Thông tin: Truyện cổ tích thế giới

Thảo luận trong 'Thư viện của con' bởi khuchaivan, 6/3/2013.

  1. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Mến gửi các bố mẹ và các con. ?Sau một thời gian tham quan box này, em thấy chúng ta cần có những topic chuyên biệt cung cấp các tài nguyên cho bố mẹ và các bé dễ tìm ạ! Hãy cứ tưởng tượng, mỗi tối chúng ta cùng con mở máy tính vào box này và kể, hay đọc cho con nghe một câu truyện thì sẽ rất tuyệt vời ạ!
    Vì vậy, em quyết định lập riêng một topic về truyện cổ tích thế giới, và đưa các câu truyện tương ứng theo tên đã đặt của đề tài trong topic ạ!
    Vì đây không phải là topic thảo luận, nên em xin đề xuất các bố mẹ là sau khi đọc xong nếu muốn chia sẻ gì với em thì hãy Pm vào nick của em ạ! Trong trường hợp cần nhấn nút cảm ơn thì diễn đàn cũng đã có chức năng này ạ! Sở dĩ em đề xuất như vậy, là để cho các bố mẹ tiện theo rõi, và em cũng tiện post bài ạ! Xin các bố mẹ thông cảm vì em là người khiếm thị, nên việc theo rõi một topic mà có quá nhiều bài trao đổi sẽ khá khó khăn nếu muốn cái topic của mình được ngăn nắp và tiện theo rõi cho các thành viên khác.
    Trên đây là một vài lời phi lộ của em xin gửi tới các bố mẹ ạ! Mến chúc các bố mẹ và các bé luôn dồi dào sức khỏe, và niềm vui.
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi khuchaivan
    Đang tải...


  2. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Ba Bà Hoàng Hậu






    Ngày xửa, ngày xưa, có một ông vua trẻ. Ðức vua cai trị một vương quốc giàu có, xinh đẹp, nhưng đẹp nhất có lẽ là ba bà hoàng hậu của đức vua.
    Ba vị hoàng hậu này vừa có sắc lẫn có tài, nên cả ba đều được đức vua sủng ái như nhau, " Mỗi người một vẻ, mười phần vẹn mười". Cho đến một hôm, nhà vua bỗng nảy ra một ý nghĩ: Trong ba mỹ nhân này thế nào cũng có một người tuyệt diễm hơn hai người kia, nhưng ta không tài nào nhận ra được, có lẽ vì mình nhìn mãi nó quen mắt đi chăng? Hay là ta hỏi ý kiến bọn cung phi vậy".
    Ðức vua bèn mở cuộc trưng cầu dân ý tại hậu cung để tìm xem trong ba mỹ nhân ai là người đẹp nhất. Kết quả cũng không lấy gì làm sáng sủa cho lắm, vì ai cũng cho rằng cả ba vị hoàng hậu đều đẹp ngang nhau. Kẻ tám lạng, người nửa cân vậy.
    Nhà vua lại đem nội vụ ra bàn với đình thần. Kết quả cũng tương tợ như trên. Quan tể tướng khuyên đức vua nên dừng cuộc giảo nghiệm lại, vì e nó chẳng ích lợi gì mà đôi khi mang đến hậu họa khó lường được.
    Thay vì nghe lời khuyên sáng suốt của vị trung thần lão thành ấy thì đức vua của chúng ta lại nổi cơn thịnh nộ, truyền lịnh cho quan tể tướng phải giải quyết cho xong công việc trong vòng ba hôm. Sau một lúc im lặng, quan tể tướng kính cẩn tâu:
    - Muôn tâu bệ hạ, thần trộm nghĩ rằng, bọn hạ thần chỉ sở trường về chuyện cung kiếm văn thơ, còn chuyện đẹp xấu tướng hảo ra sao thì chắc phải nhường cho các vị bốc sư nổi tiếng. Hay là bệ hạ cho vời y vào, y sẽ phân biệt rõ ràng hơn không?
    Nhà vua nguôi giận. Một ông thầy bói được lập tức triệu vào cung để chiêm ngưỡng dung nhan ba người đẹp. Vị bốc sư không chịu cho biết kết quả ngay mà xin khất lại ngày hôm sau để về "tra tự điển" lại.
    Lão bốc sư đi rồi, quan tể tướng bèn tâu nhỏ với đức vua:
    - Muôn tâu thánh thượng! Hạ thần trộm nghĩ rằng qúi đức bà, mỗi người có một vẽ đẹp riêng, tùy theo nhãn quan và sở thích của từng người. Ý kiến của chúng thần có thể bất đồng nhau, nhưng vì sợ uy quyền của quí đức bà, nên bọn hạ thần không dám nói lên ý kiến của mình mà chỉ kết luận chung chung rằng, cả ba đức bà đều tài sắc như nhau. Nếu thần không lầm thì lão bốc sư này cũng lâm vào một tình thế khó xử như bọn hạ thần, nên lão mới xin khất lại vào ngày mai đó thôi.
    - Thế thì khanh giải quyết bằng cách nào?
    - Muôn tâu! Ngu thần có một kế mọn là bệ hạ giả mạo bức thư, ký tên của ba đức bà, hẹn lão ấy đến ba địa điểm riêng. Nếu y đến địa điểm nào thì đức bà ấy sẽ là người đẹp nhất.
    - Hay lắm, khanh hãy thi hành ngay cho trẫm.
    Ba bức thư tức tốc được gởi đi và lão bốc sư đi đến chỗ hẹn với bà hoàng đẹp nhất.
    Ðức vua truyền lệnh chém đầu lão thầy bói ... Và từ đó ngài đặc biệt sủng ái vị hoàng hậu vào chung kết nầy.
    Hai bà hoàng hậu còn lại vô cùng tức tối, họ âm mưu với nhau dùng độc dược giết chết bà hoàng hậu đẹp nhất.
    Chuyện bại lộ, đức vua truyền lệnh xử tử luôn hai bà hoàng hậu còn lại.
    Ba vị hoàng hậu xinh đẹp nhất nước đều chết hết, đức vua còn lại một mình để thấy hoàng cung sao mà trống trải lạnh lẽo, bất kể Xuân Hạ Thu Ðông.
    Riêng phần lời bàn ở dưới em để vì tôn trọng tác giả, Các bố mẹ không nhất thiết đọc cho các bé nghe mà hãy tìm cách chia sẻ với các bé những ý nghĩa của lời bàn này như một thảo luận, Biết đâu lại chả tìm được ý gì hay ạ!

    Lời bàn:
    Các bạn thân mến!
    Mọi thứ trên thế gian này, mỗi thứ đều có một đặc tính riêng, nhưng khi chúng ta bắt đầu "ưu tiên một" cho cái nào, tức là để tâm vào nó, thì sự việc bắt đầu trở nên rắc rối. Có lẽ vì vậy mà đức Phật thường khuyên chúng ta là hãy để yên cho các pháp trụ ở bản vị của nó. Chớ xen vào phân biệt để tự chuốc khổ cho mình và làm di hoạ cho người chung quanh.
    Cũng thế, trong cuộc tương giao với bạn bè lân cận, mỗi người bạn của chúng ta đều mang một cái tính riêng biệt, chiếm một vị trí, cách thế khác nhau, chẳng ai giống ai. Và chúng ta cũng khó mà kết luận rằng ai quan trọng hơn ai. Mùa Xuân có hoa lan, mùa Thu có hoa cúc, mỗi loài hoa đều có hương sắc riêng của nó, không thể nào bắt loại hoa này phải bắt chước hoa kia được. Em có thấy rằng số phần rủi ro luôn luôn đến với người mà chúng ta đặc biệt ưu ái hay không?
    Vậy thì, ta có nên ngu muội đem cái ý thức phân biệt của mình xen vào các mối tương giao ấy, để cảm thấy cuộc đời này sao mà lạnh lẽo bất kể bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Ðông hay không?
     
  3. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ba câu hỏi

    Ngày xưa xưa lắm rồi, ta không còn nhớ là lúc nào. Có một vị vua nọ. Nhà vua là người thông minh, và dưới sự cai trị tài năng của nhà vua, đất nước đó đã trở nên rất giàu mạnh.
    Một hôm đức Vua nghĩ rằng, giá mà vua trả lời được ba câu hỏi sau thì vua sẽ không bao giờ bị thất bại trong bất cứ công việc nào. Ba câu hỏi ấy là:
    1. Làm sao để biết được thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc?
    2. Làm sao để biết được nhân vật nào là nhân vật quan trọng nhất mà ta phải chú trọng?
    3. Làm sao để biết được công việc nào là công việc cần thiết nhất mà ta phải thực hiện?
    Nghĩ thế, vua liền ban chiếu ra khắp trong bàn dân thiên hạ, hứa rằng sẽ ban thưởng trọng hậu cho kẻ nào trả lời được những câu hỏi đó.
    Các bậc hiền nhân đọc chiếu liền tìm tới kinh đô. Nhưng mỗi người lại dâng lên vua một câu trả lời khác nhau.
    Về câu hỏi thứ nhất, có người trả lời rằng muốn biết thời gian nào là thời gian thuận lợi nhất cho mỗi công việc thì phải làm thời biểu cho đàng hoàng, có ngày giờ năm tháng và phải thi hành cho thật đúng thời biểu ấy. Như vậy mới mong công việc làm đúng lúc. Kẻ khác thì lại nói không thể nào dự tính được trước những việc gì phải làm và thời gian để làm những việc ấy; rằng ta không nên ham vui mà nên chú ý đến mọi sự khi chúng xẩy tới để có thể làm bất cứ gì xét ra cần thiết.
    Có kẻ lại nói rằng, dù vua có chú ý đến tình hình mấy đi nữa thì một mình vua cũng không đủ sáng suốt để định đoạt thời gian của mọi việc làm một cách sáng suốt, do đó nhà vua phải thành lập một hội đồng Nhân Sĩ và hành động theo lời khuyến cáo của họ.
    Lại có kẻ nói rằng, có những công việc cần phải lấy quyết định tức khắc không thể nào có thì giờ để tham khảo xem đã đến lúc phải làm hay chưa đến lúc phải làm. Mà muốn lấy quyết định cho đúng thì phải biết trước những gì sẽ xẩy ra, do đó, nhà vua cần phải cần đến những nhà cố vấn tiên tri và bốc phệ.
    Về câu hỏi thứ hai, cũng có nhiều câu trả lời không giống nhau. Có người nói những nhân vật mà vua cần chú ý nhất là những ông đại thần và những người trong triều đình. Có người nói là mấy ông Giám Mục, Thượng Tọa là quan hệ hơn hết. Có người nói là mấy ông tướng lãnh trong quân đội là quan hệ hơn hết.
    Về câu hỏi thứ ba, các nhà thức giả cũng trả lời khác nhau. Có người nói khoa học là quan trọng nhất. Có người nói tôn giáo là quan trọng nhất. Có người lại nói: chỉnh trang quân đội là quan trọng nhất.
    Vì các câu trả lời khác nhau cho nên nhà vua không thể đồng ý với vị hiền nhân nào cả, và chẳng ban thưởng cho ai hết.
    Sau nhiều đêm suy nghĩ vua quyết định đi chất vấn một ông đạo tu trên núi, ông đạo này nổi tiếng là có giác ngộ. Vua muốn tìm lên trên núi để gặp ông đạo và hỏi ba câu hỏi kia.
    Vị đạo sĩ này chưa bao giờ chịu xuống núi và nơi ông ta ở chỉ có những người dân nghèo; chẳng bao giờ ông chịu tiếp người quyền quý. Vì vậy mà nhà vua cải trang làm thường dân. Khi đi đến chân núi, vua dặn vệ sĩ đứng chờ ở dưới, và một mình vua, trong y phục một thường dân, vua trèo lên am của ông đạo.
    Nhà vua gặp ông đạo đang cuốc đất trước am. Khi trông thấy người lạ, ông đạo gật đầu chào rồi tiếp tục cuốc đất. Ông đạo cuốc đất một cách nặng nhọc bởi ông đã già yếu; mỗi khi cuốc lên được một tảng đất hoặc lật ngược được tảng đất ra thì ông lại thở hào hển.
    Nhà vua tới gần ông đạo và nói: "Tôi tới đây để xin ông đạo trả lời giúp cho tôi ba câu hỏi. Làm thế nào để biết đúng thì giờ hành động, đừng để cho cơ hội qua rồi sau phải hối tiếc ? Ai là những người quan trọng nhất mà ta phải chú ý tới nhiều hơn cả ? Và công việc nào quan trọng nhất cần thực hiện trước tiên ?"
    Ông đạo lắng nghe nhà vua nhưng không trả lời. Ông chỉ vỗ vai nhà vua và cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
    Nhà vua nói: "Ông đạo mệt lắm rồi, thôi đưa cuốc cho tôi, tôi cuốc một lát". Vị đạo sĩ cám ơn và trao cuốc cho Vua rồi ngồi xuống đất nghỉ mệt. Cuốc xong được hai vồng đất thì nhà vua ngừng tay và lập lại câu hỏi. Ông đạo vẫn không trả lời, chỉ đứng dậy và đưa tay ra đòi cuốc, miệng nói: "Bây giờ bác phải nghỉ, đến phiên tôi cuốc". Nhưng nhà vua thay vì trao cuốc lại cúi xuống tiếp tục cuốc đất.
    Một giờ rồi hai giờ đồng hồ đi qua. Rồi mặt trời bắt đầu khuất sau đỉnh núi. Nhà vua ngừng tay, buông cuốc, và nói với ông đạo:
    "Tôi tới để xin ông đạo trả lời cho mấy câu hỏi. Nếu ông đạo không thể trả lời cho tôi câu nào hết thì xin cho biết để tôi còn về nhà".
    Ông đạo nghe tiếng chân người chạy đâu đây bèn nói với nhà vua: "Bác thử xem có ai chạy lên kìa". Nhà vua ngó ra thì thấy một người có râu dài đang chạy lúp xúp sau mấy bụi cây, hai tay ôm bụng. Máu chảy ướt đầm cả hai tay. Ông ta cố chạy tới chỗ nhà vua và ngất xỉu giữa đất, nằm im bất động miệng rên ri rỉ.
    Vua và ông đạo cởi áo người đó ra thì thấy có một vết đâm sâu nơi bụng. Vua rửa chỗ bị thương thật sạch và xé áo của mình ra băng bó vết thương, nhưng máu thấm ướt cả áo. Vua giặt áo và đem băng lại vết thương. Cứ như thế cho đến khi máu ngừng chảy.
    Lúc bấy giờ người bị thương mới tỉnh dậy và đòi uống nước. Vua chạy đi múc nước suối cho ông ta uống. Khi đó mặt trời đã bắt đầu khuất và bắt đầu lạnh. Nhờ sự tiếp tay của ông đạo, nhà vua khiêng người bị nạn vào trong am và đặt nằm trên giường ông đạo. Ông ta nhắm mắt nằm yên. Nhà vua cũng mệt quá vì leo núi và cuốc đất cho nên ngồi dựa vào cánh cửa và ngủ thiếp đi. Vua ngủ ngon cho đến nỗi khi Vua thức dậy thì trời đã sáng và phải một lúc sau Vua mới nhớ ra được mình đang ở đâu và đang làm gì. Vua nhìn về phía giường thì thấy người bị thương cũng đang nhìn mình chòng chọc, hai mắt sáng trưng.
    Người đó thấy vua tỉnh giấc rồi và đang nhìn mình thì nói, giọng rất yếu ớt:
    "Xin bệ hạ tha tội cho thần".
    "Ông có làm gì nên tội đâu mà phải tha ?"
    "Bệ hạ không biết hạ thần, nhưng hạ thần biết bệ hạ. Hạ thần là người thù của bệ hạ, Hạ thần đã thề sẽ giết bệ hạ cho bằng được bởi vì khi xưa, trong chinh chiến bệ hạ đã giết mất người anh của hạ thần và còn tịch thu gia sản của hạ thần nữa".
    "Hạ thần biết rằng bệ hạ sẽ lên núi này một mình để gặp ông đạo sĩ, nên đã mai phục quyết tâm giết bệ hạ trên con đường về. Nhưng cho đến tối mà bệ hạ vẫn chưa trở xuống, nên hạ thần đã rời chỗ mai phục mà đi lên núi tìm bệ hạ để hành thích. Thay vì gặp bệ hạ, hạ thần lại gặp bốn vệ sĩ. Bọn nầy nhận mặt được hạ thần cho nên đã xông lại đâm hạ thần. Hạ thần trốn được chạy lên đây, nhưng nếu không có bệ hạ cứu thì chắc chắn hạ thần đã chết vì máu ra nhiều quá. Hạ thần quyết tâm hành thích bệ hạ mà bệ hạ lại cứu sống được hạ thần. Hạ thần hối hận quá. Bây giờ đây nếu hạ thần mà sống được thì hạ thần nguyện sẽ làm tôi mọi cho bệ hạ suốt đời, và hạ thần cũng sẽ bắt các con của hạ thần làm như vậy. Xin bệ hạ tha tội cho hạ thần".
    Thấy mình hòa giải được với kẻ thù một cách dễ dàng nhà vua rất vui mừng. Vua không những tha tội cho người kia mà còn hứa sẽ trả lại gia sản cho ông ta, và gửi ngự y cùng quân hầu tới săn sóc cho ông ta lành bệnh.
    Sau khi cho vệ sĩ khiêng người bị thương về nhà, vua trở lên tìm ông đạo để chào. Trước khi ra về vua còn lặp lại lần cuối ba câu hỏi của vua. Ông đạo đang quỳ gối xuống đất gieo những hạt đậu trên những luống đất đã cuốc sẵn hôm qua.
    Vị đạo sĩ đứng dậy nhìn vua: "Nhưng ba câu hỏi của vua đã được trả lời rồi mà".
    Vua hỏi: "trả lời bao giờ đâu nào ?"
    "Hôm qua nếu Vua không thương hại bần đạo già yếu mà ra tay cuốc dùm mấy luống đất này thì khi ra về nhà vua đã bị kẻ kia mai phục hành thích mất rồi, và nhà Vua sẽ tiếc rằng đã không ở lại cùng ta. Vì vậy thời gian quan trọng nhất là thời gian Vua đang cuốc đất; nhân vật quan trọng nhất lúc đó là bần đạo đây, và công việc quan trọng nhất là công việc giúp bần đạo. Rồi sau đó khi người bị thương nọ chạy lên, thời gian quan trọng nhất là thời gian vua chăm sóc cho ông ta, bởi vì nếu vua không băng vết thương cho ông ấy thì ông ấy sẽ chết và vua không có dịp hòa giải với ông ấy; cũng vì thế mà ông ta là nhân vật quan trọng nhất, và công việc vua làm để băng bó vết thương là quan trọng nhất. Xin vua hãy nhớ kỹ điều này: "chỉ có một thời gian quan trọng mà thôi, đó là thời gian hiện tại, là giờ phút hiện tại. Giờ phút hiện tại quan trọng bởi vì đó là thời gian duy nhất trong đó ta có thể làm chủ được ta. Và nhân vật quan trọng nhất là kẻ đang cụ thể sống với ta, đang đứng trước mặt ta, bởi vì ai biết được là mình sẽ đương đầu làm việc với những kẻ nào trong tương lai. Công việc quan trọng nhất là công việc làm cho người đang cụ thể sống bên ta, đang đứng trước mặt ta được hạnh phúc, bởi vì đó là ý nghĩa chính của đời sống.
     
  4. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Ba câu hỏi

    Ba Sợi Lông Sư Tử






    Mẹ của Segab chết khi cậu mười một tuổi. Cha cậu cưới một người vợ khác tên Bizunesh.
    Segab không thích Bizunesh. Nhưng Bizunesh bắt đầu yêu thương cậu và cố gắng làm một người mẹ tốt của cậu. Bà nấu những bữa ăn sáng, chiều và tối ngon, nhưng cậu không ăn . Bà mua cho cậu nhiều quần áo đẹp, nhưng cậu không mặc. Bà mua giày mới cho cậu , cậu mang ra sông và ném xuống sông. Khi bà nói chuyện với cậu , cậu luôn luôn bỏ chạy.
    Một ngày kia người đàn bà đáng thương ấy nói với Segab : “Mẹ luôn luôn muốn có một đứa con trai và bây giờ mẹ có con, Segab ạ. Mẹ rất yêu con, con trai của mẹ!”.
    Nhưng Segab giận dữ nói : “Tôi không phải là con trai của bà, và bà không phải là mẹ tôi. Mẹ tôi chết rồi. Tôi không yêu bà. Tôi sẽ không bao giờ yêu thương bà”.
    Bizunesh rất đau khổ và khóc suốt đêm . Sáng hôm sau bà quyết định đi gặp một cụ già thông thái. Bà kể ông nghe chuyện Segab không thương bà.
    Ông già nói: “Ông có thể giúp cháu. Nhưng trước hết cháu phải mang cho ông ba sợi lông sư tử ”.
    “Nhưng làm sao cháu lấy được? Con sư tử sẽ giết cháu”.
    “Ông không trả lời được. Ông cần ba sợi lông sư tửû. Hãy cố lấy cho được”.
    Bizunesh đi ra ngoài nghĩ cách lấy được lông sư tử. Bà đi rất xa và đến một nơi có một con sư tử sống. Con sư tử rất lớn và đang gầm lên giận dữ vì đói. Bizunesh sợ nó, bà bỏ chạy ngay. Nhưng ngày hôm sau bà trở lại mang theo một ít thịt cho con sư tử. Bà đặt thịt không xa chỗ nó rồi bỏ chạy.
    Con sư tử thấy thịt và đến gần. Nó ăn hết thịt rất nhanh.
    Ngày hôm sau bà lại mang thịt cho con sư tử và đặt gần hơn một chút, con sư tử lại ăn hết.
    Mỗi ngày Bizunesh đều mang thịt cho con sư tử và không bao lâu sau nó hiểu người phụ nữ này là bạn nó. Nó tỏ ra vui vẻ khi thấy bà.
    Đến một ngày Bizunesh đến rất gần con sư tử và đưa thịt cho nó ăn. Cùng một lúc bà nhổ ba sợi lông trên lưng nó. Con sư tử không giận. Bizunesh chạy đến gặp cụ già thông thái và đưa ba sợi lông đó cho ông.
    “Cháu phải làm gì với những sợi lông này?” Bà hỏi.
    “Không làm gì hết” cụ già trả lời. “Nhưng cháu đã biết cách đến gần một con sư tử, dần dần, từng bước một. Hãy làm giống như vậy với Segab và ông chắc chắn nó sẽ yêu thương cháu”.
     
  5. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Ba câu hỏi

    Ba Sợi Lông Sư Tử






    Mẹ của Segab chết khi cậu mười một tuổi. Cha cậu cưới một người vợ khác tên Bizunesh.
    Segab không thích Bizunesh. Nhưng Bizunesh bắt đầu yêu thương cậu và cố gắng làm một người mẹ tốt của cậu. Bà nấu những bữa ăn sáng, chiều và tối ngon, nhưng cậu không ăn . Bà mua cho cậu nhiều quần áo đẹp, nhưng cậu không mặc. Bà mua giày mới cho cậu , cậu mang ra sông và ném xuống sông. Khi bà nói chuyện với cậu , cậu luôn luôn bỏ chạy.
    Một ngày kia người đàn bà đáng thương ấy nói với Segab : “Mẹ luôn luôn muốn có một đứa con trai và bây giờ mẹ có con, Segab ạ. Mẹ rất yêu con, con trai của mẹ!”.
    Nhưng Segab giận dữ nói : “Tôi không phải là con trai của bà, và bà không phải là mẹ tôi. Mẹ tôi chết rồi. Tôi không yêu bà. Tôi sẽ không bao giờ yêu thương bà”.
    Bizunesh rất đau khổ và khóc suốt đêm . Sáng hôm sau bà quyết định đi gặp một cụ già thông thái. Bà kể ông nghe chuyện Segab không thương bà.
    Ông già nói: “Ông có thể giúp cháu. Nhưng trước hết cháu phải mang cho ông ba sợi lông sư tử ”.
    “Nhưng làm sao cháu lấy được? Con sư tử sẽ giết cháu”.
    “Ông không trả lời được. Ông cần ba sợi lông sư tửû. Hãy cố lấy cho được”.
    Bizunesh đi ra ngoài nghĩ cách lấy được lông sư tử. Bà đi rất xa và đến một nơi có một con sư tử sống. Con sư tử rất lớn và đang gầm lên giận dữ vì đói. Bizunesh sợ nó, bà bỏ chạy ngay. Nhưng ngày hôm sau bà trở lại mang theo một ít thịt cho con sư tử. Bà đặt thịt không xa chỗ nó rồi bỏ chạy.
    Con sư tử thấy thịt và đến gần. Nó ăn hết thịt rất nhanh.
    Ngày hôm sau bà lại mang thịt cho con sư tử và đặt gần hơn một chút, con sư tử lại ăn hết.
    Mỗi ngày Bizunesh đều mang thịt cho con sư tử và không bao lâu sau nó hiểu người phụ nữ này là bạn nó. Nó tỏ ra vui vẻ khi thấy bà.
    Đến một ngày Bizunesh đến rất gần con sư tử và đưa thịt cho nó ăn. Cùng một lúc bà nhổ ba sợi lông trên lưng nó. Con sư tử không giận. Bizunesh chạy đến gặp cụ già thông thái và đưa ba sợi lông đó cho ông.
    “Cháu phải làm gì với những sợi lông này?” Bà hỏi.
    “Không làm gì hết” cụ già trả lời. “Nhưng cháu đã biết cách đến gần một con sư tử, dần dần, từng bước một. Hãy làm giống như vậy với Segab và ông chắc chắn nó sẽ yêu thương cháu”.
     
  6. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Ba Sợi Lông Sư Tử






    Mẹ của Segab chết khi cậu mười một tuổi. Cha cậu cưới một người vợ khác tên Bizunesh.
    Segab không thích Bizunesh. Nhưng Bizunesh bắt đầu yêu thương cậu và cố gắng làm một người mẹ tốt của cậu. Bà nấu những bữa ăn sáng, chiều và tối ngon, nhưng cậu không ăn . Bà mua cho cậu nhiều quần áo đẹp, nhưng cậu không mặc. Bà mua giày mới cho cậu , cậu mang ra sông và ném xuống sông. Khi bà nói chuyện với cậu , cậu luôn luôn bỏ chạy.
    Một ngày kia người đàn bà đáng thương ấy nói với Segab : “Mẹ luôn luôn muốn có một đứa con trai và bây giờ mẹ có con, Segab ạ. Mẹ rất yêu con, con trai của mẹ!”.
    Nhưng Segab giận dữ nói : “Tôi không phải là con trai của bà, và bà không phải là mẹ tôi. Mẹ tôi chết rồi. Tôi không yêu bà. Tôi sẽ không bao giờ yêu thương bà”.
    Bizunesh rất đau khổ và khóc suốt đêm . Sáng hôm sau bà quyết định đi gặp một cụ già thông thái. Bà kể ông nghe chuyện Segab không thương bà.
    Ông già nói: “Ông có thể giúp cháu. Nhưng trước hết cháu phải mang cho ông ba sợi lông sư tử ”.
    “Nhưng làm sao cháu lấy được? Con sư tử sẽ giết cháu”.
    “Ông không trả lời được. Ông cần ba sợi lông sư tửû. Hãy cố lấy cho được”.
    Bizunesh đi ra ngoài nghĩ cách lấy được lông sư tử. Bà đi rất xa và đến một nơi có một con sư tử sống. Con sư tử rất lớn và đang gầm lên giận dữ vì đói. Bizunesh sợ nó, bà bỏ chạy ngay. Nhưng ngày hôm sau bà trở lại mang theo một ít thịt cho con sư tử. Bà đặt thịt không xa chỗ nó rồi bỏ chạy.
    Con sư tử thấy thịt và đến gần. Nó ăn hết thịt rất nhanh.
    Ngày hôm sau bà lại mang thịt cho con sư tử và đặt gần hơn một chút, con sư tử lại ăn hết.
    Mỗi ngày Bizunesh đều mang thịt cho con sư tử và không bao lâu sau nó hiểu người phụ nữ này là bạn nó. Nó tỏ ra vui vẻ khi thấy bà.
    Đến một ngày Bizunesh đến rất gần con sư tử và đưa thịt cho nó ăn. Cùng một lúc bà nhổ ba sợi lông trên lưng nó. Con sư tử không giận. Bizunesh chạy đến gặp cụ già thông thái và đưa ba sợi lông đó cho ông.
    “Cháu phải làm gì với những sợi lông này?” Bà hỏi.
    “Không làm gì hết” cụ già trả lời. “Nhưng cháu đã biết cách đến gần một con sư tử, dần dần, từng bước một. Hãy làm giống như vậy với Segab và ông chắc chắn nó sẽ yêu thương cháu”.
     
  7. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Bốn Bà Vợ Của Nhà Vua






    Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua giàu có trị vì một vương quốc hùng mạnh. Ông có bốn bà vợ, bà nào cũng xinh đẹp. Nhà vua yêu người vợ thứ tư nhất và luôn chiều theo mọi sở thích của bà, bà không bao giờ bị từ chối. Kế đến là người vợ thứ ba, nhà vua lúc nào cũng sợ mất bà, đi đâu cũng luôn muốn đưa bà đi theo. Bà vợ thứ hai là chỗ dựa tinh thần của nhà vua, bà rất tử tế, dịu dàng và kiên nhẫn. Mỗi khi nhà vua gặp chuyện khó khăn, ông thường tâm sự với bà và thường nhận được những lời khuyên quý giá. Người vợ thứ nhất của vua là trung thành nhất, giúp vua trị vì và làm cho đất nước ngày càng giàu có nhưng nhà vua lại không dành nhiều tình cảm cho bà. Nhà vua luôn nghĩ rằng bà có thể tự chăm sóc lấy mình nên ít khi để ý đến bà. Không may một ngày nọ, vua lâm bệnh và biết rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Ông nghĩ : “ Ta có đến bốn người vợ, nhưng khi ra đi, e rằng lại hoàn toàn cô đơn !” Nghĩ vậy nhà vua cho gọi người vợ thứ tư đến bên cạnh và nói “ Ta yêu thương nàng nhất, luôn dành mọi thứ tốt đẹp cho nàng. Giờ đây ta sắp chết, nàng có theo ta để ta không cô đơn không?” Nhà vua nhận được câu trả lời “ Bệ hạ rất tốt với thiếp, nhưng yêu cầu đó quá khó, thiếp không thể làm được” Nhà vua lặng đi một lúc rồi cho gọi người vợ thứ ba, bà trả lời “ Không, thưa đức vua, cuộc sống còn đẹp lắm, sẽ có một vị vua khác đến để tiếp tục che chở và chiều chuộng thiếp”. Trái tim vị vua cảm thấy lạnh buốt vì buồn bã và thất vọng. Ngài lại gọi người vợ thứ hai “Ta luôn được nàng giúp đỡ và khuyên giải, nàng sẽ theo ta chứ ?”, nhà vua hỏi. “Lần này thiếp chẳng giúp được gì hơn, thưa đức vua” người vợ thứ hai đáp “ Nhưng thiếp hứa sẽ chăm sóc bệ hạ đến những giây cuối cùng, rồi sẽ đưa bệ hạ về nơi an nghỉ cuối cùng và sẽ luôn nhớ đến bệ hạ”. Nhà vua hoàn toàn tuyệt vọng, ngài không hề nhớ ra người vợ thứ nhất, cho đến khi ngài nghe thấy một giọng nói cất lên bên cạnh “ Thiếp sẽ theo ngài đến bất cứ nơi đâu ngài đi tới, dù đó là cõi chết”. Đó chính là người vợ thứ nhất của ông. Trông bà mệt mỏi và gầy yếu. Buồn bã và nuối tiếc vô hạn vì cách đối xử của mình, nhà vua thốt lên “Lẽ ra ta đã phải chăm sóc và yêu thương nàng nhiều hơn mới phải!”
    * Nếu coi mỗi chúng ta cũng giống như nhà vua đó, thì bạn hãy để ý xem, ai cũng có 4 “vợ” đấy. Người vợ thứ tư của chúng ta là cơ thể. Hầu như ai cũng lo lắng, chăm sóc đến bản thân, đến cơ thể mình nhiều nhất, làm sao để trông thật đẹp đẽ. Nhưng khi chúng ta ra đi, cơ thể ấy cũng tan biến, không để lại gì trên đời. Người vợ thứ ba có tên” địa vị và của cải”- đây chính là những thứ dễ mất nhất, ngay cả khi chúng ta còn sống vì dù sao chúng cũng chỉ là vật chất. Khi chúng ta không còn, địa vị và của cải sẽ thuộc về người khác. Người vợ thứ hai chính là gia đình và bè bạn. Họ luôn quan tâm và giúp đỡ, luôn an ủi và khuyên giải, nhưng họ chỉ có thể chăm sóc ta đến những phút cuối và nhớ thương ta. Người vợ thứ nhất chính là tâm hồn. Không phải ai cũng nhớ đến nó khi sống trong một thế giới mọi người đều phải chạy đua với của cải và địa vị nhằm thoả mãn cái “tôi” của mình. Thế nhưng tâm hồn là thứ duy nhất luôn đi cùng với chúng ta tới bất cứ nơi nào ta đến và chính là thứ để mọi người nhớ mãi đến ta dù ta có ở nơi đâu
     
  8. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Công Chúa Hoa Hồng






    Đời xưa, một ông vua và một bà hoàng hậu có ba cô con gái. Họ yêu thương hai cô con gái lớn sinh đôi tên Cam Vàng và Hoe Đỏ. Hai cô này đẹp, tài trí nhưng không tốt. Họ giống hệt cha mẹ về tánh nết. Cô gái út tên gọi Hồng Hoa xinh xắn, dễ thương, tử tế, cô được bà tiên Quyền Năng đỡ đầu. Điều này làm hai chị ganh tị vì họ không đựoc tiên đỡ đầu. Vài ngày sau khi sinh Hoa Hồng, vua và hoàng hậu g5oi Hoa Hồng về quê cho một bà nông dân tốt bụng chăm sóc. Cô sống nơi đồng quê rất hạnh phúc trong mười lăm năm trời, không một lần vua cha và hoàng hậu đến thăm. Mỗi năm họ gởi đến người nông dân một số tiền nhỏ để trang trải cho tổn phí nuôi nấng Hoa Hồng, hỏi thăm sức khoẻ, cuộc sống của cô, nhưng chẳng bao giờ cho vời cô tới cũng như không chăm lo gì về việc giáo dục cho cô. Nếu bà mẹ đỡ đầu không gửi đến cho cô thầy dạy học, viết, đếm, làm việc, chắc chắn cô đã là người nốt nát, thiếu văn hoá.
    Nhờ được học, cô biết nói nhiều thứ tiếng, biết vẽ, chơi nhạc giỏi, múa hay... Hoa Hồng trở nên một cô gái xinh đẹp nhất, duyên dáng nhất, dễ thương nhất trên đời. Không bao giờ cô cãi lời bà vú và mẹ đỡ đầu, do vậy cô không hề bị rầy la. Cô không được biết gì đến cha mẹ, cô sống mãi trong nông trại mà cô đã lớn lên
    Một ngày nọ cô đang ngồi trên một chiếc ghế dài trước nhà, cô chợt thấy một người đàn ông áo mũ chỉnh tề đến gần cô hỏi rằng ông ta có thể nói chuyện với công chúa Hoa Hông
    - Được chứ, thưa ông, chính tôi là công chúa Hoa Hồng đây
    - Thưa công nương- người đàn ông giở mũ - xin người nhận cho bức thư vua cha gữi cho công nương
    Hoa Hồng lấy thư mở ra đọc
    - Hoa Hồng con, các chị con đã được mừoi tám tuổi, đã đến tu63oi lập gia đình, cha mời toàn thể các hoàng tử, công chúa trên thế gian này đến dự lễ kén chồng cho các chị con. Con đã được mừoi lăm tuổi, con đã đến tu63oi dự lễ. Con về dự lễ ba ngày. Cha không gữi tiền để con sắm sửa vì cha dùng tiền để lo cho hai chị con. Vả lại không ai chú ý đến con đâu, con mặc thế nào cũng được'.
    Hoa Hồng chạy nhanh về đưa thư cho vú nuôi.
    - Con có thích đi dự lễ không?
    - Thưa vâng, thưa vú, con rất thích, con sẽ biết mặt cha mẹ, các chị và sau đó con trở về với vú
    - Nhưng con sẽ an mặc như thế nào đây, đứa con nghèo khổ của vú ?
    - Con sẽ mặc chiếc áo trắng giành cho ngày lễ của con
    - Con khốn khổ ạ, áo đó chỉ phù hợp với đồng quê thôi, còn đến gặp mặt các hoàng tử, công chúa, nó nghèo nàn vô cùng!
    - Vú ơi. Cha nói chẳng ai nhìn con đâu. Điều đó khiến con dễ chịu, con sẽ trông thấy tất cả và không ai trông thấy con, để ý con.
    Bà vú thở dài, không nói một lời, bà lấy áo của Hoa Hồng vá lại, giặt trắng, và ủi ngay thẳng. Buổi trước ngày người ta đến đón cô đi, bà vú kêu cô lại và nói
    - Đây áo của con dành cho ngày lễ hoàng gia, ráng giữ gìn vì con không còn cái áo nào khác. Vú không có ở đó để giặt ủi cho con.
    - Cảm ơn vú thân yêu, vú yên tâm, con sẽ rất cẩ n thận
    Bà vú sắp xếp chiếc áo dài, cái váy trắng, vớ vải, đồi giày bằng da đen và một cái kẹp cài lên tóc có dạng một nhánh hoa vào một cái hòm nhỏ. Lúc bà đang đinh đóng nắm hòm, bà tiên Quyền Năng bứoc vào
    - Con định đến triều đình gặp vua và hoàng hậu phải không?
    - Thưa mẹ vâng ạ, con dự lể trong ba ngày - Hoa Hông trả lời
    - Và y phục con chuẩn bị ra sao cho ngày đó
    - Thưa mẹ đây
    Cô chỉ cho mẹ đỡ đầu chiếc hòm còn đang mở. Bà tiên mĩm cười, lấy từ trong túi ra một cái lọ và nói
    - Ta muốn cho con gái Hoa Hồng của ta gây xúc động về quần áo của nó, cái này không xứng với con
    Bà mở lọ và đổ một giọt nước vào áo dài, lập tức áo dài trở nên vàng úa, tơi tả giống như một nùi giẻ. Một giọt khác lên đôi vớ làm vớ trở thành đống chỉ vụn màu xanh, rồi tiếp đó đồi giày trở thành đôi giày vải thô kệch, kẹp hoa trở thành cánh gà
    - Thế đấy, bà nói với giọng ân cần, ta muốn Hoa Hồng của ta xuất hiện như vậy đấy. Con hãy mặc tất cả cái đó. Còn đồ trang sức của con ta cũng có đây
    Bà lôi ra một sợi dây chuyền bằng hạt dẻ, một kẹp tóc bằng trái sơn trà tử và vòng đeo tay bằng đậu khô
    Bà hôn lên tóc của Hoa Hồng và biến mất
    Hoa Hồng và bà vú nhìn nhau sững sờ. Sau đó bà vú nức nở?
    - Trời ơi tôi đã bỏ công biết bao nhiêu để lo cho chiếc áo dài nghèo khổ, bây giờ thì như tấm giẻ rách. Hoa Hồng con, con đừng đi dự lễ nữa, con hãy giả tảng rằng con bệnh
    - Không thưa vú, làm vậy con sẽ trái lời mẹ đỡ đầu của con, con tin chắc điều Ngừoi làm là vì con, vì Người luôn khôn ngoan hơn con. Con sẽ đi và sẽ mặc tất cả những gì mẹ đỡ đầu cho con.
    Và Hoa Hồng không quan tâm gì đến y trang nữa. Cô đi ngủ một giấc ngon lành
    Ngày hôm sau, cô vừa chải đầu và mặc quần áo xong, xe tứ mã của nhà vua đã đến đón cô. Cô ôm chầm lấy vú giã từ, để chiếc hòm nhỏ vào xe và ra đi.
    Đường đi chỉ hai giờ vì thủ đô hoàng triều chỉ cách nông trại của Hoa Hồng sáu dặm. Khi Hoa Hồng đến, cô kinh ngặc khi thấy người ta cho cô xuống trong một cái sân nhỏ dơ bẩn. Một tên thị đồng ra đón cô
    - Thưa công chúa, tôi được lệnh đưa công chúa về chỗ nghỉ ngơi. Mời theo tôi.
    -Tôi không được gặp hoàng hậu sao? Hoa Hồng e dè hỏi
    - Công chúa sẽ gặp Người trong hai giờ nữa khi mọi người tụ hội để ăn, trong khi chờ đợi, công chúa có thể tắm rửa
    Hoa Hồng theo thị đồng. Y dẫn cô đi dọc một hàng lang dài, đầu hành lang có một thang lầu, cô leo lên, leo lên hồi lâu trước khi đến một hành lang khác nơi đó có căn phòng dành cho cô. Đấy là một căn phòng nhỏ nơi gầm thượng, bàn ghế hầu như không có, hoàng hậu giành cho cô ở trong một căn phòng tôi tớ. Tên thị đồng đặt chiếc hòm của cô vào một góc rồi nói vẻ bối rối:
    - Xin công chúa tha lỗi cho tôi vì đã đưa công chúa đến một căn phòng không xứng với địa vị của công chúa. Hoàng hậu đã giành tất cả phòng cho vua chúa, các hoàng tử khách mời...
    - Được được, Hoa Hồng mĩm cười thông cảm, tôi không giận anh vì chỗ ở của tôi đâu, tôi thấy nơi này rất tốt
    - Tôi sẽ đến tìm công chúa để đưa công chúa ra mắt vua và hoàng hậu khi đến giờ
    - Tôi sẽ sẵn sàng, Hoa Hồng nói, chào tạm biệt, anh thị đồng
    Hoa Hồng mở hòm ra, lòng cô hơi trĩu nặng, cô vừa thở dài vừa lôi ra chiếc áo dài như giẻ rách và mọi trang phục tồi tàn khác. Cô bắt đầu chải tóc trước một tấm gương vỡ mà cô tìm thấy trong góc phòng. Cô rất khéo léo, cô chải mái tóc vàng óng của cô rất đẹp. Cô cũng dùng lược cài và kẹp tóc bà tiên chọ Chải tóc xong cô trở nên xinh đẹp gấp mười lần. Khi cô mặc áo và mang giày vào, cô vô cùng kinh ngạc vì áo dài của cô trở thành áo dài bằng gấm lát ngọc lóng lánh. Đôi giày vải thô kệch trở thành đôi giày sa tanh trắng mà nút cài là một viên ngọc lý tưởng, vớ của cô bằng lụa chưa bao giờ ai có được, sợi dây chuyền là những viên kim cương. Cô chạy lại nhìn vào kiếng, lược cài và kẹp tóc đều biến thành những vật trang sức quý báu mà người ta chưa hề thấy.
    Hoa Hồng vui sướng, cảm ơn không ngớt bà mẹ đỡ đầu đã thử thách cô về sự vâng lời và đã tưởng thưởng cô xứng đáng
    Thị đồng gõ cửa bước vào và lùi lại mấy bước trước sắc đẹp của Hoa Hồng và trang phục của cô. Cô đi theo thị đồng. Họ đi qua nhiều thang lầu, nhiều phòng ốc, sau đó đi vào một dãy phòng khách lộng lẫy tấp nập vua chúa, hoàng tử và công chúa khách quý. Mọi người đều ngừng việc riêng để quay nhìn Hoa Hồng. Cô e thẹn vì mọi nguoi nhìn mình nên không ngẫng đầu lên. Bỗng thị đồng dừng lại và nói:
    - Thưa công chúa, đây là đức vua và hoàng hậu
    Cô nhìn lên và thấy trước mặt cô là vua và hoàng hậu, cả hai nhìn cô với một vẻ sửng sốt đến nực cười:
    - Thưa bà - vua kính cẩn nói - xin bà cho biết quý danh. Bà có lẽ là một đại hoàng hậu hoặc một bà tiên mà sự có mặt là một vinh hạnh và hạnh phúc cho chúng tôi
    - Thưa đức vua - Hoa Hồng quỳ một gối xuống đất và nói - con chẳng phải là tiên, cũng chẳng phải là một đại hoàng hậu, con là Hoa Hồng đây, cha cho gọi con về dự hội
    - Hoa Hồng! - Hoàng hậu bật kêu to- Hoa Hồng ăn mặc sang hơn cả ta từ trước đến nay! Vậy thì ai cho cô tất cả những y trang đẹp đẽ đó
    - Thưa mẹ, chính mẹ đỡ đầu của con, cô trả lời hoàng hậu, xin mẹ cho con được hôn tay và cho con được làm quen với các chị con.
    Hoàng hậu lạnh lùng chìa bày tay ra.
    - Còn đây là các công chúa chị cô.
    Bà chỉ các cô Cam Vàng và Hoe Đỏ đứng cạnh bà
    Cô gái Hoa Hồng khốn khổ tủi thân vì sự đón tiếp lạnh nhạt của mẹ cha, quay lại cách chị và muốn đến ôm hôn, nhưng họ lại lùi lại vì sợ Hoa Hồng làm hoen phấn son trên mặt họ Cam Vàng đánh phấn trắng để che bớt màu vàng của da, còn Hoe Đỏ đánh nhiều phấn hồng để che dấu tàn nhang của mình
    Hoa Hồng bị các chị quay mặt làm lơ, lại nhanh chóng được các vị khách quý nam cũng như nữ quây quần. Do cô biết nhiều loại ngoại ngữ, ăn nói lễ độ, duyên dáng nên cô được lòng tất cả mọi người. Cam Vàng, Hoe Đỏ tức điên người, vua và hoàng hậu cũng gian vì cô thu hút mọi sự chú ý, không một ai quan tâm gì đến hai cô chị. Đến giờ ăn, vị vua trẻ duyên dáng, chủ nhân một vương quốc đẹp và rộng nhất đươc Cam Vàng chấm lại đến ngồi bên cạnh Hoa Hồng chăm sóc cho cô suốt buổI ăn. Sau bữa ăn, để mọi người chú ý đến mình, Cam Vàng và Hoe Đỏ đề nghị được hát, họ hát khá hay, vừa hát vừa gảy thụ cầm
    Công Chúa Hoa Hồng tánh tình đôn hậu và muốn được các chị yêu thương, nhiệt tình vỗ tay khen ngợi tài năng của hai chị. Cam Vàng thay vì cảm động vì tình cảm tốt lành đó lại muốn chơi xấu Hoa Hồng bằng cách ép cô ca đáp lại. Hoa Hồng khiêm tốn từ chối, các chị cô tưởng cô không biết hát càng ép buộc mạnh. Hoàng hậu cũng muốn làm bỉ mặt Hoa Hồng nên về hùa với hai cô chị, ra lệnh buộc Hoa Hồng phải hát. Hoa Hồng đành phải vâng lời
    - Con xin vâng lệnh - và rồi cầm lấy thụ cầm, cách cầm đàn đúng điệu nghệ làm hai chị ngạc nhiên. Khi cô dạo khúc mở đầu, họ rất muốn bảo cô dừng lại vì cả hai cô đều thấy tài nghệ của Hoa Hồng trên họ rất xạ Rồi Hoa Hồng hát, hát với một giọng ca êm ái tuyệt vời, cô hát một khúc nhạc trữ tình do cô sáng tác với đề tài sự hạnh phúc khi người ta tử tế và được gia đình yêu quí. Mọi người đã xúc động lắng nghe, thiếu điều hai cô chị bất tỉnh vì ghen tức. Vua Duyên Dáng dường như ngây ngất, chàng đến bên Hoa Hồng, mắt long lanh ướt
    - Công chúa dễ thương và dịu dàng ơi, chưa bao giờ tôi xúc động như hôm nay, tôi rất mong muốn được nghe cô hát mãi
    Hoàng Hậu nổi giận vì sự thành công của Hoa Hồng, đã cho chấm dứt sớm buổi lễ, mọi người trở về phòng mình
    Về đến phòng, Hoa Hồng cởi trang phục cho vào hòm. Trang phục của cô trở lại tình trạng tồi tàn như cũ nhưng cô không e ngại gì vì cô tin mẹ đỡ đầu sẽ giúp đỡ cộ Cô hơi buồn vì sự lạnh nhạt của cha mẹ và hai chị, nhưng do cô cũng không sống với họ nhiều nên tình cảm khó chịu đó bị tình cảm của vua trẻ Duyên Dáng tử tế dễ thương xoá nhoà nhanh chóng.
    Trong lúc Hoa Hồng ngủ yên lành, vua, hoàng hau và hai cô con gái tức nghẹn thở, bèn hội họp nhau tại phòng hoàng hậu
    - Thật khủng khiếp - hai cô công chúa phát biểu - cha đã gọi con bé đó tới dự lễ, nó có đồ nữ trang tuyệt vời khiến bọn con trai trố mắt nhìn nó. Có phải cha định làm nhục chúng con không?
    - Cha xin lỗi, các con xinh đẹp của cha - vua trả lời - Cha định gọi nó để làm nổi bật sắc đẹp của các con, nào ngờ nó đẹp thế
    - Đẹp thế! - các công chúa kêu lên - nó mà đẹp à ? Nó xấu và ngu. Chỉ nhờ y phục, nữ trang thôi. Tại sao cha mẹ không cho chúng con nữ trang và y phục đẹp nhất. Chúng con giống như giẻ rách bên cạnh con bé kiêu ngạo đó
    - Cha mẹ làm gì có những tài sản quý như thế. Chính mẹ đỡ đầu của nó cho nó đấy chứ
    - Sao mẹ không gọi một bà tiên đỡ đầu cho chúng con mà con Hoa Hồng lại được tiên đỡ đầu ?
    - Có ai cho gọi mụ ấy đâu, tự nhiên mụ đến đấy chứ. Ngày xưa có ông thầy phù thuỷ bảo con bé ấy nó làm hại cha mẹ nên cha mẹ tống nó đi xa cho rảnh
    - Thôi đừng tranh cãi nữa - vua nói - bây giờ phải tìm cách tống khứ con Hoa Hồng và ngăn vua Duyên Dáng gặp nó
    - Dễ thôi, hoàng hậu có ý kiến, ngày mai ta bắt nó lột quần áo trang phục ra, cho người đưa nó về nông trại, giữ không cho nó ra khỏi nông trại là xong.
    Hoàng hậu vừa dứt lời, bà tiên Quyền Năng đột nhiên xuất hiện, vẻ nghiêm khắc bảo:
    - Các ngươi vì tin tưởng nhảm nhí bỏ bê con bé! Ta bảo cho biết, nếu các ngươi đụng đến Hoa Hồng các ngươi sẽ bị trừng phạt. Hoàng hậu và vua sẽ biến thành cóc và các cô gái kia sẽ biến thành rắn độc
    Nói xong bà biến mất
    Vua, hoàng hậu, hai công chúa quá sợ hãi chia tay nhau chẳng dám nói thêm một lời. Đêm đó họ mất ngủ. Mặt mũi càng hốc hác, dữ tợn, họ phải dùng nhiều phấn hồng, phấn trắng để che dấu nét nhăn
    Một nữ tỳ to béo mang đến cho Hoa Hồng sữa, bánh mì và đang đứng chờ thay quần áo cho cô. Hoa Hồng không muốn người nữ tỳ thấy sự biến đổi huyền diệu về trang phục nên cô vợi nói cô có thói quen chải tóc và thay quần áo một mình
    Cô tắm rửa, chải tóc xong, cô mặc lại bồ quần áo giẻ rách và trang điểm bằng bộ nữ trang nghèo khổ. Khi cô nhìn vào gương, cô cũng kinh ngạc khi thấy mình mặc một bộ trang phục kỵ mã sang trọng và lộng lẫy. Áo dài thành áo đi ngựa bằng nhung màu xanh da trời, với những cúc áo bằng hạt trai to bằng trái hạnh đào, đôi vớ thành đôi ủng quấn quanh bằng hại trai. Cô đội một cái mũ xếp nếp màu xanh, đính một chiếc lông màu trắng tinh và một viên ngọc to lớn đẹp vô cùng. Ủng của cô cũng bằng nhung xanh, viền bằng hại trai và vàng. Vòng đeo tay và dây chuyền bằng những viên kim cương quý báu, chỉ một viên thôi giá đúng một lâu đài. Khi cô sắp sửa đi ra, cô nghe có tiếng ai gọi bên tai:
    - Hoa Hồng, chỉ nên đi lên ngựa do vua Duyên Dáng đưa tới
    Cô quay lại, không thấy ai, nhưng cô biết đó là lời dặn của mẹ đỡ đầu
    - Thưa mẹ, vâng ạ.
    Thị đồng lại dần cô đi vào phòng khách, nơi đây cô lại cũng được mọi người chú ý hơn với dáng vẻ hiền lành, tử tế, gương mặt tươi vui và tự nhiên duyên dáng, áo quần tuyệt diệu, mọi cặp mắt đều hướng cả về cô Vua Duyên Dáng đến đón cô, cặp tay cô và đưa cô đến chỗ vua và hoàng hậu, hai người còn lạnh nhạt hơn cả hôm qua Cam Vàng và Hoe Đỏ thiếu điều độn thổ khi thấy bộ y phục kỵ mã của Hoa Hồng. Hai cô khong chào hỏi một tiếng
    Hoa Hồng hơi bối rối về sự tiếp đón ấy, vua Duyên Dáng nhận thấy thế tiến đến gần cô và xin được đưa cô đi săn ở trong rừng
    - Thưa ngài, đó là một điều hân hạnh cho tôi - Hoa Hồng biết được lòng tốt của chàng nên nhận lời
    - Xin công chúa cho phép tôi cận kề bên công chúa và bảo vệ công chúa chống lại những ai muốn hại công chúa - chàng khẽ bảo
    Mặc cho sự giận dữ và ý định của hai cô công chúa chị muốn cuốn hút chàng trai về mình, nhà vua trẻ không rời xa Hoa Hồng
    Sau bữa ăn, người ta xuống sân để lên ngựa. Một thị đồng dẫn đến cho Hoa Hồng một con ngựa ô đẹp nhưng hung dữ và khó tính. Ngựa phải cần đến hai người kèm giữ
    - Công chúa không nên cưỡi con ngựa đó, ông hoàng Duyên Dáng nói, nó sẽ giết chết cô mất. Hãy đưa đến con khác
    - Nhà vua có lệnh cho công chúa cưỡi con ngựa này, không còn con nào khác - Thị đồng trả lời
    - Vậy thì công chúa hày chờ tôi đưa đến cho công chúa một con ngựa xứng đáng với công chúa
    - Thưa ngài vâng - Cô trả lời, mĩm cười duyên dáng
    Một lát sau, chính tay ông hoàng trẻ dẫn đến một con ngựa bạch, trắng như tuyết, đẹp đẽ vô cùng. Yên ngựa bằng nhung xanh, hàm thiếc bằng vàng kết hạt trai. Khi Hoa Hồng muốn lên ngựa, ngựa quỳ chân xuống, khi cô lên ngựa xong mới đứng lên. Vua Duyên Dáng phóng mình lên một con ngựa màu hồng và thúc ngựa đi song song cùng Hoa Hồng
    Vua, hoàng hậu và hai cô gái trong thấy tất cả, tái xanh vì giận dữ nhưng không dám làm gì vì sợ bà tiên Quyền Năng.
    Nhà vua ra lệnh khởi hành. Mỗi phụ nữ đều có một kỵ sĩ kề bên. Cam Vàng và Hoe Đỏ đành nhận hai hoàng tử tầm thường kề cạnh, các cô mặt mày quạu quọ, cả hai ông hoàng đều nguyện sẽ không bao giờ cưới các cô công chúa khó thương như thế
    Thay vì đi săn, ông hoàng Duyên Dáng và Hoa Hồng dong ngựa đi dọc các đường mòn xinh đẹp trong rừng. Họ kể cho nhau nghe cuộc đời của mình. Vua Duyên Dáng rất cảm động khi nghe Hoa Hồng kể lại cược sống bị ruồng bỏ của cô, chàng thuật lại cho cô nghe chàng mồ côi từ lúc bảy tuổi, nhờ có bà tiên Cẩn Trọng dạy dỗ. Bà khuyên chàng đi dự lễ hội này sẽ tìm gặp một người vợ tài sắc vẹn toàn
    Chàng nói:
    - Tôi tin rằng, công chúa Hoa Hồng ạ, tôi đã tìm được người vợ vẹn toàn đó ở nơi cô. Xin cô nhận lời cùng tôi chung sống, tôi sẽ xin phép cha mẹ cô nếu cô đồng ý
    - Thưa đức vua, tôi phải được sự đồng ý của mẹ đỡ đầu nữa, nhưng người cũng hiểu cho rằng tôi rất sung sướng được cùng ngài chung sống
    Buổi sáng đi săn chấm dứt với sự vui sương ngập lòng của đôi tình nhân
    Buổi chiều, Hoa Hồng cũng chải tóc và mặc bộ đồ rách rưới vào. Cô nhìn vào gương, cô lại ngạc nhiên. Chiều nay, áo dài của cô như bằng the hoa giống như những cánh bướm, nhè nhàng, rực rỡ, tươi mát, đính kim cương lấp lánh, trên đầu cô, một vương miện kết toàn bằng châu báu, có hai viên trị giá bằng cả một vương quốc. Dây chuyền, vòng đeo tay đều bằng kim cương rực rờ, ai nhìn lâu cũng bị choá mắt. Hoa Hồng cám ơn mẹ đỡ đầu rất nhiều. Nàng đi theo thị đồng đến phòng khách, ông hoàng đến đón cô tận cửa
    Cả hai lại thấy những cái nhìn giận dữ, liếc xiên xéo vào Hoa Hồng của vua cha, hoàng hậu, và hai cô chị. Khi thay Hoa Hồng buồn tủi vì bi gia đình thù ghét, chàng tìm cách an ủi nàng
    Sau bữa an nhà vua ra lệnh cho buổI dạ vũ bắt đầu. Cam Vàng và Hoe Đỏ đã học vũ mười năm, vũ rất hay nhưng thiếu duyên dáng, họ biết Hoa Hồng chưa bao giờ có dịp học vũ nên họ lớn tiếng yêu cầu với vẻ nhạo báng rằng tới phiền Hoa Hồng biểu diễn. Hoa Hồng khiêm tốn từ chối vì tính cô không thích phô mình ra trước mọi người. Hai co chị tưởng đắc thắng lại càng làm già, để chấm dứt sự giằng co, hoàng hậu ra lệnh Hoa Hồng phải ra sân cùng mọi người khiêu vũ
    Ông hoàng Duyên Dáng thấy cô bối rối bèn bảo:
    - Tôi sẽ cùng cô biểu diễn, khi nào cô không biết bước ra sao, cô cứ để tôi dìu cô đi
    - Cám ơn đức vua, tôi hân hạnh cùng ngài khiêu vũ, tôi mong rằng sẽ không làm ngài hổ thẹn
    Chàng và nàng bước vào sân, chưa bao giờ người ta thấy một cặp múa đôi đẹp, linh động, nhẹ nhành đến thế. Mọi người trầm trồ nhìn không chớp mắt. Rõ ràng vượt xa cả hai cô chị họ tức giận, cuồng điên muốn nhào vào cấu xé Hoa Hồng cho đã giận. Nhưng vua cha và hoàng hậu đã lừ mắt cản họ, có ý nhắc lời đe doa. của bà tiên Quyền Năng
    Khi chàng và nàng chấm dứt, tiếng vỗ tay không dứt, mọi người đòi họ phải ra biểu diễn trở lại. Đáp lại lời yêu cầu của mọi người, hai ngưòi lại ra sân khiêu vũ, lần này la một điệu vũ mới, nhẹ nhàng hơn, duyên dáng hơn cả điệu trước. Cam Vàng và Hoe Đỏ không chịu được nữa, hai cô như nghẹn thở, ngã lăn ra bất tỉnh. Gương mặt họ trở nên xấu xí vì sự ghen tức, giận dữ, không một ai thương xót cho họ bởI vì mọi người đều thấy sự giận dữ và sự ghen tị vô lối của họ. Về đến phòng, Hoa Hồng lẩm bẩm:
    - Mẹ yêu dấu, con nên trả lời sao với ông hoàng Duyên Dáng hả mẹ ? Mẹ giúp con đi mẹ, con sẽ vâng lời me.
    - Con Hoa Hồng thân yêu, con sẽ nói rằng con đồng ý -
    Giọng nói dịu dàng của bà tiên vắng đến tai cô - chính mẹ sắp xếp việc hôn nhân này
    Hoa Hồng cảm ơn mẹ đỡ đầu và ngủ thiếp đi sau khi nghe trên đôi má cô cái hôn thân yêu của bà tiên.
    Trong lúc Hoa Hồng đang ngủ yên lành, nhà vua, hoàng hậu, hai cô chị gái thét lên vì giận dữ, cãi vã nhau, đổ lỗi cho nhau về sự thành công của Hoa Hồng và sự sỉ nhục của họ. Chỉ còn một hy vọng cuối cùng, ngày mai là ngày đua xe. Xe do tuấn mã kéo, người casáùm cương là phụ nữ. Họ sắp xếp cho Hoa Hồng một chiếc xe cao, dễ đổ, bắt vào xe là hai con ngựa hung dừ, chưa thuần. Họ cũng tin chắc rằng ông hoàng Duyên Dáng không có sẵn xe và ngựa để thay thế cho Hoa Hồng như sáng nay.
    Ý nghĩ Hoa Hồng có thể chết đi họac bị thương nặng hoặc bị thương tật làm cho họ vui lên phần nào. Họ đi ngủ, suy nghĩ thêm có cách nào hại Hoa Hồng nếu âm mưu trong cuộc đua xe thất bại. Cam Vàng và Hoe Đỏ ngủ ít, tỉnh dậy nom càng xấu xí và dị dạng hơn sáng qua.
    Còn Hoa Hồng, lương tâm thanh thản, yên ngủ suốt cả đêm. Khi cô thức dậy, sau khi tắm rửa xong, cô hầu gái mang đến cho cô một tách sữa và một khúc bánh mì loại thường. Đó là lệnh của hoàng hậu, muốn đối xử với cô như một con hầu. Hoa Hồng quen sống kham khổ nên cô ăn hết khúc bánh mì và uống cạn tách sữa ngon lành. Cô lại mặc bộ quần áo nghèo nàn và khi soi gương, cô thấy cô đang mặc một bộ y phục kỵ mã bằng sa tanh trắng. Mũ nhung trắng cắm lông chim quý đủ màu, đính một viên ngọc lam to bằng quả trứng. Cô đeo một dây chuyền bằng đá quý, cuối dây là một cái đồng hồ bằng hột xoàn, đồng hồ chạy mãi không hư và không cần lên giây.
    Khi vào đến phòng khách, cô thấy ông hoàng trẻ đang nóng ruột chờ cộ Chàng bước vội đến cô, vội hỏi:
    - Công chúa, mẹ đỡ đầu đã nói gì rôi? Công chúa trả lời ra sao?
    - Thua đức vua, em nói theo tiếng nói của trái tim. Em sẽ dâng hiến cho chàng cuộc đời của em cũng như chàng dâng hiến cuộc đời chàng cho em.
    - Ngàn lần cảm tạ nàng, Hoa Hồng yêu dấu. Bao giờ tôi sẽ nói với cha nàng?
    - Sau chuyến đua xe trở về, thưa đức vua.
    - Em cho phép anh xin cưới em ngay ngày hôm nay, vì anh muốn đưa em thoát khỏi cảnh bất công, đối xử tàn tệ của gia đình đối với em.
    Hoa Hồng đang ngần ngại thì nghe tiếng nói của mẹ đỡ đầu bên tai cô: 'Con hãy nhận lờí Và tiếng nói tiếp tục cho ong hoàng Duyên Dáng nghe 'hãy làm hôn lễ nhanh lên. Cuộc sống của Hoa Hồng đang bị đe doa.. Ta không thể theo bảo vệ Hoa Hồng lâu mãi được' Hai người đều đồng ý, vâng lời bà tiên Quyền Năng
    Sau bữa ăn, mọi người xuống sân để ra xe. Đàn ông cưỡi ngựa, phụ nữ điều khiển xe. Người ta đưa đến cho Hoa Hồng chiếc xe do hoàng hậu chọn lựa. Ông hoàng Duyên Dáng giữ Hoa Hồng lại khi nàng định lên xe:
    - Hoa Hồng, em không nên lên xe đó, trông kìa
    Hoa Hồng nhìn lên, mỗi con ngựa của xe có cần tới bốn người giữ, chúng cắn, chúng đá một cách giận dữ. Bỗng lúc đó có một chú nài nhỏ, mặc một bộ đồ bằng sa tanh trắng thắt nơ xanh, la lên giọng lanh lảnh:
    - Đây là xe của công chúa Hoa Hồng!
    Và người ta thấy chạy đến một chiếc xe nhỏ bằng xà cừ và hạt trai, xe do một đôi ngựa bạch thật đẹp kéo, dây cương bằng nhung sác vàng cản ngọc saphine
    Ông Hoàng không biết có nên để Hoa Hồng đi xe đó không thì nghe có tiếng bà tiên nói:
    - Đây là quà tặng của tạ Hãy để Hoa Hồng lên, ngươi hãy theo sát bên nàng. Ta chỉ còn vài giờ nữa để bảo vệ Hoa Hồng. Cố gắng đưa nàng về vương quốc nhà vua trước chiều nay.
    Ông hoàng Duyên Dáng đỡ Hoa Hồng lên xe. Đoàn xe khởi hành và chàng trai không rời khỏi xe Hoa Hồng một bước. Chỉ trong giây lát sau, hai chiếc xe do hai phụ nữ che mặt cầm cương tìm cách vượt qua xe của Hoa Hồng. Một xe tìm cách húc mạnh vào xe cô, xe có lẽ sẽ tan nát nếu đó không phải xe của tiên, ngược lại chiếc xe chăc' chắn và nặng nề kia lại vỡ tan. Người phụ nữ che mặt bị ngã đập xuống đá, nằm không động đậy. Trong lúc Hoa Hồng nhận ra đó là Cam Vàng, cô định dừng xe lại thì chiếc thứ hai lao tới húc mạnh vào xe của cô Chiếc xe này cũng chịu cùng chung số phận như xe thứ nhất; xe tan nát và phụ nũ che mặt lại ngã đập xuống đá. Hoa Hồng định nhảy xuống đỡ hai chị thì lại nghe tiếng của mẹ đỡ đầu:
    - Hai con nên đi ngaỵ Nhà vua đang đưa quân đến, ý dữ nhiều hơn lòng lành, mặt trời sẽ lặn trong vài giờ nữa, ta chỉ con đủ thời giờ để cứu các con. Duyên Dáng hãy bỏ ngựa lên xe đi chung với Hoa Hồng
    Ông hoàng Duyên Dáng vâng lời, vội nhảy lên xe ngồi bên Hoa Hồng. Ngựa kéo xe chạy như baỵ Đám kỵ sĩ của nhà vua đuổi theo ráo riết nhưng không là sao đuổi kịp chiếc xe nhỏ nhắn ấy. Xe chạy ròng rã sáu tiếng mới đến lâu đài của vua Duyên Dáng
    Cả lâu đài rực rỡ ánh đèn, toàn bộ triều thần mặc lễ phục đón họ dưới thềm đại sảnh. Nhà vua và Hoa Hồng ngạc nhiên không hiểu tại sao lại có cuộc đón tiếp bất ngờ thế này. Họ không ngạc nhiên lâu vì thấy bà tiên Quyền Năng bước đến trước ho.
    - Chào các con, tất cả đã sẵn sàng để làm lễ thành hôn cho hai con. Hãy đưa Hoa Hồng vào phòng riêng để tắm rửa, thay quần áo. Kẻ xấu đã bị trừng phạt. Cam Vàng và Hoe Đỏ không chết, nhưng mặt mày bị thẹo gớm ghiếc sẽ không có hoàng tử nào ưng chúng nó cả. Chúng phải lấy hai tên chăn ngựa hung bạo sẽ thường xuyên đánh chúng cho đến bao giờ tánh tình của chúng thay đổi mới thôi. Còn vua và hoàng hâu tin lời nhảm nhí của bọn phù thuỷ đối xử 'con trọng con khinh' nên bị trừng phạt sè đau khổi mãi mãi là không có đứa con nào ở bên cạnh. Ta còn ở với các con một tiếng nữa thôi rồi sau đó ta phải vắng mặt một thời gian. Các con nhanh lên để làm lễ cưới
    Dĩ nhiên bà tiên tặng cho đôi vợ chồng trẻ hai bộ đồ cưới quý báu, vô giá không bút mực nào tả xiết. Khi Hoa Hồng xuất hiện, Duyên Dáng sững sờ cả người vì sắc đẹp của cộ Chàng đưa tay cho Hoa Hồng nắm. Bà tiên làm lễ thành hôn cho họ rồi biến mất. Trước khi đi, bà tiên cũng chuyển về vương quốc vua Duyên Dáng cả nông trại mà Hoa Hồng đã sống từ bé. Nông trại nằm trong một góc vườn của lâu đài nên mỗi ngày Hoa Hồng có thể đi thăm bà vú nuôi. Hoa Hồng và Duyên Dáng sống cùng nhau hạnh phúc, họ yêu thương nhau mãi mãi...
     
  9. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Truyện Nàng Pha Ti Na

    Truyện cổ Châu Phi



    Ngày xưa, có một cô gái xinh đẹp tên là Pha-ti-ma. Cô chẳng những xinh đẹp mà còn rất thông minh. Mọi người trong vùng ai ai cũng đều yêu mến Pha-ti-ma.
    Một hôm, cô cùng năm người bạn gái vào rừng chơi, chẳng may bị lạc đường. Khi màn đêm buông xuống, họ phát hiện phía trước có ánh lửa, bèn rủ nhau cùng đi tới đó. Đến nơi thì thấy một mà lão đang ngồi bên đống lửa. Pha-ti-ma đến trước mặt bà ta nói:
    - Bà có thể cho chúng cháu ở tạm đây một đêm không? Chúng cháu bị lạc đường.
    - Ái chà, thật là tuyệt! Thượng đế đã ban thưởng chúng mày cho ta! Hãy đợi ta sửa soạn một món gì để ăn nhé!
    Nhận thấy có sự khác lạ trong lời nói của bà lão, nên trong lúc bà lão đi lấy thức ăn, nàng Pha-ti-ma để ý quan sát chung quanh và liền thông báo cho các bạn phát hiện của mình:
    - Các bạn, bà ta là mụ yêu tinh đấy, hãy đi khỏi đây mau lên trước khi bà ta trở ra và bắt hết cả bọn chúng ta ăn thịt.
    Cô và năm người bạn vừa tính đứng lên thì bà lão đã quay trở ra cùng một chiếc bánh thơm phức. Đặt chiếc bánh trước mặt các cô gái và nói:
    - Chắc các cháu cũng đói lắm rồi. Bánh đây, các cháu đi, bánh thơm ngon lắm đấy!
    Cả nhóm đưa mắt nhìn Pha-ti-ma.
    - Kìa, các cháu sau lại không ăn bánh nhỉ? - Bà lão lại nói.
    - Chúng cháu muốn được rửa tay trước rồi mới ăn ạ! - Pha-ti-ma nói, - chúng cháu được phép ra sông lấy nước chứ ạ?
    - Không được! Chúng mày ra sông để trốn đi à! - Bà lão hét lên.
    Pha-ti-ma lại nói:
    - Vậy bà hãy dùng dây trói chúng cháu lại, chúng cháu sẽ không trốn được, và bà hãy ra sông lấy nước giùm chúng cháu đi.
    Nghe thấy có lý, thế là mụ phù thuỷ mang dây ra trói các cô gái lại, nói:
    - Ta chỉ cần giật chiếc dây này là biết ngay chúng mày còn hay đã trốn đi!
    Nói xong mụ đi ra sông lấy nước. Bà ta vừa đi vừa kéo sợi dây, tự đắc:
    - Ha ha, vẫn còn đó.
    Đi được một lát, mụ phù thuỷ lại kéo dây, nói:
    - Ha ha! Lũ chúng nó vẫn còn đó.
    Thế nhưng, Pha-ti-ma đã cởi trói cho các bạn và buộc sợi dây lên một thân cây, sau đó cùng các bạn chạy ngay vào rừng. Khi mụ yêu tinh từ sông về, thấy các cô gái đều đã trốn sach liền hét lên ầm ĩ và tức giận chạy đuổi theo. Các cô gái vẫn không hay biết và tiếp tục chạy về phía trước, còn mụ yêu tinh truy đuổi phía sau.
    Họ chạy được một đoạn thì gặp một dòng sông và con cá sấu hung dữ chắn ngang.
    Pha-ti-ma đến gần sát mé sông và nói với con cá sấu:
    - Bạn sấu thân mến ơi, bạn hãy cõng giúp chúng ta từng người qua sông có được không?
    Cá sấu nói:
    - Ta có thể đưa các người qua sông, nhưng các bạn cho ta cái gì nào?
    Pha-ti-ma nói:
    - Nhóm chúng tôi có cả thảy sáu người. Chỉ cần bạn cõng lần lượt năm người qua sông thì còn người thứ sáu sẽ thuộc về bạn.
    Nghe nói thế, sấu ta lấy làm vừa ý. Liền đồng ý cõng lần lượt các cô gái qua sông, cứ được một người lại nói:
    - Một rồi nhé!
    Cứ vậy, sau khi cõng đến cô thứ năm qua sông. Chuẩn bị cõng đến người thứ sáu thì sấu nói:
    - Ha ha, bây giờ đến lượt ta ăn thịt mày đây!
    Mụ yêu tinh vẫn đang bám riết các cô gái. Khi mụ chạy đến bờ sông, không thấy bóng các cô gái, biết rằng bọn họ đã qua được bên kia bờ sông liền bò ngay lên lưng con cá sấu đang nằm chờ đấy, cá sấu cõng ngay mụ ta ra giữa sông, nói:
    - Ha ha, đây là đứa thứ sáu hả!
    Nói đoạn, cá sấu lặn xuống nước và ngoạm ngay mụ phù thuỷ. Lát sau sấu rên rỉ:
    - Thịt con bé này khó gặm quá, toàn xương là xương, sao ta lại không chọn đứa khác mà chén nhỉ?
    Còn về sáu cô gái kia thì đã an toàn trở về làng. Nguyên nhân sáu người qua được đến bờ bên kia là khi cá sấu đang mãi để ý đếm năm cô gái cõng lần lượt trên lưng thì nàng Pha-ti-ma đã âm thầm bám theo đuôi cá sấu cùng bơi sang bờ với cô gái thứ năm từ lâu.
     
  10. baoboiiu

    baoboiiu Thành viên rất tích cực

    Tham gia:
    15/6/2012
    Bài viết:
    1,070
    Đã được thích:
    376
    Điểm thành tích:
    123
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Thanks chủ top ! (ngưỡng mộ sự chịu khó của chủ top lắm lắm)^_^
    Các câu chuyện đều rất hay. Đặc biệt là " Ba sợi lông sư tử" giúp ta suy nghĩ và chiêm nghiệm cuộc sống thực tại.
     
  11. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Cô gái vàng

    Truyện cổ Trung Quốc



    Ngày xưa có một nguời thợ rèn nghèo, không có nổi một túp lều để ở. Với con anh thường xuyên đói rét. Một hôm quá quẫn trí người thợ rèn đem mấy đồng tiền cuối cùng ra mua một đoạn dây thừng, định chấm dứt cuộc đời của mình.
    Người thợ rèn vào rừng, tìm một cành cây to và treo sợi dây thừng lên. Trứơc khi cho đầu vào chiếc thòng lọng, bỗng nhiên anh ta thấy ở dưới đất hiện lên một người đàn bà da đen. Bà ta nói với người thợ rèn:
    - Anh chàng thợ rèn ơi! Hãy dừng tay lại!
    Người thợ rèn giật mình, buông dây thừng. Ngay lúc đó, người đàn bà da đen biến mất. Người thợ rèn không biết bà ta đi đâu, bèn cho đầu vào thòng lọng; liền đó người đàn bà da đen xuất hiện và lấy ngón tay đe doạ người thợ rèn:
    - Ta đã nói với anh rồi, anh chàng thợ rèn tội nghiệp ạ! Anh phải sống chứ!
    Nghe vậy, người thợ rèn tháo dây thừng quấn lại và quay về nhà. Trên đường về, anh ta tự nghĩ thầm là hiện nay ở nhà chỉ có đói khát đang chờ đợi anh. Tốt nhất là treo cổ chết còn hơn là phải chết đói! Bởi thế, người thợ rèn lại quay vào khu rừng tìm một cành cây to và ném sợ dây thừng lên, rồi buộc một chiếc thòng lọng.
    Vừa lúc ấy, ở dưới đất lại xúât hiện người đàn bà da đen. Lần này, bà ta nghiêm khắc nói:
    - Tại sao anh không nghe lời ta, hỡi anh chàng thợ rèn?
    Người thợ rèn buồn rầu trả lời:
    - Bà là ai mà tôi phải vâng lời bà? Gia đình tôi sắp chết cả rồi!
    - Không phải chết đói cả đâu mà sợ! Tôi sắp sửa cho anh nhiều tiền, nếu như anh muốn. Nhưng anh phải trả lại ta một cái gì trong nhà của anh mà anh chưa biết.
    Quả thật, người đàn bà da đen đưa cho anh chàng thợ rèn một túi tiền. Túi quá nặng, khiến anh không thể nào vác đi một cách dễ dàng được. Anh vui vẻ cám ơn người đàn bà da đen rồi vội vã mang túi tiền về nhà.
    Thấy người thợ rèn bước đi, người đàn bà dặn với:
    - Anh thợ rèn ơi, đừng quên lời hứa đấy. Cái gì ở trong nhà mà anh chưa biết là thuộc về ta đấy nhé!
    Người thợ rèn về đến nhà. Anh hồi hộp mở cái túi ra, thấy có rất nhìêu tìên vàng. Anh mừng rỡ không sao kể xiết.
    - Cái túi tiền này đủ làm chúng ta sống hạnh phúc! Vợ người thợ rèn trông tiền vàng kêu lên và vui vẻ chỉ cho chồng thấy một đứa bé gái có mái tóc bằng vàng nằm trên tay: Đó là đứa con gái nhỏ của họ vừa mới ra đời. Trông thấy đứa bé, người thợ rèn buồn rầu, vì anh biết người đàn bà mong muốn điêu gì rồi.
    Thấm thoát, đứa bé đã lên bảy tuổi và có tên là cô gái vàng. Một hôm, người đàn bà da đen đi chiếc xe ngựa cũng màu đen, đến nhà người thợ rèn.
    - Ta đến đón con gái anh đây! – Bà ta vừa nói với người thợ rèn và lôi tay cô gái vàng lên xe ngựa. Mặc cho cha mẹ và chị gái các cô gái vàng khóc lóc, van xin, người đàn bà da đen vẫn không động lòng thương xót. Bà ta lấy roi đánh ngựa và chiếc xe đen chuyển bánh.
    Người đàn bà da đen đưa cô gái vàng đi mãi, đi mãi. Họ đến một khu rừng rậm rạp và dừng lại trước một toà lâu đài màu đen đồ sộ. Bà ta nói với cô gái vàng:
    - Trong lâu đài có một trăm căn phòng. Con chỉ được phép vào chín mươi chín căn phòng, trừ căn phòng cuối cùng, nếu con vào căn phòng thứ một trăm, con sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Bảy năm nữa ta sẽ quay lại đây kiểm tra sự trung thực của con.
    Nói xong, người đàn bà da đen đi thẳng.
    Cô gái vàng sống một mình trong lâu đài không đến nỗi khổ sở. Cô có đầy đủ thức ăn và chín mươi chín căn phòng. Cô không bước vào căn phòng thứ một trăm. Bảy năm đã trôi qua và cô không hề gặp tai nạn gì.
    Một hôm, người đàn bà da đen đến và hỏi cô gái vàng:
    - Con có vào thử căn phòng thứ một trăm không?
    Cô gái vàng trả lời:
    - Không ạ!
    - Con ngoan lắm. Con đã biết nghe lời khuyên của ta. Bảy năm nữa, ta sẽ quay lại đây. Nếu con giữ được lời hứa, thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Nếu con bước vào căn phòng thứ một trăm thì con sẽ phải chịu những hình phạt khủng khiếp hơn cả cái chết đấy!
    Người đàn bà da đen nói xong liền đánh xe đi và bảy năm sau mới quay lại lâu đài. Bảy năm lần thứ hai trôi đi rất nhanh. Ngày cuối cùng của kỳ hạn, người đàn bà da đen sẽ quay lại, cô gái vàng rất sung sướng vì cô đã vâng lời bà ta. Cô tin rằng, cô sẽ được bà ta trọng thưởng. Bỗng nhiên, cô gái vàng nghe thấy tiếng nhạc du dương.
    - Ai chơi nhạc hay vậy?
    Cô gái ngạc nhiên kêu lên. Cô đi về phía tiếng nhạc và đến cửa căn phòng thứ một trăm, trong phòng vọng ra tiếng nhạc quyến rũ. Cô gái vàng như mất hồn, thẫn thờ mở cửa căn phòng và bỗng nhiên giật mình, đứng sững lại ở ngưỡng cửa. Trong phòng có mười hai người đàn ông da đen đang ngồi quanh bàn và người đàn ông da đen thứ mười ba đứng phía sau cánh cửa.
    - Con bé kia! Con bé kia! Mày đã làm cái gì thế? Ai cho mày vào căn phòng này? – Gã đàn ông da đen thứ mười ba quát lên.
    Cô gái vàng khiếp đảm, đứng nép vào cánh cửa và sợ hãi hỏi lại:
    - Trời ơi, cháu phải làm gì bây giờ?
    Gã đàn ông da đen thứ mười ba gào lên:
    - Mày không được nói với bất kỳ ai về chuyện chúng ta ở đây! Nếu mày không giữ mồm, giữ miệng thì mày sẽ phải chịu những hình phạt cực kỳ khủng khiếp! Thôi cút đi! Cút đi! Mày chỉ có câm lặng mới chuộc lại tội lỗi này của mày!
    Cô gái vàng kinh hoàng đóng cửa lại. Ngay lúc đó, cô nghe tiếng xe ngựa ngoài sân. Người đàn bà da đen bước vào. Bà ta như đã đoán được chuyện gì, liền hỏi cô gái:
    - Con đã nhìn thấy gì ở trong căn phòng thứ một trăm?
    Cô gái vàng im lặng lắc đầu.
    - Được rồi, nếu mày không muốn nói thì từ nay trở đi, mày sẽ trở thành một kẻ câm. Mày chỉ được phép nói với ta mà thôi!
    Người đàn bà da đen đùng đùng nổi giận và đuổi cô gái vàng ra khỏi lâu đài.
    Cô gái vàng ra đi mà chẳng biết mình đi đâu. Cô cứ bước đi hoài, cho đến bãi cỏ xanh. Cô ngồi xuống, nức nở khóc và thiếp đi vì mỏi mệt. Lúc ấy, nhà vua trẻ đang đi săn gần bãi cỏ. Ngài trông thấy cô gái vàng xinh đẹp đang ngủ. Nhà vua đem lòng yêu cô gái. Mặc cho cô gái bị câm, nhà vua cứ đưa về lâu đài của mình và phong nàng làm hoàng hậu.
    Cô gái vàng sống hạnh phúc trong lâu đài nhà vua. Chưa đến một năm sau, cô sinh được một cậu con trai xinh đẹp, có mái tóc vàng và ngôi sao cũng bằng vàng trên trán. Cả lâu đài đều vui mừng vì có hoàng tử xinh đẹp. Ngay đêm ấy, người đàn bà da đen lần đến giường hoàng hậu và đe doạ:
    - Nếu mày không thú nhận là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì ta sẽ giết chết đứa bé này!
    Nghe người đàn bà da đen nói vậy, cô gái vàng hoảng sợ. Nhưng cô chỉ im lặng lắc đầu, vì cô còn nhớ rõ lời đe doạ của gã đàn ông thứ mười ba trong căn phòng thứ một trăm.
    Người đàn bà da đen liền mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài hoảng sợ vì không tìm thấy hoàng tử nhỏ ở đâu. Mọi người thấy máu dính trên miệng hoàng hậu. "Có lẽ bà ta đã ăn thịt con chăng?", những người hầu cận thì thầm nhận xét với nhau và chẳng có ai to gan nói lên những mối nghi ngờ đó. Nhà vua cũng chẳng thanh minh gì được.
    Năm sau, hoàng hậu sinh hạ một cô con gái có mái tóc vàng va có ngôi sao trên trán. Cả lâu đài vui mừng, nhưng ngay sau đó,ai cũng lo mất công chúa nhỏ. Nhà vua sai lính gác cẩn mật phòng hoàng hậu. Nhưng đều phí công. Đêm ấy, người đàn bà da đen lại xuất hiện. Bà ta dọa nạt hoàng hậu:
    - Nếu mày không là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì tao sẽ giết con bé này!
    Hoàng hậu dàn dụa nước mắt và lắc đầu. Người đàn bà da đen liền mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài khiếp sợ. Tin đồn hoàng hậu ăn thịt con đến tai nhà vua. Nhà vua đùng đùng nổi giận và ra lệnh trị tội cô gái vàng. Nhà vua sai người đốt cháy cô gái ngoài thành phố. Cô gái vàng chỉ biết khóc. Cô bị câm nên không nói được nỗi oan ức của mình. Chẳng có ai thương hại hoàng hậu, dù hoàng hậu khóc lóc.
    Tên đao phủ dẫn cô gái ra chỗ hành quyết, thì người đàn bà da đen xuất hiện. Bà ta nói với cô gái:
    - Hãy thú nhận là đã vào căn phòng thứ một trăm, nếu mày còn chối thì mày phải chịu tội chết!
    Cô gái vàng vẫn trơ trơ như đá, cô chỉ lắc đầu để trả lời người đàn bà da đen.
    Tên đao phủ trói cô gái vào cột và chất củi đốt. Khi ngọn lửa bùng cháy dưới chân cô gái vàng, thì người đàn bà da đen bỗng nhiên quát to:
    - Dập tắt lửa đi! Dập tắt lửa đi!
    Nghe thấy tiếng quát, mọi người kinh ngạc. Tên đao phủ dập tắt ngọn lửa và cởi trói cho cô gái vàng. Người đàn bà da đen mang hai đứa trẻ có mái tóc vàng và có ngôi sao bằng vàng trên trán ra. Bà trao hai đứa trẻ cho cô gái vàng và nói:
    - Ta nguyên là một vị tiên nữ. Vì ta đã phạm tội, nên thượng đế đày xuống trần. Ta phải tìm ra một cô gái biết im lặng trong nhiều năm, dù cô ta có bị giết, vẫn không nói một lời. Ta đã tìm ra được con. Con xứng đáng là người cùng ta trải qua nhiều thử thách dưới trần gian. Hai đứa con của con vẫn còn sống. Hôm nay ta trao lại cho con. Đó là hạnh phúc của con và cả của ta nữa, vì con đã biết im lặng. Con đã giải thoát cho các con của con và cho ta.
    Nói xong người đàn bà da đen đánh xe đi thẳng.
    Nhà vua kinh ngạc, không dám tin vào mắt mình. Cô gái vàng vội kể lại cho nhà vua nghe câu chuyện. Nghe xong, nhà vua cho mời hai vợ chồng người thợ rèn và các anh, các chị cô gái vàng về lâu đài. Từ đó, họ chung sống với nhau đến trọn đời. hết:
     
  12. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Cô gái vàng

    Truyện cổ Trung Quốc



    Ngày xưa có một người thợ rèn nghèo, không có nổi một túp lều để ở. Vợ con anh thường xuyên đói rét. Một hôm quá quẫn trí người thợ rèn đem mấy đồng tiền cuối cùng ra mua một đoạn dây thừng, định chấm dứt cuộc đời của mình.
    Người thợ rèn vào rừng, tìm một cành cây to và treo sợi dây thừng lên. Trứơc khi cho đầu vào chiếc thòng lọng, bỗng nhiên anh ta thấy ở dưới đất hiện lên một người đàn bà da đen. Bà ta nói với người thợ rèn:
    - Anh chàng thợ rèn ơi! Hãy dừng tay lại!
    Người thợ rèn giật mình, buông dây thừng. Ngay lúc đó, người đàn bà da đen biến mất. Người thợ rèn không biết bà ta đi đâu, bèn cho đầu vào thòng lọng; liền đó người đàn bà da đen xuất hiện và lấy ngón tay đe doạ người thợ rèn:
    - Ta đã nói với anh rồi, anh chàng thợ rèn tội nghiệp ạ! Anh phải sống chứ!
    Nghe vậy, người thợ rèn tháo dây thừng quấn lại và quay về nhà. Trên đường về, anh ta tự nghĩ thầm là hiện nay ở nhà chỉ có đói khát đang chờ đợi anh. Tốt nhất là treo cổ chết còn hơn là phải chết đói! Bởi thế, người thợ rèn lại quay vào khu rừng tìm một cành cây to và ném sợ dây thừng lên, rồi buộc một chiếc thòng lọng.
    Vừa lúc ấy, ở dưới đất lại xúât hiện người đàn bà da đen. Lần này, bà ta nghiêm khắc nói:
    - Tại sao anh không nghe lời ta, hỡi anh chàng thợ rèn?
    Người thợ rèn buồn rầu trả lời:
    - Bà là ai mà tôi phải vâng lời bà? Gia đình tôi sắp chết cả rồi!
    - Không phải chết đói cả đâu mà sợ! Tôi sắp sửa cho anh nhiều tiền, nếu như anh muốn. Nhưng anh phải trả lại ta một cái gì trong nhà của anh mà anh chưa biết.
    Quả thật, người đàn bà da đen đưa cho anh chàng thợ rèn một túi tiền. Túi quá nặng, khiến anh không thể nào vác đi một cách dễ dàng được. Anh vui vẻ cám ơn người đàn bà da đen rồi vội vã mang túi tiền về nhà.
    Thấy người thợ rèn bước đi, người đàn bà dặn với:
    - Anh thợ rèn ơi, đừng quên lời hứa đấy. Cái gì ở trong nhà mà anh chưa biết là thuộc về ta đấy nhé!
    Người thợ rèn về đến nhà. Anh hồi hộp mở cái túi ra, thấy có rất nhìêu tìên vàng. Anh mừng rỡ không sao kể xiết.
    - Cái túi tiền này đủ làm chúng ta sống hạnh phúc! Vợ người thợ rèn trông tiền vàng kêu lên và vui vẻ chỉ cho chồng thấy một đứa bé gái có mái tóc bằng vàng nằm trên tay: Đó là đứa con gái nhỏ của họ vừa mới ra đời. Trông thấy đứa bé, người thợ rèn buồn rầu, vì anh biết người đàn bà mong muốn điêu gì rồi.
    Thấm thoát, đứa bé đã lên bảy tuổi và có tên là cô gái vàng. Một hôm, người đàn bà da đen đi chiếc xe ngựa cũng màu đen, đến nhà người thợ rèn.
    - Ta đến đón con gái anh đây! – Bà ta vừa nói với người thợ rèn và lôi tay cô gái vàng lên xe ngựa. Mặc cho cha mẹ và chị gái các cô gái vàng khóc lóc, van xin, người đàn bà da đen vẫn không động lòng thương xót. Bà ta lấy roi đánh ngựa và chiếc xe đen chuyển bánh.
    Người đàn bà da đen đưa cô gái vàng đi mãi, đi mãi. Họ đến một khu rừng rậm rạp và dừng lại trước một toà lâu đài màu đen đồ sộ. Bà ta nói với cô gái vàng:
    - Trong lâu đài có một trăm căn phòng. Con chỉ được phép vào chín mươi chín căn phòng, trừ căn phòng cuối cùng, nếu con vào căn phòng thứ một trăm, con sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Bảy năm nữa ta sẽ quay lại đây kiểm tra sự trung thực của con.
    Nói xong, người đàn bà da đen đi thẳng.
    Cô gái vàng sống một mình trong lâu đài không đến nỗi khổ sở. Cô có đầy đủ thức ăn và chín mươi chín căn phòng. Cô không bước vào căn phòng thứ một trăm. Bảy năm đã trôi qua và cô không hề gặp tai nạn gì.
    Một hôm, người đàn bà da đen đến và hỏi cô gái vàng:
    - Con có vào thử căn phòng thứ một trăm không?
    Cô gái vàng trả lời:
    - Không ạ!
    - Con ngoan lắm. Con đã biết nghe lời khuyên của ta. Bảy năm nữa, ta sẽ quay lại đây. Nếu con giữ được lời hứa, thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Nếu con bước vào căn phòng thứ một trăm thì con sẽ phải chịu những hình phạt khủng khiếp hơn cả cái chết đấy!
    Người đàn bà da đen nói xong liền đánh xe đi và bảy năm sau mới quay lại lâu đài. Bảy năm lần thứ hai trôi đi rất nhanh. Ngày cuối cùng của kỳ hạn, người đàn bà da đen sẽ quay lại, cô gái vàng rất sung sướng vì cô đã vâng lời bà ta. Cô tin rằng, cô sẽ được bà ta trọng thưởng. Bỗng nhiên, cô gái vàng nghe thấy tiếng nhạc du dương.
    - Ai chơi nhạc hay vậy?
    Cô gái ngạc nhiên kêu lên. Cô đi về phía tiếng nhạc và đến cửa căn phòng thứ một trăm, trong phòng vọng ra tiếng nhạc quyến rũ. Cô gái vàng như mất hồn, thẫn thờ mở cửa căn phòng và bỗng nhiên giật mình, đứng sững lại ở ngưỡng cửa. Trong phòng có mười hai người đàn ông da đen đang ngồi quanh bàn và người đàn ông da đen thứ mười ba đứng phía sau cánh cửa.
    - Con bé kia! Con bé kia! Mày đã làm cái gì thế? Ai cho mày vào căn phòng này? – Gã đàn ông da đen thứ mười ba quát lên.
    Cô gái vàng khiếp đảm, đứng nép vào cánh cửa và sợ hãi hỏi lại:
    - Trời ơi, cháu phải làm gì bây giờ?
    Gã đàn ông da đen thứ mười ba gào lên:
    - Mày không được nói với bất kỳ ai về chuyện chúng ta ở đây! Nếu mày không giữ mồm, giữ miệng thì mày sẽ phải chịu những hình phạt cực kỳ khủng khiếp! Thôi cút đi! Cút đi! Mày chỉ có câm lặng mới chuộc lại tội lỗi này của mày!
    Cô gái vàng kinh hoàng đóng cửa lại. Ngay lúc đó, cô nghe tiếng xe ngựa ngoài sân. Người đàn bà da đen bước vào. Bà ta như đã đoán được chuyện gì, liền hỏi cô gái:
    - Con đã nhìn thấy gì ở trong căn phòng thứ một trăm?
    Cô gái vàng im lặng lắc đầu.
    - Được rồi, nếu mày không muốn nói thì từ nay trở đi, mày sẽ trở thành một kẻ câm. Mày chỉ được phép nói với ta mà thôi!
    Người đàn bà da đen đùng đùng nổi giận và đuổi cô gái vàng ra khỏi lâu đài.
    Cô gái vàng ra đi mà chẳng biết mình đi đâu. Cô cứ bước đi hoài, cho đến bãi cỏ xanh. Cô ngồi xuống, nức nở khóc và thiếp đi vì mỏi mệt. Lúc ấy, nhà vua trẻ đang đi săn gần bãi cỏ. Ngài trông thấy cô gái vàng xinh đẹp đang ngủ. Nhà vua đem lòng yêu cô gái. Mặc cho cô gái bị câm, nhà vua cứ đưa về lâu đài của mình và phong nàng làm hoàng hậu.
    Cô gái vàng sống hạnh phúc trong lâu đài nhà vua. Chưa đến một năm sau, cô sinh được một cậu con trai xinh đẹp, có mái tóc vàng và ngôi sao cũng bằng vàng trên trán. Cả lâu đài đều vui mừng vì có hoàng tử xinh đẹp. Ngay đêm ấy, người đàn bà da đen lần đến giường hoàng hậu và đe doạ:
    - Nếu mày không thú nhận là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì ta sẽ giết chết đứa bé này!
    Nghe người đàn bà da đen nói vậy, cô gái vàng hoảng sợ. Nhưng cô chỉ im lặng lắc đầu, vì cô còn nhớ rõ lời đe doạ của gã đàn ông thứ mười ba trong căn phòng thứ một trăm.
    Người đàn bà da đen liền mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài hoảng sợ vì không tìm thấy hoàng tử nhỏ ở đâu. Mọi người thấy máu dính trên miệng hoàng hậu. "Có lẽ bà ta đã ăn thịt con chăng?", những người hầu cận thì thầm nhận xét với nhau và chẳng có ai to gan nói lên những mối nghi ngờ đó. Nhà vua cũng chẳng thanh minh gì được.
    Năm sau, hoàng hậu sinh hạ một cô con gái có mái tóc vàng va có ngôi sao trên trán. Cả lâu đài vui mừng, nhưng ngay sau đó,ai cũng lo mất công chúa nhỏ. Nhà vua sai lính gác cẩn mật phòng hoàng hậu. Nhưng đều phí công. Đêm ấy, người đàn bà da đen lại xuất hiện. Bà ta dọa nạt hoàng hậu:
    - Nếu mày không là mày đã vào căn phòng thứ một trăm, thì tao sẽ giết con bé này!
    Hoàng hậu dàn dụa nước mắt và lắc đầu. Người đàn bà da đen liền mang đứa bé ra bãi cỏ giết đi, bà ta lấy máu của đứa trẻ, bôi lên miệng cô gái vàng, rồi mang xác đứa bé biến mất. Sáng hôm sau, cả lâu đài khiếp sợ. Tin đồn hoàng hậu ăn thịt con đến tai nhà vua. Nhà vua đùng đùng nổi giận và ra lệnh trị tội cô gái vàng. Nhà vua sai người đốt cháy cô gái ngoài thành phố. Cô gái vàng chỉ biết khóc. Cô bị câm nên không nói được nỗi oan ức của mình. Chẳng có ai thương hại hoàng hậu, dù hoàng hậu khóc lóc.
    Tên đao phủ dẫn cô gái ra chỗ hành quyết, thì người đàn bà da đen xuất hiện. Bà ta nói với cô gái:
    - Hãy thú nhận là đã vào căn phòng thứ một trăm, nếu mày còn chối thì mày phải chịu tội chết!
    Cô gái vàng vẫn trơ trơ như đá, cô chỉ lắc đầu để trả lời người đàn bà da đen.
    Tên đao phủ trói cô gái vào cột và chất củi đốt. Khi ngọn lửa bùng cháy dưới chân cô gái vàng, thì người đàn bà da đen bỗng nhiên quát to:
    - Dập tắt lửa đi! Dập tắt lửa đi!
    Nghe thấy tiếng quát, mọi người kinh ngạc. Tên đao phủ dập tắt ngọn lửa và cởi trói cho cô gái vàng. Người đàn bà da đen mang hai đứa trẻ có mái tóc vàng và có ngôi sao bằng vàng trên trán ra. Bà trao hai đứa trẻ cho cô gái vàng và nói:
    - Ta nguyên là một vị tiên nữ. Vì ta đã phạm tội, nên thượng đế đày xuống trần. Ta phải tìm ra một cô gái biết im lặng trong nhiều năm, dù cô ta có bị giết, vẫn không nói một lời. Ta đã tìm ra được con. Con xứng đáng là người cùng ta trải qua nhiều thử thách dưới trần gian. Hai đứa con của con vẫn còn sống. Hôm nay ta trao lại cho con. Đó là hạnh phúc của con và cả của ta nữa, vì con đã biết im lặng. Con đã giải thoát cho các con của con và cho ta.
    Nói xong người đàn bà da đen đánh xe đi thẳng.
    Nhà vua kinh ngạc, không dám tin vào mắt mình. Cô gái vàng vội kể lại cho nhà vua nghe câu chuyện. Nghe xong, nhà vua cho mời hai vợ chồng người thợ rèn và các anh, các chị cô gái vàng về lâu đài. Từ đó, họ chung sống với nhau đến trọn đời. hết:
     
  13. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Sự tích Bảy Con Quạ




    Ngày xưa, có một người sinh được bảy con trai, nhưng không có con gái, cầu cũng chẳng được. Mãi về sau, vợ có mang, bác ta chứa chan hy vọng, quả nhiên đứa con ra đời là gái. Hai vợ chồng mừng lắm, nhưng đứa con lại bé quá. Vì thấy con yếu ớt, bố mẹ định làm phép rửa tội gấp cho con. Bố vội sai một đứa con trai chạy ra suối lấy nước.Sáu đứa kia cũng đi theo. Bảy đứa tranh nhau múc nước, cái bình lăn xuống nước. Chúng không biết làm thế nào, không đứa nào dám về nhà. Thấy con mãi không về, bố sốt ruột, nói:
    - Mấy thằng ranh lại mãi chơi quên múc nước rồi.
    Bố sợ con gái nhỡ chết không được chịu phép rửa tội, phát cáu, rủa con:
    - Ước gì cả bảy thằng hoá ra quạ tất!
    Vừa nói buông lời thì nghe thấy tiếng vỗ cánh trên đầu và bảy con quạ đen như than bay liệng. Bố đã trót rủa rồi, hối lại không kịp nữa. Hai vợ chồng buồn vì mất bảy đứa con, nhưng được an ủi đôi phần vì thấy đứa con gái quý mỗi ngày một khoẻ lên và đẹp ra. Bố mẹ giữ kín, giấu không cho cô biết chuyện. Mãi sau cô nghe thấy láng giềng xì xào rằng cô đẹp thật, nhưng vì cô mà bảy anh cô phải khổ, thì cô mới biết rằng mình có anh. Bố mẹ không thể giấu con được nữa, nói tránh ra rằng đó là lòng trời, và cô sinh ra chẳng có tội gì.
    Nhưng cô em hằng ngày vẫn bị lương tâm cắn rứt và quyết tâm giải thoát các anh khỏi phù phép. Cô bứt rứt lắm, trốn nhà ra đi khắp nơi mong tìm ra tung tích các anh để giải thoát các anh bằng mọi cách. Cô chỉ mang theo một chiếc nhẫn nhỏ làm vật kỷ niệm của cha mẹ, một cái bánh mì để ăn, một bình nước nhỏ để uống và một cái ghế con để ngồi cho đỡ mỏi.
    Cô đi mãi, đi mãi, đi đến tận cùng thế giới. Cô đi tới mặt trời, nhưng mặt trời nóng quá. Cô vội rời mặt trời và chạy tới mặt trăng, nhưng mặt trăng lạnh lẽo quá. Cô bé vội quay gót, đi tới các vì sao. Các vì sao tiếp cô niềm nở, vị nào cũng ngồi trên một cái ghế con. Sao Mai đứng dậy, cho cô một cái xương nhỏ và bảo cô:
    - Không có cái xương nhỏ này thì con không thể nào mở được núi Thuỷ Tinh là chỗ ở của các anh con.
    Cô bé cầm cái xương, lấy khăn bọc cẩn thận, rồi đi mãi đến núi Thuỷ Tinh. Cửa núi đóng. Cô cởi khăn tay ra để lấy cái xương, nhưng không thấy nữa. Thế là cô đã đánh mất món quà của vì sao tốt bụng. Làm thế nào bây giờ? Cô muốn cứu các anh mà chìa khoá núi đã mất rồi. Cô bèn rút dao ra, cắt một mẩu ngón tay đút vào ổ khoá, thì mở được khoá. Cô bứơc vào, thấy một người lùn ra hỏi:
    - Con đến tìm gì ở đây?
    - Con tìm các anh con là bảy con quạ.
    - Bây giờ các ông quạ đi vắng, nhưng nếu con muốn chờ các ông về thì con vào đây.
    Người lùn sắp món ăn tối cho bảy ông quạ vào bảy cái đĩa nhỏ và đặt bảy cái cốc nhỏ. Cô bé ăn ở mỗi đĩa một miếng và ở mỗi cốc một hớp. Cô thả cái nhẫn mang theo vào cốc cuối cùng. Chợt cô nghe thấy ở trên không có tiếng vỗ cánh.
    Người lùn liền nói:
    - Các ông quạ đã về đó!
    Các ông quạ về thật. Mỗi ông đi tìm cốc đĩa của mình để ăn uống. Hết ông nọ đến ông kia hỏi:
    - Ai đã ăn ở đĩa của tôi? Ai đã uống ở cốc của tôi? Nhất định có người đụng đến cốc đĩa này.
    Khi con quạ thứ bảy uống hết cốc, thì nó thấy cái nhẫn. Nó nhìn nhẫn chằm chằm và nhận ra là cái nhẫn của mẹ, bèn nói:
    - Cầu chúa cho em chúng ta ở đây thì chúng ta được giải thoát.
    Quạ vừa nói xong, cô bé đang đứng sau cửa liền bước vào. Tức thì đàn quạ lại hoá ra người. Anh em ôm chặt lấy nhau hôn nhau mãi, rồi vui vẻ cùng nhau lên đường về nhà.
     
  14. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Sự tích Con Thần Mã




    Ngày xưa, có một khu rừng đen, rất nhiều thú dữ, rắn độc, thường ra bắt người ăn thịt. Người qua lại đều phải đi vòng quanh rất xa. Các thợ đi săn xa gần đều không ai dám đến săn bắn ở rừng đen, vì nửa năm trước đây đã có hai người đi săn trẻ tuổi bị hổ báo ăn thịt. Việc đó làm cho mọi người đi săn lo lắng và hổ thẹn, nhưng khong tìm được cách nào tốt để trừ hại tận gốc.
    Lúc đó, có một người đi săn trẻ tuổi tên là Cát Linh đã có một chủ ý riêng. Mỗi khi có người nhắc tới khu rừng đen, Cát Linh đều bỏ đi không nói không rằng. Tối tối dưới trăng Cát Linh luyện tập cung tên suốt cả đêm. Một trăm ngày sau, tài bắn cung của Cát Linh đã đạt đến mức tài giỏi, phi thường. Trong vòng một trăm hai mươi bước, chàng bắn trăm phát trúng cả trăm. Nhưng việc đó, ngoài mẹ chàng ra, thì không một ai biết.
    Một hôm, trời vừa sáng, Cát Linh đã mang cung tên vào một khu rừng nhỏ tìm súc vật để thử tài bắn của mình. Rừng hoang vắng, một con thỏ cũng không thấy. Cát Linh hơi sốt ruột, chàng chợt ngẩng đầu lên nhìn thấy một con chim ưng hung ác đang lao vụt như tia chớp săn đuổi một con chim bách linh xinh đẹp. Muốn cứu chim bách linh, trừng trị chim ưng hung ác, Cát Linh liền giương cung lắp tên. Chỉ nghe một tiếng “vút”, mũi tên nhọn đã xuyên qua đầu con chim ưng. Chim bách linh được cứu thoát.
    Cát Linh trong lòng vui sướng, định quay về nói cho mẹ rõ. Bỗng nhiên trước mặt chàng hiện ra cô gái cực kỳ kiều diễm, quần áo sáng lấp lánh. Cát Linh chợt nhớ tới chuyện Liên Hoa Thánh Nữ mà các cụ già thường nói tới. Chàng bất giác vừa lo vừa mừng, đứng ngẩn ra một lát, vừa định nói thì cô gái đã lên tiếng trước:
    - Hỡi chàng trẻ tuổi nhân từ, ta chính là Liên Hoa Sơn Thánh Nữ. Vừa rồi chàng đã cứu ta, ta cảm ơn chàng. Chàng nói đi, chàng muốn gì ta sẽ làm cho chàng vừa ý.
    Cát Linh vui vẻ nói lên mong ước của mình:
    - Tôi không mong muốn có một cái gì khác, chỉ cần có con ngựa tốt là đủ rồi.
    - Được lắm, ta biết có một con ngựa tốt nhất trên đời. Đó là con thần mã, ai được nó, người đó sẽ hạnh phúc.
    Tiên nữ giơ tay chỉ, nói tiếp với Cát Linh:
    - Từ đây đi thẳng về hướng Bắc, chàng sẽ tới một cái hồ. Ngày ngày khi mặt trời mọc, thần mã sẽ chạy tới bên hồ uống nước, khi đó, chàng sẽ bắt giữ lấy ngựa. Nhưng chàng nhớ kỹ, thần mã muốn vùng vẫy thế nào chàng cũng không được thả nó.
    Đôi mắt Cát Linh sáng lên, vừa chớp mắt, tiên nữ đã biến mất, chỉ thấy một con chim bách linh xinh đẹp bay ngang qua đầu. Cát Linh đứng ngẩn người ra một lát, nhớ ít lời Liên Hoa Thánh Nữ vừa nói, chàng thấy trong lòng vui sướng dạt dào, bèn cất bước chạy như bay về nhà.
    Bà mẹ thấy Cát Linh mặt mày hớn hở chạy về, liền hỏi:
    - Con ơi, có việc gì vui, hãy nói cho mẹ biết đi! Phải chăng con đã luyện tập cung tên thành thạo?
    Nhìn khuôn mặt hiền từ đầy vết nhăn nheo của mẹ, Cát Linh ngập ngừng, nghĩ ngợi nhưng rồi cũng đem chuyện gặp tiên nữ và ý định của mình ra nói cho mẹ nghe. Bà mẹ vừa mừng, vừa lo, nói:
    - Ngày mai chỉ một mình con vàokhu rừng đen à? Chà, phải cẩn thận đấy con. Bắn cung phải thật trầm tĩnh.
    Cát Linh nói:
    - Con rõ rồi mẹ ạ. Mẹ cứ yên lòng, đừng sợ mẹ ạ!
    Bà mẹ hơi do dự, nhưng không muốn giữ con ở lại bên mình. Im lặng một lát rồi bà bình tĩnh nói với Cát Linh:
    - Con cứ đi đi! Hãy cố gắng vì mọi người, diệt cho hết loài thú dữ.
    Hôm sau Cát Linh đến từ biệt mọi nhà. Mấy người đi săn già nhất định đòi đi theo Cát Linh, Cát Linh sợ nguy hiểm nên kiên quyết từ chối. Nhưng những người đi săn trung thành nhất định chẳng muốn cho Cát Linh một mình dấn thân vào nơi nguy hiểm. Cuối cùng Cát Linh phải bằng lòng cho ba người đi săn trẻ tuổi, khoẻ mạnh, có kinh nghiệm cùng đi. Những người đi săn khác đều lặng lẽ kéo nhau tới tụ tập dưới chân núi để tiện giúp đỡ.
    Lại nói đến Cát Linh và ba người bạn đi săn trẻ tuổi tiến vào khu rừng đen. Rừng tối âm u, không một tiếng động. Cát Linh sốt ruột đi sục sạo kháp nơi, nhưng không thấy dấu vết hổ báo. Cát Linh vui vẻ cất tiếng reo lên. Bỗng một trận gió dữ dội nổi lên giữa rừng sâu. Cát Linh nhìn về phía trước, một con hổ đang băng qua rặng cây thấp, chồm thẳng tới. Chàng giương cung, một mũi tên đã xuyên qua mắt trái hổ. Hổ đau đớn quá gầm lên, núi rừng chuyển động. Hổ chồm mạnh lên, đã lăn xuống đất. Ba người đi săn cùng xông lên dùng kiếm chém chết hổ. Giữa lúc đó, trên đầu họ có những tiếng “phì, phì” rít lên. Một con trăn hoa đen, mình to bằng miệng bát từ trên cây cổ thụ trườn xuống, chớp mắt đã quấn chặt lấy ba chàng đi săn trẻ tuổi, chiếc lưỡi đỏ lòm dài hàng thước của nó vươn ngay tới mũi một người đi săn… Cát Linh vội tránh sang bên, “vút”, một mũi tên bay đi bắn trúng đầu con trăn. Con trăn quằn quại vung mình ra, ba người cùng ngã lăn xuống đất.
    Cát Linh vội vàng chạy tới nhìn, hai người đã tỉnh lại nhưng một người đổ máu mũi đã chết. Cát Linh ôm bạn, trong lòng rất đau thương, những giọt nước mắt nóng hổi từ từ lăn trên đôimắt. Giữa lúc đó, chợt nghe sấm vang lên làm cho rừng lở, đất nghiêng. Một con báo đốm vàng hung dữ từ trong rừng sâu nhảy vọt ra. Cát Linh vội vàng đặt người chết xuống, giận thét lên:
    - Được lắm, cứ lại đây!
    Chàng nhắc cung tên dưới đất. “Vút, vút, vút” ba mũi tên bắn đi,hai mũi tên đâm trúng mắt, mũi tên sau cùng trúng giữa trán. Con báo chồm lên gầm gừ dữ dội như sấm. Cát Linh nhảy tới, một mũi kiếm đâm sâu vào ngực con báo đốm vàng rồi liên tiếp mấy mũi tên nữa đâm xuống…
    Cát Linh đứng sừng sững như thần, cất tiếng hô lớn cho đến lúc không còn nghe thấy động tĩnh gì mới bước đi về phía người bạn đã chết. Lúc này những người đi săn tụ tập ở dưới chân núi đã leo lên núi, vui mừng ôm lấy Cát Linh, thân thiết ôm chàng, khênh kiệu chàng lên. Một lát sau, thấy người trai trẻ chết ngất đã dần dần tỉnh lại, mọi người ôm chầm lấy Cát Linh. Cát Linh mình đầy máu me quay về nhà, thuật lại kỹ càng công việc đã qua cho mẹ nghe. Mẹ già ôm chầm lấy Cát Linh vào lòng, hôn lên trán chàng và ứa nước mắt – những giọt nước mắt hạnh phúc.
    Hôm sau Cát Linh đem mẹ đến gửi ở nhà một người đi săn già rồi từ biệt mọi người, một mình nhắm thẳng hướng ra đi. Cát Linh đi suốt ba ngày đêm, không biết đã trải qua bao gian nan nguy hiểm, cuối cùng đã tới bên hồ. Cát Linh ẩn núp bên đám cỏ rộng ven hồ. Mặt trời vừa nhô lên, bỗng nhiên một trận gió thổi tới, một con ngựa bờm dài đen nhánh từ trên không trung hạ xuống. Không chờ ngựa đứng vững, Cát Linh đã ra khỏi bụi cỏ tung người nhảy lên mình ngựa. Thần mã hí lên một tiếng dài, gục đầu định hất chàng xuống đất. Nhớ lời tiên nữ, Cát Linh ôm chặt lấy mình ngựa, mặc thần mã lồng lên thế nào cũng không buông tay.
    Bỗng nhiên thần mã bay vút lên không, bay khỏi chín tầng mây rồi bất thình lình lao xuống đất. Mấy lần như vậy, Cát Linh cũng không bị rơi xuống. Lúc đó thần mã mới dừng lại, nói với Cát Linh:
    - Thưa chủ nhân dũng cảm, người muốn đi đâu?
    Cát Linh nói:
    - Tùy ý ngươi. Ta muốn được xem mọi người trên thế gian này sinh sống ra sao, ta muốn tận mắt nhìn thấy niềm sung sướng cũng như sự không may của họ… Đi thôi, muốn đi đâu trước cũng được.
    Thần mã liền bay lên trên không như một đám mây. Một lát sau hạ xuống một Hãn quốc có núi non vây quanh. Thần mã dừng lại nói:
    - Thưa chủ nhân, ngài hãy đi xem đi. Khi nào cần, ngài chỉ gọi một tiếng tôi sẽ đến ngay.
    Cát Linh xuống ngựa, một mình đi thẳng về phía trước. Chàng thấy rất nhiều người nằm ngoài lều vải, một bà cụ già đang giơ hai tay hứng nước đái uống. Chàng tò mò bước tới trước hỏi:
    - Cụ ơi, có chuyện gì xảy ra vậy?
    Bà cụ đờ đẫn nhìn chàng lắc đầu đau đớn nói:
    - Hỡi người khách lạ, người không biết rằng ở đây chúng tôi sắp chết khát rồi sao?
    Cát Linh sợ hãi hỏi lại:
    - Xin cụ hãy nói cho cháu biết rõ ở đây đã có chuyện gì không may xảy ra vậy? Cháu xin vui lòng giúp đỡ!
    Bà cụ thở dài:
    - Không giúp được đâu. Người nhìn xem ở dưới chân núi phía Tây kia có một dòng suối phải không? Bên cạnh còn có một cái hồ. Hồ nước đó chính là nguồn sống của chúng tôi. Ai ngờ đâu mấy hôm trước đây có một con mãng xà ở đâu tới, đến hôm nay nó ăn thịt mấy người rồi, không ai dám đến lấy nước nữa…
    Bà cụ già lại khóc. Cát Linh tức giận nói:
    - Để cháu đi. Xem nó làm gì được cháu?
    Chàng vừa nói vừa xách một chiếc thùng gỗ lớn bước đi. Bà cụ vội nhỏm dậy, định giữ chàng lại, nhưng không kịp nữa. Cụ đã kiệt sức ngã lăn xuống đất, hai tay bưng mặt khóc thảm thiết. Cát Linh rảo bước nhanh đến chân núi phía Tây, quả nhiên nhìn thấy một con mãng xà lớn nằm cuộn khúc dưới chân núi lặng lẽ nhìn Cát Linh. Cát Linh đàng hoàng múc đầy thùng nước rồi quay về chỗ bà cụ, sung sướng kêu lên:
    - Nước đã có, bà con lại uống nước!
    Mọi người liền vây ngay lấy, mỗi người một ngụm, chỉ lát sau đã uống cạn thùng nước. Tin này truyền đi rất nhanh. Gìa, trẻ, lớn, bé, xa gần đều chạy xô tới như một cơn gió để xin uống nước. Nhưng nước trong thùng không còn một giọt nào. Nhìn môi người nét mặt võ vàng, buồn rầu, Cát Linh thấy trong lòng nóng như lửa đốt, liền lập tức xách thùng chạy mau ra bờ hồ. Mãng xà khẽ nhúc nhích tấm thân nặng nề, trợn trừng hai con mắt đỏ như máu, khe khẽ rít lên. Cát Linh múc đầy thùng nước đem về coi như không có chuyện gì. Thùng nước thứ hai cũng chỉ trong nháy mắt đã cạn khô. Lúc này mọi người đã ba bề bốn bên kéo đến rất đông, ngay cả Khả Hán, cũng cưỡi ngựa tới,
    Cát Linh nói với mọi người:
    - Để bà con được yên ổn, tôi xin đi giết con mãng xà hại người này!
    Cát Linh vừa đi tới bờ hồ, con mãng xà đã giận dữ nói:
    - Hai lần ta đã làm ngơ cho nhà ngươi, giờ ngươi lại tới đây làm gì nữa? Được lắm, lần này ta sẽ nuốt sống ngươi!
    Nói đoạn, mãng xà há hốc cái miệng to như chậu máu phun ra luồng khói đen tanh nồng nặc, Cát Linh vội cúi xuống tránh khỏi, rồi lùi lại mấy bước, hét:
    - Hãy coi mũi tên của ta!
    Vút! Vút! Vút! Ba mũi tên đều bắn xuyên qua miệng con mãng xà. Làn khói đen lập tức biến mất, đuôi mãng xà quật xuống đất, "bạch bạch" nửa thân trên cất cao lên, nhưng một lát sau đã gục xuống chết trên mặt đất. Thấy Cát Linh dũng mãnh như vậy, Khả Hãn muốn giữ chàng lại, hứa sẽ cung cấp cho chàng rất nhiều bò, ngựa, phong chàng làm quan. Những mục dân được chàng cứu sống đều ứa nước mắt xin chàng ở lại, Cát Linh phải tìm lời khéo léo để tạ từ.
    Cát Linh từ biệt mọi người, rồi men theo lòng núi hẹp đi thẳng một mạch. Nhớ tới Thần mã, chàng cất tiếng gọi. Thần mã lập tức từ không trung bay xuống, hiền từ trước mặt chàng. Cát Linh cưỡi lên lưng Thần mã bay lên không trung. Không biết đã trải qua bao nhiêu ngày, cũng không biết đã đi bao nhiêu đường đất, Cát Linh nhìn thấy nhiều sự vật mới, đã gặp nhiều người tốt, người xấu. Cuối cùng chàng tới một đất nước xa lạ.
    Hôm đó, đúng ngày ba công chúa con gái của Quốc vương chọn chồng trên đài cao. Mở đầu là cuộc thi cưỡi ngựa, thi bắn cung. Mấy trăm chàng trai trẻ tuổi, mặc áo quần lộng lẫy đang chăm chú lắng nghe tiếng trống lệnh…
    "Tùng… tùng… tùng…" tiếng trống vang lên, cuộc đua ngựa bắt đầu. Cát Linh mỉm cười nhìn những chàng trai trẻ đang cưỡi ngựa phi như điên như dại.Mọi người đã phi xa rồi, chàng mới cất mình nhảy lên ngựa phi theo. Chỉ một lát, những con ngựa khác đã rớt lại phía sau, chàng tới đích giữa những tiếng hô reo nồng nhiệt của mọi người. Tiếp đó là cuộc thi ngựa bắn cung. Điều này làm cho Cát Linh có chút ít lo lắng vì vừa phi ngựa vừa bắn cung không phải là chuyện dễ, hơn nữa, chàng chưa hề luyện tập qua. Nhưng Cát Linh không hề nao núng, chờ mọi người bắn xong chàng mới bước ra cúi chào quốc vương, rồi lên ngựa phi thẳng về phía trước một đoạn đường, chàng quay lại nhìn đúng bia để bắn liền chín phát. Chín mũi tên đều xuyên qua hồng tâm. Quốc vương trong lòng rất kinh ngạc. Mọi người reo lên khen ngợi. Những người dự thi bắn cung đều đứng ngây ra như tượng gỗ, há hốc miệng không nói nên lời.
    Quốc vương cho gọi Cát Linh tới. Vừa thoạt nghe nói Cát Linh là một người đi săn nghèo khó ở nơi xa, Quốc vương xa xầm mặt xuống nói:
    - Thôi hãy cầm lấy! Đây là lễ vật mà ngươi được thưởng. Thôi ngươi đi đi.
    Cát Linh tức giận quay ra.
    Bây giờ đến lúc ba công chúa con của Quốc vương tung tú cầu chọn chồng. Tất cả mọi chàng trai trẻ đều theo lệnh của Quốc vương lần lượt đi qua dưới chân đài. Công chúa cả và công chúa hai đã chọn đúng được các quan đại thần. Nhưng công chúa thứ ba vẫn chưa ném quả tú cầu xuống cho ai. Đứng bên cạnh, Quốc vương sốt ruột nói:
    - Con, sao con chưa ném tú cầu đi? Chẳng lẽ không có ai hợp ý với con sao?
    Công chúa thứ ba hình như không nghe thấy lời Quốc vương nói, hai mắt nàng chăm chú nhìn xuống đài tìm người trai trẻ quý yêu. Cát Linh cưỡi lên lưng Thần mã là người cuối cùng đi dưới chân đài cao. Bỗng đâu một trái tú cầu ngũ sắc từ trên cao ném xuống đầu chàng. Lập tức có mấy cô con gái áo hồng chạy đến trước mặt chàng, chẳng nói chẳng rằng, kéo chàng đến gặp Quốc vương.
    Quốc vương nhận ra Cát Linh, quay đầu nhìn lại cô công chúa thứ ba rồi buồn bã nói:
    - Công chúa đã lựa chọn nhà ngươi thì nhà ngươi hãy đưa công chúa đi.
    Thấy công chúa thứ ba xinh đẹp, tính tình hiền hậu, cử chỉ khoan thai, điềm đạm, không như công chúa cả và công chúa thứ hai, Cát Linh thấy được người vợ như vậy cũng rất đáng quý, nên nhận lời.
    Cát Linh và công chúa thứ ba ở trong một túp lều vải cũ. Quốc vương chỉ cho vợ chồng mười con dê, ngoài ra không có gì khác. Cô công chúa thứ ba cũng chẳng để ý nữa, ngày ngày nàng chăm chỉ làm lụng, giúp người nghèo may vá thêu thùa. Hàng ngày Cát Linh vào tận những khu rừng xa săn bắn. Hai người sống một cuộc đời vui vẻ và hạnh phúc.
    Được ít lâu sau, bỗng nhiên Quốc vương mắc bệnh nặng. Các thầy thuốc nổi tiếng trong nước đến thăm bệnh đều nói rằng không thể cứu chữa được nữa. Bệnh tình của Quốc vương ngày càng nguy ngập, các đại thần lặng lẽ tránh đi nơi khác, còn lại một mình Quốc vương đau đớn rên la trên giường bệnh. Biết mình khó qua khỏi, Quốc vương liền lớn tiếng kêu hai phò mã và công chúa, nhưng chờ đến trưa vẫn chẳng thấy người. Té ra các phò mã và công chúa, nhân lúc Quốc vương bệnh tình nguy kịch đã lấy trộm rất nhiều của cải, châu báu của Quốc vương rồi bỏ trốn đi nơi khác.
    Cô công chúa thứ ba nghe tin Quốc vương bị bệnh nặng, lìên vội vã đến thăm hỏi. Thấy công chúa thứ ba, Quốc vương trong lòng buồn rầu, lệ ứa ròng ròng. Cô công chúa thứ ba chăm sóc Quốc vương một ngày một đêm, thấy bệnh tình không giảm, liền chạy về nhà báo cho Cát Linh rõ. Nhìn nét mặt sầu khổ của vợ, Cát Linh không yên lòng bèn an ủi nàng:
    - Không nên quá lo lắng, để ta nghĩ cách xem!
    Cát Linh bước ra ngoài, nói với con Thần mã vừa phi tới:
    - Hiện nay Quốc vương bệnh tình nguy kịch, ngươi biết ở đâu có linh chi không?
    Thần mã nói:
    - Biết! Ở đây đi thẳng về hướng đông, trên đỉnh một ngọn núi cao có một loại cỏ linh chi trị được bách bệnh. Nhưng trước hết, chủ nhân phải giết được con sư tử chín đầu, rồi sau đó mới lấy được cỏ tiên.
    - Cứ đi thử xem sao, biết đâu ta chẳng làm được!
    Cát Linh từ biệt vợ yêu quý, cưỡi lên lưng Thần mã, như một mũi tên lao vọt lên không, bay thẳng về phía đông. Lát sau, tới một trái núi chắn ngang đường đi, Thần mã dừng lại trên một tảng đá bằng phẳng ở lưng chừng núi, nói với Cát Linh:
    - Thưa chủ nhân đã tới rồi. Xin chủ nhân hãy lên một mình.
    Cát Linh nhìn đỉnh núi cao ngút tầng mây:
    - Ngươi không đưa ta lên được nữa à?
    Thần mã lắc đầu:
    - Thưa chủ nhân không được. Trái núi này tôi không bay tới.
    Không còn cách nào khác nữa, Cát Linh đành xuống ngựa mang hết tài leo núi, leo lên như một con khỉ. Một vách đá trơn tuột, không một chỗ bấu víu, phía trước nhô ra một cây tùng cổ thụ. Cát Linh nảy ra một kế, buộc một sợi dây thừng dài vào đuôi mũi tên rồi dùng hết sức bắn đi. Mũi tên cắm vào thân cây. Cát Linh kéo căng dây ra thử, rồi bám vào đó leo lên. Từ sáng sớm cho đến lúc mặt trời lặn, Cát Linh mới lên được tới đỉnh núi. Một con sư tử đen khổng lồ chín đầu đang nằm ngủ cạnh tảng đá xanh to, ngáy ầm ầm như sấm. Cát Linh vội lấy cung tên nhắm thẳng vào giữa đầu sư tử bắn một phát. Sư tử đau quá, tỉnh hẳn ngủ, nhìn Cát Linh gầm lên một tiếng làm núi rung đất chuyển. Cát Linh bị choáng váng, suýt ngã xuống đất.
    Nhân lúc kẻ thù chưa kịp chồm tới, Cát Linh đem hết dũng khí ra sức bắn mạnh liên tiếp tất cả số tên còn lại vào sư tử đen chín đầu. Sư tử đau quá rống lên, dùng hết sức nhảy chồm tới. Không ngờ dùng sức quá mạnh nên nó ngã lăn xuống dưới chân núi mà chết. Cát Linh tìm thấy hai cây cỏ tiên bên cạnh tảng đá xanh, liền nhổ hết cả, cẩn thận cất vào trong áo, rồi từ trên đỉnh núi tụt xuống. Trời đã tối khuya, Thần mã vẫn đứng yên chỗ cũ để chờ chàng. Về tới nhà, Cát Linh đưa cỏ tiên cho vợ và nói:
    - Hãy mau mau đem đến cho phụ vương!
    Quả nhiên Quốc vương vừa ăn xong cỏ tiên, chẳng những khỏi ngay bệnh, mà thân thể còn tráng kiện hơn nữa. Khi Quốc vương biết rằng chính người đi săn nghèo khổ kia không quản hiểm nguy tới tính mạnh lên đỉnh cao tìm cỏ tiên cứu sống được mình, Quốc vương vô cùng cảm động liền cho mời Cát Linh vào cung, nhất định nhường ngôi cho chàng.
    Cát Linh kiên quyết không nhận, chỉ xin Quốc vương cho phép đưa vợ trở lại quê hương. Quốc vương bằng lòng. Ngày hôm sau, Cát Linh và công chúa ngồi trên lưng Thần mã, vẫy tay từ biệt Quốc vương và toàn thể nhân dân ra tiễn đưa, rồi bay thẳng về quê hương thân yêu của mình.
     
  15. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Bryan Griffin

    Cuộc đời ông già Noël

    Dịch giả: Đào Thị Diễm Tuyết

    Chương 1

    Cơn Bão



    Ngày xửa ngày xưa, trong một ngôi làng nhỏ trên bờ biển Baltic, có đôi vợ chồng người đánh cá sống trong một căn nhà bằng đá với hai đứa con, cậu con trai năm tuổi là Ni-cô-la ( Nicolas ) , còn đứa em gái của nó là bé Kây-ti ( Katty )
    Một buổi chiều nọ, khi Ni-cô-la ngồi bên cửa sổ và đẽo một mẩu gỗ trôi dạt, cậu nhìn thấy sự thịnh nộ của cơn bão trên những tầng mây. Cậu có thể nghe được tiếng ầm ào của những con sóng đập vào bờ biển ở ngòai xa, ý nghĩ của cậu hướng về người cha đang phải chống chọi với cơn bão trên con thuyền đánh cá mỏng manh. Vài phút sau Ni-cô-la không còn có thể nghe thấy tiếng sóng đập xô nữa vì những tiếng đập rào rào của trận mưa đá dội lên tấm kính cửa sổ. Trời tối sầm lại khi Ni-cô-la hỏi mẹ bằng một giọng lo âu, "Mẹ, mẹ có nghĩ là bố sẽ được an tòan ở ngòai kia không?" Cậu bé không nhận được câu trả lời. Mẹ cậu quá bận bịu trong việc chăm sóc em bé Kây-ti đang lên cơn sốt nằm trong chiếc cũi. Cuối cùng bà đứng dậy với ánh mắt lo âu và bộc lộ tất cả nỗi niềm cho Ni-cô-la
    "Em gái của con đang bị sốt, mẹ không thể chờ bố con được nữa. Ni-cô-la, mẹ muốn con ở ngay bên cạnh em và đắp lên trán em những tấm vải ướt này để em hạ sốt. Mẹ sẽ trở về ngay khi nào có thể" Bà vừa nói vừa vỗ nhẹ lên cái đầu vốn hay đãng trí của Ni-cô-lạ Sau khi khóac lên người chiếc áo chòang bà vội vã bước ra ngòai trời đêm đen tối, một cơn gió mạnh thổi những bông tuyết xuyên qua cửa vào trong nhà ngay khi bà vừa bước ra
    Ni-cô-la trông chừng Kây-ti hàng giờ một cách kiên nhẫn, cho đến khi con bé đẩy hết đống chăn đắp sang một bên và khuôn mặt cô bé trở nên trắng bệch và cậu bé sờ vào cái trán bé nhỏ thấy mát dần. Khi đống tro trong lò lửa chuyển từ màu đen sang màu xám thì đầu của Ni-cô-la đã gục xuống và cậu bé đã ngủ ngay trên sàn nhà bên cạnh chiêc cũi.
    Đó là tư thế mà sáng hôm sau những người dân làng nhìn thấy cậu bé khi họ đến báo tin buồn là cha cậu đã bị cuốn mất hút vào trong cơn bão. Mọi điều còn chưa hết tồi tệ, họ cũng đã kể cho cậu bé biết rằng bà mẹ đáng thương của cậu đã bị chết vì một chiếc cây ngã đè lên người trên đường tới nhà bác sĩ. Giờ đây cái gia đình đã một thời hạnh phúc với bốn người giờ chỉ còn một mình Ni-cô-la. Cậu đã trở thành đứa trẻ mồ côi.
    hết: Chương 1,

    Chương 2

    Những món quà giáng sinh đầu tiên



    Giờ đây ai sẽ là người chăm sóc bé Ni-cô-la khi cậu chỉ còn lại một mình trơ trọi trên thế giới này? Những người đánh cá và những bà vợ của họ đã tụ họp để bàn về số phận của cậu bé. "Dĩ nhiên chúng ta sẽ chăm sóc cậu bé" một người nói "nhưng thật không dễ dàng gì khi đã phải nuôi năm đứa rồi mà cậu bé thì đang tuổi lớn"
    "Bây giờ thì đang giữa mùa đông những ngày tốt để ra khơi thì khi có khi không" một người khác nói "may mắn thì chúng ta mới đủ ăn cho đến mùa xuân"
    Lúc đó bà Bavran hiền lành phúc hậu nói: "Chúng tôi đã dự trữ thức ăn cho mùa đông này rồi, và chúng tôi cũng có một cái giừơng cũ, vì vậy chúng tôi có thể nhận cậu bé tội nghệp đó. Nhưng xin các bác nhớ kỹ cho là cuộc sống của một người đánh cá không bao giờ dễ dàng cả" bà nói thêm "nào ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra trong những năm sắp tới? Tôi nghĩ chúng ta phải chia sẻ với nhau vì Ni-cô-lạ Ơ렦#273;ây chúng ta có mười người, vì vậy mỗi chúng ta sẽ phải nhận nuôi cậu bé một năm, nhờ đó cậu bé sẽ được chăm sóc đến năm mười lăm tuổi, và hiển nhiên là cậu bé biết ra khơi trước khi cậu được mười lăm tuổi.
    Mọi người đều đồng ý, vì vậy Ni-cô-la đến sống với gia đình Bravan vào ngày trước Lễ Giáng Sinh một ngày. Sự náo nức của lũ trẻ chỉ làm cho Ni-cô-la cảm thấy khổ sở, và thế là cậu thu người trong một góc phòng, khóc nấc lên vì nỗi đau khổ vì mất mẹ, cha và em Kây-ti yêu quí, Ni-cô-la cố tránh nghe những âm thanh vui nhộn trong nhà. Thế nhưng cánh cửa đã chầm chậm mở ra, một bóng dáng nhỏ bé xuất hiện
    "Mày muốn gì" Nicholas hỏi với giọng gần như thô bạo. "Cút ngay, tao muốn một ở mình"
    Đứng ngay giữa cửa, miệng cậu bé run run: "thuyền của em bị gãy rồi". Rồi cậu bé bật khóc: "Đây là cái mới nhất cho lễ Giáng sinh đó, thế màbây giờ cha thì ra khơi rồi, mẹ thì không thể lắp lại được. Em biết làm sao bây giờ?" Cậu bé hỏi và trong bàn tay cầm chiếc thuyền đồ chơi bị gãy. Ni-cô-la đưa tay áo lên chùi nước mắt và cầm lấy mẩu đồ chơi bị vỡ. "Anh sẽ gắn nó lại cho em", cậu nói và quay trở lại trong cái góc đơn độc của mình.
    "Anh ra nơi có ánh sáng đây này" cậu bé Bavran nói
    Thế là Ni-cô-la bước vào nơi sáng sủa hơn, có nhiều đứa trẻ và nhiều tiếng cười hơn. Thóang chốc cậu quên mất nỗi buồn của mình.
    Nhiều tháng trôi qua, Ni-cô-la dần dần yêu mến những đứa trẻ nhà Bavran, Ốt-tô, Matgaret và Gretchen. Cậu thích chơi với chúng, nhưng cậu biết điều này sẽ không kéo dài được bao lâu. Khi ngày lễ Giáng sinh kế tiếp đang đến gần và gia đình Bavran bàn về việc Ni-cô-la sẽ rời họ, cậu bối rối và hỏang sợ, tuy nhiên những ý tưởng chính trong đầu cậu vẫn là làm thế nào cậu có thể đền đáp lại lòng tử tế của họ. Ni-cô-la ước ao cậu có thể cho tất cả mọi người một món quà, nhưng tất cả mọi thứ của cải cậu có được trên đời này chỉ là những chiếc áo cậu mặc, một chiếc áo chòang đặc biệt và những chiếc quần dài, một chiếc tủ cũ và một con dao bỏ túi trước kia là của bố cậu. Cậu không thể nào rời bỏ những thứ này. Bỗng dưng một ý tưởng kỳ diệu lóe lên trong đầu cậu. Cậu sẽ đẽo những đồ chơi cho lũ trẻ như trước kia cậu vẫn làm cho bé Kây-ti em gái nhỏ của cậu
    Vì vậy, hai tuần cuối cùng ở với gia đình Bavran, Ni-cô-la làm việc một cách bí mật trong nhà kho tối tăm, giấu ngay mẩu gỗ và con dao khi nghe có ai đến gần. Cậu làm việc cật lực suốt những ngày cuối cùng vì vậy tất cả những quà tặng đã hòan thành vào buổi sáng ngày lễ Giáng sinh. Hơn nữa, đó cũng là ngày mà mùa đông trước gia đình Bavran đã đem cậu về và giờ đây thời hạn đã hết, cậu sẽ phải chuyền sang gia đình khác
    Những đứa trẻ lặng lẽ khóc khi Ni-cô-la gói những thứ đồ đạc nghèo nàn của cậu trong khi ông Bavran đang chờ đưa cậu sang nhà gia đình Hans một người làm lưới. Đứa trẻ mồ côi đã lấy ra từ trong chiếc túi của mình ra những món quà thô sơ cậu đã làm và khi nhìn thấy lũ trẻ vui sướng với những món quà tặng, cậu hạnh phúc đến nỗi không còn muốn khóc nữa. Một cảm giác ấm áp lan tỏa trong trái tim cậu bé khi cậu nhìn thấy những khuôn mặt hạnh phúc của họ và nghe thấy tiếng reo vui cám ơn của họ.
    "Giáng Sinh năm sau anh sẽ làm cho các em những món đồ chơi đẹp hơn" Ni-cô-la nói với giọng quả quyết. "Các em hãy chờ xem nhé"
    Với lời hứa hẹn đó, Ni-cô-la giờ đây đã 6 tuổi, dũng cảm từ biệt họ, dáng dấp bé nhỏ quay đi từ biệt khung cảnh hạnh phúc và chuẩn bị đối diện với hòan cảnh chưa biết ra sao của năm sắp tới với gia đình mới. Khuôn mặt của cậu bé buồn xo, tuy nhiên đôi mắt màu xanh trong sáng vẫn ấm áp với những ý nghĩ hạnh phúc mà cậu vừa để lại sau lưng.
    "Tốt thôi" cậu nghĩ về mình khi họ đến gần ngôi nhà của người đan lưới: "Có thể năm đứa trẻ ở đây cũng sẽ tử tế với mình như gia đình Bavran và mình có thề làm những đồ chơi cho chúng. Giáng Sinh có lẽ là lúc hạnh phúc của mình ngay cả khi đó là ngày mình phải dời đi.
    hết: Chương 2,

    Chương 3

    Cuộc đua xe trượt tuyết



    Tại ngôi nhà của người làm lưới, hầu hết những buổi chiều mùa đông bọn trẻ học cách quấn và gỡ rối đống dây, vá những chiếc lưới đơn giản. Ni-cô-la khám phá ra một cách tách những sợi tơ của cây gai dầu màu vàng cậu có thể làm được mái tóc giống như thật cho những con búp bê bằng gỗ mà cậu thường đẽo gọt khi rảnh rỗi. Khi cậu từ giã họ vào cuối năm, năm đứa trẻ nhà làm lưới đã tìm thấy năm món đồ chơi nhỏ đang nằm chờ chúng trên chiếc lò sưởi. Ni-cô-la cũng không quên lời hứa của cậu với ba đứa trẻ nhà Bavran, nên cậu làm một chuyến đi đặc biệt đến ngôi nhà của họ vào buổi sáng Giáng Sinh hôm ấy với những quà tặng
    Khi nhiều năm trôi qua, kỹ năng của Ni-cô-la ngày càng tăng lên, với con dao của người chạ Và tất cả những đứa trẻ đều trông đợi một món quà của Ni-cô-la vào ngày Giáng sinh. Không một đứa trẻ nào bị thất vọng, bởi vì nhà điêu khắc bé nhỏ ấy luôn luôn biết rõ điều mà mỗi đứa trẻ ao ước.
    Chỉ còn một tuần nữa là Giáng Sinh. Ni-cô-la_ giờ đây đã mười bốn tuổi_đến sân trường nhìn thấy tất cả những bạn bè trong nhóm đang trò chuyện thật sôi nổi.
    "Có chuyện gì thế?"
    "Sắp có một cuộc đua xe trượt tuyết vào sáng ngày Giáng Sinh" Ốt-tô nói. "Xuất phát từ cổng nhà vị điền chủ trên đỉnh đồi và đích là cây thông lớn ở phía bên kia nhà ông ấy"
    "Còn giải thưởng" Han ngắt lời, "là một chiếc xe trượt mới với phụ tùng bằng kim lọai"
    "Ni-cô-la, cậu sẽ tham gia chứ? Xe trượt của cậu cũng không tồi mà, cho dù cậu... "
    "Sụyt, Jan", một giọng khác thì thầm.
    "Thật không hay khi nhắc Ni-cô-la nhớ lại rằng cậu ấy đã phải tự làm chiếc xe trượt tuyết trong khi cha chúng mình làm cho mình"
    Nhưng Ni-cô-la không lắng nghe cuộc nói chuyện. Cậu suy nghĩ một cách chóng vánh. Cuối cùng cậu quay sang mọi người và hỏi :"Khi nào cuộc đua bắt đầu?"
    "Đúng 9 giờ vào sáng ngày Giáng sinh"
    Ni-cô-la lắc đầu một cách lưỡng lự. "Tớ không biết tớ có thể đua được không" Cậu nói chầm chậm. Cậu đang nghĩ đến cái tủ đầy ắp đồ chơi mà cậu sắp sửa phân phát cho tất cả các trẻ em vào sáng ngày Giáng sinh, đặc biệt là một cái cho Elsa, con gái người đốn củi, cô bé sống ở bên ngoài khu làng
    "Có lẽ nếu mình thức dậy thật sớm và thật vội vã" Ni-cô-la nói với chính mình, lúc đó cậu chợt nhận ra đường đua sẽ đi ngang qua ngay ngôi nhà của Elsạ Con búp bê sẽ được thả rơi trong vài giây, cho phép cậu bé tiếp tục đua mà không mất chút thời gian nào.
    "Tôi sẽ có mặt ở đó Tôi sẽ có mặt ở đó! Đúng 9 giờ và tốt hơn là các bạn hãy đề phòng mất cái giải thưởng đấy!" Cậu la lên một cách khoái trá. Buổi sáng ngày Giáng sinh bầu trời sáng và đầy nắng, đầy ắp những bông tuyết tươi đẹp. Ni-cô-la đã thức dậy trước khi mặt trời mọc, và như thường lệ cậu đặt những đồ chơi trước cửa của mọi căn nhà. Khi bọn trẻ bắt đầu lên đường với những chiếc xe trượt của chúng chuẩn bị cho cuộc đua, toàn bộ dân làng theo sau để xem cuộc đua một cách đầy hào hứng. Nhưng không có một dấu hiệu nào của Ni-cô-lạ Thật không may, một trong những bánh lăn bằng gỗ của chiếc xe trượt đã bị gãy dưới sức căng của bao đồ chơi nặng. Khi cậu bé tuyệt vọng đang cố buộc lại bằng sợi dây, cậu nghe thấy âm thanh của chiếc kèn vang lên từ trên đỉnh ngọn đồi ngay nhà vị điền chủ. Cuộc đua đã bắt đầu. Ni-cô-la vô cùng tuyệt vọng bởi vì cậu biết mình đã lỡ một cơ hội giành được chiếc xe trượt tuyết mới, nhưng dù sao cậu cũng phải đi ngang qua ngôi nhà của người đốn củi đề phát quà cho Elsa, cậu quay lại dựng chiếc xe trượt méo mó lên và lao về phía đỉnh đồi. Khi cậu chạm đến điềm xuất phát, Ni-cô-la nhìn thấy bạn cậu đang tăng tốc ở ngoài xa, trông giống như một đốm đen nhỏ.
    "Đi nào Ni-cô-la" dân làng gọi, "chúng ta sẽ đẩy cho cháu khởi động. Một, hai, bạ Nào đi"
    Ni-cô-la bay xuống ngọc đồi, mặt cậu buốt vì gió, cậu trượt mỗi lúc một nhanh, bánh lăn bằng gỗ hầu như không chạm vào nền tuyết cứng. Cái đốm đen đã to dần và Ni-cô-la biết cậu sẽ bắt kịp những đứa trẻ khác. Lũ trẻ hiện ra càng lúc càng lúc càng to dần đến khi Ni-cô-la gần như ngã ra khỏi chiếc xe chúng thật sự kinh ngạc. Chúng đã dừng lại và đợi cậu ngay trước nhà của người đốn củi.
    "Nhanh lên Ni-cô-la" Jô bé nhỏ động viên "Chúng tớ đã chờ cậu trên đỉnh đồi, nhưng ông điền chủ nóng ruột nên thổi còi bắt chúng tớ xuất phát. Cậu biết là chúng tớ sẽ chờ cậu nếu có thể"
    "Đúng thế , Ốt-tô hét lên "bây giờ đi đến thả con búp bê đó trước cửa nhà Elsa, nào đi! Từ bây giờ chúng tớ sẽ đợi cậu! Trước hết phải cố vì một chiếc xe trượt mới "
    Với một tiếng hò ồn ả, hai mươi đứa trẻ la lên và cuộc đua lại tiếp tục trên thung lũng đóng băng xuyên qua những quãng đường đất họ phải xách chiếc xe trượt lên, ngoằn ngòeo dưới những hàng cây và một đọan dài khó khăn gắng sức trèo lên đồi phía sau nhà vị điền chủ. Ni-cô-la chỉ còn thấy một đứa trẻ phía trước mình khi cây thông lớn xuất hiện trong tầm mắt.
    Giờ đây cậu đang băn khoăn xem thử cần bao nhiêu tiền cho chiếc xe trượt mới để đi phân phát những món quà Giáng sinh. Ni-cô-la trượt nhanh đến nỗi mà cậu nghĩ rằng trong giây lát cậu sẽ xuyên qua cây thông tách nó ra làm đôi, nhưng ngay lúc ấy cậu lái chiếc xe sang một bên và nhảy ra. Khi cậu tháo chiếc mũ len ra, cậu nghe những tiếng reo hò của dân làng. Cậu đã thắng cuộc đuạ Điều ấy giống như một giấc mơ đã trở thành sự thật.
    Tất cả những đứa trẻ tháp tùng Ni-cô-la về nhà trên chiếc xe trượt tuyết mới. Mỗi bà mẹ, mỗi người cha tay họ đi qua đều vẫy tay, mỉm cười đầy tự hào sung sướng như thể con của họ đọat giải.
    hết: Chương 3,

    Chương 4

    Buổi tối trước đêm Giáng Sinh



    Sau khi dân làng giải tán về nhà, Ni-cô-la dừng lại ngay trước cửa ngôi nhà nơi cậu đã sống năm trước. Cậu thấy bên cạnh mình người đàn ông gầy gò ảm đạm, như thể chẳng bao giờ có được nụ cười trong đời ông tạ Đó là Bertram Marsden, người khắc gỗ trong làng, người mà tất cả những đứa trẻ đều gọi là "ông khùng Marsden" bởi vì ông sống một mình, hiếm khi trò chuyện với ai, lại hay rượt đuổi những đứa trẻ ra khỏi cửa với cái nhìn đe dọa và những lời nói cục cằn.
    "Chắc mày đã quên mất là hôm nay mày dời đến nhà tao?" Marsden hỏi một cách thô lỗ.
    Ni-cô-la ngước lên. Ơ không, cậu không quên, và cậu biết rất rõ vì sao Marsden đề nghị nhận cậu. Lý do duy nhất ông quyết tâm, thậm chí nôn nóng, nuôi nấng bảo bọc Ni-cô-la bởi vì hầu hết năm năm nay ông đã theo dõi công việc mà cậu đã làm với con dao cũ, ông nhận ra rằng Ni-cô-la sẽ là người tập sự giỏi và ít tốn kém cho ông.
    Một lần nữa, Ni-cô-la gói ghém những đồ đạc ít ỏi lên trên chiếc xe trượt mới, nói lời tạm biệt với gia đình cậu sắp từ giã, và theo về ngôi nhà tiều tụy của ông khùng Marsden ở ngoài rìa làng.
    Khi bước vào ngôi nhà, Ni-cô-la bước ngay vào trong gian làm việc chính của người thợ khắc gỗ. Ở đây cậu nhìn thấy chiếc ghế dài, bàn làm việc, những dụng cụ của ông và một số gỗ đã được phân lọai
    Marsden chỉ cái cửa trong góc và nói: "Mày có thể cất những đồ đạc trong đó".
    Ni-cô-la vẫn đứng yên giữa căn phòng hỗn độn, nhìn quanh mất hết tinh thần.
    "Có một cái giường để mày ngủ. Tốt hơn là mày cất chiếc xe trượt xinh đẹp kia đi chọ Chúng ta không có thì giờ mà nô đùa trên tuyết. Thôi nào Ni-cô-la, đừng có đứng trố mắt ra như thế. Cất mọi thứ của mày đi, ở đây mày còn phải học nhiều. Tao sẽ làm cho mày trở thành một người thợ mộc giỏi. Không còn thì giờ cho những con búp bê ngốc nghếch và những đồ chơi bằng gỗ nữa đâu. Mày sẽ phải kiếm sống nuôi thân. Ồ nhân tiện mày cũng nói cái lũ trẻ vẫn lẽo đẽo theo mày tránh xa nơi này ra, mày có hiều tao nói gì không hở thằng nhóc?
    Ni-cô-la cúi đầu lặng lẽ làm công việc cất đặt những thứ đồ đạc của mình.
    Từ đó, Ni-cô-la bắt đầu làm việc với lão thợ khắc già điên khùng và nhận ra rằng con dao cha cậu để lại là một thứ dụng cụ thô thiển không làm sao có thể so sánh với những con dao và những cái đục bén ngót xinh đẹp mà Marsden đang dùng. Cậu học việc hàng giờ liền, còng lưng trên chiếc ghế dài bên cạnh người thầy của mình, kiên nhẫn với một mẫu gỗ đến khi nó mỏng như một miếng gương. Ni-cô-la rất buồn vì không thể quen với sự cô đơn khủng khiếp trong ngôi nhà này và mong nhớ những ngày sống cùng những bạn bè thân thiết đầy ắp những tiếng cười xung quanh. Sau nhiều tháng trôi qua, để cho Marsden không nhận thấy, Ni-cô-la dần dần lau chùi và đánh bóng ngôi nhà trong chừng mực mà ông chủ có thể tha thứ được.
    Một đêm nọ khi Marsden ngồi bên bếp lửa, lặng lẽ hút thuốc với chiếc tẩu dài cong của ông, ông nhận thấy Ni-cô-la vẫn khom lưng mê mải làm công việc gì đó.
    "Lại đây chú bé" ông nói với cái giọng cộc lốc nhưng có vẻ tử tế "Tao không phải là một ông thầy khắc nghiệt đến nỗi bắt mày làm việc cả ngày lẫn đêm như thế. Mày đang làm gì thế hử. Sao không đi ngủ đi?
    "Đó chỉ là một miếng gỗ nhỏ bác ném đi thôi mà" Ni-cô-la vội nói, "Cháu đang cố làm một bản sao chiếc ghế mà bác làm hôm nay, nhưng chỉ là một cái ghế nhỏ_ một món đồ chơi". Cậu bé kết thúc và bỗng hoảng sợ, bởi vì cậu biết rất rõ rằng chữ "đồ chơi" đối với ông già Marsden là ám chỉ đến bọn trẻ. Vì một vài lý do lạ lùng nào đó mà khi nói đến bọn trẻ với sự có mặt của ông là ông rơi ngay vào cơn thịnh nộ dữ dội.
    Tuy nhiên, đêm nay ông lại tỏ vẻ bằng lòng với cái nhìn buồn bã: "Để tao xem thử. Hừm, cũng không đến nỗi tồi đấy, nhưng chỗ gồ lên mặt ghế bên này to hơn bên kia. Đây này, đưa tao cái con dao nhỏ". Ni-cô-la vội vàng đưa cho ông con dao nhỏ và nhìn người thợ già điêu luyện khéo léo chữa lại cái chỗ vụng về ấy một cách khâm phục.
    "Đấy" cuối cùng Marsden nói và đưa cái ghế nhỏ ra xa để xem xét, "phải làm như thế mới được"
    Thế rồi, thay vì đưa chiếc ghế nhỏ cho Ni-cô-la, người đang mong đợi nó, ông vẫn giữ nó trong tay với một ánh mắt già nua buồn vời vợi khi ông nhớ đến những món đồ chơi ông đã làm cho hai đứa con trai của ông cách đây nhiều năm. Một nụ cười nở dần trên khuôn mặt già nua mệt mỏi làm Ni-cô-la chớp mắt nhìn. Phải, một nụ cười thật sự đang kéo xếch hai khóe miệng nghiêm nghị mà nhiều năm nay vẫn trễ xuống.
    Marsden ngước lên và nhìn vào khuôn mặt ngây thơ với đôi mắt xanh.
    "Cháu là một cậu bé ngoan, Ni-cô-la ạ, và.." ông nói gần như e thẹn, bởi vì không dễ dàng gì khi một người đàn ông thô lỗ lại thay đổi quá mau chóng như vậy, "Ta nghĩ, ta sẽ giúp cháu làm những món đồ nhỏ bé này. Chúng ta sẽ cùng làm trong những buổi chiều mùa đông dài này, phải không Ni-cô-lả Cháu có thể phân phát chúng vào ngày Giáng sinh trên chiếc xe trượt tuyết xinh đẹp của cháu. Có lẽ, đến khi ấy cháu có thể thích ở lại và sống với ta trong năm tới". Ông già nói thêm với một giọng nhẹ nhàng như thể nài nỉ.
    Ông nắm chặt lấy cánh tay Ni-cô-la gần như dữ dội, một vẻ thanh thản dần dần hiện ra trên khuôn mặt của ông già cô đơn khi cậu bé trả lời đơn giản: "Vâng, dĩ nhiên rồi thưa thầy, con sẽ ở lại đây chừng nào thầy muốn".
    Từ đó, mỗi buổi chiều mùa đông, người ta thấy hai mái đầu cắm cúi trên chiếc ghế làm việc. Một mái tóc dầy màu xám, bờm xờm và một mái tóc mượt mà vàng óng của cậu bé. Họ tất bật suốt tuần trước lễ Giáng sinh và với sự giúp đỡ của ông già trong việc khắc chạm, Ni-cô-la có thể thêm vào những chi tiết sinh động trong những món đồ chơi và làm chúng đẹp hơn bất cứ đồ chơi nào cậu đã làm trước kia. Cậu sơn những khuôn mặt búp bê để đôi mắt chúng màu xanh, gò má và đôi môi màu hồng thắm như những cô gái nhỏ, những người chẳng bao lâu sẽ ôm siết chúng trong taỵ Những bộ bàn ghế nhỏ cũng được đánh bóng bằng những màu nhẹ nhàng mà Marsden vẫn dùng cho những sản phẩm của ông; những chiếc xe trượt tuyết và những chiếc thuyền nhỏ bé cũng sáng lên với những màu sơn mới, màu đỏ, vàng, xanh lá cây và xanh da trời.
    Chỉ còn hai đêm trước lễ Giáng sinh, mọi việc đều hoàn tất. Mặc dù mỗi món đồ chơi cho mỗi đứa trẻ trong làng đều được gói lại trên chiếc xe trượt tuyết mới, Ni-cô-la và ông già vẫn cứ làm việc trên chiếc ghế. Lần này, họ cố hoàn thành cái tủ mà một quí bà giàu có ở cách làng 20 dặm đã đặt làm. Khi cái tủ được làm xong thì đã quá muộn vào ngày trước đêm Giáng sinh.
    "Ta xin lỗi" ông già Marsden nói khi đọc những ý nghĩ của Ni-cô-lạ" Ngày mai con sẽ phải mang nó đi. Lẽ ra chính ta phải đi, nhưng bây giờ ta không còn khỏe như trước nữa. Chuyến đi mất cả ngày, vượt qua hai mươi dặm, rồi con phải ở lại đó vài giờ cho lũ ngựa nghỉ ngơi, và vượt qua hai mươi dặm trở về.
    "Giá mà bà ấy không muốn chiếc tủ vào ngày mai" Ni-cô-la đáp
    "Nhưng mà", người thầy trả lời," Chúng ta đã hứa rồi, nó phải được giao đúng hẹn. Còn những đồ chơi thì đâu có hứa hẹn bây giờ ?"
    "Không, nhưng cháu phải tặng cho chúng nó" Ni-cô-la ngắt lời.
    "Ta sắp nói đây cậu bé, chúng ta đâu có hứa hẹn với chúng vào ngày Giáng Sinh. Bây giờ những đứa trẻ đã đi ngủ sớm. Tại sao cháu lại không thể?"
    "Đúng rồi, sao lại không!" Ni-cô-la nhảy cẫng và hét lên: "Danh sách của mình đâu rồi, xe trượt của mình đâu rồi. Mình phải vội vã lên mới được".
    Bên ngoài, ngôi làng đang im ngủ. Không ai thấy một bóng dáng đơn độc, chùm kín để khỏi rét, đang lướt xe trượt từ nhà này đến nhà khác, để lại những món đồ chơi nhỏ trước cửa cho đến khi hết sạch. Khi Ni-cô-la đi xa đến ngôi nhà cuối cùng thì lúc đó đã ba giờ sáng ngày Lễ Giáng Sinh. Chiếc xe trượt của cậu sáng lên, nhưng đôi chân của cậu thì quá mệt mỏi vì lê bước trong tuyết dày, nhưng cậu rất hạnh phúc vì ngày hôm nay là Lễ Giáng sinh và một lần nữa cậu đã giữ được lời hứa với những đứa trẻ trong làng
    hết: Chương 4


    Chương 5

    Chiếc vớ giáng sinh đầu tiên



    Ni-cô-la đã không rời bỏ người thợ điêu khắc vào Giáng Sinh năm ấy, và những năm sau nữa. Cậu ở lại đề học, để trở thành người thợ giỏi như ông thầy của cậu. Marsden nhận ra giờ đây ông đã quá già đến nỗi không thể suốt ngày khắc đẽo, ông quyết định nghỉ ngơi và về sống với một người em gái ở làng bên cạnh. Ông rất tự hào về Ni-cô-la và biết rằng cậu có thể nối nghiệp ông. Vì vậy giờ đây Ni-cô-la đã nổi danh là: "Ni-cô-la khắc gỗ"
    Ngôi làng bây giờ cũng khá rộng và đông đúc đến nỗi Ni-cô-la không biết hết mọi trẻ em trong làng theo cách cũ, bây giờ chỉ còn duy nhất một cách cậu có thể nói nếu nhà nào có những trẻ em thì trẹo một cái túi trên cửa vào trước đêm Giáng Sinh. Với sự gia tăng trẻ em, chiếc xe trượt nhỏ bé của cậu không thể chở nỗi số lượng đồ chơi khổng lồ và thế là Ni-cô-la phải sử dụng chiếc xe ngựa của ông già Marsden để kéo. Việc để những chiếc túi được trang hoàng rực rỡ đầy yến mạch trên cửa trở thành thông lệ đối với trẻ em. Trong khi con ngựa ăn những hạt yến mạch, Ni-cô-la sẽ bỏ vào bao đầy những đồ chơi mà cậu đã làm.
    Cuộc sống của Ni-cô-la không phải chỉ là tất cả những công việc đó. Một ngày kia từ chiếc ghế làm việc cậu nhìn thấy vài đứa trẻ đang chơi đánh trận bằng những quả cầu tuyết trên nền tuyết mới. Chúng trông rất vui nhộn đến nỗi cậu không thể cưỡng nỗi ý muốn tham gia vào. Một trong những đứa trẻ mà Ni-cô-la chưa gặp bao giờ đang đứng nhìn một cách nhút nhát.
    "Lại đây," Ni-cô-la nói, đưa cho cậu bé một nắm tuyết lớn, " thử cầm lấy cái này và cứ coi như cái đích ở đàng kia"
    "Ồ không! Em phải kiếm củi và về nhà thật nhanh chóng" cậu con trai bé nhỏ vừa nói vừa kéo chiếc xe trượt trống không đi xa dần.
    "Đứa trẻ mới đó là ai thế?" Ni-cô-la hỏi những đứa trẻ khi cậu bé đã đi khá xa.
    "Đó là Frederick. Nó mới đến đây. Một tai nạn ngoài biển làm bố nó bị liệt và bây giờ suốt ngày cứ nằm trên giường. Gia đình nó thật sự nghèo đến nỗi Frederick và em trai nhỏ Wilhelm của nó không có thì giờ để chơi đùa, bởi vì chúng phải giúp đỡ mẹ"
    Sau khi Frederick kéo xe củi về nhà, tâm trí nó chỉ nghĩ đến một điều duy nhất. Cậu đã nghe khá nhiều về Ni-cô-la và chuyện Ni-cô-la đặt những đồ chơi vào trong những chiếc túi treo trước cửa nhà. Chỉ còn vài ngày nữa là đến lễ Giáng Sinh và Frederick có thể tưởng tượng ra khuôn mặt của em trai mình nếu nó có đồ chơi mới vào buổi sáng ngày lễ, nhưng làm sao cậu có thể sắp xếp để Ni-cô-la biết rằng có một đứa nhỏ trong nhà? Cậu cố tìm kiếm khắp nơi một chiếc túi nhưng chẳng có.
    Vào đêm trước ngày lễ Giáng sinh cậu cố gợi ý cho mẹ quan tâm đến vấn đề này.
    "Mẹ Ơi" cậu chậm rãi bắt đầu."Mẹ, mẹ có nghĩ là chúng ta có một cái túi trong nhà không?"
    "Một cái túi! Loại túi gì thế Frederick?" Bà hỏi với vẻ ngạc nhiên.
    "À, thật ra đó là một cái túi thêu, nhưng con tin rằng bất cứ loại túi gì cũng được. Chúng ta sẽ treo nó bên ngoài cửa vào đêm trước ngày lễ Giáng Sinh, khi Win thức giấc vào ngày mai, trong đó sẽ có một món đồ chơi xinh đẹp cho em. Ni-cô-la khắc gỗ sẽ làm cho tất cả các trẻ em trong làng và con nghĩ giá như có một cái túi ?"
    Mẹ cậu thở dài, "Những thứ như bột và khoai tây đựng vào trong những chiếc bao, còn những thứ túi này nhiều năm rồi chúng ta không còn thấy. Có Chúa chứng giám, với tất cả những lo toan khác, mẹ nào có thì giờ mà thêu một cái túi. Dù sao thì mẹ cũng dám chắc rằng anh chàng Ni-cô-la này sẽ chẳng đến với những đứa trẻ nghèo khó như các con đâu. Nào, đưa em đi ngủ đi. Điều đó có thể làm cho đầu óc con thoát khỏi những ý nghĩ ngốc nghếch đấy".
    Qúa buồn bã Frederick cố dứt bỏ ý nghĩ đặt một chiếc túi trước cửa nhà đón món quà Giáng Sinh cho cậu em trai bé nhỏ, nhưng cậu không thể quên những gì về Ni-cô-lạ Cậu nghĩ đến những điều cậu đã trông thấy ở ngoài rừng, một con người vui vẻ tử tế. Cậu cảm thấy chắc chắn rằng Ni-cô-la sẽ không đi quên khi đi ngang nhà một đứa trẻ nghèo khó. Cậu suy nghĩ mãi, và trong khi ngồi bên lò sưởi giúp em thay quần áo, cậu kéo chiếc vớ len màu sáng ấm áp của em. Khi Wilhelm đưa chiếc vớ lên, cậu nói đùa, "Bây giờ nó sẽ đựng những thứ quà tặng giống như bất kỳ những chiếc túi thêu nào. Sao lại không nhỉ? Cậu thì thầm với chính mình. "Tại sao lại không làm như thế? Và cậu nhảy lên lao ra cửa và buộc ngay chiếc vớ lên cánh cửa.
    Một lần nữa Giáng sinh lại đến, mọi vật trong làng đều được tuyết bao phủ, lấp lánh dưới ánh trăng mùa đông. Không còn một ánh đèn đang thắp nào trong làng và mọi người đều say giấc chỉ trừ Ni-cô-la, dĩ nhiên là đang bận bịu đi từ nhà này đến nhà khác để làm cho những chiếc túi căng phồng quà tặng. Anh dừng lại trước cửa nhà Frederick. Dưới ánh trăng sáng anh thấy một vật gì đó trông buồn cười đung đưa trên cửa. Một chiếc vớ trẻ em! Ni-cô-la lặng lẽ cười một mình, một nụ cười dịu dàng đôn hậu, rồi với tay vào trong túi và nhét đầy vào trong chiếc vớ nhỏ bé, thế rồi vung roi với tiếng leng keng của chiếc xe trượt anh đi qua nhà bên cạnh theo lộ trình của mình.
    Khi Frederick mở cửa vào sáng ngày Giáng sinh, cậu và em trai nhỏ nhìn thấy không chỉ một hoặc hai hoặc ba món đồ chơi. Ngay trong đáy chiếc vớ, cậu nhìn thấy 5 đồng tiền to, đủ để cả nhà sống suốt mùa đông. Những đứa trẻ la lên vì sung sướng, trong khi cha chúng cũng ngồi trên giường đầy hân hoan. Đôi mắt sáng của mẹ chúng tràn đầy những giọt nước mắt hạnh phúc khi bà trông thấy Frederick và em ghì chặt nhau, đó là chiếc vớ Giáng Sinh đầu tiên.
    hết: Chương 5

    Chương 6

    Bộ đồ màu đỏ



    Vị điền chủ Kenson, người giàu có nhất trong làng, một ngày nọ đánh xe đến nhà Ni-cô-la để đặt một chiếc tủ mới có ngăn kéo. Ni-cô-la bị lôi cuốn bởi âm thanh của những chiếc chuông bạc, những tiếng chân nai trên tuyết. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ và choáng ngợp trước dáng vẻ của vị điền chủ ngồi trên chiếc xe trượt màu đỏ kéo bởi hai con tuần lộc xinh đẹp. Tên chúng là Donner và Blitzen bởi vì chúng đi rất nhanh như sấm và chớp. Ni-cô-la nhìn hai con vật xinh đẹp đó thầm nghĩ sẽ nhanh hơn nhiều nếu chúng kéo anh đi vòng quanh làng vào đêm trước Lễ Giáng Sinh so với con ngựa Lufka già nua, nhiều năm trôi qua ngày càng chậm chạp hơn.
    Suốt thời gian vị điền chủ nói chuyện, anh cứ nhìn chăm chú một cách ngưỡng mộ vào bộ đồ màu đỏ bằng da nai ông đang mặc. Chiếc áo choàng hơi dài và có dây đeo ngang lưng, chiếc quần dài rộng và gấp vào trong đôi giày da đen bóng. Cổ áo, cổ tay và lai áo cũng như chiếc mũ xinh đẹp vừa vặn được viền quanh bằng lông chồn trắng mềm.
    Sau khi vị điền chủ rời khỏi, Ni-cô-la bắt tay vào công việc nhưng đầu óc anh cứ vương vấn vào bộ đồ đỏ đẹp đẽ kia.
    "Tại sao mình lại không thể có một bộ như thế nhỉ?" Anh nói một mình "Đã lâu lắm rồi mình đi khắp nơi mà ăn bận giống như đứa trẻ mồ côi hơn là một người thợ khắc gỗ".
    Ngày hôm sau Ni-cô-la đến thăm nhà bà góa Arpen, một thợ may lành nghề nhất trong làng.
    "Cháu muốn một bộ đồ màu đỏ, bác Arpen ạ". Anh mở lời "Bác biết bộ đồ mà vị điền chủ mặc chứ?" Người đàn bà gật đầu. "Nhưng cháu không thể kiếm được loại da nai mềm mịn như thế và cháu cũng không thể có lông chồn thật được, vậy bác có gợi ý gì không?"
    Người đàn bà nghĩ ngợi giây lát rồi nói:
    "Chúng tôi có những súc vải thô mà tôi có thể nhuộm đỏ bằng quả dâu tây. Còn với cổ và tay ta dùng lông thỏ thì trông cũng tuyệt lắm"
    "Vậy thì làm đi" Ni-cô-la reo lên, và anh đổ một nắm những đồng tiền vàng lên bàn. "Số tiền này chi phí cho vật liệu và tiền công của bác".
    "Nhưng nhiều quá đấy" bà kêu lên, "Chỉ một nửa số tiền này đủ giúp cho cả nhà tôi sống suốt mùa đông này"
    "Hãy cất đi bác ạ" Ni-cô-la mỉm cười "Bác đã làm việc cực nhọc trong một thời gian dài, và cháu không là người sẽ chết đi với cái tủ đựng đầy tiền vàng chôn dưới lò sưởi đâu.
    Người góa phụ đứng trước cửa nhìn theo Ni-cô-la đang đánh xe ra đi trên tuyết. "Thật là một con người tốt bụng" bà nói thầm, những đồng tiền vàng leng keng trong túi dưới những ngón tay của bà. "Một con người cực kỳ hào hiệp". Thế rồi, bà mua những súc vải về nhà và nhuộm bằng một màu đỏ sáng, nhưng một điều kỳ lạ đã xảy ra. Bà không có ni mẫu theo đúng như bộ duy nhất mà Ni-cô-la đang mặc, vì vậy bà cắt và may theo hình ảnh một con người tử tế luôn hiện diện trong mắt bà. Ni-cô-la tuy không phải là người thấp nhưng anh hơi ốm. Thế nhưng khi bà Arpen cắt và may, bà nghĩ là bà đang may cho một con người vô cùng nhân ái nên bà đã may một bộ đồ vừa vặn với trái tim của anh thay vì vừa với khổ người của anh.
    Vào ngày bộ đồ được hoàn thành xong với những mũi khâu ân cần trang trí trên viền lông thỏ mềm mại, Ni-cô-la đến để mặc thử. Anh vào trong căn phòng thay đồ nhỏ bé và vài phút sau ra ngoài, anh đã tạo nên một bức tranh kì diệu làm sao.
    "Cháu không nhận ra mình nữa bác Arpen à" Ni-cô-la nói một cách hồ nghi, "bởi vì chiếc gương nhỏ trong phòng chỉ soi được từng phần, nhưng dường như nó hơi rộng thì phải", anh nói một cách khéo léo tránh không làm tổn thương tình cảm của bà.
    Bà góa phụ nhìn anh và bật khóc. "Ồ, Ni-cô-la, bác đã làm hỏng bộ đồ của cháu rồi. Bác làm hư mất rồi. Bác chỉ nghĩ cháu cao lớn hơn kia. Ôi, bác biết làm sao bây giờ ?"
    "Ấy ấy, bác đừng lo lắng về nó. Nhìn chiều dài nè, trông được rồi. Duy chỉ có điều là cháu không được mập lắm thôi. Tại sao cháu lại không ăn tất cả những thức ăn mà dân làng gởi cho cháu nhỉ, cháu bảo đảm là trong vài tháng nữa bác sẽ không nhận ra cháu. Còn những ống quần cũng sẽ tốt thôi ngay khi cháu mua một đôi ủng và nhét chúng vào, cái mũ đẹp làm sao nó vừa vặn và ấm áp với dải lông này."
    Vì thế Ni-cô-la vẫn giữ bộ đồ màu đỏ rộng quá khổ và chẳng bao lâu dân làng quen với dáng dấp cao lớn trong bộ đồ và chiếc áo choàng màu đỏ sáng, chiếc mũ trùm vừa vặn bằng lông và chiếc thắt lưng cùng đôi ủng da đen bóng loáng. Và bạn hãy thử nghĩ xem điều gì sẽ xảy ra khi hết tuần này đến tuần khác Ni-cô-la ăn đầy những bát cháo yến mạch, rau quả và sữa? Vâng, khuôn mặt anh đầy đặn, ngực anh phồng ra và thậm chí anh bắt đầu có - nói nhỏ thôi - một cái bụng phồng to!
    hết: Chương 6


    Chương 7

    Những con tuần lộc



    Giáng sinh năm tiếp đó Ni-cô-la đã không có nhiều thì giờ để đi rong khắp làng. Khi bắt đầu với công việc, anh rất buồn cười và hơi thất vọng khi khám phá ra rằng bọn trẻ đã bắt chước Frederick treo những cái vớ len thay vì những chiếc túi thêu. Vì vậy với những gia đình có 5 hay 6 đứa trẻ, sẽ có một hàng vớ ghim trên cửa. Dĩ nhiên Ni-cô-la cảm thấy không thoải mái cho lắm khi đặt từng món đồ chơi trong mỗi chiếc vớ và có khi vẫn còn những chiếc vớ rỗng không. Vì anh đã không tích trữ đủ đồ chơi trên chiếc xe trượt nên chỉ còn vài món cho các chú bé, anh nhận ra rằng chỉ mới nữa đường trong danh sách mà đã hết đồ chơi.
    "May mắn là mình còn một lô đồ chơi trong tủ ở nhà" Anh nói với con ngựa Lufka khi họ trở về nhà để lấy thêm. Ni-cô-la lẹ làng chất lên xe và đi phân phát một lần nữa cho đủ. Khi chỉ còn một vài ngôi nhà, con ngựa già mệt mỏi không muốn bước nữa. "Đi nào chú em già cả". Ni-cô-la động viên, nhưng Lufka đã quá già đến nỗi không thể đi suốt đêm vòng quanh làng, và đặc biệt đêm nay phải đi hai vòng. Khi nó bước xuyên qua lớp tuyết sâu dày, Lufka sảy chân và chiếc xe trượt lăn xuống rãnh. Rắc, một bánh xe lăn ra ngòai. Ni-cô-la leo xuống xe và sau khi chắc chắn con ngựa không bị thương anh lắc đầu trước cảnh chiếc xe trượt đã vô dụng.
    Ni-cô-la đi bộ và hoàn thành công việc ngày Giáng sinh đó. Khi tia sáng mà hồng đầu tiên của bình minh đang đỏ rạng trên bầu trời thì đó là lúc anh và Lufka về đến nhà, Ni-cô-la, mập mạp hồng hào, thở hào hển trong khi Lufka đáng thương kéo lê bộ xương già nua bước về trong chuồng.
    Nhiều ngày sau cái đêm bất hạnh đó, dân làng nghe thấy âm thanh của tiếng cưa đục vang lên từ căn nhà gỗ của Ni-cô-lạ Họ tự hỏi không biết anh đang xây dựng cái gì, và bất cứ ai hỏi anh cũng đều đáp một cách hóm hỉnh: "Hãy chờ xem".
    Dân làng chẳng bao lâu cũng quên mất sự hiếu kỳ của mình khi có một mẩu tin mới sốt dẻo lan truyền khắp làng.
    "Tôi nghe có chuyện gì đó về vị điền chủ phải không Ốt-tổ" Ni-cô-la hỏi người bạn cũ.
    "Ốt-tô đáp, bập bập chiếc tẩu. Họ nói là suốt mấy năm nay mọi việc không được trôi chảy lắm, vì vậy bây giờ ông ấy sắp bán đất và đồ đạc để trả nợ cho các chủ nợ. Cuộc phát mãi diễn ra ngày mai, sao cậu không đến đó với chúng tôi Ni-cô-la?
    "Tôi nào muốn mua thứ gì của ông ấy? Tôi chẳng cần thêm đất, tôi có thể làm những thứ đồ đạc cũng tốt như những thứ ông ấy có. Thực ra là chính tôi đã làm ra một số đồ đạc đó.
    "Còn súc vật thì sao? Ỏ-tô hỏi. "Ông ấy có hai con ngưa rất đẹp và một đàn nai"
    "Đúng rồi" Ni-cô-la nói, cuối cùng anh cảm thấy hứng thú để hoãn công việc của mình lại. "Lufka đã già đến nỗi không thể giúp gì cho tôi nữa. Có lẽ ngày mai tôi phải đến đó với anh xem sao".
    Sáng hôm sau căn nhà vị điền chủ đầy những người nôn nóng xúm quanh. Vài người đến để mua đồ trong khi những người khác đến chỉ để xem hoặc làm huyên náo. Ni-cô-la đi ngang qua những con ngựa thẳng tới chuồng nai. "Ông ấy luôn chăm sóc Donner và Blitzen", những người đàn ông thì thầm với nhau. "Ông ta luôn được ngưỡng mộ vì chúng đi rất nhanh".
    Vị điền chủ, giờ đây đã là một ông già lưng còng với cái nhìn lo âu trên khuôn mặt, dường như đang hoang mang vì lý do nào đó hoặc vì tất cả mọi người đang nói chuyện về ngôi nhà và tài sản của ông. Khi Ni-cô-la bày tỏ sự quan tâm đến hai con tuần lộc ông trả lời một cách nghiêm trang, "Thế này, anh không thể mua riêng một con Donner hay Blitxen được. Hoặc là cả gia đình nó hoặc là không có con nào. Làm sao mà Donner có hứng thú chạy như bay khi gia đình nó bị chia cắt?"
    "Gia đình !" Ni-cô-la kêu lên. "Nhưng tôi chỉ cần hai con thôi. Giá bao nhiêu... ? Cuối cùng Ni-cô-la do dự và tự hào trở thành chủ nhân của không phải hai mà là tám con tuần lộc nghênh ngang kia, Donner và Blitzen, mẹ và cha của sáu con khác Dasher và Dancer, Comet và Cupid, Prancer và Vixen.
    Năm nay, Ni-cô-la đang hoạch định một đêm Giáng sinh long trọng và tốt đẹp hơn trước đây nên anh làm việc cả ngày lẫn đêm để hòan thành những đồ chơi. Cuối cùng, cái đêm trọng đại đó đã đến. Ni-cô-la buộc xong 8 con tuần lộc vào với nhau cùng với bộ yên cương sáng chói với những cái chuông bạc kêu leng keng. Anh dắt chúng đến trước cửa nhà, mở cửa với một vẻ tự hào, phô bày ra một cảnh tượng thật đẹp mắt. Nơi đó có một chiếc xe trượt sáng ngời trang trí với những đường sọc bằng bạc, hai bên bánh xe cuộn về phía trước tạo thành hình chiếc đầu con thiên nga, phía sau thùng xe chất những đồ chơi cho trẻ em khắp các làng. Ni-cô-la dắt bầy tuần lộc vào trong càng xe và trèo lên chiếc ghế ngồi trên cao, trông rất đẹp và mềm làm bằng da hươu. Anh rút chiếc roi da đen bóng ra khỏi bao và vung lên trong bầu không khí giá lạnh, những con tuần lộc lao vút đi. Đêm đó dân làng bị đánh thức bởi tiếng leng keng vui tai của những chiếc chuông bạc. Họ lén nhìn từ sau những chiếc rèm cửa và thấy trong ánh trăng tráng vằng vặc, một chiếc xe trượt màu đỏ lộng lẫy được kéo bởi tám con nai với những chiếc vó phi nhanh như ánh sáng. Ngồi ở trên cao, một tay quất roi vun vút một tay giữ dây cương hướng dẫn bầy tuần lộc là một người đàn ông to lớn mặt tròn, trong bộ trang phục màu đỏ được trang trí bằng những dải lông màu trắng, ống quần bó trong đôi ủng màu đen và một chiếc mũ mềm màu đỏ tung bay trong gió. Dĩ nhiên họ không ở gần đủ để trông rõ khuôn mặt ông ta nhưng tất thảy mọi người, khi quay trở lại chiếc giường ấm áp của mình đều thì thầm một cách trìu mến. "Đó là Ni-cô-la đang đến với trẻ em đó mà. Cầu Chúa phù hộ anh ta".
    hết: Chương 7


    Chương 8

    Ống khói giáng sinh đầu tiên



    Khi Ni-cô-la vào khoảng 50 tuổi, tóc và râu ông giờ đã trở nên trắng như tuyết, thì có một gia đình mới đến sống ở trong làng. Bạn có thể nghĩ đó cũng không hẳn là một gia đình, chỉ gồm một ông già nhỏ thó da đen và nhăn nheo giống như một quả hạch cùng một cô bé nhỏ gầy trơ xương rụt rè trốn tránh sự nhòm ngó của đám đông, những người hiếu kỳ thường hay tụ tập như thường lệ mỗi khi có ai mới đến.
    "Tên ông ta là Các Din-Lơ", một bà thì thầm. "Bà quản gia già của điền chủ đã nói với tôi như thế. Bà nói rằng ông ấy rất giàu có. Ông ấy giàu đến nỗi có thể mua được một căn nhà to cũ trên ngọn đồi.
    "Ông ấy có thể giàu nhưng trông không có vẻ gì là như thế" một người khác nhận xét. "Bà không nhận thấy cô bé đáng thương ở với ông ta hay sao? Con bé trông như thể cần phải ăn một bữa cỗ lớn. Nhưng con bé là ai nhỉ?"
    "Cô bé ấy là cháu gái ông tạ Cha mẹ cô ấy đã chết cách đây không lâu và họ nói ông già mua một ngôi nhà trên đồi để họ có thể được riêng tư"
    "Bác không biết ông ấy đã làm gì sao" một cậu bé trong cái đám đông tò mò ấy hỏi. "Ông ta đóng chặt tất cả những cái cổng chỉ chừa lại một cái ở phía trước mà ông vẫn khóa chặt với cái khoen to như thế này này." Cậu bé vừa nói vừa dang hai tay để minh họa kích cỡ. "Còn chưa hết đâu. Cháu không biết làm sao các bác có thể vào được căn nhà đó bởi vì ông ta đã chặn những tấm ván khắp các cửa sổ, cửa trước và cửa hông. Giờ đây không có một dấu hiệu nào của sự sống ở bên trong ngôi nhà cũ đó nữa. Các bác sẽ nghĩ đó là một căn nhà bỏ hoang
    "Vậy sao, chắc là ông già đó điên rồi" họ đều nói. "Chắc ông ta sợ hãi ai đó"
    "Có điều gì để sợ hãi đâu" một người nhận xét, "điều duy nhất mà ông ta sợ hãi là ai đó ăn cắp tiền của mình"
    "Tôi chắc là Ni-cô-la người khắc gỗ sẽ rất quan tâm đến tin này" người khác nói.
    "Một đứa trẻ nữa trong làng, cũng là một điều đáng yêu vậy."
    "Ni-cô-la đã biết về cô bé ấy rồi" họ nghe một giọng trầm đáp phía sau lưng và mọi người quay lại thì thấy đó chính là Người khắc gỗ đã tham gia vào nhóm mà nãy giờ họ không biết.
    "Con bé tên là Kây-tị Tôi đã từng biết một cô gái có cái tên đó". Ông tiếp tục với cái nhìn buồn bã xa xăm trong đôi mắt màu xanh vốn rất vui vẻ khi nhớ lại cô em bé bỏng của mình. "Tôi muốn làm một cái gì đó thật đặc biệt cho cô bé đáng thương đó"
    "Làm sao anh biết được tên con bé hả Ni-cô-la"
    "Cô bé đang lang thang trong sân giống như thể một con chó khốn khổ bị nhốt" Ni-cô-la đáp. "Tôi đang đi ngang qua đấy bèn dừng lại trước cổng để nói chuyện với cô bé. Nó nói rằng nó không được phép ra khỏi hàng rào và chỉ có thể chơi bên trong sân mỗi ngày một tiếng đồng hồ. Nó cũng kể với tôi rằng ông nội nó không muốn nó chơi với những đứa trẻ trong làng sợ nó lỡ lời nói về vàng của ông ta và nơi ông ấy cất giữ."
    "Làm như người ta thèm đụng đến tiền của lão không bằng" mọi người nói một cách giận dữ. "Lão là một lão già bần tiện. Tôi đánh cá là lão sẽ không treo cái vớ của con bé vào ngày trước lễ Giáng sinh cho xem"
    "Đó là một cuộc *** huề vốn", Ni-cô-la cười, "Ông ấy sẽ không mở cửa trước cho dù là để nhận một thứ gì đó miễn phí".
    Đám đông giải tán và Ni-cô-la trở về với công việc của mình, nhưng vài tháng trôi qua ông vẫn suy nghĩ về sự cô đơn của Kây-tị Ông thấy con bé vài lần và nó nói với ông là nó không được phép treo chiếc vớ của nó vào lễ Giáng Sinh. Lần cuối cùng ông ghé thăm nó, lão già Din-Lơ giơ gậy về phía ông và bảo ông phải tránh xa căn nhà của lão. Cuối cùng thì không còn được gặp Kây-ti nữa nhưng Ni-cô-la vẫn làm một vài thứ đồ chơi cho cô bé và gói cất đi, chờ khi có dịp.
    Một vài ngày trước Lễ Giáng sinh, Ni-cô-la đi rảo một vòng trên con đường tới ngôi nhà đó. Ông nhìn lên những chiếc cửa lớn và cửa sổ đã bị che phủ và mắt ông sáng lên khi ông nhận ra ống khói khổng lồ trên mái nhà. Ông cười khúc khích một mình, "Ta sẽ cố đến đó! Có thể ta sẽ bị mắc kẹt nhưng nó xứng đáng được bõ công."
    Đêm trước Giáng Sinh trời tối và không có trăng với những cơn gió rít xuyên qua những hàng cây bám đầy tuyết hắt vào mặt của Ni-cô-la, phủ đầy chiếc xe trượt và bầy tuần lộc một lớp áo choàng ánh bạc.
    "Cố lên nào" ông động viên bầy tuần lộc, "Chỉ còn duy nhất một ngôi nhà trên đồi mà thôi".
    Ông run rẩy trong chếc áo choàng và bây giờ trông giống như một người tuyết khổng lồ với cột tuyết đóng chặt trên chòm râu bạc của ông. Ông cột bầy nai trước cổng, với lấy chiếc bao ở phía sau chiếc xe và trèo từ chỗ ngồi cao trên xe qua khỏi hàng rào rồi nhảy xuống sân. Ông dừng chân để nghe ngóng nhưng chỉ nghe thấy tiếng đập mạnh của cánh cửa chớp trong gió. Ông bò vào bên hông nhà nơi có cây nho che phủ cánh cửa và đây là một chiếc thang lý tưởng để leo lên mái nhà.
    Do quá to lớn đẫy đà lại còn thêm chiếc bao tải trên lưng nên rất khó khăn nhưng cuối cùng ông vẫn lên được trên mái nhà và thở hào hển. Đây là phần nguy hiểm nhất vì rất dễ bị trượt chân trên băng và tuyết, ông phải khóet đường đi bằng con dao nhỏ làm thành hốc để bám chân. Cuối cùng thì một hình dáng to lớn hiện ra lù lù ở phía trên đầu ông... đó là ống khói. Ni-cô-la dừng lại và nghỉ ngơi giây lát, sau đó dựa vào thành ống khói và nhìn xuống bên trong ống khói đen ngòm.
    "Đúng như mình nghĩ" ông thì thầm, "lão già keo kiệt sẽ tắt lửa vào ban đêm... thậm chí vào cái ngày giá lạnh như đêmnaỵ" Ông trèo qua thành ống khói và bắt đầu trượt xuống một cách nguy hiểm. Cẩn thận đặt chân trên những viên gạch nhô ra, ấn chặt tay vào hai bên thành tấn lưng vào tường, ông trèo xuống một cách chậm chạp từng tấc một đến khi ông cảm thấy nền đất cứng bên dưới chân mình. Ông bước ra khỏi lò sưởi vào trong căn phòng tối đen cũng như ống khói. Dần dần mắt ông trở nên quen với bóng tối, ông có thể nhìn thấy một cái bàn và bằng cách dò dẫm trong bóng tối cuối cùng ông tìm thấy một mẩu nến nhỏ và thắp ngaỵ Xong xuôi ông kéo từ trong chiếc bao tải một cái vớ bằng len màu xanh da trời tươi mới, bỏ đồ chơi vào trong đến khi đầy đến miệng vớ. Ông cũng để lại trong đó những quả hạch và kẹo khi ông nghĩ đến sự đói khổ mà thỉnh thoảng cô bé đã phải chịu. Ni-cô-la đặt chiếc vớ lên trên bệ lò sưởi, đè nó xuống bằng chiếc giá nến, rồi ông lùi lại phía sau để chiêm ngưỡng công trình của mình. Thế rồi ông giật mình thổi tắt ngọn nến khi bỗng nghe thấy tiếng cửa mở và lão Din-Lơ chạy ào vào phòng.
    "Sao mày dám lén lút vào nhà tao? Tao biết là mày đang theo dõi vàng của tao. Tao sẽ cho mày biết tao đối xử với một tên trộm như thế nào, tao sẽ cho mày biết tay!" Lão già nhặt một cây củi và vung nó vào người Ni-cô-la, ông nhảy tránh sang một bên để chiếc bàn chắn giữa hai người.
    "Đừng có dớ dẩn" ông nói thật mau, nhận ra rằng Din-Lơ đang ở trong cơn thịnh nộ và nguy hiểm. "Tôi không đến đây vì vàng của ông. Hãy nhìn... "
    "Sao lại không. Vậy chứ cái gì xui mày đi vào nhà tao nửa đêm thế này."
    "Tôi sẽ cho ông biết cái gì! Hãy nhìn vào chiếc vớ phía sau lưng ông kìa. Những đứa trẻ khác trong làng đều đặt chiếc vớ của nó ngoài cửa nhà chúng, nhưng ông vì quá đáng sợ đến nỗi cháu nội của ông không dám yêu cầu ông bất kỳ điều gì. Tôi chỉ muốn làm cho cô bé cảm thấy giống như những đứa trẻ khác, và vì thế nó sẽ nhận những quà tặng giống như những đứa trẻ khác vào sáng ngày lễ Giáng Sinh"
    "Qùa tặng!" lão già la lên, bối rối và hạ thanh củi xuống. "Mày muốn nói rằng mày phát những món quà ử" Lão nhìn Ni-cô-la với một ánh mắt khác lạ.
    "Vâng" Ni-cô-la trả lời, nhẹ nhõm khi thấy thanh củi được dẹp đi. "Tôi thậm chí sẽ tặng ông một món quà Giáng Sinh, ông lão ạ." Ông với từ trong chiếc túi sâu và đổ ra một đống những đồng tiền vàng lên trên bàn trước mặt Din-Lợ "Đây này, nếu vàng là tất cả những điều mà ông quan tâm thì đây này... , và nữa này,... và nữa đây này để ông cất vào kho dự trữ của ông! Và bây giờ" Ni-cô-la nói với cái giọng của một người có quyền, khi ông phủi mồ hóng một bên mắt: "Xin ông vui lòng chỉ cho tôi lối ra cửa trước. Nếu tôi phải trèo ngược trở lại ống khói tôi sẽ không bao giờ giặt sạch được bộ cánh này.
    Và như thế từ căn phòng ông đĩnh đạc bước đi, xét bề ngoài thì cái dáng dấp mập mạp và hơi buồn cười bao phủ đầy mồ hóng, tuy nhiên ông trông có vẻ rất ấn tượng đối với lão già Din-Lơ, lão vội vã đi trước để mở cửa cho Ni-cô-la trở ra ngoài bầu trời đen tối và lạnh lẽo.
    Tuần sau dân làng bàn tán với vẻ sôi nổi. Có điều gì đó đang xảy ra trên ngọn đồi. Lão già keo kiệt đã tháo bỏ những tấm ván chắn cửa sổ và cửa lớn. Lão mua một chiếc xe ngựa và đã đi xuống làng để mua thật nhiều thức ăn. Lão cũng đã nói chuyện với thầy giáo làng; vài ngày sau người ta thấy Kây-ti cùng ông nội xuất hiện trên con đường dẫn đến trường, khuôn mặt cô gái nhỏ rạng rỡ cùng lão già, cô bé nhảy chân sáo đi cùng với lão và bàn tay nhỏ bé nồng ấm của cô bé nằm trong nắm tay của ông nội. Tất cả những điều này có được chỉ vì Ni-cô-la đã trèo xuống ống khói để nhét đầy MỘT chiếc vớ!
    hết: Chương 8


    Chương 9

    Cây Giáng Sinh đầu tiên



    Gần sát ngay nhà của Ni-cô-la là một lùm cây dày toàn những cây thông cao, rậm rạp và đẹp. Những cành thông vươn lên tận trời cao và làm thành một mái che tuyệt hảo cho mặt đất bên dưới. Rải rác trong số những cây lớn là một cụm thông nhỏ gồm những cây nhỏ bé can đảm, vẫn luôn giữ cho các nhánh của nó xanh um suốt mùa đông lạnh lẽo của miền bắc và nhô những chiếc lá nhọn vươn lên trời mặc những cơn bão tuyết dữ dội.
    Những đứa trẻ thường thích chơi dưới lùm cây này, bởi vì cho dù thời tiết bên ngoài có bão, ở đây chúng vẫn thấy ấm áp, nhiều nơi trú ẩn, tránh những cơn gió lạnh buốt. Trong mùa hè, đây là nơi quyến rũ, tỏa ra mùi hương thơm nồng cùng những tiếng rì rào của những cành cây lao xao trong gió.
    Ni-cô-la yêu mến lùm cây nhỏ bé này, bởi vì để đi đến đó, những đứa trẻ trong làng phải đi ngang qua nhà ông, và ít có nhóm trẻ nào đi ngang qua cửa nhà ông mà không nhanh nhẩu nói: "Chúc một ngày tốt lành" với ông bạn già của chúng; ngắm nhìn ông đang làm việc; ngắm nhìn những đồ chơi quyến rũ của ông.
    Một ngày nọ, khi Ni-cô-la liếc ra ngoài cửa sổ, ông nhận thấy một nhóm trẻ đang chạy từ lùm cây về. Khi chúng đến gần, ông thấy chúng đang hoảng sợ khi chạy vào nhà ông để trốn và thở hào hển, Ni-cô-la hỏi: "Có chuyện gì thế? Sao các cháu trông sợ hãi quá vậy?"
    "Họ có mái tóc đen dài" một cậu bé la lên, "Còn đàn ông thì đeo nhẫn ở tai" một đứa khác nói chêm vào. "Tụi cháu không hiểu họ nói lấy một chữ"
    "Từ từ đã nào: Ni-cô-la nói, "các cháu đang nói về ai thế?"
    "Những người có tóc và da màu đen"
    "Họ có đem ngựa và xe chứ?" Ni-cô-la hỏi với vẻ hiểu biết.
    "Vâng, những chiếc xe goòng lớn phủ kín"
    "Nghe có vẻ họ là dân gipxy", Ni-cô-la trả lời, "mặc dù họ không thường xuyên đi xa lên phương bắc. Chắc họ lạc đường, giờ đây họ sẽ cắm lều ở lại đây đến mùa xuân. Không có gì phải sợ họ cả. Họ là người giống như bác và các cháu thôi mà"
    Để xác định lại điều ông nói, lũ trẻ chạy trở lại lùm cây để nghiên cứu những người mới đến. Chẳng bao lâu chúng đã làm quen với dân gipxy và khám phá ra rằng bọn trẻ của họ cũng chơi những trò chơi như chúng, cũng như rất quan tâm đến những cái gì mới mẻ. Khi Giáng Sinh đến gần, chúng kể với những đứa trẻ gipxy về Ni-cô-la và việc ông đã lái xe trượt tám con nai sáng bóng để bỏ đầy đồ chơi xinh đẹp vào trong những chiếc vớ trước lễ Giáng Sinh.
    "Có lần, khi ông không thể vào được nhà của Kây-ti bởi vì các cửa đóng kín, ông đã trèo xuống ống khói!"
    "Ông ấy không thể đến thăm chúng tớ" một cô bé gipxy nói đùa, "Chúng tớ không có cửa, chúng tớ cũng không mang vớ. Dĩ nhiên chúng tớ không thể mang những ống khói đi theo được" cô bé cười.
    Sonya bé nhỏ, người mong muốn mọi người đều hạnh phúc, kể lại mọi điều cho Ni-cô-la, cô bé trở về nhà trong mãn nguyện, bởi vì cô biết rằng nụ cười hóm hỉnh trên khuôn mặt ông chứng tỏ ông đã phác thảo ra một kế hoạch trong cái đầu già nua nhân từ của ông.
    Đêm trước lễ Giáng sinh, những con nai ngạc nhiên nhận thấy rằng sau khi những âm thanh của những chiếc chuông bạc như thường lệ chấm dứt, Ni-cô-la đưa chúng đi quá căn nhà của ông và đi về hướng rừng, dừng lại dưới mép của một lùm thông. Một bóng dáng đen sẫm miệng cười toe toét bước về phía trước. Đó là Grin-ka, người chỉ huy của nhóm gipxy.
    "Đây nè Grin-ka" Ni-cô-la nói, đưa cho ông ta một bó nến nhỏ. "Anh cứ đi trước với những thứ này còn tôi sẽ theo sau"
    Grin-ka dừng lại ở từng cây thông nhỏ và cột những cây nến lên các nhánh. Ni-cô-la theo sau, giăng lên các nhánh của mỗi cây những quả hạch, quả táo đỏ mọng và dĩ nhiên là từng mẫu của mỗi thứ đồ chơi. Khi hai người hoàn thành xong công việc thì đã sắp đến bình minh, bây giờ nhưng mỗi gia đình đều có một cây thông Giáng sinh cho lũ trẻ.
    "Bây giờ thì thắp sáng lên, Ni-cô-la nói và họ đi từ cây này đến cây khác, thắp từng cây nến, đến khi toàn bộ lùm cây sáng lấp lánh và rực rỡ như chính giữa lò sưởi ấm áp
    "Tôi nghĩ lúc này là lúc lùm cây trông đẹp nhất , Ni-cô-la nói, "Anh phải đánh thức bọn trẻ trước khi mặt trời xuyên qua những lá thông và làm mất đi vẻ đẹp của những ánh nến"
    "Được rồi" Grinka nói, "Tôi sẽ đi đánh thức chúng ngay bây giờ trước khi ông đi"
    "Ồ không" Ni-cô-la la lên, "Chúng không được trông thấy tôi. Những đứa trẻ KHÔNG BAO GIỜ được trông thấy tôi. Điều đó sẽ làm hỏng bét mọi thứ. Bây giờ tôi phải đi"
    Ni-cô-la nhảy lên xe và đi mất, với những tiếng leng keng quen thuộc của những chiếc chuông bạc và tiếng vun vút của chiếc roi dài bằng bạc.
    Vài phút sau khi ông rời khỏi, Grinka đã đánh thức tất cả trẻ em trong trại. Ni-cô-la lẽ ra nên ở lại để thấy sự hân hoan trên những khuôn mặt gầy ốm khi chúng chạy nhào tới những cái cây, khám phá trên mỗi cây mỗi điều mới lạ để chỉ cho nhau.
    "Những ánh sáng trên những cái cây bé nhỏ mà đã làm mọi thứ trở nên quá đẹp." Một đứa trẻ nói
    "Không, những món quà mới đúng! Một đứa khác la lên. "Hãy nhìn cái con búp bê xinh đẹp tớ có nè"
    "Đẹp là nhờ trái cây và quả hạch" một đứa bé háu đói nhồi vào mồm với vẻ khoái trá.
    "Tớ nghĩ mọi thứ đều quá đẹp như vậy bởi vì hôm nay là lễ Giáng Sinh mà" một cậu bé sáng suốt kết luận. "Đúng đúng, bởi vì lễ Giáng sinh" tất cả cùng la lên, nhảy múa vòng tròn.
    "Còn đây là những cây Giáng sinh của chúng ta"
    hết: Chương 9

    Chương 10

    Holly



    Holveg, mọi người thường gọi là Holly là một cô bé nhút nhát thỉnh thoảng lại hay sợ cả bóng tối. Cô bé được chú ý vì có tài trồng hoa trong khí hậu hết sức khắc nghiệt và không có gì làm cho cô bé vui hơn việc đáp lại sự hào phóng của Ni-cô-la bằng cách biếu hoa cho ông. Một ngày nọ khi cắm hoa cho ông cô hỏi:
    "Bác có sợ yêu tinh không?" Ni-cô-la đặt món đồ chơi đang làm xuống và quay khuôn mặt đầy ngạc nhiên hướng về cô gái nhỏ. "Yêu tinh!" ông la lên. "Bây giờ bác đã hơn sáu mươi tuổi rồi mà bác chưa bao giờ trông thấy yêu tinh cả. Chúng là gì hả Holly". Ông hỏi với giọng quan tâm. Holly trông có vẻ bối rối, một vẻ nghi ngại len vào trong giọng nói của cô bé," Cháu cũng không biết đích xác" cô bé thú nhận, "nhưng cháu nghe kể về chúng và khi cháu nằm trên giường vào ban đêm, cháu chắc chắn cháu thấy có cái gì rón rén trong phòng cháu."
    "Chúng hẳn là những cái bóng thôi mà" Ni-cô-la nói, "Bác chưa bao giờ bắt gặp yêu tinh hay ma cỏ gì cả" ông nói.
    Holy trông có vẻ rất xúc động và nói: "Nếu cháu thấy một con yêu tinh trong phòng cháu, cháu sẽ nói ngay với nó là Ni-cô-la nói ngươi không tồn tại hỡi con yêu tinh già kia!"
    Họ cùng cười và Ni-cô-la nói với cô bé đã đến giờ phải về nhà ăn tối. Những tháng mùa đông qua đi, khi mùa xuân đến, là lúc trồng hoa trở lại, Holly cảm thấy rất yếu. Suốt những tuần mùa hè, cô bé nằm mẹp trên giường, yếu hẳn đi vì sốt, không nhận ra một ai, kể cả Ni-cô-la mà cô bé yêu quí. Ông mang hoa đến cho cô bé, hy vọng rằng chúng có thể đem cái trí óc nhỏ bé lang thang quay trở về, nhưng cô bé chỉ đẩy chúng ra xa và tiếp tục mê sảng về những gã khổng lồ đen đúa và những con yêu tinh ghê sợ. Do bệnh, nên những nỗi sợ hãi mà cô bé đã quên lãng nay đã quay trở lại và với trái tim đè nặng Ni-cô-la nhận ra rằng những cuộc nói chuyện thân thiết của họ đã bị xóa sạch khỏi trí óc của cô bé. Một thời gian cô bé dần dần bình phục nhưng cơn sốt đã để lại cho cô gái một vóc dáng xanh xao nhỏ bé như lần đầu cô mang một bó hoa đến cho Ni-cô-la.
    Holly buồn bã hơn trước. Mọi thứ dường như đen tối đối với cô bé ,và những đêm của cô bé toàn những điều kinh hãi mặc dù Ni-cô-la đã giảng giải cho cộ Nhưng hơn bất cứ điều gì khác, ông lo lắng bởi vì sợ cô bé buồn khi không có hoa để mang đến cho ông. Holly tì khuôn mặt gầy ốm lên cửa sổ mắt đầy lệ nhìn khu vườn phía trước hoang vắng và lạnh lẽo.
    Khi bọn trẻ đi ngang qua cổng nhà cô bé, họ vẫy tay thân ái với cộ Holly vẫy lại và chùi nước mắt. Cô đẩy cánh cửa sổ mở ra và gọi: "Cái bụi cây gì xanh xanh trên xe cậu vậy Karl?"
    Lũ con trai đến bên cửa sổ và Karl đưa một bó những cành hoa đỏ tròn tươi nằm trong chiếc lá xanh.
    "Chúng đẹp làm sao !" Holly vỗ tay reo lên. Cặp mắt cô bé sáng lên. "Cậu lấy nó ở đâu vậy Karl"
    "Chúng tớ thấy nó trong rừng rậm. Nó phát triển tươi tốt như thế này cả trong mùa đông nhưng tớ không biết gọi tên nó là gì"
    "Ồ, nó đẹp quá" Holly lại nói, "nhưng, nhưng cậu nói nó ở trong rừng sâu?"
    "Ửuot; Karl trả lời, "đó là nơi tối hoàn toàn. Mặt trời gần như khó xuyên qua những đám cây đó và nếu cậu mà lạc trong ấy tớ đoán là cậu sẽ lạc mãi mãi"
    "Đúng thế" một cậu bé khác thêm vào. "Tớ nói với cậu là tớ sẽ không bao giờ vào đó một mình", rồi những đứa trẻ vẫy vẫy những chiến lợi phẩm, từ giã Holly đang phác họa bức tranh những cành hoa đỏ thắm trong trí tưởng tượng. Ni-cô-la sẽ yêu thích những bụi cây xinh xắn đó. Nhưng rừng thẳm! Cô bé rùn vai.
    "Ắt hẳn là có đủ những điều khủng khiếp ở đó" cô bé nghĩ "những con thú hoang và những tiếng động khác thường và có thể phía sau những rừng cây còn có những con yêu tinh!"
    Holly khẽ run và chợt nhớ lại hình ảnh chính mình lúc đang ở trong nhà của Ni-cô-la cô bé đã nói: "Cháu sẽ nhìn nó và nói, Yêu tinh, Ni-cô-la nói răng ngươi không tồn tại". Holly bưng mặt nói "Ồ giá như mình có thể làm điều đó" cô bé gần như nức nở. "Ni-cô-la nói khi làm điều gì mình thật sự sợ hãi thì can đảm hơn khi mình không sợ gì hết. Nhưng đó thật là một nơi kinh khủng. Ngay cả tụi con trai cũng sợ không dám đến đó một mình. Nhưng mình sẽ không có hoa cho ông trong khi ông ấy lại quá tốt với mọi người mà mùa xuân thì còn lâu mới đến.
    Vì vậy cô bé ngồi đó một lúc lâu, đầu óc đi từ quyết định này đến quyết định khác. "Có thể sẽ có vài ánh nắng mặt trời trong rừng và nếu như mình đi thật nhanh và tìm thấy những cành hoa đỏ thắm ấy nhanh chóng, có lẽ mình sẽ trở về trước khi trời tối. Mình sẽ đi làm ngaỵ"
    Cô bé chạy thật nhanh lấy chiếc áo choàng trước khi cô có cơ hội thay đổi quyết định, trước khi mẹ cô từ làng trở về.
    Ni-cô-la đang làm việc ngước lên thấy một bóng dáng nhỏ chạy như bay dọc theo con đường bên cạnh nhà ông dẫn vào rừng.
    "Trông giống như Holly". Ỏg giật mình nghĩ ngợi. "Không, không thể. Nó chưa khỏe mà. Hơn nữa", ông lắc đầu buồn bã "Con bé khốn khổ sẽ rất sợ hãi khi phải đi vào rừng khi trời đã tối và có những con yêu tinh" ông nói và cười khúc khích.
    Tuy nhiên một giờ sau đó, ông bị gián đoạn công việc vì bà mẹ điên cuồng của Hollỵ "Ồ, tôi nghĩ nó ở đây" bà khóc.
    "Khi tôi về đến nhà, thấy là nó đã đi, tôi chắc là sẽ tìm thấy nó ở đây với bác. Nó vẫn còn rất yếu, và nhìn kìa, tuyết bắt đầu rơi rồi !"
    Ni-cô-la vội kéo chiếc áo choàng màu đỏ và chiếc mũ lông. "Tôi sẽ tìm thấy cháu, bác đừng lo" Ông nhìn ra ngoài bầu trời chiều đã ngả sang màu xám xịt đầy những đám mây. Trên không đã đầy những bông tuyết rơi lả tả.
    "Tôi biết phải tìm ở đâu" Ni-cô-la nói. "Tôi sẽ lấy chiếc xe trượt nhỏ với Vixen và chúng tôi sẽ đem được Holly trở về trưóc khi tuyết phủ ngập đường.
    Trong khi ấy Holly đã tìm thấy những cành hoa đỏ; cô sung sướng nhìn thấy những bụi cây rực rỡ và gần như quên hết những gì khủng khiếp có thể ẩn ấp đàng sau thân cây không lồ, cũng như ẩn nấp trên cành cây đang chực đổ ập xuống người cộ Cô hái một ôm hoa to tướng và bắt đầu quay về, tim cô bắt đầu đập thình thịch khi ánh sáng trong rừng càng lúc càng mờ dần.
    Khi cô bé bắt đầu chạy, tuyết xoáy thành một màn sương trắng xung quanh cô, Gió thổi xuyên qua những nhánh cây và gào thét trên những ngọn cây, gió níu chiếc áo choàng của cô bé và quấn xung quanh đầu cô, làm cho cô bé nghĩ đến bàn tay ma đang cố níu kéo cô lại cái nơi khủng khiếp này.
    Cô bé chạy càng lúc càng nhanh, cánh tay cô ôm chặt lấy những cành hoa, đầu cúi xuống để tránh gió, chân cô chạy thoăn thoắt trên những tảng đá và những gốc cây ẩn trong tuyết. Cô thở hổn hển và mặc dù gió buốt cô bé vẫn cảm thấy đầu mình càng lúc càng nóng hơn. Tim cô bé đập thình thịch mạnh đến nỗi cô tưởng chừng như nó muốn thoát ra khỏi lồng ngực.
    "Mình không trông thấy gì hết" cô bé nức nở. "trời thì càng lúc càng tối đen. Mình không thể nhấc chân lên nữa, những cái cây sẽ ngã lên mình mất thôi. "Ôi" cô bé thét lên thật to khi cặp mắt kinh hoàng của cô nhìn thấy một hình dáng khổng lồ lù lù hiện ra sau màn tuyết. Cô nhắm mắt lại và ngã xuống ngất xỉu trước Ni-cô-la và Vixen
    Khi cô bé mở mắt ra cô thấy mình đang ở trong nhà Ni-cô-la và nằm trong vòng tay mẹ. Khuôn mặt của Ni-cô-la hiền từ đang nhìn cô một cách lo âu.
    "Những bông hoa của tôi đâu rồi" câu hỏi đầu tiên của cô bé. "Cháu đã đi vào trong rừng sâu để lấy hoa cho bác. Chúng đâu rồi?"
    Ni-cô-la đặt những nhánh hoa đỏ rực lên tay cô bé "nó đây này cô bé yêu quí. Cháu mang nó về cho bác sao?"
    "Vâng, cháu rất đã sợ nhưng cháu biết giờ đây cháu không bao giờ sợ hãi nữa."
    Ni-cô-la chùi những giọt nước mắt "Lẽ ra thì cháu không nên đi ra ngoài sớm sau khi vừa ốm dậy, nhưng bác rất yêu những bông hoa này. Tên chúng là gì thế?"
    "Cháu không biết, nhưng cháu thích chúng vì chúng nhắc cho cháu nhớ về bác, tròn, đỏ và sáng" Cô bé nói với một nụ cười tinh nghịch.
    "Thật là buồn cười" Ni-cô-la trả lời, "chúng sẽ góp phần làm cho bác nhớ đến cháu, rất can đảm đi vào trong bóng tối và giá lạnh. Những bông hoa đỏ này có một màu đỏ thẫm của lòng can đảm, vì vậy bác nghĩ bác sẽ đặt tên cho chúng và từ nay chúng sẽ có tên là Holly"
    hết: Chương 10

    Chương 11

    Chiếc vớ cuối cùng



    Nhiều năm trôi qua và giờ đây Ni-cô-la rất giàu có, mặc dù ông đã chia sẻ tất cả những gì ông có với bạn bè trong làng. Mỗi buổi sáng lễ Giáng Sinh bọn trẻ thức dậy để tìm những chiếc vớ của chúng đầy những đồ chơi và bánh kẹo. Những gia đình nghèo hơn cũng có được thực phẩm như những con gà, rau quả và thịt bò, và thường khi có những gói quần áo ông đặt trước cửa nhà họ.
    Nhưng như các bạn nghĩ, mỗi năm ông trở nên yếu hơn và dân làng, những người yêu mến kính trọng ông rất lo lắng về điều đó. Mỗi buổi sáng ngày Giáng Sinh khi lũ trẻ hớn hở lấy quà từ trong vớ, những ý nghĩ sợ hãi trong tim bố mẹ chúng là: "Không biết Giáng sinh năm sau ông ấy có còn ở bên chúng ta không"
    Một vài ngày trước một Lễ Giáng Sinh nọ, một số dân làng đến thăm Ni-cô-la với đề nghị. "Chúng tôi nghĩ thế này, Ni-cô-la ạ" một ông nói với vẻ hơi ngần ngại, "chúng tôi nghĩ rằng trời quá lạnh để đi ra ngoài trời bỏ quà vào trong những chiếc vớ, đặc biệt là khi có năm đến sáu đứa trẻ trong một gia đình, vậy tốt hơn là bọn trẻ đặt những chiếc vớ của nó bên cạnh lò sưởi"
    "Lúc đó bác có thể đến và ngồi bên cạnh lò sưởi và tranh thủ thời gian hành động", một người đàn bà tử tế nói.
    Ông già Ni-cô-la ngước lên và mỉm cười. Ông đặt tay lên vai người đàn ông. "Hà hà. Các bạn thật tử tế khi đên đây để nói cho tôi biết cách làm việc", ông đùa. "Làm tôi nhớ lại lúc ngày xưa bỏ đồ vào trong chiếc túi thêu cho các bạn khi các bạn còn nhỏ hơn bọn trẻ bây giờ. Thế rồi mọi thứ đã thay đổi khi chúng bắt đầu đặt những chiếc vớ thay vì những cái túi và giờ đây các bạn lại muốn tôi thay đổi một lần nữa, đặt đồ chơi ở trong nhà. Vậy là, tôi cho rằng chúng ta phải theo kịp thời đại và nếu các bạn nghĩ tốt hơn là đặt bên trong thì tôi sẽ đặt ở bên trong".
    Vì vậy từ đó ông già Ni-cô-la lặng lẽ rón rén vào trong ngôi nhà những đêm trước lễ Giáng Sinh, ngồi trước lò sưởi, chậm rãi bỏ đồ chơi vào trong chiếc vớ. Bọn trẻ thường để cho ông uống một ly sữa và ăn bánh khi chúng biết là ông đã trải qua một đêm dài với công việc thật mệt nhọc.
    Vào trước một đêm Giáng sinh nọ, ông già Ni-cô-la cảm thấy thật khó nhọc để đi từng nhà. Ngọn lửa ấm làm cho ông uể oải buồn ngủ và những khúc xương già nua đau rã rời khi ông mệt mỏi đứng dậy để đi tiếp. Ông chậm chạp đi từ nhà này đến nhà khác đến khi, sung sướng thay, ông đã đến trạm dừng cuối cùng, lưng ông đau vì mang cái bao tải, đầu cúi xuống vì mệt nhọc, tim ông đập nặng nề, ông chợt nhận ra mình đã quá già. Công việc mà nhiều năm về trước ông đã làm với lòng nhiệt tình giờ đây gần như quá sức đối với ông. Ông thả người xuống chiếc ghế cạnh lò sưởi với cái thở dài thườn thượt của sự thư giãn và đó là thời gian dài, trước khi ông có thể hồi phục sức lực đủ để bỏ đầy những cái vớ. Thậm chí ông đã làm việc đó rất chậm chạp và đau nhói khi phải với tay xuống đáy bao tải, mỗi lần duỗi ra đều rất khó khăn. Ông hoàn thành xong 4 trong số 5 cái vớ cuối cùng, nhưng đến cái thứ 5 còn trống không trong tay thì ông đã cảm thấy buồn ngủ.
    Một giờ sau đó ông giật mình thức dậy khi có bàn tay ai đó lay ông.
    "Ông không sao chứ Ni-cô-la" một giọng hỏi lo âu, "Cháu chỉ đến để xem lò sưởi đã cháy hết chưa thì thấy ông vẫn còn ở đây. Trời sắp sáng rồi."
    Khi đó Ni-cô-la cựa mình đứng dậy một cách mệt mỏi. "Ừ nhỉ, đã đến Lễ Giáng Sinh rồi mà ta chưa hoàn tất công việc của mình"
    "Đừng bận tâm. Cháu sẽ bỏ vào chiếc vớ cuối cùng giúp bác." Người đàn ông nói. "Bác để những quà tặng rồi về nhà ngủ đi, nhưng phải nhanh nhanh lên trước khi tụi nhỏ thức dậy và thấy bác"
    Ni-cô-la nghĩ đến chiếc giường tiện nghi ấm áp của mình và trao chiếc vớ cùng những quà tặng rồi mệt mỏi về nhà.
    Một phút sau đó một chú bé nhỏ thức dậy trong bộ py-ja-ma đứng ngay giữa cửa. "Bố đang làm gì thế? Cậu bé hỏi với giọng thất vọng. "Con nghĩ là Ni-cô-la vẫn cho chúng con đồ chơi"
    Cậu bé sắp khóc nhưng người cha đã đóan chắc với nó: "Ni-cô-la của con già rồi" cha cậu nói, "và thỉnh thoảng những người cha như bố phải phụ cho ông, nhưng hãy nhớ, Ni-cô-la chính là người để lại đồ chơi cho các con"
    "Thế thì được rồi" cậu bé nói. "Thế thì điều ấy không đến nỗi buồn cười nếu như nghĩ đó là cha hoặc mẹ bỏ những món quà tặng đó."
    "Con không nên nói thế" người cha nghiêm khắc nói, "và con không bao giờ được nghi ngờ Ni-cô-la Ông ấy sẽ bị tổn thương khi một đứa trẻ nghĩ rằng ông đã không bỏ đồ chơi vào trong chiếc vớ và ông sẽ không bao giờ đến nhà cậu bé ấy nữa. Con không muốn điều khủng khiếp ấy chứ?"
    "Vâng" cậu bé thì thầm với giọng sợ hãi. "Giáng sinh sẽ ra làm sao nếu không có Ni-cô-la "
    hết: Chương 11


    Chương 12

    Ni Cô La ngủ



    Holly đã không còn là cô bé Holly nữa mà đã trở thành cô gái trẻ mảnh khảnh duyên dáng từ lâu đã quên mất những điều đáng sợ thời tuổi thơ. Cô vẫn tiếp tục công việc mang hoa đến cho người bạn già của mình và mỗi đêm trước ngày Giáng Sinh cô vẫn đi vào trong rừng tối hái những bông hoa holly để trang hoàng cho nhà của Ni-cô-la vào ngày Giáng Sinh.
    Vào giữa trưa, khi cô đến ngôi nhà, cô nhận thấy sao im lặng và trống vắng như không có Ni-cô-la làm việc nơi chiếc ghế dài và không có khói tỏa ra từ ống khói.
    Cô bước nhẹ nhàng vào trong ngôi nhà lạnh giá và khẽ mở cửa phòng ngủ của ông,
    "Làm sao mà ông quá mệt mỏi đến nỗi nằm ngủ với bộ áo quần này." Cô khẽ nói một mình. Bởi vì dáng dấp khuôn mặt tròn nằm đó, vẫn còn mặc bộ màu đỏ, đôi ủng màu đen và chiếc mũ vẫn còn đội trên đầu. "hoa holly của ông đây" cô gái thì thầm, cúi người về phía Ni-cô-la.
    Thế rồi với một tiếng thét cô đánh rơi những nhành hoa đỏ trên người ông và chạy ra ngoài một cách hoảng hốt. Đó giây phút Holly nhận ra những gì phải đến đã xảy ra và cô đứng cạnh ông nức nở, "Ni-cô-la tội nghiệp. Sao ông lại phải chết đi Tất cả chúng cháu đều yêu mến ông rất nhiều mà." Cô nhẹ nhàng sắp những bông hoa holly xung quanh giường rồi chạy ra ngoài trời tuyết nước mắt chảy dài trên mặt, cô gọi to những người dân làng.
    Vài người chạy đến lắng nghe cô nói. Những người đàn bà thì thầm nức nở, "Ông ấy đã mất rồi" và ôm thật chặt những đứa trẻ của họ, như thể để an ủi chúng vì chúng đã mất một người bạn thân yêu nhất. Những người đàn ông tránh nhìn vào mắt nhau vì không người đàn ông nào muốn thấy những giọt nước mắt. "Vâng, ông chết rồi" họ cùng thở dài hết sức thương cảm.
    "Ai chết thế mẹ" Ni-cô-la phải không?" bọn trẻ hỏi.
    "Ông sẽ không đến thăm chúng ta vào Giáng Sinh nào nữa phải không?
    Và các ông bố bà mẹ phải quay đi vì họ không dám nói ra câu nói đáng sợ ấy, "Ừ Ni-cô-la chết rồi".
    Những chiếc chuông rung lên, ngôi làng tràn ngập bóng tối đêm Giáng Sinh đó. Vixen và gia đình của chúng rên rỉ trong chuồng, những bông hoa holly đỏ rực vẫn nằm đó, trên trái tim nhân hậu trong bộ đồ màu đỏ.
    hết: Chương 12


    Chương 13

    Ông Già Nô en ra đời



    Sau cái chết của Ni-cô-la vào sáng Giáng Sinh, năm tiếp theo là năm rất buồn đối với toàn thể dân làng. Họ đặt Ni-cô-la yên nghỉ dưới lùm thông gần nơi bọn trẻ nô đùa với ông những năm tháng qua. Tám con nai đã không còn ở trong chuồng sau ngôi nhà trống vắng ấy nữa, mà được Kây-ti đem về ngôi nhà lớn trên đồi. Nhiều tháng qua, nhiều bà mẹ nhặt những con búp bê gỗ trên sàn và lặng lẽ chùi bụi trên khuôn mặt của nó với đôi mắt ngấn lệ bởi vì trái tim quảng đại ấy đã làm nên món đồ chơi nhỏ bé với tình yêu thương vô cùng. Ngay cả trong óc những đứa bé nhỏ nhất dần dần cũng phát hiện ra Ni-cô-la đã chết và chúng sẽ không có quà trong vớ vào ngày Giáng Sinh. Bọn chúng khóc chút ít, nhưng dần dần hình ảnh ông già mập mạp mờ nhạt trong tâm trí chúng Năm ấy trôi qua đến khi lại bắt đầu mùa Giáng Sinh.
    "Mẹ Ơi, chúng ta có treo vớ nữa không?
    "Không con ạ. Con quên rằng Ni-cô-la không còn đến đây nữa và không thể bỏ quà vào vớ của con sao?"
    Câu hỏi và câu trả lời giống nhau trong tất cả các ngôi nhà trong làng vào đêm trước ngày Giáng Sinh đó.
    Khắp làng, trẻ em đi ngủ một cách buồn bã và không còn treo vớ chúng nữa, chỉ trừ một cậu bé, Stephen, người không muốn tin rằng Ni-cô-la sẽ không đến. Cậu làm bố mẹ ngạc nhiên khi lặng lẽ đem treo chiếc vớ như mọi Giáng Sinh trước cậu đã làm.
    "Nhưng mà Stephen, ông ấy chết rồi" mẹ cậu nói. "Ông không thể đến đâu"
    "Dĩ nhiên là ông sẽ đến" Stephen trả lời với giọng quyết đoán, "Chúng ta phải để lò sưởi cháy cho ông".
    Vì vậy đêm đó, tất cả mọi nhà đều đóng cửa và tắt lửa, chỉ trừ nhà Stephen, nơi có một chiếc vớ đơn độc treo bên ánh lửa bập bùng.
    Ngay sau nửa đêm, Holly thức giấc. "Mình nghĩ mình nghe thấy tiếng chuông và bầy nai." Cô nói ngái ngủ. "Chắc là một giấc mơ", cô trở mình rồi lại rơi vào trong giấc ngủ.
    Buổi sáng Giáng Sinh đó trời trong và sáng, ngôi làng im lìm nằm trong chiếc chăn bằng tuyết dầy.
    Bỗng dưng sự yên tĩnh bị phá vỡ vì tiếng la khi một ngôi nhà mở cửa: "Ông đã ở đây" Stephen kêu lên.
    "Ông đã ở đây. Nhìn vớ của tôi đây này! Nó đầy quà như Giáng Sinh lần trước và có một chiếc xe trượt tuyết mới cạnh bệ lò sưởi nữa. Tôi biết mà. Mọi người hãy xem, dậy đi, dây đi, Ni-cô-la đã ở đây."
    Đàn ông, đàn bà, trẻ em nhảy khỏi giường để xem cái gì đang ầm ĩ, những đứa trẻ nhảy ngay đến đống đồ chơi mà chúng chưa từng thấy. Những đồ chơi được đặt quanh lò sưởi, trên bàn, trên ghế và thậm chí bên cạnh giường ngủ của chúng" Toàn bộ dân làng mở cửa và đổ ra đường, bọn trẻ lôi những chiếc xe trượt mới chất đầy những đồ chơi xinh đẹp chưa từng thấy.
    "Cậu thấy cái này chưa, nhìn chiếc thuyền của tớ này!"
    "Chắc ông phải xuống từ ống khói khi ông thấy cửa đóng. Có một ít mồ hóng trên sàn nè."
    "Kỳ diệu nhỉ? Đây là một Giáng Sinh hạnh phúc mà chúng ta chưa bao giờ có!"
    "Bé Stephen có một cây thông trong chậu, trang hoàng với những quà tặng, trái cây và nến, giống như cây mà bọn trẻ Gipxy có nhiều năm về trước"
    "Ừ, Stephen nói, có một cây lớn, có ngôi sao sáng trên chóp"
    "Đó là do Stephen tin vào ông" chúng nói và hổ thẹn với chính mình, "Nhưng bây giờ chúng mình cũng tin"
    Một bà già đang ngắm tất cả những khuôn mặt hạnh phúc, bà nói với giọng vỡ ra, "Ông là một vị thánh".
    "Vâng, giờ đây Ông đã là Thánh Ni-cô-la", bọn trẻ cùng reo lên và toàn thể dân làng đồng thanh hô lên, "Thánh Ni-cô-la! Thánh Ni-cô-la!"
    Một giọng trẻ con ngọng ngịu cũng hòa theo "Xánh Kơ Lô"
    "Giờ đây chúng ta đã tin" bọn trẻ và bố mẹ chúng nói với nhau
    "Làm sao Thánh Ni-cô-la có thể quên chúng ta được. Chúng ta tin rằng Người sẽ đến thăm tất cả chúng ta vào Lễ Giáng Sinh miễn là còn có một trẻ em trong làng"
    "Trong làng ư " bé Stephen nói theo, " phải nói là toàn thế giới rộng lớn này mới đúng" cậu bé la lên với vẻ chiến thắng.
    Hết
     
  16. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Anh em nhà GRIM

    Truyện cổ Grim


    Nàng công chúa chăn ngỗng




    Ngày xưa có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã
    lâu. Bà có một cô con gái rất xinh đẹp. Khi lớn lên, nàng được hứa
    hôn với một chàng Hoàng tử con vua một nước xa xôi. Đến ngày tổ
    chức lễ cưới, nàng công chúa sửa soạn đi nước xa lạ. Mẹ nàng gói
    ghém cho nàng những vật quí giá: đồ trang sức, vàng, bạc, cốc, châu
    ngọc, tóm lại là tất cả những gì xứng đáng làm của hồi môn cho một
    công chúa, vì mẹ nàng rất mực thương nàng. Mẹ nàng gửi gắm
    nàng cho một thị nữ có nhiệm vụ dẫn nàng đi đến chỗ ở người
    chồng chưa cưới. Mỗi người cưỡi một con ngựa. Ngựa công chúa cưỡi
    tên là Phalađa, biết nói. Đến lúc chia tay, bà hoàng vào trong phòng
    ngủ, lấy một con dao nhỏ trích ngón tay, để chảy ba giọt máu. Bà
    cho máu thấm xuống một cái khăn trắng nhỏ, đưa cho cô gái và
    dặn: "Con thân yêu, con hãy giữ gìn cẩn thận cái khăn này, nó sẽ có
    ích cho con trên đường đi".
    Hai mẹ con buồn bã từ biệt nhau. Công chúa áp cái khăn lên
    ngực, nhảy lên yên ngựa để đi đến nơi ở của người yêu. Sau khi đã
    đi một tiếng, cô cảm thấy khát khô họng, bèn bảo thị nữ: "Em hãy
    xuống ngựa, lấy cốc của ta múc nước suối kia và mang lại đây cho
    ta, ta khát nước lắm" - "Nếu cô khát, thị nữ trả lời, thì hãy tự nhảy
    xuống, rồi vươn người ra trên mặt nước mà uống. Tôi không phải là
    đầy tớ của cô".
    Công chúa khát lắm, bèn xuống ngựa, cúi xuống dòng nước
    suối để uống nước. Nàng không dám uống nước bằng cốc vàng. "Trời
    ơi!" nàng kêu to. Ba giọt máu bảo cô: "Nếu mẹ cô biết sự tình thế
    này, thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực". Nhưng công chúa là
    người can đảm. Nàng không nói gì và lại nhảy lên ngựa. Ngựa phi
    được vài dặm. Trời thì nóng nực, chẳng mấy chốc nàng lại khát
    nước. Tới một con sông, nàng bảo thị nữ: "Em hãy xuống ngựa và
    cho ta uống nước bằng cái cốc vàng". Cô đã quên đứt những lời độc
    ác của thị nữ. Nhưng thị nữ lại trả lời ngạo mạn hơn: "Nếu cô khát
    thì tự đi uống nước một mình, tôi không phải là đầy tớ của cô".
    Công chúa khát quá, nhảy xuống ngựa, cúi xuống dòng nước chảy
    xiết, khóc và kêu lên: "Trời ơi!" Ba giọt máu liền đáp lại: "Nếu mẹ cô
    biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà tan nát trong ngực". Trong khi
    cô cúi xuống để uống thì cái khăn có thấm ba giọt máu, tuột khỏi
    ngực cô và trôi theo dòng nước mà cô không hay biết, vì lúc đó cô rất
    sợ hãi. Thị nữ thì lại trông thấy hết và nó rất vui mừng từ giờ trở đi
    công chúa sẽ bị nó trả thù. Từ lúc đánh mất ba giọt máu, công chúa
    trở nên yếu đuối, không đủ sức tự vệ nữa. Khi nàng định trèo lên
    con ngựa Phalađa thì thị nữ bảo: "Tôi sẽ cưỡi con Phalađa, còn cô,
    cô hãy cưỡi con ngựa tồi của tôi". Công chúa đành làm như vậy.
    Tiếp đó thị nữ ra lệnh, lời lẽ gay gắt, bắt nàng phải cởi quần áo
    hoàng cung ra và mặc quần áo của nó vào.
    Cô lại phải thề với trời đất là khi đến cung điện sẽ không nói lộ
    ra. Nếu cô không chịu thề thì nó sẽ giết cô tại chỗ. Nhưng con
    Phalađa đã quan sát tất cả và ghi nhớ tất cả.
    Thị nữ cưỡi con Phalađa, còn công chúa thì cưỡi con ngựa tồi.
    Nó lại tiếp tục đi, cuối cùng đến lâu đài nhà vua. Ở đấy, mọi người
    rất vui mừng khi họ tới, và Hoàng tử vội chạy tới tận nơi đón họ, đỡ
    thị nữ xuống ngựa, vì tưởng rằng đó là vợ chưa cưới của mình. Thị
    nữ đi lên bậc thềm lâu đài, còn nàng công chúa thì phải đứng lại
    ngoài sân. Vua cha nhìn ra, qua cửa sổ thấy nàng duyên dáng và
    tuyệt đẹp. Người vào trong cung hỏi cô gái được coi là vợ chưa cưới
    của Hoàng tử xem cô gái đứng ngoài sân là ai. "Tâu vua cha, con đã
    gặp cô gái đó trên đường đi và con đưa cô ta đi cùng để đỡ lẻ loi một
    mình. Xin vua cha cho cô ta làm việc để cô ta khỏi phải vô công rồi
    nghề".
    Nhưng vua cha không có việc gì giao cho cô làm cả. Người bảo:
    "Ở ngoài kia, ta có một anh chàng chăn ngỗng, hãy để cô ta giúp
    việc vậy. Chàng trai tên là Cuốc. Vợ chưa cưới của Hoàng tử phải
    giúp anh chăn ngỗng.
    Ít lâu sau, vợ chưa cưới giả tâu với hoàng tử: "Chàng thân yêu
    ơi, em muốn một điều, chàng hãy làm vui lòng em". Hoàng tử nói:
    "Được thôi!"
    - Chàng hãy cho gọi người thợ lột da đến đập chết con ngựa em
    đang cưỡi đến đây, vì trong khi đi đường nó làm em bực tức".
    Thật ra thì nó sợ con ngựa kể lại cách nó đã đối xử với công
    chúa. Đến lúc con ngựa trung thành Phalađa phải chết thì công
    chúa được tin. Nàng hứa với người thợ lột da là sẽ bí mật biếu anh
    một đồng tiền bằng bạc nếu anh giúp nàng một việc nhỏ. Trong đô
    thị có một cái cổng to rất tối, hàng ngày, sớm tối nàng phải dẫn đàn
    ngỗng đi qua. Nàng xin người thợ lột da hãy đóng đanh treo đầu
    con Phalađa vào cái cổng ấy để nàng có thể luôn luôn trông thấy nó.
    Người thợ lột da hứa sẽ làm và bác đóng chặt đanh treo đầu ngựa
    vào dưới cái cổng tối om.
    Sáng sớm, khi cùng Cuốc đi qua cổng, cô bảo cái đầu:
    "Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!"
    Cái đầu trả lời:
    "Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết
    nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành"
    Lặng lẽ, cô đi khỏi đô thị, dẫn đàn ngỗng ra cánh đồng. Đến
    đồng cỏ, cô ngồi xuống và rũ tóc ra. Tóc cô óng ánh như vàng
    nguyên chất và Cuốc rất thích nhìn mớ tóc ấy lóe sáng. Anh muốn
    nhổ vài sợi tóc. Công chúa bèn nói:
    "Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ. Hãy cuốn cái mũ
    của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải
    và tết xong".
    Tức thì gió thổi mạnh cuốn đi cái mũ của Cuốc. Anh ta chạy
    theo ngay. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong và anh
    không nhổ được sợi tóc nào. Anh rất bực và không nói năng gì với cô
    nữa. Họ lại tiếp tục chăn ngỗng đến chiều, rồi cùng về nhà.
    Sáng sớm hôm sau, khi lùa ngỗng qua cổng, cô gái nói:
    "Ôi, Phalađa, mày bị treo ở đây ư!"
    Cái đầu trả lời:
    "Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết
    nông nỗi này, tim mẹ sẽ vỡ tan tành"
    Đi ra khỏi đô thị, cô lại ngồi trên đồng cỏ và lại rũ tóc ra chải.
    Cuốc muốn nắm lấy mớ tóc. Cô vội vàng nói:
    "Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ
    của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải
    và tết xong".
    Gió nổi lên, cuốn cái mũ đi. Cuốc phải chạy theo. Khi anh trở
    về thì công chúa đã chải đầu xong từ lâu và anh không nắm được
    mớ tóc ấy. Và rồi hai người lại cùng chăn ngỗng đến chiều.
    Nhưng chiều hôm ấy, về tới nhà, Cuốc đến gặp vua cha và tâu:
    "Kính thưa hoàng thượng, con không thể chăn ngỗng cùng cô gái
    này nữa" - "Tại sao vậy?", vua hỏi. "Suốt ngày, cô ta làm con bực
    mình!" - Vua cha bảo anh kể lại sự việc đã xảy ra. Cuốc nói: "Buổi
    sáng, chúng con dẫn đàn ngỗng qua cái cổng tối om, ở đấy có một
    cái đầu ngựa treo trên tường. Cô ta nói với nó: "Ôi, Phalađa, mày bị
    treo ở đây ư!" Cái đầu trả lời: "Ôi! Nàng công chúa của tôi, nàng
    qua đây ư! Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này tim mẹ sẽ vỡ tan tành"
    Và Cuốc kể các sự việc đã xảy ra ở cánh đồng chăn ngỗng và tại
    sao anh ta lại phải chạy theo cái mũ.
    Vua cha dặn anh ta ngày hôm sau cứ đi chăn ngỗng như
    thường lệ. Sáng sớm ngài thân chinh đến dưới cái cổng tối om và
    nghe được những câu cô gái nói với cái đầu Phalađa. Ông theo ra
    cánh đồng và nấp vào một bụi cây. Chính mắt ngài trông thấy anh
    thanh niên và cô gái lùa ngỗng thế nào và sau một lúc, cô gái ngồi
    xuống gỡ mớ tóc vàng lóe sáng. Rồi cô lại nói:
    "Ta khóc đây, ta khóc đây! Hỡi làn gió nhẹ, hãy cuốn cái mũ
    của Cuốc đi! Anh ta sẽ chạy theo cái mũ cho đến khi nào tóc ta chải
    và tết xong".
    Một cơn gió thổi mạnh, cuốn cái mũ đội đầu của Cuốc đi. Anh
    phải chạy theo rất xa. Cô gái chăn ngỗng chải tóc và cuốn thành
    từng búp. Vua cha nhìn thấy tất cả. Không ai nhận ra ngài khi ngài
    rời khỏi đó. Chiều đến, cô gái về nhà, ngài cho gọi cô đến và hỏi tại
    sao cô lại làm như thế. "Tâu bệ hạ, con không thể nói được", - cô trả
    lời. - "Con không thể kể nỗi khổ của con với bất cứ ai trên thế gian
    này, con đã thề như vậy để khỏi bị người ta giết".
    Vua cha cô ép cô nói, nhưng ngài không biết được gì thêm bèn
    nói: "Nếu con không muốn nói với ta, thì con hãy kể nỗi khổ của con
    với cái bếp lò này". Rồi ông bỏ đi. Cô đến ngồi gần cái bếp lò, than
    khóc, thổ lộ tâm can:
    "Ta ngồi đây, bị cả thế gian ruồng bỏ, dù ta là con vua. Một tên
    thị nữ độc ác đã áp chế ta, bắt ta đổi cho nó quần áo hoàng cung. Nó
    thay thế ta để làm vợ chưa cưới của người yêu ta, và ta bắt buộc
    phải làm công việc bình thường của người chăn ngỗng. Nếu mẹ ta
    biết nông nỗi này, tim bà sẽ tan nát".
    Vua cha đứng ở phía tường bên kia gần ống thông hơi, ngài đã
    nghe thấy hết. Ngài trở về và gọi cô hãy rời cái lò đến gặp ngài.
    Người ta mang đến cho cô quần áo hoàng cung, cô mặc vào đẹp
    như là có phép lạ. Vua cha cho gọi con trai đến và bảo cho con biết
    về cô vợ chưa cưới giả mạo. Cô người yêu thật đứng trước chàng,
    đấy là cô gái chăn ngỗng.
    Hoàng tử thấy cô rất đẹp và phúc hậu nên lòng tràn ngập niềm
    vui. Một bữa tiệc được sửa soạn để mời tất cả các bạn bè thân
    thuộc. Hoàng tử và công chúa ngồi ở đầu bàn, trước mặt họ là con
    thị nữ. Nó bị chỗáng ngợp và không nhận ra cô chủ trang sức lộng
    lẫy. Khi họ đang ăn uống vui vẻ, vua cha ra một câu đố cho thị nữ.
    Nó phải trả lời là một người đàn bà lừa dối chủ thì sẽ bị xử tội như
    thế nào. Ngài kể các sự việc đã xảy ra và hỏi nó: "Như thế sẽ xứng
    đáng với hình phạt gì". - "Nó xứng đáng phải đuổi đi khỏi đất nước"
    - "Kẻ ấy chính là mày, mày sẽ bị xử tội như mày nói".
    Sau khi hình phạt được thi hành, Hoàng tử cưới nàng công
    chúa làm vợ và họ trị vì đất nước trong hòa bình và hạnh phúc.
    Các em được nghe một câu chuyện về cuộc đời. Những người
    hiền hậu, tốt bụng sẽ có hạnh phúc, còn những kẻ có tâm địa xấu xa
    sẽ bị trừng phạt. hết: Nàng công chúa chăn ngỗng, xem tiếp:
     
  17. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Cây củ cải




    Ngày xưa có hai anh em đều đi lính. Anh thì giàu, em thì
    nghèo. Người em không muốn sống nghèo khổ mãi, bỏ lính về làm
    nông dân. Anh cuốc một vạt đất ở đầu cánh đồng và gieo hạt củ cải.
    Mầm mọc, củ lớn dần, lớn dần, lớn không ngừng đến mức có thể coi
    là củ cải chúa, chưa bao giờ từng có củ cải nào to như vậy và cũng
    sẽ chẳng bao giờ sẽ thấy củ cải to như thế. Cuối cùng, nó thành một
    củ cải khổng lồ, một mình nó có thể chiếm hết một xe chở và phải
    gióng hai con bò để kéo xe. Bác nông dân không biết dùng củ cải ấy
    làm gì và tự hỏi không biết đây là phúc hay là họa. Rút cuộc, bác tự
    bảo: "Nếu mang bán thì người ta sẽ trả bao nhiêu? Nếu ăn củ cải
    thì ăn những củ nhỏ cũng đến thế thôi. Tốt nhất là ta mang tiến
    vua để tỏ lòng thành kính".
    Bác khiêng củ cải lên một cái xe, gióng hai con bò, dắt xe đến
    cung nhà vua để dâng vua.
    - Cái vật kỳ lạ này là cái gì vậy?" - Vua phán - Ta đã từng trông thấy
    nhiều vật lạ, nhưng chưa thấy một vật khổng lồ như thế này, không biết mọc từ
    cái hạt giống gì ra? Hoặc giả ngươi là phù thủy và đã đích thân làm ra củ này?
    - Tâu bệ hạ, không phải thế đâu ạ - Bác nông dân trả lời - Thần
    là một anh lính nghèo nuôi thân không xong nên phải thôi lính về
    làm đất. Thần có một người anh giàu có, bệ hạ biết nhiều về anh ấy.
    Nhưng thần thì không có gì, nên bị mọi người ruồng bỏ.
    Nhà vua thương hại bác nông dân và phán:
    - Nhà ngươi sẽ không nghèo đói nữa, ta sẽ ban cho ngươi của
    cải để nhà ngươi cũng giàu như anh nhà ngươi.
    Vua ban cho bác nông dân rất nhiều vàng, ruộng nương, đồng
    cỏ và gia súc, đến mức bác trở nên rất giàu, của cải người anh
    không sánh được.
    Khi người anh biết là em trở nên giàu có nhờ có một cây củ cải,
    thì anh ta ghen tức và nghĩ nát óc ra tìm một cách để cũng gặp may
    như em. Anh láu hơn em, mang biếu nhà vua vàng và ngựa, nghĩ
    rằng vua sẽ ban cho anh nhiều của cải hơn em. Nếu em ta chỉ biếu
    nhà vua có một củ cải mà được vua ban cho chừng nấy của thì vua
    sẽ ban cho ta biết mấy để đáp lại những tặng phẩm quý giá! Vua
    nhận đồ dâng của anh và phán là không có gì quí hơn và hiếm hơn
    là cây củ cải. Vua bèn cho anh cây củ cải to tướng. Người anh đành
    chất cây củ cải của người em lên một cái xe rồi kéo về nhà.
    Về đến nhà, người anh không biết trút cơn tức giận lên đầu ai
    cho tới khi nẩy ra ý nghĩ độc ác là giết em. Anh thuê những kẻ giết
    người và cho chúng nấp ở một nơi. Anh đến gặp em và bảo: "Chú ạ,
    tôi biết nơi cất giấu một kho vàng, chúng ta cùng đi lấy rồi chia
    nhau". Người em đi với anh, không nghi ngờ gì cả. Khi hai người đi
    tới nơi đã định, những kẻ giết người nhảy xổ vào người em, trói em
    lại và chuẩn bị treo cổ lên một cái cây. Khi chúng đang làm việc đó
    thì ở xa có tiếng hát và tiếng vó ngựa vọng lại. Chúng sợ hãi nhét
    người bị bắt - đầu lộn ngược - vào một cái bao, treo lên một cái cây
    rồi chạy trốn. Ở trên cây, người em giãy giụa cho tới khi cái bao bị
    thủng một lỗ, đầu lọt ra. Người đi tới chẳng qua là một cậu sinh
    viên đi lang thang, một thanh niên đang vừa ruổi ngựa trong rừng
    và hát vang lên. Người em ở trên cây thấy có người vừa qua bên
    dưới bèn kêu to:
    - Cậu đến thật đúng lúc!
    Cậu sinh viên ngó quanh, không biết tiếng nói từ đâu ra. Cuối
    cùng cậu nói:
    - Ai gọi tôi thế?
    Từ ngọn cây, người em trả lời:
    - Hãy ngẩng lên mà nhìn. Tôi ở trên cao, trong một cái túi dạy
    khôn. Trong một thời gian ngắn, tôi đã học được không biết bao
    nhiêu điều hay; những điều học ở trường chẳng thấm vào đâu. Tôi
    học sắp xong rồi, tôi sẽ xuống và tôi sẽ giỏi hơn mọi người trên thế
    gian này. Tôi thông thiên văn, biết hướng đi của gió, cát ở ngoài
    biển, cách chữa mọi bệnh tật, công dụng của cây cỏ, các loại chim và
    các loại đá. Nếu anh chui vào đây, anh sẽ thấy ở trong túi dạy khôn
    này hạnh phúc biết chừng nào.
    Cậu sinh viên nghe thấy thế ngạc nhiên vô cùng và nói:
    - Quả là trời phù hộ cho tôi được gặp bác. Bác làm ơn cho tôi
    vào trong túi một lúc có được không?
    Người em trả lời như có vẻ chần chừ: "Tôi cũng muốn để anh
    chui vào một tí nếu anh đưa tôi một ít tiền và ăn nói tử tế, nhưng
    anh hãy đợi một giờ nhé. Còn có điều tôi muốn học thêm đã".
    Cậu sinh viên chờ một chốc, sốt ruột năn nỉ xin người em cho
    chui vào vì anh nóng lòng muốn học khôn. Người em giả bộ như
    cũng chiều ý cậu và nói:
    - Muốn để tôi bước ra khỏi cái nhà dạy khôn này, anh hãy hạ
    túi dọc theo cái dây thừng. Sau đó sẽ đến lượt anh vào".
    Cậu sinh viên hạ người em xuống, mở túi cho anh chui ra. Sau
    đó, cậu kêu lên:
    - Giờ thì hãy kéo tôi lên cao nhanh lên!"
    Rồi anh chui vào trong túi. "Hượm đã!" - người em nói, - "như
    thế chưa được". Anh đẩy cậu sinh viên đầu lộn ngược vào túi, buộc
    miệng túi lại rồi kéo lên cây. Anh đẩy cho cái túi đu đưa trên không
    rồi hỏi:
    - Cậu thấy thế nào hở cậu? Cậu thấy đấy, cậu cảm thấy khôn
    ngoan đang đến đấy, cậu đã học được nhiều. Hãy cứ nằm im, cho
    đến khi nào khôn ngoan hơn."
    Sau đó, người em nhảy lên con ngựa của anh sinh viên và đi.
    Được một giờ, anh cho người đến tháo cho cậu sinh viên xuống.
    “Ở hiền gặp lành" là sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội dung của các
    truyện cổ tích. Trong câu chuyện trên ca ngợi người em sống thật
    thà thì luôn gặp may mắn, hạnh phúc. Người anh tham lam dù có
    cố gắng đến đâu cũng không bao giờ đạt được mục đích. hết: Cây củ cải, xem tiếp:
     
  18. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Lên thiên đàng




    Ngày xưa, một bác bần nông có tuổi và ngoan đạo chết. Bác đến
    trước cổng Trời. Một lãnh chúa rất giàu, chết cùng một lúc với bác,
    cùng đến cổng Trời lúc bác đến. Thánh Pêtrux mang chìa khóa đến
    mở cửa đón ông ta vào. Hình như thánh không thấy bác bần nông
    nên đóng sập cửa lại. Đứng bên ngoài, bác bần nông nghe rất rõ
    tiếng đàn hát đón chào lãnh chúa lên trời. Cuối cùng yên tĩnh trở
    lại.
    Thánh Pêtrux đến, mở cửa Trời cho bác nông dân vào. Bác
    tưởng là cũng sẽ có đàn hát đón chào. Nhưng bốn bề lặng ngắt. Dĩ
    nhiên cuộc tiếp đón thân mật; các thiên thần ra đón bác. Nhưng
    không có ca hát. Bác bần nông hỏi Thánh Pêtrux tại sao người ta
    không ca hát đón bác như đón vị lãnh chúa. Bác thấy hình như ở
    trên trời cũng bất công như ở trần gian.
    Thánh Pêtrux bèn trả lời:
    - Không phải đâu, chúng tôi quý bác như bất cứ một người nào
    khác. Bác sẽ được hưởng thú vui trên trời này như vị lãnh chúa
    giàu có kia. Nhưng bác phải hiểu là những người bần nông như bác
    thì ngày nào cũng có người lên trời. Nhưng lãnh chúa giàu có thì
    hàng trăm năm họa có một người.
    Câu chuyện muốn nói lên rằng: ở bất cứ đâu cũng có người tốt
    kẻ xấu cho dù đó là thiên đàng, nơi mà mọi người quan niệm ở đó có
    nhiều hạnh phúc, công bằng nhất.
     
  19. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Henxen và Grêten




    Ngày xưa có hai vợ chồng một bác tiều phu nghèo khó, sống ở
    ven một khu rừng lớn. Gia đình có hai con. Con trai tên là Hênxen,
    con gái tên là Grêten. Nhà không đủ ăn. Một năm, trời làm đói
    kém, miếng bánh hàng ngày cũng chẳng có. Tối hôm ấy, chồng nằm
    trằn trọc mãi, thở dài bảo vợ:
    - Chả biết rồi sao đây? Lương thực cạn rồi, lấy gì nuôi con?
    Đói khổ khiến người mẹ đâm ra nhẫn tâm. Hết đường xoay xở,
    vợ bảo chồng:
    - Thầy nó ạ, biết sao đây! Ngày mai, sớm tinh mơ, tôi với nhà
    đưa chúng vào rừng rậm, đốt lửa lên, cho mỗi đứa một mẩu bánh
    rồi bỏ chúng đấy mà đi làm. Chúng không biết đường mà về, thế là
    rảnh.
    Chồng đáp:
    - Nhà nó ạ, tôi chịu không làm thế được đâu. Nỡ nào đem bỏ
    con vào rừng cho thú đói ăn thịt!
    - Thầy nó thật là điên. Không làm thế thì chết đói cả bốn mạng,
    chỉ còn việc bào gỗ đóng săng mà thôi.
    Người vợ lèo nhèo mãi, kỳ đến lúc chồng phải làm theo ý mình.
    Chồng nói:
    - Nhưng tôi vẫn thương xót chúng nó lắm!
    Hai đứa trẻ đói quá không ngủ được, nghe được hết. Grêten
    khóc sướt mướt, bảo Hênxen:
    - Anh em mình chết đến nơi rồi.
    Hênxen đáp:
    - Em đừng lo buồn, anh sẽ có cách thoát chết.
    Chờ lúc bố mẹ ngủ rồi, nó dậy mặc áo, mở cửa, lén ra ngoài.
    Trăng sáng. Sỏi trắng ở trước nhà lóng lánh như bạc. Hênxen nhặt
    sỏi bỏ đầy túi áo, rồi về nhà bảo Grêten:
    - Em ơi, cứ yên trí mà ngủ đi.
    Rồi nó lại đi ngủ.
    Tang tảng sáng, mặt trời chưa mọc thì mẹ đã đến đánh thức
    hai con:
    - Đồ lười! Dậy đi, còn phải vào rừng lấy củi chứ!
    Rồi mẹ đưa cho mỗi con một mẩu bánh dặn:
    - Chúng mày cầm lấy mà ăn trưa. Chớ có ăn nghiến ngấu
    trước, không còn nữa mà cho đâu.
    Grêten bỏ bánh vào túi áo và Hênxen đã bỏ đá đầy túi rồi. Cả
    nhà cùng nhau đi vào rừng.
    Đi được một lát, Hênxen chốc chốc lại dừng lại ngoảnh về mé
    nhà. Bố thấy vậy bảo:
    - Hênxen, sao mày cứ lùi lại nhìn gì mãi thế? Liệu đấy, đừng có
    dềnh dàng.
    Hênxen đáp:
    - Con nhìn con mèo trắng của nhà ngồi trên mái từ biệt con
    đấy.
    Mẹ nói:
    - Đồ ngốc! Không phải con mèo đâu, đấy là ống khói phản chiếu
    ánh mặt trời đấy.
    Hênxen lùi lại không phải để nhìn mèo, mà cốt để rắc sỏi trắng
    ra đường.
    Khi đến giữa rừng, bố nói:
    - Chúng mày hãy đi nhặt củi, còn bố đốt lửa để chúng mày khỏi
    rét.
    Hênxen và Grêten đi nhặt củi khô xếp thành đống. Khi ngọn
    lửa đã cao, củi cháy nỏ, mẹ nói:
    - Thôi bây giờ chúng mày nằm gần lửa mà nghỉ. Tao và bố đi
    đẵn củi, xong sẽ quay về đón.
    Hai đứa trẻ ngồi bên lửa. Đến trưa, chúng lấy bánh ra ăn.
    Nghe thấy tiếng bổ vào cây, chúng tưởng bố chúng ở gần đấy.
    Nhưng không phải tiếng rìu của bố, mà đó chỉ là tiếng cành cây bị
    gió đập vào cây khô.
    Chúng ăn xong, mắt díp lại vì mệt, liền ngủ một giấc say. Khi
    chúng thức dậy thì trời đã tối như mực. Grêten khóc nói:
    - Bây giờ làm thế nào mà ra khỏi rừng được?
    Hênxen dỗ em:
    - Em cứ đợi một lát, chờ trăng lên, chúng mình sẽ tìm được lối
    về nhà.
    Khi trăng mọc, Hênxen cầm tay em theo vết sỏi lóng lánh như
    tiền mới mà lần về nhà. Chúng gõ cửa. Mẹ mở, thấy Hênxen và
    Grêten liền nói:
    - Đồ khốn kiếp, sao chúng mày ngủ kỹ ở trong rừng thế? Tao cứ
    tưởng chúng mày không muốn về nữa.
    Bố thấy con về thì mừng lắm vì trong thâm tâm bố không
    muốn bỏ con.
    Sau đó ít lâu, trời lại làm đói kém khắp nơi.
    Một đêm hai anh em nghe thấy mẹ nằm trên giường nói với bố:
    - Mọi thứ lại hết sạch rồi. Chỉ còn có nửa cái bánh ăn nốt là hết
    nhẵn. Phải tống chúng nó đi. Lần này ta đem bỏ chúng vào rừng
    sâu hơn trước để chúng không tìm được lối về. Bằng không thì
    không còn cách nào thoát.
    Người chồng không đành lòng nghĩ bụng:
    - Thà chia nhau với con ăn miếng bánh cuối cùng còn hơn.
    Vợ không nghe, chửi chồng thậm tệ, cho là đã chót thì phải
    trét, lần trước đã theo ý mụ thì lần này cũng phải theo.
    Hai đứa trẻ chưa ngủ, nghe hết những chuyện bố mẹ bàn nhau.
    Khi thấy bố mẹ đã ngủ rồi, Hênxen dậy định ra ngoài nhặt sỏi như
    lần trước. Nhưng mẹ nó đã khóa cửa mất rồi, nó không ra được. Nó
    dỗ em gái:
    - Em ạ, đừng khóc nữa, em cứ ngủ yên đi, anh sẽ có cách.
    Sáng sớm tinh mơ, mẹ kéo cổ chúng dậy, cho mỗi đứa một mẩu
    bánh bé hơn lần trước.
    Dọc đường đi đến rừng, Hênxen cho tay vào túi bẻ vụn bánh mì
    ra và chốc chốc lại dừng lại rắc bánh xuống đất.
    Bố hỏi Hênxen:
    - Sao mày cứ hay dừng chân ngoảnh lại thế? Đi đi.
    Hênxen đáp:
    - Con nhìn con chim bồ câu của con nó đậu trên mái nhà để
    chào con kia kìa.
    Mụ đàn bà nói:
    - Đồ ngốc, không phải là chim bồ câu đâu mà là cái ống khói có
    mặt trời chiếu vào đấy.
    Dù sao, dọc đường, Hênxen cũng rắc được hết bánh.
    Mụ đàn bà dẫn hai con vào tít chỗ rừng sâu mà từ thủa cha
    sinh mẹ đẻ mụ chưa tới bao giờ. Sau khi đốt lửa cháy to lên, mụ nói:
    - Chúng mày ngồi đó. Lúc nào mệt thì ngủ đi một tí. Tao với bố
    mày đi đẵn gỗ, chiều tối xong sẽ quay lại đón chúng mày.
    Đến trưa Grêten chia bánh cho anh vì bánh của anh đã rắc ở
    dọc đường rồi. Ăn xong, chúng ngủ. Tối đến, chẳng ai đến đón hai
    đứa bé đáng thương cả.
    Đêm tối như mực, hai đứa thức giấc, Hênxen dỗ em gái:
    - Em ạ, chờ cho trăng lên, trông rõ bánh anh đã rắc, thì ta lại
    tìm thấy đường về.
    Trăng vừa mọc lên thì hai đứa đứng dậy đi, nhưng chẳng thấy
    tí bánh nào vì hàng ngàn con chim trong rừng đã ăn mất cả rồi.
    Hênxen bảo em:
    - Thế nào rồi chúng ta cũng sẽ tìm được đường.
    Nhưng chúng không tìm ra đường. Chúng đi suốt cả đêm, suốt
    cả ngày hôm sau, mà không ra được khỏi rừng. Hai anh em bụng
    đói như cào mà chỉ nhặt được ít quả dại ở dưới đất.
    Chúng mệt quá, bước không nổi, nằm lăn ra ngủ dưới gốc cây.
    Chúng xa nhà đã ba ngày rồi.
    Chúng lại đi, đâm sâu mãi vào rừng, và nếu không gặp ai cứu
    giúp thì đến chết đói, chết mệt thôi.
    Giữa trưa, chúng thấy một con chim đẹp, trắng như tuyết đậu
    trên cành hót hay lắm. Chúng liền dừng lại để nghe. Chim hót xong
    xòe cánh bay trước mặt chúng. Chúng theo chim đến tận một túp
    nhà con; chim đến đậu trên mái nhà ấy. Chúng lại gần thấy nhà xây
    bằng bánh mì, lợp bằng bánh ngọt, cửa sổ bằng đường trắng tinh.
    Hênxen nói:
    - Thôi ổn rồi. Chúng ta được bữa ăn ngon đấy. Anh ăn một góc
    mái nhà, còn em ăn một mảnh cửa sổ, ngọt đấy.
    Hênxen giơ tay bẻ một mảnh mái nhà để nếm thử và Grêten
    đứng bên cửa kính nhấm nháp một mảnh. Bỗng trong nhà có tiếng
    người nhẹ nhàng vọng ra:
    - Ai gặm nhà ta đấy?
    Hai đứa trẻ đáp:
    - Gió đấy! Gió đấy! Con trời đấy!
    Rồi hai đứa cứ việc ăn, không e ngại gì cả.
    Hênxen thích ăn mái nhà, bẻ một miếng tướng, và Grêten cũng
    gỡ lấy cả một khung kính tròn xuống.
    Bỗng cửa mở, một bà lão bé nhỏ chống nạng rón rén bước ra.
    Hai anh em sợ rụng rời, đánh rời hết cả các thứ cầm trong tay. Bà
    lão lắc lư đầu, nói:
    - Các cháu yêu dấu, ai đưa các cháu đến đây? Các cháu đừng
    sợ, cứ vào. Ở đây với bà, bà không làm gì đâu.
    Bà lão dắt hai đứa vào, cho ăn ngon: sữa, bánh tráng đường,
    táo và hạnh đào. Rồi bà sửa soạn hai cái giường nhỏ xinh đẹp trắng
    tinh cho hai đứa trẻ ngủ. Hai đứa bé ngỡ là ở trên thiên đàng.
    Nhưng mụ già chỉ giả bộ tử tế ngoài mặt đó thôi. Đó là một mụ
    phù thủy gian ác rình bắt trẻ con nên làm nhà bằng bánh kẹo để
    nhử chúng. Khi thấy hai đứa bé vừa tới, mụ đã cười nham hiểm mà
    nói đùa:
    - Chúng mày vào tay bà rồi, có bay lên trời cũng chẳng thoát
    được tay bà.
    Sáng sớm, mụ dậy trước hai đứa, thấy chúng ngủ thật đáng
    yêu, má hồng phinh phính, mụ lẩm bẩm:
    - Thật là món ngon.
    Mụ đưa đôi tay khô héo ra nắm lấy Hênxen đem nhốt vào một
    cái cũi nhỏ, đóng cửa chấn song lại. Thằng bé kêu gào mãi mụ cũng
    mặc kệ.
    Rồi mụ đánh thức Grêten dậy bảo:
    - Đồ con gái lười chảy thây, đi dậy lấy nước làm một bữa ngon
    cho anh mày. Nó ở trong cũi kia, tao muốn nó chóng béo. Khi nào
    nó thực béo, tao sẽ ăn thịt.
    Grêten khóc thảm thiết, nhưng nào có ích gì, vì con mụ phù
    thủy sai gì phải làm nấy.
    Hênxen được ăn thức ăn nấu nướng ngon lành còn Grêten phải
    ăn thừa.
    Sáng nào mụ già cũng lê đến bên cũi bảo Hênxen:
    - Giơ ngón tay tao xem đã béo chưa.
    Hênxen chỉ đưa cho mụ xem một cái xương nhỏ. Mắt kém, mụ
    tưởng đó là ngón tay thật, lấy làm lạ sao không thấy béo.
    Được một tháng vẫn không thấy Hênxen béo lên chút nào mụ
    đâm ra sốt ruột, không muốn chờ nữa. Mụ gọi Grêten:
    - Con Grêtên đâu? Nhanh lên, đem nước lại đây, thằng Hênxen
    dù béo hay gầy, ngày mai tao cũng cứ làm thịt đem nấu.
    Khốn nạn con bé vừa xách nước vừa khóc, nước mắt dòng dòng
    hai má. Nó kêu la:
    - Lạy trời phù hộ cho chúng con. Thà để thú dữ ăn thịt trong
    rừng thì hai anh em cũng được cùng nhau chết.
    Mụ già bảo:
    - Thôi đừng kêu khóc nữa mà vô ích.
    Mới bảnh mắt, Grêten đã phải đặt nồi, lấy nước và dóm bếp.
    Mụ già bảo:
    - Hãy nướng bánh trước đã. Tao đã dóm lò và nhào bột rồi.
    Mụ đẩy Grêten đáng thương tới bên lò.
    Ngọn lửa trong lò đã bắt đầu bốc lên. Mụ già bảo:
    - Mày bò vào lò xem đủ nóng chưa, để cho bánh vào nướng.
    Mụ định khi Grêten vào lò rồi thì đóng nắp lại, quay ăn một
    thể. Nhưng Grêten biết ý nói:
    - Cháu không biết làm thế nào mà vào được.
    Mụ già nói:
    - Đồ ngu như bò, lò có cửa khá rộng cơ mà. Trông đây này, tao
    vào cũng còn lọt nữa là mày.
    Mụ lại gần lò và thò đầu vào. Grêten liền đẩy mạnh mụ vào,
    đóng cửa sắt lại, rồi cài then ở ngoài.
    Mụ già rú lên khủng khiếp nhưng Grêten đã bỏ chạy để mặc
    mụ chết thiêu. Em chạy thẳng đến cũi vừa mở cửa cho anh vừa reo:
    - Anh ơi, anh em ta thoát rồi, con mụ phù thủy đã chết rồi.
    Cửa vừa mở thì Hênxen nhảy ra như con chim trong lồng được
    thả. Hai anh em vui mừng, ôm nhau hôn. Bây giờ chúng không còn
    sợ gì nữa, chúng đi xem nhà mụ già thì thấy ở xó nào cũng có
    những hòm đầy ngọc.
    Hênxen vừa ních đầy túi vừa nói:
    - Của này quí hơn sỏi.
    Còn Grêten nói:
    - Em cũng phải lấy về nhà mới được.
    Lấy đầy túi rồi, em nói:
    - Bây giờ hai anh em ta đi ra khỏi khu rừng của mụ phù thủy
    đi.
    Đi được vài giờ, chúng đến bên một cái đầm lớn. Hênxen nói:
    - Anh không thấy có cầu, qua sao được?
    Grêten bảo:
    - Một chiếc thuyền nhỏ cũng chẳng có. Nhưng kia có vịt trắng
    đang bơi, để em nhờ nó giúp.
    Rồi em bảo vịt rằng:
    - Vịt ơi vịt, Grêten và Hênxen đây. Kè chẳng có, cầu cũng
    không, Hãy cõng anh em tôi qua với.
    Vịt đến. Hênxen cưỡi lên lưng vịt và bảo em lên ngồi cạnh
    mình.
    Em đáp:
    - Thôi anh ạ, ngồi thế nặng quá. Để vịt cõng từng người một.
    Vịt tốt bụng cõng làm hai chuyến.
    Đến bờ bên kia, hai anh em nhận dần ra đường lối trong rừng
    quen thuộc, và nhìn thấy nhà ở đằng xa. Chúng liền chạy ba chân
    bốn cẳng, nhảy bổ vào nhà, ôm ghì lấy cổ bố mẹ.
    Từ ngày bỏ con trong rừng, bố mẹ không lúc nào vui.
    Grêten dốc túi ngọc xuống đất và Hênxen thò tay vào túi lấy ra
    từng nắm ngọc.
    Từ đó, cả nhà hết lo và cùng nhau sống một cuộc đời hạnh
    phúc.
     
  20. khuchaivan

    khuchaivan Khúc Hải Vân

    Tham gia:
    10/5/2009
    Bài viết:
    2,455
    Đã được thích:
    1,221
    Điểm thành tích:
    913
    Ðề: Truyện cổ tích thế giới

    Chú Hanh lười biếng




    Hanh tính lười biếng. Chú chẳng phải làm gì khác ngoài việc
    hàng ngày chăn một con dê ở ngoài cánh đồng. Ấy vậy mà chiều tối,
    hết ngày, về nhà, chú còn thở ngắn than dài: "Chăn dê ngoài đồng
    cả năm, cho đến tận cuối thu quả là một gánh nặng, một việc vất
    vả". Giá mà có thể nằm ngủ lại đi một nhẽ! Nhưng không! Luôn
    luôn phải mở mắt ra để canh, sợ dê nó phá hoại cây non, nhảy qua
    rào vào vườn, hoặc từ đó chạy trốn. Thế thì còn làm thế nào được
    nghỉ ngơi một chút cho thoải mái!" Chú ngồi suy nghĩ tìm cách trút
    được cái gánh nặng. Một thời gian dài, chú không tìm ra được cách
    gì. Nhưng rồi một hôm, bất chợt, trong đầu lóe ra một ý nghĩ như là
    cái màng che mắt rơi xuống: "Mình biết là phải làm gì rồi!" Chú kêu
    lên. "Mình chỉ cần lấy cô Tơrinô đẫy đà thôi. Cô ta cũng có một con
    dê. Cô ta sẽ chăn con dê của mình cùng với con dê của cô ả. Như
    vậy, mình sẽ không còn tự mình phải làm khổ mình mãi nữa".
    Hanh bèn đứng dậy và cử động đôi chân, đôi tay mệt mỏi. Chú
    tạt ngang đường (đường cũng không còn xa) mà đến nhà bố mẹ cô
    Tơrinô đẫy đà xin cưới cô gái chăm chỉ và đức hạnh. Bố mẹ cô
    không loại trừ: "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", hai cụ nghĩ bụng và
    nhận lời ngay lập tức. Thế là cô Tơrinô đẫy đà làm vợ chú Hanh và
    chăn cả hai con dê. Chú Hanh sống thoải mái, không còn phải nghĩ
    ngợi đến công ăn việc làm nữa mà chỉ còn nghỉ ngơi do cái mệt của
    lười biếng gây ra, thỉnh thoảng chú đi chăn cừu cùng cô và bảo cô:
    "Tôi chỉ làm để hưởng được cái thú nghỉ ngơi thôi. Nếu không sẽ
    không tận hưởng được cái thú đó!"
    Cô Tơrinô đẫy đà cũng lười biếng không kém gì chồng. "Anh
    Hanh yêu quý của em ơi, - một hôm cô bảo anh, - tại sao chúng ta
    phải sống cơ cực khi không cần thiết, để phí hoài ngày xanh? Hai
    con dê của chúng mình sáng nào cũng kêu be be đánh thức chúng
    mình dậy giữa lúc đang ngủ ngon. Tại sao chúng mình không đổi
    cho bác hàng xóm lấy một đõ ong? Chúng mình sẽ chỉ việc đặt đõ
    ong ở đằng sau nhà, ở một góc có nắng và không còn mất công chăm
    sóc gì nữa. Không cần phải canh ong, hoặc dẫn chúng ra đồng. Ong
    tự bay đi, tự tìm đường về nhà và tự làm ra mật mà ta không cần
    phải bận tâm đến".
    "Em đúng là một người đàn bà thông minh, - Hanh nói - Chúng
    ta sẽ thực hiện ý đó tức thì. Cũng phải nói thêm là mật ong ngon
    hơn và bổ hơn sữa dê, lại để được lâu hơn".
    Bác hàng xóm bằng lòng đổi đõ ong lấy hai con dê. Không mệt
    mỏi, ong bay đi bay lại, từ sáng đến tối làm đầy đõ mật ngon. Khi
    mùa thu hái đến, Hanh thu hoạch được một vò mật đầy. Hai vợ
    chồng đặt vò mật lên cái giá ở đầu giường. Như vậy, là có thể với
    được gậy để đuổi những khách không mời mà đến, mà không phải
    nhổm dậy. Chú Hanh lười biếng không ra khỏi giường trước lúc
    giữa trưa. "Kẻ nào dậy sớm, - chú tự nhủ, - là phung phí của cải".
    Một buổi sáng, mà chú Hanh vẫn còn nằm ườn trong chăn để
    cho đỡ mệt và ngủ. Chú bảo vợ: "Trước khi em ăn hết mật, tốt nhất
    là ta đem mật đổi lấy một con ngỗng mẹ với một con ngỗng con".
    Tơrinô cãi ngay lại: "Nhưng phải đợi đến lúc nào ta có đứa con để
    nó chăn ngỗng rồi hãy đổi. Tôi là tôi không chịu chăn ngỗng cho
    mệt và mất sức, khi không cần thiết".
    "Em tưởng là con nó sẽ chăn ngỗng à? - Hanh nói - Thời buổi
    này, trẻ con không vâng lời nữa đâu. Chúng chỉ làm theo ý chúng vì
    chúng cho là chúng khôn hơn bố mẹ. Ấy cứ y như là cái thằng đầy
    tớ nọ phải tìm bò mà lại chạy theo ba con sáo".
    "Ồ! Nó cứ liệu hồn nếu nó không làm theo lời em! Em sẽ lấy
    gậy nện cho nó túi bụi. Rồi anh sẽ thấy, anh Hanh ạ, - cô hăng lên
    hét và vơ lấy cái gậy dùng để đuổi chuột, - em sẽ đánh nó thế này
    này, cô khua cái gậy và chẳng may va phải cái vò mật ong đặt ở đầu
    giường. Vò va vào tường vỡ thành nghìn mảnh. Mật ong ngon lành
    chảy khắp mặt đất.
    "Đấy là ngỗng mẹ và ngỗng con, - Hanh nói - Không cần phải
    chăn ngỗng nữa. Cũng còn may là vò mật không rơi xuống đầu.
    Chúng ta thật quả là còn mừng vì số hãy còn may". Nhìn thấy một
    ít mật còn dính ở mảnh vò vỡ, chú nói thêm một cách vui vẻ: "Nhà
    nó ạ, giờ chúng ta nhấm nháp chút mật còn sót lại này, rồi nghỉ
    ngơi cho quên nỗi khủng khiếp vừa rồi. Chúng ta có dậy muộn hơn
    thường ngày một chút cũng không hề gì. Ngày cũng đủ dài cơ mà!".
    - Đúng rôi, - Tơrinô trả lời, - làm tốt thì lúc nào chả được. Anh
    biết chuyện con ốc sên đi dự đám cưới rồi chứ. Nó lên đường, và khi
    đến nơi là lúc đứa con chịu lễ rửa tội. Đến trước nhà, nó va vào
    tường, bèn nói: "Vội vàng là không hay!".
    Các em được đọc một truyện rất bổ ích. Truyện đã nêu lên một
    bài học: kẻ lười biếng thì không thể làm được việc gì mà còn bị mọi
    người chê cười.
     

Chia sẻ trang này