Tỉ lệ nghèo đói ngày càng giảm của Việt Nam đạt được do Việt Nam đã có chính sách phát triển đồng đều cho mọi người dân ở những vùng miền khác nhau. Ngân hàng thế giới tại Việt Nam đã chính thức đưa ra nhận xét này vào sáng nay (15.2.2008) Tăng trưởng và giảm nghèo ở Việt Nam đã diễn ra đồng đều cả ở khu vực thành thị và nông thôn Giảm nghèo nhờ tăng trưởng kinh tế Theo ông Ajay Chhibber, giám đốc Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, trong 15 năm qua, Việt Nam là một trong những nước đạt được tốc độ giảm nghèo nhanh nhất trên thế giới. Tỉ lệ nghèo đói của Việt Nam – tính bằng số người sống dưới mức 1 đô la Mỹ một ngày – đã giảm từ khoảng 58% năm 1993 xuống 16% năm 2006, với khoảng 34 triệu người đã thoát khỏi nghèo đói. Tăng trưởng nhanh và liên tục, với tốc độ khoảng 7% đến 8% mỗi năm, là một yếu tố quan trọng trong việc giảm nghèo. Việt Nam đã thành công như thế nào? Ajay Chhibber phân tích rằng, không giống như các nước đang phát triển khác, tăng trưởng và giảm nghèo đã diễn ra đồng đều cả ở khu vực thành thị và nông thôn. Trong khi tỉ lệ nghèo đô thị thấp – khoảng 4% tổng số dân đô thị năm 2006 – thì tỉ lệ này ở khu vực nông thôn cũng đang giảm nhanh. Năm 1993, khoảng 2/3 dân số nông thôn bị coi là nghèo, nay con số này xuống còn 1/5. Công cuộc xóa đói giảm nghèo đã được tiến hành khắp vùng miền của Việt Nam. Mặc dù tỉ lệ nghèo ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng thấp hơn những nơi khác, nhưng nghèo đói cũng giảm đi ở khu vực miền núi phía bắc và Tây nguyên, nơi tỉ lệ nghèo đói có cao hơn. Tỉ lệ nghèo ở dân tộc Kinh và Hoa có thấp hơn các dân tộc thiểu số khác. Tuy nhiên, kể cả trong các nhóm dân tộc thiểu số, nhóm có tỉ lệ nghèo cao, thì nghèo đói cũng giảm liên tục trong 15 năm qua. Có ba yếu tố dẫn tới tăng trưởng đồng đều cho mọi người ở Việt Nam – giáo dục, thương mại và cơ sở hạ tầng. Công cuộc xóa mù chữ ở Việt Nam bắt đầu từ năm 1954, và phát triển mạnh vào những năm 70 và 80 của thế kỉ trước. Đẩy mạnh giáo dục phổ thông được tiến hành vào thập kỉ 90s, với các chiến dịch xóa mù chữ từ cấp tỉnh đến cấp xã được tiến hành. Ngày nay, Việt Nam đã có tỉ lệ người biết đọc biết viết lên tới 95%, cao hơn Trung Quốc và Ấn Độ, và đó là một yếu tố quan trọng để dẫn tới tăng trưởng cho mọi người. Độ mở cửa thương mại của Việt Nam – hơn 150% (là tỉ lệ thương mại tính bẳng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trên GDP) – nằm trong nhóm cao nhất trên thế giới cũng là một chìa khóa dẫn tới tăng trưởng cho mọi người. Từ một nước phải nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã nổi lên là một nước xuất khẩu nông sản lớn. Những hiệp định thương mại song phương và với WTO có tầm nhìn xa đã đem lại nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài lớn - tới khoảng 16 tỉ đô la Mỹ, hơn 20% GDP năm 2007 – và làm cho Việt Nam trở thành một nhà xuất khẩu các sản phẩm may mặc, công nghiệp nhẹ và gỗ lớn trên thế giới với nhiều lợi ích về công ăn việc làm cho nền kinh tế. Việt Nam đã nổi lên là một nước xuất khẩu nông sản lớn cũng là một trong những lý do giúp tỷ lệ đói nghèo giảm Trở thành nước có thu nhập trung bình vào năm 2009 WB cũng dự báo rằng, Việt Nam đang tiến tới mức thu nhập trung bình 1.000 đô la Mỹ và vị thế là nước có thu nhập trung bình năm 2009. Để làm được điều này, Việt Nam cần chú trọng đến cơ sở hạ tầng – đặc biệt là kết nối tới vùng nông thôn, với chương trình điện khí hóa nông thôn và giao thông nông thôn ấn tượng nhất thế giới – đã đảm bảo rằng những khu vực xa xôi nhất cũng không bị bỏ rơi. Ngày nay, khoảng 95% hộ gia đình Việt Nam có điện lưới, so với 50% đầu những năm 90, và khoảng 90% dân số Việt Nam sống trong khoảng cách 2km tới đường có thể đi được trong mọi điều kiện thời tiết. Điều này tạo điều kiện liên kết giữa nông thôn và thành thị, tới các cảng và mạng lưới giao thông, và tiếp cận radio và ti vi kể cả ở vùng sâu vùng xa. Ngoài ra, ông Ajay Chhibber cũng nhấn mạnh, Việt Nam phải giúp đỡ công dân của mình tiếp cận tới giáo dục đại học, nâng cao năng suất ở khu vực nông thôn và công nghiệp hóa mạnh hơn, cũng như đảm bảo rằng các dân tộc thiểu số phải có cơ hội được phát triển để không bị bỏ lại phía sau. Việt Nam cũng cần phải xây dựng hệ thống an sinh xã hội hiện đại cho những người có thể bị bỏ rơi, và đảm bảo rằng tăng trưởng không hủy hoại môi trường. Dù vậy thì trong quá trình giải quyết những thử thách này, Việt Nam đã để lại một bài học về phát triển cho mọi người mà các nước khác có thể học hỏi Nguồn: SGTT
Mình nghĩ baì baó chỉ đúng trên lý thuyết và phương diện chính trị chừng mực naò đó thôi .Vì vừa rồi nhiều thông tin đang tải rất rõ ràng là hiện tượng trẻ bỏ học do kinh tế gia đình chiếm khoảng 85 % trong 5 năm qua là nguyên nhân chính .Vậy thì những con số phát triển kinh tế Nông Thôn cũng là những con số .Thật ra Việt Nam mình quen cái thoí làm dỡ baó caó hay lâu rồi nên những thông tin này không biết có căn cứ được bao nhiêu % là thật nữa .Ví dụ ": cứ lâý trúng mùa của 1 người là 1tỉ đồng Việt Nam mang chia đều cho cả thôn thì đúng là thu nhập có tăng nhưng chỉ trên bàn giâý ....??!!??? ....Trong khi đó cũng là thông tin từ baó đài ,Việt Nam năm qua chiụ thiên tai lũ lụt nặng và nhiều nhất số người đói và thiếu phương tiện sinh hoạt tăng đáng kể .thử nghĩ mức tăng trưởng kinh tế baỏ tăng ,căn cứ từ đâu ? từ tiền cưú trợ hả ??????
Về mức tăng bình quân của cả nước, nếu số liệu không bị bóp méo thì như vậy cũng là tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, giảm nghèo thì chưa chắc mà có khi còn tăng nghèo là đằng khác. Vì tỷ lệ gia tăng tài sản của những đại gia tham nhũng như Bùi Tiến Dũng, Nguyễn Việt Tiến tăng đến nhiều trịệu phần trăm/năm mà mức tăng trung bình chỉ có dưới 10%. Thực ra, báo cáo về tăng trưởng, những hoạt động xoá đói giảm nghèo, khoa trương từ thiện thực chất là những chiêu bài chính trị rẻ tiền. Giá mà VN có tự do ngôn luận, thì chắc còn nhiều số liệu so sánh hấp dẫn hơn đấy chứ.
Nếu căn cứ theo số liệu bình quân cái kiểu 1 người ăn trọn 1 con gà, 2 người nhịn đói mà chia ra thì mỗi người sẽ được 1/3 con gà ! ( vậy là cao rồi còn gì !) cũng như kiểu đem so sánh mức thu nhập một số đại gia ( cái kiểu bỏ ra hàng triệu dollar để mua xe xịn để đánh bóng thương hiệu của một bà nào đó buôn bán địa ốc ở SG) rồi chia đều theo số dân thì chắc là sẽ có thu nhập bình quân rất lý tưởng ! Tuy nhiên, cái vấn đề ở đây là tại sao WB lại đưa ra những nhận xét trên ? Vì có lẽ, VN cũng là một trong những nước tích cực nhất trong chuyện vay nợ WB - khen cho phổng mũi lên rồi sẽ hỏi, nào có muốn vay thêm không ? nước bạn đang phát triển quá mà, ráng bóp miệng để sắm xe hơi cho bằng với mọi người chứ - chơi luôn , vì mình vay nhưng đến đời con cháu mình mới phải è cổ ra trả, còn lúc đó thì mình đã "hoàn tất nhiệm vụ" đem nợ về cho tổ quốc rồi , có sao đâu ! Còn về chuyện xuất khẩu nông sản, cụ thể như gạo và cà phê đi, số lượng thì ok nhưng chất lượng thì thế nào? sao không nói luôn ? rốt cuộc càng xuất nhiều, càng mất giá, và ai sẽ chịu thiệt ? chính người nông dân ! Làm nhiều mà không có ăn khiến cho phải bán xới đất đai, thậm chí bỏ hoang để lao đầu vào các đô thị, các khu chế xuất sống cuộc sống du mục, vất vưởng ở các khu nhà ổ chuột còn ở nông thôn thì lúa chín mà thiếu người gặt ! những điều đó sao không đưa vào báo cáo ! Bởi vậy, nếu căn cứ vào những con số ( mà không dám bảo đảm và cũng không thể kiểm tra tín trung thực của nó ) để nói lên những sự phát triển thì đó chỉ là sự phát triển lệch lạc vì đã chứng tỏ sự xem thường các giá trị nhân bản của con người