Tóm tắt Hàng trăm công trình nghiên cứu, đã chỉ ra cảm xúc của cha mẹ đặc biệt là người mẹ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ sau này. Hơn nữa các công trình khoa học cũng khẳng định năng lực làm chủ cảm xúc của cha mẹ, cũng như cách thức biểu hiện cảm xúc sẽ tạo nên số phận của trẻ trong tương lai. Từ kết quả nghiên cứu khoa học trên chúng tôi có đưa ra một số cách thức giáo dục trí tuệ cảm xúc cho trẻ để cho trẻ phát triển tâm lý, nhân cách tốt nhất. 1. Cảm xúc của cha mẹ ảnh hưởng đến nhân cách của trẻ Những công trình nghiên cứu đầu tiên của Darwin (1872, 1877) và những công trình nghiên cứu hiện đại của Izard, 1971, chứng minh rằng những cảm xúc nền tảng (hứng thú, hồi hộp, vui sướng, ngạc nhiên, đau khổ, căm giận, ghê tởm, khinh bỉ, khiếp sợ, xấu hổ, tội lỗi) có cùng cách biểu hiện và đặc điểm kinh nghiệm ở những xã hội rất khác nhau. Một số công trình nghiên cứu khác chỉ ra rằng những cảm xúc nền tảng được đảm bảo bởi những chương trình thần kinh bẩm sinh. Như vậy, những cảm xúc nền tảng đều có nguồn gốc sinh học. Tuy nhiên mỗi người đều có thể học được cách kiềm chế hay biến đổi những biểu hiện cảm xúc có tính bẩm sinh của mình. Những người thuộc tầng lớp xã hội khác nhau hay ở các nền văn hóa khác nhau học được cách biểu cảm bằng nét mặt khác nhau, có thể giấu những biểu hiện cảm xúc có tính bẩm sinh. Như vậy, những cảm xúc bẩm sinh người ta hoàn toàn có thể học được cách biểu hiện bằng con đường giáo dục. Phương thức biểu hiện những cảm xúc nguyên mẫu là bẩm sinh. Tuy nhiên phương thức bẩm sinh đó có phát triển không và phát triển như thế nào, lại do tự tạo, do giáo dục của từng nền văn hóa khác nhau. Giáo dục cảm xúc giúp con người hiểu được cảm xúc đúng tình huống, hoàn cảnh phù hợp đồng thời cũng giúp con người biết cách kiềm chế cảm xúc khi cần thiết. Cảm xúc là kết quả của giáo dục vì vậy, bậc làm cha làm mẹ hãy giáo dục cảm xúc cho con cái của mình để phát triển tình cảm một cách tốt nhất. Trong cuộc sống, mỗi cá nhân đều tạo ra cho mình rất nhiều mối quan hệ khác nhau trong xã hội. Nhưng mối quan hệ đầu tiên và quan trọng nhất là mối quan hệ giữa người mẹ với đứa con của mình. Thực ra, mối quan hệ này trước đây chúng ta chưa quan tâm đến nhiều cũng như không tìm hiểu rõ mối quan hệ này sẽ ảnh hưởng như thế nào tới sự phát triển nhân cách, tâm lý của đứa trẻ sau này cũng như thay đổi tâm lý của chính người mẹ. Mãi đến giữa những năm 60 của thể kỷ XX, các nhà tâm lý học đã đi sâu tìm hiểu mối quan hệ đặc biệt này và sử dụng thuật ngữ “sự gắn bó” để diễn tả nó. Sự gắn bó mẹ con được đặc trưng bởi cảm xúc nồng ấm cùng với sự giao lưu tình cảm sâu sắc giữa mẹ và con. Nhà tâm lí học Ainsworth, 1983, đã coi những cách thức cư xử biểu hiện sự gần gũi của trẻ và mẹ là những yếu tố hành vi của sự gắn bó, bao gồm: hành vi mang tính dấu hiệu (khóc, cười, nói); hành vi mang tính định hướng (nhìn); hành vi lôi cuốn sự chú ý (dõi theo, đến gần) và cả các hoạt động tích cực để có được sự tiếp xúc cơ thể (thử leo trèo, ôm ấp, hôn hít, ghì chặt, siết chặt, nắm lấy). Sự gắn bó có được từ cả hai phía (trẻ và mẹ), gắn liền với các cảm xúc và sự giao lưu tình cảm yêu thương gần gũi. Còn Ainsworth cho rằng nếu thiếu các cách thức cư xử nói trên thì những mối quan hệ cảm xúc khó có thể hình thành. Ví dụ: làm sao có thể nói về tình cảm gắn bó gần gũi ở những đứa trẻ có biểu hiện thường xuyên lảng tránh khi người mẹ muốn tiếp xúc với chúng; hoặc ở những trẻ không cười, không có biểu hiện thích thú khi người mẹ xuất hiện. Rõ ràng, người mẹ (người chăm sóc) cần phải tích cực, chủ động hơn trong khi tiếp xúc với trẻ để làm tăng thêm sự gắn bó. Những hành động ban đầu ở trẻ cần được đáp lại bằng những phản ứng phù hợp từ phía người lớn như: chuyện trò, mỉm cười và gần gũi trẻ. Những cách cư xử của người lớn cũng lại gây ra những phản ứng nào đó ở trẻ. Nếu cha mẹ và những người gần gũi với trẻ luôn có những biểu hiện cảm xúc phù hợp thì họ có thể giúp cho trẻ học điều khiển những cảm xúc của mình và mối quan hệ giữa trẻ với cha mẹ là mối quan hệ của sự tin tưởng và an toàn. Nhà tâm lí học Bowbly, 1973, đã khẳng định rằng, ngay từ khi vừa mới sinh ra, trẻ đã có các cách thức cư xử cho phép gần gũi với mọi người, trẻ luôn ở trong trạng thái sẵn sàng đáp lại những tín hiệu giao tiếp của người lớn. Theo Bowbly thì những cách thức cư xử như thế được hình thành ở con người và những loài động vật khác trong quá trình tiến hoá, trong quá trình sống, quá trình trưởng thành và trong di truyền. Bowbly khẳng định rằng sự gắn bó được hình thành dựa trên những cách thức cư xử đã lập trình sẵn của trẻ và của những người quan tâm đến trẻ, sau đó sự gắn bó được củng cố bằng các hoạt động, các biểu hiện bên ngoài nhằm thoả mãn nhu cầu của trẻ. Do đó, di truyền và môi trường có ảnh hưởng đến sự phát triển cũng như duy trì sự gắn bó giữa trẻ và người lớn. Theo Bowbly, sự gắn bó của trẻ với người đầu tiên quan tâm đến trẻ được hình thành dưới dạng mô hình giải phẫu bên trong hoặc dưới dạng hệ thống vào cuối năm đầu sau khi sinh. Trẻ sử dụng mô hình này để cố gắng đoán trước và giải thích cách cư xử của mẹ đồng thời điều khiển các phản ứng của riêng mình. Ngay sau khi mô hình giải phẫu sinh lý bên trong được hình thành, trẻ vẫn tiếp tục duy trì, củng cố mô hình đó ngay cả khi các cư xử của những người quan tâm đến trẻ thay đổi. Ví dụ, nếu mẹ bị ốm, một thời gian dài không quan tâm chăm sóc trẻ được, sau khi bình phục, người mẹ tiếp tục quan tâm đến trẻ thì trẻ vẫn chấp nhận việc mẹ ít quan tâm đến mình nhưng với trạng thái không thoải mái. Điều đó dẫn đến việc các bà mẹ cảm thấy khó khăn hơn trong việc thể hiện sự gần gũi của mình với trẻ sau một thời gian xa cách (Bretherton, 1992). Cuối cùng các nhà tâm lí học Bowbly và Ainsworth đi đến khẳng định rằng, kiểu quan hệ giữa cha mẹ và trẻ được hình thành trong quá trình phát triển sự gắn bó hai năm đầu đời sẽ tạo cơ sở cho sự hình thành những mối quan hệ về sau này. Các nhà tâm lí học trong suốt thời gian dài đã cho rằng sự gắn bó của trẻ với người lớn chỉ xuất hiện khi người lớn thoả mãn những nhu cầu của trẻ. Người ta cho rằng trẻ học được cách gần gũi với người lớn bằng việc người lớn thoả mãn những nhu cầu sinh học của trẻ, ví dụ như cho trẻ ăn (Sears, 1963). Tuy nhiên các cuộc nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng việc quan tâm đáp ứng nhu cầu của trẻ chỉ là một trong nhiều nguyên nhân tạo ra sự gắn bó ban đầu ở trẻ. Gia đình là nơi đứa trẻ nhận được sự giáo dục cảm xúc đầu tiên. Thời thơ ấu trẻ học được những bài học xúc cảm quan trọng nhất và những bài học ấy đôi khi quyết định tiến trình cả cuộc đời của một con người. Sự giáo dục xúc cảm của bố mẹ không chỉ qua những gì bố mẹ nói và làm đối với con cái mà còn bằng tấm gương của bố mẹ trong quan hệ xúc cảm đối với nhau. Bố mẹ cần chỉ cho con thấy là có nhiều cách để phản ứng; dạy và giúp con chế ngự cảm xúc và tìm được cách giải quyết vấn đề theo lối tích cực. Bố mẹ có ảnh hưởng đến sự am hiểu xúc cảm bắt đầu từ lúc trẻ nằm trong nôi. Theo nghiên cứu của Ekman, 1972; Izard, 1971 thì sự giao tiếp cảm xúc tạo ra sự quyến luyến của người mẹ đối với đứa trẻ. Nhiều nhà khoa học xem sự quyến luyến của người mẹ và đứa trẻ như là cơ sở quan trọng đối với sự phát triển xã hội và tâm lý của trẻ. Tất cả những gì tạo nên sự gắn bó, quyến luyến đều có mối liên hệ chặt chẽ với cảm xúc. Cảm xúc là nơi biểu hiện của tình cảm. Xúc cảm của người mẹ có vai trò rất quan trọng đối với đứa trẻ, nhất là những năm tháng đầu đời. Sự biểu hiện cảm xúc của người mẹ tạo nên sự gắn bó mẹ con, ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nhân cách, tâm lý của trẻ sau này. Người mẹ gây ra cảm xúc cho đứa trẻ từ lúc lọt lòng, lặp lại liên tục và đa dạng các cảm xúc yêu thương và dần dần hình thành tình cảm mẹ con. Các bậc cha mẹ không để cảm xúc chi phối cách dạy con như: khi tức thì quát tháo, khi vui thì ngọt ngào, từ đó sẽ tạo cho trẻ sự nghi ngờ. Muốn cho cảm xúc của một đứa trẻ hình thành và phát triển một cách tốt đẹp thì bố mẹ cần làm chủ được chính cảm xúc của mình để điều khiển cảm xúc, dẫn dắt cảm xúc của chính mình và của đứa trẻ. Giáo dục cảm xúc có tác dụng và cần thiết đến suốt cuộc đời của một con người. Sự gắn bó mẹ con là mối liên hệ cảm xúc nào đó giữa cha mẹ và con cái. Nó chứa đựng các yếu tố như tình cảm gần gũi và yêu thương. Sự gắn bó tác động theo hai hướng: cha mẹ gắn bó mạnh mẽ hơn với con mình, và ngược lại con cái với cha mẹ. Mối liên hệ qua lại đó giữa cha mẹ và con cái được bắt đầu từ khi sinh đẻ và tiếp tục sâu sắc hơn trong suốt lứa tuổi hài nhi của trẻ. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Châu Giang trong tác phẩm “Năng lực cảm xúc của cha mẹ và số phận của con”, đã chỉ rõ: những đứa trẻ trong gia đình luôn luôn có cách ứng xử (giáo dục con cái theo cách tiêu cực như: thường xuyên cáu gắt, mắng mỏ, tức giận, đánh đập…, trẻ sẽ hình thành cho mình sự bi quan, nghi ngờ, sống khép nép, hư hỏng hoặc bất cần đời). Như vậy, khả năng làm chủ cảm xúc của cha mẹ ảnh hưởng lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ. Chúng ta thấy rằng những cách biểu hiện cảm xúc của cha mẹ đối với con cái trong đời sống hàng ngày sẽ là tiền đề để hình thành nhân cách cho trẻ (trở nên tự tin hay hoài nghi, hư hỏng hay không)… Trong cách giáo dục cảm xúc cho trẻ cũng như cách thể hiện cảm xúc, cha mẹ phải thận trọng. Tác giả cuốn sách còn đưa ra luận điểm: cha mẹ cũng cần hiểu được con mình đang buồn, giận, sợ ra sao để mình phản hồi cảm xúc trở lại bằng thái độ và lời nói thể hiện là mình đồng cảm với trẻ. Có sự đồng cảm, trẻ sẽ bộc lộ tâm tình và qua đó cha mẹ dẫn dắt con làm chủ cảm xúc, biết điều khiển cảm xúc trong quan hệ người - người. PGS.TS. Lê Khanh chỉ rõ chính từ cái nôi gia đình, ngay từ lúc lọt lòng mẹ, đứa trẻ đã nhận được sự giáo dục cảm xúc đầu tiên thông qua cử chỉ âu yếm hay dửng dưng; yêu thương, trừu mến hay độc ác, tàn nhẫn….của những người trực tiếp chăm sóc, đặc biệt là người mẹ. Hàng trăm công trình nghiên cứu đã khẳng định rằng, cách đối xử trực tiếp của cha mẹ đối với con cái, cũng như cách cha và mẹ thể hiện tình cảm với nhau trước mặt chúng có những ảnh hưởng sâu xa và lâu bền đối với đời sống xúc cảm - tình cảm cũng như sự phát triển tâm lý của chúng. Cảm xúc của cha mẹ, khả năng cha mẹ nhận thức được cảm xúc của bản thân, cảm xúc của con là yếu tố không thể thiếu cho sự hình thành nhân cách của trẻ. Năng lực làm chủ cảm xúc của cha mẹ sẽ ảnh hưởng tốt hoặc xấu đến tương lai của trẻ thơ. Nếu cha mẹ quá chiều chuộng con cái, không biết kiềm chế cảm xúc yêu con quá mức sẽ dẫn đến con hư hỏng hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt nào đó, khi phải xa cha mẹ (do bình thường luôn được yêu thương, chăm sóc, bao bọc) đứa trẻ bị hụt hẫng về tình cảm, cảm thấy trống vắng, không gì có thể bù đắp nổi. Đứa trẻ trở nên lầm lì ít nói, thu mình không muốn giao tiếp với bất cứ ai, học hành chểnh mảng….Có những ông bố bà mẹ thì ngược lại, cáu giận con liên tục – không làm chủ được cảm xúc tiêu cực, khi giận con thì mắng té tát, hạ giá con với những lời xúc phạm làm mất đi ý thức phẩm giá, lòng tự trọng, tự tin ở con khiến con căm tức, rối trí có thái độ hỗn láo, thù địch rất tai hại cho việc phát huy những tiềm năng của trẻ và ảnh hưởng xấu đến số phận tương lai. Còn có những ông bố bà mẹ không quan tâm đến mong muốn, khát vọng của con, tình cảm của con, chỉ quan tâm đến tiền và đáp ứng nhu cầu vật chất của con, khiến con họ đi vào con đường nghiện ngập, chơi bời lêu lổng, không biết quí trọng đồng tiền mà chỉ biết phá phách, không biết yêu lao động. Có gia đình thì quá coi trọng nam mà khi sinh con lại sinh con gái thì hắt hủi, không quan tâm gì đến con, không dành thời gian trò chuyện, vuốt ve, âu yếm con, thể hiện niềm vui hạnh phúc khi có con ở trên đời này, khiến đứa trẻ tủi thân, thu mình, coi mình là người thừa, không giá trị gì đối với cha mẹ, gia đình và trên đời này v. v…Có vô vàn những câu chuyện như thế. Những điều trên cho thấy, năng lực, cảm xúc của cha mẹ rất quan trọng cho sự hình thành nhân cách của trẻ, số phận của trẻ, bởi lẽ đó, cha mẹ phải rèn luyện cho mình năng lực cảm xúc để làm gương cho con và có những kỹ năng cần thiết để giúp con phát triển hài hòa tâm trí, thành đạt và hạnh phúc ở đời. 2. Một số cách thức giáo dục cảm xúc cho trẻ Trước khi đi vào nội dung chính, chúng tôi nói qua về khái niệm “trí tuệ cảm xúc” bởi trong những gì chúng tôi chia sẻ dưới đây, sẽ sử dụng rất nhiều khái niệm này. “Trí tuệ cảm xúc” được hiểu: mình biết rõ về cảm xúc của bản thân và có thể cảm nhận được cảm xúc của người khác để điều khiển cho chính cảm xúc của mình. Người có năng lực làm chủ cảm xúc là người có khả năng nhận dạng cảm xúc, hiểu được ý nghĩa của chúng và nhận ra tác động của chúng đối với những người xung quanh – họ chính là những người giàu trí tuệ cảm xúc. Để cho con sau này là người có trí tuệ cảm xúc, việc đầu tiên mà cha mẹ cần phải làm đó là cần hình thành cho trẻ thói quen biết quan tâm, chia sẻ cả về công việc lẫn tình cảm với những người thân trong gia đình, hàng xóm, bạn bè…Đây tưởng như là những công việc đơn giản nhưng trong đó chứa đựng cả sự kiên trì, tình yêu thương, trách nhiệm của cha mẹ với tương lai đứa con của mình. Hơn nữa cha mẹ cũng không được nuông chiều quá mức. Đối với trẻ, sẽ có rất nhiều đòi hỏi mà cha mẹ cần đáp ứng. Nhưng trong những đòi hỏi của trẻ, sẽ có rất nhiều đòi hòi vô lý, trường hợp này cha mẹ không nên chiều. Đây chính là công việc giúp trẻ biết hạn chế cũng như điều khiển cảm xúc của chính mình. Thứ nhất: Cha mẹ có thể giải thích cho bé hiểu sự liên quan giữa những hành vi của bé với cảm xúc của những người xung quanh. Ví dụ, khi bé giành đồ chơi của bạn: “Thử tưởng tượng con là bạn, khi bị giật món đồ chơi mình rất quý, con cảm thấy thế nào?”. Đó cũng chính là cách bạn giúp bé hiểu được cảm xúc của người khác cũng như của chính mình... Những thói quen tốt, dù rất nhỏ song sẽ hình thành cho trẻ một nhân cách đẹp và tâm hồn nhạy cảm. Thứ hai: Nên giúp trẻ gọi tên cảm xúc của mình, xây dựng cho nó vốn từ vựng cảm xúc như buồn, vui, giận, lo sợ... Ví dụ, cho trẻ xem nhiều bức ảnh diễn tả các trạng thái cảm xúc khác nhau và giải thích. Nếu trẻ thất vọng vì mất đồ chơi, đừng bảo nó là "không sao đâu, đừng khóc" mà hãy tận dụng cơ hội này dạy trẻ, các khái niệm về xúc cảm. Ví dụ, hãy hỏi trẻ có thích đồ chơi ấy không, tại sao, như vậy con bạn sẽ bộc lộ, miêu tả được cảm xúc dưới nhiều góc độ hơn. Thứ ba: Nên để trẻ quan sát cảm xúc của người xung quanh, chẳng hạn như "Hôm qua bà nội vui lắm, bà cười nhiều. Tại sao bà vui? Vì cu Tí biết nhường đồ chơi cho em...". Như vậy, trẻ không chỉ nhận biết cảm xúc của người khác mà còn hiểu nguồn gốc những cảm xúc đó, cũng như ảnh hưởng của cảm xúc đó đến mọi người. Từ đó, trẻ sẽ biết điều chỉnh cảm xúc, hành vi của mình - một khả năng rất cần thiết để thành công trong cuộc sống. Thứ tư: Với trẻ dưới 6 tuổi, cần hạn chế tối đa sự trừng phạt (nhưng phải chỉ ra lỗi) và hào phóng, thậm chí không giới hạn lời khen, miễn là khen có lý. Với trẻ nhỏ, đừng lạm dụng lời giáo huấn vì "Không phải lời giáo huấn, mà chính sự trải nghiệm sẽ có tác dụng với trí tuệ cảm xúc của trẻ". Tùy từng trường hợp cụ thể, người làm cha mẹ sẽ biết nên nói với con như thế nào. Điều quan trọng là để dạy con về trí tuệ cảm xúc, cha mẹ không thể là người "vô cảm". Bạn phải cho trẻ được tắm mình vào môi trường cảm xúc, bạn nhất thiết phải dành thời gian cho con. Một số mặt của trí tuệ cảm xúc của trẻ đựơc trau dồi dần dần qua sự tiếp xúc với bạn bè nhưng cha mẹ vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc luyện tập những măt khác nhau của nó và làm chủ các xúc cảm của mình, tỏ ra đồng cảm với người khác, điều khiển tình cảm biểu hiện ra ở những mối quan hệ với người khác. Mặt giáo dục này của cha mẹ ảnh hưởng rất sâu sắc đối với con cái. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, khi cha mẹ có trí tuệ cảm xúc thì: + Con cái họ hoà hợp với họ hơn, yêu thương họ hơn và thoải mái hơn khi cha mẹ có mặt. + Con cái họ dễ làm chủ các xúc cảm của mình hơn, tự trấn tĩnh được khi gặp điều gì làm chúng bị lay động và chúng ít bực mình hơn. + Chúng dường như cũng thoải mái hơn về mặt sinh học: tỷ lệ hoócmon của stress và những chỉ số rối nhiễu XC của chúng thấp hơn. Ngoài ra, có những lợi ích khác về mặt xã hội: những đứa trẻ này được bạn bè quý trọng và yêu thương hơn, được các giáo viên coi là dễ gần hơn. Làm theo cha mẹ, thầy cô thì trẻ ít có những vấn đề về ứng xử, ít gây hấn. Cuối cùng là những lợi ích về mặt nhận thức, những học sinh này chăm chỉ hơn và giỏi hơn. Với IQ bằng nhau, những đứa trẻ lên 5 tuổi có bố mẹ là những người hướng dẫn giỏi, đã đạt được những điểm tốt về toán và tập đọc trước khi lên tiểu học. Như vậy, những cái lợi đối với các trẻ có cha mẹ am hiểu về xúc cảm không chỉ giới hạn vào các mặt của trí tuệ cảm xúc mà còn bao trùm lên tất cả lĩnh vực đời sống của trẻ, đặc biệt hơn cả là sự phát triển nhân cách trẻ sau này. Ảnh hưởng của cha mẹ đến sự am hiểu xúc cảm bắt đầu từ lúc trẻ nằm trong nôi. Sự đồng cảm được học từ tuổi còn rất nhỏ, khi cha mẹ cùng có những xúc cảm của trẻ. Những đứa trẻ đã từng được tán thưởng và khuyến khích mỗi khi thu được thành công nhỏ...chúng thường lạc quan, cho rằng chúng có thể vượt qua những khó khăn mà cuộc đời dành cho chúng. Những đứa trẻ được nuôi dạy trong bầu không khí gia đình dửng dưng, không bao giờ được khuyến khích, tán thư
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái upppppppppppppppppppppppp nhé..bài viết bổ ích
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái Bài viết rất hay,cảm ơn bạn chia sẻ nhiều nha.
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái Hàng trăm công trình nghiên cứu, đã chỉ ra cảm xúc của cha mẹ đặc biệt là người mẹ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ sau này. Hơn nữa các công trình khoa học cũng khẳng định năng lực làm chủ cảm xúc của cha mẹ, cũng như cách thức biểu hiện cảm xúc sẽ tạo nên số phận của trẻ trong tương lai. Từ kết quả nghiên cứu khoa học trên chúng tôi có đưa ra một số cách thức giáo dục trí tuệ cảm xúc cho trẻ để cho trẻ phát triển tâm lý, nhân cách tốt nhất.
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái Tùy từng trường hợp cụ thể, người làm cha mẹ sẽ biết nên nói với con như thế nào. Điều quan trọng là để dạy con về trí tuệ cảm xúc, cha mẹ không thể là người "vô cảm". Bạn phải cho trẻ được tắm mình vào môi trường cảm xúc, bạn nhất thiết phải dành thời gian cho con.
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái dạy con trở thành người có ích cho xã hội cũng như nhân phẩm tốt quả thực k hề dễ chút nào đối với các bậc phụ huynh
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái Hàng trăm công trình nghiên cứu, đã chỉ ra cảm xúc của cha mẹ đặc biệt là người mẹ ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển nhân cách của trẻ sau này. Hơn nữa các công trình khoa học cũng khẳng định năng lực làm chủ cảm xúc của cha mẹ, cũng như cách thức biểu hiện cảm xúc sẽ tạo nên số phận của trẻ trong tương lai. Từ kết quả nghiên cứu khoa học trên chúng tôi có đưa ra một số cách thức giáo dục trí tuệ cảm xúc cho trẻ để cho trẻ phát triển tâm lý, nhân cách tốt nhất.
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái con cái ảnh hưởng rất nhiều từ cha mẹ nên cha mẹ sẽ có vai trò quan trọng trong việc giáo dục cảm xúc cho con cái
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái Hic dài quá mình chỉ đọc được 2 từ "Tóm tắt"
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái Giáo dục con cái là cả một quá trình dài hơi và liên tục của cha mẹ
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái [ Chọn Nghề như thế nào ? Chọn cho mình một nghề nghĩa là chọn cho mình một tương lai!!! Việc chọn nghề thực sự quan trọng và vô cùng cần thiết. Chọn sai lầm một nghề nghĩa là đặt cho mình một tương lai không thực sự an toàn và vững chắc. Chọn sai nghề không khác gì đeo gông vào cổ, như lấy phải người mình không yêu hoặc không phù hợp. Bạn không những không phát huy được năng lực, không thể đạt được đỉnh cao trong sự nghiệp mà cái đáng tiếc là bạn đã đánh mất khoảng thời gian quý báu nhất của mình. Độ tuổi từ 18 đến 35 là giai đoạn phát triển rực rỡ nhất của trí tuệ, bạn mà không làm đúng nghề thì coi như bạn đã vuột mất nhiều cơ hội để tỏa sáng Không phải ai cũng có thể trả lời được câu hỏi: Làm thế nào chọn được một nghề phù hợp. Chính những nghĩ suy và trăn trở rằng tôi có phù hợp nghề này hay không, tôi có thực sự yêu thích nghề này hay không, nghề này có tương lai hay không… là những vấn đề cần được giải quyết khi bắt đầu quá trình chọn một nghề phù hợp. Nỗi khổ lớn của Con cái khi chọn nghề là phải theo nghề mình không yêu thích vì sự ép buộc của bậc sinh thành, hoặc có khi đơn giản chỉ vì: “Nghề đó dễ tìm được việc làm!”. Cha mẹ nên làm gì? Trong mắt chúng ta, con cái luôn bé nhỏ, khờ dại và nông cạn. Tuy nhiên, những chuyện cả đời thế này, cha mẹ nên trao quyền quyết định cho con cái và chúng sẽ phải tự chịu trách nhiệm với quyết định của mình. Đôi khi chúng ta có tầm nhìn về cơ hội việc làm, nhưng chính đứa trẻ sẽ biết được chúng yêu thích cái gì, phù hợp với cái gì. Nói như thế không có nghĩa là cha mẹ bỏ rơi con cái trong giai đoạn quyết định này, mà nên là những nhà tư vấn cho con, chỉ cho con thấy con đường nào sáng, con đường nào tối, để chúng có thêm thông tin mà ra quyết định. Mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống, đừng làm con mình lạc lối, để từ đó tạo ra những con người thiếu lửa, tạo nên một xã hội thiếu lửa. Cha mẹ phải là người đồng hành, chứ không quyết định thay Tam giác chọn nghề Muốn có một nghề nghiệp hợp lý nhất, phải thỏa mãn cả ba đỉnh của tam giác chọn nghề nhưng thông thường, cha mẹ bắt ép con chỉ vì một tiêu chí duy nhất là cơ hội nghề nghiệp mà không tính đến những yếu tố quan trọng khác. Đỉnh thứ nhất mang tên đam mê. : Muốn sống chung trọn đời với nghề nghiệp, muốn có động lực để rèn luyện chuyên môn thì phải có sự yêu thích. Đỉnh thứ hai mang tên năng lực: Đó chính là năng khiếu, khả năng của từng người . Đỉnh thứ ba là cơ hội nghề nghiệp: Trong đó có cả cơ hội việc làm hoặc tự tạo việc làm. Những ngành nghề xã hội cần lao động “ngành hot” sẽ có nhiều cơ hội tìm việc, nhưng những ngành ấy cũng sẽ có rất nhiều thí sinh thi vào. Tuy nhiên, đây không phải yếu tố tiên quyết, vì dù không phải ngành “hot” nhưng nếu thật sự giỏi, các em vẫn có thể thành đạt. Một cái chậu có 10 con cá và một cái chậu có hai con cá, hãy chọn lựa một cách khôn ngoan. Trước hết phải tìm hiểu về chính bản thân mình , con cái mình để hướng đến việc tìm nghề phù hợp cho mình hoặc định hướng tốt cho con cái mình . I.Trước hết bạn cần phải xác định mình là mẫu người như thế nào : Những người thiên về tính hướng nội : Rất nhiều ngành nghề phù hợp với những người thiên về tính hướng nội như dạy học, thầy thuốc, khảo sát, thiết kế, hành chính văn phòng, nghiên cứu khoa học, lập kế hoạch chiến lược, thợ chuyên ngành bậc cao… 1) Hướng nội và nhiều ước mơ - dễ thích nghi – lập dị: là ngườicó nhiều tưởng tượng, thích lý thuyết, thích các vấn đề phức tạp, nơi làm việc thường lộn xộn, thích chơi cờ…. Các nghề phù hợp như: Kiến trúc sư, chuyên viên phân tích tài chính, thị trường, nhà kinh tế học, xây dựng kế hoạch, nhạc sĩ, thiết kế web, thiết kế nội thất… 2) Hướng nội và cương quyết – hợp lý – thực dụng: Là người có tính thực tế, cần kế hoạch và hệ thống làm việc hiệu quả, thích tự quyết đinh, có thời khóa biểu cụ thể cho nghỉ ngơi và làm việc hay học tập… Các nghề phù hợp như: Nhà khoa học, cán bộ khoa học, các nghề đòi hỏi luôn nâng cao năng lực và kiến thức,y bác sĩ, hoạch định truyền thông, các kỹ sư, chuyên viên phần mềm, chuyên gia phân tích hệ thống mạng, chuyên viên phát triển và quản trị Game… 3) Hướng nội và trung thực – tận tâm – tinh tế: Là người trọng danh dự, trung thành, có lý tưởng, làm việc giỏi khi một mình, có tính nguyên tắc nhưng cũng dễ thích nghi với môi trường làm việc, quan tâm lo lắng nhiều đến gia đình… Các nghề phù hợp như: Thủ kho, thủ thư, chuyên viên văn phòng, nhân sự, nhà nghiên cứu, nhân học, cán bộ khí tượng thủy văn, thông dịch viên, chuyên viên pháp lý, nhà tâm lý,biên tập viên, nhân viên lễ tang, môi trường, nghề dược, quản lý hệ thống thống tin… 4) Hướng nội và nhạy cảm – sáng tạo – tận tâm: Là người biết lắng nghe người khác, có thiên phú về ngôn ngữ, thích có điều kiện để sáng tạo, quan tâm đến tiện nghi gia đình, khôn khéo khi biểu lộ tình cảm… Các nghề phù hợp như: Nhà văn, nhà thơ, chuyên viên sáng tạo ngành quảng cáo, thời trang, điện ảnh, chế tác trang sức, thiết kế đồ họa,… 5) Hướng nội và chân thật – quy cũ – thực tế: Có trách nhiệm, công bằng, dè dặt, thích trật tự, ngăn nắp, tôn trọng sự chính xác và có ý thức, tận tâm với gia đình, đề cao truyền thống, quan hệ họ hàng. Các nghề phù hợp như: Bảo vệ, giáo viên, các nghề thuộc ngành tư pháp, tòa án, các nghề về kỹ thuật vận hành,bảo trì, bảo dưỡng, chuyên viên nghiên cứu điều tra… 6) Hướng nội và hòa hợp – lạc quan – khiêm tốn: Là người nhạy cảm,dễ cảm thông, quan tâm đến hành động của người khác, có óc thẩm mỹ, ít nói, thích lắng nghe…Các nghề phù hợp như: Họa sĩ, nhân viên thiết kế, chăm sóc khách hàng, đầu bếp, nha sĩ, nhân viên xã hội từ thiện, chuyên viên tâm lý,… 7) Hướng nội và thực tế - công bằng – quyết đoán: Là người cẩn thận, trung thực, có trách nhiệm, làm trước khi chơi, biết kiểm soát chi tiêu, có kế hoạch, làm theo trình tự, bảo thủ… Các nghề phù hợp như: người được ủy thác, công chứng viên, môi giới bất động sản, quản trị văn phòng, quản lý dữ liệu, thanh kiểm tra, tư vấn tài chính, dự trù ngân sách, kế toán, kiểm toán… 8) Hướng nội và thực dụng – thích nghi – hợp lý: Là người thực tế, khéo tay, thích thu thập các dữ liệu về kỹ thuật, thích làm việc với các hướng dẫn cụ thể, học hỏi khi làm việc, không ảo tưởng, tự lập, có kỷ luật…Các nghề phù hợp như: thợ thủ công, công nhân kỹ thuật, bào chế thuốc, lính cứu hỏa, cảnh sát, lập trình viên… Những người thiên về tính hướng ngoại : 1. Hướng ngoại và linh hoạt – sáng tạo – hợp lý: Là người thích các hoạt đông tập thể nhưng cũng có thể làm việc độc lập rất tốt, không sợ bị chỉ trích, thích những công ty mới thành lập, cao thượng và cởi mở, sáng tạo, nhưng cũng dễ thay đổi, khả năng phân tích của bạn khá tốt, nhanh trí và có duyên… Các nghề phù hợp như: Nhà phát minh, nhà đầu tư – cố vấn tài chính, nhà quảng cáo, kiến trúc sư, chuyên viên tư vấn tài chính, thị trường, nhà kinh tế học, xây dựng kế hoạch, nhạc sĩ, thiết kế web, thiết kế nội thất, phát thanh viên,người dẫn chương trình (MC)… 2. Hướng ngoại và quyết đoán – sáng tạo – hợp lý: Là người thích lãnh đạo, quả quyết và cứng rắn, chấp nhận trách nhiệm, thích môi trường trật tự và kỹ luật, thích tranh đua, tranh luận… Các nghề phù hợp như: Có tố chất của nhà lãnh đạo, giám đốc bán hàng, giám đốc điều hành, marketing, nhà quản trị, tư vấn phân tích tài chính, chính khách(nhà chính trị), giám đốc truyền thông, giám đốc sáng tạo, giám đốc tiếp thị... 3. Hướng ngoại và quy cũ – diễn cảm – chân thật: Là người tận tâm, biết truyền cảm hứng, biết khuyến khích, thích sự ổn định và ngăn nắp, đề cao giá trị truyền thống, sự quan tâm thường mang tính cộng đồng… Các nghề phù hợp như: Nhà sư phạm, nhà truyền giáo, nghề diễn thuyết, nhà văn, nhà báo, biên tập viên, sản xuất các chương trình giải trí và giáo dục, nhạc công – vũ công – nhạc sĩ, chuyên viên tâm lý, cũng có thể làchuyên viên marketing – quảng cáo… 4. Hướng ngoại và quyết đoán – thực tế - hòa hợp: Là người cương quyết nhưng khôn khéo hòa hợp, tiếp xúc cá nhân tốt, chăm chỉ, dựa nhiều vào kinh nghiệm khi quyết định hành động, tôn trọng luật và người có thẩm quyền, thích môi trường thân thiện có tổ chức, thích phục vụ trong một chương trình cụ thể, không thích sự thay đổi, nồng nhiệt và hòa đồng… Các nghề thích hợp như: Buôn bán, chuyên gia kinh doanh, bác sĩ thú y, huấn luyện viên, vận đông viên, bartender, nhân viêndu lịch, cửa hàng ăn uống, khách sạn, siêu thị… 5. Hướng ngoại và linh hoạt – sáng tạo – thông cảm: Là người thường khởi xướng các đề nghị, thích quan sát tìm hiểu, thường thấy được các tiềm năng và dễ dãi với người khác, thích nghi tốt với kế hoạch mới, thường đua ra ý tưởng thú vị, linh hoạt, nhiệt tình, thích thay đổi và thử thách, biết lắng nghe, giỏi về văn viết, thích những giải trí khác lạ… Các nghề thích hợp như: Nhà báo, phóng viên thời sự kinh tế, thể thao…, chuyên viên phát triển,giám đốc sáng tạo, nhà thiết kế, thời trang, điện ảnh,ca sĩ, quảng cáo – marketing…. 6. Hướng ngoại và linh hoat – thực tế - thẳng thắn: Là người năng động, vui vẻ và quyến rũ nhưng hơi bốc đồng, thích thử thách và luôn luôn muốn học hỏi thêm nhiều điều mới lạ, thích hội họp, làm việc trực tiếp, thích giải quyết các vấn đề hóc búa, thích không gian rộng rãi, thích giải trí khi đang làm việc, nhiều tiềm năng, nắm vững những vấn đề kỹ thuật… Các nghề thích hợp như: Thám hiểm, tham gia các nhóm tình nguyện, công tác xã hội, tư vấn bảo hiểm, môi giới chứng khoán, môi giới bất động sản, kỹ sư – công trình, điều hành và thực hiện các công việc thuộc ngành du lịch… 7. Hướng ngoại và quy cũ – thực tế - hợp lý: Là người có trách nhiệm cao trong công việc và gia đình. Đề cao và làm theo kế hoạch, hiểu tầm quan trọng của sự hợp tác, chuẩn bị tốt khi được yêu cầu, thích môi trường cố định có thể dự đoán trước, có quan niệm cộng đồng truyền thống và hơi bảo thủ… Các nghề thích hợp như: Quân nhân, chuyên viên môi trường, nhân viên kinh doanh, tiếp thị, bảo hiểm,điều hành sản xuất, công nhân kỹ thuật, lính cứu hỏa, phi công, cảnh sát, lập trình viên… 8. Hướng ngoại và linh hoạt – thực tế - thông cảm: Là người thích giao du, thích kết nhiều bạn mới và mở rộng các mối quan hệ. không đặt nặng vấn đề quản lý thời gian, dễ dãi thỏa thuận, làm ngay không chần chừ, tập trung vào những việc thực tế trước mắt, thích bận rôn và làm người khác vui… Các nghề thích hợp như:Tiếp tân, phục vụ nhà hàng, khách sạn, giáo viên mầm non, giữ trẻ, nhân viên y tế, bác sĩ, nha sĩ, tư vấn tâm lý, nhân viên cứu tế xã hội, từ thiện, tiếp viên hàng không, hướng dẫn viên… II Thông qua Ngũ Hành cần thiết cho bản mệnh của một người có thể xác định nghề nghiệp của người đó cho hợp lý: 1 . Nếu người bản mệnh cần hành Thuỷ thì hợp với những nơi làm việc Phương Bắc. Hợp với ngành kinh doanh thuỷ sản, hải sản, nước, dung dịch, muối. Các ngành du lịch, hướng dẫn viên, diễn viên, kinh doanh dược liệu, thuốc men, thầy thuốc. 2 .Nếu bản mệnh cần hành Kim thì hợp với những nơi làm việc Phương Tây. Hợp với kinh doanh vật liệu kim khí, máy móc. Làm giám sát, quản lý, ngành võ, kim hoàn, khai thác lâm sản, nghề cơ khí, cơ điện. 3. Nếu bản mệnh cần hành Mộc thì hợp với nơi làm việc phương Đông. Hợp với nghề mộc, nghề, gỗ giấy, kinh doanh các mặt hàng gỗ, giấy, hoa, cây cảnh, vật phẩm tế lễ hoặc hương liệu. 4. Nếu bản mệnh cần hành Hoả thì hợp nơi làm việc Phương Nam. Hợp với các ngành nghề điện quang, thợ ảnh, hàn xì, nấu nướng, chế biến thức ăn, luyện kim, hoá trang, diễn viên, văn phòng phẩm hoặc làm kinh doanh liên quan đến các mặt hàng trên. 5. Nếu bản mệnh cần hành Thổ thì hợp với những nơi làm việc trung tâm. Hợp với các ngành kinh doanh địa ốc, bất động sản, nông nghiệp, chăn nuôi gia súc gia cầm. Ngoài ra hợp với các ngành khai thác khoáng sản, vải vóc may mặc. Hoặc kinh doanh nông sản, trung gian môi giới, luật sư, cố vấn. Còn nếu Bạn chưa an tâm có thể nhờ GiasưAngia tư vấn thêm ( miễn phí ) , hãy đăng ký tư vấn :www.giasuangia.com Sưu tầm và tổng hợp : Giasuangia
Ðề: Vai trò của cha mẹ trong việc giáo dục cảm xúc của con cái Up lên cho bài viết này ! Tớ copy lưu lại máy tính