu quả của vòng. - Mắc chứng viêm vòi trứng dù đã khỏi, hoặc bị viêm vòi trứng (nhiễm trùng nhiều lần, quan hệ tình dục với nhiều người). - Có những dị ứng của các tế bào ở cổ tử cung. - Bị thiếu máu hoặc bị xuất huyết, viêm nhiễm hay đông máu trong một thời gian dài hoặc các tình trạng rối loạn về máu khác. - Nghi ngờ bị ung thư tử phụ khoa, bị u xơ bên trong tử cung hoặc những polip (phải cắt bỏ). - Xuất huyết ở bộ phận sinh dục mà không tìm được nguyên nhân. - Một chứng bệnh tim nghi ngờ dẫn đến viêm màng trong của tim. - Bạn tạm thời bị một nhiễm trùng nhỏ tại chỗ. Lưu ý: nên đi khám phụ khoa trước khi đặt vòng để được bác sĩ tư vấn thêm và chọn loại vòng thích hợp nhất với mình nhé.
Hiểu biết BỆNH NIÊM MẠC TỬ CUNG LẠC CHỖ Niêm mạc tử cung là lớp tế bào lót trong lòng tử cung, thường bong ra khi hành kinh và được tái tạo lại sau khi sạch kinh, chúng phát triển và thoái triển theo chu kỳ kinh nguyệt. Lạc nội mạc tử cung là khi tổ chức tế bào này tồn tại và phát triển ở một vị trí khác ngoài tử cung. Bệnh có thể xảy ra với bất kì chị em nào trong độ tuổi sinh sản, gây nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí có thể gây vô sinh. Các dấu hiệu báo động: Tất cả mọi cơ quan trong cơ thể đều được cấu tạo bởi một loại tế bào đặc thù. Bình thường tế bào nội mạc tử cung chỉ xuất hiện trong lòng tử cung, tuy nhiên ở một số trường hợp nó có thể xuất hiện ở cổ tử cung, ống dẫn trứng, buồng trứng, bàng quang, ổ bụng… Triệu chứng của bệnh phụ thuộc vào vị trí Lạc nội mạc tử cung, mỗi cá thể có bệnh cảnh khác nhau, nhưng thường có chung một dấu hiệu nổi bật là đau vùng tiểu khung, có liên quan đến chu kỳ kinh nguyệt đau trước hoặc sau khi hành kinh (hoặc cả 2), những cơn đau quặn rất khó chịu, đau khi quan hệ tình dục, đau khi có khoái cảm đỉnh điểm, đau vùng thắt lưng và có thể lan xuống cẳng chân, đau vùng bàng quang hoặc tiểu nhiều, mỏi mệt. Những người mắc bệnh lạc nội mạc tử cung thường ra máu kinh nhiều, kinh nguyệt không đều, thường khó có thai. Điều ngạc nhiên là mức độ nghiêm trọng của Lạc nội mạc tử cung không hề liên quan đến mức độ đau mà người phụ nữ trải nghiệm. Một số phụ nữ không hề có triệu chứng gì và thậm chí không biết mình bị bệnh cho tới khi phát hiện hiếm muộn. Cho tới nay, cách thức duy nhất để chẩn đoán Lạc nội mạc tử cung là soi ổ bụng chẩn đoán bằng quan sát có thể nhầm lẫn, cho nên trường hợp nghi ngờ Lạc nội mạc tử cung vẫn thường được sinh thiết để làm xét nghiệm tế bào. Vì vậy khi có dấu hiệu đau bụng dữ dội vào mỗi chu kỳ kinh nguyệt, lượng kinh thất thường lúc ít lúc nhiều thì phải nghĩ tới bệnh lạc nội mạc tử cung. Nguyên nhân nào: Vì sao tế bào niêm mạc tử cung lại có thể di chuyển, khu trú và phát triển tại các vị trí bất thường. Đã có nhiều nghiên cứu nhằm tìm ra nguyên nhân cơ chế gây ra Lạc nội mạc tử cung. Bình thường, khi trứng không được thụ tinh, do tác động của nội tiết, niêm mạc tử cung sẽ bong và trôi ra ngoài cùng máu kinh nguyệt. Tuy nhiên cũng có những trường hợp máu kinh trào ngược qua ống dẫn trứng vào ổ bụng, có thể bám vào bàng quang, trực tràng, buồng trứng… Những mảnh vụn của nội mạc tử cung đọng lại ở những nơi này và hoạt động giống như khi nằm trong buồng tử cung, nên gọi là lạc nội mạc tử cung. Những nguyên nhân làm cho máu kinh chảy ngược trở lại cũng chính là nguyên nhân gây lạc nội mạc tử cung. Ở tuổi con gái có thể do trong ngày hành kinh, cổ tử cung đóng kín nên khi tử cung co bóp đẩy máu kinh chảy ngược lại. Ở phụ nữ có gia đình, đa số nguyên nhân là do giao hợp khi có kinh, dương vật đã đẩy máu kinh đi ngược lại. Tuy nhiên, chỉ có số ít bị bệnh, vì vậy Lạc nội mạc tử cung có thể còn có vai trò khởi động của hệ miễn dịch hay của hormone. Lý thuyết máu kinh trào ngược cũng không giải thích được vì sao Lạc nội mạc tử cung lại phát triển ở những phụ nữ đã bị cắt tử cung hay vòi trứng… Lý thuyết gen học cho rằng mỗi phụ nữ có cấu trúc gen học thuận lợi để phát bệnh, đó là đối tượng có họ hàng gần với những phụ nữ đã bị Lạc nội mạc tử cung. Khi đã có mối liên hệ di truyền nguy cơ bệnh có xu hướng phát triển xấu hơn ở thế hệ sau. Nhiều lý thuyết khác cho rằng các mảnh của nội mạc tử cung đã theo dòng máu hay theo hệ bạch huyết để đi tới các bộ phận khác của cơ thể, vì thế có nhiều trường hợp Lạc nội mạc tử cung đã phát triển ở phổi, não, da hay mắt. Chưa hết, nhiều người còn tin rằng có những tế bào phôi lạc chỗ đã gây ra Lạc nội mạc tử cung hoặc một số tế bào trưởng thành vẫn còn lưu giữ được khả năng của giai đoạn phôi để chuyển thành mô của giai đoạn sinh sản. Ngoài ra còn có thể do nhiễm một số hóa chất nhóm chlor hữu cơ có trong các đồ tẩy trắng, thậm chí là có cả trong một số sản phẩm vệ sinh phụ nữ. Lạc nội mạc tử cung có nguy hiểm không: Tế bào nội mạc tử cung đi “lạc” vào ống dẫn trứng, khoang bụng, bàng quang, trực tràng… sẽ phát triển tại đó, tạo thành những ổ lạc nội mạc tử cung, gây rối loạn kinh nguyệt, thống kinh, đau bụng và có thể biến chứng thành vô sinh. Lạc nội mạc tử cung ở buồng trứng có liên quan đến hiếm muộn do làm giảm dự trữ noãn ở buồng trứng, ảnh hưởng đến chức năng phóng noãn và thụ tinh giữa noãn với tinh trùng. Không ít trường hợp Lạc nội mạc tử cung ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng sinh sản, như gây dính vòi trứng hoặc cản trở sự phóng noãn của buồng trứng. Ngay cả khi tổn thương Lạc nội mạc tử cung rất nhỏ cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Sự hiện diện của Lạc nội mạc tử cung dù ở giai đoạn nào cũng có thể ảnh hưởng đến sự làm tổ của thai và hoạt động của hệ miễn dịch ở một số phụ nữ. Có nghiên cứu cho thấy can thiệp soi ổ bụng lấy bỏ tổ chức nội mạc tử cung ở những phụ nữ hiếm muộn bị Lạc nội mạc tử cung (mức độ nhẹ) đã phát huy tác dụng cải thiện khả năng sinh sản. Ngoài ra, Lạc nội mạc tử cung cũng có thể liên quan đến sự thiếu hụt beta – 3, hợp chất cần thiết cho tiến trình trứng đã thụ tinh làm tổ. Lạc nội mạc tử cung còn có thể làm tăng khả năng phát triển thực bào – thủ phạm tiêu diệt tinh trùng, trứng hay phôi. Một nghiên cứu khác cho thấy có mối liên hệ giữa Lạc nội mạc tử cung và tình trạng sản xuất trứng chất lượng kém. Tuy nhiên, không phải tất cả phụ nữ bị Lạc nội mạc tử cung đều bị những tác động tiêu cực đã kể, thực tế nhiều người vẫn có thai bình thường. Với một số người gặp khó khăn giải pháp can thiệp ngoại khoa thường tạo cơ hội gia tăng cơ may có thai. Nếu vẫn tiếp tục gặp khó khăn thì có thể tìm đến các phương pháp hỗ trợ sinh sản. Điều trị Lạc nội mạc tử cung Tùy theo mức độ bệnh và độ tuổi của bệnh nhân, điều tri Lạc nội mạc tử cung cũng có thể áp dụng biện pháp nội khoa hoặc ngoại khoa, nhưng cách nào cũng cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ. Những loại thuốc dùng để điều trị Lạc nội mạc tử cung bao gồm những tân dược có thể làm cho người phụ nữ dễ bước vào mãn kinh sớm và những thuốc làm cho tổn thương Lạc nội mạc tử cung co lại bằng cách ức chế rụng trứng (viên thuốc tránh thai hay thuốc tiêm tránh thai chỉ có progesterone). Những tác dụng phụ có thể nghiêm trọng với nhiều loại thuốc trong số này và tái phát sau khi ngừng thuốc vẫn coi là vấn đề nan giải. Ngoài những thuốc trị lạc nội mạc, bạn có thể dùng thêm thuốc giảm đau như: dofenal, hoặc paracetamol dạng viên sủi. Không có thuốc nào trị tiệt căn được bệnh lạc nội mạc tử cung. Bệnh chỉ thuyên giảm tuyệt đối khi phụ nữ vào tuổi mãn kinh, không còn nội tiết tố. Nhiều lựa chọn điều trị khác chỉ là dùng thuốc giảm đau, phong bế thần kinh hay châm cứu. Vì các triệu chứng của Lạc nội mạc tử cung vẫn có thể còn tiếp diễn sau khi điều trị cho nên một số phụ nữ vẫn tìm đến các liệu pháp phi truyền thống khác để giảm đau như dùng thuốc nam (thảo mộc), thay đổi chế độ ăn, bổ sung vitamin, các kỹ thuật thư giãn, kiểm soát dị ứng và liệu pháp miễn dịch. Can thiệp ngoại khoa bảo tồn là một lựa chọn có mục tiêu là loại bỏ hay huỷ diệt tổn thương Lạc nội mạc tử cung và phục hồi cấu trúc giải phẫu đã biến đổi. Nếu tổn thương Lạc nội mạc tử cung ảnh hưởng đến khả năng sinh sản thì can thiệp phẫu thuật có thể giải quyết vấn đề. Trước đây cắt tử cung được chỉ định rộng rãi, ngày nay, can thiệp này vẫn cần thiết khi các liệu pháp khác thất bại. Nhiều khi còn cắt tử cung cùng với cả hai buồng trứng vì đem lại hiệu quả giảm đau lâu dài hơn. Ngày nay can thiệp phẫu thuật để loại bỏ Lạc nội mạc tử cung thường được thực hiện bằng phương pháp soi ổ bụng. Có thể chẩn đoán và điều trị Lạc nội mạc tử cung qua soi ổ bụng, nhưng với tổn thương Lạc nội mạc tử cung lớn cần phẫu thuật rộng, thì vẫn có chỉ định phải mở ổ bụng, tất nhiên trong trường hợp này cần đường rạch rộng và thời gian hồi phục cũng lâu hơn. Đôi khi cần can thiệp ngoại khoa triệt để, bao gồm cắt bỏ tử cung, hai buồng trứng và cả tổn thương Lạc nội mạc tử cung và trường hợp này có lẽ là sự lựa chọn khó khăn nhất mà bệnh nhân phải đối mặt. Phẫu thuật Lạc nội mạc tử cung chỉ là một trong những phương pháp điều trị thông thường, sau phẫu thuật Lạc nội mạc tử cung thường tiếp tục điều trị nội khoa bằng những thuốc ức chế hoạt động của buồng trứng để điều trị triệt để và phòng ngừa nguy cơ tái phát. Vì vậy, sau phẫu thuật người bệnh nên tiếp tục đến bác sỹ để kiểm tra lại sau mổ, nếu cần, tiếp tục điều trị từ 3 – 6 tháng nữa để tránh tái phát.
Những tai biến sau nạo phá thai Phá thai sẽ xảy ra nhiều tai biến sau khi phá thai: Do thiếu kiến thức về sức khỏe sinh sản, nhiều cặp vợ chồng, tình nhân để dính bầu rồi “tặc lưỡi” đi nạo phá thai. Tuy nạo phá thai chỉ là một thủ thuật đơn giản của sản khoa, nhưng những hệ lụy của nó đối với xã hội nói chung và sức khỏe cũng như hạnh phúc của người nạo phá thai nói riêng lại rất lớn. Tổ chức Y tế Thế giới đánh giá Việt Nam là nước có tỉ lệ phá thai cao nhất châu Á và là một trong 5 nước có tỉ lệ phá thai nhiều nhất trên thế giới. Ước tính, mỗi năm trên thế giới có khoảng 210 triệu ca thai nghén và khoảng 46 triệu (22%) ca kết thúc bằng phá thai và tính bình quân trên thế giới trong cuộc đời mỗi người phụ nữ đến tuổi 45 đã có ít nhất một lần phá thai. Gần 20 triệu ca trong số này là phá thai không an toàn. Khoảng 13% tử vong liên quan đến thai nghén là do phá thai không an toàn và con số tử vong khoảng 67.000 ca mỗi năm. Nạo phá thai là nguyên nhân của 5% số ca tử vong ở sản phụ. Ngoài ra, thủ thuật này dễ dẫn đến thủng tử cung, băng huyết, tổn thương cổ tử cung hoặc âm đạo, tai biến do dùng thuốc gây mê, gây tê. Các tai biến xuất hiện muộn hơn là sót thai, sót nhau, nhiễm khuẩn, chấn thương tâm lý, nhiễm khuẩn gây viêm dính buồng tử cung dẫn đến vô sinh… Phương pháp nạo phá thai đến nay đã có những cải tiến lớn, tuy vậy vẫn không tránh được việc phải dùng dụng cụ nong bằng kim loại để nong rộng cổ tử cung, dùng que kim loại để dò hướng khoang tử cung và đo độ dài khoang tử cung, dùng ống hút bằng kim loại để hút phôi thai và đế cuống rốn cuối cùng phải dùng muôi nạo bằng kim loại để nạo sạch khoang tử cung. Từ lúc bắt đầu đến lúc kết thúc đều phải dùng dụng cụ bằng kim loại đưa vào đưa ra, tất nhiên có khả năng làm xước tử cung, thậm chí có thể làm thủng cổ tử cung. Nếu như đế cuống rốn không lấy ra được nhanh sẽ ảnh hưởng đến sự co bóp của tử cung, do đó có thể làm mạch máu không liền lại, trong quá trình thủ thuật đó sẽ bị mất nhiều máu. Vả lại, nếu trước đó đã có viêm bộ phận sinh dục như viêm âm đạo, viêm cổ tử cung chưa được chữa khỏi hoặc trong quá trình thủ thuật không nghiêm chỉnh thực hiện vô khuẩn đúng với quy định, thì những dụng cụ đưa vào đưa ra rất dễ đưa vi khuẩn vào khoang tử cung gây nhiễm khuẩn. Ngoài ra, việc nạo hút thai còn có khả năng để lại di chứng, nhất là đối với trường hợp đã qua nạo hút nhiều lần, nguy hại sẽ không nhỏ. Các tai biến đặc trưng của phá thai ngoại khoa gồm: ứ máu trong buồng tử cung; nhiễm khuẩn; rách cổ tử cung, thủng tử cung do chọc hoặc rách; còn thai; sót rau thai; băng huyết do sót rau, chấn thương và thủng tử cung. Các tai biến đặc trưng của phá thai nội khoa: thất bại của thuốc phá thai nên vẫn phải hút lại buồng tử cung; sảy thai không hoàn toàn cũng bắt buộc phải hút lại buồng tử cung tránh băng huyết và nhiễm khuẩn; băng huyết; nhiễm khuẩn tử cung. Đó là chưa kể các biến chứng liên quan đến phương pháp vô cảm như gây mê và gây tê nhằm giúp bệnh nhân giảm đau đớn khi thực hiện thủ thuật. Sau một ca nạo phá thai an toàn, đa số bệnh nhân đều không bị ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản, nhưng vẫn có một tỷ lệ nhỏ có biến chứng nặng nề để lại hậu quả về sau. Vì thế, nếu lỡ có thai ngoài ý muốn, chị em nên tới các cơ sở y tế được phép làm thủ thuật này. Biện pháp giảm tỷ lệ phá thai có hiệu quả là truyền thông tư vấn về việc áp dụng biện pháp tránh thai để mỗi gia đình chỉ có 1-2 con.
Ðề: Trường hợp không nên đặt vòng tránh thai Mình thấy có người còn lạc vòng tránh thai đi chỗ khác. Nên nghĩ dùng vòng cứ rủi do thế nào ấy
Không nên tự ý sử dụng thuốc phá thai Ở Việt Nam, phương pháp phá thai bằng thuốc được Bộ Y tế cho phép áp dụng. Tuy nhiên, nếu không theo dõi và có những hiểu biết cụ thể thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe người sử dụng. Phá thai bằng thuốc là một phương pháp tiến bộ của y học thế giới và nhiều nước đã áp dụng thành công. Đây là phương pháp phá thai áp dụng cho những thai dưới 50 ngày tuổi. Thực trạng tự ý sử dụng thuốc: Hiện nay, do biện pháp phá thai bằng thuốc vừa nhanh và kín đáo, không ảnh hưởng nhiều đến chức năng sinh sản nên có rất nhiều người đã tự ý mua thuốc về sử dụng, không có chỉ dẫn của bác sĩ. Điều đáng lo ngại là không ít trong số này là những trẻ vị thành niên. Với giá vài nghìn đồng/viên Cytotec loại 200mg bán tại các nhà thuốc hiện nay, ai cũng có thể dễ dàng mua được để “giải quyết hậu quả”. Gần đây, Khoa Cấp cứu – Bệnh viện E đã tiếp nhận cấp cứu một trường hợp bệnh nhân bị băng huyết do tự ý sử dụng thuốc để phá thai. Theo đó, một nữ sinh THPT ở huyện Từ Liêm, Hà Nội, nghe bạn bè mách bảo tự ý mua thuốc để phá thai. Tuy nhiên, do không có chỉ dẫn của bác sĩ nên đã để sảy thai giữa chừng, nhau thai ra không hết, gây nhiễm trùng nặng bên trong. Cần theo dõi chặt chẽ: Để phá thai dưới 50 ngày tuổi, cần có 2 loại thuốc kết hợp là Mifepristone và Misoprostol (Cytotec). Tuy chỉ là uống thuốc để gây sảy thai tự nhiên, nhưng quy trình uống phải được quản lý chặt: Bệnh nhân sẽ uống viên đầu (Mifepristone 200mg) dưới sự giám sát của bác sĩ, 15 phút sau khi uống thuốc bệnh nhân mới được rời cơ sở y tế. Sau 48 giờ phải quay trở lại để uống tiếp 2 viên Misoprostol (mỗi viên 200mg) và phải ở lại bệnh viện khoảng 4 giờ để theo dõi. Những tai biến có thể xảy ra: Theo các bác sĩ, phá thai bằng thuốc gây ra một số phản ứng mạnh như đau co thắt dữ dội ở dạ dày, ra nhiều huyết. Ngoài ra, thuốc chống chỉ định với những người bị bệnh lý tuyến thượng thận, rối loạn đông máu, đang cho con bú, những phụ nữ có vết sẹo cũ ở tử cung; tử cung dị dạng; chửa ngoài dạ con; có tiền sử đã từng dị ứng với bất kỳ loại thuốc trị bệnh nào trước đó… Khi sử dụng thuốc phá thai, có thể gây những tác dụng nhẹ như nổi mề đay, mẩn ngứa hoặc nặng như khó thở, choáng, tụt huyết áp. Một số ít trường hợp có tình trạng ra máu nhiều khi vào kỳ kinh kế tiếp, đôi khi cần phải nhập viện điều trị. Ngoài ra phá thai bằng thuốc đòi hỏi thai phụ phải tuân thủ lịch tái khám, nhằm đảm bảo chắc chắn thai đã chết và đã được tống xuất hoàn toàn, không có tình trạng sót thai hay sót nhau dẫn đến tình trạng ra máu dây dưa có thể làm thai phụ bị thiếu máu và nhiễm trùng. Chỉ được thực hiện tại bệnh viện: Theo khuyến cáo của các bác sĩ, khi muốn áp dụng biện pháp PTBT, cần đến các cơ sở y tế chuyên khoa để thực hiện dưới sự theo dõi chặt chẽ của y, bác sĩ tránh những tai biến đáng tiếc có thể xảy ra. Cần kiểm tra chắc chắn bằng siêu âm xem đã có thai chưa, thai có nằm trong buồng tử cung hay không?… trước khi áp dụng biện pháp này. Bên cạnh đó, phụ nữ trong độ tuổi sinh sản cần được tư vấn về các phương pháp tránh thai an toàn, để hạn chế đến mức thấp nhất việc phải phá thai.
đàn ông vô sinh ngày càng tăng cao Có nhiều báo cáo cho thấy một xu hướng đáng lo ngại là tần suất hiếm muộn nam giới ngày càng tăng: Có khoảng 10 – 15% các cặp vợ chồng trong tuổi sinh sản có vấn đề về hiếm muộn. Trong đó, nguyên nhân do nam giới, đơn thuần hoặc kết hợp, chiếm ít nhất 50%. Nguyên nhân dẫn tới hiện tượng vô sinh ở nam giới ngày càng cao: Rất nhiều giả thuyết được đưa ra để giải thích cho hiện tượng số lượng và chất lượng tinh trùng trong tinh dịch người có xu hướng giảm dần. Dưới đây là một số vấn đề chính được tổng hợp từ các báo cáo trong y văn thế giới: Tổn thương cấu trúc di truyền của tinh trùng và tế bào sinh tinh: nhiều nghiên cứu cho thấy tiếp xúc với nhiệt độ cao, ô nhiễm môi trường và hoá chất công nghiệp, các gốc oxy hoá tự do… có thể làm tổn thương cấu trúc di truyền (ADN, ARN) của tinh trùng. Các tổn thương này có thể dẫn đến tinh trùng dị dạng, giảm khả năng thụ tinh, bất thường trong phát triển hợp tử và phôi người. Các tổn thương này làm giảm khả năng thụ tinh của trứng và tinh trùng, khả năng làm tổ của phôi, tăng khả năng sẩy thai. Tổn thương ADN của các tế bào mầm sinh tinh trùng có thể làm thay đổi hiện tượng chết theo chương trình. Điều này ảnh hưởng đến phân chia tế bào và quá trình sinh tinh ở tinh hoàn, dẫn đến giảm số lượng tinh trùng sinh ra. Các tác nhân gây rối loạn hệ thống nội tiết: sự ổn định nội tại của hệ thống nội tiết và cận tiết đóng vai trò rất quan trọng cho sự đồng bộ hệ thống sinh sản của người. Những tác nhân gây rối loạn hệ thống nội tiết (endocrine disruptors – ED) trong môi trường sống mà con người có thể tiếp xúc từ giai đoạn phôi thai, sau sinh đến dậy thì và sau dậy thì là tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến khả năng sinh sản và hoạt động hệ sinh sản. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến khả năng sinh sản của cá thể tiếp xúc mà còn cả trên các thế hệ sau đó. Các tác động của ED được ghi nhận bao gồm: tăng đột biến gen; ảnh hưởng đến sự sinh tinh, làm giảm sản xuất tinh trùng hoặc ảnh hưởng đến sinh tinh, dẫn đến bất thường tinh trùng và bất thường này thể hiện ở giảm khả năng sinh sản của thế hệ sau; giảm khả năng thụ tinh của tinh trùng; ảnh hưởng lên thai và làm giảm khả năng sinh sản về sau của thai nhi, tăng tỷ lệ dị tật và bất thường hệ thống sinh sản của thai nhi. Lối sống và ảnh hưởng của môi trường: các thay đổi lối sống và môi sinh là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến con người ngày càng tiếp xúc nhiều hơn với các tác nhân ảnh hưởng xấu đến khả năng sinh sản của chính từng cá thể tiếp xúc và các thế hệ sau đó. Xã hội hiện đại và công nghiệp hoá được nhiều tác giả cho là đóng vai trò chính. Một số vấn đề lớn về lối sống và thay đổi môi trường hiện nay được y văn đề cập, gồm: chế độ ăn không tốt cho sức khoẻ; tỷ lệ béo phì ngày càng tăng trên thế giới; hút thuốc; ô nhiễm không khí từ các phương tiện giao thông, các nhà máy; ô nhiễm nguồn nước sử dụng; thực phẩm chứa độc chất… Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản sẽ là cứu tinh Trở ngại lớn nhất của điều trị vô sinh nam chủ yếu là các nguyên nhân đến nay chưa được hiểu rõ. Với các xu hướng và cơ chế ảnh hưởng khả năng sinh sản nêu trên, việc chẩn đoán xác định nguyên nhân hiếm muộn nam giới rõ ràng rất khó khăn: thứ nhất, khó xác định nguyên nhân mắc phải của chính bệnh nhân; thứ hai, hầu như không chẩn đoán và điều trị hồi phục nếu là nguyên nhân do các biến đổi di truyền đã phát sinh từ bố mẹ… Do đó, các biện pháp nội khoa và ngoại khoa cổ điển sẽ ít có giá trị trong điều trị hiếm muộn cho nam giới. Trong bối cảnh đó, vai trò của các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ngày càng trở nên quan trọng. Sự xuất hiện của thụ tinh trong ống nghiệm (IVF), đặc biệt với kỹ thuật ICSI đã giúp giải quyết khá triệt để vấn đề hiếm muộn nam. Các báo cáo tổng kết ở Mỹ và châu Âu qua các năm đều cho thấy tăng số chu kỳ thụ tinh trong ống nghiệm, trong đó ICSI là kỹ thuật chiếm đa số. Kỹ thuật ICSI giúp một tinh trùng có thể thụ tinh trực tiếp với trứng để tạo phôi mà không phải vượt qua các trở ngại ở đường sinh dục nữ và hàng rào bảo vệ trứng. Điều này giúp nam giới rối loạn số lượng và chức năng tinh trùng ở các mức độ khác nhau có thể có con của chính mình. Tuy nhiên, các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chủ yếu giúp vượt qua các trở ngại về sinh lý để giúp cặp vợ chồng có con chứ không điều trị trực tiếp nguyên nhân. Do đó, về lâu dài, cần đến các giải giải pháp toàn diện mang tính toàn cầu để cải thiện lối sống và ngăn chặn các biến đổi xấu của môi trường sống. Đây hiện là một thách thức lớn của nhân loại.
Ðề: đàn ông vô sinh ngày càng tăng cao Híc thương quá không ai muốn vậy....................................
Mùa mà tinh trùng khỏe nhất Thống kê cho thấy, mùa thu là thời điểm chứng kiến nhiều trẻ ra đời nhất trong năm. Giải thích cho hiện tượng này các nhà nghiên cứu Israel phát hiện một nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này là do tinh trùng của con người nhìn chung khỏe mạnh nhất vào mùa đông và đầu mùa xuân. Theo báo cáo nghiên cứu đăng tải trên tạp chí American Journal of Obstetrics & Gynecology, tinh dịch của các quý ông trong mùa đông sẽ chứa nhiều tinh trùng có tốc độ bơi nhanh hơn và ít bị biến dị bất thường hơn. Chất lượng “tinh binh” sẽ giảm dần từ mùa xuân trở đi. Trưởng nhóm nghiên cứu – nhà khoa học Eliahu Levitas đến từ Đại học Ben-Gurion ở Beer-Sheva, cho biết: “Các mẫu tinh dịch vào mùa đông và mùa xuân tương thích với khả năng thụ tinh tăng cao và có thể giúp lý giải cho số lượng ca sinh nở đạt đỉnh trong mùa thu” Các nhà nghiên cứu kết luận, nếu sức mạnh của “tinh binh” tuân thủ theo chu kỳ mùa, kiến thức này sẽ trở nên vô cùng quan trọng, đặc biệt đối với những cặp vợ chồng đang phải chữa trị vô sinh cũng như hiếm muộn ở nam giới chưa thành công và kéo dài. Các nghiên cứu trước đây, chủ yếu trên động vật, cũng thu được kết quả tương tự, phù hợp với mùa sinh sản của chúng. “Điều nan giải hiện nay là tìm ra yếu tố nào dẫn đến hiện tượng này”, ông Edmund Sabanegh, chủ nhiệm Khoa tiết niệu của Bệnh viện Cleveland, Ohio (Mỹ) và không tham gia nghiên cứu trên, nói. Trong các nghiên cứu trên động vật, việc thay đổi theo mùa đối với quá trình sản sinh “con giống” và khả năng sinh sản có liên quan đến hàng loạt yếu tố, từ nhiệt độ tới thời lượng tiếp xúc ánh sáng ban ngày và sự thay đổi hoóc môn. Ở người, một số nghiên cứu gần đây phát hiện, chất lượng “tinh binh” đang suy giảm khắp toàn cầu. Dù chưa biết chính xác tại sao nhưng giới khoa học đã đưa ra hàng loạt giả thuyết, từ lối sống ít vận động hơn tới các hóa chất trong môi trường đang làm ảnh hưởng đến sức khỏe “con giống” của đàn ông. Chuyên gia Sabanegh tuyên bố, bất chấp nghiên cứu mới, các bác sĩ không nên khuyên đàn ông hiếm muộn, có số lượng tinh trùng thấp chờ đợi tới mùa đông hoặc mùa xuân để thử thụ tinh. Theo ông, họ cần được tiếp tục khuyến khích cố gắng có con vào mọi mùa trong năm và có thể được hưởng lợi từ những biện pháp can thiệp cũng như hỗ trợ y học. các bạn vào trang web ourlife để đọc thêm thông tin về các bệnh nam khoa nhé
Ðề: đàn ông vô sinh ngày càng tăng cao ngày xưa thì đẻ sòn sòn chả ai bị làm sao. bi h ăn nhiều hóa chất độc hại mới vô sinh nhiều.