Bên Kia Giấc Mơ - Nhóm 4.0

Thảo luận trong 'Thư giãn, giải trí' bởi Nhom4.0, 4/2/2020.

  1. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    THÔNG TIN TRUYỆN BÊN KIA GIẤC MƠ
    • Tác giả: Leona Nguyen và Nguyên Nguyên - Nhóm 4.0
    • Thể Loại: Truyện dài, tiểu thuyết văn học, Tâm lý xã hội
    • Số chương: 19


    • VĂN ÁN:
    June – bông hoa bé nhỏ lạc lõng giữa cuộc đời nhiều bão giông khi phải chứng kiến sự chia tay của cha mẹ.

    June – cô gái thanh thuần thu mình trong những bức tranh với nhiều gam màu u tối; để khi lạc vào thế giới hoàn hảo, những ám muội hiện thực vẫn đeo bám.

    Đến với thế giới siêu thực, June nhận ra mặt trái của chính mình. Ở thế giới tưởng hoàn hảo ấy, gặp lại bạn thân, liệu June có vì Gavin mà ở lại, dẫu nhìn thấy nhiều khổ đau?

    June phải lựa chọn quay về bên cạnh cha mẹ, hay để họ mãi mãi chờ đợi ngày cô tỉnh dậy?
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi Nhom4.0
    Đang tải...


  2. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    Chương I: Va chạm
    - - -


    “Illusions are the mirages of Hope - Ảo tưởng là ảo ảnh của Hy vọng.”

    (Khuyết danh)


    Những bánh xe lao vụt qua nhau, nghiến lên mặt đường rải nhựa xám. Lớp bụi mỏng bị hất tung, lờ lững trôi trong ánh sáng vàng lợt của đèn pha mới bật. Hàng cây thưa thớt trồng bên đường trơ tấm thân trụi lá, đổ xuống những bóng đen dài thượt. Bóng tối nhập nhoạng đã trùm lên thị trấn Shadowfield.

    Sau vô lăng, June Walker chần chừ ở một lối rẽ; và dù đã nháy đèn hiệu rẽ trái, chiếc xe chậm lại, song vẫn tiếp tục chạy thẳng.

    Gõ gõ móng tay lên vô lăng, nó nhấn chân ga, đẩy chiếc Ford Fusion - chiếc xe an toàn số một cho lứa tuổi teen, như bố Jared thường khẳng định - tiến về phía trước. Tuy nhiên, June ngờ rằng độ “an toàn” ấy nằm ở việc ông đã tu sửa gì đó trong động cơ khiến nó chạy chậm đi, nhiều hơn là ở chính chiếc xe. Điều này có phần mỉa mai, bởi Jared “Cannonball” Walker từng là cái tên đáng gờm trong làng đua xe hơi Mỹ, kẻ say tốc độ luôn khinh thường mọi thứ liên quan đến giảm tốc. Được ví với “đạn đại bác”, ông nổi tiếng với khả năng đưa chiếc xe công thức đạt đến vận tốc 100 km/h chỉ khoảng 2 giây sau khi xuất phát. Nhưng từ khi giải nghệ và mở xưởng máy, ông thường xuyên phải nhận xe cộ hỏng hóc của đám sinh viên say rượu, nên có thể cũng vì thế mà thay đổi tư tưởng đôi chút. Ông phàn nàn về chuyện đó luôn, thỉnh thoảng lại cọ cọ mu bàn tay đeo găng dày cộm vào cái cằm râu ria lâu ngày chưa cạo - hành vi thể hiện sự tiết chế, hoặc giả là sự chán nản không còn có thể diễn tả đủ bằng lời - mỗi khi June qua xưởng, nhìn ông tháo lắp những chiếc lốp và thay dầu hộp số.

    Nó với tay mở loa lớn hơn, để cho giọng Luke Bryan cùng tiếng ghita vang khắp xe. Điển hình cho một cô gái sống tại thị trấn nhỏ phía nam nước Mỹ, June mang phong cách cao bồi - quần bò xanh nhạt bụi bặm, đôi bốt cao cổ. Cùng với đó, June chọn áo tunic trùm hông họa tiết thổ cẩm, áo khoác da tua rua, đa dạng phụ kiện với vòng tay và nhẫn bằng kim loại gắn đá thô; những phần này của bộ trang phục lại chịu ảnh hưởng của hơi hướng du mục nhiều hơn. Sự kết hợp này tạo cho cô gái trẻ một phong cách boho - cowgirl phóng khoáng. Chất nghệ sỹ tự do có lẽ thừa hưởng từ mẹ đã in dấu ấn rõ ràng trên June, dù từ vài năm nay mối quan hệ giữa nó và mẹ đã xuống dốc.

    Đèn đỏ. Chiếc xe trờ vào vạch trắng rồi dừng lại. Nó chạm tay vào điện thoại theo thói quen trong lúc chờ đợi. Màn hình lập tức sáng lên, hình nền chờ là bức tranh mới vẽ của nó. Những hình khối đa sắc, thoạt nhìn có vẻ trừu tượng, nhưng khi ghép lại, chúng trở thành khung cảnh thiên nhiên mộng ảo và sắc nét như thể một sản phẩm được đồ họa từ máy vi tính. Trên màn hình chờ, một loạt tin nhắn mới hiện lên. Nó chẳng buồn nhấn vào, đó là âm tin nhắn nó đã cài riêng cho mẹ. Hẳn bà đang hỏi về cuộc hẹn mặc định vào ngày mai, cũng có thể đi kèm với vài bức ảnh chụp em bé thứ hai của mình. Bé trai 6 tháng tuổi - đứa em trai cùng mẹ khác cha. Nó quay mặt khỏi chiếc Iphone.

    Ba năm về trước, khi June tròn 13 tuổi, bố mẹ nó đã ly hôn. Chuyện cũng chẳng có gì lạ. Phân nửa những cuộc hôn nhân tại Mỹ đều kết thúc như vậy. Nó chọn sống với bố, chẳng rõ vì sao, chỉ là cảm thấy nên như vậy. Mẹ khóc, nhưng bà hứa khi tìm được công việc mới sẽ đón nó đi. Rồi bà chuyển đến thành phố, cách Shadowfield ba giờ chạy xe. Mỗi tháng, mẹ sẽ đến thăm vào các cuối tuần. Chạy chiếc Fiat mui trần màu xanh cốm, mái tóc nâu rối bù vì gió, bà đón June với nụ cười tỏa sáng như ánh mặt trời. Mẹ đưa nó đi xem những bộ phim cổ của những thập niên trước trong rạp phim nhỏ xíu, đi ăn món Mexico và kết thúc bằng chầu kem ốc quế khi họ ngồi nghỉ trên thảm cỏ nhìn ra bờ sông. June một tay cầm kem, một tay cầm chiếc bút chì, phác thảo gương mặt xương xương đang quay nghiêng của mẹ. Mẹ rất vui, nên nó hứa sẽ tặng mẹ đủ một quyển đầy những bức chân dung của bà.

    Hai lời hứa - một của mẹ, một của nó - cho đến giờ đều chưa cái nào được thực hiện.

    Có hai mẹ con vừa bước ra khỏi cửa hiệu tạp hóa nằm bên đường. Người mẹ ngồi thụp xuống vỉa hè, ngay cạnh cột đèn giao thông, để buộc lại mớ tóc đã bị tuột ra của cô con gái nhỏ. June ngọ nguậy khó chịu trên ghế lái. Quái quỷ, đèn đỏ lâu thế nhỉ!

    Màn hình lại sáng lên. Lần này là âm tin nhắn khác. Giờ này chắc bố vẫn còn ở xưởng, chắc ông nhắn bảo hãy mua gì về ăn. Hoặc tin nhắn từ câu lạc bộ vẽ thông báo thay đổi lịch họp nhóm. Nó cầm điện thoại lên, giữ ngón tay cái để nhận diện vân tay và thao tác mở tin nhắn…

    Một tràng còi dài từ phía sau. Hơi giật mình, nó ngẩng lên và thấy vẫn là đèn đỏ. Mình thậm chí còn chẳng chắn đường, June bực bội nghĩ khi nhìn theo chiếc xe vừa vượt lên vừa bấm còi inh ỏi, cái thị trấn đầy những kẻ gàn dở say rượu! Hai mẹ con nọ vẫn đứng bên vỉa hè. Nhìn con đường hầu như vắng tanh, nó đạp mạnh chân ga, chiếc xe màu trắng bạc lao lên. Tin nhắn vừa được mở ra đến từ số lạ: “Gửi June - dị - hợm, đây là những gì hot boy Max nói về cậu…”.

    Một ảnh chụp màn hình được gửi kèm. June đọc được một đoạn đối thoại có vẻ như là giữa hai cậu bạn trong đội bóng rổ.

    “Cậu nghĩ gì về June?”

    “June nào cơ?”

    “June Walker với mớ vòng vèo ấy. Nghe nói June thích cậu đấy, nếu cô ta mời cậu hẹn hò thì sao?”

    “Đùa đấy à? Tôi thà bò cả tứ chi nguyên một buổi tập bóng còn hơn đi chơi với cô ta, haha.”



    June cảm thấy như vừa bị đấm. Mặt nó bắt đầu nóng lên, nó thấy ngu ngốc hết sức. Ai, ai đã gửi tin nhắn này? Mắt nó dán vào màn hình, cố phân tích những gì vừa được gửi đến, trong khi chiếc Ford Fusion cứ thế phóng đi trong màn đêm.

    Từ một khúc quanh, một chiếc xe tải trộn bê tông đang lao đến với tốc độ khủng khiếp.

    ***

    Ai đó đang hét lên. Mặt đường đầy những miếng kim loại méo mó và những mảnh kính vỡ. Mau gọi cấp cứu! Kiểm tra trong xe xem!

    “Ngã tư Driftwood Drive và Quinton Road. Vâng, hai xe va chạm. Xe tải và xe bốn chỗ… Có vẻ chỉ có hai người thôi…”

    Chiếc xe bốn chỗ biến dạng nghiêm trọng. Nắp ca-pô móp lại, thanh cản trước bung rời khiến phần máy bên trong lộ thiên, ngoác ra như cái miệng đầy răng của con cá mập cắn câu. Bị lật hẳn sang một bên, một bên bánh xe quay vòng vòng trên không. Về phần mình, sau nỗ lực bẻ ngoặt lái, chiếc xe tải nằm ngay dưới cột đèn đường với phần đầu rúm ró. Cây cột đèn nghiêng một góc đáng sợ, chực đè nghiến xuống khối kim loại nặng nề.

    Sĩ quan Rick Caine là người đến hiện trường đầu tiên. Mang vóc người nhỏ, mái tóc hoa râm và gương mặt cương nghị, dù đã chớm tuổi nghỉ hưu, ông vẫn chạy những bước nhanh nhẹn khác thường. Chỉ đạo người cấp dưới cùng trực đêm hôm nay tới chỗ chiếc xe tải, ông thận trọng tiến đến gần chiếc còn lại.

    Bị đâm ngang từ khoang ghế phụ, chiếc xe nằm nghiêng về phía ghế lái và đã bắt đầu bốc khói nhẹ. Lên tiếng hỏi nhưng không có lời đáp lại, ông bèn lấy chiếc đèn pin nhỏ ra khỏi túi, soi qua mặt kính đằng trước. Một hình dáng nhỏ bất động, nằm kẹt trong bóng tối tù mù của khoang xe, mái tóc dài che gần hết phần mặt. Rick Caine gọi một người đàn ông đứng gần đó, người này vừa phải dừng hẳn xe trước vụ tai nạn. Anh ta hoảng sợ nhưng vẫn chạy lại chỗ ông. Ông cần một bước đệm để có thể tiếp cận nạn nhân.

    “Chuẩn bị nhé!” – Ông cảnh báo, rồi bằng động tác dứt khoát, dậm chân lên lưng người kia và leo gọn vào trong xe.

    Sĩ quan cảnh sát khéo léo bám vào thành ghế da và mảng ốp để giữ thăng bằng, rồi nhích dần về phía cô gái đang nằm. Nhờ thân hình không quá nặng nề, ông xoay trở khá dễ dàng. Vén mái tóc xõa dài của cô sang bên, ông thấy một khuôn mặt còn rất trẻ, mắt nhắm nghiền. Còn thở! Nhịp tim yếu ớt nhưng chí ít vẫn bắt được. Ông đánh giá sơ bộ ngay tình hình: bất tỉnh, đa chấn thương, đầu chảy máu do va đập mạnh với gương xe bên trái.

    “Tình hình thế nào rồi, thưa ông cảnh sát?” – Giọng đầy lo lắng của người đàn ông khi nãy cất lên.

    “Phiền anh báo lại với đồng nghiệp của tôi đằng kia, nạn nhân này còn sống, nhưng rất yếu. Ta phải đợi cấp cứu đến mới có thể di chuyển cô ấy. Tôi đang tiến hành sơ cứu.”

    Tiếng xác nhận lắp bắp, tiếng bước chân chạy.

    Ông nhẹ nhàng nhấc phần đầu và rịt chiếc khăn tay vào chỗ chảy máu. Cái gì đó chợt sáng lên. Điện thoại của cô gái trẻ còn cầm trong bàn tay phải. “Đám trẻ bây giờ…”, ông lắc lắc đầu và chợt nghĩ đến Claire, con gái ông – chắc chỉ hơn cô bé này vài tuổi và đang học ở tận thành phố Chicago, cách đây 2 giờ bay. Rick Caine cầm lấy chiếc Iphone và nhấn nút Home. Lẽ đương nhiên, chiếc điện thoại thông minh từ chối vân tay của ông, nhưng khi màn hình hiện những con số để đòi hỏi một chuỗi mật mã, có thể thấy ngay góc dưới bên trái dòng chữ “Medical ID” – tính năng lưu định danh, thông tin sức khỏe và các số liên lạc khẩn cấp của người dùng iOs. “Hãy hy vọng cô bé có sử dụng một trong số ít những thứ hữu ích trên cái điện thoại này.”

    June Walker

    ngày 21 tháng 6, 2002 (16)

    Cân nặng: 115 lbs

    Chiều cao: 5’4’’

    Nhóm máu: O+

    Liên hệ khẩn cấp:

    Bố: Jared Walker – (405) 555-0152

    “Sẽ ổn thôi, cố lên, June à!” – Ông thì thầm, không biết để an ủi cô bé hay an ủi chính mình. Cả năm qua, những vụ Caine giải quyết hầu hết là ẩu đả trong quán bar hay trộm cướp tại siêu thị mini. Hôm nay, ngồi trong bóng tối của chiếc xe, giữ chặt vết thương đang chảy máu của cô bé mới tầm tuổi con mình, lần đầu tiên sau khoảng thời gian dài, ông thấy giọng mình run run.

    Đoạn, ông tự nhủ sẽ gọi hỏi thăm Claire khi hoàn thành ca trực tối nay.

    ***

    Nơi này không có gió. Không nóng, cũng không lạnh, như thể không hề có cái gọi là nhiệt độ. Khắp xung quanh một màu trắng, nhưng chẳng phải thứ màu trắng toát của bệnh viện, mà là sắc kem sữa được đánh bông đến độ quyện lại thật mịn bởi chiếc máy đánh kem khổng lồ nào đó. Đây giống như một căn phòng rộng quá cỡ, được chủ nhân của nó chọn cùng màu sơn cho cả trần, tường và sàn, nhưng lại chẳng có nội thất gì cả.

    June dần lấy lại được cảm giác. Đứng giữa nơi lạ lùng này, nó thoáng nghĩ đến biện pháp “tra tấn trắng” từng đọc trên mạng – màn tra tấn tinh thần bằng cách biệt giam một người trong căn phòng toàn màu trắng. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng lối tra tấn này có thể khiến tù nhân phải chịu sự lạnh lẽo, cô đơn và trầm cảm đến cùng cực. June vội gạt ý nghĩ rùng rợn đó ra khỏi đầu. Thật lòng lúc này nó không hề thấy sợ căn phòng, mà thậm chí còn có cảm giác quen thuộc kỳ lạ nữa.

    Bàn chân trần của nó chạm lên một bề mặt hơi sần, có vẻ như sàn phòng được trải loại thảm đặc biệt nào đó. Nheo mắt để nhìn kỹ hơn, nó nhận ra khắp xung quanh cũng mang trên mình cùng chất liệu gai mịn ấy. Không phải sơn. June chợt nhận ra tại sao nó lại có cảm giác quen quen, thứ đó chính là vải toan trắng nó thường dùng cho những bức sơn dầu của mình. Nó từng dành hàng giờ trong cửa hàng bán dụng cụ mỹ thuật mỗi khi có dịp vào trung tâm thành phố, mân mê từng thếp vải toan ấy, từ loại truyền thống dệt từ cây gai dầu đến những loại hiện đại hơn làm từ sợi bông và lanh hay từ sợi tổng hợp. Dù luôn chỉ mua loại canvas mịn quen thuộc, cùng với vài tập giấy Canson để vẽ chì, nó vẫn không thể kiềm lòng mà phải xem cho bằng hết cả tiệm thì thôi.

    Vậy là, giờ nó đang ở trung tâm của một khung tranh khổng lồ. Dù đã phát hiện ra bản chất của không gian quanh mình, June vẫn không hiểu nổi tại sao nó lại ở đây. Nó chẳng thế nhớ ra điều gì cả. Đây là một giấc mơ ư? Hay nó vô tình lạc vào một dạng “ma trận” như trong phim viễn tưởng có Keanu Reeves? Nó hơi phì cười trước suy nghĩ đó. Dù thế giới có là thật hay hóa ra chỉ là chương trình giả lập của trí thông minh nhân tạo, con người sau cùng vẫn chọn cách sống bị cầm tù bởi những cỗ máy.

    “Tập trung nào, June!”, nó cố gắng nghiêm túc trở lại. Có lẽ nên nhìn hoàn cảnh theo đúng nghĩa đen. Bằng cách nào đó, nó đã được đưa vào giữa những khung tranh siêu lớn và trống trơn như một phần của một tác phẩm sắp đặt đương đại kỳ quái. Ắt phải có mối liên hệ nào đó, và việc duy nhất nó có thể nghĩ đến... “Mình phải vẽ chăng?”.

    Gần như ngay lập tức, June thấy có thứ gì đó lăn trên mặt “thảm” và dừng ngay dưới chân, chỉ khẽ chạm vào da nó. Cúi xuống thấp, thoạt đầu June ngỡ như không có gì cả, nhưng nhìn kỹ mới thấy vật vừa bất ngờ xuất hiện. Một cây cọ đầu tròn kích thước lớn. Toàn thân cũng mang một màu trắng, chiếc cọ có phần lẫn vào lớp vải bao phủ căn phòng. June mỉm cười cầm nó lên, rồi, như một trò đùa, nó nói vào khoảng không:

    “Ok, đã có khung tranh và cọ lông, giờ mà có màu vẽ nữa thì tốt. Hmm, để xem nào, màu nâu chẳng hạn?”

    Những sợi lông trên cây cọ vẽ khẽ rung rinh như thể có làn gió thoảng qua. Ngay trước mắt June, đầu cọ chuyển sang màu nâu đất. Ngạc nhiên đầy thích thú, June chạy đến bức tường gần mình nhất và quệt nét vẽ đầu tiên lên khung tranh. Màu sơn chạy nhanh trên bề mặt đan kết của hàng ngàn sợi vải bện chặt vào nhau, tạo nên vệt màu đậm, đẹp sắc nét. Chỉ sau vài nét vẽ, một cái cửa gỗ đã hiện ra trên mặt vải, với những thanh gỗ ép xếp khít nhau cùng tay nắm cửa bằng sắt. June hơi lùi lại để chiêm ngưỡng thành quả, chính nó cũng thấy bức tranh giống thật quá đỗi.

    Trước sự kinh ngạc của nó, một tiếng gọi cất lên:

    - June, June à!

    Không lớn hơn một tiếng thì thầm, tiếng gọi chỉ vang lên một lần duy nhất, nhưng trong không gian hoàn toàn tĩnh lặng, June có thể nghe rõ từng lời. Mắt đăm đăm nhìn bức tranh mới vẽ, nó khá chắc tiếng gọi vừa rồi phát ra… từ phía sau cánh cửa. Càng ngày càng khó hiểu. Dù không hề có ai xung quanh nhưng June vẫn cảm thấy hơi ngốc nghếch khi vươn tay đẩy nhẹ cái cửa.

    Nó kẽo kẹt mở hé ra một chút.

    Cánh cửa gỗ, do chính nó cầm cọ vẽ nên vừa mở ra ngay trước mắt! Thậm chí còn phát ra tiếng động nữa chứ!

    June nín thở vài giây, rồi nó buông cây cọ vẽ, lách qua cánh cửa, bỏ lại căn phòng trắng kỳ lạ phía sau lưng.

    ***

    June đang đứng trên một bãi đất rộng phải đến hàng ngàn mét vuông. Trời tối, những dải đèn lấp lánh giăng giữa những cây cột cao đang tỏa ra thứ ánh sáng vàng lung linh. Những mô hình lớn với đủ hình thù trừu tượng được bày rải rác, rõ ràng có một dụng ý nghệ thuật nào đó, nhưng lúc này June không có tâm trí đâu mà phân tích nữa. Nhiều bóng người đang vội vã đi qua đi lại, xem chừng rất bận rộn.

    “Tránh đường nào!” - Ai đó làu bàu và June vội né qua một bên.

    Đó là một người đàn ông cao to với gương mặt quàu quạu. Ông ta đang đẩy chiếc thùng lớn có bánh xe, ở trên là những cái loa lớn loại dùng ngoài trời. June chớp thời cơ, cố gắng giữ ông ta lại:

    “Xin lỗi, cho tôi hỏi, đây là đâu vậy?”

    “Cô gái, cô có bị làm sao không đấy? Sao lại hỏi kỳ quặc vậy?” – Người đàn ông nhăn nhó nhìn June. – “Mau bỏ tay ra, tôi đang phải chuẩn bị cho màn trình diễn tối nay, không thì muộn mất!”

    “Màn trình diễn” à? Lúc này nó mới thấy, ở đằng xa, một sân khấu hoành tráng đang được dựng lên, được chiếu sáng bởi những ánh đèn laser thoắt đổi màu. Đám đông cũng đã bắt đầu tụ lại trước sân khấu. Cứ như là lễ hội Coachella vậy! Là lễ hội nghệ thuật và âm nhạc thường niên của Mỹ, Coachella nổi tiếng là điểm đến thu hút bậc nhất dành cho giới trẻ, với những màn biểu diễn của các nghệ sỹ nổi tiếng và không khí lễ hội sôi động của mùa hè. Sự kiện này cũng là “thánh đường” cho những tín đồ thời trang, đặc biệt là phong cách thời trang đường phố và du mục. Đương nhiên, đi kèm với danh tiếng của nó là mức giá vài trăm cho đến cả nghìn đô tiền vé cho một ngày. June vẫn luôn muốn được tham gia một lần, nhưng giá vé vào cửa đã là cả một vấn đề, nói gì đến vé máy bay đến tận California, cộng thêm ăn ở và ti tỉ những chi phí khác nữa.

    Trên sân khấu, màn hình led rực lên, chiếu những mảng sáng cầu vồng hiệu ứng ba chiều hút mắt. Những nhịp bass và trống dồn dập kích thích tiếng hò reo vang dội của đám đông. June không khỏi bị thu hút về hướng đó. Trong khi chạy về phía sân khấu, June ngoái lại nhìn chỗ nó bước ra khi nãy. Chẳng thấy tăm hơi cánh cửa đâu nữa, chỗ ấy đã biến thành một quầy đồ ăn từ lúc nào không biết.

    ***

    Không khí đêm nhạc thật tuyệt! Dù phải chen chúc giữa hàng trăm nghìn người, June vẫn say sưa nhún nhảy theo điệu nhạc, dường như quên mất vì sao mình lại có mặt ở lễ hội “trên trời rơi xuống” này. Lần lượt những ca sỹ yêu thích nhất của nó đều lên biểu diễn, và June mê mải hát theo những bài hát mà nó thuộc từng lời. Khi thì nó nhảy tại chỗ theo nhịp đánh bắt tai của ban nhạc trong những ca khúc pop rock, lúc lại hòa giọng cùng đám đông trong những bài nhẹ nhàng hơn. Những chiếc lightstick – gậy phát sáng được mọi người chuyền tay nhau, sáng nhấp nháy như hàng vạn ngôi sao.

    “Các bạn có tin rằng, chính những người cổ vũ dưới kia cũng có những tài năng đặc biệt giống như các nghệ sỹ đêm nay không? Ngay bây giờ, tôi sẽ mời những khán giả may mắn nhất lên sân khấu để thể hiện mình!” – Tiếng MC chương trình vang lên đầy hào hứng.

    Tiết mục tương tác khán giả đây mà. June không mấy để ý, cho đến khi anh chàng MC chải chuốt có khuôn mặt nhang nhác Mario Lopez chỉ thẳng đến chỗ cô. June cảm thấy như hàng ngàn cặp mắt đang đổ về phía mình. Mặc sự phản đối yếu ớt của June, đám đông chợt chuyển động như những đợt sóng, đẩy nó tiến về phía trước, sát tận cầu thang bên rìa sân khấu. Không còn lựa chọn nào khác, nó đành phải bước lên cầu thang.

    Cùng đứng trên sân khấu là vài người nữa, họ cũng mang vẻ mặt nửa hứng thú, nửa bối rối giống như nó. Khi người đầu tiên bước lên, June chợt thấy lo lắng. Câu nói nửa đùa nửa thật thường được lan truyền trên mạng “Ai rồi cũng sẽ có 15 phút nổi tiếng” chợt xảy ra với nó ngay lúc này. Vấn đề là, nó có tài năng gì để thế hiện được đây.

    Cô gái đầu tiên với mái tóc nhuộm hồng như kẹo bông vừa xong phần giới thiệu bản thân và giờ sẽ trình diễn tiết mục gì đó mà June không kịp nghe. Chăm chú theo dõi cô nàng “Kẹo bông”, June chợt há hốc miệng.

    “Kẹo bông” duyên dáng nhún mình tại chỗ, và từ bả vai của cô mọc ra một đôi cánh mỏng tang như của loài bướm có cánh trong suốt. Cô biểu diễn một đoạn múa ba lê ngắn với những động tác di chuyển mũi chân trứ danh, những cú xoay tròn uyển chuyển, và kết thúc bằng cách đập đôi cánh sau lưng, nâng mình lên không khí rồi cúi chào đầy kiểu cách.

    Cái... cái quái gì vậy?!

    Nó vừa chứng kiến một loại công nghệ biểu diễn mới nào đó chăng?

    Chưa kịp hoàn hồn, June lại tiếp tục làm khán giả bất đắc dĩ cho những màn biểu diễn tài năng tiếp sau đó, mà dường như, mỗi lúc càng thêm kỳ cục.

    Một chàng trai tóc vàng bước lên và trình diễn tung hứng những trái bóng. Nhưng không phải ba, hay thậm chí mười trái. Chính mắt June nhìn thấy ít nhất năm mươi trái bóng bay lượn quanh anh chàng đam mê xiếc, còn tay anh ta thì chuyển động nhanh như điện xẹt. Rồi lại đến tiết mục hát của một cô gái xinh đẹp với làn da màu ôliu cuốn hút; sẽ chẳng có vấn đề gì nếu cô không đột ngột “biến” ra thêm một phiên bản giống hệt mình sau một làn khói, để tiếp tục đoạn thứ hai của bài hát.

    Mình đang lạc đến đâu thế này? Cuộc thi Got Talent của người ngoài hành tinh chắc? June đang không biết có nên bỏ chạy hay không thì cô gái nọ, cùng phiên bản sinh đôi của mình, đã kết thúc bài hát. Ai đó đẩy nhẹ vào lưng June, đến lượt cậu rồi đó!

    Ánh đèn sân khấu chiếu thẳng vào chỗ June đứng và tiếng hò reo lại dậy lên. Thôi xong! June tiu nghỉu tiến lại gần anh chàng MC, chuẩn bị sẵn tinh thần để nói một câu duy nhất: Xin lỗi, tôi chẳng có tiết mục nào để trình diễn cả! Nhưng anh chàng MC đã lên tiếng trước:

    “Chào mừng bạn! Nào, hãy thể hiện tài năng vẽ của mình đi!”

    Nói rồi, anh ta nháy mắt, đánh ánh nhìn xuống bàn tay của June.

    Cây gậy phát sáng vẫn còn nhấp nháy trong bàn tay nắm chặt của June. Nó dám chắc là anh ta có vấn đề về đầu óc rồi. Mắt nó hơi lóa vì ánh sáng của chiếc đèn moving head gắn phía chân sân khấu ngay trước mặt.

    Ok, dù gì khi nãy nó cũng đã vẽ với cây cọ tự đổi màu sơn kia mà, bây giờ thì cũng vậy thôi… June vung cây gậy vài vòng ngẫu nhiên lên không khí.

    Những đường xoắn ốc phát sáng như được gắn đèn neon hiện ra như có phép màu. Như thể June là một nhân vật trong Harry Potter và chiếc lightstick là đũa thần, những hình ảnh được nó vẽ ra tỏa ra những tia sáng lấp lánh và hiệu ứng “bokeh” – hiệu ứng thường thấy nhờ kỹ thuật trượt nét khi chụp ảnh – cực kỳ ấn tượng. Chợt cảm thấy như nghệ sỹ biểu diễn thực thụ, June vẽ thật nhanh khung cảnh một buổi bắn pháo hoa. Khi những chùm sáng bay vút lên và xòe bung ra cùng với tiếng kêu lộp độp vui tai, trái tim June như nhảy múa trong lồng ngực khi thấy đám đông đồng loạt ồ lên và ngắm nhìn đầy ngưỡng mộ.

    Ngay lúc ấy, giữa hàng ngàn khuôn mặt đang mải ngước lên ngắm pháo hoa, June bắt gặp một ánh mắt nhìn thẳng vào mình.

    Là người đó!

    ***

    June cuống cuồng chạy xuống khỏi sân khấu. Quá đông để có thể tìm thấy chính xác vị trí của người đó. Nhưng khi bắt đầu chạy xuống cầu thang, nó đã thấy người kia cũng đang quay đi, tách khỏi đám đông khán giả. Bóng dáng ấy thấp thoáng giữa biển khán giả đang làm trò “sóng người”, đôi lúc hiện ra khi một loạt người cùng lúc cúi xuống thấp, lúc lại chìm nghỉm trong một rừng bàn tay giơ cao.

    June chạy. Chẳng để tâm được gì xung quanh nữa, nó cứ chạy mãi theo cái bóng ẩn hiện ấy. Điều duy nhất nó biết là, đó là khuôn mặt quen thuộc duy nhất giữa mớ bòng bong mà nó vừa rơi vào.

    Chắc hẳn người đó có thể trả lời cho mình!

    June chạy. Băng ngang qua một loạt những chiếc lều trại có trang trí họa tiết Aztec trắng đen, rồi đến một loạt khác với cách trang trí giả lông thú, lại đến những chiếc mang hoa văn gạch hoa kiểu Pháp,…June không khỏi lấy làm lạ. Nó khá chắc là đã từng thấy cảnh này ở đâu rồi.

    June vẫn chạy. Tiếng xôn xao từ lễ hội đã xa dần. Nó đã chạy bao lâu rồi mà dường như vẫn không thể đuổi kịp người đó. Vẫn luôn là như vậy.

    Đã thấm mệt, June chạy chậm lại khi cảm thấy cơn váng đầu óc sắp kéo tới. Mắt nó sa sầm lại như bị tụt huyết áp, cảnh vật tối đi trong phút chốc. “Mình cần tập thể dục nhiều hơn”, nó thoáng nghĩ, rồi quyết định bỏ cuộc với trò mèo đuổi chuột này.

    Khi cơn choáng váng qua đi, June cảm nhận một bầu không khí hoàn toàn khác đang mơn man trên da thịt. Cũng giống như cách căn phòng trắng bốc hơi kỳ lạ, quang cảnh lễ hội cũng đã biến mất. Một cơn gió đặc biệt mát lành mang mùi vị vô cùng đặc trưng lướt qua nó. Nó đang ở biển!

    June lặng người ngắm biển đêm rì rào âm hưởng muôn đời của nó. Dưới chân June, bãi cát phát sáng như một bầu trời thứ hai, lốm đốm ánh xanh dạ quang như của vạn vạn vì sao. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính nó đã vẽ cảnh biển này, lấy cảm hứng từ bãi biển “Sea Of Stars” thuộc quần đảo Maldives, với bờ cát phát sáng nhờ những sinh vật phù du nương theo những con sóng vào bờ. Nếu mọi việc đúng như những gì nó đang nghĩ thì trên bờ cát này sẽ có một ngôi nhà gỗ nho nhỏ, được thắp sáng bởi ánh đèn vàng ấm cúng.

    Đi dạo dọc theo bờ biển, June để nước biển chảy tràn qua đôi chân để trần. Nước lạnh, nhưng cũng giúp nó tỉnh táo hẳn. Nó thật sự đang ở một mình giữa một bãi biển đẹp đến huyền hoặc. Từ phía xa, nó đã thấy bóng ngôi nhà gỗ nằm bình yên bên những mỏm đá.

    Thả lỏng đi, June, hãy cứ coi như mình đang có một kỳ nghỉ tự do và tuyệt vời hiếm có. Bước đến gần ngôi nhà, June bất giác mỉm cười, nó đã nghĩ ra cách để có thể tìm lại người có gương mặt thân quen đó rồi.

    - - -
    [/SPOILER]
     
    Sửa lần cuối: 4/2/2020
  3. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    BÊN KIA GIẤC MƠ

    Chương II: Đây có phải giấc mơ?
    ---


    Mỗi lần có người bước qua sảnh chờ, Jess lại ngẩng lên. Đan chặt hai bàn tay đến không còn cảm giác, bà đã không thể ngồi yên suốt một giờ vừa qua.

    Khu vực chờ dành cho gia đình bệnh nhân của bệnh viện công Little River gồm khoảng ba mươi chỗ ngồi. Trên chiếc bàn cạnh ghế sofa, vài tờ rơi về sức khỏe nằm lẫn lộn trên kệ làm bằng nhựa trong. Chậu cây dương xỉ nằm trong góc. Một chiếc đồng hồ treo trên tường.

    Ngay khi nhận tin, chồng bà đã nhất quyết không cho bà tự lái xe đi. Vì không gọi được người trông trẻ giữa buổi tối thế này, ông phải ở nhà với Charlotte và Lucas. Trong lúc đợi chiếc Uber vừa thuê, ông ngồi nắm tay bà và đọc lời cầu nguyện cho June. Richard vẫn luôn như vậy, bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh với niềm tin tuyệt đối.

    Sau hàng giờ ngồi trên xe, khi Jess đến bệnh viện, ca phẫu thuật của con gái bà vẫn chưa kết thúc.

    “Ca phẫu thuật kéo dài hơn dự kiến. Xin hãy bình tĩnh và đợi ở khu vực chờ.”

    Đó là câu nói duy nhất Jess nhận được từ người y tá luôn vội vã. Chuyện “kéo dài hơn dự kiến” và “bình tĩnh” rõ ràng chẳng thể có mối liên hệ nào. Rồi Jared đưa - đúng hơn là dìu bà - đến sảnh chờ này đây.

    Jess nhìn trân trân vào bức tường màu be lợt lạt của bệnh viện. Tiếng thổn thức của một gia đình mới đến cứ ong ong trong đầu, thật sự không thể chịu đựng nổi. Năm phút trôi qua.

    Jared - người chồng cũ - đang trả lời những cuộc điện thoại đầy lo lắng của đồng nghiệp

    “Vâng, chúng tôi cũng chưa có tin tức gì… Cảm ơn anh… Không phải đến đâu, bệnh viện cũng chỉ cho phép tối đa hai người nhà…”

    Phòng chờ này thật sự thiếu quá nhiều yếu tố để có thể giúp người ta yên lòng hơn, dù chỉ trong vô thức. Ánh sáng ở đây thiếu độ ấm, những chiếc đệm ghế hơi bị lún, những bức tường không treo tranh. Jess ngó quanh quất. Năm phút nữa trôi qua.

    Đáng lẽ bà nên lắng nghe Richard kỹ hơn khi ông cầu nguyện, Jess chợt nghĩ thế và cố gắng nhớ lại những lời ông đã nói trước khi bà đi. Điều gì đó về sự nhân từ, quyền năng vô biên và bàn tay chữa lành. Dù chưa bao giờ là người có đức tin mạnh mẽ - bà mới thường xuyên đi nhà thờ khoảng ba năm nay, chủ yếu là vì chồng mới - nhưng lúc này, bà sẵn sàng cầu nguyện trước bất cứ thánh thần nào có khả năng chữa lành cho con gái mình.

    Cuối cùng, nam y tá đầy mệt mỏi cũng xuất hiện.

    “Người thân của June Walker? Xin mời đi theo tôi!”

    Cả hai theo người nhân viên bệnh viện lên cầu thang và đi qua một dãy hàng lang dài. Jess thấy mình nín thở mỗi khi bước ngang qua một cánh cửa. Bà nghĩ đến căn phòng đặc biệt của các bệnh viện, nơi người ta nhận những tin xấu sẽ thay đổi cuộc đời họ mãi mãi. Những kiểu thông tin bắt đầu bằng “tôi rất lấy làm tiếc...”, kèm theo ánh mắt cảm thông khiến người ta ngột ngạt trong cảm giác bị thương hại, kết cục cũng chỉ có thể là sự im lặng đắng ngắt và trống rỗng. Jess cố gắng nuốt trôi cảm giác nôn nao đang dâng lên trong cổ họng.

    Nam y tá dẫn họ tới trước cánh cửa gỗ phòng 210 với bảng tên “Bác sỹ Bracher”. Đến lúc này Jess mới dám thở ra.

    Vị bác sỹ đứng dậy chào họ. Người đàn ông có làn da đậm màu, mái tóc cắt gọn và đôi mắt ấm áp tỏa ra vẻ điềm tĩnh khiến người ta yên lòng. Văn phòng nơi đón họ cũng không có gì nhiều. Tại bàn làm việc, bác sỹ Bracher mời họ ngồi xuống hai ghế ngồi dành cho khách phía đối diện. Một giá sách đơn giản với những tập tài liệu nằm cạnh ô cửa sổ phía sau ông. Dù rèm cửa sổ được kéo lên, trời cũng đã quá tối để có thể thấy được gì.

    Bác sỹ cảm ơn người y tá và đợi cho đến khi anh ta khép cánh cửa lại sau lưng, rồi vào đề ngay.

    “Tôi e rằng mình có một tin tốt và một tin xấu cho hai vị. Tin tốt là ca phẫu thuật tương đối thành công, bệnh nhân đang ở trong tình trạng ổn định. Tuy nhiên…”

    Những thuật ngữ y tế sắc lạnh và khô cứng lùng bùng bên tai Jess - “tổn thương não”, “hôn mê độ II”… Bên cạnh bà, Jared đưa ra hàng loạt câu hỏi, đáp lại ông chỉ là giọng đều đều của vị bác sỹ, yêu cầu họ chờ đợi thêm. Jess nhìn chăm chăm vào mặt sau chiếc khung ảnh gỗ để trên bàn, đoán rằng đó là tấm ảnh gia đình Bracher, chắc sẽ là bức ảnh đẹp của một gia đình hạnh phúc.

    “Vậy... ý ông là, con gái tôi chưa biết bao giờ mới tỉnh lại?” - Jess chậm rãi nói, giọng như vỡ vụn.

    “Thưa bà, với những tai nạn như thế này, mức độ chấn thương thường rất phức tạp. Hiện giờ, chúng tôi đang làm tất cả những gì có thể.” - Bác sỹ Bracher khẳng định.

    Bên ngoài kia, Shadowfield chìm sâu vào bóng đêm đen đặc.

    ***

    Jess nấc lên khi nhìn thấy June nằm bất động trên giường, khắp mình băng bó và được nối với đủ thứ dây nhợ. Bà thậm chí không thể nhìn rõ khuôn mặt con gái do những vết bầm và ống thở oxy. Nỗi đau buồn thít chặt lấy trái tim đã mệt mỏi rã rời của bà.

    Phòng bệnh của June là căn phòng vuông vắn rộng khoảng ba mươi mét vuông. Hai ô cửa sổ rộng đã được kéo kín rèm. Nằm cuối phòng, đối diện với giường bệnh là chiếc bàn inox ghép mặt gỗ và hai chiếc ghế đơn. Jess lẳng lặng nhấc một chiếc ghế lại gần với giường nơi June nằm.

    “Để anh.” - Jared đỡ lấy chiếc ghế.

    “Mặc tôi, bây giờ anh lại tỏ ra có ích đấy ư?!” - Jess xẵng giọng.

    “Ý em là sao?” - Jared hỏi, cảm thấy bị dội ngược.

    “Anh hỏi bác sỹ rất nhiều, vậy giờ tôi hỏi anh.” - Jess đi đi lại lại trong phòng, vặn vẹo hai bàn tay - “Tại sao anh để con gái tôi lái xe ngoài đường khi trời tối như vậy?”

    Jared nhìn Jess, vừa sững sờ vừa đau khổ.

    “Em đang đổ lỗi cho anh đấy à?”

    “Tôi hỏi anh, tại sao nó lại gặp tai nạn trên cung đường cách nhà mấy cây số, mà đáng ra nó đã phải rẽ về từ trước đó rồi? Và, tại sao túi khí trên xe không mở?!” - Giọng Jess hơi lạc đi.

    “Em đang mất bình tĩnh đấy!” - Jared nói, cố gắng hạ giọng xuống.

    “Đương nhiên là tôi đang không bình tĩnh, anh nghĩ sao chứ?!” - Jess tức tưởi - “Con gái tôi đang hoàn toàn nằm liệt trên giường! Nhìn nó xem, con gái bé bỏng của tôi! Và đó là lỗi của anh!”

    “Em thôi đi!!!”

    ***

    Tiếng léo nhéo bên ngoài khiến June tỉnh giấc. Mất một lúc nó mới tỉnh táo lại. Nó thấy mình đang nằm trên chiếc giường đơn ngay dưới khung cửa sổ ngập nắng. Căn phòng ngủ nhỏ chỉ có sắc nâu của gỗ và màu phấn nhạt của đồ đạc theo kiểu “minimalism” - phong cách tối giản. Vẫn nằm nguyên giữa tấm chăn êm ái, June đưa bàn tay lên, chơi đùa với những tia nắng chiếu vào phòng qua tấm rèm mỏng. Phía trên trần, phần mái đổ dốc tự nhiên cùng với thanh xà gỗ vắt ngang tạo thành hình chữ A khiến người ta liên tưởng đến kiến trúc của những tầng áp mái. Nó chợt nhớ rằng mình đang ở trong căn nhà gỗ trên bãi biển vắng vẻ, vậy những tiếng ồn khi nãy là ở đâu ra nhỉ.

    June vừa đi vừa nhảy mấy bước đã hết chiều ngang của căn nhà để ra đến cửa. Dù vậy, nó không thể bỏ qua chiếc đĩa được đặt sẵn trên bàn phòng khách - trên đĩa, hai chiếc bánh sừng bò được bày ngay ngắn tỏa mùi hương thật không thể cưỡng lại. Khi đã chắc rằng không có nhân vật bí ẩn nào có thể mang bánh vào trong nhà cho nó - cánh cửa vẫn chốt từ bên trong - June quyết định coi đây như một điều hiển nhiên nữa. Dẫu sao thì cả một bãi biển và một căn nhà đã từ trên trời rơi xuống để dành riêng cho nó cơ mà. Cắn một miếng lớn đầy thỏa mãn, June mở cánh cửa, sẵn sàng đón một cơn gió biển mát lành...

    Từ chỗ ngôi nhà gỗ nhìn ra - nơi vốn là mặt biển rộng đến hút tầm mắt - giờ mọc lên một con phố với dãy dài những ngôi nhà hai tầng cùng kiểu sát vách nhau. Trước mỗi nhà là lối vào cửa lát xi măng nằm giữa hai bên thảm cỏ được cắt tỉa cẩn thận.

    Bên cạnh một hòm thư kiểu truyền thống, hai con ngựa đứng thẳng bằng hai chân sau đang kêu lên những âm thanh chí chóe tức cười. June đoán rằng chúng đang cãi nhau dù không thể hiểu thứ ngôn ngữ chúng đang nói, vì một con cứ liên tục lắc đầu nguầy nguậy, con còn lại thì đứng chống nạnh. Ở một góc khác, một con bò đang sửa soạn đi làm - hẳn vậy, vì nó đeo chiếc cà vạt chỉn chu quanh phần cổ mập ú, chưa kể còn cầm theo chiếc cặp táp bóng lộn và chạy vội vàng ra khỏi nhà. Cứ như thế, June nhìn thấy một loạt các con vật khác trong đủ tư thế, trạng thái giống như người trước mỗi căn nhà, như thể June đang đứng trực tiếp trong khuôn hình của bộ phim hoạt hình Zootopia vậy. Những con thú, thật sự trớ trêu, lại gợi June nhớ đến những người hàng xóm phiền nhiễu của nó. Ví như cặp thỏ mặc váy đỏ chóe đang ngó ra từ đằng kia, trông chẳng khác nào cặp mẹ con nhà Williamson khi ghé thăm nhà nó mỗi dịp lễ. Bà mẹ, bằng vẻ tình cờ giả tạo nhất, luôn nhắc đến mớ thành tích của cô con gái Meriam - một cô nàng “con nhà người ta” chính hiệu - và đương nhiên, đối tượng so sánh sẽ là June.

    June giật nảy mình. Một tiếng kêu lẫn giữa chất giọng the thé và tiếng be be vang lên ngay cạnh nó. Khi nó quay sang, một ổ bánh nướng được chìa ra trước mặt. Đĩa bánh to tướng che khuất cả nửa khuôn mặt gầy và thân hình lỏng nhỏng của một bà cừu. Đôi kính lão hơi trễ xuống trên mũi, bà cừu liến thoắng nói gì đó với nó về chiếc bánh, vẻ cực kỳ nhiệt tình. Cố gắng né khỏi ổ bánh táo bị dí sát mặt, June thấy cảnh tượng này sao mà quen thuộc. Phải rồi, chính là bà Reinhart - hàng xóm tại Dallas của mẹ cùng món bánh táo dở tệ. Bà ấy có thói quen mang bánh sang nhà người ta để có cớ ngồi cả ngày tám chuyện, và đặc biệt ưa thích hỏi June những câu gây khó chịu, như việc nó nghĩ gì về hai đứa em cùng mẹ khác cha, trong lúc dòm nó qua cặp kính bé tí. Nhiều lúc nó nghĩ, do cặp kính đó mà bà không nhìn rõ chăng? Tại sao bà ta không mua cặp kính tử tế hơn để có thể đọc báo hay xem quảng cáo bán máy sinh tố trên tivi và để nó yên?

    Nó huơ huơ tay, ra dấu như có việc bận và vội rảo bước dọc con phố. Tiếng cãi cọ vẫn như đuổi theo, khiến nó vội rẽ ngang vào một nhánh đường khác.

    ***

    Ngày hôm qua, dù có nhiều chuyện vượt quá tầm hiểu biết của nó xảy ra, June vẫn chưa quên điểm mấu chốt quan trọng - nó cần phải tìm lại người trong đám đông đó. Nó có một kế hoạch, nhưng cũng không hoàn toàn chắc chắn. Lấy ra chiếc bút chì mà nó đã thấy nằm trơ trọi trên bàn trong căn nhà gỗ, June ngập ngừng kéo một đường vẽ dài.

    Sân bóng rổ trong nhà của trường trung học Shadowfield High dần hoàn thiện sau nét vẽ của June. Bản vẽ này có phần vội vã và sơ sài, nhưng không quan trọng, June tạo ra nó lúc này để phục vụ mục đích khác thay vì để thỏa mãn cái tôi nghệ thuật.

    Nó ngồi trên khán đài, hồi hộp chờ đợi. Người đó sẽ phải xuất hiện thôi! Cậu ấy không thể bỏ qua bất kỳ trận bóng nào, dù là chỉ đến xem hay là thi đấu. June chờ hồi lâu, hoặc có thể mới được một lúc thôi, thời gian là thứ khó nói trong cái “thực tại” này của nó.

    Nhưng rồi June cũng nhận ra lỗi sai ngớ ngẩn của mình. Nó đã vẽ sân bóng “quanh” mình và thiếu đi những cái cửa! Nó nhanh chóng vẽ cánh cửa chính dành cho người xem và ô cửa nơi các cầu thủ bước ra. Nói thật ra thì đây cũng chỉ là một trong những thử nghiệm chính thức đầu tiên của nó, có trời mới biết được liệu có điều gì xảy ra không!

    Cánh cửa lập tức bật mở. Hàng nhóm người ùa vào, cầm theo băng rôn khẩu hiệu và những món đồ ăn nhanh. Khán đài nhanh chóng trở nên đông nghẹt không còn một chỗ trống. Màn hình led nhấp nháy hiện tên hai đội bóng sẽ thi đấu cùng trái bóng cam ngày hôm nay. June thở dài, nó đã tự hỏi sao lại có đông người đến như vậy - đây là trận chung kết của giải đấu đội các trường trung học toàn bang Oklahoma.

    Hai đội bóng ra khỏi phòng chờ trong tiếng hô hào cổ vũ rầm rộ của đám đông. Một lần nữa đám đông lại làm khó June. Nó phải đứng hẳn dậy để quan sát rõ những cầu thủ thi đấu phía dưới sân. Nó lướt nhìn thật nhanh một lượt các cầu thủ trong màu áo đỏ truyền thống của đội nhà Shadowfield. Đội hình năm người mạnh nhất của đội đã được cho ra sân trong trận đấu cực kỳ quan trọng này.

    Đầu tiên là Nicholas cao kều với chiều cao xấp xỉ 6,5 feet, rồi đến Andy “Big A” nổi tiếng với cú chuyền bóng từ giữa sân cực kỳ chính xác để đồng đội áp sát bảng rổ và ghi điểm. Đứng bên cạnh Andy là Vince “Vin” có cái đầu trọc bắt chước thần tượng Vin Diesel trong loạt phim Fast & Furious... Tiếp theo nữa là Carlos với đôi mắt tinh quái, cực nhạy bén trong các pha tranh cướp bóng.

    Rồi, không thể thiếu được ngôi sao - linh hồn của đội bóng - Max De Luca. Cậu chàng lai nửa dòng máu Ý đứng thẳng đầy tự tin, mớ tóc vàng vuốt hất ra sau, ngọn tóc phía trước để dài, rũ tự nhiên đầy lãng tử. Khi Max tập trung cho trận đấu, gương mặt cậu trở nên nghiêm nghị, càng làm nổi bật xương hàm hơi góc cạnh và cái cằm chẻ nam tính.

    June thấy trái tim mình như nhảy lên một cái. Cậu ấy đây rồi!

    Trọng tài ném bóng lên cao từ vòng tròn giữa sân - trận đấu bắt đầu. Bóng rổ không phải môn thể thao để bạn có thể bình tĩnh chọn chỗ ngồi thoải mái và bỏ lỡ vài phút. Trái bóng được chuyền liên tục từ đầu sân bên này sang đầu sân bên kia chỉ trong vài giây. Dù mong đợi đến lúc gặp riêng Max, June vẫn không khỏi bị cuốn theo nhịp độ và sức nóng của cuộc đối đầu. Hiệp thứ nhất trôi qua chóng vánh; đội khách đang dẫn trước sít sao. Chỉ sau hai phút nghỉ, trận đấu bước vào hiệp tiếp theo.

    Trong vị trí shooting guard - hậu vệ ghi điểm - Max xông xáo chạy chỗ và thực hiện những cú ném ba điểm cực kỳ chính xác. Không biết đã bao nhiêu lần June từng dõi theo lưng áo số 8 ấy. Cơ lưng cậu gồng lên dưới tấm áo đấu, cánh tay săn chắc bóng mồ hôi khi thì hạ thấp điều khiển từng nhịp bóng, khi thì vươn lên, kết hợp với một cú bật cao, thảy một đường bóng dài dứt khoát. Thích đơn phương một anh chàng nổi tiếng vì chơi thể thao - đó là mô-típ quá cũ rồi, June tự phủ nhận cảm xúc của mình như thế. Nó nhiều lần cố gắng cưỡng lại sự thôi thúc mỗi khi đi ngang sân thể dục, nhưng rốt cuộc vẫn nhìn thật nhanh về phía đó, bắt lấy hình ảnh của Max. Đôi khi là lúc cậu đang ngồi nghỉ, xoay xoay chai nước tăng lực hiệu Monster Energy quen thuộc; cũng có khi cậu đang trêu đùa với nhóm bạn và cười phá lên sảng khoái; nhưng tuyệt nhất vẫn phải là đúng lúc cậu làm một cú “pull-up” - trong lúc dẫn bóng, cậu dừng đột ngột, xoay người một cách khó lường rồi duỗi tay thực hiện cú ném. Trái bóng lượn một vòng thót tim trên vành rổ rồi chui tọt xuống trước sự bất lực của đối thủ. Pha ghi điểm hoàn hảo.

    Dù đã rất nỗ lực, đội nhà vẫn đang bị dẫn trước. Đội bạn theo sát Max và không ngại va chạm để ngăn cản ngôi sao của Shadowfield High ném bóng. Sau quãng 15 phút nghỉ giữa trận, hai đội quay lại với những hiệp đấu tiếp theo. Một cầu thủ dự bị đã thế chân Max. Vào lúc nước sôi lửa bỏng thế này ư? June khoanh tay bực bội trước ý nghĩ lại vuột mất cơ hội tìm thấy Max lần nữa.

    “Trận đấu hay chứ, June?”

    June quay đầu sang, ngỡ ngàng. Thản nhiên cầm bọc bắp rang bơ trên tay, Max hỏi nó như thể đã ngồi đó được một lúc lâu. Cậu cười rõ tươi trước vẻ mặt của nó rồi vui vẻ chỉ trỏ bình luận về trận đấu dưới sân.

    “Xem kìa! Cướp bóng... đúng rồi... chạy nhanh lên đi! Lên nào! Úp rổ! Score!”

    June nặn ra nụ cười hưởng ứng có phần méo mó.

    “Haha... à ừ... mà nhân tiện, cậu không thi đấu nữa sao?”

    “Ừ, nhưng tớ thấy June ngồi một mình. Tớ nghĩ sẽ vui nếu chúng mình cùng xem cùng nhau. Và phải nhanh chân trước khi có ai “cướp” mất cậu.” - June nghe thấy Max nói thế, và nó một lần nữa phải quay hẳn người sang bên để dám chắc. Max nháy mắt. Đôi mắt màu xanh xám nhìn thẳng vào nó chứ không ai khác.

    June đỏ cả mặt.

    “Vả lại, cậu vẽ sân bóng hơi nhỏ đấy, chưa chuẩn kích thước đâu. Nhìn này, tính từ đường biên, chiều này phải là 94 feet cơ...” - Max nói tiếp, rồi tiện tay ném một vốc bắp rang vào miệng.

    Cậu ấy biết à?!

    Mà thật sự ý câu nói của Max là như thế nào, nó cũng không chắc nữa. Những ý niệm về không gian và thời gian ở đây bỗng trở nên lơ lửng, khó nắm bắt đến lạ. Liệu Max đã thấy nó vẽ sân bóng và đi vào, hay cậu chỉ đoán thế, dựa theo màn trình diễn pháo hoa của nó tại lễ hội âm nhạc mà cậu làm khán giả? Đúng là nó vẽ ra sân bóng với hy vọng gặp được Max, nhưng nếu vậy thì cậu thuộc về chỗ này, hay sân bóng và trái bóng rổ là dấu hiệu để cậu biết mà đến với nó?

    Nó cố gắng sắp xếp những ý nghĩ trong đầu như khi tìm cách ghép một bộ xếp hình mà những miếng ghép cứ lộn xộn và rời rạc khỏi nhau.

    “Trông cậu nhợt nhạt lắm. Cậu nghĩ sao nếu chúng mình ra khỏi đây và đi dạo một vòng?” - Max gợi ý, sau khi săm soi nó một hồi.

    June bối rối gật đầu rồi cùng Max lách khỏi đám đông đang cuồng nhiệt trên khán đài.

    Ra khỏi sân bóng trong nhà, Max lập tức bắt chuyện. Cậu có vẻ chẳng lấy gì làm bất ngờ với khung cảnh xung quanh và cứ say sưa với những câu pha trò của mình. June nửa lắng nghe Max, nửa phân vân với nhiều suy nghĩ vẫn liên tục nảy ra trong đầu. Nó có quá nhiều câu hỏi, nhưng không chắc nên bắt đầu từ đâu, và, nó có thật sự muốn nghe câu trả lời ngay lúc này không. Đi cùng Max như thế này thật sự vừa quen thuộc, vừa lạ lẫm. Nó đã từng hình dung ra cảnh này hàng trăm lần, nhưng khi chuyện xảy ra, nó cũng không chắc đây hoàn toàn là điều nó muốn. June như muốn tự gõ vào đầu mình vì sự mâu thuẫn ấy.

    “June, cậu vẫn có gì không vui sao?” - Max gọi, hơi nghiêng người và ngả đầu về phía nó. Vẻ quan tâm đầy dịu dàng của cậu khiến nó cảm thấy đống suy nghĩ của mình có phần ngốc nghếch.

    “À, không có gì.” - June lắc đầu, chưa sẵn sàng đưa ra câu hỏi - “Mà chúng mình nên đi đâu đây?”

    Rất tự nhiên, Max cầm lấy bàn tay June, như thể hai đứa đã làm thế nhiều lần rồi. Bàn tay nó nằm trọn trong bàn tay lớn và hơi chai ráp của cậu.

    “To infinity and beyond - Đi tới vô cực... và xa hơn nữa!” - Max lại cười, nhại lại câu nói của nhân vật Buzz Lightyear trong loạt phim Câu chuyện đồ chơi nổi tiếng, giọng mũi hài hước khiến June bật cười.

    “Ừ, miễn không phải quay về khu phố ồn ào kia là được.”

    ***

    Nền trời trên cao chuyển dần sắc da cam sang đỏ, báo hiệu một hoàng hôn lộng lẫy. Max đưa June rẽ vào một con đường mòn. Con đường thu hẹp dần, cho đến khi hai bên đường mọc lên cánh đồng cỏ lau bạt ngàn, những cây lau trắng mịn cao đến ngang vai June, ngả mình trong gió, chạm nhẹ trên da khi cả hai đi qua. Một ngọn đồi hiện ra phía xa, với những cây thông bao bọc quanh một tòa tháp; bóng của chúng in dấu lên đường chân trời vàng rực. Khung cảnh đẹp đến khó tin, gần với một bức tranh minh họa trong truyện cổ tích của trẻ con hơn là đời thật.

    Cả hai ngồi bệt xuống, không muốn bỏ lỡ cảnh tượng huy hoàng này. Max duỗi chân, chống hai tay ra đằng sau, hít hà bầu không khí dịu mát của buổi chiều.

    “Cậu có thích chỗ này không, June? Ở đây hơn hẳn ngoài kia nhỉ?” - Max nói.

    “Ngoài kia? Ý cậu là khu phố à, hay sân bóng?”

    “Không, nghe này June, nếu cậu dám bỏ lại mọi chuyện cũ ngoài kia, cậu có thể bắt đầu lại trong thế giới này... cùng với tớ.” - Max nhổm dậy nói, giọng cậu khang khác.

    “Cậu nói rõ những gì cậu biết gì cho tớ nghe xem nào!” - June sốt ruột nói - “Nguyên nhân tớ ở đây, cậu ở đây, và mọi thứ kỳ lạ khác nữa.”

    Max vẫn tỏ ra bí ẩn. Không phải từ trước đến giờ June vẫn không hài lòng về cuộc sống của mình sao, cậu hỏi mà như khẳng định. Cậu nói tiếp về một viễn cảnh xa xôi nào đó, mà trong đó, June sẽ hoàn toàn hạnh phúc. Chắc chắn thế, chỉ cần nó sẵn sàng đi cùng và nghe theo cậu.

    “Cậu không buồn giải thích cho tớ, mà lại muốn tớ làm theo những gì cậu nói à?”

    “Cậu nghĩ tớ không hiểu cậu sao, June?”

    June co hai chân, tựa đầu lên đầu gối. Nó có thể cảm nhận hơi ấm của Max gần kề ngay bên cạnh, nhưng vẫn thấy cô đơn kỳ lạ. Nếu nói về người có thể hiểu nó, thì không phải không có, nhưng nó thật sự không muốn nói về chuyện đó. Nó nhớ đến đoạn trích trong truyện Hoàng tử bé, khi cậu bé nói về hoàng hôn.

    “- Có một ngày, em ngắm hoàng hôn đến bốn mươi bốn lần.

    Rồi một lúc sau, cậu nói tiếp.

    - Ông biết không, người ta thường ngắm hoàng hôn khi buồn.

    - Vậy cái ngày bốn mươi bốn lần ngắm ấy, hẳn cậu phải buồn lắm?

    Nhưng hoàng tử bé không trả lời.”

    June cũng không trả lời.

    ***

    Hoàng hôn đã tắt, bầu trời chuyển màu xanh tím.

    “Cậu biết không, tớ cần ở một mình suy nghĩ.” - June đột nhiên nói và đứng dậy - “Tớ sẽ quay về nhà một lúc. Tớ ở căn nhà gỗ nhỏ ấy nhé, mà chắc có khi cậu cũng biết điều đó rồi.”

    Max mấp máy môi như định nói gì, nhưng rồi cậu giơ hai tay tỏ ý đầu hàng.

    June quay về con phố với những ngọn đèn đã được thắp lên. Ánh sáng từ những ô cửa sổ hắt xuống đường. Tiếng râm ran từ những căn nhà không khiến June khó chịu nữa, bởi khi lắng tai nghe cho kỹ, đó hoàn toàn có thể là tiếng trò chuyện, cười đùa thay vì tranh cãi. Những âm thanh ấy khiến con đường chỉ có mình June bớt vắng lặng.

    Thả mình xuống ghế sô pha màu be, June khẽ nhắm mắt để tâm trí được nghỉ ngơi đôi chút. Không rõ là tâm trí nó đang có quá nhiều suy nghĩ, hay thật ra là hoàn toàn trống rỗng.

    Chuông cửa vang lên đến hồi thứ ba thì June mới choàng tỉnh, nó vừa thiếp đi.

    “Max phải không? Cứ đẩy cửa vào đi.” - June lên tiếng, giọng hơi ngái ngủ.

    Nhưng không thấy tiếng ai trả lời. Max không có ở cửa, chỉ có mảnh giấy gấp đôi được đặt ngay ngắn ngay bậc thềm màu gỗ nhạt.

    Mảnh giấy trắng ngà không đường kẻ với những dòng chữ viết vội.

    “Gửi June,

    Xin lỗi vì không thể giải thích cho cậu. Cậu biết không, tớ sẽ cho cậu thời gian. Tớ sẽ lại đến khi cậu sẵn sàng. Chúc cậu có một khoảng thời gian vui vẻ, và rồi cậu sẽ thấy, những điều tớ nói đều có lý do cả.

    Yêu thương,

    Max”

    June chạy ra con phố, nhưng không còn thấy bóng dáng Max ở đâu nữa cả. Mọi thứ cứ xuất hiện, biến mất, xuất hiện trở lại, rồi biến mất lần nữa, như thể một giấc mơ mà June không tài nào nắm bắt được.

    - - -
     
    Sửa lần cuối: 4/2/2020
  4. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    BÊN KIA GIẤC MƠ

    Chương III: Người bạn đồng hành
    ---


    Ánh nắng nhạt dần. Hoàng hôn đỏ rực lộng lẫy sắp bao trùm thế giới. Rời khỏi khu phố cùng căn nhà gỗ nhỏ xinh, June Walker đang bước chầm chậm dọc theo bờ sông mà những gợn sóng lấp lánh bạc dưới ráng chiều gợi người ta nghĩ đến sông Mississipi huyền thoại. Nó đã dành cả ngày để đi tìm Max nhưng vô ích. Dù vậy càng đi, June càng bất ngờ với những quang cảnh nối tiếp mở ra trước mắt, nơi này không chỉ từng có đại nhạc hội với hàng ngàn người hay khu phố kỳ lạ mà còn có sông, núi, biển, và cả cánh rừng ở phía xa kia nữa.

    “Liệu Max có ở đấy không?” June nghĩ ngợi vu vơ, hơi buồn cười với ý nghĩ về Max sống ở trong rừng, như một Tarzan thời hiện đại thứ thiệt.

    Nhưng Max de Luca thì chẳng thể nào sống theo kiểu đó. Tuy sống ở thị trấn chẳng thiếu cao bồi và bao quanh bởi phong cách đồng quê, Max vẫn giữ vẻ bảnh bao và nét hào hoa của chàng trai gốc Ý. Có lẽ thứ “vũ khí” lợi hại nhất của Max khiến bao đứa con gái nao lòng lại không phải là bóng rổ mà là giọng nói lai - cách cậu hay kết thúc câu bằng nguyên âm hay nhấn mạnh âm “r” và bỏ qua âm “h”. Dù vậy, sau những câu nói khó hiểu hôm trước, giọng nói và cách phát âm duyên dáng ấy của Max lại chỉ gợi lại trong đầu óc June sự băn khoăn rối rắm.

    June ngồi bệt xuống bãi đất bên bờ sông, nó nghĩ về cuộc gặp gỡ chóng vánh và bức thư ngắn ngủi Max đã để lại. Có lẽ đúng là nó đã quá để tâm những điều khó hiểu cần giải thích mà quên mất, như trong thư, Max đã chúc mình một khoảng thời gian vui vẻ. Hừm, được thôi, để xem nơi này có thể vui đến mức nào.

    Trên mặt đất ngay cạnh chỗ nó ngồi có vương vãi mấy cành gỗ nhỏ và June lựa cho mình một nhánh, cầm vừa vặn trong tay như thể đũa phép của Harry Potter vậy. Tim nó bỗng đập nhanh hơn. Mình mới chỉ thử vẽ những thứ nhỏ, hay những nơi mình đã biết, June hồi hộp nghĩ, vậy còn một nơi thật lớn và hoàn toàn mới thì sao? Nó biết vẽ, nhưng thật khó để coi mình là họa sĩ, nói gì đến kiến trúc sư hay ai đó tương tự như thế, nên June vừa háo hức cũng vừa lo lo. Hít thật sâu, June bước tới khoảnh đất rộng rãi trước mặt, đưa nhánh cây khô lên. Xét cho cùng, ở đây chỉ có mình nó thôi mà, đâu có ai để đánh giá hay chê bai, sợ gì chứ!

    Đúng vậy, chỉ có mình June thôi, nhưng đó là định nghĩa chính xác nhất của tự do, hay đơn độc?

    ***

    June vừa vẽ xong một tảng đá cỡ đại, loại người ta thường đặt trước những tòa nhà lớn, có khắc tên công ty hay trường đại học nào đó.

    “Thị trấn Brightfield.”

    Lấy đó làm mốc, những nhánh đường được June vẽ ra đầu tiên. Các nét vẽ tự động chạy dài mãi ra, tạo những đường cong, giao cắt lẫn nhau để trong chốc lát đã trở thành hệ thống đường sá trông khá hoàn chỉnh. Để cho những con đường tự làm công việc của nó, June tiếp tục vẽ những dãy nhà liền kề và hàng dài những quán xá xinh xắn. Đây sẽ là cửa hiệu chuyên bán đồ phong cách vintage và boho mà nó ưa dùng, kia sẽ là tiệm cà phê nhạc sống chuyên chơi những ca khúc nó yêu thích.

    June vẽ thêm những tòa nhà với phần tường xi măng xám được lấp đầy bởi những hình phun sơn graffiti phóng khoáng, cùng với cách người ta đã biến hóa những khu phố tẻ nhạt ở Brooklyn, New York trở nên đầy màu sắc. Khi June hoàn thành được một nửa thì trời cũng đã về tối. Nó say sưa với những đường nét và gam màu, cho đến khi chợt nhận ra xung quanh bắt đầu có người đi lại, người thì túa ra từ những tòa nhà như vừa kết thúc một ngày làm việc, người thì ghé các quán ăn hay cửa hiệu hai bên đường,... Brightfield vừa thực sự sống dậy!

    Thoạt đầu, June hào hứng. Nó vừa như một kiến trúc sư thành phố đại tài, vừa có gì đó như... Chúa trời, một Kẻ Sáng Tạo đích thực. Nó hiên ngang đi lại, nhìn chỗ này, ngó chỗ kia, hệt như vị vua đi thăm các “thần dân” của mình vậy.

    Nhưng sự háo hức cũng nhanh chóng nguội dần mà nó không tài nào hiểu được vì sao. Ở Brightfield lúc này, dù đây là nơi nó tạo ra, vẫn chỉ là một buổi tối bình thường như mọi nơi khác mà thôi. Vẫn những dòng người dường như vô hồn từ chỗ làm việc trở về nhà.

    Nó chọn cho mình chỗ ngồi bên đài phun nước kiểu Ý đã được dựng lên phỏng theo những hình ảnh trong những bộ phim Chuyện tình ở Rome nó từng xem và yêu thích. Dù biết phong cách của công trình này có phần lệch đi so với mọi thứ xung quanh, June vẫn nhắm mắt cho qua, vì nó được lấy nguyên mẫu từ đài phun nước Trevi - đài phun nước biến ước mơ của nhân vật nữ chính thành sự thật. Một bộ phim hài tình cảm ngốc nghếch kiểu Hollywood - tự June cũng biết thế và thấy hơi xấu hổ một chút - nhưng thôi kệ đi!

    June xoay xoay đồng tiền xu nó vừa tự “thiết kế” trên tay và chợt thấy hơi hồi hộp như thể nó chợt biến thành cô gái trong phim. Đồng xu loáng một ánh bạc trên không trước khi rơi xuống. Thực lòng June chỉ định coi đó là một trò vui, nhưng ngay trước khi đồng bạc chạm mặt nước, một ý nghĩa lóe lên trong đầu nó.

    “Ước gì mình có một người bạn đồng hành.”

    Vài giọt nước bắn lên, rồi mọi thứ trở về như cũ, bề mặt nước khẽ gợn sóng lăn tăn và phản chiếu mặt trăng trên bầu trời. June ngẩng lên, mặt trăng đêm nay đặc biệt lớn và sáng như thể siêu trăng vậy.

    Dù không muốn, June vẫn phải thừa nhận với bản thân là thị trấn Brightfield có nhiều phần giống Shadowfield hơn dự định. Nó vẽ ra nhiều thứ mới toanh theo trí tưởng tượng, nhưng đâu đó vẫn có những góc phố và ngã tư quen thuộc đến nhói lòng. Vẫn có một hiệu sách ngay sau lối rẽ đằng kia. Vẫn một bến xe buýt ở ngay sau lưng. Những nơi chốn kỷ niệm…

    June chợt thấy cơn mỏi mệt bất ngờ chiếm lấy mình. Sự hào hứng từ những trò vui nho nhỏ khi nãy đã sớm bay hơi, để lại cảm giác trống rỗng sâu hoắm như một chiếc hố đen. June biết cảm giác này rất rõ, thời gian gần đây nó thấy thật khó để điều chỉnh cảm xúc của mình. Vui, buồn, hờn, giận cứ thay nhau biến đổi thất thường trong lòng, nhưng tệ nhất vẫn là sự hụt hẫng trống trải này. Nó thở ra và nhắm mắt lại. Xung quanh, dòng người qua lại, tiếng ồn ào hòa lẫn vào nhau dường như cũng mờ nhòe và tạm lắng xuống. Cho đến khi một tiếng gọi vang lên rõ mồn một.

    “Hey, mắt nâu!”

    June ngẩng lên, tim nó không ngừng run rẩy. Chỉ có một người hay gọi nó bằng biệt danh ấy, và câu trả lời của nó sẽ là “Chào cậu, mắt xanh.” Đó là trò đùa của riêng hai đứa, bắt chước một cách mỉa mai những anh chàng cô nàng gọi nhau bằng mấy cái tên nghe phát sợ, kiểu như “Bé yêu” hay “Gấu nhỏ”. Nhưng lúc này June không còn tâm trạng để đùa, nói được một từ cũng đã là khó khăn với nó lắm rồi.

    “Ga... Gavin?” – June quay người lại phía sau, toàn thân cứng đơ như khúc gỗ.

    “Sao mà ngồi thất thần thế?” – Chàng trai trẻ với đôi mắt xanh lá cây nhìn lại nó, cười toe toét. – “Mà đồ đạc đâu rồi? Đừng nói là cậu quên cái hẹn tới thác Summerfall đấy nhé!”

    Lúc này June mới để ý, cậu bạn mặc bộ đồ thể thao phù hợp để đi bộ leo núi - áo khoác có mũ, quần jogger nỉ, giày chống nước - và đặc biệt là chiếc ba lô chắc chắn mà cậu có thể nhét vừa ti tỉ thứ dụng cụ thám hiểm. Đúng là Gavin thật rồi! Cậu ấy luôn cơ động và nhanh nhẹn như vậy, khiến nhiều khi June nghĩ hai đứa chơi thân vì có thể cân bằng lẫn nhau - một đứa “trên mây”, còn một đứa cực kỳ thực tế và hiệu quả.

    June cứ đứng đờ đẫn ra như vậy, mắt dán vào người đối diện. Gavin chỉ đứng cách nó đúng một cánh tay, chỉ cần duỗi tay ra thì có thể, rất có thể, nó sẽ chạm được vào cậu, nhưng điều gì đó vẫn cản nó lại.

    “Thế nào, June? Đi chứ?” – Gavin vẫn cười nhưng giọng ra chiều sốt ruột hơn.

    June vẫn ậm ừ, hai bàn tay nắm lấy nhau, vặn xoắn một cách kỳ quặc.

    “Coi nào, xe buýt đến rồi kìa!” – Gavin hồ hởi nói rồi nắm lấy tay June, kéo nó chạy thật nhanh về phía điểm dừng xe buýt. Hơi ấm bàn tay cậu truyền sang tay nó. Hình như June chưa từng nhận ra tay bạn mình ấm như thế nào cho đến lúc này đây.

    June để Gavin kéo đi, mãi tới khi chuẩn bị bước chân lên xe, nó mới như sực tỉnh điều gì. June định giữ bạn mình lại, nhưng những tràng còi thúc giục của người lái xe và sự khẩn trương của Gavin khiến nó không kịp trở tay.

    ***

    June cứ quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ, cố gắng điều hòa nhịp thở của mình. Bên ngoài cửa sổ chiếc xe buýt đang lao đi vun vút, ánh sáng của những bóng đèn đường đứng cách đều nhau trở thành dải sáng vàng như đuôi Sao Chổi vậy.

    Thác nước Summerfall cách Shadowfield gần 200 dặm về phía bắc. Tuyến xe buýt xuất phát từ Shadowfield sẽ dẫn hai đứa đến trạm tàu để đón chuyến tàu muộn, sáng sớm hôm sau đến nơi để bắt đầu chuyến đi bộ đường dài lên đến thác. Nhưng vấn đề ở đây là, nơi đó cách Brightfield bao xa - thật khó mà hình dung khoảng cách từ địa điểm... tưởng tượng đến địa danh có thật!

    June cố gắng sắp xếp suy nghĩ trong đầu dù điều đấy thật khó vì hình ảnh phản chiếu của Gavin ở ghế bên cạnh trong gương vẫn đang đập vào mắt nó. Sự xuất hiện của cậu bạn thân cũng đột ngột và bí ẩn giống như Max vậy, nhưng dù đã trải qua một cuộc gặp gỡ bất ngờ như thế rồi, có điều gì đó vẫn khiến June bồn chồn không yên. Gavin có vẻ không để ý, cậu còn mải lục tìm gì đó trong ba lô. Khi chiếc xe tạm dừng trước đèn đỏ, Gavin đưa thứ gì đó ra trước mặt June.

    “Chúc mừng sinh nhật tuổi 15 nhé, June!”

    June lặng người, dùng hai tay đón lấy món quà. Dù rất bối rối, nó vẫn cố gắng tháo dây ruy băng và mở giấy gói. Mùi thơm của sách mới đem lại cảm giác bình yên. June lướt tay trên dòng tiêu đề được in nổi - Sáu người đi khắp thế gian. Nó còn nhớ như in nội dung truyện vì đã đọc đi đọc lại không dưới mười lần - sáu người, sáu thân phận khác nhau, họ đi tìm lý tưởng, đối mặt với sự thật trần trụi của thế giới trên hành trình khắp thế gian. Nâng niu quyển sách trong tay, June nhìn Gavin và khẽ mỉm cười, dù nụ cười thật buồn. Gavin luôn có niềm đam mê dịch chuyển và máu phiêu lưu, cậu là tuýp người sẽ ghi tên vào sách Guinness bằng những kỷ lục như đi vòng quanh thế giới bằng một phương tiện kỳ quặc nào đó, kiểu kiểu vậy.

    Đèn chuyển xanh và chiếc xe buýt đi nhanh hơn. June có thể nhìn thấy cái bóng đen lù lù của tảng đá nó mới vẽ hồi chiều và xa hơn chỉ còn là bóng tối hun hút. June thấy như có tảng đá to tướng đè lên ngực. Con đường ấy dẫn đến đâu thì ngay cả nó cũng không biết.

    June nheo mắt nhìn quanh. Đa số những hành khách khác đều đội mũ sùm sụp hay quay mặt khỏi tầm nhìn của nó. Qua tấm kính phía trên ghế lái, nó bắt được ánh mắt kỳ lạ của người lái xe đang nhìn chòng chọc vào tụi nó nhưng lại liếc đi ngay. Dù không thể nhìn rõ mặt người này, đột nhiên June liên tưởng đến người đàn ông nó đã va phải tại lễ hội âm nhạc Coachella hôm trước - cũng là người đầu tiên nó gặp tại “thế giới” này. Điều đó có ý nghĩa gì, nó cũng không rõ nữa, chỉ biết rằng nó bỗng thấy hơi sởn gai ốc.

    “Gavin, xuống xe đi!” – Nó đứng phắt dậy, cầm lấy tay Gavin.

    “Hả?”

    Gavin bất ngờ, hoàn toàn bị đẩy vào thế bị động. June không chắc nên ra hiệu như thế nào cho tài xế dừng lại, nhưng ngay khi hai đứa lao khỏi chỗ ngồi, chiếc xe chạy rờ vào bên đường, cánh cửa tự động mở mà không thấy ai phản ứng gì. June lập tức lôi Gavin xuống, bàn tay cầm cọ vẽ vốn mềm mại nhưng sức kéo của nó lúc này mạnh mẽ khác thường. Đến khi cậu nhận thức được tình hình thì chiếc xe chỉ còn là điểm sáng yếu ớt trong đêm. Cậu nhìn June vừa ngỡ ngàng vừa khó hiểu, giọng hơi bực tức một chút, có lẽ một phần cũng vì June đã để quên luôn cuốn sách trên xe buýt.

    “Cậu bị làm sao đấy hả June? Đấy là chuyến buýt cuối cùng trong ngày rồi đấy!”

    June đứng đó, dù chỉ được chiếu sáng từ dải ánh sáng mờ từ ngọn đèn đường trên cao, vẫn có thể thấy nó đang run rẩy.

    “Về thôi, Gavin.”

    Nhìn bộ dạng của June, Gavin có vẻ cũng không nỡ vặn hỏi nữa, cậu lẽo đẽo đi theo. Bước nhanh một đoạn, cậu bắt kịp June và cởi áo khoác choàng lên vai cô bạn. June hơi khựng lại và gương mặt nó dãn ra - chiếc áo còn vương mùi thơm man mát dễ chịu.

    “Thế cậu không muốn đến thác Summerfall thật nữa ấy à?” – Gavin lại hỏi dò.

    June lắc đầu.

    “Thôi được rồi, để tớ đưa cậu về vậy.” – Gavin thở dài, xốc lại ba lô trên lưng.

    “Về đâu cơ?” – June mở to mắt đầy cảnh giác.

    “Về nhà chứ gì nữa. Sao lại trố mắt ra nữa thế, mắt nâu?” – Gavin bật cười.

    June dừng lại, quay hẳn người về phía bạn, mím chặt môi.

    “Gavin, nghe tớ hỏi nhé, có thể nghe hơi kỳ cục một chút nhưng mà... cậu nghĩ ta đang ở đâu?”

    “Cái gì cơ? Ở... ở trên phố.” – Gavin nói, cảm thấy cực kỳ ngốc nghếch.

    “Không, ý tớ là, đây là đâu, con phố này thuộc về nơi nào ấy?” – June vẫn tiếp tục với một câu hỏi gây hoang mang không kém.

    “June, tóm lại có chuyện gì, cậu nói tớ nghe xem nào? Không phải cậu bảo chán Shadowfield quá rồi sao, nên tớ mới rủ ta đến Summerfall, vậy mà cậu không những không chịu đi lại còn hỏi mấy câu kỳ quặc.” – Gavin kêu lên, giọng mất kiên nhẫn.

    Câu nói của Gavin xác nhận với June điều nó không mong muốn nhất - cậu vẫn nghĩ đây là Shadowfield! Còn thác Summerfall ư? Có cả ngàn năm nữa, June cũng không bao giờ muốn quay lại nơi đó nữa! Nó ậm ừ rồi quay mặt đi như không dám nhìn vào Gavin nữa.

    “Sao cậu vẫn không nói gì? June? June, quay lại nhìn tớ này!” – Gavin cố gắng nắm lấy vai June và xoay người cô bé lại.

    Lần này, khi quay lại, đôi mắt June đã ầng ậc nước. Gavin tỏ ra lo lắng:

    “Cậu khóc đấy à, mắt nâu?”

    “Đừng gọi tớ như thế nữa.” – June ủ ê nói, giọng nó đã nghẹn lại. Những giọt nước mắt vẫn đọng trong mắt mà không tài nào rơi xuống, như thể nó đang phải ôm một nỗi đau không tài nào giải tỏa được.

    “Xin lỗi...tớ không có ý gắt lên với cậu.” – Gavin gãi gãi đầu. – “Tớ kéo người làm cậu bị đau à?”

    June thở dài. Nó chẳng nghĩ ra cách nào để biến những cảm xúc mâu thuẫn chất chồng của mình thành lời được.

    - Để tớ cho cậu xem cái này vậy!

    ***

    June dẫn Gavin quay trở lại phía đầu con đường khi nãy chiếc xe buýt đang đi tới, dần dần tiến gần hơn đến tảng đá mà chính nó đã đề tên thị trấn.

    “Brightfield?”

    Gavin lẩm bẩm đọc dòng chữ được chiếu sáng bằng những chiếc đèn nhỏ hắt lên từ dưới tảng đá. Cậu chẳng hiểu gì cả.

    “Tảng đá này ở đâu ra thế nhỉ?”

    “Chính tớ đã vẽ… à, tạo ra nó đấy.” – June nhẹ nhàng nói, nhìn lom lom trông chờ phản ứng của Gavin.

    “Ờ… cũng được đấy.” – Gavin cười, dù nụ cười không thoải mái chút nào. Cậu bước đến gần để xem xét vật to lớn ấy, chắc mẩm nó chỉ là một dạng mô hình nào đó trông đặc biệt giống thật, nhưng khi chạm tay vào và cảm nhận mặt đá cứng đanh và ẩm lạnh, cậu ngớ người.

    “Đây không phải là Shadowfield đâu, mà là Brightfield cơ.” – June chầm chậm nói tiếp.

    Gavin bắt đầu nhìn xung quanh. Cảm giác lạ lùng ngày một tăng thêm khi mọi thứ càng nhìn kỹ càng thấy mất đi vẻ quen thuộc, giống như một cảnh phim remake - cảnh dựng lại theo phim cũ nhưng thay đổi một số chi tiết - điều này khiến Gavin đặc biệt bối rối. Cậu định hỏi Brightfield là ở đâu nhưng có lẽ một chút ngang bướng đã khiến cậu không muốn công nhận điều ấy. Cậu nhanh chóng suy nghĩ và xâu chuỗi những điều June nói nãy giờ, cộng với thái độ của cô bé nữa.

    “Thôi được, cứ coi là vậy đi. Nếu đúng như cậu nói thì ở đây không thể có nhà của tớ đúng không? Mình quay lại để xem thế nào nhé?”

    Đến lượt Gavin dẫn trước. Cậu bước những bước dầy mạnh dạn, gần như háo hức muốn chứng minh điều gì đó. June miễn cưỡng đi theo.

    “Tớ vừa mới ở đó đi mà… à, hẳn vậy…” – Gavin khoát tay nói, nhưng tự nhiên thấy không chắc chắn lắm.

    Càng đi, sự hào hứng của Gavin rõ ràng càng giảm dần, thay vào đó là sự hồ nghi. Đường phố thì không mấy khác biệt, nhưng hàng quán bên đường thì rất khác so với những gì cậu từng quen. Lần đầu tiên Gavin có cảm giác bị lạc thật sự - điều mà không xuất hiện ngay cả trong những chuyến du lịch một mình của cậu đến những nơi đồng không mông quạnh nhất. Từng ngã tư và lối rẽ mở ra trước mặt trở nên xa xôi và mơ hồ. Nếu người ta thường gặp phải “hiệu ứng cánh cửa”, đó là tình trạng quên mất mình định làm gì mỗi khi đi qua một cánh cửa để vào căn phòng khác, thì Gavin cảm tưởng như vừa phải bước qua hàng trăm cánh cửa như thế!

    Sau một hồi nữa, Gavin nhận ra mình chỉ đang cắm đầu đi theo những hướng bất kỳ. Lối nào cũng không đúng! Cậu dừng lại và cố gắng không hoảng lên.

    Trời về khuya, những cơn gió lạnh nổi lên. Thấy bạn mình cứ đứng lơ ngơ giữa con đường, June bèn kéo cậu vào trong tiệm cà phê sáng đèn có vẻ ấm áp gần đó.

    “Xin cho hai latte, bàn gần cửa ra vào.” – June nói nhanh, vừa liếc qua thực đơn quán vừa chốc chốc nhìn ra cửa để chắc rằng Gavin vẫn ngồi đó.

    Ngay khi nhận được lời xác nhận thờ ơ của nhân viên quán, June trở lại chỗ ngồi. Gavin ngồi xụi lơ, không buồn cởi chiếc ba lô sau lưng, bần thần nhìn giỏ hoa giả trên bàn.

    “Gavin?”

    “Ừ, tớ đây.” – Gavin ngẩng lên như sực tỉnh. Cậu vừa suy nghĩ gì lung lắm.

    “Cậu nghĩ gì thế? Về việc không tìm thấy nhà à?”

    “Một phần thôi… Giờ nghĩ lại, tớ chỉ nhớ rằng đã bước ra từ đâu đó, một nơi ấm áp, nên tớ cho rằng đó là nhà. Mình có một cái hẹn với nhau, tớ đi một đoạn thì thấy cậu từ xa và cứ thế bước đến thôi.” – Gavin kể, có vẻ như chính cậu cũng đang phải lần mò lại ký ức của chính mình.

    “Ừm…” – June nói nhỏ, hơi bất ngờ với câu chuyện nhưng cũng thoáng nhẹ nhõm vì đọc được sự chân thành trong từng câu nói, chứng tỏ Gavin không tỏ ra bí ẩn như Max.

    “Tất cả chuyện này là thế nào hả June?”

    “Giá mà tớ biết cách giải thích cho cậu. Vì nói thật, theo một cách nào đó, chính tớ cũng không rõ mình đang ở đâu nữa và cũng đang rối lên đây.” – June lắc lắc đầu.

    “Nhưng có một điều tớ muốn hỏi…”

    Giọng Gavin nhỏ dần khi thấy người phục vụ bàn tiến đến gần với món đồ uống của hai đứa trên tay. Đặt hai cốc nước xuống, anh chàng phục vụ còn đẩy một chiếc ghế gần đấy đến gần và gợi ý Gavin đặt ba lô lên đó cho thoải mái. Gavin lịch sự từ chối.

    “Cởi ba lô em đang đeo trên lưng ấy. Để lên ghế này này.” – Anh ta nhắc lại gợi ý của mình thêm một lần nữa, như thể sợ rằng Gavin không nghe rõ.

    “À, tôi ổn mà, cảm ơn anh.” – Cậu trả lời, hơi khó chịu trước giọng điệu hơi giống ra lệnh ấy.

    Người phục vụ quay lưng bỏ đi khi June nhìn sang. Còn Gavin làm vẻ mặt nhăn nhó khiến nó phì cả cười. Cậu nhấp môi một ngụm latte ấm nóng rồi mới quay lại câu hỏi ban nãy.

    “Có một điều tớ muốn hỏi. Ngoài tất cả những điều kỳ quặc khác thì việc tớ thấy lạ nhất lại là thái độ của cậu kia.”

    June không nhìn Gavin khi cậu nói, nó rút một tờ giấy ăn và bắt đầu gấp giấy thành nhiều lần.

    “Cậu cứ lảng tránh tớ. Nếu cậu cũng không hiểu chuyện quái gì đang diễn ra thì chẳng phải bọn mình có thể cùng giải quyết chuyện đó à? Nhất là, tại sao lúc nãy cậu lại khóc? Cậu có bao giờ như thế đâu.”

    Từng lời của Gavin càng như khẳng định điều mà June cũng biết rõ, rằng cậu là người hiểu nó nhất. Tờ giấy ăn đã bị gấp nhỏ đến mức không thể hơn được nữa, June nhớ đã xem một đoạn video nào đó trên mạng nói về việc không thể gấp một tờ giấy nào quá 7 lần. Cuối cùng, June cất tiếng.

    “Nghe này, mắt xanh, sinh nhật 15 tuổi của tớ là vào năm ngoái. Bây giờ tớ đã 16 tuổi rồi.”

    ***

    Gavin chăm chú lắng nghe June nói. Giọng cô bạn thân trầm buồn và hơi nghèn nghẹn như một lời xưng tội. June giải thích câu nói vừa rồi, giải thích tại sao nó lại khóc, và nhất là tại sao nó không bao giờ muốn đến Summerfall nữa. Chỉ vì một lý do đơn giản duy nhất, dường như không có gì khó hiểu, nhưng Gavin cảm thấy đầu óc mình quay cuồng. Cậu bật dậy và chạy ra khỏi tiệm cà phê.

    Ngồi bệt trên bậc tam cấp trước cửa một ngôi nhà cách tiệm cà phê không xa, Gavin cúi mặt nhìn xuống, bàn chân di di trên gạch vỉa hè. Cậu không có ý định bỏ lại June trong quán như thế nhưng thật sự cậu cần hít thở không khí bên ngoài. Cảm xúc trong cậu trộn lẫn giữa giận dữ và bất lực.

    June đã qua 15 tuổi và cậu đã bỏ lỡ sinh nhật tuổi 16 của bạn.

    Thật ra, cậu cũng đã bỏ lỡ sinh nhật 16 tuổi của chính mình.

    Đúng một năm trước, cậu cũng đã tặng June cuốn sách, cả hai đã đến Summerfall, leo đến tận đỉnh thác, ngắm những bọt nước tung trắng xóa hút mắt và dòng chảy xiết chia cắt bởi những rặng đá ngầm.

    Hẳn là cậu đã rất thích dòng thác kỳ vĩ đó, hẳn là cậu đã say sưa với ý tưởng chụp được những bức ảnh từ cây cầu dây mây nằm vắt ngang giữa hai bờ cách đó không xa, mặc cho khi đó trời bắt đầu đổ mưa lớn, bởi cảnh tượng lúc đó thật sự ấn tượng khi cơn mưa vừa như hòa vào vừa như xé tung màn nước; hẳn là cậu đã chạy rất nhanh và bỏ xa June, hẳn là những tấm ván gỗ cũ kỹ đã rung lên và kêu kẽo kẹt dưới bước chân cậu…

    Gavin nhắm nghiền mắt lại.

    ***

    Còn lại một mình, June những muốn chạy theo Gavin nhưng nó cũng có cảm giác nên để bạn mình được ở riêng một lát, và chính nó cũng cần bình tâm lại. Dù đã cố gắng tỏ ra thật bình tĩnh khi nói ra mọi chuyện với Gavin, June vẫn không khỏi cảm thấy khó khăn khi nhắc lại điều mà cả năm qua nó đã luôn né tránh. Ban đầu, Gavin cho rằng những lời nó nói thật nực cười, rõ là vậy, vì cậu đang ở ngay trước mặt nó kia mà! Nhưng khi June bắt đầu kể về đám tang của cậu thì thái độ cậu thay đổi hẳn, vì chắc chắn nó không thể đùa những chuyện như thế, và vẻ mặt cậu càng u ám hơn khi June nói qua về những việc xảy ra sau đó, những việc mà cậu đã không thể ở đó chứng kiến, như là việc mẹ cậu - lúc ấy đang mang bầu - giờ đã sinh bé trai… June đã đọc được nỗi hãi hùng hiện lên trong đôi mắt Gavin, lòng nó thắt lại.

    June đã hoàn toàn khép mình sau trải nghiệm kinh khủng ở thác Summerfall ngày đó. Nó từ chối mọi sự an ủi hay mọi nỗ lực giúp đỡ “về mặt tâm lý”. Những điều đó thật vô nghĩa khi mà không một ai có thể thật sự hiểu cảm giác của nó và cách họ tỏ ra thông cảm thật giả tạo đến phát buồn nôn. Nó phát điên khi ai đó lại bắt đầu phân tích về tai nạn ấy, nó chỉ muốn sự im lặng, muốn mọi người hãy để nó yên, không phải để gặm nhấm nỗi mất mát, mà là để không bao giờ phải nghĩ bất kỳ điều gì nữa cả.

    Vậy mà lúc này đây June bỗng có nhu cầu rất lớn được ủi an bởi Gavin. Điều đó nghe thật vô lý và ích kỷ hết sức nhưng là sự thực. Nỗi đau lớn nhất đôi khi không phải là của người ra đi mà lại là của người ở lại, khi phải đương đầu với cuộc sống mãi mãi thiếu khuyết.

    Nó đứng dậy, phải đi tìm Gavin thôi. June bước ra ngoài rồi rẽ bên phải, trong nó chợt dấy lên nỗi lo lắng, biết đâu Gavin cũng sẽ biến mất lần nữa thì sao? Nghĩ vậy, nó rảo bước nhanh hơn, gần như chạy. Từ xa, một bóng người cũng đang lững thững tiến về phía này. Bước chân có phần mệt nhọc nhưng chắc chắn. Đúng là Gavin rồi! Cậu ấy chẳng bao giờ bỏ rơi mình!

    June ào đến và Gavin giang tay ôm lấy nó. Cậu để June òa khóc trong lòng mình và hai đứa cứ đứng hồi lâu như vậy. Gavin vỗ nhè nhẹ lên vai June.

    “Tớ... tớ rất tiếc, Gavin à.” – June thổn thức.

    “Thôi nào, đừng khóc nữa. Nói tớ nghe, trong một năm qua cậu có người bạn mới nào chưa? Mấy đứa ở trường vẫn tệ vậy à?”

    Gavin muốn nhắc đến nhóm những đứa hay bắt nạt ở trường, tiêu biểu là Ruby và hội của nó.

    “Cậu nghĩ sao... chúng nó vẫn thế thôi. Ai cũng nghĩ là cuộc sống của tớ sẽ bị đảo lộn, nhưng điều tệ hơn là cuộc sống vẫn như thế, tớ chẳng hề được buông tha.” – June não nề nói, lẫn giữa nhưng tiếng nấc. – “Còn tớ thi thoảng lái xe vòng quanh, tớ vẽ, nói chuyện với Lucine...”

    “Khoan đã, ai cơ?”

    “...rồi chẳng hiểu sao lại ở đây, gặp Max nữa nhưng cậu ta đi mất rồi...” – June miên man nói tiếp như không nghe thấy câu hỏi của Gavin.

    “Nói chậm lại đi June, tớ chẳng hiểu gì cả."

    “Bọn mình rời khỏi chỗ này đi. Tớ có một ngôi nhà gỗ ở ngoài kia. Về đó, tớ sẽ kể cho cậu nghe tất cả.” – June gạt nước mắt và rời khỏi vòng ôm của bạn.

    Gavin gật đầu. Khi hai đứa đi qua tảng đá lớn, rời khỏi Brightfield, lần lượt từng ngọn đèn trong những cửa tiệm và hàng quán tắt phụt đi, rồi đến những ngọn đèn đường nữa. Chẳng mấy chốc, thành phố tự tạo chìm trong bóng tối, chỉ còn mặt trăng trên cao vẫn tán sắc vàng nhàn nhạt xuống, khiến cho khung cảnh nhuốm một màu ma mị.

    - - -
    [/SPOILER]
     
    Sửa lần cuối: 4/2/2020
  5. august1994

    august1994 Thành viên sắp chính thức

    Tham gia:
    14/8/2019
    Bài viết:
    102
    Đã được thích:
    0
    Điểm thành tích:
    16
     
  6. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG IV

    CHÂN TRỜI MÀU TÍM
    Bức tường trong căn phòng dành cho bệnh nhân nội trú không phải màu trắng hoàn toàn mà hơi ngả một chút xám và một chút xanh - Jess, mẹ của June - vừa nhận ra điều có vẻ đầy ngẫu nhiên đó sau nhiều tiếng đồng hồ ngồi bên giường bệnh của con gái. Bà thử nhấc mình ra khỏi ghế, cả lưng và chân đều đã tê mỏi vô cùng.

    Ba ngày đã trôi qua kể từ vụ tai nạn.

    Chẳng có nhiều việc để làm cho người nhà ở một phòng bệnh. Sau khi chờ bác sĩ Bracher ghé qua thăm khám vào buổi sáng, Jess dành một ít thời gian để thông báo cho ban nhạc và người quản lý của mình về việc hủy lịch diễn sự kiện và tại quán cà phê phòng trà quen thuộc, cũng chỉ có vài lịch thôi, vì Jess vừa mới bắt đầu đi hát trở lại sau khi nghỉ sinh em bé thứ hai.

    Một thoáng buồn day dứt hiện lên trong mắt Jess khi bà lướt qua tin nhắn cuối cùng mình gửi cho June, cùng đêm con bé gặp tai nạn, mẩu tin đầy vô tư về đứa con riêng. Bà liếc nhìn chiếc điện thoại của con gái mà cảnh sát đã trao lại, giờ còn nằm trong chiếc túi zip đặt trên bàn, theo kiểu “vật chứng” vụ án. Bà tự hỏi không biết June đã kịp đọc tin nhắn trước khi chuyện xảy ra? Hay là con bé đã đọc tin nhắn lúc chuyện đang xảy ra, bà chợt rùng mình trước suy nghĩ ấy.

    Mình đã không công bằng với June, bà nghĩ vậy. Con bé là đứa trẻ nhạy cảm và hay suy nghĩ nhưng ít khi bộc lộ ra bên ngoài. Càng lớn, June dường như càng thêm xa cách với mẹ, Jess đã cho đó là do tâm lý lứa tuổi. Chuyện bất ngờ trở nên khó khăn hơn khi người bạn thân của con bé gặp tai nạn đau lòng và June từ chối việc tư vấn tâm lý sau đó. June không giấu giếm nỗi buồn nhưng cũng không thực sự trải lòng với ai cả. Những hành động của con bé cũng không khác nhiều so với trước, và thậm chí June vẫn tham gia thường xuyên cùng câu lạc bộ vẽ ở trường. Jess đã hy vọng con bé tìm được sự an ủi qua sở thích đó.

    Khi Jess cuối cùng cũng thu đủ dũng cảm để đứng dậy cầm chiếc Iphone, bà nhận ra nó đã hết sạch pin từ lúc nào. Jess suy nghĩ một chút rồi bấm máy gọi Jared - ông vừa về nhà để lấy một vài đồ dùng chuẩn bị cho quãng thời gian tá túc lại bệnh viện chưa biết bao giờ mới kết thúc của họ. Từ sau cuộc nói chuyện chẳng lấy gì làm vui vẻ đêm June nhập viện, hai người họ hầu như không nói chuyện lại nữa và giữ khoảng cách bằng sự im lặng mệt mỏi. Jared nhấc máy ngay, hơi bất ngờ với đề nghị nhờ mang sạc điện thoại của bà nhưng cũng đồng ý mà không hỏi thêm gì.

    *

    Cầm chiếc điện thoại đã sạc đầy trên tay, Jess chần chừ lại gần June. Bà có thể thấy ánh mắt hơi trách móc của Jared từ bên kia căn phòng hướng về phía mình. Chuyện này chẳng hay ho gì, Jess biết vậy, bà cũng chẳng bao giờ muốn xâm phạm riêng tư của con gái, nhưng có điều gì đó thôi thúc bà và nếu không làm vậy, nỗi băn khoăn đè nặng sẽ khiến mọi thứ còn tồi tệ hơn. Bà nhẹ nhàng nâng bàn tay phải của June và khẽ nhấn ngón cái của cô bé vào nút tròn trên chiếc Iphone. Màn hình lập tức biến đổi và một loạt các ứng dụng quen thuộc hiện ra.

    Mục tin nhắn trong máy June không nhiều, cũng không có gì lạ, thường thì tụi trẻ thích trò chuyện qua những ứng dụng của mạng xã hội hơn. Ngoài vài tin quảng cáo, June hầu như chỉ nhận tin nhắn từ “Julie - trưởng câu lạc bộ vẽ”, từ Jared và chính bà.

    Cặp mắt Jess tối lại khi đọc đến những tin nhắn gửi đến máy của June chỉ vài phút sau tin nhắn của bà. Một trò đùa độc địa của bọn trẻ cùng trường, một lời cợt nhả của cậu trai nào đó không muốn hò hẹn với con gái bà. Jess dường như có thể nghe thấy tiếng cười đùa ác ý ẩn dưới lớp câu chữ. Bà không biết có phải ngày nào con gái mình cũng phải nhận những tin nhắn cợt nhả và thóa mạ kiểu này không, sự thật là vậy, bà không hề hay biết chút nào. Jess kêu lên một tiếng rồi gọi Jared lại đọc tin nhắn.

    “Hẳn là mấy đứa bạn ở trường gửi cho nó. Em sẽ gọi đến trường về vụ này!” - Jess lớn tiếng tuyên bố, ngay khi Jared ngước mắt lên khỏi màn hình điện thoại.

    “Jess, bình tĩnh nào! Bọn trẻ tuổi này còn ngốc nghếch mà.” - Jared đưa bàn tay ra như cố ngăn lại nếu Jess có ý định lao ra khỏi phòng.

    “Đây là bắt nạt học đường đấy, anh hiểu không? Đã từng có bao nhiêu đứa tự tử vì mấy chuyện như thế này!” - Jess lớn tiếng, giọng hơi lạc đi.

    Jared khựng lại, ông chưa từng nghĩ về sự việc theo hướng đó. Nhưng cảnh sát và nhân chứng cho biết đó là vụ tai nạn kia mà. Ông im lặng vài giây rồi nói:

    “Anh biết, nhưng việc bây giờ của chúng ta là tập trung cho June.”

    “Nếu June có mệnh hệ gì... chỉ vì mấy chuyện thế này... em sẽ chết mất.” - Hai giọt nước lại chảy ra theo vệt nước mắt chỉ vừa mới kịp khô trên hai má của Jess.

    Jared nắm chặt bàn tay của Jess, mắt ông ánh lên tia nhìn cương nghị khiến người khác an tâm. Ông hứa rằng sẽ tìm cách giải quyết và khuyên bà hãy nghỉ ngơi.

    Jess để cho người chồng cũ đưa mình đến chiếc ghế cạnh giường, tay bà còn nắm chặt chiếc điện thoại, lúc này vừa là vật kết nối giữa mình và June, cũng vừa là minh chứng rằng còn nhiều điều bà chưa hiểu về cuộc sống của cô con gái. Tiếp tục kéo xuống những tin nhắn trước đó, bà nhận thấy June vẫn còn giữ nguyên những tin nhắn cũ với cậu bạn Gavin. Jess thở dài, vội bấm trở lại trước khi tâm trạng còn chùng xuống hơn nữa. Lún mình trong chiếc ghế, Jess mở album ảnh để nhìn ngắm những bức tranh June đã vẽ và chụp lại.

    Những bức tranh của June pha lẫn giữa hiện thực và kỳ ảo, không thống nhất một chủ đề cụ thể nào cả. Có những bức đầy màu sắc, có những bức lại đơn sắc và trừu tượng hơn. Người mẹ nhìn ngắm rất lâu bức tranh vẽ một ngôi nhà gỗ trên sườn đồi nhìn ra biển. Biển đêm yên ả nhưng vẫn sâu hun hút, chỉ có ánh đèn le lói của căn nhà là điểm sáng duy nhất.

    ***

    “Sao thế Gavin, ngồi xuống đi chứ, sao đứng mãi vậy?”

    Thấy Gavin cứ đứng tần ngần cạnh cửa sau khi đi cùng mình tới căn nhà gỗ, June lên tiếng giục bạn.

    Ngôi nhà gỗ lúc này nằm trên ngọn dốc thoai thoải có cỏ mọc quanh. Khỏi phải nói là Gavin ngạc nhiên thế nào khi đi trên con đường mòn dẫn lên dốc và nhìn thấy bóng ngôi nhà nho nhỏ mà June cứ khẳng định là của mình ở phía xa. Ngay cả lúc đã vào bên trong, Gavin vẫn lúng túng không biết nên làm gì cho phải. Phía trong căn nhà ấm áp và tràn ngập tông màu đất dễ chịu đúng với phong cách boho của June.

    June lúi húi pha hai cốc cacao nóng cho hai đứa - nó tìm thấy hai gói trong tủ bếp. Giờ đây June cũng không mất công bất ngờ trước những thứ cứ đột nhiên xuất hiện quanh mình nữa. Nó chỉ muốn được nhanh chóng ngồi lại và kể với Gavin mọi việc.

    “Cảm ơn cậu.” - Gavin đỡ lấy ly cacao, cuối cùng cũng chịu ngồi xuống ghế.

    June ngồi xuống bên cạnh, duỗi chân đầy thoải mái. Nó chăm chú nhìn Gavin uống nước như để khẳng định sự có mặt của cậu thêm lần nữa rồi mới lên tiếng.

    “Xin lỗi vì khi nãy nhé. Gặp lại cậu thật tốt!” - June lúng búng nói, giờ nó mới thấy hơi ngại vì đã khóc bù lu bù loa.

    Gavin nhấp một ngụm lớn và một vệt cacao dính lại trông như hàng ria mép. June bật cười và Gavin cũng cười theo.

    “Cậu kể chuyện đi, June. Một năm qua đã có chuyện gì?” - Gavin hỏi.

    “Cậu nghĩ xem có thể có chuyện gì chứ.” - June nhún vai. - “Thế giới thì vẫn toàn ô nhiễm và khủng bố. Những kẻ gàn dở thì vẫn luôn gàn dở. Con bé Ruby, vẫn chẳng ra gì, à mà nó còn tăng cả chục cân, rồi nó làm như đó là lỗi của cả thế giới và lỗi của tớ! Cho đến khi tớ lạc đến đây.”

    “Chính xác là làm thế nào mà cậu lạc đến đây được nhỉ.”

    “Đó cũng là câu trả lời mà tớ tìm kiếm khi gặp Max nhưng cậu ấy không chịu trả lời.”

    “Max?”

    June nhìn tránh ra chỗ khác như vừa bị nói hớ.

    “À, chẳng có gì cả đâu.” - June nói tiếp luôn. - “Chỉ là tớ đã tưởng sẽ có được giải đáp nhưng rồi mọi thứ lại vuột khỏi tay. Giờ đã gặp cậu thì ổn rồi, tớ chẳng quan tâm lắm nữa.”

    Gavin mím môi như để ngăn mình đưa ra lời nhận xét, cậu không chắc có thể dùng từ “ổn”, cậu luôn là người cẩn thận và chỉ nói những điều hợp logic. Những gì June vừa kể thật kỳ lạ, nhưng cậu quan tâm đến cuộc sống và tâm trạng của June hơn là hoàn cảnh khó hiểu mà hai đứa đang vướng phải. Cậu để ý thấy có một số điều June tránh né, liệu có phải một năm qua đã làm khoảng cách giữa hai đứa lớn hơn không? Chuyện với Max hay Ruby như thế nào, dù thắc mắc nhưng cậu không dám hỏi thêm, sợ rằng có thể có điều gì đó đau lòng. Với Gavin, tình bạn vẫn như cũ, còn với June, cậu không dám chắc nữa.

    Hai đứa mải mê nói chuyện cho đến lúc Gavin bắt đầu thiu thiu ngủ.

    June không ngủ được, nó đành nằm nghĩ ngợi linh tinh. Gavin vẫn đang nằm cuộn mình cạnh lò sưởi như một con mèo. June cảm thấy hơi ngốc nghếch khi nhắc đến Max với Gavin. Còn việc nhắc đến Ruby và đám bạn làm nó sôi máu. Đúng như đã nói với bạn, June không quá quan tâm đến lý do nó ở đây mà thích thú hơn với viễn cảnh về những gì có thể làm được. Một ý tưởng nảy ra trong đầu nó.

    Nó nhảy khỏi giường. Nó sẽ thực hiện ý tưởng này trước khi Gavin thức.

    *

    “Gavin, dậy thôi! Có cái này cho cậu xem đây”

    Tiếng June gọi vang khiến Gavin choàng tỉnh. Cậu ngáp một cái rõ dài và chỉ kịp thấy June ngoắc tay gọi nó ra khỏi nhà trước khi lại chạy biến. Không nén nổi tò mò, Gavin lồm cồm bò dậy rồi vừa dụi mắt vừa bước ra.

    Cánh cửa mở toang, ngay lúc này đập vào mắt cậu là một căn phòng chưa từng thấy trước đây nằm chình ình trên bãi cỏ cạnh căn nhà gỗ.

    - June? - Gavin tò mò bước vào, lấy tay che mắt khi luồng sáng xanh chiếu qua mặt.

    Đó là một căn phòng tuyền màu xanh lá, dường như được bao phủ bởi thứ vải xanh người ta thường dùng trong các bộ phim cần lồng ghép kỹ xảo. June đứng đó, tay đưa ra thứ gì đó giống như đôi mắt kính thực tế ảo dày cộm mà người ta hay dùng để chơi game. Cậu ấy kiếm đâu ra mấy thứ này vậy chứ, Gavin chỉ kịp tự hỏi trong đầu như thế, còn June thì đã đeo đôi kính lên rồi bấm cái nút gì đó gắn trên quai kính.

    “Để thử xem nào… úi chà chà…” - June lẩm bẩm rồi thốt lên sau khi nhấn nút.

    Gavin làm theo và ngay lập tức cậu thấy điều làm June xuýt xoa. Trước mặt hai đứa hiện ra cảnh tượng đầy màu sắc vui mắt thế chỗ cho phông nền xanh và những chướng ngại vật theo kiểu trò chơi Mario cứu công chúa trứ danh. Cúi nhìn xuống chân, cả hai có thể thấy hai chiếc búa ngộ nghĩnh. Dù không quá ưa thích trò chơi điện tử, Gavin cũng đủ hiểu chiếc búa này là món đồ cơ bản mà người chơi được trang bị đầu tiên để “đánh quái” và dẹp chướng ngại vật trên đường đi. Hai đứa nhìn nhau bật cười rồi nhanh nhẹn cầm chiếc búa của mình lên - chúng rất nhẹ và vừa tay - rồi chạy về phía trước, hào hứng nhập cuộc.

    Cùng nhau nhảy phóc qua các chướng ngại vật, June và Gavin cười ngặt nghẽo khi thay nhau dùng búa chiến đấu với những kẻ muốn cản đường họ trong hình dạng từ Pacman đến Flappy Bird. Cũng lâu lắm rồi June mới chơi trò chơi và lại được cười thoải mái đến vậy. Nó nóng lòng chờ đợi những màn chơi tiếp theo, đặc biệt là màn sau cùng.

    *

    Khi hai đứa đã bắt đầu thấm mệt, khung cảnh thay đổi, không còn màu sắc đáng yêu mà tối lại, những đường chân trời mô phỏng xung quanh trông y như thật đang hắt lên thứ ánh sáng tím ngắt.

    Những bóng đen in trên nền trời phía xa. Thử thách cuối cùng lộ diện.

    Trước sự bất ngờ của Gavin, một đàn heo lúc nhúc chạy tới. Đằng sau chúng, đứng trên hai chân sau như con người là một cô lợn to béo, đầu đội mái tóc xoăn màu đỏ hung, chỉ huy đàn lợn nhỏ tấn công bằng cách chỉ trỏ bàn chân trước với những chiếc móng sơn màu đen cùng chất giọng the thé. Hình ảnh này khiến Gavin liên tưởng ngay đến... Ruby!

    June lao vào và bắt đầu hất mạnh búa để gạt những con lợn tay sai hung hăng ra khỏi lối đi. Gavin yểm trợ đằng sau. Đám heo này phiền nhiễu nhưng không mấy nguy hiểm. Thay vì dùng búa, có lúc Gavin chỉ tránh chúng trên đường đi, còn chúng cứ lao thẳng về phía trước. June thì khác, sẵn sàng quay lại để tiêu diệt bằng sạch chúng thì thôi. Gavin cười trước cảnh đó, nhưng rồi nụ cười dần lịm đi. Cậu ngờ ngợ nhận ra rằng chính June là người tạo ra trò chơi chỉ để làm những điều này.

    Gavin dấn lên trước nơi có con heo-giống-Ruby đang chờ sẵn. Cậu ước chừng chỉ cần vài búa thì đã có thể khống chế nó. Nhưng June từ xa đang lao đến, “Để tớ!”, rồi gần như đẩy Gavin sang bên để đối mặt với đối thủ cuối cùng của trò chơi. Cả hai bắt đầu.

    Con heo dùng móng vuốt chân trước để đỡ đòn từ búa của June. Thân thể ục ịch của con heo khiến nó di chuyển khá chậm. Khi chẳng còn đám tay sai, nó yếu ớt đến lạ. Gavin đứng từ xa quan sát. Cách June đáp trả những đối thủ mang vẻ hung hăng và hằn học quá đáng. Chiếm thế chủ động, June đạp lên một chướng ngại vật để có vị trí cao hơn và giáng đòn liên tiếp xuống cô lợn. Ruby-heo phát ra những tiếng kêu chói tai.

    “Thôi, June, đủ rồi đấy, trò chơi kết thúc được rồi.”

    “June, cậu nghe tớ nói không?” - Gavin lao vào, cố gắng tách June ra khỏi đám lộn xộn.

    Cậu quyết định gỡ kính ra, không gian trở về như cũ. June miễn cưỡng buông vũ khí và bấm nút tắt khung cảnh thực tế ảo.

    “Sao chứ?” - June hỏi, không giấu vẻ thách thức.

    “Chỉ là trò chơi thôi mà, June.”

    “Đúng, vì chính chúng cũng coi tớ là trò chơi mà!” - June ra hiệu nóng nảy về phía lũ lợn. - “Sao tớ phải dừng lại trong khi có thể nghiền-nát-chúng?”

    Gavin hơi lùi lại, giơ hai tay tỏ ý đầu hàng để June nguôi cơn giận. June đi đi lại lại, mặt hằm hằm, sẵn sàng bật lại nhưng vì Gavin không nói gì cả nên nó cũng chẳng thể nói gì. Chiêu im lặng của Gavin phát huy tác dụng.

    Có vẻ như June đã bị tổn thương rất nhiều, Gavin nhìn bạn và cảm thấy vậy. Sự hằn học khi nãy giống của một kẻ bị dồn đến đường cùng, khác nhiều so với những ký ức cuối cùng cậu có về June. Cậu vẫn biết Ruby dẫn đầu một nhóm và chúng từng khiến cuộc sống ở trường của June không mấy dễ chịu, nhưng để có động thái trả thù như thế này thì hẳn phải là chuyện nghiêm trọng. Vậy mà mình chẳng hề ở đó để giúp June được, Gavin thấy buồn và đôi chút bất lực.

    “Thôi được. Cậu cảm thấy khá hơn rồi chứ? Tớ thấy Ruby-heo đã bị xử một trận ra trò rồi đấy.” - Gavin giảng hòa.

    “Lại chẳng thế!” - June còn chút bướng bỉnh nhưng cũng đã dịu lại.

    Nói rồi June ngúng nguẩy bước ra, đợi Gavin đi theo rồi gạt tay xóa bỏ căn phòng.

    *

    “Tớ thấy chúng ta nên tránh xa mấy thứ công nghệ rồi thực tế ảo đó thì hơn.” - Gavin tuyên bố. - “Thậm chí chúng ta còn chưa hiểu chỗ này là thế quái nào!”

    “Là nơi mà tớ có thể biến Ruby thành lợn, thế là đủ!”

    “Thật ra... chính trò chơi của cậu cũng khiến tớ suy nghĩ, biết đâu ta đang rơi vào một dạng thực tế ảo nào đó, khi mà tớ... uhm... vẫn còn sống ấy.” - Gavin ngập ngừng một thoáng, hẳn là cậu chưa hoàn toàn thoải mái để nói về cái chết của mình lắm.

    “Vậy thì cũng tốt thôi.” - June vẫn thờ ơ thấy rõ.

    Gavin rõ ràng không hài lòng với phản ứng ấy. Cậu lúc nào cũng muốn đào sâu tìm hiểu đến cùng. Ngay cả khi thực tế có vẻ như đang có lợi cho mình, cậu không muốn chỉ chấp nhận mà vẫn đòi hỏi những câu hỏi của mình phải có câu trả lời.

    “Cậu biết không? Tớ nghĩ ta nên làm một vài thử nghiệm.”

    Đúng là Gavin chứ không phải ai khác. June cũng không nén nổi tò mò và hỏi cậu bạn muốn thực hiện thử nghiệm gì.

    “Để xem mức độ ‘thật’ của mọi thứ quanh chúng ta.” - Gavin giải thích một vài thí nghiệm theo một trong những cuốn sách cậu từng đọc.

    Trước tiên, Gavin kiểm tra căn nhà gỗ và phát hiện rằng chẳng có cái gương nào cả. Cậu khá hào hứng và yêu cầu June vẽ cho mình một cái. Hai đứa đứng trước gương hồi lâu, xoay đủ các phía và thử làm những động tác kỳ quặc.

    “Rốt cuộc thì cậu muốn rút ra điều gì?” - June vừa nói vừa cười khi nhìn Gavin cố gắng thực hiện động tác yoga trước gương.

    “Lạ thật.” - Gavin nói. - “Thường thì nếu thế giới này không thật, chúng ta sẽ không soi gương được mà chỉ thấy bóng mờ thôi, hoặc sẽ có điều kỳ cục gì đó, kiểu như ta sẽ trông khác với bản thân mình ấy.”

    June quay lại đứng trước gương lần nữa. Nó ngờ ngợ không nhớ lần cuối nhìn vào gương trước khi tất cả những chuyện này xảy ra. Có thể là nó đã soi gương vào buổi sáng ở nhà, hoặc liếc nhìn gương chiếu hậu trên xe chẳng hạn. Nhưng June không nói gì về cảm giác đó, nó chỉ bảo Gavin rằng thử nghiệm soi gương có vẻ ổn thỏa cả.

    Gavin chưa bỏ cuộc, cậu lại nhờ June vẽ đồng hồ. Quả có khó hơn, vì June không hề có ý niệm nào về việc bây giờ đang là mấy giờ. Vậy là nó cứ vẽ bừa một cái, đồng hồ chỉ lúc tám giờ sáng. Kim đồng hồ bắt đầu chạy, phát ra tiếng lách tách y hệt như lúc bình thường. Hai đứa dán mắt vào vật ấy như thể chưa từng thấy chiếc đồng hồ nào bao giờ. Vẫn chẳng có gì đáng kể xảy ra, chiếc đồng hồ điềm nhiên chạy hết vòng này đến vòng khác.

    “Hừm...” - Gavin không nhìn đồng hồ nữa mà chống tay vào cằm, chăm chú nghĩ ngợi.

    “Như vậy có nghĩa thế giới này... ‘thật’ hả?” - June hỏi.

    “Tớ cũng chịu với định nghĩa ‘thật’ đó. Nhưng có một điều rõ ràng không bình thường.”

    “Điều gì nào?” - June nhướn mày.

    “Cậu có quyền năng như thể siêu nhân trong thế giới này!” - Gavin khẳng định, rồi giả bộ huơ huơ tay trong không khí. - “Đây nhé, tớ mà thử vẽ xem, chẳng ra cái gì cả.”

    “Hay do cậu vẽ chẳng ra hình thù gì?” - June cười khúc khích.

    “Này, thôi đi!” - Gavin đẩy vai bạn rồi cũng phá lên cười.

    “Cậu biết không, điều tớ thích nhất đấy là quang cảnh ở đây. Tớ thấy như đang được đi du lịch miễn phí. Nếu bây giờ được chọn một nơi để đến, cậu thích đi đâu?”

    “Bờ sông Little.” - Gavin đáp gọn. Cậu muốn nhắc đến con sông lớn có một phần chảy qua Shadowsfield.

    “Thật đấy hả?” - June cảm thán. - “Cậu có thể chọn bất cứ nơi nào mà lại chọn một chỗ có thể đến bất cứ lúc nào? Paris hay London thì sao?”

    “Tớ không tin tưởng lắm việc cậu vẽ một nơi cậu cũng chưa từng đặt chân đến đâu, nó sẽ chỉ như một bản mô phỏng. Còn sông Little, thật ra tớ cũng đâu có cơ hội đến bất kỳ lúc nào nữa đâu, nhỉ?”

    June không đôi co với bạn nữa. Nó hiểu ý Gavin. Bờ sông Little cũng là nơi hai đứa hay tới chơi từ nhỏ và khi lớn lên thì lái xe đến, trèo lên nóc xe nhìn ngắm xung quanh và nói chuyện trên trời dưới đất. Gavin muốn tái hiện kỷ niệm.

    Trong lúc June ra ngoài vẽ, Gavin ngồi lại trong nhà. Cậu vui vì June đồng ý với mình. Không phải là cậu không thấy Paris hay London hấp dẫn, nhưng cậu chỉ thèm những cảm giác thân thuộc để cảm thấy lại là mình. Cậu đã bị chậm lại và vẫn còn sống trong thực tại hơn một năm về trước. Cơ hội duy nhất, cũng là cầu nối duy nhất của Gavin với quá khứ đã lùi xa ấy là qua June và tài năng được bộc lộ ở nơi này.

    Gavin nhìn ra cửa và thấy June đang miệt mài vẽ. Những đường nét kỳ diệu cứ hiện ra và biến đổi ngay trước mắt đầy mê hoặc. Gavin cứ suy nghĩ mông lung cho đến khi June một lần nữa gọi cậu. Cậu mỉm cười và chạy ra, hít đầy căng lồng ngực không khí nơi bờ sông tuổi thơ.
     
  7. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG V

    SÂU TRONG MÊ CUNG
    June lơ đãng nhìn về phía bên kia bờ sông. Những tia nắng đầu tiên bắt đầu rọi xuống. Cánh đồng cỏ xanh ngút ngàn hiện rõ dần trong màn sương mờ ảo. Hình ảnh này khiến nó liên tưởng ngay tới những vùng bình nguyên Trung Tây rộng lớn của nước Mỹ – đi từ phía đông của tiểu bang Nam Dakota xuôi xuống dòng sông Missouri hùng vĩ. Sự thực là nó chưa bao giờ để tâm tới môn Địa lý khi học ở trường, càng chưa bao giờ tưởng tượng ra việc một ngày nào đó, tự mình khám phá những vùng đất mới lạ. Vậy mà lúc này, nó đang ngồi cạnh Gavin, trong vùng đất mà dường như nó có thể kiểm soát được mọi thứ dễ dàng, chỉ bằng những tưởng tượng trong đầu.

    Một lát sau, nó lặng lẽ nhìn sang phía Gavin. Lúc này, cậu hướng ánh mắt ưu tư của mình về phía con sông đang lững lờ chảy; ánh nắng mặt trời rọi xuống khiến mặt sông như thể được phủ lên một lớp vàng óng ánh, diệu kỳ.

    “Cậu đang nghĩ gì vậy, Gavin?” - June cất tiếng hỏi.

    “À, tớ chẳng nghĩ gì cả!” - Gavin nói, có vẻ bối rối vì giật mình. – “Chỉ là... vẫn chưa thật sự quen với mọi thứ ở đây thôi.”

    “Thì bọn mình cùng làm quen thôi!” - June hào hứng. - “Cậu có ý tưởng gì về trò chơi tiếp theo không? Thứ gì mà cậu nghĩ ngay lúc này ấy.”

    “Chịu thôi!” - Gavin lắc đầu. - “Cậu lại có ý gì phải không?”

    Gavin đoán trúng phóc, June gật đầu nói:

    “Tớ có một ý tưởng này... những mê cung trong thần thoại.”

    “Mê cung như thế nào cơ?”

    Gavin hỏi vẻ ngạc nhiên và tò mò. June cười tự tin - dẫu sao nó cũng từng tạo ra cả một thành phố - rồi nói một tràng dài với giọng điệu đầy hào hứng.

    “Không phải cậu mê mấy ‘vùng đất bí ẩn’ rồi ‘nền văn minh bị chôn vùi’ lắm à? Thử hình dung một nơi như vậy, với những con đường lắt léo trong một mê cung, dẫn chúng ta tới ngõ cụt hay thậm chí có sự xuất hiện của những con quái vật đáng sợ như Minotaur chẳng hạn...”

    June không khó khăn gì để nhận ra chút sợ hãi vừa thoáng qua trong đôi mắt màu xanh lá của Gavin mà cậu không kịp che giấu. Kỳ quặc thật, Gavin ưa phiêu lưu lại có nỗi sợ một thứ trong tưởng tượng như vậy.

    “Ý cậu là con quái vật Minotaur trong thần thoại Hy Lạp?” - Gavin hỏi lại.

    “Đúng vậy! Chúng ta sẽ chơi trò truy tìm kho báu trong mê cung.”

    Nhưng chỉ một tí thôi, June quên béng việc nó vừa dọa bạn thân của mình. Nó lại sa đà vào câu chuyện tưởng tượng và thao thao bất tuyệt về cách tạo ra mê cung thế nào, trong đó sẽ đặt một kho báu ra sao… Nó thậm chí còn lên sẵn kế hoạch có điểm xuất phát và đích đến cuối cùng là chiếc rương kho báu ở trung tâm mê cung. Chỉ mãi đến khi quay sang nhìn và lại bắt gặp sự sợ hãi trong mắt Gavin, June mới sực nhớ phải tiết chế mình.

    “Cậu đã bảo tránh xa mấy thứ công nghệ, giờ mình thử thứ gì đó cổ xưa xem, và khẳng định rằng tớ sẽ không tạo ra một con quái vật nào như Minotaur nhé, cậu an tâm đi Gavin!” - Thật sự là một lời dỗ ngọt.

    Gavin chưa vội đáp lời, cậu vẫn lặng thinh trước những gì June vừa nói.

    “Cậu thấy thế nào, Gavin?” - June hỏi.

    “Tớ… tớ đồng ý. Miễn sao cậu vui là được.” - Gavin buộc phải trả lời.

    June mỉm cười. Rồi, nó không nói thêm gì nữa, chỉ đứng dậy sau khi tiện tay cầm một nhánh cây khô khẳng khiu đang nằm chỏng chơ trên thảm cỏ xanh mướt. Nó đưa nhánh cây khô lên ngang tầm ngực, nhìn chếch về phía mặt trời đã lên cao; rồi như một người nghệ sĩ thực thụ, nó quơ tay, phác một vòng tròn vô hình trong không khí. Ngay lập tức, một bóng râm hiện ra trên thảm cỏ. Ban đầu bóng râm chỉ to hơn cái đĩa một chút, sau đó lớn dần rồi tỏa ra, mau chóng bao phủ toàn bộ khoảng không gian nơi hai đứa đang đứng.

    Bóng râm che khuất cả mặt trời, xóa vội đi hình ảnh của buổi sáng mùa hè yên ả. June tiếp tục vẽ, bất ngờ thay, nó có thể vẽ cả gió. Gió bắt đầu nổi lên, mạnh dần, cuộn tất cả lá khô, cành khô quyện cùng bụi bặm chuyển động hỗn độn không ngừng trong không trung.

    Trước đám bụi tù mù, theo phản xạ, Gavin cúi xuống, nhắm tịt mắt, nhưng vẫn cố gắng ngước lên để nhìn June. Hình dáng nhỏ bé tương phản với không gian kỳ vĩ xung quanh, mái tóc nâu dài thẳng bay ngược về phía sau… June vẫn đứng đó, như một người hùng thực thụ.

    Sau khi vẽ xong, June nhẹ nhàng thả nhánh cây khô xuống đất. Gió tắt. Mọi thứ lặng như tờ. Trên cao, mặt trăng tròn vành vạnh hiện ra. Không gian nhuốm đậm một màu huyền bí và ma mị.

    “Nhìn về phía trước mặt cậu đi, Gavin!” – June yêu cầu.

    Gavin dụi mắt, nhìn về khoảng không gian phía trước. Không còn con sông mùa hè lấp lánh ánh nắng nữa! Xa một chút – cách chỗ cả hai đang đứng khoảng nửa dặm đường – một mê cung sừng sững hiện ra. Không khó khăn để Gavin nhận ra, June vừa mô phỏng lại hình ảnh mê cung trong thần thoại Hy Lạp, nơi vua Minos đã dựng lên để nhốt con quái vật Minotaur huyền thoại.

    Gavin dụi mắt thêm lần nữa, thật không thể tin những gì mình đang nhìn thấy. Và dẫu thâm tâm vẫn còn những ngờ vực nhưng cậu vẫn thật sự thán phục trước những gì June vừa làm.

    “Thật khó tin, June!” - Gavin nói như reo. - “Một mê cung thời Hy Lạp cổ đại… Một mê cung thật sự!”

    “Mình lấy ý tưởng từ đó mà!” - June cười đắc chí.

    Khi Gavin còn đang gật gù thán phục, thì June đã chộp lấy bàn tay cậu, kéo đi.

    “Đừng chần chừ nữa, đi thôi!”

    Hai người rảo bước trên thảm cỏ đã chuyển màu xanh thẫm. Thi thoảng, phải băng qua một vài đoạn sình lầy nhớp nháp nhưng cả hai vẫn tiếp tục di chuyển về phía mê cung.

    Càng gần hơn, June càng nhận ra rằng, mê cung lớn hơn rất nhiều so với trí tưởng tượng của mình. San sát thành dãy những cây có hình dáng giống thủy tùng cao chừng ba mét, cành lá đan chặt vào nhau tạo thành những bức tường chằng chịt, chắc chắn.

    June cảm thấy không gian trở nên ẩm ướt so với ban đầu. Nó dễ dàng ngửi thấy mùi đất trộn lẫn với lá cây đang dần thối rữa và hoai mục. Lúc này, nó và Gavin đang tần ngần đứng trước một cánh cổng vòm lớn, dẫn vào một con đường sâu hun hút, thiếu ánh sáng tự nhiên.

    “Chúng ta bắt đầu trò chơi nào!”

    June hào hứng đề nghị. Ngay lập tức, nó buông bàn tay Gavin ra và cứ thế dấn bước về phía trước, không chút sợ hãi.

    “Khoan đã...”

    Gavin vội vàng lên tiếng, nhưng khi ấy, hình dáng nhỏ nhắn của June đã lẫn vào trong đám sương mờ của màn đêm; và chỉ thêm một chốc nữa thì hoàn toàn mất hút. Gavin không còn cách nào khác, đành bước qua cánh cổng vòm, tiến sâu hơn vào trong mê cung.

    *

    Lúc này, June đã đi được một khoảng khá xa. Mồ hôi chảy ròng trên gương mặt xuống cổ, chiếc áo tunic trùm hông ướt đẫm. Nó quệt mồ hôi hai bên má, rồi cúi người xuống, hai tay chống vào đầu gối, thở dốc.

    Không gian lặng như tờ. Thảng hoặc, vài âm thanh nhỏ phát ra, tựa như tiếng gãy rắc của nhánh cây khô mới lìa cành. Những cây lớn với cành lá đan chằng chịt vào nhau tạo nên những bức thành vững chãi, khó có thể xuyên qua; đến mức nếu cứ nhìn thẳng thì ánh sáng như bị bẻ gập, xé chằng chịt thành nhiều mảnh. Nhìn loáng thoáng những mờ nhạt ánh sáng ấy, June liên tưởng ngay tới thời điểm chạng vạng trong ngày.

    June đi dọc bức thành, thi thoảng gặp một vài thân cây đã mục ruỗng, đổ ụp xuống đất, ngáng ngang đường. Nó lấy hết sức bình sinh để nhảy qua, suýt thì té ngã, vì mặt đường hốt nhiên trở nên trơn trượt. Khi còn nhỏ, nó thường nghe câu chuyện về những con đường sâu hun hút dẫn vào một cánh rừng già âm u rất nhanh biến thành mê hồn trận, nếu đi mãi nhất định sẽ lạc đường. Nhưng nó tự nhủ, giờ không phải là lúc quay lại, nhất là khi, ở đâu đó, Gavin rất có thể đang tiến gần hơn đến kho báu rồi; cậu ấy luôn là người thông minh mà!

    Nghĩ vậy, nó tiếp tục tiến về phía trước.

    Có những đoạn, cành lá thủy tùng hai bên bện vào nhau, tạo nên những phần mái che khuất khoảng trời. Y hệt như đang đi trong đường hầm vậy! Bóng tối vây quanh khiến June không nhìn thấy gì. Nó bèn men theo bức tường cây, dùng tay rà trên bức tường để xác định phương hướng; rồi thi thoảng phải rụt lại khi bị vài thứ nhớp nháp dính lên bàn tay, như thể một sinh vật nhuyễn thể vừa để lại vết tích trên đó. Thoáng chút rùng mình, nó vội vàng chùi tay vào trong ống tay áo, rồi bước nhanh hơn, gần như là chạy.

    Cuối đường hầm, ánh sáng hiện ra - đúng hơn là một đốm sáng lơ lửng. Càng tiến gần đốm sáng càng lớn hơn, mở thành một cánh cửa. Nhắm mắt thật chặt, June bước qua và cảm thấy rất rõ ràng, luồng sáng đi qua người mình, như mảnh vải sa-tanh mơn nhẹ trên lớp da thô ráp. Mềm mịn và lạnh lẽo. June hé mở mắt, chỉ dám hi hí nhìn. Một quang cảnh kỳ cục hiện ra.

    Thật sao? Cột đá lơ lửng? Mỗi cột đá cao tầm ba mét với nhiều hình thù khác nhau. Có cột giống như một cây nấm được đẽo chạm thô sơ, có cột như một cây măng tây với đầu nhọn hoắt đang chĩa thẳng lên trời.

    Dưới mặt đất, ngổn ngang đầy đá cuội, không theo trật tự nào. Có những viên đá to gần bằng quả bóng chày, mặt đá ướt, trơn nhẵn như bị gió và thời gian bào mòn từ ngàn năm về trước. Nó cúi xuống nhặt một viên cỡ như một củ khoai tây, xoay xoay trong lòng bàn tay, viên đá nặng hơn những gì nó tưởng tượng. Ngắm nghía và nhận ra viên đá bỗng trở nên đẹp đẽ hơn khi phản chiếu với ánh trăng. Một lúc sau, có lẽ đã nhìn chán, nó ném viên đá trở lại đất, toan quay đi nhưng khựng lại, nhìn chằm chằm. Viên đá cứ lăn tròn về phía trước và có vẻ sẽ chẳng dừng lại. Có đôi chút ngạc nhiên, nhưng có lẽ hứng thú nhiều hơn và June quyết định đi theo viên đá.

    Viên đá dẫn đến một khoảnh đất trống rồi dừng hẳn lại. June cúi xuống, lấy tay hẩy nhẹ viên đá, nhưng nó không chuyển động nữa.

    “Bụp!”

    Một tiếng nổ vang lên trong thinh không, khiến June giật nảy mình. Nó ngoái đầu ra phía sau, rồi đằng trước, thậm chí cả trên đầu để tìm xem thứ gì đã tạo ra âm thanh ấy. Vẫn không thấy gì, nó vội vàng đứng dậy.

    “Chào cậu!” - Một giọng nói mơ hồ vang lên sau lưng, như bị bóp méo bởi tiếng gió nhưng vẫn nghe được từng từ.

    June quay lại. Nó trông thấy một sinh vật kỳ dị đang đứng trước mặt mình, mỉm cười.

    Mất hồi lâu để có thể hình dung về sinh vật này. Nó giống như một cột đèn kiểu cổ điển, thường được đặt trên con đường nhỏ dẫn vào trung tâm thị trấn Shadowfield, nhưng khác chỗ có đầy đủ, chân, tay và khuôn mặt hệt như mặt người. Hai cánh tay dài với những ngón khẳng khiu, móng nhọn bằng sắt đã hoen rỉ chống bên hông, có phần ngạo nghễ. Điểm nhấn của sinh vật này là nguồn sáng lơ lửng phía trên đầu, tỏa ra thứ ánh sáng màu xanh coban, dễ chịu.

    Vẫn trong tư thế chống nạnh, ngọn đèn nhìn June bằng ánh mắt trìu mến.

    “Bạn là ai?” - June cất tiếng hỏi.

    “Tôi là người dẫn đường cho cậu.” - Cột đèn đáp lại bằng giọng điềm tĩnh.

    “Người dẫn đường ư?” - June hỏi lại.

    “Chính xác. Tôi sẽ dẫn cậu tới chỗ kho báu. Chẳng phải các cậu đang chơi trò truy tìm kho báu sao?” - Cột đèn cười hỏi.

    June chần chừ đôi chút. Nó nhìn kỹ “vị thần dẫn đường” của mình thêm lần nữa. Nét già nua hiện trên gương mặt kim loại xước xát, nhưng lại toát ra vẻ phúc hậu thu hút người đối diện.

    “Chúng ta phải đi ngay, không anh chàng kia sẽ tới chỗ kho báu mất.” - Cột đèn hối thúc June, đồng thời chìa tay ra.

    June quyết định đi theo. Cột đèn nắm chặt lấy bàn tay June và kéo đi.

    *

    Gavin cố gắng bám theo June, nhưng được nửa dặm đường thì cậu dừng lại. Vì đâm vào ngõ cụt nên cậu buộc phải quay ra để tìm hướng khác. Lối đi trở nên ngoắt ngoéo hơn. Đôi chỗ cậu không thể thấy rõ đường bởi sương đêm bao trùm che khuất tầm nhìn.

    Trước đây, cậu đã từng được tham quan vài mô hình mê cung trong công viên. Cậu cũng từng đọc qua một số thuật toán tìm đường đi trong mê cung; trong đó có một thuật toán nổi tiếng là bám sát theo tường. Tuy nhiên, trường hợp đó chỉ áp dụng cho những mê cung “liên thông đơn giản” – khi các bức tường kết nối với nhau hoặc kết nối với đường bao quanh mê cung. Còn ở nơi cậu đang đứng thì các cơ quan bên trong dường như phức tạp hơn, thậm chí là chúng đang biến đổi. Vậy nên, mỉa mai thay, những kiến thức ấy giờ đây chẳng giúp ích được gì cho cậu.

    Cậu men theo bức tường cây ẩm ướt, u tối hòng tìm được một khoảng trống với nhiều ánh sáng hơn. Lúc này, cậu đi tới những bức tường đá xếp, cao hơn đầu mình một chút. Cậu cố rướn người để có thể nhìn được ra xa hơn, nhưng chẳng ích gì, cả không gian vẫn mang vẻ thâm u, huyền hoặc. Sự im ắng gây ra cảm giác rùng mình, rợn tóc gáy.

    Tường đá được tạo bởi những viên đá ong, đá cuội nhỏ, đủ hình thù, đủ màu sắc... Chúng khéo léo xếp chồng lên nhau như thể có hàng ngàn nghệ nhân đã mất rất nhiều thời gian để hoàn thành chúng. Thật kỳ công! Gavin thán phục trong lòng, rồi cậu tiếp tục tiến về phía trước. Đôi chân có phần rệu rã hơn vì lớp bùn sình bám đầy hai đế giày nặng trịch. Cậu nhặt mẩu gỗ dưới đất để hẩy hết chúng đi.

    Đi qua hết bức tường đá, Gavin tới một trảng đất trống rộng rãi. Dưới mặt đất, thảm cỏ dày mọc tới mắt cá chân. Gavin bỗng cảm thấy sự thay đổi khác thường đang diễn ra trong cơ thể, đôi bàn tay cậu cứng đờ buốt giá, còn đôi chân thì như tê dại đi. Hơi thở cậu hóa làn khói trắng mỏng, phả vào trong không khí. Cậu nhận thấy nhiệt độ nơi đây đang giảm dần.

    Ngước nhìn lên bầu trời tối sẫm, cậu thấy những bông tuyết đang từ từ rơi xuống. Ban đầu chỉ vài bông, sau đó nhiều dần. Chúng hối hả rơi, chẳng mấy chốc bao phủ kín trảng cỏ. Gavin lấy làm lạ! Cậu tự hỏi, chẳng lẽ đây là thử thách đặt sẵn trong mê cung này, và chính June là người đã tạo ra chúng.

    Khi cậu còn đang thắc mắc thì tuyết chợt ngừng rơi. Cả không gian nhuốm một màu trắng toát, lạnh giá; chìm hẳn trong một sự lặng im ghê người.

    Sự im lìm đột nhiên bị phá vỡ bởi tiếng cười khanh khách, ma quái. Gavin thảng thốt, nghe một cơn quặn rất mạnh từ dạ dày. Hít một hơi thật sâu, cậu cố gắng nhìn quanh để tìm hiểu sự tình. Nhưng lạ thay, cậu không nhìn thấy gì cả!. Rồi bất chợt tiếng cười lại vang lên, lần này kéo dài hơn, âm điệu sắc lạnh và đáng sợ hơn.

    “Vụt!”

    Nghe như tiếng roi da quất mạnh vào không khí ngay phía sau lưng mình, Gavin vội quay người lại. Cậu nhìn thấy một đốm lửa nhỏ cháy âm ỉ trên tuyết, rồi sau đó tắt ngúm để lại vết cháy sém, một đụm khói lở lửng bay lên. Đụm khói biến dạng. Từ hình khối nguyên sơ bắt đầu mọc thêm những phần khác; phần đầu nhô lên, nhọn dần giống như đang đội một cái nón dùng trong dịp Giáng sinh. Phần thân mọc thêm tay và chân. Đôi tay thì dài thòng gần như chạm vào đất.

    Một sinh vật lạ lùng, ma quái xuất hiện trước mắt Gavin, khiến cậu bàng hoàng.

    Cậu cố gắng lục tung tâm trí, hòng tìm những hình ảnh đã từng thấy trước đây về sinh vật này. Cậu dám chắc rằng, đã từng thấy sự xuất hiện của hắn. Đúng rồi! Trong những lá bài tarot mà cậu từng xem. Sinh vật lạ lùng này mang dáng dấp của hình nhân in trên lá bài - The Fool - Thằng Ngốc.

    Lúc này, trong ánh sáng soi rọi của đêm trăng tròn, Gavin thấy rõ hình dáng của kẻ đối diện mình. Khoác trên người hắn là chiếc áo khoác lửng tay liền với quần sọc màu đỏ xen lẫn trắng, chiếc quần này bao bọc kín cả đôi chân dài ngoằng, gầy nhẳng với những ngón chân bẩn thỉu, gớm ghiếc. Hắn đứng nghiêng, lưng gù, phần đầu hơi cúi xuống. Bóng hắn đổ thành một vệt đen dài trên nền tuyết.

    “Ông là ai?” - Phải cố gắng lắm, Gavin mới đủ gan dạ để lên tiếng, phá vỡ bầu không khí im ắng.

    “Thằng Ngốc!” - Hắn trả lời ngay, giọng điệu sắc lạnh, rợn người.

    Hắn nhìn về phía Gavin, xoáy sâu đôi mắt đỏ ngầu vào người cậu. Cậu hoảng hốt, bủn rủn cả chân tay. Tim cậu đập nhanh hơn bao giờ. Nỗi sợ hãi trương phình lên như một khối u trong lòng cậu, như linh cảm được sự chẳng lành.

    Hắn nở một nụ cười nham hiểm.

    “Ngươi không nên xuất hiện ở đây, Gavin ạ!” - Hắn xoay hẳn người về phía cậu rồi nói.

    “Tại sao?” - Gavin hỏi lại, nghe hoang mang và sợ hãi đến lạ lùng.

    Hắn bắt đầu di chuyển, tiến gần hơn về phía Gavin.

    “Tại sao ư?” - Hắn cười. - “Bởi vì, ngươi đang biến mình thành vật ngáng đường. Ngươi có biết điều đó không, Gavin?”

    “Vật ngáng đường? Tôi không hiểu những gì ông đang nói.” - Gavin bật lại sau câu nói của hắn.

    “Ngươi thật cứng đầu.” - Giọng điệu hắn trở nên thách thức.

    Rồi sau đó, nhanh như chớp, hắn giơ đôi bàn tay nhọn hoắt ra khoảng không trước mặt, búng “tách” một cái, cười khẩy và đợi chờ sợi dây thừng lấp lánh xuất hiện. Nhìn về phía Gavin, hắn mỉm cười đầy vẻ hăm dọa.

    Gavin sợ hãi lùi lại, vấp phải một hòn đá, cả thân hình bật ngửa về phía sau. Thằng Ngốc được thể vụt mạnh sợi dây thừng về phía Gavin. Theo phản xạ, cậu giơ tay lên đỡ; và cũng ngay lập tức, một cảm giác đau nhói chạy dọc từ cánh tay phải xuống thân người cậu.

    Hắn quất dây lần nữa, nhưng cậu né được. Sợi dây vụt mạnh xuống đất làm tuyết văng tung tóe. Cậu lăn người sang bên phải. Lúc này, khi cơn hoảng loạn đã qua và sức mạnh tự vệ trỗi dậy, Gavin mới nhận ra lưng mình rất cấn; sực nhớ ra, có chiếc ba lô! Nhanh chóng trở người, kéo chiếc ba lô ra phía trước, vội vã kéo dây khóa và lôi từ trong ba lô ra một con dao nhỏ. Chỉ cần vậy, Gavin lập tức đứng dậy, sẵn sàng tư thế phản công. Thằng Ngốc nở nụ cười khinh khỉnh trước đối thủ yếu hơn mình. Nhân lúc hắn không để ý, Gavin lấy hết sức bình sinh lao thẳng về phía hắn. Con dao nhỏ cắm sâu vào mạn sườn bên trái của kẻ bất thình lình xuất hiện và vô duyên vô cớ tấn công cậu. Gavin cảm thấy có chất lỏng như máu đang nhễu ra hai tay mình. Hắn rú lên, kinh khiếp, vang vọng khắp mê cung, rồi ngã vật xuống đất, dường như không suy suyển gì. Chợt, hắn lồm cồm bò về phía Gavin, nhác trông như con bọ cạp khổng lồ; đồng thời miệng hắn mở rộng hơn để lộ hàm răng trắng nhởn, lởm chởm và nhọn hoắt.

    Gavin thét lên kinh hãi. Cậu vùng chạy. May thay, một lỗ hổng nhỏ xuất hiện giữa bức thành cây, cậu nhanh chóng quăng ba lô về phía trước, sau đó chui vào. Mới được nửa người thì bàn tay gớm ghiếc của hắn đã tóm chặt lấy cổ chân của Gavin, lôi ngược cậu trở lại trảng cỏ.

    “Ngươi sẽ không thoát được đâu thằng nhóc. Quay trở lại với ta! Chúng ta còn chưa bắt đầu cuộc chơi mà!” - Hắn gằn cùng với rền cười đầy đe dọa, tay siết chặt lấy cổ chân Gavin hơn.

    Cậu ra sức vùng vẫy trong vô vọng, quờ quạng hai cánh tay về phía trước, cố nắm lấy những sợi dây leo bám trên bức tường cây. Dồn hết sức mạnh vào chân còn lại, cậu đạp ngược về sau. Khi ấy, cậu nhận ra chân mình dường như được nới lỏng hơn. Cậu tiếp tục bò cho tới khi sang được phía bên kia bức tường.

    Nhanh tay cầm lấy ba lô, Gavin ẩy thân mình về con đường phía trước với tất cả sức lực.

    Gió bắt đầu nổi lên, cuốn từng lớp bụi bay mịt mù trong không gian.

    *

    Băng qua những cột đá lơ lửng một cách khéo léo, June thấy người nhẹ bẫng như đang bay. Tới một đoạn đường lớn hơn, quang cảnh sáng rõ như ban ngày. Nhìn hai hàng cây thủy tùng cao, cành lá sum suê rậm rạp làm nó nhớ tới cánh rừng rậm cách thị trấn Shadowfield hơn hai dặm về phía Đông Nam. Hồi còn nhỏ, vào khoảng giữa tháng Tám hằng năm, bố mẹ thường dẫn nó tới đó dã ngoại, và khi ấy, bố sẽ dạy nó cách dựng trại, câu cá. Nhưng hình ảnh ấy giờ chỉ còn là dư ảnh rời rạc, không một hình dung rõ ràng.

    Cột đèn buông bàn tay June ra.

    “Chúng ta gần đến chỗ cất giấu kho báu rồi, chỉ cần đi thẳng vài trăm mét là tới. Cậu cứ thư giãn đi! Còn khuya Gavin mới mò ra chỗ này.” - Cột đèn nói.

    “Cảm ơn cậu. Nhưng tôi thắc mắc là tại sao cậu lại giúp tôi?” - June hỏi lại.

    “Đơn giản vì cậu là người xứng đáng.” - Cột đèn đáp lời, rồi thủng thẳng đi về phía con đường lớn trước mặt.

    Cứ mỗi bước chân June đi qua, hai bên đường mọc lên những bụi hoa đầy đủ sắc màu. June nhất thời không thể gọi tên chúng. Vài con bướm bay dập dờn trên những bụi hoa. June có phần thích thú trước cảnh tượng thơ mộng này; dẫu bản thân nó không phải là đứa quá lãng mạn, nhưng bướm và hoa luôn là cảm hứng bất tận cho những kẻ có tâm hồn nghệ sĩ. Nó rảo bước nhanh hơn để sánh vai cùng cột đèn - “vị thần dẫn đường” của nó. Trong khung cảnh này, nó nghĩ tới vài giai điệu của Luke Bryan - vang lên âm thanh yêu thích vào những buổi chiều lái xe dọc bờ sông Little. Nó thường vặn âm lượng thật to và nghêu ngao hát một mình.

    Nó đang lẩm nhẩm theo giai điệu của bài Play It Again thì cột đèn dừng lại trước một trảng cỏ ướt đẫm. Cách chỗ cả hai đang đứng chừng vài thước là chiếc rương kho báu nằm im lìm trên cỏ.

    “Đây là kho báu?” - June tròn mắt, vừa ngạc nhiên vừa thán phục.

    “Phần thưởng của cậu nằm bên trong. Mở nó ra đi nào!” - Ngọn đèn nói, giọng khuyến khích.

    June từ từ tiếp cận chiếc rương, còn ngọn đèn thì theo sát phía sau. Chiếc rương có màu nâu cánh gián, được chạm khắc hoa văn vô cùng tinh xảo, hơi giống với họa tiết trên mấy tấm thảm của người Ấn Độ. Nắp rương và phần thân được cố định lại bằng chiếc đinh ghim khéo léo với ổ khóa dát vàng lấp lánh.

    Cột đèn biến từ trong không khí ra một chiếc chìa khóa nhỏ và đưa cho June. Nó cầm lấy, quỳ gối xuống, tra chiếc chìa khóa nhỏ vào ổ, xoay nhẹ một cái. Bên trong rương không có gì khác ngoài chiếc hộp nhỏ cũng được mạ một lớp vàng.

    June hồi hộp mở hộp. Bên trong là một lọ thủy tinh đựng thứ dung dịch màu hổ phách. Chất lỏng như đang di chuyển lên xuống, tuần hoàn nhịp nhàng. Thật là đẹp tuyệt! June không giấu nổi cảm giác phấn khích.

    “Và… đây là…” - June thắc mắc.

    “Đây là ‘phương thuốc lãng quên’.”

    “Phương thuốc lãng quên.” – June cố gắng tìm ra ý nghĩa thật của mấy từ ngắn ngủn này, nhưng chẳng nghĩ được gì cả!

    “Nếu uống thuốc, nó sẽ giúp cậu quên đi những giây phút đau khổ. Quãng thời gian buồn rầu trong ký ức sẽ bị xóa sạch. Cậu sẽ không nhớ gì về chúng nữa!” - Cột đèn nói như thể đang cố sức thuyết phục June.

    June chần chừ ngó xuống bàn tay, nhìn ngắm phương thuốc; thứ ma lực mạnh mẽ toát ra từ dung dịch màu vàng hổ phách đang thôi thúc nó. Hãy uống đi và tôi sẽ giúp bạn quên đi mọi đau khổ! Văng vẳng một giọng nói vô hình đang vang lên trong đầu, nhưng tại sao nó vẫn chưa thể nào đưa ra quyết định, có nên uống thuốc hay không? Lằn ranh giữa đau khổ và hạnh phúc ngay khi được chọn lựa lãng quên bỗng nhiên trở nên mong manh quá! Mọi thứ xưa cũ tự nhiên ùa về - cùng một lúc - đan xen nhau, cuộn tròn, ngọ nguậy một cách mất trật tự khiến June thấy đau đầu. Trong mớ hỗn độn ấy, nó nhìn thấy bố cười hiền lành giữa nhớp nháp mồ hôi bện cùng dầu nhớt; cả lối hành lang âm ẩm, lành lạnh dẫn vào lớp học… Mọi thứ đều là khổ đau sao? - June tự hỏi, và nó vẫn không có câu trả lời!

    “Đừng chần chừ. Hãy uống đi, June!” - Cột đèn nói, giọng như nài nỉ.

    ...

    “June ơi! Cậu đang ở đâu?”

    Giọng nói quen thuộc của Gavin đột ngột vang lên, cắt ngang dòng suy nghĩ của June. Nó quay lại phía sau thì thấy một dáng hình đang chạy lại phía mình. Đúng là Gavin rồi, June thầm nhủ. Nhưng tại sao bộ dạng cậu ấy lại tồi tệ như thế?

    Tiếp theo đó là tiếng nổ “bụp” của cột đèn, nháy lên như ánh đèn flash. “Vị thần dẫn đường” của nó đột ngột biến mất. June vội vàng cất nhanh phương thuốc vào trong túi quần, rồi tiến gần về phía Gavin.

    Gavin thở hồng hộc, tóc bết thành từng lọn trên trán, gương mặt lấm lem bẩn thỉu và tái xanh. Trông cậu như vừa trải qua cơn ác mộng khiếp đảm.

    “Cậu làm sao vậy, Gavin?” - June hỏi.

    “Chúng… chúng ta… phải rời khỏi chỗ này.” - Giọng Gavin như lạc đi.

    “Tại sao?” - June ngạc nhiên hỏi lại.

    “Vì mình thấy có gì đó… bất thường.”

    *

    Lúc này, June và Gavin đã ra khỏi mê cung. June dùng tay xóa sạch những hình ảnh vừa tạo ra ban nãy. Thành lũy cây thủy tùng, cột đá lơ lửng... của mê cung hoàn toàn biến mất, nhường chỗ cho không gian yên ả của chiều hoàng hôn tím ngắt tuyệt đẹp với gió thổi nhè nhẹ. Hai đứa đang ngồi dưới một gốc cây cổ thụ, xa xa vẫn là con sông hiền hòa đang lặng lờ trôi.

    Khi đã định thần lại, Gavin kể cho June nghe những gì cậu đã trải qua khi ở trong mê cung, về Thằng Ngốc – kẻ đã ra sức hãm hại cậu – và cách cậu đã trốn thoát ra khỏi mê cung như thế nào. June dường như không để tâm lắm về chuyện đó, bởi lẽ tâm trí nó còn đang mải suy nghĩ về thứ khác - bí mật nho nhỏ đang cất giấu cẩn thận trong túi quần của mình.

    “Cậu an tâm đi Gavin, chỉ là chút thách thức của trò chơi thôi mà. Vả lại cậu đâu còn sống nữa. Người chết rồi thì đâu thể chết thêm lần nữa.” - June phân trần, như thể nó đã dự liệu hết mọi chuyện vừa xảy ra.

    Vẻ như Gavin không còn cảm thấy khó chịu trước những gì June vừa nói. Cậu im lặng một hồi lâu để sắp xếp lại mọi chuyện trong đầu.

    “Mình chỉ lo cho cậu thôi June à!” - Cuối cùng Gavin bỏ cuộc, cậu không muốn đôi co với June nữa; có lẽ nhượng bộ sẽ tốt hơn.

    “Cảm ơn cậu.” - June nói, rồi nắm hờ lấy bàn tay trái của Gavin như để an ủi bạn.

    Gavin hướng ánh mắt về phía chân trời. Những hình ảnh đáng sợ vẫn đeo đẳng tâm trí cậu mãi không thôi.

    Rồi sau cùng, hai đứa cuốc bộ trở về căn nhà gỗ, sau một ngày rong chơi mệt nhoài. Hai dáng hình nhỏ bé lặng lẽ di chuyển, như hai chấm đen nhỏ, lọt thỏm giữa không gian bất tận.
     
  8. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG VI

    MỘT GIAI ĐIỆU THÂN THUỘC
    Khi cả hai trở về căn nhà gỗ thì trời đã xâm xẩm tối. Thấy vậy, June giơ cọ vẽ phác thảo vài đường nét. Những cột đèn lần lượt mọc lên ở hai bên đường, tỏa thứ ánh sáng vàng dịu, ấm áp. Không khí dễ chịu hơn khi đêm buông xuống vùng đất. Gavin nói với June, cảnh tượng này làm cậu nhớ tới những ngày tháng Chín ở thị trấn Shadowfield – nơi cả hai đã lớn lên.

    Thời điểm đó, người dân trong vùng nông trại ngoại ô sẽ bắt đầu thu hoạch táo. Sau khi sơ chế, chúng được phân phối tới các khu chợ đầu mối, siêu thị, cửa hàng nhỏ hay những xí nghiệp sản xuất rượu và nước ép trái cây. Vì bố Gavin làm quản lý nhân công cho một xí nghiệp sản xuất rượu táo đặc trưng của vùng nên cậu biết rất rõ. Để tự thưởng cho thành quả lao động của mình sau mùa vụ vất vả, họ thường tụ tập ở những điểm vui chơi hiếm hoi của thị trấn như quán cà phê, quán bar nhỏ, cửa hàng ăn... cùng nhau thưởng thức thứ rượu hoa quả trứ danh của vùng viễn Tây hoang dã, ăn món truyền thống và nhảy múa bên giai điệu vui tươi, phóng khoáng. Người lớn thích những hoạt động kiểu đó, còn đám trẻ nhỏ thường mơ tới những thành phố náo nhiệt và hoa lệ hơn. Ngay bản thân Gavin, nếu còn sống thì thể nào cậu cũng nộp đơn vào một trường đại học ở Los Angeles hay Columbus.

    Hai đứa bước lên bậc tam cấp dẫn vào nhà. Màn đêm yên tĩnh xóa bỏ phiền muộn trong lòng. June cảm thấy thoải mái, nhưng nó biết có điều gì đó vẫn còn vướng bận và chưa được giải tỏa ở Gavin. Nó nhìn thấy trong ánh mắt của cậu ấy.

    “Chuyện ban nãy vẫn ám ảnh cậu à, Gavin?” - June quay sang hỏi Gavin. Tiện tay, nó đẩy cánh cửa bước vào nhà. Không gian vẫn tối đen như hũ nút.

    “Không! Chỉ là…” - Gavin bối rối trả lời. - “Mình cảm thấy hơi căng thẳng chút thôi.”

    “Mình sẽ giúp cậu!” - June đáp.

    “Bằng cách nào?” - Gavin hỏi lại, không giấu khỏi ngạc nhiên.

    “Bí mật. Cậu hãy chờ xem!” - June nói, tỏ vẻ bí hiểm.

    Nó cười. Bằng động tác gần như thuần thục, nó giơ cọ vẽ lần nữa, thắp sáng căn phòng bằng những bóng đèn tròn lơ lửng, tỏa ánh sáng xanh lơ trông rất bắt mắt.

    June lặng lẽ ngồi xuống bên cạnh Gavin trên chiếc ghế bành êm ái đặt giữa nhà. Phía bên dưới chân họ là một tấm thảm dày đặc biệt với họa tiết hình lá phong đỏ đơn giản. Nó nhớ trong căn nhà mới của Jess ở Dallas, mẹ đã từng sử dụng loại thảm này.

    “Cậu có muốn nghe gì đó không Gavin?” - June lên tiếng đề nghị.

    June muốn khuấy động không gian yên tĩnh, nhằm xua tan những dư âm xấu còn sót lại. Một phần như để khẳng định thêm lần nữa rằng, bản thân nó hoàn toàn điều khiển được thế giới này.

    “Đồng ý.” - Gavin cười nói, trong khi hai tay cậu vẫn khư khư ôm lấy chiếc ba lô của mình, như thể sợ ai sẽ lấy mất.

    “Thư giãn đi, Gavin!” - June cười, hơi ngả lưng về chiếc ghế bành êm ái, vẻ thư giãn.

    Rồi June nhắm mắt. Nó đang cố gắng tưởng tượng ra một chiếc máy nghe nhạc mp3 có loa ngoài đời đầu mà bố đã tặng nó vào sinh nhật mười một tuổi. “Cái máy ấy nếu còn giữ lại thì giờ cũng được xếp hạng ‘đồ cổ’ trên eBay rồi ấy chứ!”, June thầm nghĩ. Trên máy, bố Jared đã lưu sẵn một vài ca khúc nhạc country thịnh hành nhiều thập niên trước đây, của Johnny Cash, Dolly Parton hay Hank Williams. Bố bảo nó, đó thực sự là những kỷ niệm đẹp giữa ông và mẹ Jess. Họ đã nghe đi nghe lại những ca sĩ đó nhiều lần. Bố Jared chỉ nói vậy mà không kể thêm bất cứ điều gì nữa, cho tới giờ, June đôi khi vẫn không khỏi tò mò.

    June mở mắt, vài tia sáng xuất hiện trên lòng bàn tay nhỏ nhắn của nó. Chúng bắt đầu chuyển động, xoay tròn như nhảy múa. Rồi sau đó, biến thành chiếc máy mp3 quen thuộc một thời. Gavin tỏ ra vô cùng thích thú trước cảnh tượng ấy, còn June đắc chí thực sự. Nó tự hào với thành quả của chính mình.

    “Cậu thích nghe gì nào, Gavin? Mình sẽ là DJ của buổi tối hôm nay!” - June tuyên bố.

    Storyteller của Carrie Underwood chẳng hạn.” - Gavin gợi ý, cái tên ấy hiện lên đầu tiên trong đầu cậu.

    “Album gần đây của Carrie Underwood.” - June gật gù.

    “Mình nhớ album đó được phát đi phát lại trên radio hay trong siêu thị hàng chục lần mỗi ngày vào thời điểm phát hành.” - Gavin nói.

    June cười và không nói gì thêm. Trên màn hình chiếc máy nghe nhạc đã hiện hình ảnh nữ ca sĩ Carrie Underwood xinh đẹp. Dòng chữ cách điệu chạy ngang ghi “Storyteller.”

    June nhấn nút khởi động. Những giai điệu du dương của bài hát mở đầu Clock Don't Stop vang lên, chẳng mấy chốc chiếm trọn căn nhà gỗ. Nó thả lỏng người thư giãn, mắt nhắm lại như để cảm nhận bài hát. Một giai điệu rất đỗi thân thuộc! Bỗng chốc, June thấy mình như đang trôi trên dòng sông ánh sáng. Mọi thứ xung quanh thật sự dễ chịu biết mấy, nó thầm nghĩ.

    *

    Khi ấy, nó không còn ở trong căn phòng cùng với Gavin nữa, mà đang đi trên đường. Chính xác hơn là trên chiếc Fiat yêu thích của mẹ - chiếc xe đã gắn bó từ khi bà còn là sinh viên năm ba của trường nghệ thuật. Bà từng lái chiếc xe ấy vòng quanh các thị trấn nhỏ bé của Oklahoma và Arkansas.

    Mẹ đang cầm lái, bố ngồi bên cạnh, còn nó ngồi băng ghế phía sau. Cạnh nó là một cây guitar cũ - vật bất ly thân của mẹ. Ngày hôm đó, mẹ cũng đội một chiếc mũ cao bồi giống bố. Hai chiếc mũ như đánh dấu kỷ niệm ngày đầu tiên họ quen biết nhau.

    Chiếc xe đang lao vút ra phía ngoại ô. Nơi họ tới cách trung tâm thị trấn Shadowfield hơn hai dặm về hướng đông nam. Ở đó tập trung một số hồ nước nhỏ gần rừng cây đoạn và thủy tùng, nước hồ thường đóng băng vào mùa đông. Giữa tháng Tám hằng năm, bố mẹ thường dẫn June tới khu vực đó cắm trại và câu cá. Họ chủ ý chọn khu vực hẻo lánh để có không gian riêng, yên tĩnh.

    Bố Jared thường tỏ ra khó chịu khi lái xe trong im lặng. Ông có thói quen nghe bất kỳ gì từ hệ thống radio trên xe - bản tin thời sự địa phương, một quảng cáo mẫu xe kéo đời mới hay một giai điệu vui nhộn. Ông cho rằng như vậy thì sẽ “tập trung” hơn. Nhiều khi June thắc mắc, chẳng biết “sự tập trung” mà bố Jared thường nhắc tới ở đây nghĩa là tập trung vào chuyện lái xe hay suy nghĩ về công việc ở trạng trại như cách chăm sóc lũ ngựa non mới đẻ. Chỉ biết rằng, khi sống cùng bố một thời gian dài, nó đã nhiễm thói quen này.

    Ngay sau khi chiếc xe băng qua cây cầu cổ còn sót lại của thị trấn, Jared liền đề nghị họ nghe thứ gì đó. Mẹ mở radio lên, tay vặn nút dò chỉnh tần số. Tiếng rè rè ban đầu dần được thay thế bằng một giọng ca êm ái, đậm chất tự sự. Lắng nghe một lúc thì June nhận ra chất giọng đặc trưng của nữ ca sĩ hát nhạc country - Carrie Underwood với ca khúc Clock Don't Stop - cũng chính giai điệu ấy giờ đây đang vang khắp căn phòng chỉ có nó và Gavin ngồi.

    Chiếc xe của họ băng qua những cánh đồng trồng lúa mì, tiến sát tới bìa rừng, rồi chầm chậm dừng lại. Bố ra hiệu cho nó ra khỏi xe, trong khi ông khệ nệ chuyển đồ xuống. Họ quyết định cắm trại ở một bãi cỏ rộng gần hồ. Cỏ không còn xanh mướt như khi vào hạ, đôi chỗ đã bắt đầu chuyển sang màu héo úa. Bố Jared hướng dẫn nó cách dựng trại, trong khi mẹ Jess đang chuẩn bị một vài đồ ăn từ chiếc hộp của bà.

    Sau đó hai bố con mang đồ nghề ra hồ câu cá. Thi thoảng, nó và bố cười lớn khi câu được một con cá tầm. Mẹ chen ngang bằng câu hỏi, có chuyện gì mà khiến hai bố con vui đến thế. Một con cá đã nhảy thẳng lên bàn ăn của nhà ta rồi đây! Bố Jared sẽ đáp lại bằng một câu pha trò sến sẩm như thế.

    Rồi June đề nghị mẹ hát. Bên ánh lửa bập bùng của chiều tối muộn, mẹ cầm chiếc guitar, mắt nhắm, môi mấp máy thành lời, phiêu theo những giai điệu ngọt ngào của Elvis Presley. Hình ảnh đó in hằn trong tâm trí nó, mãi không quên.

    Lúc này tại căn phòng nhỏ, chiếc máy chuyển sang bài The Girl You Think I Am khiến June dứt khỏi dòng hồi tưởng. Không còn dòng sông ánh sáng nào. Nó đột ngột trở về. Bên cạnh Gavin vẫn đang chìm sâu vào trong những giai điệu.

    Hình ảnh của buổi dã ngoại lùi dần vào bóng đêm. Mọi thứ đang trở nên mờ nhòa. Ánh lửa trại yếu ớt, rồi tắt hẳn. Giọng hát của mẹ hòa lẫn vào trong tiếng gió rít, chẳng thể nghe được gì.

    ***

    Jess và Jared đang ngồi ngoài hành lang bệnh viện. Không ai nói với nhau câu nào sau cuộc cãi vã. Họ đều nhận ra chuyện cãi cọ giờ đây chẳng mang lại kết quả gì, nên cuối cùng đều chọn cách im lặng. Như vậy sẽ tốt hơn!

    Ánh sáng nhờ nhờ lan tỏa khắp hành lang. Jess đứng ngồi không yên, bà nhìn đồng hồ đeo tay, đã khoảng năm giờ rưỡi chiều. Trời mùa này tối nhanh hơn thường lệ. Jess vẫn chưa ăn uống gì tử tế, ngoài mấy lát bánh mì phết bơ ăn kèm với nho khô được Jared mang tới đầu giờ chiều. Jared muốn nhận trông June để bà có thể xuống phố và ăn chút gì cho đàng hoàng. Nhưng Jess thiết nghĩ, chẳng còn bụng dạ gì để ăn. Tâm trí bà chỉ để ý tới dáng hình nhỏ bé, yếu đuối của cô con gái đang nằm im trên chiếc giường trắng toát. Chiếm trọn không gian là mùi thuốc khử trùng - thứ mùi khó chịu, đặc trưng của bất kỳ bệnh viện nào trên thế giới này. June vẫn chưa có dấu hiệu tỉnh lại, từ sau khi trải qua ca đại phẫu kéo dài hơn sáu tiếng đồng hồ. Tính đến nay đã gần một tuần trời trôi qua.

    Tuy qua khỏi cơn nguy kịch nhưng June vẫn đang hôn mê sâu, chưa biết bao giờ mới hoàn toàn bình phục. Cả Jared và Jess đều cảm thấy lo lắng trước chuyện này. Chiều nay, Jess đã bày tỏ lo ngại về tình hình của con gái với vị bác sĩ trực tiếp thực hiện ca phẫu thuật. Tuy nhiên những gì ông làm chỉ là vài lời an ủi nhằm trấn an bà và Jared. Hơn hết, những gì ông ta nói với hai người, chỉ gói gọn đơn thuần trong hai từ “chờ đợi”. Trong quá trình đó, các bác sĩ sẽ tiếp tục lấy máu, xét nghiệm, chờ kết quả, chẩn đoán lại, rồi cuối cùng mới đưa đến những giải pháp cụ thể hơn nhằm giải quyết tình hình. Tình trạng hôn mê thực vật có thể kéo dài vài tuần, thậm chí là vài tháng nếu như bệnh nhân chưa thực sự có dấu hiệu hồi tỉnh. Jess đã đọc đâu đó trên một nguyệt san về sức khỏe cách đây không lâu.

    Jess bực bội khi nghe tới quy trình chẩn đoán nào đó. Bà càng nổi xung lên với hai từ “chờ đợi” đáng ghét, hay niềm “hy vọng” xa vời. Bà sẵn sàng chuyển viện tuyến trên và tìm bác sĩ giỏi nếu cần thiết. Jared khuyên bà nên lấy lại sự bình tĩnh cần thiết. Bà thực hiện động tác hít thở sâu nhiều lần trong nhà vệ sinh, vốc từng vốc nước lạnh lên mặt mình nhiều lần, cho thực sự tỉnh táo. Bởi lẽ, Jess biết rằng quãng đường phía trước vẫn còn rất dài. Bà phải luôn túc trực bên cạnh con gái mình.

    Nữ y tá truyền đạt lại dặn dò của bác sĩ yêu cầu về quan sát tình hình, nếu có gì bất ổn thì cần phải thông báo ngay. Bà cố gắng lắng nghe nhưng rốt cuộc mọi thứ vẫn chẳng giúp ích được gì.

    Jared muốn về nhà một lát và sẽ mang theo một chút đồ ăn nhanh, trà túi lọc hay cà phê pha sẵn khi quay lại. Lại mấy chuyện chết tiệt trong cái trang trại ấy với lũ gà, lợn và ngựa. Jess bâng quơ nghĩ ngợi khi bóng Jared đi dọc hành lang tối, rẽ trái rồi biến mất. Hơn hết, Jess cần sự im lặng, một mình bên cạnh con.

    Khi Jess trở lại phòng bệnh, nữ y tá vừa thay dịch truyền và kiểm tra máy đo nhịp tim. Đã hơn bảy giờ tối, căn phòng được thắp thứ ánh sáng vàng yếu, dễ chịu. Từ đây nếu như vào ban ngày, người ta có thể nhìn thấy một phần nhỏ của trung tâm thị trấn, phóng tầm mắt ra xa thì chiêm ngưỡng trọn vùng đất phía nam - nơi thường được dùng làm nông trại trồng trọt hay chăn nuôi gia súc. Người dân nào sinh ra ở thị trấn mà chẳng sở hữu vài héc ta đất. Thời điểm cuối tháng Tám, đầu tháng Chín, người dân ở đây đã thu hoạch phần lớn nông sản trong trang trại. Jared cũng có một trang trại khá rộng lớn ở khu vực đó, được thừa hưởng từ bố của mình, khi ông qua đời vì bạo bệnh năm Jared mười lăm, mười sáu tuổi gì đó. Jess không nhớ rõ lắm.

    Jess lại nhìn từ căn phòng bệnh xuống phía trung tâm thị trấn. Những ánh đèn lan tỏa trên con phố chật hẹp, đổ thành vệt loang loáng trên những vũng nước mà cơn mưa ban chiều để lại. Phía bên kia đường là một quán bar nhỏ với cái tên nghe khá mỹ miều - Blue Night. Ban ngày quán thường đóng cửa và tới khuya lại mở cửa, có khi mở thâu đêm. Gã chủ quán là một tay guitar cừ khôi, tôn thờ phong cách hippie. Tóc dài xõa vai, để râu rậm, mặc quần ống loe, áo cánh có họa tiết paisley, pop art lòe loẹt. Gã chuyên hát nhạc phản chiến của John Lenon, George Carlin hay Bod Dylan. Sau này, gã trở thành bạn và là người chứng giám cho lễ kết hôn của họ.

    Chính tại nơi đó, dưới ánh đèn neon huyền ảo hòa quyện với những tình khúc ngọt ngào, ủy mị của Elvis Presley, bà đã nhận lời cầu hôn của Jared…

    *

    “Đã hơn tám giờ tối, bên trong Blue Night, tay Hippie đang lọ mọ sửa lại những chiếc bóng đèn neon. Phía bên quầy, Jess đang ngồi nhấm nháp một ly cocktail Caipirrinha trứ danh của Brazil. Những ánh mắt chẳng chút kiêng dè đổ về phía cô, bởi, không thể phủ nhận, Jess là cô gái nổi bật nhất trong quán. Lọn tóc nâu mượt buông xõa hờ hững trên bờ vai mảnh để trần, khéo léo khoe làn da hơi rám nắng. Dù chỉ vận bộ đồ đơn giản, nét tươi trẻ và phóng khoáng của tuổi đôi mươi ở cô vẫn đủ gây xao xuyến và trở thành chủ đề bàn tán. Nhưng đêm nay, Jess không lấy đó làm phiền, cô nhận thấy Shadowfield bớt tẻ nhạt hơn vào khoảng thời gian mùa hè, và cũng bởi khi ấy, cô đang ngồi đợi Jared.

    Một lát sau Jared tới. Anh bước vào, vẫn phong cách cowboy bụi bặm nhưng nay lại có phần chỉn chu hơn. Áo da sáng bóng, bên trong áo sơ mi trắng được là phẳng phiu. Anh không đội chiếc mũ cao bồi đặc trưng của mình. Mái tóc bóng lộn hất ngược về phía sau, gọn ghẽ khác thường. Những đôi mắt nhìn chòng chọc thô lỗ khi nãy lập tức cụp xuống khi nhìn thấy Jared “Cannonball” Walker.

    Nay anh chàng lại học đòi cách làm người lớn cơ đấy! Jess cười nhẹ trước sự thay đổi này, rồi trở lại với ly cocktail đã vơi nửa của mình.

    Nhạc bỗng thay đổi, giai điệu sôi động của The Eagles biến mất, thay vào đó là bài Can't Help Falling In Love của Elvis Presley. Jess nhướng mày về phía gã hippie như muốn hỏi nguyên do tại sao. Đáp lại, gã chỉ mỉm cười ẩn ý.

    “Jess.” - Jared lên tiếng.

    Lúc này, Jared đang ngồi rất gần Jess. Jess ngước lên, dù đã ngà ngà với ly cocktail thứ tư nhưng phần nào vẫn giữ được sự tỉnh táo.

    “Sao vậy, Jared?” - Jess cất tiếng, nghiêng đầu nhìn Jared.

    Jared đột nhiên trở nên bối rối hết sức, vẻ cứng cỏi tự tin thường ngày của tay đua công thức I khét tiếng giờ thay bằng sự rụt rè của cậu trai mới lớn. Thật lạ, Jess thắc mắc.

    Jared lập cập thò tay vào túi áo khoác để lấy ra chiếc hộp nhỏ bọc nhung đen.

    “Lấy anh nhé!” - Ba từ này thật sự rất khó để nói ra, nhưng cuối cùng thì anh chàng cũng nói được.

    Dưới ánh sáng mờ mờ của Blue Night, chiếc nhẫn trông đặc biệt rực rỡ. Với viền nhẫn mảnh và viên kim cương nhỏ cắt hình tròn, nó mang vẻ đẹp cổ điển và lãng mạn mà bất cứ cô gái nào cũng khó có thể chối từ.

    Mặt Jared ngượng chín, anh chờ đợi câu trả lời từ phía Jess.

    Elvis Presley vẫn đang phiêu diêu với đoạn điệp khúc. Tiếng cười nói râm ran thoắt im bặt, ai nấy đều đang chờ đợi. Jess cảm thấy bản thân mình đang trở nên quá đỗi quan trọng trong hoàn cảnh này. Ban đầu Jess nghĩ rằng Jared đang đùa, chẳng lạ gì khi một kẻ phiêu lưu như anh buông lời tán tỉnh với bất cứ cô gái nào anh thích. Nhưng lần này thì khác, sự rụt rè của Jared khiến cô tin rằng anh thật sự chân thành.

    Mọi con mắt một lần nữa đổ dồn vào Jess. Cô chợt nhận ra mình đã yên lặng khá lâu.

    “Em đồng ý!” - Jess nói.

    Khi ấy, Jess không thể nghe được gì ngoài tiếng hò hét tán thưởng của những người xung quanh, gã Hippie hào hứng lôi chiếc guitar của mình ra và nghêu ngao hát. Trái tim Jess đập liên hồi khi Jared đặt lên môi cô một nụ hôn say đắm.

    *

    Jess lắc đầu, cố gắng không để những dư ảnh từ ký ức khiến tâm trí rối loạn, không suy nghĩ thông suốt. Rồi bà tiến gần lại giường bệnh, ngồi xuống, nắm hờ đôi bàn tay của June. Gương mặt con bé thật bình thản. Không hề giống như một người vừa trải qua cuộc đại phẫu giành giật lại sự sống, càng không giống một người đang chìm sâu vào hôn mê thực vật và tạm mất đi phần ý thức. Trông con gái bà như đang ngủ mà thôi, chỉ là không thể đánh thức.

    Bất giác, một giai điệu thân quen vang lên trong đầu bà, như gợn từ sâu thẳm tiềm thức. Jess chợt cất lên thành tiếng, vừa hát bà vừa lấy tay vuốt ve mái tóc của con gái.

    Red dress, spilled wine

    Caught in a stupid fight

    He's wrong, she's right

    (No kiss goodnight)

    Ring ring, telephone

    Act like I'm not home

    Can't hear the tears cry



    The clock don’t stop ticking away

    It’s ticking away…

    Lời bài hát văng vẳng trong đầu Jess. “Kim đồng hồ vẫn cứ quay, cứ quay”… Dù ta vui buồn ra sao, đau khổ hay hạnh phúc thế nào, thời gian chẳng bao giờ chờ đợi ai cả. Phải, bao nhiêu thời gian đã trôi qua…

    Jess sinh ra trong một gia đình trung lưu tại thành phố Dallas, thuộc tiểu bang Texas. Bố mẹ đều hành nghề luật sư, cả anh chị cũng nối nghiệp bố mẹ, duy chỉ có Jess quyết định theo đuổi con đường nghệ thuật ca hát.

    Thời gian học đại học, Jess đã quen Jared - một anh chàng đến từ Oklahoma với phong cách đậm chất cao bồi miền Tây, áo khoác da đơn giản, quần jean bụi bặm và chiếc mũ đặc trưng. Cô hoàn toàn bị thu hút bởi tính cách phóng khoáng và tràn đầy năng lượng của Jared.

    Jared thực sự đam mê tốc độ, từng một thời nổi danh trong làng đua công thức I khét tiếng của vùng viễn Tây Oklahoma. Jared đã từng có mặt tại lễ hội tốc độ ở Goodwood, tổ chức thường niên vào mùa hè hằng năm ở Anh, để tham gia cuộc thi tài với những tay đua cự phách trên toàn thế giới.

    Những năm yêu nhau, Jared và Jess đã rong ruổi khắp vùng viễn Tây trên những chiếc xe “con cưng” của Jared. Họ đã đi dọc xa lộ Route 66 - con đường nổi tiếng nối liền tám tiểu bang của nước Mỹ, chạy ngang qua Illinois, Missouri, Kansas, Oklahoma, California… cuối cùng kết thúc ở Los Angeles. Có những lúc, họ ngẫu hứng băng qua vùng hoang mạc rộng lớn từ Arizona qua Nevada, để tới tận thành phố Las Vegas quyến rũ.

    Nhưng do một tai nạn ngoài ý muốn, Jared buộc phải từ giã sự nghiệp của mình, quyết định trở về Shadowfield để tiếp quản trang trại theo di chúc của bố. Jess đã đi theo Jared và họ nhanh chóng kết hôn sau thời gian đó.

    Về phần mình, Jared nhanh chóng làm quen với công việc trong trang trại và tỏ ra yêu thích chúng, như việc chăm sóc lũ ngựa và lái xe kéo. Nếu rảnh rỗi lại lôi đống phụ tùng ra, thử nghiệm việc sửa chữa trên những chiếc xe hỏng. Nhưng ít ai biết rằng, đó chỉ là những công việc giúp Jared quên đi quá khứ “hào hùng” của chính mình mà thôi. Jess nhớ lại những ngày cuối cùng ở Shadowfield.

    Jess ngồi tần ngần hồi lâu bên cây đàn piano từ sau bữa cơm tối. Bà vẫn chưa nghĩ ra sẽ phải chơi giai điệu nào. Đã lâu không thử chơi, bà sợ rằng đã quên đi nhiều bản nhạc, thậm chí cả kỹ thuật chơi.

    “Mẹ.” - June lên tiếng, phá vỡ bầu không khí im lặng, con bé đã đứng sau Jess được một lúc.

    “Con vẫn chưa ngủ sao, June?” - Jess vội xoay người lại. Khi June tiến lại gần, bà nắm lấy hai cánh tay của con bé và chăm chú nhìn. Bà nhận ra dạo này June có vẻ xanh xao hơn, hai quầng thâm dưới đôi mắt tròn to hiện rõ.

    “Con không ngủ được. Mẹ có thể ngồi với con một lúc được không?”

    Jess đồng ý. Sau đó, bà dắt tay con gái đi vào trong phòng ngủ của nó. Đèn bàn vẫn bật. Trên giường, Jess thấy một vài bức phác thảo vẫn còn dở dang.

    “Con vẫn chưa hoàn thành chúng sao?” - Jess thắc mắc.

    June lắc đầu và không nói gì. Đoạn, nó leo lên giường. Jess ngồi xuống mé giường, lấy chăn đắp ngang ngực con.

    “Mẹ có chuyện gì sao?” - June lên tiếng, như thể con bé đã muốn hỏi từ lâu nhưng chưa có dịp thích hợp.

    “Không có gì đâu con.”

    Jess phủ nhận nhưng chưa thể làm an lòng June. Ngay cả bây giờ, bà cảm thấy giọng nói mình không thể nào thuyết phục nữa. Jess dường như trốn tránh mọi câu hỏi kiểu như vậy, ngay cả với Jared.

    “Dạo gần đây con thấy bố về muộn hơn và hai người dường như không trò chuyện gì mấy?” - June lại hỏi.

    “Bố bận chuyện ở nông trại, huống hồ giờ đang vào mùa vụ. Con nên ngủ sớm đi để giữ gìn sức khỏe, mẹ sẽ vặn nhỏ đèn lại.” - Jess lái câu chuyện sang hướng khác, nhưng bà biết không thể giấu được June. Con bé đã mười ba tuổi, nó đủ nhận thức để hiểu mọi chuyện đang diễn ra gần đây.

    “Mẹ có thể ra ngoài chơi một giai điệu nào đó không? Biết đâu con sẽ ngủ được!” - Cuối cùng, June đề nghị, như muốn kết thúc sớm câu chuyện. Jess phần nào cũng thấy nhẹ nhõm hơn.

    Sau đó bà tắt đèn phòng, không quên hôn lên trán con gái. Bà lặng lẽ đi ra ngoài, khẽ khàng đóng cửa.

    Bà ngồi xuống ghế, nhìn đăm đăm vào phím đàn piano đen trắng, rồi bà liếc nhìn đồng hồ treo tường. Đã gần tám giờ tối, Jared vẫn chưa về. Vào mùa vụ ở Shadowfield, công việc chất lên như núi ngốn hầu hết thời gian trong ngày của Jared, từ việc thu hoạch nông sản, quản lý người làm thuê và ti tỉ những thứ khác cần lo. Jess luôn hiểu cho Jared và không tỏ ra phàn nàn về bất cứ chuyện gì. Giờ đây giữa họ dường như có một giao ước vô hình, mà hơn hết là sự tôn trọng ở mỗi người. Ở Jared là công việc, còn ở Jess là niềm đam mê âm nhạc. Không ai đả động vào công việc của ai, nhưng cũng chính điều đó đã tạo nên những vách ngăn giữa họ. Chỉ cần nhìn vào mắt Jared mỗi khi ông ấy trở về nhà với trạng thái rệu rã, mệt mỏi, Jess như hiểu tất cả, nhưng có điều, bà vẫn chọn cách im lặng.

    Jess suy nghĩ giây lát rồi lướt nhẹ những ngón tay thon dài trên phím đàn. Những giai điệu không lời cất lên, từ hòa tấu Sông Danube tới Autumn Leaves của Daniel Kajmakoski. Những lúc như thế này, Jess thấy tâm trạng mình trở nên bình an lạ thường, những mối lo toan hiện tại tạm dẹp qua một bên. Jess như trở lại với cuộc sống của cô gái thành thị tuổi hai mươi, cô sinh viên nhiệt huyết của trường Đại học Nghệ thuật Dallas. Một tâm hồn phiêu du, tự do tự tại, mang trong mình hoài bão về những chuyến lưu diễn vòng quanh thế giới, cất lên tiếng nói từ con tim mình qua âm nhạc.

    Jess từng nghe vu vơ đâu đó về “mother’s guilt” - cảm giác tội lỗi của những người làm mẹ - cái bóng đen của nỗi sợ rằng “mình không đủ tốt”. Một người vợ - người mẹ có quyền đặt mong muốn của mình lên trên hết không? Jess biết mình chẳng thể nào đủ sức để trả lời câu hỏi ấy. Đôi lúc, khi nhìn lại quãng thời gian dài gắn bó với Shadowfield, từ hồi lấy Jared rồi sinh June cho tới khi con bé đã khôn lớn phần nào, Jess mới thực sự nghĩ tới những gì là của mình, về đam mê đã bị lãng quên một thời gian dài. Jess chỉ muốn sống lại con người của chính mình mà thôi, bà không thể sống đúng nghĩa nếu không có âm nhạc, điệu nhảy của đời mình. Jess yêu gia đình này chứ, rất yêu nữa là đằng khác; nhưng bà vẫn có quyền mơ về con người của nghệ thuật - bản ngã cho bà cái quyền được sống trọn vẹn, thay vì chỉ tồn tại một cách tạm bợ.

    Đồng hồ điểm chín giờ, những ngón tay của Jess đã ngừng lại trên phím đàn. Đêm về khuya, thảng hoặc nghe tiếng xe tải đường dài vọng lại từ xa lộ. Jared có lẽ sẽ ngủ lại trang trại cùng những người làm thuê. Nghĩ vậy, Jess lặng lẽ đi về phía phòng ngủ của mình. Tiện tay, bà tắt đèn, cả gian phòng tối đen như mực.

    Đó là quãng thời gian thật sự khó khăn đối với Jess, bà đã suy nghĩ rất nhiều. Thậm chí bà đã đặt nửa còn lại của cuộc đời mình lên một bàn cân để đong đếm. Chuyện ly hôn như kết quả tất yếu sau quãng thời gian dài đó, không hẳn là những mâu thuẫn trong cuộc sống với Jared. Họ đã từng có thời gian hạnh phúc, nhưng dường như khi đã sống với nhau một thời gian đủ lâu, Jess bỗng nhận ra rằng, bà đang sống cuộc đời của người khác chứ không phải chính mình. Bà đã từng yêu con người trong quá khứ, yêu những gì là quá khứ của Jared, còn ở hiện tại, bà cần sống với chính mình. Chính vì thế Jess đã đưa ra sự lựa chọn. Bà không còn nuối tiếc về quãng đời và lựa chọn ấy, nhưng lúc này, đứng trước trò đùa nghiệt ngã của số phận, bà không còn dám chắc về bất cứ điều gì.

    Đêm vẫn lặng im. Thảng hoặc nghe thấy tiếng đàn chim di cư bay ngang qua bầu trời, hòng tìm được một nơi chốn ấm áp trước khi mùa đông đến.

    “Mẹ xin lỗi, June. Mẹ thực sự xin lỗi.” - Jess cất tiếng trong không gian yên ắng, giọng điệu có phần nghẹn lại vì xúc động.

    Cảm giác nuối tiếc dâng lên trong lòng Jess. Bà tiếc vì đã không dành nhiều thời gian ở với June. Bà tiếc vì đã không học cách lắng nghe.

    “Mẹ không mong sự tha thứ, chỉ mong con mau tỉnh giấc, bởi còn nhiều điều mẹ muốn nói với con, June à!”

    Lần này, Jess nghẹn ngào thực sự. Bà bật khóc!

    Từ phía cửa chính có tiếng bước chân. Cửa bật mở. Jared lầm lũi đi vào phòng. Jess vội vàng lau nhanh những giọt nước mắt. Bà không muốn Jared chứng kiến cảnh tượng này. Jared dường như không để ý mà đi thẳng tới chiếc bàn, bày những thứ mang từ nhà đến - âu đựng thức ăn nhanh, vài quả táo và sữa trái cây đóng hộp. Một mùi ngai ngái tỏa ra khi Jared mở nắp bình cà phê pha sẵn.

    “Em đã nghỉ ngơi chút nào từ chiều chưa?” – Jared hỏi.

    Jess mở miệng, định nói gì đó. Rằng, bà chẳng có tâm trạng đâu để nghĩ cho bản thân chăng? Hay rằng, mỗi lần định ngả lưng, bà lo sợ sẽ bỏ lỡ một cử động nào đó, dù rất nhỏ, của con gái? Nhưng rốt cuộc, cơn mệt mỏi rã rời cũng đã xâm chiếm. Jess lắc đầu.

    Jared lặng lẽ rót cà phê ra hai chiếc cốc nhựa, một cốc đưa cho Jess. Bà cầm lấy, nói cảm ơn, rồi quay lại phía giường bệnh.

    “Chỉ là… thời gian phía trước còn dài. Cả hai chúng ta cần phải…” - Jared hơi ngập ngừng - “… sẵn sàng để đối mặt với mọi trường hợp xấu nhất có thể.”

    Jess nắm chặt cốc cà phê trong tay, bà chẳng cảm nhận được chút hơi ấm nào từ đó. Jess không nói gì nữa vì lòng bà nghẹn lại. Bà cũng chẳng để tâm tới Jared. Lúc này ông đã yên vị trên chiếc ghế bành, tiện tay vặn nhỏ đèn phòng lại.

    Cả hai người đều im lặng trong căn phòng tranh tối tranh sáng. Bên ngoài kia, cả thị trấn như đang chìm sâu vào giấc ngủ, mà chẳng biết khi nào thì cơn ác mộng tiếp theo sẽ ập tới. Đột ngột. Không điềm báo!
     
  9. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG VII

    NHỮNG QUÁI NHÂN KỲ DỊ
    Gavin đang thiu thiu ngủ thì trời bắt đầu mưa. Tiếng lộp độp rơi trên mái nhà, va vào khung cửa sổ khiến cậu choàng tỉnh, mắt dáo dác nhìn quanh như sợ hãi điều gì. Chỉ là một cơn mưa thôi! Ngồi bên cạnh, June lập tức trấn an, cậu thoáng xấu hổ, nhưng rồi cũng không nén được tiếng thở phào nhẹ nhõm.

    Một lúc sau mưa mau hạt hơn, chẳng mấy chốc tiếng rào rào chiếm trọn khắp không gian. June thấy lòng mình chợt se lại. Nó nhớ vào những ngày mưa lớn như thế này, cả nhà thường ngồi trong bếp, cùng thưởng thức món trà gừng pha mật ong ấm nóng, ngon tuyệt của mẹ.

    “Cậu đang nghĩ gì thế June?” – Gavin thắc mắc khi thấy June ngồi bần thần.

    June lắc đầu. Để tránh phải trả lời câu hỏi của Gavin, nó bèn vẽ ra hai chiếc chăn giữ ấm với họa tiết paisley đơn giản, loại chăn này thường được dùng để ủ ấm cơ thể vào mùa đông. June quàng một chiếc lên người mình, cái còn lại trùm lên cho Gavin.

    “Cảm ơn cậu!” – Gavin trìu mến nói.

    June ghé đầu tựa vào vai Gavin. Ký ức của buổi dã ngoại vẫn còn sót lại trong lòng nó, nhưng chỉ còn lại những mảnh rời rạc và chắp vá. Có người nói rằng, khi bạn quên một chuyện nào đó thì hãy nhắm mắt và nín hơi một lúc ắt sẽ nhớ ra. Nghe thật hoang đường nhưng June vẫn cứ thử. Chẳng có tác dụng gì, June thu mình vào trong tấm chăn mỏng và đăm chiêu nghĩ ngợi.

    “Gavin này…” – June quay lại nhìn Gavin và nói kiểu nửa chừng.

    Khi ấy June chợt nhìn Gavin thật kỹ, mái tóc cậu rối bù chẳng bao giờ được chải gọn, sống mũi cao thẳng lấm chấm vài đốm tàn nhang, còn đôi môi mỏng lúc nào cũng mím chặt vẻ cương nghị. Dù coi Gavin là người hiểu nó nhất, June nghĩ sẽ vẫn khó để cậu hiểu hết chuyện gia đình nó, bởi gia đình luôn là chỗ dựa tinh thần của cậu, còn với June thì hoàn toàn ngược lại. Đã có lần nó cảm thấy đôi chút ghen tỵ với bạn mình.

    “Cậu có chuyện gì định nói à?” – Gavin hỏi.

    “Cậu có điều gì tiếc nuối về gia đình mình không? Một khoảnh khắc đáng nhớ nào chẳng hạn?” – June gợi ý.

    Gavin nghĩ một lúc.

    “Tớ chỉ muốn nhìn mặt em trai thôi.” – Gavin khẽ thầm thì. – “Khi… ừm… thì mẹ tớ cũng sắp sinh, nên thật ra tớ cũng ước được gặp nó, dù chỉ một lần.”

    “Vậy thế này nhé…” – Suy nghĩ một lúc, June đưa ra gợi ý. – “… Tớ sẽ tái hiện khung cảnh ở phòng hậu sinh trong bệnh viện Shadowfield, cậu tới thăm em trai mình ở đó. Đồng ý chứ?”

    “Thật sao?” – Gavin không giấu khỏi sự ngạc nhiên và vui sướng.

    “Dĩ nhiên.” – June gật đầu chắc cú.

    Sau cái ngày Louis – em trai của Gavin được sinh ra, nó đã tới bệnh viện thăm hỏi tình hình sức khỏe mẹ cậu. Chuyện em trai Louis sinh ra đáng yêu, khỏe mạnh, dường như khiến tâm trạng bà có khá hơn so với ngày Gavin mất. Việc nhớ lại ký ức của một năm về trước, giờ đây đối với June quả là một chuyện khó khăn, nó nhắm mắt và cố gắng tưởng tượng ra quang cảnh lúc đó. Đó là một ngày cuối tháng Mười hai lạnh giá, tuyết đã bao phủ hầu hết thị trấn Shadowfield.

    “Tớ sẽ dẫn cậu đi, Gavin.” – June nói, đồng thời đưa bàn tay mình ra.

    Gavin không suy nghĩ mà nắm lấy tay June. Căn nhà gỗ biến mất, thay vào đó là khoảng trời rộng lớn xám xịt dần hiện ra trên đầu, tấm chăn mỏng choàng lên người cũng rơi ra, chỉ có cơ thể hai đứa trở nên nhẹ bẫng, có phần khoan khoái. Theo đó, luồng ánh sáng mạnh xóa sạch màn đêm, dấu vết cơn mưa lớn ban nãy cũng không còn. Không gian lạo xạo tiếng gió cuốn lớp lá khô dưới mặt đất hất tung lên không trung, kèm theo những tinh thể tuyết màu trắng đang lặng lẽ rơi xuống bên ngoài khung cửa sổ, nếu nhìn ra sẽ chỉ thấy một màu trắng xóa và ảm đạm.

    Lúc này, June và Gavin đang đứng dọc hành lang bệnh viện trung tâm Shadowfield. Tối tăm và khá lạnh. Nguồn sáng duy nhất là vài bóng đèn màu vàng được giấu kín sau những chao đèn có hình thù của con sư tử biển. Bệnh viện này được xây dựng vào những năm 1860 từ nền của một tu viện cũ để phục vụ chiến tranh, ngày nay được sửa sang lại sử dụng vì mục tiêu chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Tất cả những kiến thức này đều nằm trong môn Lịch sử địa phương vùng Oklahoma chán ngắt mà June đã từng học ở trường.

    “Mẹ cậu đang nằm ở phòng hậu sinh cuối hành lang, cậu cứ đi thẳng rồi quẹo trái là tới.” – June nói. – “Cậu vào thăm mẹ đi. Tớ sẽ ở ngoài này, không làm phiền cậu.”

    “Đợi tớ nhé!” – Gavin tạm biệt June rồi chạy một mạch về phía cuối hành lang.

    Đợi cho tới khi bóng dáng Gavin khuất hẳn sau bức tường thì June mới quay đi. Mặc dù chưa biết đi đâu nhưng nó thấy tâm trạng phấn chấn hơn hẳn so với ban nãy, nó thầm cười trong lòng, ít ra cũng làm được một điều tốt đẹp, bù đắp cho mất mát của cậu ấy. June hy vọng sẽ làm Gavin vui!

    Lững thững bước đi dọc hành lang thiếu ánh sáng tự nhiên, June nhận ra những cánh cửa màu xanh xếp thẳng đều tăm tắp làm nó liên tưởng tới một bộ phim đã từng xem lúc còn nhỏ, nếu như ta mở một cánh cửa bất kỳ thì sẽ đến được một mảnh đất thần tiên nào đó. Trên mỗi cánh cửa còn gắn một con mắt thần để người bên ngoài có thể nhìn vào trong, June tò mò ghé mắt nhìn thử một cánh cửa. Tất cả đều tối thui! Nó chuyển hướng sang cánh cửa thứ hai, thứ ba rồi thứ tư... nhưng mọi thứ vẫn tối thui như thế. June suy nghĩ vài giây rồi quyết định đẩy bừa một cánh cửa; cửa bật mở, một hành lang có hình dạng một cái ống lớn dẫn nó ra một bãi cỏ lau khá rộng, những cây lau cao ngang ngực một người trưởng thành. Chẳng có gì bất ngờ, June thấy hơi thất vọng, nhưng nó dám chắc, Shadowfield không bao giờ có khung cảnh này, người ta đã biến tất cả những mảnh đất trống, cánh đồng hoang toàn cây thạch nam thành trang trại trồng trọt hoặc chăn nuôi gia súc. Trong năm năm thời kỳ Nội chiến, tất cả những nông trang ở hầu hết các tiểu bang miền Nam nước Mỹ đều được sử dụng vì mục đích chiến tranh, không sản xuất lương thực thì sẽ biến thành những bãi chiến trường đầy sự giết chóc.

    June nhìn thấy một con đường nhỏ đi thẳng vào bãi cỏ lau, nó chầm chậm rảo bước, đi được khoảng trăm mét, nó gặp một gò đất khá cao, trên gò đất mọc lên một cây bao báp lớn. June bước lên, từ gò đất này nó nhìn bao quát một khoảng rộng lớn, phía xa xa đường chân trời là những dải sáng màu xanh lam và tím đan xen vào nhau, không thể xác định được giờ đây đang là thời điểm nào trong ngày. June bèn vẽ ra một băng ghế gỗ, loại thường được đặt trong công viên, rồi nó từ tốn ngồi xuống.

    “Bụp!”

    Một tiếng nổ lớn vang lên sau lưng khiến June giật nảy mình. Nó đột nhiên quay lại để tìm hiểu nguyên do.

    *

    Lúc này, Gavin đang đứng trước căn phòng June đã nhắc đến. Cậu thấy khá hồi hộp, tim đập nhanh hơn bình thường. Hít một hơi thật sâu, cậu đặt tay lên nắm đấm cửa rồi khẽ khàng đẩy vào.

    Phòng bệnh khá rộng rãi và thoáng đãng, các đồ dùng bên trong đều có màu xám đậm được sắp xếp một cách ngăn nắp, cẩn thận. Trên giường bệnh, mẹ cậu vẫn đang thức, em trai thì thiu thiu ngủ, đầu tựa trên ngực mẹ. Em bé có vài sợi tóc hơi xoăn, miệng thì chúm chím, còn những ngón tay bé nhỏ đang nắm chặt lấy vạt áo của mẹ. Mẹ cậu đang cười, ánh mắt dịu dàng đặt lên hình hài tựa như một thiên thần nhỏ bé. Gavin chợt thấy lòng mình bình yên lạ thường. Đoạn, cậu từ từ tiến lại phía giường bệnh. Cậu thử đặt một tay lên gương mặt của em hay lên bàn tay của mẹ, nhưng tiếc thay những gì cậu làm được chỉ có thể là quan sát mà thôi. Gavin biết mình không thể chạm vào bất cứ thứ gì đang hiện hữu trong căn phòng này.

    Em bé đã bắt đầu tỉnh giấc và khóc lớn. Mẹ xuýt xoa dỗ dành một lát thì em nín. Bé mở to đôi mắt – đôi mắt màu xanh lá giống của cậu – nhìn ra quang cảnh xung quanh, mọi thứ hoàn toàn lạ lẫm với nó. Đã từng có những chiều Chủ nhật đi dạo cùng mẹ trong công viên, Gavin hào hứng với ý nghĩ một ngày nào đó sẽ đưa em trai đến đây, cùng chơi bóng hay ăn kem, và cậu có thể kể cho em nghe về thế giới rộng lớn. Nhưng giờ đây thì… em sẽ lớn lên mà không có mình. Cậu cố gắng kìm nén cảm xúc để không bật khóc.

    Cửa phòng bệnh bật mở khiến Gavin hơi giật mình. Vị bác sĩ có dáng người cao lớn đi vào, theo sau ông là hai y tá khác. Một nữ y tá đẩy theo chiếc xe để đồ chuyên dụng, y tá còn lại thì cầm theo cặp giấy, bút, cả ba người đều bịt khẩu trang kín mít chỉ để lộ hai con mắt.

    Họ đứng gần cửa sổ và trao đổi với nhau, chỉ thấy môi mấp máy, dù cố gắng tập trung nhưng Gavin không thể nghe rõ nội dung cuộc trò chuyện. Tiếng lầm rầm khiến cậu không khỏi tò mò. Nghĩ vậy, cậu thử tiến lại gần họ hơn để xem có nghe được gì không, dù gì họ cũng không thể nhìn thấy cậu. Nhưng bất chợt, một cảm giác rùng mình chạy dọc sống lưng khi nữ y tá đẩy xe nhìn chằm chằm về phía Gavin, xoáy ánh mắt vào cậu như thể cô ta biết sự hiện diện của cậu ở nơi đây. Không thể nào! Gavin phủ nhận ngay suy nghĩ đó. Bởi lẽ tất cả những thứ này chỉ được tạo ra bởi ký ức của June, nên không thể là thật được. Nhưng Gavin vẫn không thôi lo lắng, trong lòng cậu chất đầy những câu hỏi không có câu trả lời.

    Đoạn, nữ y tá chuyển hướng nhìn xuống chiếc xe để đồ, đẩy chiếc xe tiến gần phía giường bệnh của mẹ cậu; trong khi đó, vị bác sĩ cao lớn và y tá còn lại vẫn tiếp tục trò chuyện một cách say sưa.

    “Keng.”

    Tiếng kim loại va vào nhau khiến Gavin giật nảy mình. Cậu quay trước sau để tìm hiểu nguyên nhân thì phát hiện nữ y tá đã đánh rơi một chiếc kéo cắt băng gạc xuống sàn phòng. Nhưng dường như cô ta không để ý chuyện đó mà vẫn tiếp tục với mớ dây dợ bùng nhùng của mình. Theo phản xạ Gavin cúi xuống nhặt chiếc kéo lên. Có cảm giác. Cậu chạm vào và cảm thấy bề mặt kim loại lạnh ngắt. Không nghĩ gì thêm, cậu nhặt lên, đưa nó lại cho nữ y tá.

    “Của chị đây.”

    Cậu lên tiếng, nhưng không nghe rõ giọng mình như bị bóp méo bởi sức mạnh vô hình, kèm theo là tiếng rít nhẹ trong bầu không khí có phần u uẩn. Gavin tự trấn an rằng, vì đây là thời điểm giữa mùa đông nên không gian sẽ trở nên như vậy.

    Nữ y tá dừng tay và không nói gì, cô ta xoáy ánh mắt lạnh lùng có phần vô cảm vào cậu. Thoáng rùng mình nhưng Gavin vẫn giữ được sự bình tĩnh, chỉ là cảm giác thôi.

    Đột nhiên cửa phòng đóng rầm lại sau lưng Gavin, cậu hốt hoảng nhìn trước sau để tìm hiểu nguyên nhân. Nhưng khi quay lại phía họ đang đứng, Gavin thấy có sự khác thường đang diễn ra ở đây. Chiếc giường bệnh đã trống trơn, mẹ và em trai cậu không còn trên đó nữa. Gavin nhìn sang phía hai người y tá và vị bác sĩ thì thấy họ bắt đầu có sự biến đổi. Họ đứng nghiêm trang, cứng nhắc, đầu hơi ngửa lên trời trông giống hệt như những con rô bốt đang bắt đầu màn trình diễn, kế sau đó là sự co giật liên hồi như một dòng điện có điện áp cao vừa chạy qua người. Thân hình họ hơi phình to như bong bóng chứa khí he li, những cục thịt nổi to trên cơ thể làm rách nhiều chỗ quần áo đang mặc, chúng bục ra dưới cánh tay, phần hông và chân. Rồi những xúc tu nhớp nhúa bắt đầu mọc dài như xúc tu bạch tuộc. Gương mặt của họ kéo dãn, miệng rộng đến tận mang tai để lộ hàm răng hình lưỡi cưa nhọn hoắt, còn mắt trở nên đỏ quạch một màu, trông giống như gã quái nhân - The Crooked man nổi tiếng trong giai thoại xa xưa của người Anh.

    Gavin kinh hãi chạy về phía cửa chính hòng thoát thân, nhưng nắm đấm cửa tự dưng bị kẹt, cậu ra sức vặn nhưng không sao mở được. Lúc đó, Gavin thấy xúc tu nhớp nhúa của những quái nhân đã quấn lấy chân phải, kéo ngược trở lại khiến cậu té ngã sấp mặt xuống nền đá. Một cảm giác đau điếng chạy dọc sống lưng cậu, còn thần kinh căng lên như dây đàn. Gavin xoay người lại trên tư thế chống hai tay ra phía sau, rồi cậu nhanh trí bỏ ba lô ra khỏi lưng để lấy con dao có sẵn trong đó, nhanh chóng cắt phăng những xúc tu, chúng rời ra nhưng vẫn không thôi ngoe nguẩy trên sàn đá. Gavin lết thân mình dậy một lần nữa, cậu cảm thấy tứ chi đau nhức vô cùng, chân và tay dường như không chiều theo ý muốn của cậu nữa. Gavin cố hết sức để đẩy cánh cửa mắc kẹt, thậm chí dồn sức vào chân phải cậu đạp mạnh nhưng vẫn chẳng có chuyện gì xảy ra. Cánh cửa không suy suyển, đứng im một cách đáng nguyền rủa.

    Lúc này, những quái nhân xúc tu phát ra những tiếng kêu đáng sợ, hệt như mặt kim loại cạ mạnh nền đá, rin rít đến rợn người. Phía bên ngoài cửa sổ, đám mây như sà xuống gần mặt đất khiến căn phòng trở nên tối tăm hơn bình thường. Bao vây lấy Gavin, chúng như biết rằng cậu không thể nào trốn thoát được nữa nên bình thản di chuyển về phía cậu, kéo theo những chuyển động là tiếng khùng khục, chúng như muốn tra tấn cậu về tinh thần. Gavin oải thực sự, cậu dường như không còn sức lực nào để chiến đấu nữa. Một Thằng Ngốc trong mê cung đã là quá đủ với cậu rồi, cái thế giới quái quỷ này bao giờ mới thôi hăm dọa và hãm hại cậu đây?

    Rồi sau đó, Gavin nhắm tịt mắt, vung dao loạn xạ. Một cú giáng mạnh vào tay cậu khiến con dao văng về một phía. Gavin lao về phía con dao hòng đoạt lại, nhưng xúc tu của quái y tá đã ngáng chân khiến cậu té ngã. Cố rướn người, bằng một nỗ lực phi thường, cậu lấy lại được con dao đồng thời cắt phăng đi những xúc tu một lần nữa. Gavin vội đứng dậy trong tư thế sẵn sàng phản công. Một con quái nhân lao nhanh về phía cậu, nhe hàm răng nhọn hoắt đầy vẻ hăm dọa. Bị bất ngờ, không còn cách nào khác, theo phản xạ vô điều kiện, Gavin nhắm tịt mắt lại, đồng thời hai tay cầm dao giơ thẳng ra trước mặt.

    “Phập.”

    Một tiếng rú lớn, kinh hãi, vang vọng không gian. Gavin cảm thấy một chất lỏng nhễu ra bàn tay mình, ươn ướt và lạnh lẽo, mùi hôi thối bốc ra giống như mùi khí lưu huỳnh, cậu vội buông bỏ hai bàn tay và mở mắt ra, con dao đã không còn trên tay cậu mà đang cắm trên cổ của quái nhân. Nó run lên bần bật vì đau đớn, những giọt máu đen sì túa ra từ cổ nó chẳng mấy chốc đọng thành vũng trên sàn nhà. Gavin như muốn nôn thốc nôn tháo khi nhìn thấy cảnh tượng đó.

    Lúc này, Gavin kịp nhận ra rằng, cậu đã không còn món vũ khí nào nữa nên buộc phải quay lại với cánh cửa và làm mọi cách để có thể mở nó. Nhưng hai quái nhân còn lại không để cho cậu yên, những xúc tu của chúng dài thêm ra, trườn trên sàn nhà uyển chuyển như những con rắn, rồi chúng bắt đầu quấn vòng qua chân cậu, lên phần đùi, rồi phần hông và bụng. Gavin dùng tay cố gỡ chúng ra nhưng không được. Trong lúc tuyệt vọng, cậu lấy hết sức bình sinh để hét lớn. Cậu chỉ nghĩ tới June, giọng cậu vang vọng khắp không gian, cảm giác như các dây thanh quản sắp bị xé rách, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng đến gai người và đắc chí của những quái nhân kỳ dị. Gavin không thể hét được nữa vì những xúc tu đã vòng quanh bụng cậu thắt chặt lại, lấn lên phần ngực rồi đến cổ khiến cậu thấy ngộp thở. Mắt Gavin nhòa đi, ứa lệ, cậu thấy mình như sắp chết một lần nữa.

    Không gian xung quanh căn phòng chợt tối dần, Gavin thấy thân thể mình như đang rơi xuống một cái hố sâu tăm tối và không đáy. Cậu không chắc đó có phải là địa ngục hay không nữa?

    *

    “Bạn làm tôi bất ngờ mỗi khi xuất hiện đấy!” – June nói một câu vô thưởng vô phạt với Cột Đèn.

    Vẫn hình dáng dài thòng và tư thế chống hai tay bên hông ngạo nghễ, Cột Đèn nhìn nó mỉm cười trìu mến. Hai người giờ đây đã thân thiết như những người bạn thật sự. June ra hiệu cho Cột Đèn ngồi xuống bên cạnh mình trên băng ghế.

    “Rất vui khi gặp lại cậu, June, thế cậu bạn trai kia đâu rồi? Chẳng phải hai người luôn đi với nhau sao?” – Cột Đèn ra vẻ thắc mắc khi thấy June chỉ có một mình.

    “Gavin đang có chút việc và mình không muốn làm phiền cậu ấy.” – June đáp lời ngay.

    Cột Đèn tiến lại gần June, rồi ngồi xuống bên cạnh nó. June cảm thấy hơi ngạc nhiên nhưng vẫn rất vui khi Cột Đèn xuất hiện - Vị thần may mắn đã dẫn đường cho nó lần trước.

    “Lần trước do cậu biến mất nên mình chưa kịp cảm ơn cậu về chuyện trong mê cung.” – June nói.

    “Không có gì. Vì cậu xứng đáng được như thế mà June.” – Cột Đèn nói.

    June mỉm cười và không nói gì.

    “Không biết cậu đã uống phương thuốc chưa nhỉ?” – Một lúc sau thì Cột Đèn thắc mắc chuyện cũ.

    Lúc này, June sực nhớ tới phương thuốc – phần thưởng mà nó giành được trong trò chơi mê cung. Sờ tay lên túi quần, June thở phào nhẹ nhõm khi phương thuốc vẫn còn đó, những tưởng nó đã quên mất nếu như Cột Đèn không nhắc lại.

    “Mình vẫn chưa uống kể từ khi có nó, suýt nữa thì quên đấy.” – June thật thà trả lời.

    Cột Đèn đột nhiên quay lại nhìn nó với vẻ ngạc nhiên, như thể muốn hỏi rằng tại sao tới giờ nó vẫn chưa sử dụng một phương thuốc tuyệt vời như thế.

    “Đừng nhìn mình với vẻ mặt đó...” – June lên tiếng như biện hộ cho mình. – “... chỉ là mình chưa thật sự sẵn sàng mà thôi.”

    “Chưa sẵn sàng? Cậu vẫn còn khúc mắc gì sao June, cậu có thể nói ra để chúng ta cùng nhau giải quyết. Được chứ?” – Cột Đèn đưa ra gợi ý của mình.



    June lại rơi vào trạng thái chần chừ như lần nọ, nó nắm chặt bên ngoài túi quần, và dễ cảm nhận thấy thứ ma lực mạnh mẽ của chiếc hộp nhỏ màu hổ phách vẫn đang thôi thúc ham muốn trong con người mình. Hãy uống đi và tôi sẽ giúp bạn quên đi mọi đau khổ. Một lần nữa, giọng nói vô hình ấy lại văng vẳng trong đầu nó, những mâu thuẫn xuất hiện trong tâm trí của June. Tại sao có thể uống phương thuốc này trong khi vài phút trước June vẫn nhớ tới bố và mẹ. Nhớ kỷ niệm về buổi dã ngoại cuối tuần bên bìa rừng, hay giai điệu của Carie Underwood trên chiếc xe của mẹ Jess vẫn vang vọng đâu đó trong tâm trí nó, chỉ là không thể xếp thành hình hài mà thôi. Rõ ràng là June vẫn luôn nghĩ về họ, thương nhớ họ. Vậy tại sao nó phải uống viên thuốc này chứ? Nhưng đồng thời nó cũng cảm thấy không hề muốn vứt bỏ lựa chọn này

    “June...”” – Cột Đèn lên tiếng khi thấy June im lặng quá lâu. – “... Nếu như không uống cậu sẽ bỏ lỡ một cơ hội tuyệt vời đấy! Nghe lời tôi, hãy uống phương thuốc đi!”

    Cột Đèn ra sức nài nỉ June.

    ...

    Á… á… á...

    Một tiếng hét lớn khiến June bừng tỉnh, nó vội vàng đứng dậy, nhìn về đằng sau. Là Gavin. June chẳng nói chẳng rằng, cũng không để ý tới Cột Đèn hay phương thuốc lãng quên nữa, nó cắm cúi chạy về phía bệnh viện. Bởi lẽ, Gavin đang gặp nguy hiểm.

    *



    “Gavin.”

    June ẩy mạnh cánh cửa cuối hành lang, rồi vội vàng chạy vào.

    “Cậu có sao không?”

    June chạy lại đỡ Gavin đứng dậy. Giọng nói quen thuộc của June lôi cậu trở lại với ánh sáng nhờ nhờ trong căn phòng, Gavin thấy mình đang nằm sõng soài trên nền nhà lạnh ngắt. Đồng thời, cảm giác thân thể cũng như được nới lỏng, luồng không khí nhanh chóng tràn vào trong lồng ngực khiến cậu thấy dễ thở hơn. Cậu nhìn xuống dưới chân, không còn xúc tu nào nữa, những quái nhân đã biến mất như chưa từng tồn tại. Giường bệnh vẫn trống trải, đồ đạc không hề bị di chuyển chút nào, Gavin lấy làm lạ.

    “June, cậu...” – Gavin lắp bắp không nói thành lời.

    “Ban nãy mình nghe thấy tiếng la thất thanh của cậu nên chạy vào ngay.” – June nói với giọng điệu lo lắng hết sức.

    Nó đỡ Gavin đứng dậy, đi ra khỏi phòng.

    “Mau... mau đưa mình ra khỏi đây, June.” – Gavin đề nghị.

    June không nói gì, vội xóa sạch khung cảnh ở bệnh viện, hành lang tối tăm và những căn phòng biến mất, hai đứa trở về với trảng cỏ xanh thẫm. Nó đỡ Gavin ngồi dưới một gốc cây cổ thụ, cậu vẫn chưa thoát khỏi cảm giác hãi hùng, gương mặt tái mét, mồ hôi nhễ nhại khắp người.

    “Nói cho mình biết đã có chuyện gì xảy ra, Gavin?” – June nóng lòng muốn biết mọi chuyện.

    “Tớ... tớ nhận thấy thế giới này không hẳn được vận hành theo ý muốn của cậu đâu... June à! Mọi chuyện... nằm ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.” – Gavin gắng gượng trả lời.

    June không nói gì nữa, nhưng nó chắc chắn rằng phải tìm hiểu căn nguyên của những chuyện này. June chợt nhớ tới chuyện xảy ra trong mê cung với Gavin về Thằng Ngốc gớm ghiếc nào đó, nhưng khi ấy nó đã phớt lờ và coi như không có chuyện gì xảy ra.

    “Đi thôi, Gavin.” – June nói.

    “Đi đâu?” – Gavin hỏi lại.

    “Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chuyện gì đang diễn ra ở thế giới này.” – June đáp, giọng chắc nịch.
     
  10. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG VIII

    DƯỚI TÁN SỒI GIÀ
    June và Gavin đáp nhẹ xuống nền đá ẩm ướt, rêu mọc xanh rì. Gió thổi mạnh khiến mái tóc dài của June bay ngược về phía sau. Nếu phóng tầm mắt ra xa, có thể thấy mặt biển hiền hòa đang trải rộng, cả hai nhận ra mình đang đứng trên một vách đá cao, dựng đứng.

    “Chúng ta đang ở đâu vậy June?” - Gavin thắc mắc ngay khi thấy khung cảnh đó.

    “Đi theo mình.” - Không trả lời câu hỏi của Gavin, June rảo bước về phía trước.

    Gavin lấy làm lạ nhưng cậu đành phải lặng lẽ theo June, càng tiến gần tới rìa, cậu càng nghe thấy tiếng sóng đánh mạnh hơn vào những vách đá.

    “Cậu không thấy quang cảnh này quen thuộc sao Gavin?” - June quay lại hỏi.

    “Giống như vách đá Moher nổi tiếng ở Ireland.” - Gavin suy nghĩ một lát rồi trả lời.

    “Đúng rồi.” - June đáp lại.

    “Nhưng chẳng phải chúng ta vẫn còn nhiệm vụ...?” - Gavin lại thắc mắc.

    “Nào, Gavin...” - June vội ngắt lời. - “... Tớ đâu có quên nhiệm vụ của chúng ta. Tớ có ý tưởng này.”

    June nói rằng, nó sẽ tạo ra hai chiếc xe hơi gần như đã hoàn chỉnh, chỉ cần lắp ráp thêm một và 0069 chi tiết, phụ tùng nhỏ là có thể hoạt động được. Hai đứa sẽ dùng chiếc xe đó bay vòng quanh thế giới này, biết chừng sẽ phát hiện ra điều gì đó bất thường như lời Gavin đã nói.

    “Cậu thấy thế nào, Gavin?” - June hỏi lại sau khi đã trình bày một thôi một hồi về ý tưởng của mình.

    “Đồng ý.” - Gavin đáp lại.

    Sau đó June tạo ra một trảng đất trống khá rộng. Theo động tác đưa cọ vẽ thực hiện gần như đã thuần thục, nó tạo ra hai chiếc ô tô đã cơ bản lắp ráp xong các bộ phận quan trọng, giờ chỉ cần thêm một số phụ tùng là có thể chạy được. June mô phỏng theo chiếc Fusion mà bố Jared đã từng mua tặng nó.

    “Bắt đầu nào!” - June nói rồi xắn tay áo khoác lên, bắt đầu vào công việc ngay.

    Dù không được bố Jared chỉ dạy nhiều về cách lắp ráp, nhưng June biết phân biệt từng loại trong số chúng, cũng như công năng của từng phần, phần nào cần lắp trước và phần nào cần lắp sau. Bên cạnh mình, Gavin cũng tỏ ra hăng hái hết sức khi cậu khéo léo sử dụng những chiếc tuốc nơ vít vặn con ốc sao cho thật chặt, hay kiểm tra bộ phận phanh đã hoạt động tốt chưa. June luôn thích thú mỗi khi lắp ráp hay sửa chữa một chiếc xe. Có lần June đã nói với bố Jared rằng, nếu như sau này nó không đi học đại học thì sẽ xin một chân phụ giúp trong xưởng sửa chữa của ông, bố Jared thường mỉm cười mỗi khi nghe tới chuyện đó.

    June khéo léo di chuyển những bộ phận được lắp sau cùng bằng cọ vẽ của mình, mọi chuyện với chiếc xe dường như đơn giản hơn trong thế giới này, ít ra nó cũng không phải đụng chân đụng tay gì mấy. Sau khi xong phần mình, June quyết định quay sang giúp Gavin. Một lát sau, hai chiếc xe bóng loáng như mới hiện ra trước mặt hai đứa.

    “Lên xe thôi, Gavin.” - June vừa phấn khích nói, vừa lanh lẹ chui vào xe.

    Gavin cũng chui vào xe của mình.

    “Cùng khám phá thế giới nào!” - June nói lớn, gió bắt đầu nổi lên, át đi giọng của nó.

    June vặn chìa khóa, sang số rồi nhấn chân ga. Chiếc xe từ từ bay lên khỏi mặt đất, tựa như được nâng bởi một sức mạnh vô hình. Cả hai chiếc xe đang lơ lửng cách mặt đất gần mười mét, June có thể thấy mặt biển bắt đầu dậy sóng, chúng ngoác miệng, táp mạnh vào những vách đá đen ngòm.

    “Lên đường thôi, Gavin.” - June cười nói, nhấn sâu chân ga, chiếc xe lao vút về phía trước, chẳng mấy chốc mất dạng vào trong những đám mây trắng xốp, bồng bềnh.

    Gavin cũng làm theo tương tự.

    ***

    Khi Jared trở lại phòng bệnh thì thấy Richard - chồng hiện tại của Jess. Jared đã ngờ ngợ trong lúc tạt vào bãi đỗ xe bệnh viện, loáng thoáng nhìn thấy Richard bước ra từ chiếc BMV X3 sang trọng cùng với hai con, nhưng khi ấy ông đinh ninh rằng mình đang nhìn nhầm một ai đó chứ không phải ông ta.

    Jared đứng im hồi lâu bên ngoài cửa chính, vài người đi qua tọc mạch nhìn với vẻ mặt tò mò, sau đó Jared quyết định trở về nhà. Một mặt, ông không biết xử trí ra sao trong tình huống này, mặt khác, ông không muốn mặt đối mặt với Richard. Jared nghĩ rằng, gia đình họ cần một không gian riêng, nhất là Jess, bà ấy cần sự an ủi hơn bất cứ ai trong hoàn cảnh này.

    Jared lặng lẽ lái xe ra khỏi khuôn viên bệnh viện trung tâm thị trấn, rẽ trái ra đại lộ B, thẳng tiến về vùng nông trại ngoại ô. Khoảng mười lăm phút sau, Jared có mặt ở nhà. Ông tắt máy, xuống xe. Người hôi rình như cú, Jared nghĩ, cần phải tắm táp và nghỉ ngơi thôi.

    “Cậu về rồi!” - George từ phía nhà kho đi ra và nói lớn với Jared, ông lão hơi lãng tai một chút.

    Tay ông lão vẫn xách nguyên xô nước uống của lũ ngựa, quần áo thì lúc nào cũng lấm lem bùn đất. George là bạn chiến đấu cùng cha của Jared hồi Thế chiến thứ Hai. May thay, họ vẫn là những người sống sót, nhiều khi cao hứng, George thường nói với Jared như vậy. Sau này cha Jared mất vì bạo bệnh, khi ấy Jared mười sáu tuổi, chính George là người đã lo liệu đám tang. Thi thoảng nếu Jared vắng nhà, ông thường nhờ George trông nom, trợ giúp một vài việc vặt trong trang trại của mình. Giờ đây, trong thâm tâm Jared, lão George như người thân thiết duy nhất bên cạnh ông vậy.

    “Con bé thế nào rồi?” - George đặt xô nước xuống bậc thềm, bình thản ngồi xuống rồi hỏi tiếp. Tiện tay, lão rút tẩu thuốc được chạm khắc tinh xảo từ áo khoác kaki dày cộm ra, châm lửa rồi bắt đầu hút như một thói quen thường ngày.

    Hình ảnh này làm Jared liên tưởng đến bố mình, ông cũng nghiện hút thuốc bằng tẩu. Nhưng tiếc thay, khoảng thời gian bố còn sống, Jared dường như không có nhiều thời gian để ở bên cạnh ông, ngay cả khi ông đang lâm bệnh nặng, cũng chẳng mấy khi Jared có ở nhà. Jared nhớ, đường đua và tốc độ đã ngốn phần lớn thời gian của mình rồi.

    “June vẫn chưa có tiến triển gì, con bé đang trong tình trạng hôn mê thực vật và không có dấu hiệu tỉnh lại.” - Jared ngồi xuống cạnh George, buồn rầu thông báo.

    George chưa nói gì, lão vẫn luôn tỏ ra bình thản như thế, dù lão rất thương June. Tới độ tuổi nhất định, con người sẽ trở nên điềm tĩnh như vậy trước mọi sóng gió, nhưng tiếc thay, Jared chưa thể làm được điều đó. Khi nghe vị bác sĩ trực ca thông báo chính xác về tình hình của June, Jared đứng ngồi không yên.

    George tiếp tục phì phèo với tẩu thuốc của mình trên môi.

    “Đây mới là thời gian thử thách ban đầu thôi. Cố gắng lên Jared, bố cậu luôn hy vọng vào cậu. Lúc nào ông ấy cũng nghĩ thế. Tôi tin cậu sẽ vượt qua chuyện này sớm thôi.” - George nói.

    Sau đó, lão đứng lên, trao chìa khóa lại cho Jared. Lão nói thêm, nếu cần giúp đỡ điều gì thì hãy nói với lão, vì dù gì lão và cha của Jared cũng từng là những người bằng hữu rất thân thiết trên chiến trường hay cả khi họ rời xa quân ngũ, trở về quê nhà. Jared nhận lại chìa khóa và không quên nói lời cảm ơn.

    Jared chưa vội vào trong nhà, ông ngẫm nghĩ một lúc rồi lặng lẽ di chuyển về phía nhà kho. Kể từ ngày June gặp tai nạn, ông chưa một lần vào trong đó.

    Jared tra khóa mở cửa. Ánh sáng ban ngày lọt qua cánh cửa, soi rọi mọi thứ bên trong, lớp bụi bẩn được thể bám dày trên những đồ đạc không còn sử dụng, từ đống bàn ghế cũ, chiếc sofa họa tiết ca rô thủng lỗ chỗ hay thậm chí cả đầu của một chiếc máy kéo đã rỉ sét phần nhiều.

    Jared nhìn quanh một lượt, rồi từ tốn chỉnh lại chiếc ghế đẩu nằm chỏng chơ trên nền đất. Ông lặng lẽ ngồi xuống, hai tay chống cằm, mắt đăm đăm nhìn vào khoảng không vô định. Lúc này, Jared chợt nhận ra ở góc bên phải nhà kho, một vật thể được phủ lên một tấm vải trắng với hình dáng không rõ ràng như một đống bùi nhùi, lộn xộn. Jared chợt nhận ra đó là chiếc xe của June, sau khi cảnh sát xử lý xong hiện trường vụ tai nạn, họ đã cho người chở chúng về đây. Suýt nữa thì Jared đã quên béng đi sự hiện diện của đống đổ nát đó.

    Đoạn, Jared tiến lại gần, gỡ bỏ tấm vải trắng phủ lên chiếc xe. Hư hại khá nặng, Jared nhận định. Nắp ca-pô hõm sâu vào một khoảng lớn, phần thanh cản đã bung rời ra, còn toàn bộ phần kính chắn phía trước buồng lái gần như đã vỡ tan tành. Jared tạm thời chưa biết mình sẽ làm gì với chiếc xe này, nhưng với ông, nó mang một ý nghĩa rất quan trọng. Jared chợt nhớ tới bóng dáng con gái mỗi khi nó lái xe về nhà, đỗ xịch trước khoảng sân nhỏ nằm dưới tán cây sồi. Cửa xe bật mở, June từ từ bước ra, con đã mười sáu tuổi nhưng có bao giờ Jared để ý tới điều đó. Từ ngày Jess trở lại Dallas, hầu như hai cha con không trò chuyện gì nhiều, họa chăng chỉ vài câu hỏi thăm qua loa vào thời gian ăn tối ngắn ngủi.

    Jared ngẫm nghĩ một chút, rồi sau đó, ông quyết định mang một số đồ nghề của mình ra. Do tổn hại nhiều chỗ nên Jared cần nhiều thời gian, thậm chí ông sẽ phải gọi người mang tới xưởng để sửa chữa những chỗ quan trọng, nhất là phần kính chắn phía trước phải thay mới hoàn toàn. Jared hy vọng một ngày, con bé có thể nhìn thấy nó khi tỉnh dậy.

    Thời gian trôi nhanh hơn Jared nghĩ, chẳng mấy chốc mà đã năm giờ chiều, ông sẽ tới bệnh viện vào sáng mai, tối nay ông nghỉ lại nhà. Nghĩ vậy, Jared chùi vội tay vào chiếc khăn trắng đã cáu bẩn. Ông vào nhà, bật đèn, đi thẳng vào căn bếp nhỏ.

    Jared mở tủ chạn lấy chai rượu rum đã lâu không dùng, chai rượu này được George biếu tặng vào tháng Tư năm ngoái. Jared rót ra nửa cốc, rồi uống cạn một hơi. Đã lâu không uống, Jared hơi nhăn mặt khi thứ chất lỏng cay xè đi qua cuống họng, trôi xuống dạ dày. Jared thở khẽ, một cảm giác ấm nóng lan tỏa khắp người, ông ngả lưng ra ghế bành, vẻ thư giãn.

    Một lát sau, Jared thấy bụng hơi cồn cào, có lẽ do uống rượu suông nên mới thế. Nhưng ông cũng chưa biết sẽ ăn gì. Trong lòng ông luôn có một khoảng trống hoác vô định mỗi khi nghĩ về hình ảnh hiện tại của con gái. Jared thừa nhận mình đã không chăm sóc tốt cho con, nên mới ra nông nỗi này. Jared luôn im lặng xuyên suốt cuộc nói chuyện với Jess dù bà ra sức trách móc ông, Jared hiểu tất cả chuyện đó đều xuất phát từ sự lo lắng cho con mà thôi.

    Giờ này có lẽ Richard đã trở về Dallas, Jared nghĩ. Công việc làm ăn của ông ta ở đó có vẻ khấm khá, nghe đâu còn mở thêm chi nhánh tại một số thành phố lớn ở khắp các bang từ Texas tới New Hampshire. Jess đã có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau khi rời khỏi Shadowfiled.

    Jared đột nhiên đứng dậy và thấy người hơi chếnh choáng. Ông đi về phía bệ bếp, rót một cốc nước lạnh. Jared ngửa cổ, tu một hơi cạn sạch, thấy tỉnh táo hơn đôi chút. Jared nhìn một lượt từ bếp ra phòng khách, mọi thứ vẫn được bài trí giống hệt căn nhà trong thị trấn mà trước đây họ đã từng ở. Lúc chuyển nhà tới đây, Jared cố tình sắp xếp như thế. Ông không biết chuyện mình đang làm có thực sự đem lại một ý nghĩa nào không, hay chỉ như đang níu kéo một thứ gì đó xa xôi trong quá khứ. Jared không cần biết, chỉ là ông không thể diễn tả bằng lời nói của mình. Đôi lúc Jared nghĩ, thứ gì đã biến một anh chàng tính tình hào sảng, phóng khoáng, đam mê tốc độ, từng là tay đua công thức I cự phách trở thành một người đàn ông thâm trầm, ít nói, ít bộc lộ cảm xúc ra bên ngoài, ngay cả với con gái mình. Hôn nhân, áp lực cuộc sống ư? Jared phủ nhận ngay. Bởi lẽ kết cục của gia đình họ là tất yếu; và việc của họ chỉ là chấp thuận mà thôi. Một tờ giấy để trên mặt bàn và chỉ cần hai chữ ký, vậy là xong! Nhưng mỉa mai thay, khi nghĩ về chuyện đó, giờ Jared chỉ thấy đau lòng.

    Đoạn, Jared tiến về chiếc máy cassette cũ mèm đặt trên tủ đứng nhỏ, nó đã bong tróc vài chỗ bên ngoài. Chồng đĩa CD vẫn để nguyên bên cạnh không suy suyển gì. Nếu trong căn nhà cũ thì vị trí đang đặt cái kệ này sẽ thuộc về chiếc dương cầm của Jess. Ngày bà ấy ra đi, nó cũng đã được chuyển về Dallas. Chỉ là một kỷ niệm thôi, Jared tự nhủ. Sau đó, ông miết nhẹ bàn tay thô kệch của mình lên chiếc máy, lên chồng đĩa. Jared nhắm mắt lại mường tượng, dường như ông có thể nghe được giai điệu nào đó đang vọng lại từ một chiếc đàn dương cầm. Ban đầu chỉ văng vẳng như thể âm thanh ấy lọt ra từ một quán bar kiểu cổ, khi ta ngẫu nhiên đi trên đường. Nhưng rồi chúng rõ dần thành những giai điệu hoàn chỉnh. Khi ấy, Jared thấy mình trở về thời điểm hơn ba năm trước, lúc họ vẫn còn là một gia đình.

    *

    Vào vụ thu hoạch, Jared dành phần lớn thời gian trong nông trại để đốc thúc những người làm thuê. Đôi khi còn phải ngủ lại đó với họ, công việc lúc nào cũng bộn bề.

    Hơn chín giờ, Jared lái xe một mình trên con đường tối thẫm, trở về căn nhà nhỏ. Đêm đã ập xuống, ánh đèn đường vàng vọt trải ra. Không khí thêm phần u buồn, duy chỉ có một vài địa điểm như một quán bar, quán cà phê âm nhạc là nhộn nhịp hơn hẳn. Tiếng nhạc xập xình quyện hòa với ánh đèn led đủ sắc màu. Jared chạy qua Blue Night và thấy gã Hippie đang cười đùa, tán tỉnh một cô gái tóc vàng hoe “lạc đường” nào đó. Shadowfield luôn chào đón những kẻ lạc đường. Jared chép miệng nói.

    Sau đó, Jared nhấn sâu chân ga, phóng nhanh về căn nhà nhỏ của mình. Về tới nhà thì đã gần mười giờ tối, Jared tắt máy, dừng xe. Trong không gian yên tĩnh, giai điệu bài Autumn Leaves của Daniel Kajmakoski nhẹ nhàng vang lên. Jared khẽ khàng mở cửa, ông không muốn gây ra tiếng động. Khi ấy, Jared nhìn thấy hình ảnh Jess bên chiếc đàn piano, từng ngón tay thon mềm thả nhẹ trên những phím đàn đen trắng một cách điêu luyện. Jess dường như không để ý tới không gian xung quanh, vì đang mải đắm chìm trong giai điệu của riêng mình. Jared cứ đứng đó nhìn Jess cho tới khi bản nhạc kết thúc. Không gian chợt im lìm. Jess đi vào phòng ngủ, tắt đèn. Jared bèn đóng cánh cửa lại, rồi lặng lẽ đi ra ngoài.

    Jared định trở lại nông trại, nhưng thiết nghĩ người làm công giờ này đã ngủ hết. Vả lại, ông không muốn làm phiền ai trong khoảnh khắc này. Cuối cùng, Jared phóng thẳng tới Blue Night. Con phố nhỏ dài hun hút, tối tăm, quán vẫn sáng đèn. Jared đẩy cửa bước vào, chiếc chuông gắn trên cửa kêu leng keng báo hiệu có khách. Một gã lang thang có vóc người to lớn, râu tóc rối bù ngoái đầu lại nhìn Jared với ánh mắt vô cảm, sau đó gã trở lại với ly scotch của mình.

    Jared cởi áo khoác ra mắc lên trên giá để ở góc phòng. Jared tiến thẳng về phía quầy, chỗ gã Hippie đang chăm chú đọc một cuốn tạp chí về bóng chày.

    “Chào Aiden, cô gái tóc vàng hoe ‘lạc đường’ khi nãy của cậu đâu rồi?”

    Jared lên tiếng bông đùa. Aiden là tên thật của gã Hippie. Nó có nghĩa là ngọn lửa nhỏ theo quan niệm xa xưa của người Celt trong thần thoại Celtic.

    “Chào Jared, sao cậu biết hay vậy?” - Gã Hippie ngạc nhiên hỏi lại, tiện tay lẳng cuốn tạp chí qua một bên, cuốn tạp chí không đặt lại đúng chỗ mà rơi thẳng xuống sàn nhà. Gã cũng không buồn nhặt lên.

    “Nãy từ nông trại về tôi có nhìn thoáng qua đây và thấy.” - Jared đáp, ngồi xuống chiếc ghế cao đặt cạnh quầy.

    “Vẫn như cũ chứ?” - Gã Hippie hỏi Jared, đồng thời với tay lấy đồ pha chế để trên giá.

    “Một cocktail Caipirrinha như mọi lần thôi.” - Jared đáp gọn lỏn.

    Gã Hippie cười không nói gì, sau đó gã chú tâm vào việc pha chế rượu.

    “Của cậu đây, Jared.” - Gã nói, đẩy ly cocktail Caipirrinha trứ danh của Brazil ra trước mặt Jared.

    Jared nói cảm ơn gã, rồi đưa môi nhấp khẽ một ngụm nhỏ. Jared cảm thấy người như sảng khoái, thư giãn hơn.

    Những giai điệu của Elvis Presley vẫn dìu dặt vang lên. Jared chợt nhớ lại chuyện cũ, vào cái lần mà ông đã tỏ tình với Jess tại đây. Lần đó, đúng là Jared có hơi ngượng ngùng thật! Thời gian trôi quá nhanh, đôi khi Jared chẳng còn nhận ra mình mỗi khi soi gương nữa, gương mặt có phần già nua và ánh mắt thì mệt mỏi. Phải chăng thời gian là thủ phạm đã gây ra sự biến đổi trong cuộc sống này? Mọi thứ đều biến đổi.

    “Có chuyện gì sao Jared, sao cậu lại ở đây giờ này?” - Gã Hippie nhìn Jared với vẻ mặt hết sức tò mò.

    “Không có gì, chỉ là... vài chuyện vặt vãnh trong trang trại với mấy tay làm thuê láu cá thôi. Cậu biết đấy, đó là vấn đề chung của những người làm chủ ở Shadowfield mà.” - Jared cố gắng nở một nụ cười đúng nghĩa, và ông cho rằng gã Hippie chẳng thể hiểu những gì mình đang nói, những tay chủ quán bar có bao giờ biết chút gì về việc ở trang trại đâu.

    “Jess sao rồi? Đã lâu tôi không thấy cô ấy?”

    Gã Hippie vẫn không buông tha, Jared cảm thấy hối hận đôi chút khi mình đã bước vào đây. Nhưng thiết nghĩ cũng chẳng nơi nào chứa chấp Jared vào giờ này, dù gì gã Hippie cũng là bạn của hai người.

    “Jess dạo này thường xuyên ở nhà, và... như cậu biết đấy, làm mấy việc ca hát, âm nhạc của cô ấy, rồi còn phải chăm sóc cho June nữa, con bé mười ba tuổi, cậu biết thừa là những chuyện gì dễ xảy ra ở độ tuổi này mà. Tôi cũng không muốn làm phiền, nên thường chú tâm vào chuyện làm ăn ở nông trại hơn...” - Jared ngập ngừng trong thoáng chốc. Tránh cái nhìn trực diện của gã Hippie, ánh mắt Jared chuyển hướng xuống ly cooktail màu trắng đục đã vơi đi một nửa của mình.

    Gã Hippie im lặng, ra chiều ngẫm nghĩ. Mắt gã lơ đãng lướt trên những bóng đèn neon đủ ánh sáng xanh đỏ phía trên đầu.

    “Tôi nghĩ là cậu và Jess cần nói chuyện với nhau nhiều hơn, Jared à!” - Sau cùng, gã nói.

    Một câu vô thưởng vô phạt nhưng chẳng hiểu sao lại khiến Jared phiền lòng như thế. Họ đã không có cuộc nói chuyện thẳng thắn nào trong thời gian gần đây, họ đã tránh mặt nhau. Bận tối mắt tối mũi cả ngày ở nông trại thì lấy đâu ra thời gian để chuyện trò chứ, Jared suy nghĩ như một sự mỉa mai chính bản thân mình. Nhưng dù gì nó chỉ là cái cớ, hình ảnh của Jess bên cây đàn dương cầm như ám ảnh tâm trí Jared mãi không thôi. Jared hiểu rằng, một phần tâm hồn Jess nằm bên trong những giai điệu và bản nhạc của bà. Jess khao khát về một thời quá vãng, nó luôn âm ỉ cháy bên trong bà, chỉ chờ ngày để bùng cháy trở lại. Jared chẳng biết đó là ngày nào khi vẫn cứ ngồi đây và mơ mộng về những tháng ngày đã qua. Con người ấy đã chết - con người của nhiệt huyết, hào sảng, của tốc độ đã chết. Jared chẳng thể sống lại những năm tháng tuổi trẻ của mình thêm lần nữa sau tai nạn năm đó. Nhưng Jess thì hoàn toàn có thể, bà ấy hoàn toàn có thể sống lại với con người của chính mình.

    “Cho tôi thêm một ly nữa được không Aiden, nhưng lần này là Tequila nhé!” - Jared quay sang phía gã Hippie với ánh mắt gần như khẩn cầu. Jared chẳng thể che giấu gì được nữa.

    Gã Hippie chẳng nói chẳng rằng, rót ra một ly Tequila, loại ly một shot.

    “Cậu có cần uống đúng cách không?” - Gã Hippie hỏi, nghĩa là cần thêm chanh và muối hay không. Đó là cách để thưởng thức một ly Tequila đúng nghĩa.

    “Không cần.” - Jared lắc đầu nói, rồi tống thứ rượu màu ngà ngà vàng, cay xè vào thẳng trong cuống họng. Ông cảm thấy một vị cay nồng như thiêu đốt cổ họng và khoang bụng của mình. Đã lâu rồi Jared không thử uống một ly rượu mạnh như thế này. Nhưng Jared thây kệ, đêm hẵng còn dài.

    “Cậu ổn chứ Jared?” - Gã Hippie tiếp tục hỏi, giọng hết sức quan tâm.

    Lúc này trong quán chẳng còn ai. Gã râu tóc bù xù ban nãy đã biến mất không dấu vết, hệt như một bóng ma.

    “Uống với tôi vài ly được không Aiden, cũng đã lâu rồi chúng ta không uống với nhau, phải hơn nửa năm rồi ấy chứ. Hôm nay tôi muốn say một trận.” - Jared đưa ra lời đề nghị.

    Gã Hippie nhìn Jared tần ngần hồi lâu với vẻ mặt ái ngại.

    “Được thôi...” - Gã nói. - “... Nếu chuyện đó làm cậu cảm thấy ổn hơn. Tôi sẽ chiêu đãi cậu một chầu ra trò vào đêm nay. Blue Night luôn đón tiếp những kẻ không thích ngủ mà.”

    Gã cười khẩy, sau đó lấy thêm một chai whisky ngô từ trên giá xuống. Gã rót ra hai chiếc cốc cỡ lớn. Một gã cầm, một đưa cho Jared.

    “Cho những phiền muộn và... cho tuổi trẻ.” - Gã giơ cốc rượu sóng sánh thứ ánh sáng vàng sậm phản chiếu với đèn neon ra trước mặt; và gã nói với thứ ngôn ngữ có phần văn hoa.

    Jared cũng làm theo tương tự.

    “Cho hai người đàn ông đơn độc bậc nhất Shadowfield.” Jared pha trò, chạm mạnh vào ly của gã Hippie, khiến rượu sánh ra ngoài một chút.

    Jared tu một hơi dài, gần cạn ly, thứ chất lỏng này không còn khiến ông cảm thấy chếnh choáng như ban đầu nữa. Chỉ là, ông càng cảm thấy lòng mình trở nên trống rỗng mà thôi.

    Nhạc đã tắt từ bao giờ. Giữa đêm khuya thinh lặng và tăm tối, cả thị trấn nhỏ vẫn chìm sâu trong giấc ngủ!

    *

    Chuông đồng hồ điểm đúng bảy tiếng. Jared tỉnh dậy, thấy mình đang nằm trên ghế bành, toàn thân đau nhức. Đèn vẫn bật, cả không gian nhuốm một màu vàng nhàn nhạt, bẩn thỉu. Đồ đạc trong cảnh tranh tối tranh sáng hiện ra có phần trừu tượng hơn.

    Jared thấy hơi váng đầu, có lẽ do ly rượu rum ban nãy. Jared ngồi thẳng dậy, tay day trán cho tới khi chúng tấy đỏ. Jared sang tủ thuốc lấy mấy viên aspirin để uống, nhưng lát sau vẫn không thấy ổn lắm. Jared nghĩ mình cần tắm rửa, ăn gì đó rồi đi ngủ một giấc.

    Ngày mai hãy còn dài và nhất là những thách thức vẫn còn ở phía trước. Ai cũng có “cuộc chiến” của riêng mình. Ngay cả cha của Jared, trước khi lìa đời, cũng chưa từng thôi chiến đấu cho bản thân mình hay cho những người khác. Điều đó luôn làm cho những người bạn như lão George tự hào. Jared nghĩ vậy, và ông cảm thấy bản thân nhẹ nhõm hơn đôi chút. Jared ngầm hiểu rằng, cả ông và Jess đều đã có những lựa chọn của riêng mình, đã từng có những khoảng thời gian quá khứ đẹp đẽ. Nhưng khi ngoảnh nhìn lại, quá khứ đã cách một khoảng khá xa đủ để thấy một bức màn đã được dựng lên, và đang ngăn trở mọi thứ. Jared nhận thấy mình cần thỏa hiệp với nó, để ông có thể trở về với hiện tại của mình. Rất có thể trong suốt những năm tháng sau cuộc hôn nhân đổ vỡ, “người đàn ông” trong Jared đã chọn một “cuộc sống tạm” với những ti tiện, ích kỷ. Vậy nên giờ đây, Jared cần trung thực với chính mình. Jared chợt nghĩ tới June, hình ảnh con gái cầm cọ vẽ hay tự bước xuống từ chiếc xe mà nó lái, Jared như thấy vững lòng hơn.

    Jared nghĩ vậy, rồi đi thẳng vào nhà tắm. Một lát sau chỉ còn nghe thấy tiếng xả nước vào bồn, tiếng xả nước trên cơ thể, hoặc nếu lắng nghe kỹ thì chỉ là một tiếng động kỳ lạ phát ra từ những cánh đồng tối thẫm vọng tới.

    Tắm táp xong xuôi, Jared kiểm tra tủ lạnh xem còn thứ gì ăn được không. Hầu hết những đồ tươi như rau củ và trái cây đều đã bốc mùi. Ông thẳng tay liệng chúng vào sọt đựng rác, chỉ còn vài món đồ hộp là có thể dùng được. Jared mở một hộp cá mòi và đào đóng hộp, ăn với vài lát bánh mì nho đã trở nên khô cứng.

    Chuông điện thoại réo lên từng hồi, buộc Jared bỏ dở hộp cá, chạy lại phía bàn cầm chiếc điện thoại lên. Suốt cuộc trò chuyện ngắn ngủi, ông chỉ trả lời những từ ngắn gọn như “được rồi”, “tôi hiểu” và kết thúc bằng câu “tôi sẽ đi ngay”. Sau đó, Jared cúp máy, khoác vội chiếc áo mới, nhanh chóng xỏ giày vào chân. Y tá vừa gọi báo tình hình của June, nên Jared phải đi ngay bây giờ, không thể chậm trễ được.

    Jared mở khóa, sang số rồi nhấn sâu chân ga, phóng thẳng về phía thị trấn trong đêm tối mịt mùng.
     
  11. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG IX

    LINH HỒN VÀ THỂ XÁC
    Đám mây trắng xốp tan dần, mọi thứ hiện rõ hơn. June đột ngột thắng gấp, suýt nữa thì Gavin đã đâm sầm vào nó. June quay đầu lại trêu ngươi cậu, sao chậm như rùa bò vậy Gavin? Nó đắc chí phóng vút về phía trước. Sao mình lại có thể thua kém cậu được chứ! Gavin trộm nghĩ.

    “Đợi đấy June!” – Gavin la lớn như muốn thách thức June.

    Cậu nhấn sâu chân ga tăng tốc, chiếc xe hơi mất dạng.

    June chẳng nghe thấy gì, dù loáng thoáng một chút. Nhưng nó chắc mẩm, Gavin đang muốn nói gì đó. Nó thắng phanh lần nữa, rồi từ từ quành lại, chiếc xe hơi chao đảo. Lánh ra khỏi những tảng mây xốp dày, xám xịt, nhưng lúc này June chẳng thể thấy Gavin đâu. Có lẽ cậu ấy lại lạc đường nữa rồi.

    Đoạn, June quyết định cho xe chạy chầm chậm, từ từ. Mây tan dần, cho tới khi quang hẳn. Khung cảnh của vùng đất rộng lớn dần dần hiện rõ hơn. June ngoái đầu lại sau thì phát hiện mình đã bỏ xa mặt biển. Những vách đá chỉ còn là chấm nhỏ li ti. Nó cũng không còn nghe thấy tiếng sóng nữa, chỉ có gió rít bên tai. Mình đã đi được xa thế sao, June thầm nghĩ. Tiến một đoạn nữa thì không còn dấu hiệu của mặt biển. Cảnh trí lùi dần về phía sau. Phía dưới mặt đất, mọi thứ đang bắt đầu biến đổi.

    June thấy vậy bèn gạt cần xuống (chiếc cần này được nó thêm vào xe với chức năng nâng lên hay hạ xuống). Chiếc xe xuống gần mặt đất hơn, giờ đây nó có thể nhìn rõ hơn mọi thứ.

    Một con đường rộng lớn, rải nhựa đâm thẳng về phía chân trời xa tắp. Hai bên đường, những ngôi nhà theo lối kiến trúc cổ, san sát mọc lên thành dãy, thẳng đều tăm tắp. Cửa chính sơn màu xanh vẫn đóng im lìm. Có lẽ chẳng ai sống trong đó cả. June liên tưởng tới hình ảnh những thị trấn bị bỏ hoang ở Ba Lan trong thời kỳ phát xít Đức chiếm đóng. Nó rẽ trái, vòng ra phía sau.

    Cánh đồng rộng lớn trải ra, giống như vùng nông trại ở thị trấn Shadowfield. June hạ xuống thấp hơn, gần như chiếc xe có thể chạm vào ống khói của mái nhà. Những đốm nhỏ xíu màu tím xuất hiện trên cánh đồng xanh thẫm. Nheo mắt nhìn thật kỹ, June biết được, đó là hoa cây thạch nam. Loại cây dại thường mọc ở nơi không canh tác. Những đốm tím xuất hiện nhiều dần, chúng mau chóng lan ra, phủ kín cả cánh đồng rộng lớn. Khung cảnh này rất đỗi quen thuộc. Nhưng tạm thời June không thể nhận ra là mình đã từng thấy đâu đó.

    Điểm tô giữa bức tranh màu tím nhạt trong hơi sương nhờ nhờ của ban mai. Vài cái cây lớn trông như cây tuyết tùng cũng từ từ mọc lên, tán rộng rợp bóng. Nhìn về phía dãy núi, những tia sáng ló rạng, chẳng mấy chốc tỏa ra, bao phủ khắp cả không gian xung quanh. June không ngừng thắc mắc, vài câu hỏi cần lời giải đáp ngay bây giờ.

    Chuông nhà thờ chợt ngân lên từng tiếng. June giật thột mình quay lại. Tiếng chuông bắt nguồn từ thị trấn. Rõ mồn một bên tai, nó nghe thấy đâu đó, dọc khắp các con đường, dãy nhà cổ, tiếng bước chân lạo xạo, như từng dòng người đang đổ về nhà thờ vào ngày Chủ nhật. Có lẽ họ đang đi cầu nguyện. June quành xe lần nữa, bỏ lại sau lưng khung cảnh mặt trời mọc tuyệt đẹp, mà nó vẫn chưa thể giải đáp. Sự kỳ lạ nối tiếp nhau khiến nó không thôi tò mò.

    Chiếc xe đáp xuống mặt đường trơn ướt. June cho xe chạy chầm chậm. Tiếng chuông vẫn ngân vang lên từng tiếng. Đi hết con đường lát đá, June chẳng thấy bóng dáng con người nào tồn tại ở đây cả. Tiếng bước chân ban nãy cũng không còn. Phải chăng tất cả chỉ là ảo giác thôi! June đi tiếp. Tiếng chuông nhà thờ nhỏ dần, rồi cuối cùng thì im bặt.

    Đi thêm được đoạn, June phát hiện ra một căn nhà khá lớn nằm tách biệt so với khu phố liền kề. Kiểu nhà này dễ nhận thấy ở vùng ngoại ô Shadowfield, có bãi cỏ, sân vườn, xích đu... thậm chí cả một nhà kho lớn dùng để chứa đồ cũ. Khi họ chia tay nhau, bố Jared đã chuyển nhà về khu đó.

    June lái xe đi thẳng vào bãi cỏ xanh mướt, nó đứng tần ngần trước căn nhà gỗ nhỏ. Một cảm giác thân thuộc sượt qua người nó, nhưng tiếc rằng chúng chẳng hề rõ ràng. June cố gắng tập trung suy nghĩ, rồi cuối cùng nó quyết định thử bước vào căn nhà xem sao.

    Nó đi thẳng lên bậc tam cấp dẫn lên thềm nhà làm bằng gỗ. June đẩy vào, chiếc chuông nhỏ gắn ở cửa kêu leng keng. Âm thanh thật vui tai! June thầm nghĩ rồi đi thẳng vào trong. Đồ đạc chẳng nhiều nhặn gì. Ngoài bộ ghế sofa cũ kỹ đặt giữa phòng khách, phía bên dưới là một tấm thảm dày mang họa tiết boho bắt mắt. Một gian bếp nhỏ có thể dễ dàng nhìn thấy từ đây, đồ đạc để ngăn nắp gọn gàng. Bộ dao, thớt treo ngay ngắn trên tường, tủ chạn nhỏ xinh xắn, bên cạnh là một tủ đựng thuốc dán hình chữ thập đỏ. Ắt hẳn chủ nhân của ngôi nhà này phải là một người tinh ý lắm.

    June tò mò muốn khám phá ngôi nhà thêm. Nghĩ vậy, nó bước tiếp lên phía hành lang gỗ. Tiếng cọt kẹt vang lên sau mỗi bước chân. Một căn phòng với cửa màu cánh gián, nắm đấm cửa màu đồng đã bong tróc. Trên cánh cửa, tấm bảng được in ngay ngắn dòng chữ: “Không phận sự miễn vào.” Hơi chần chừ đôi chút khi đặt tay lên nắm đấm cửa, nhưng cuối cùng June vẫn quyết định đi vào. Nó không nghĩ rằng, mình đang xâm phạm quyền riêng tư của bất cứ ai trong chính thế giới do mình làm chủ.

    Căn phòng khá tối, June thử tìm công tắc để bật đèn nhưng không có. Trong khung cảnh tranh tối tranh sáng, June vẫn nhận ra cách bài trí này. Chiếc giường nhỏ với ga trải giường màu xanh vintage. Những bức tranh dán chằng chịt trên khắp bức tường, hay ảnh của một vài ngôi sao nhạc đồng quê như Johnny Cash, Carrie Underwood... June tiến lại gần hơn những bức ảnh, nhưng mọi thứ mờ nhòa dần khiến nó không nhìn rõ.

    Một lát sau, June quyết định đi ra khỏi căn nhà sau khi đã tìm hiểu. Hơi có chút bất thường, tuy nhiên chẳng có gì phải sợ hãi những thứ này cả, huống chi chúng lại còn mang cảm giác thân thuộc nữa.

    June lái xe ra con đường phía trước mặt. Con đường dẫn June ra một quảng trường khá rộng. Giữa quảng trường một tượng đài được dựng lên, phía dưới chân là những đóa hồng trắng đã héo úa. Đó là một người đàn ông, với bộ râu khá rậm, miệng ông ta ngậm một tẩu thuốc. Vẻ mặt cao ngạo hơi ngước về phía bầu trời.

    June bước xuống xe, tiến lại gần bức tượng, sờ thử, một cảm giác lạnh lẽo chạy dọc cánh tay. Những thứ đang hiện hữu ở đây vừa mang lại cảm giác thân thuộc, vừa xa lạ. Nó thấy mình như đang đứng trước một màn sương mờ ảo, dẫu có giơ tay ra phía trước nhưng chẳng thể chạm vào. June bước đi tiếp. Phía sau tượng đài là những lùm cây dẻ sum suê, hoa nở màu trắng. Nó nhớ, mùa hoa dẻ ở Shadowfield thường bắt đầu vào tháng Chín.

    June bước qua hàng cây dẻ xuống một con đường nhỏ. Rồi đi tiếp về bên trái. Một khoảng sân hình tròn xuất hiện, giữa khoảng sân là đài phun nước nhỏ có đặt tượng Đức Mẹ đang ôm Chúa Hài Đồng vào lòng. Tượng được dựng lâu ngày nên dấu vết của thời gian in hằn lên trên nó, tạo cảm giác cũ kỹ và hoài niệm.

    Cánh cửa trước nhà thờ đóng chặt. June tiến tới, thử đẩy cửa. Cửa không hề khóa. Nó đẩy khẽ, tiếng két lớn vang dài trong không gian yên ắng. Nó quét ánh mắt một lượt. Nhà thờ được mô phỏng theo lối kiến trúc điển hình của nhà nguyện Sistine, nhưng quy mô nhỏ hơn. Nó nhớ đã đọc đâu đó trong một cuốn sách.

    June bước vào, từng hàng ghế được sắp đều, tăm tắp, bụi phủ kín mặt ghế vì lâu ngày không được lau chùi.

    Trên bức tường, những chiếc đế đựng nến vẫn còn vài cây nến cháy dở, sáp khô đọng lại, tràn ra cả phía ngoài. Lối kiến trúc Gothic là sự chuyển tiếp giữa kiến trúc La Mã và kiến trúc Phục Hưng, với những phần khung vòm nhọn, có sườn chống đỡ khung vòm trên trần nhà. June ngước lên trên, một bức tranh khổng lồ với những hoạt cảnh khác nhau của Thiên đàng và Địa ngục, câu chuyện về sự Sáng thế hay sự kiện con người bị Chúa Trời đuổi ra khỏi vườn Địa Đàng... Điểm nhấn của nhà thờ có lẽ là những khung cửa sổ đầy sắc màu xanh tím đan xen, nó luôn cảm thấy thích thú mỗi khi tới nhà thờ Shadowfiled vào ngày Chủ nhật. Nó nhớ, đã từng dành hàng giờ để ngắm những ô cửa đầy sắc màu ấy.

    June từ tốn ngồi xuống băng ghế sau cùng; và cảm thấy bình yên trong không gian này. Nhìn lên những ô cửa sắc màu một lần nữa, June bỗng nhận ra, tất cả sự biến đổi này đều không phải do nó tạo ra trực tiếp. Chúng hình thành gián tiếp qua những bức tranh mà nó từng vẽ, hay những bức tranh nó đốt thành tro bụi. Tất cả, một lần nữa được tái hiện tại đây. Từ cánh đồng hoa thạch nam, khu phố cổ được xây dựng ở Shadowfield từ những năm 1840, quảng trường nhỏ hay nhà thờ trung tâm này.

    Tiếng sấm rền đột ngột cắt ngang dòng suy nghĩ của June. Nó vội vàng đứng dậy, đẩy toang cánh cửa nặng trịch, chạy nhanh ra bên ngoài. June nhận ra bầu trời đang chuyển màu. Khoảng trời xanh dần dần bị xâm chiếm bởi những đám mây đen kịt đang ùn ùn kéo về từ mọi phía.

    Nó ba chân bốn cẳng chạy về phía con đường nhỏ, băng qua hàng cây dẻ, tới được quảng trường. Một lằn chớp xanh lè, ngoằn ngoèo rạch ngang bầu trời. Sấm tiếp tục rền vang khiến mặt đất rung chuyển. June đột ngột khụy xuống, theo phản xạ nó bèn ôm lấy đầu. Nhưng nhận ra không có gì nguy hiểm cả, chỉ là hiện tượng tự nhiên thôi, nó tự trấn an mình, rồi tiếp tục chạy.

    Lúc này June đã tới được chỗ để xe. Nó vặn khóa, sang số rồi nhấn ga, không quên gạt cần bay. Chiếc xe từ từ bay lên, nó nhấn sâu chân ga. Xe lao vút về phía nền trời xám xịt. Mải mê vì những khung cảnh quen thuộc ban nãy, mà June đã quên béng đi Gavin. Cậu ấy đang ở đâu? June tự hỏi.

    Bay lên phía trên những tầng mây, nhưng không gian vẫn mịt mù. June không tài nào xác định được phương hướng. Phóng qua đám mây này tới đám mây khác, khiến June chán nản thực sự. Nó gào to tên Gavin đến khản cả cổ, nhưng tiếng gió rít mạnh át cả tiếng của nó. Vô ích thôi! June hạ xe xuống thấp hơn, dưới mặt đất, từng đám bụi cuốn trong không khí, tung mù mịt. Theo đó những khu phố biến mất, con đường lớn chạy thẳng về phía chân trời cũng không còn. Cánh đồng hoa thạch nam, quảng trường, nhà thờ... cũng chìm nghỉm giữa đống hỗn độn ấy. Một lần nữa, June gạt cần bay lên. Nó quay ngoắt 180 độ, chiếc xe quay vòng, vật lộn giữa trận cuồng phong. June bực dọc, thế giới này chẳng tồn tại một cái la bàn sao. Nó liên tiếp đập tay trên bản đồ tọa độ điện tử, nhưng vô ích.

    June phóng thẳng về phía trước với tốc độ lớn. Nó không nghe thấy gì ngoài tiếng gió rít mạnh bên tai mình. Nó hy vọng thoát khỏi trận bão này.

    “RẦM.”

    ***

    Jared phóng nhanh trên con đường tối thẫm hướng vào thị trấn. Đầu vẫn đau như búa bổ nhưng ông thây kệ, hai bàn tay trơn ướt vì mồ hôi vẫn nắm chặt lấy vô lăng. Mười lăm phút sau, Jared đã có mặt ở bệnh viện. Ông lao ngay tới khu vực cấp cứu, Jess đang ngồi ở hành lang. Gương mặt bà tỏ rõ sự lo lắng và sợ hãi.

    “Con bé làm sao vậy?” – Jared hỏi.

    Lúc này Jess mới nhận ra sự hiện diện của Jared. Bà nhìn ông trân trân một hồi lâu, không trả lời, như thể bà không nhận ra Jared là ai nữa.

    Jess mệt mỏi thực sự, bà bưng hai tay lên mặt như muốn khóc. Jared lặng lẽ ngồi xuống cạnh bà an ủi.

    “Con bé sẽ ổn mà, bác sĩ đã nói sao?” – Jared cố gắng trấn an Jess.

    Bà lên tiếng, giọng có chút nghẹn lại.

    “Em không biết, ban nãy cơ thể con có hiện tượng co giật, nhịp tim tăng cao đột ngột. Em gọi bác sĩ, rồi họ vội đưa con bé vào phòng cấp cứu ngay.”

    Jess nói, bà đã cố gắng chạy theo hỏi. Nhưng những gì nhận lại chỉ là sự lắc đầu, từ chối của y tá.

    “Không có chuyện gì xảy ra đâu đúng không Jared?” – Jess hỏi.

    Jared im như phỗng. Ông không thể nói gì, dẫu chỉ một câu an ủi. Jared nắm lấy bàn tay đang trở nên trơn ướt của Jess. Thứ duy nhất họ làm được lúc này chỉ là chờ đợi mà thôi.

    Jess thi thoảng nhìn trân trân vào bức tường màu be lợt lạt phản chiếu với thứ ánh sáng nhờ nhờ nơi hành lang. Họ không vào phòng chờ như mọi khi, nên ngồi thẳng trước cửa khu cấp cứu. Đôi khi Jess nhìn vào khung cửa, dù bà chẳng thể nhìn rõ được gì. Bóng dáng bác sĩ và y tá đi lại tới lui trong gian phòng chỉ khiến Jess thêm bồn chồn mà thôi. Vài tiếng ỉ ôi trong căn phòng đối diện của những bệnh nhân khác càng khiến bà bực dọc thêm. Jess nhìn đồng hồ, đã gần một tiếng trôi qua mà chưa có động tĩnh gì.

    Cửa phòng ngoài bật mở. Vị bác sĩ đi ra cùng hai người y tá khác. Ông tháo bỏ khẩu trang. Đó là bác sĩ Bracher – người đã thực hiện cuộc đại phẫu lần trước cho June.

    “Hai người đi theo tôi.” – Ông ấy cất tiếng với giọng điệu bình thản như mọi lần.

    Cả hai theo ông lên phòng 210 như lần trước. Nghe rõ từng bước chân nặng nề của mình, Jess thấy lòng chùng xuống. Bà thầm nhủ, có lẽ chuyện không hay sẽ xảy ra chăng?

    Bác sĩ Bracher mở cửa, cả ba bước vào phòng. Ông yêu cầu hai người ngồi xuống chiếc bàn thấp kiểu Nhật. Bên trên đặt một bộ ấm trà làm bằng gốm, được chạm trổ khá tinh xảo. Có lẽ ông ấy đang cố gắng tỏ ra thân thiện hơn, nhưng những cử chỉ này càng làm Jess thêm bồn chồn mà thôi. Bà cố nuốt nước miếng vài lần, nhưng cổ họng khô khốc, nghẹn ứ lại và đắng ngắt. Jess và Jared cùng ngồi xuống.

    “Hai người dùng trà hay một chút cà phê cho tỉnh táo?” – Bracher lịch sự hỏi.

    “Không cần đâu. Ông cứ dùng tự nhiên.” – Jess bèn nói.

    Bracher chưa vội nói gì. Ông đi thẳng về phía máy pha cà phê sẵn, rót ra một cốc. Ông ngồi xuống trước mặt hai người, từ tốn uống, trước khi bắt đầu vào câu chuyện. Jess thấy lòng mình như lửa đốt, nhất là trước sự điềm tĩnh của vị bác sĩ mà bà cho là có phần hơi thái quá này. Nhưng Jess vẫn tôn trọng ông và giữ sự im lặng cần thiết.

    “Con bé thế nào rồi bác sĩ? Có chuyện gì đã xảy ra? Tại sao lại đưa nó vào khu vực cấp cứu?” – Jared hỏi dồn, ông hơi mất bình tĩnh.

    “Đã xảy ra hiện tượng co giật, nhịp tim tăng cao bất thường ở bệnh nhân. May mà chúng tôi được thông báo kịp thời, nên đã không để chuyện gì đáng tiếc xảy ra cả.” – Bracher thông báo với giọng điệu đều đều như cái máy.

    Jess thở phào nhẹ nhõm trong lòng, như trút được thứ gì đó đè nặng mình lúc trước. Nhưng thật lạ, bà thắc mắc, tại sao bác sỹ Bracher không thông báo ngắn gọn với hai người luôn tại tầng dưới mà phải lên tận phòng ông.

    “Cảm ơn ông.” – Jared nói.

    “Tuy nhiên... Bracher nói, giọng có chút ngập ngừng... có một chuyện khá hệ trọng đã xảy ra. Vậy nên, tôi mới đích thân mời hai ông bà lên đây để trò chuyện. Đúng hơn là... nó giống như một quyết định vậy.”

    Vậy là đã rõ, Jess thấy tim mình thắt lại. Bà chợt thấy ngột ngạt và khó thở. Linh tính mách bảo, bà đã đúng phần nào.

    “Một quyết định nghĩa là sao hả bác sĩ?” – Jared bèn hỏi.

    Bracher nhấp thêm một mụm cà phê nữa. Ông thực hiện động tác tháo kính ra khỏi mặt, khẽ đặt xuống bàn. Đôi mắt xanh xám vẫn nhắm nghiền, ông dùng một tay day day hai bên thái dương. Có lẽ chính bản thân ông cũng cảm thấy khó khăn khi nói ra quyết định này. Jess chẳng muốn nghe nữa, bà muốn chạy ngay ra khỏi căn phòng tù túng này. Những ý nghĩ tiêu cực khiến bà chết lặng, bởi lẽ bà nghĩ rằng, giờ đây chẳng có lời nguyện cầu nào có thể trở thành hiện thực.

    “Chắc hẳn ông bà đã từng đọc một chút ít thông tin về bệnh hôn mê thực vật rồi đúng không?” – Bác sĩ Bracher hỏi, như thể trong cung cách nói chuyện của họ luôn bắt đầu bằng những câu hỏi như thế, trước khi đi vào vấn đề một cách sâu hơn.

    Jared gật đầu, nhưng không nói gì thêm.

    Bracher bèn nói tiếp:

    “Tình trạng hiện giờ của June không có gì nguy hiểm tới tính mạng. Tuy nhiên, một vấn đề khác lại tiếp tục nảy sinh mà trong y học hiện nay, chúng tôi vẫn chưa thể tìm ra câu trả lời. Tình trạng hôn mê thực vật của June có thể sẽ kéo dài thêm một thời gian nữa... Và chúng tôi cũng không chắc chắn rằng con gái ông bà khi nào sẽ tỉnh lại. Ông bà biết, có trường hợp bệnh nhân bị hôn mê thực vật, sau nhiều năm mới có thể bình phục.”

    Như sét đánh ngang tai, bà câm lặng vì chẳng nói được gì, cố gắng kìm nén cơn xúc động của mình lại, trước khi bật khóc thành tiếng. Bất giác, bà nắm chặt lấy một bàn tay của Jared. Ông liếc nhanh sang Jess vẻ ngạc nhiên nhưng không nói gì.

    “Không còn cách nào sao bác sĩ?” – Jared lại hỏi.

    “Cũng không hẳn. Về phía bệnh viện, chúng tôi đang thử liên hệ với một số cơ quan chức năng, bệnh viện tuyến trên hay xin ý kiến của một số chuyên gia đầu ngành để xem họ có thể giúp gì được không?”

    Bracher nói thêm, về những thành tựu mới của nền y tế thế giới hiện nay, nên họ sẽ đề ra những phương pháp hay một liệu trình điều trị mới.

    “Vậy quyết định ở đây là gì hả bác sĩ? Chúng tôi sẽ phải quyết định điều gì?”

    Jess cuối cùng cũng lên tiếng, bà tỏ rõ bực bội trước sự không dứt khoát của Bracher. Bà chẳng biết sự thành ý ở đây nghĩa là gì, trong thâm tâm bà, những hy vọng dường như bay biến mất.

    Bracher chưa vội nói, ông trầm ngâm suy ngẫm, trán nhăn lại, lấm chấm vệt mồ hôi.

    “Ông bà phải quyết định xem, sẽ để June tiếp tục sống trong tình trạng hôn mê thực vật hay sẽ dừng lại.” – Bracher dứt khoát.

    Dừng lại ư? Những âm thanh bùng nhùng bên tai Jess. Bracher đang nói cái quái gì đây. Không thể nào, Jess lắc đầu nguầy nguậy, không thể nào!

    “Không thể...” – Jared lên tiếng, vẻ như kiên quyết. – “... Chúng tôi sẽ không bỏ cuộc đâu. Vậy nên các vị hãy sẵn sàng cầu cứu bất cứ nơi nào đi. Bất cứ nơi nào các vị nghĩ là có thể.” - Jared nhấn mạnh thêm lần nữa.

    “Tốt thôi! Chúng tôi tôn trọng ý kiến của hai người. Chúng tôi sẽ thông báo cho hai vị khi có thông tin mới nhất. Và... sẽ phải chờ đợi thêm.” – Bracher nói rồi ông đứng dậy ngay. Cuộc trò chuyện kết thúc.

    “Cảm ơn ông, Bracher.” – Jared đứng dậy chìa tay bắt.

    Sau đó, ông đỡ Jess đứng dậy. Họ rảo từng bước chân nặng trịch để trở về phòng bệnh.

    Jess khóc nức nở sau khi bước ra khỏi phòng, người bà run lên bần bật. Bà không thể kìm nén sự xúc động của mình nữa. Jared đỡ bà về phòng bệnh. Ông nhìn đồng hồ, đã hơn 8 giờ tối rồi.

    Hai người bước vào phòng, điện bật sáng trưng. Cửa sổ hé mở, gió bên ngoài khẽ lay động tấm rèm. Thấy vậy, Jared bèn đóng cửa sổ lại.

    Bên giường bệnh, June vẫn đang nằm im, nhịp tim đã bình thường trở lại. Những vệt bầm tím trên cổ tay, phía dưới cổ không còn thấy rõ như trước nữa. Gương mặt con bé vẫn hết sức bình thản, chỉ như đang ngủ.

    Jared đỡ Jess xuống chiếc ghế sofa. Bà dường như kiệt sức, đổ gục xuống, người vẫn không thôi run bần bật. Jared đi về phía chiếc tủ bàn đầu giường, ông kiểm tra các ngăn kéo một lượt, rồi lôi ra một chiếc chăn mỏng cỡ vừa, loại thường dùng để giữ ấm.

    Jared choàng nó qua người Jess và hỏi:

    “Jess, em có sao không?”

    Một lát sau, khi đã định thần lại đôi chút, Jess mới trả lời:

    “Không sao, do em hơi chóng mặt thôi.”

    Jared đứng dậy lấy cho bà cốc nước.

    “Cảm ơn anh.” – Jess nói rồi hớp một mụm nhỏ.

    “Em có cần ăn gì không Jess? Để anh xuống dưới phố mua?”

    “Một chút gì cũng được.” – Jess nói.

    Jared khoác áo, đi ra khỏi phòng. Giờ chỉ còn một mình, Jess nhìn trân trân vào thân hình bé nhỏ của con gái. Lòng bà thắt lại một cảm giác khôn tả. Bà cố gắng xua tan những ý nghĩ tiêu cực, nhưng chẳng hiểu sao chúng cứ quanh quẩn trong đầu bà.

    Không gian im lìm. Từng thời khắc trôi qua trong vô định. Jess ngả người ra ghế, rồi sau đó bà thiếp đi tự lúc nào không hay.

    ***

    June hầu như không nghe thấy gì ngoài tiếng rầm lớn ấy. Thứ gì đó đã tông mạnh vào xe nó.

    Chiếc xe bỗng khựng lại đột ngột. Trong thoáng chốc, June thấy người mình lao về phía trước, nhưng dây an toàn đã kịp giữ lại. Tay trượt khỏi vô lăng, đập vào bảng điều khiển, đau rát. Chiếc xe lộn nhào mấy vòng trong không trung, rồi rơi xuống. June thấy người choáng váng, mọi thứ xung quanh nó nhòe đi. Khoảng không gian xung quanh cũng tối dần. Nó không thể nhìn thấy gì nữa.

    Nó loáng thoáng nghe thấy tiếng ai đó gọi mình, nhưng không gian đen đặc, dẫu cho có mở mắt cũng chẳng thấy.

    Tiếng tít tít liên hồi bên tai, tiếng người gọi nhau í ới, rồi cả tiếng bước chân, thậm chí cả tiếng khóc ti tỉ day dứt... June như lạc lối trong hàng tá những âm thanh hỗn độn đó. Nó cảm thấy khó chịu vô cùng. Thụp người xuống, nó lấy tay bịt kín hai tai. Nó chẳng muốn nghe gì, mọi thứ chỉ khiến đầu óc quay cuồng như muốn vỡ tung ra mà thôi.

    Rồi sau đó, June như không cảm nhận được đôi bàn chân mình. Đôi tay nó biến mất, cả thân thể như đang hòa lẫn trong bóng đêm mịt mùng. June chợt nhận ra, phần linh hồn mình đang mắc kẹt nơi đây – thế giới huyền ảo. Còn phần thân xác thì đang nằm trên chiếc giường của bệnh viện trung tâm Shadowfield. Trên đường trở về nhà, nó đã gặp tai nạn.

    Những hình ảnh của vụ việc lướt qua đầu June, hệt như một thước phim được tua nhanh. Một chiếc xe tải lao tới với tốc độ khủng khiếp, chiếc xe hơi đã không kịp phanh lại. Vụ va chạm cực kỳ nghiêm trọng, nó nghe thấy những tràng còi hú dài từng hồi, có thể là còi xe cảnh sát, rồi cả xe cứu thương. Một vài người vây quanh giường bệnh nó, gương mặt họ toát lên sự căng thẳng, lo lắng.

    Đột nhiên, giữa hàng trăm những hình ảnh dội về tâm trí nó, June loáng thoáng thấy vẻ mặt của bố mẹ. Họ đang rất lo lắng. Mẹ Jess đi lại trong hành lang nhập nhoạng ánh sáng. Bố ngồi trên chiếc ghế đặt giữa phòng, ông có uống một chút gì đó. Thậm chí nó còn nghe thấy tiếng họ đang tranh cãi... June cảm giác như đang đứng rất gần họ, nhưng nó chẳng nghe thấy, chẳng thể nhìn rõ gì, rồi tiếng họ ngớt dần. Thứ âm thanh lạo xạo, kỳ lạ cũng nhỏ dần. Cuối cùng, tất cả chìm trong sự im lặng. Vô tận.

    “June... June… mau tỉnh lại đi.”
     
  12. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG X

    TÒA THÁP NGƯỢC

    June mở mắt và nhận ra Gavin đang bên cạnh mình. Ánh mắt cậu hiện rõ sự lo lắng. Nó biết, một tai nạn khủng khiếp vừa xảy ra. Xe của nó và Gavin đã va chạm vào nhau.

    June vội nhỏm người dậy. Nó thấy mình đang ngồi trên một trảng cỏ xanh mướt. Phía xa xa, chiếc xe hơi màu trắng bạc nằm bẹp dúm, phần kính trước vỡ tan. Hai chiếc bánh sau tháo rời, nằm chỏng chơ một cách nực cười trên lùm cỏ. Thật thảm hại, June trộm nghĩ, may thay tụi nó vẫn còn sống.

    “Chúng mình đã va xe vào nhau.” – Gavin thông báo với June.

    Nó hỏi Gavin có sao không. Cậu lắc đầu, rồi đỡ nó đứng dậy, từ từ. Cả thân người vẫn đau nhức, nhất là phần đầu, nó cảm thấy choáng váng như thể vừa nốc nửa chai rượu Bourbon vào trong người vậy. Tệ thật, June đứng thẳng người dậy, nó nhìn về phía chiếc xe một lần nữa, vẻ như luyến tiếc.

    Đoạn, hai đứa ngồi xuống gốc cây sồi cổ thụ, tỏa bóng mát sum suê. Phóng mắt ra xa, June có thể thấy dòng sông đang chảy lững lờ. Một trong những khung cảnh đầu tiên mà nó gặp khi tới vùng đất này. Nhưng nó không dám chắc, có đúng là khung cảnh lần đó không. Nó định hỏi Gavin, nhưng nghĩ không cần thiết nên đành thôi. Bởi lẽ, nó có chuyện quan trọng hơn để nói với cậu ấy.

    “Ban nãy cậu đã đi đâu June?” – Gavin hỏi.

    “Tớ nghĩ cậu bị lạc nên đã đi tìm cậu, nhưng không thấy.” – June cười nói.

    “Cậu có thấy thế giới này có gì bất thường không? Tớ đã lái xe một vòng nhưng chẳng nhìn thấy gì ngoài màn sương mờ mịt luôn che khuất tầm nhìn, khiến mình mất phương hướng.” – Gavin trình bày. Chẳng trách cậu không thể tìm thấy June.

    “Tớ có thấy chuyện đó.” – June đăm chiêu một hồi rồi mới nói.

    “Thật sao?” – Gavin ngạc nhiên hỏi lại.

    June gật đầu. Nó bắt đầu kể cho Gavin nghe. Từ chuyện nó thấy thị trấn bỏ hoang được mọc lên với những dãy phố, con đường lớn đâm thẳng phía chân trời. Rồi, căn nhà gỗ nhỏ có sân vườn xanh mướt mà nó đã vào, cho tới chuyện nhà thờ hay cả trận cuồng phong vừa rồi nữa. Gavin tròn mắt, ngây ngô hệt như một đứa trẻ trước những gì nó nói.

    “Chuyện là vậy đó, Gavin. Tớ đã thấy tất cả. Rồi tớ nhận ra, mọi thứ đều không do mình chủ ý tạo ra, nhưng chúng đã xuất hiện. Hơn nữa, chúng còn gợi nhớ cho tớ rất nhiều chuyện.”

    “Chuyện gì chứ?” – Gavin đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác.

    June hít thở một hơi thật sâu rồi mới nói:

    “Những khung cảnh được tái hiện lại qua những bức tranh mà tớ đã từng vẽ.”

    June nói rành rọt từng lời. Gavin dường như á khẩu, cậu chẳng thể hiểu nổi cái thế giới kỳ quái này khi nào mới thôi diễn những trò hề này. Tất cả chỉ là sự bịp bợm.

    “Và rồi tớ biết được một sự thật...” – Cuối cùng June cũng nói ra mấu chốt của chuyện này... – “Tớ đã bị tai nạn ở thế giới thật. Thân xác tớ đang ở đó, ở bệnh viện Shadowfield, còn phần tồn tại ở đây chỉ giống như phần linh hồn mà thôi. Chỉ có điều tớ chưa thực sự chết, tớ đang trong tình trạng hôn mê.”

    Cả hai cùng im lặng. Chắc hàng tá câu hỏi đang ở trong đầu chúng. Ánh nắng xuyên qua tán lá dày, rọi xuống những nhánh cỏ, phản chiếu với giọt sương khiến mọi thứ lóng lánh. Con sông khẽ trở mình, những gợn sóng táp vào bờ, tạo thành tiếng ì ọp. Đột nhiên, một con chim lạ nào đó gần bụi rậm ven bờ, giật thột mình bay vút lên nền trời trong xanh. June đưa mãi ánh mắt theo con chim lạ, tới khi nó biến mất vào những tảng mây trắng xốp.

    Bên cạnh nó, Gavin vẫn không nói một lời. Cậu đăm chiêu suy nghĩ điều gì to tát lắm.

    “Cậu nên trở về June ạ, trở về với cuộc sống thực.”

    Gavin nói những điều tận sâu đáy lòng mình, cậu muốn June trở về tiếp tục cuộc sống của một người bình thường. Bởi lẽ chẳng có gì quý giá hơn việc đó, dù chuyện gì đã xảy ra chăng nữa.

    “Nhưng... còn cậu. Nếu tớ đi thì đồng nghĩa với chuyện cậu sẽ biến mất.” – June lo lắng nói.

    Gavin mỉm cười nhìn June, ánh mặt cậu có phần trìu mến. Cậu bèn nói:

    “Tớ đã chết rồi, June.”

    June im lặng áy náy. Nó chẳng hề muốn rời xa Gavin một chút nào, lúc nào nó cũng nhớ về cậu ấy.

    Lúc này, Gavin bèn đứng dậy, chìa tay ra trước mặt nó và nói:

    “Đi thôi, June!”

    “Nhưng đi đâu cơ chứ?” – June hỏi lại.

    “Tìm đường về nhà cho cậu chứ sao?”

    “Nhưng tớ đâu...”

    June chưa kịp nói hết câu, thì từ phía xa xa, con sông đang bắt đầu nổi sóng, nước dâng cao như sẵn sàng đổ ụp xuống. Gió cũng mạnh dần lên. Cuốn từng lớp đất, bụi tung mù mịt. Không gian xung quanh hai đứa tối sầm.

    “Chuyện gì vậy June?” – Gavin gào to lẫn trong tiếng gió rít mạnh.

    “Tớ không biết. Chạy thôi!” – Nó nắm vội lấy bàn tay Gavin tháo chạy.

    Hai đứa chạy thục mạng, mãi tới khi đôi chân nhỏ bé mỏi rời. June quyết định dừng lại. Gió cũng ngừng theo. Cả không gian lặng im tuyệt đối. June thở dốc, lấy tay quệt mồ hôi ướt đẫm trên trán. Lúc này, June mới để ý không gian xung quanh đang chìm đắm trong một lớp sương mờ huyền ảo, ma mị.

    Hai đứa thận trọng tiến từng bước về hướng bất kỳ. Một dải sáng xanh leo lét thoắt ẩn thoắt hiện trong không khí như trêu ngươi tụi nó. Màn sương tan dần. Hai đứa chợt nhận ra, trước mặt mình là một cây cầu nhỏ bằng đá. Xa hơn nữa, một hình thù khổng lồ quái dị, sừng sững hiện ra.

    “Một tòa lâu đài ngược ư!” – Gavin thốt lên.

    Đúng hơn là một tòa tháp lộn ngược. Phần chóp nhọn chạm đất, còn phần đáy thì ở phía trên cùng. Cây cầu đá trước mặt - có lẽ là con đường duy nhất để dẫn vào tòa tháp.

    Hai đứa lặng lẽ di chuyển về phía trước, bước từng bước cẩn trọng, vì mặt cầu đang trơn trượt. Hai bên thành cầu, dãy tượng đá được dựng lên hiên ngang. Không rõ hình thù gì, lúc thì như một hình nhân, lúc lại giống một con quái vật, trợn trừng mắt, sẵn sàng nhe nanh vuốt hòng nuốt chửng người nào dám nhìn chúng. June thấy lạnh toát cả sống lưng, nó bước gần tới Gavin hơn. Tim thì đập thình thịch, liên hồi.

    Cây cầu đá dẫn tới một khoảng sân rộng lớn, gấp ba lần sân bóng rổ thông thường. Tòa tháp ngược vẫn nằm cách chúng một khoảng cách khá xa, chừng gần một dặm. Ngổn ngang trên khoảng sân là những phiến đá khổng lồ, nặng chừng vài tấn. Chúng mang những hình thù khác nhau, có hòn được dựng lên, có hòn được xếp chồng, nhưng có hòn lại để nghiêng, như thể vừa có sức mạnh lớn tác động lên.

    Gavin đi vòng quanh những tảng đá một hồi để xem có gì bất thường không. Cậu thực hiện động tác gõ gõ, rồi rà tay lên chúng vài lượt như một nhà khảo cổ học thực thụ. Lúc này June thú thực, nó chẳng muốn tham gia vào trò phiêu lưu này tẹo nào. Nó muốn trở về căn nhà gỗ ấm áp bên thảm cỏ hay dòng sông. Và nghĩ xem, ngày mai mình sẽ làm điều gì kỳ diệu cho vùng đất. Bầu không khí ớn lạnh bao quanh đã khiến nó có ý định bỏ cuộc.

    Gavin vẫn chưa dừng lại. Cậu tiếp tục kiểm tra những phiến đá, như bị chúng mê hoặc. Nhưng không phải, chỉ là những giọng nói. Đúng như thế, Gavin nghe thấy đâu đó trong những tảng đá, tiếng thầm thì của một ai đó, thậm chí là tiếng cợt nhả. Lúc nghe rõ mồn một, nhưng vài giây sau chỉ như thoảng qua mà thôi.

    “Có chuyện gì với mấy phiến đá vậy, Gavin?” – June thấy hành động kỳ lạ của cậu nên hỏi.

    “Hả?...” – Gavin vội ngước lên, vẻ hoảng hốt, khi ấy cậu mới thoát ra khỏi ma lực những giọng nói... – “Không có gì. Chúng ta đi tiếp thôi.”

    Cậu xốc lại ba lô trên lưng, rảo bước nhanh, tiến về tòa tháp ngược. Băng qua mê trận đá, June càng cảm thấy không khí trở nên lạnh lẽo hơn. Một dự cảm chẳng lành về nơi này. June trộm nghĩ. Khi đã băng qua mê trận đá, June quay lại khoảng không gian phía sau đang trở nên mịt mùng, nó chẳng thể nhìn thấy cây cầu đá cheo leo ở đâu nữa, cả vùng đất như biến mất. Thật kỳ lạ!

    Tòa tháp ngược được dựng lên trên một bàn đá nhẵn phẳng, khổng lồ. Nếu muốn đi lên đó, thì phải leo lên những bậc thang được tạc sâu vào trong vách đá.

    “Có lẽ những bậc thang này là lối dẫn lên tòa tháp?” – Gavin nhận định.

    “Mình cho là thế. Nhưng chúng ta không nên đi xuống không Gavin à!” – June bèn nói.

    Gavin suy nghĩ một lát rồi cậu trả lời:

    “Mình có một linh cảm rằng tòa tháp chứa đựng một bí mật nào đó về thế giới này. Nên mình chợt nghĩ ra ý tưởng... đó là chúng ta sẽ đi sâu vào khám phá. Biết đâu lại tìm được đường về nhà.”

    “Không thể...” – June phản bác – “... Mình có linh cảm khác Gavin à, sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta đi vào đây. Tin mình đi.”

    “Chẳng phải cậu đang muốn trở về nhà sao June. Không chừng tòa tháp kỳ lạ này sẽ cho chúng ta biết được điều gì đó.” – Lần này Gavin quyết không chịu nhường nhịn June như mọi lần nữa. Cậu nhìn nó với ánh mắt có phần cương quyết.

    “Nhưng tớ lo cho cậu, Gavin.” – June nói.

    “Đừng thương tiếc quá nhiều cho người đã chết chứ. Đi thôi June.” – Gavin cười nói, rồi cậu lôi June đi bằng được.

    Leo hết những bậc thang tạc vào vách đá, cuối cùng hai đứa cũng đứng trước cánh cửa dẫn vào tòa tháp ngược. Một cánh cửa to lớn, nom chừng nặng trịch có màu đồng đen. Và trên mỗi cánh cửa, một biểu tượng hình tròn kỳ dị hiện ra trông như mặt trăng.

    “Là gì nhỉ?” – June tò mò chỉ tay lên và hỏi.

    “Tớ không biết. Nhưng có lẽ đây là lối để vào tòa tháp.”

    Gavin nói cậu định đẩy cánh cửa ra, nhưng June đã ngăn lại:

    “Hẵng khoan Gavin, như ban nãy tớ nói, chúng ta nên dừng lại thôi. Tớ thật sự không muốn vào.”

    Gavin câm lặng, ra chiều suy ngẫm. Rồi cậu vẫn quả quyết:

    “Tớ sẽ vào một mình. Linh cảm mách bảo tớ, đó là một lối ra hay một chiếc chìa khóa nào đó. Tớ sẽ giúp cậu!”

    Không để June ngăn mình lại, Gavin vội đẩy mạnh cánh cửa phía trước mặt. Một làn khói trắng xộc ra rồi tan nhanh vào không khí. Chẳng nói chẳng rằng, cậu lao nhanh vào bên trong. June ra sức ngăn cản nhưng cậu không nghe thấy gì nữa. Cánh cửa đằng sau chực đóng sầm lại.

    Gavin chúi người về phía trước, ngã sõng soài trên nền nhà trơn trượt. Cậu chống tay đứng dậy, quét ánh mắt quanh gian phòng một lượt. Nó rộng lớn hơn so với tưởng tượng ban đầu của cậu. Ngước nhìn lên, cậu dễ dàng nhận ra lối đi. Đó là hệ thống cầu thang hình xoắn ốc, được dựng lên bởi những phiến đá gồ ghề, lỗ rỗ như đá ong. Cậu dạo quanh căn phòng một lượt, trước khi quyết định đi lên phía trên đó. Trên mỗi bức tường là khung cửa giả, đặt ở giữa một bức tượng canh gác. Gavin đếm có mười hai cánh cửa tất cả. Cậu không dám tiến lại gần những bức tượng. Trong ánh sáng nhờ nhờ, chúng toát lên vẻ hung tợn, như thể đang hăm dọa cậu. Bất giác Gavin giật lùi người lại đằng sau, suýt nữa thì ngã. Cậu có cảm giác những ánh mắt bằng đá vô hồn đang theo dõi nhất cử nhất động của cậu. Thần hồn nát thần tính, hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, rồi Gavin mau chóng leo lên những bậc thang lắt léo. Do ánh sáng yếu ớt, cậu di chuyển thật khéo bằng cách rà tay theo những bức tường phủ kín rêu, lạnh ngắt.

    Đi được một đoạn, Gavin gặp phải chướng ngại vật khác nhau. Lúc thì là một tảng đá khá lớn nằm chặn giữa đường đi, buộc cậu phải trèo qua. Đoạn, cầu thang như rung chuyển, như mọi thứ sẵn sàng đổ ụp xuống. Cũng có đôi chỗ hành lang hẹp như một tấm ván nhỏ, cậu phải cố bám víu vào bức tường để không bị rơi xuống. Gavin thấm mệt, dừng chân nghỉ. Cậu không biết June có còn đợi mình bên ngoài không? Hay cậu ấy đã trở về căn nhà gỗ rồi không chừng? Cậu không biết, ý nghĩ tìm được một lối ra nhằm giúp đỡ June, hối thúc cậu đi tiếp.

    Thảng hoặc, gặp phải chỗ thiếu ánh sáng tự nhiên, Gavin phải dùng tới đèn pin trong ba lô của mình. Loại đèn pin chuyên dụng cho những buổi dã ngoại. Cậu chẳng nhớ nổi những buổi dã ngoại đó đã diễn ra thế nào? Cậu có từng hào hứng về chúng không? Những ý nghĩ kiểu này chỉ khiến cậu thêm mỏi mệt mà thôi, nó sẵn sàng hạ gục cậu ngay bây giờ.

    “Cậu chỉ là một linh hồn thôi.”

    Bấc giác, Gavin nghe thấy một giọng nói kỳ lạ. Loáng thoáng trong đầu, cậu không tin nổi vào tai mình. Đứng khựng lại tại chỗ, cậu dáo dác đưa mắt nhìn ra xung quanh, rồi nói lớn:

    “Ai thế?”

    Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng, rợn người. Gavin đi tiếp, những bước chân dần trở nên nặng trịch. Đôi lúc, cậu như muốn gục xuống. Không có giọng nói nào cả, chỉ là cậu đang tự nhát mình thôi. Gavin tự trấn an.

    “Cậu chỉ là một linh hồn thôi, Gavin.”

    Giọng nói mơ hồ, kỳ quái ấy một lần nữa lại vang lên. Rõ ràng. Sắc lạnh. Một cảm giác rùng mình chạy dọc sống lưng cậu. Gavin khựng người lại, những tế bào như đông cứng. Cậu sực nhớ tới những tiếng thì thầm của tảng đá ngoài mê trận lúc này. Nghĩ vậy, cậu bèn áp tai vào tường đá ẩm ướt, nhưng rốt cuộc chẳng nghe thấy gì cả.

    Cậu mệt mỏi bước tiếp. Một tiếng cười rít lên, rõ mồn một. Vẻ như khoái trá vô cùng, phát ra từ những bức tường đá. Áp tai vào lần nữa, Gavin đã nghe thấy, không thể phân biệt được là giọng đàn ông hay đàn bà. Cậu chỉ biết, mình đang gặp nguy hiểm.

    “Cậu không còn tồn tại, vậy việc gì phải cố gắng.”

    Cố xua đi những giọng nói đang vang vọng trong đầu mình hay từ bức tường đá, cậu lao mình đi tiếp. Tiếng cười càng trở nên man rợ hơn.

    “Chẳng phải cậu luôn sợ hãi sao Gavin. Chẳng phải cậu đã chết rồi. Và chẳng ai cần cậu giúp cả.”

    Giọng nói ma quái vẫn đi theo cậu. Cậu la lớn, đập tay liên hồi vào tường đá:

    “Đừng nói nữa! Mau cút đi! Ta không muốn nghe người nói.”

    Tiếng cười như vọng khắp không gian, át cả giọng Gavin. Cậu vội vàng tháo chạy, bước nhanh lên những bậc thềm, rồi lao xuống những đoạn dốc. Cậu chạy nhanh tới nỗi, chỉ nghe thấy tiếng gió rít mạnh bên tai mình. Đột nhiên, vấp phải một tảng đá, cậu bổ nhào về đằng trước. Khi ấy, cậu như rơi xuống một cái giếng, cậu không thể la hét. Cả thân thể bị màn đêm nuốt gọn.

    *

    Lúc này, June vẫn ngồi thừ phía bên ngoài tòa tháp. Chốc chốc, nó nhìn lên cánh cửa màu đồng đen. Vẻ sốt ruột hiện rõ trên gương mặt tái xanh. Nó thắc mắc, không biết Gavin đã đi được bao xa? Có gặp nguy hiểm không? Hay cậu ấy lại lạc đường mất rồi? Những ý nghĩ đó khiến nó thấy ruột gan mình cồn cào như lửa đốt. Cảm giác áy náy dâng lên trong lòng, khiến nó thấy khó chịu. Đã vài lần, nó bật dậy, dùng tay định đẩy cánh cửa. Nhưng rồi lại chần chừ, nó vội rụt tay, ngồi phịch xuống những tảng đá. Lớp sương mù bí ẩn bao phủ khắp không gian làm nó liên tưởng tới bộ phim Quái vật xương mù xem hồi bé. Cảm giác ớn lạnh và sợ hãi nhen nhúm trong người nó như đang ngăn cản mọi thứ. Nó hít thở sâu vài lần, nhưng vẫn chẳng có tác dụng gì cả.

    Nó lại nghĩ tới Gavin. Nó đã muốn chạy theo cậu ấy, nhưng chính sự hèn nhát này đang ngăn cản nó lại. Sao lại như thế June? Sao mày có thể đớn hèn như vậy? Chẳng phải Gavin đang tìm cách giúp mày trở về sao? Và cậu ấy đã không quản ngại những nguy hiểm? Những giọng nói vô hình vang vọng trong đầu nó, một phần lương tâm đang cắn dứt và hành hạ. June thụp người xuống, lấy hai tay ôm đầu, vẻ như đau đớn lắm.

    Sau đó, nó gắng gượng đứng dậy. Cơn đau nửa đầu vẫn đang hành hạ, nó đặt tay lên cánh cửa, đẩy vào dứt khoát. Tiếng kèn kẹt khiến nó khẽ rùng mình. Bên trong khá tăm tối. Nó từ từ bước vào. Đó là một căn phòng rộng lớn, hình tròn. Nơi đây chào đón June bằng thứ mùi lẫn lộn. Hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, nó đi tiếp.

    Càng đi vào phía trong, ánh sáng soi rõ hơn. Nó bắt đầu nhìn rõ quang cảnh. Từng cánh cửa hình vòm được gắn ngay ngắn quanh bức tường quây tròn, nó liên tưởng tới những đấu trường La Mã xưa. Nơi người ta thả thú dữ để chiến đấu với con người, chẳng hiểu sao nó chỉ nghĩ tới những cảnh tượng giết chóc máu me vào lúc này. Một cảm giác quặn thắt dưới dạ dày khiến nó thấy khó chịu. Không khí dường như loãng hơn bình thường.

    June đi về phía những cánh cửa và nhận ra, đó chỉ là cửa ra, được dùng để trang trí. Đặt trước mỗi cánh cửa là một bức tượng với dáng hình kỳ lạ. Ánh mắt như có hồn, June tránh cái nhìn trực diện. Nó vội vàng quay đi, chẳng kịp đếm xem có bao nhiêu bức tượng như thế. Nó bắt đầu để ý tới hệ thống hành lang hình xoắn ốc. Lối kiến trúc này thường thấy ở những pháo đài thời Trung cổ, hành lang bao quanh bên trong tiến dần lên phía trên.

    June đi lên, cẩn trọng từng bước chân, tay dò dẫm theo bức tường phủ kín rêu lạnh ngắt để xác định phương hướng. June đoán Gavin đã đi theo lối này. Và cậu đã đi được một chặng khá xa, vậy nên nó cần đuổi nhanh theo cậu ấy, trước khi có chuyện không hay xảy ra.

    Nó leo nhanh qua những bậc đá ẩm ướt, cố gắng bám sát tường. Đôi khi nó phải nhảy để băng qua những chướng ngại vật đang cản đường. Càng đi lên phía trên, không gian càng trở nên đen tối. Sự im lặng, rợn người. Gavin! Cậu đang ở đâu thế? June thầm thì trong bóng đêm. Nhưng đáp trả lại chỉ là sự tuyệt vọng. June không thể đi nữa. Nó bèn ngồi thụp xuống một khoảng tối trong tòa tháp. Nó bắt đầu suy nghĩ.

    Những hình ảnh của Gavin đến trong đầu nó. Không còn giống như một thước phim tua nhanh. Mọi thứ đều chậm rãi. Nó nghĩ tới kỷ niệm giữa hai đứa lúc còn học trung học ở Shadowfield hơn một năm về trước. Nhớ lần đầu tiên Gavin chủ động bắt chuyện với nó. Không giống như hầu hết những đứa con trai ngỗ nghịch đồng trang lứa chỉ chăm chăm vào mấy tạp chí bóng chày, xe đua đời mới hay trố mắt khi nhìn một cô nàng xinh đẹp nào đó. Gavin như một người đàn ông trưởng thành trong dáng hình của một cậu con trai mười lăm tuổi. Nó nhớ những lần hai đứa phóng vút về đại lộ ngoại ô, trên những con đường thẳng tăm tắp chạy qua vùng nông trại. Nhớ những lúc giận hờn, Gavin luôn là người chủ động làm lành. Cậu ấy luôn luôn nhường nhịn nó, bất kể khi nào.

    Đột nhiên, một tiếng la thất thanh kéo June ra khỏi những hồi tưởng. Nó trở về thực tại. Không gian vẫn tối tăm và lạnh giá như thường. Là Gavin, tiếng la hét của cậu.

    “GAVIN.” – June gọi lớn.

    Rồi nó cắm cúi chạy đi lên trên cầu thang lắt léo, nó chẳng buồn để ý tới gì nữa. Tâm trí nó chỉ nghĩ về Gavin mà thôi.

    “Gavin ơi! Cậu đang ở đâu.” – Nó la lớn lần nữa, nhưng Gavin không đáp lại. Không gian trở nên im lìm, chết chóc.

    June băng qua một lối đi khá dốc, rồi nó trượt xuống một hành lang, qua một con đường hình ống nước trơn trượt. Nó đáp phịch xuống nền đá lạnh lẽo. Một hành lang rộng lớn, hệt như trong một tòa lâu đài thời cổ. Những cột trụ với chu vi lớn có chức năng nâng đỡ phần mái vòm. Nó ngước lên, vẫn là một khoảng trời đen thẳm. Đi dọc hành lang, tới một ngã rẽ, nó quyết định đi theo phía tay phải. Lối đi trở nên nhỏ hơn, như đi trong hành lang nhà tù. Bức tường đá ong xù xì, có những chấm li ti hệt như một con mắt đen láy. June kinh hãi khi thấy chúng cử động, đồng tử trợn ngược lên, nhìn nó với vẻ thách thức. June giật lùi lại, ngã ngửa. Đau điếng người. Nó lết người tháo chạy. Phía trước nó, bỗng chốc, con đường hóa tăm tối. Không thể nhìn thấy được, nhưng nó vẫn cứ chạy, chạy mãi.

    “Hụt.”

    Nó chới với rơi xuống. Chết chắc rồi, June thầm nghĩ. Không la hét, nó chỉ nhắm tịt mắt. Rồi nó rơi phịch xuống dưới, nằm đè lên một tấm thảm nhưng chẳng mấy êm ái. Nó từ từ mở mắt ra và biết mình còn sống. May thay, nó nhỏm dậy. Lại một hành lang nữa. Nó nheo mắt nhìn kỹ trong không gian nhờ nhờ ánh sáng. Phía xa xa, cách chỗ nó đang đứng khoảng chừng hơn trăm mét, một dáng hình nhỏ bé đang nằm co ro trên nền đá ướt nhẹp, lạnh lẽo. Nó nheo mắt thật kỹ. Là cậu ấy – Gavin. Như mở cờ trong bụng, June vội vã chạy lại.

    “Gavin.” – Nó đỡ cậu ấy lên và nói.

    Gavin vẫn nhắm tịt mắt, người cậu rũ xuống mềm oặt. Gương mặt tái xanh vì sợ hãi, đôi môi mỏng mím chặt thì tái nhợt đi. Cậu ấy đã gặp chuyện gì nguy hiểm? June nghĩ vậy. Chợt, một cảm giác hối hận dâng lên trong lòng nó. Là lỗi của nó, nó đã để cậu ấy đi một mình. Nó đã không đi cùng cậu ấy, để đến nông nỗi này. Tất cả là lỗi của nó. Một cảm giác nghẹn lại nơi cổ họng June. Mọi thứ đều trở nên khô khốc và đắng ngắt. Nó cố gắng lay Gavin, dùng hai tay cật lực ấn vào ngực cậu. Nhưng Gavin vẫn không có dấu hiệu tỉnh lại. Hai cánh tay buông thõng xuống nền nhà. Bất lực.

    June chợt khóc, những giọt nước mắt lăn nhẹ trên gương mặt lấm lem và có phần thảm hại. Rồi nó nức lên thành tiếng, nghẹn ngào.

    Khi ấy, Gavin tỉnh lại, cậu từ từ mở mắt ra; và thấy June đang khóc trước mặt mình. Cậu ngạc nhiên nhưng cũng vui sướng chẳng kém khi thấy June. Cả thân người đau nhức, nhưng vẫn ráng vực cái thân thể èo uột, nặng nề của mình dậy. Cậu cố gắng nói:

    “Ju... June.”

    June ngước mắt lên. Gavin đã tỉnh dậy. Nó chẳng nói chẳng rằng mà ôm chầm lấy cậu, tiếp tục khóc.

    “Cậu vẫn còn sống, Gavin. Tớ xin lỗi.” – June nói.

    Gavin khẽ cười. Đúng là “mình còn sống.” Sau đó, cậu bám vào cánh tay June, từ từ đứng dậy.

    “Tớ không sao. Tại sao cậu tìm được tớ vậy, June?”

    “Tớ đi theo lối những bậc thang xoắn, rồi khi cậu la hét, tớ cứ thế cắm cúi chạy cho tới khi vô tình rơi vào đây.” – June trình bày ngắn gọn.

    “Tớ đã nghe thấy những giọng nói.” – Gavin nói, giọng toát lên sự sợ hãi.

    “Giọng nói nào?” – June ngạc nhiên hỏi lại.

    “Không rõ. Nhưng mình cảm thấy sợ, như chúng đang cố đe dọa và uy hiếp mình.” – Gavin nói.

    “Vậy chúng ta mau ra khỏi tòa tháp này thôi. Tớ luôn có cảm giác ớn lạnh, rùng mình khi ở đây.” – June đề nghị.

    Gavin lại chần chừ. Cậu vẫn còn nhiệm vụ nên không thể rời bỏ tòa tháp được, khi chưa giải mã được bí ẩn của nơi này. Bởi lẽ, cậu đinh ninh rằng, nơi đây chính là một chìa khóa, một lối ra. Nghĩ vậy, Gavin càng quyết tâm hơn. Cậu bèn nói:

    “Không được. Mình không thể rời khỏi đây. Huống chi...”

    “Không có lối ra nào cả Gavin...” – June ngắt lời Gavin, tỏ rõ sự bực bội... – “Cậu đừng mơ mộng nữa. Tớ chấp nhận bị mắc kẹt ở thế giới này với cậu, chẳng cần phải tỉnh lại nữa. Nghĩ xem, nếu trở về hiện tại thì cũng có chắc mọi thứ sẽ ổn không. Cậu biết đấy!”

    Gavin biết June đang nói tới chuyện gì.

    “Không đúng.” – Cậu phủ nhận. – “Ai cũng mong chờ cậu tỉnh lại. Cậu biết điều đó mà June.”

    “Nhưng...”

    “Không nhưng nhị gì nữa. Mình đi thôi.”

    Không đợi June đồng ý, Gavin nắm lấy bàn tay nó lôi đi, mất dạng trong bóng đêm.

    Hai đứa tiếp tục băng qua hàng chục cái hành lang tối tăm như vậy. Có những chỗ của tòa tháp, ánh sáng không rọi vào được. Nhưng cũng có những chỗ ánh sáng xâm chiếm mạnh khiến mọi thứ chói lòa. Cuối cùng, chúng dừng lại ở một căn phòng lớn, ngổn ngang các loại vật dụng, như thể đây là một nhà kho chứa tất cả những thứ đồ vứt đi. June quét quanh căn phòng một lượt, nó nhìn thấy những khung vẽ, những cây cọ khô đầu, tuýt màu... nằm lăn lóc mọi nơi, mạng nhện chăng đầy khắp.

    June tiến lại, nó cầm thử chiếc cọ vẽ lên, quét ngang một lượt. Những bụi sáng li ti hiện ra như đuôi ngôi sao chổi quét ngang qua bầu trời, thoáng chốc rồi mất hút. Nó định bụng chỉ cho Gavin thấy điều đó, nhưng dường như cậu không để ý. Gavin đang chăm chú nhìn về phía những lối đi sâu hoắm, mở rộng tựa như miệng của một cái hang đen ngòm.

    “RẮC.”

    Tiếng gãy rắc, đanh gọn khiến hai đứa giật mình. June đánh rơi cây cọ, nó chạm xuống nền đất rồi biến mất. Gavin nhướng mắt, dáo dác tìm hiểu nguyên nhân. Tiếng động phát ra từ một trong những cái hang sâu hoắm kia. Căn phòng bắt đầu rung chuyển, như có thứ gì sắp trồi lên từ dưới nền đá. Đúng như vậy. Nó đâm toạc rồi vươn lên, hệt như cảnh trong bộ phim Jack và cây đậu thần. Gavin bàng hoàng ngã ngửa. June thét lên kinh hãi, nó chạy sang đỡ cậu. Đó là một rễ cây lớn, với những cái gai dài tua tủa, sắc nhọn.

    June quay sang Gavin như muốn hỏi, phải làm thế nào đây. Nhanh như cắt, Gavin đẩy nó vào một trong những cái hang sâu hoắm kia. Một phiến đá rơi xuống chắn lấp kín cửa hang.

    “JUNE.” – Gavin thét lớn.

    Rồi sau đó, cả căn phòng từ từ sụt xuống, nền đất rung chuyển, có sức mạnh đang cày xới từ bên dưới. Vội cúi xuống nền đất, hai tay cậu ôm lấy đầu. Lần này chết chắc rồi. Gavin thầm nghĩ. Một lần nữa, cậu lại nghe thấy những âm thanh lạ, tiếng gào thét, tiếng giận dữ, tiếng khóc lóc nỉ non... như vọng từ địa ngục. Cậu biết mình sắp chết thêm lần nữa.
     
  13. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XI

    CÔ GÁI ÁNH TRĂNG
    Khi Jared quay trở lại thì Jess đã tỉnh ngủ. Bà thấy đầu đau như búa bổ, thân thể mỏi rời. Jared đặt lên trên bàn hai cái bánh humburger cỡ lớn. Một cốc nước ép hoa quả và một cốc cà phê còn nóng, khói lơ lửng bay lên, mùi ngai ngái lan tỏa khắp gian phòng lạnh ngắt. Tháng Mười hai, trời trở lạnh đột ngột. Tuyết đã bắt đầu rơi trên những tuyến phố.

    Jared đưa cho bà phần bánh và cốc nước quả. Jess cầm lấy, thầm nói cảm ơn. Rồi bà ăn ngấu nghiến, như thể đã nhịn đói mấy ngày. Jared từ tốn cầm phần bánh còn lại và cốc cà phê, ông đi về cửa sổ, lặng lẽ ăn. Thi thoảng ông đánh ánh mắt về phía Jess như muốn nói điều gì nhưng rồi lại thôi. Ông tiếp tục ăn cho tới khi hết phần bánh của mình, rồi mới quay lại nói:

    “Em nên về nhà nghỉ! Đã thức mấy ngày liền rồi. Đêm nay anh sẽ trông coi June.”

    Jess bằng lòng, bà không muốn đôi co với Jared nữa. Phần nào đó, thì hai người đã làm hòa. Vả lại bà cũng cần chăm lo cho bản thân, trước những khó khăn mới. Ngày mai, hãy còn dài. Jess thầm nghĩ.

    Jared đưa cho bà chìa khóa xe và nhà, nhắc nhỏ bà nên lái xe cẩn thận. Mùa đông, đường trơn trượt, huống chi trời đã sập tối. Jess chẳng nói chẳng rằng, bà cầm lấy chìa khóa, sang bên giường hôn nhẹ lên trán June, vuốt ve mái tóc con vài lần rồi mới đi về.

    Jess lái xe ra khỏi khuôn viên bệnh viện, rẽ trái, từ đó cứ hướng thẳng đại lộ B là về tới nông trại của Jared. Lúc đi ngang qua con phố nhỏ dẫn ra đại lộ, vài con mèo nhảy phốc từ thùng rác xuống khiến Jess phanh gấp, tiếng kít vang dài. Lũ mèo hoang chết tiệt, bà rủa thầm rồi mới lái xe tiếp. Ánh đèn đường trải xuống vàng vọt khiến thị trấn nhuốm thêm vẻ u buồn. Ngang qua Blue Night, bà không quên ngó vào trong đó. Gã Hippie ngồi tần ngần bên quầy pha chế đang chăm chú đọc một thứ gì đó. Jess chợt nhớ lại những kỷ niệm, chiếc nhẫn cưới, ly cocktail caipirrinha trứ danh của Brazil hay giai điệu Elvis Presley... nhưng hầu như chẳng rõ rệt chút nào. Giờ mọi thứ chỉ là những dư ảnh rời rạc, dẫu có chắp vá thì cũng chẳng thành một bức tranh hay tấm ảnh hoàn chỉnh. Suy nghĩ vẩn vơ, sau đó Jess nhấn sâu chân ga, phóng vút về phía bóng đêm đang phủ xuống đen đặc.

    Bà không muốn những thứ đó gây ảnh hưởng không tốt tới tâm trạng của mình, nhất là vào lúc này. Đầu Jess vẫn choáng váng, thông báo của Bracher như một nhát búa bổ mạnh vào đầu bà. Dư âm còn sót lại của nó vẫn là nỗi đau âm ỉ, vô hình. Cứ mỗi lần nhắm mắt, Jess lại thấy nó dâng lên, lấp đầy lồng ngực mình, khiến bà thấy khó thở vô cùng.

    Đột nhiên, Jess dừng xe lại. Bà táp bên lề đường, chỗ có trạm dừng xe buýt. Nguồn sáng phát ra từ tấm biển quảng cáo đủ để cho bà đỗ vào một khoảng nhiều ánh sáng hơn. Jess nhìn trân trân vào tấm biển quảng cáo. Một gia đình đang quây quầy bên bữa ăn, vẻ như ngon miệng. Người bố và người mẹ nhìn sang đứa con với ánh mắt trìu mến. Chỉ là quảng cáo một loại gia vị thôi, nhưng sao nó lại khiến Jess buồn và trống rỗng đến thế.

    Đoạn, Jess bèn ra khỏi xe, tiện tay lấy bao thuốc và bật lửa từ chiếc túi xách. Một năm trở lại đây, Jess bắt đầu hút thuốc. Dĩ nhiên không bao giờ hút trước mặt các con; và cũng hiếm khi hút trước mặt Richard. Bà không muốn thói quen này gây ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh mình, nhất là người thân. Những gì đã gây ra cho June là quá đủ rồi.

    Jess tựa người vào nắp capo. Chiếc Mustang 1969 cũ kỹ của Jared. Bà nhớ nó là một trong những chiếc xe hiếm hoi mà Jared giữ lại trong bộ sưu tập của mình. Nhớ lần gặp phải sự cố đó, Jared đã bán gần hết những chiếc xe mà ông từng gọi là “cục cưng” chỉ để đầu tư vào xưởng sửa chữa hiện giờ. Có lẽ, Jared sẽ chẳng bao giờ quên được biến cố đó. Một sự kiện đáng buồn, khó quên trong cuộc đời. Jess mỉa mai nghĩ vậy. Nhưng cuộc đời bà cũng mỉa mai không kém phần ông đâu. Đôi lúc bà cũng muốn biết cách ông ấy đã dễ dàng vượt qua và đối mặt với mọi chuyện như thế nào.

    Jess châm điếu và hút. Rít một hơi thật sâu, bà từ từ nhả đụm khói ra không khí. Chúng tan nhanh vào thinh không, giá lạnh. Đêm về khuya, trời như lạnh hơn. Jess thu mình vào trong chiếc áo khoác gió mỏng. Bà tiếp tục rít thuốc, một vài chiếc xe phóng vụt trước mặt. Đám thanh niên ngỗ ngược lại tìm cách trốn khỏi thị trấn để đến những tụ điểm ăn chơi ở thành phố. Chúng hò hét, buông dăm câu cợt nhả khi thấy Jess. Jess chẳng buồn đáp lại, tiếng cười cợt nhỏ dần, trả lại màn đêm lạnh, se sắt hơn. Jess vứt điếu thuốc hút dở xuống đất, không quên dùng chân di di vài lần cho tắt hẳn.

    Bà lên xe, phóng thẳng về nông trại của Jared. Khoảng sân được thắp sáng bởi cột đèn cao áp loại nhỏ. Jess dễ dàng đậu xe trong khoảng sân vườn, cách gốc sồi cổ thụ vài bước chân. Lúc còn nhỏ, June luôn mơ ước có một cây cổ thụ trong vườn nhỏ để treo chiếc xích đu. Jess không cho xe vào gara mà đỗ gần thềm sân, bà chẳng biết xoay xở trong đó như thế nào. Chưa bao giờ sống ở đây, dù chỉ là một ngày nhưng bà luôn có một cảm giác khá thân thuộc, không thể diễn tả thành lời.

    Jess tắt máy, xuống xe. Rảo bước nhanh qua bậc tam cấp vào trong nhà, bà tra chìa, rồi đẩy cửa vào. Chuông gắn cửa kêu lên từng tiếng leng keng nghe vui tai. Bà lần mò công tắc điện trong bóng tối. “Tách”. Theo đó, thứ ánh sáng vàng dịu lan tỏa khắp căn phòng, nom chừng ấm áp. Cởi áo khoác ra, Jess treo ngay ngắn trên mắc, thẳng tay lẳng chiếc túi xách xuống ghế sofa, rồi bà thả người xuống đó, thở dài một hơi đầy mệt mỏi. Jess ngả người, nhắm mắt, lấy hai tay day day thái dương. Cơn đau đầu vẫn âm ỉ mãi không dứt. Sau đó, bà quyết định đi tắm.

    Tắm xong, Jess vào trong gian bếp kiểm tra tủ lạnh xem có gì ăn được không. Vài thứ đồ tươi đã bắt đầu phân hủy, tiện tay bà quẳng chúng vào sọt đựng rác. Xem chừng chỉ còn vài thứ đồ hộp là ăn được thôi. Một hộp cá mòi, một quả táo và vài muỗng siro dâu tây. Coi như cũng phần nào làm nguôi đi cơn đói. Jess thầm nghĩ.

    Vừa ăn bà vừa quét ánh mắt qua gian phòng vài lượt, cách bài trí chẳng khác gì so với căn hộ cũ của họ trong thị trấn, chỉ là mọi thứ trông rộng rãi và thoáng đãng hơn. Vẫn là bộ sofa cũ mèm có họa tiết ca rô. Tấm thảm trải sàn mang phong cách boho khá bắt mắt. Một vài chiếc chuông gió được treo bên cửa sổ. Từ gian phòng nhìn thẳng vào căn bếp nhỏ, chỉ vừa kê một chiếc bàn ăn hình tròn, màu cánh gián. Dao và đồ dùng bếp được treo ngay ngắn trên bức tường, một chạn tủ nhỏ để đựng bát và đĩa. Phía bên phải phòng khách, cách cửa sổ lớn vài thước, rèm cửa màu xanh lạt im lìm. Chỗ đó vẫn để trống. Jess nhớ rằng, nếu như ở căn nhà cũ của họ, thì chỗ đó sẽ dùng để đặt cây đàn dương cầm cũ của bà. Khi trở về Dallas, Richard đã dành nguyên một căn phòng nhỏ chỉ để đặt chiếc dương cầm mới cáu, mà ông mua tặng bà nhân dịp sinh nhật năm kia. Cây đàn dương cầm cũ cũng được để trong đó, nhưng phủ vải trắng; và Jess chưa bao giờ dùng lại nó cả.

    Jess bỏ chiếc thìa còn nguyên siro sang một bên. Bà nhắm mắt, chợt nhớ về giai điệu. Một hình ảnh của Jess còn trẻ, những ngón tay nõn nà, thả nhẹ trên phím đàn đen trắng. Những giai điệu cất lên, từ bản The Blue Danube Waltz sâu lắng của Johann Strauss Jr, tới giai điệu du dương của Autumn Leaves. Jess cứ thế thả trôi mình trong những giai điệu ấy.
    Tiếng cạch của một vật thể lạ rơi bên phía ngoài căn nhà, khiến Jess dứt khỏi dòng hồi tưởng. Có lẽ do một con mèo hoang nào đó hay bà đã quá mệt, khiến tâm trí liên tục gây ra những ảo giác, nhiễu động.

    Đoạn, Jess bỏ hộp cá mòi ăn dở trở lại tủ lạnh; cả hộp siro dâu tây, vài lát bánh mì nho khô cứng bà cho hết vào sọt rác. Jess uống một vài viên aspirin trước khi đi ngủ. Đêm nay, bà sẽ ngủ lại trong căn phòng của con.

    Sự mệt mỏi tạm thiêu rụi đi những phiền muộn trong lòng Jess. Bà thiếp đi, may sao chẳng có cơn ác mộng nào ghé thăm.

    *

    Jess chẳng nhớ là đã ngủ trong bao lâu. Tiếng chuông điện thoại réo lên từng hồi bên góc nhà đã đánh thức bà. Do điện thoại sập nguồn nên Jared đã gọi vào số cố định. Jared có một ý tưởng, ông ấy đã trình bày qua điện thoại, giọng Jared có vẻ hào hứng. Bà chỉ đáp gọn lỏn bằng những từ ngắn gọn, bà đồng thuận với ý kiến của ông.

    Jared muốn bà mang tới phòng bệnh vài bức vẽ của June, hiện đang nằm trong phòng con bé. Jess vội vàng nhỏm dậy, cảm thấy người đã đỡ mỏi nhức hơn hôm qua. Bà nhìn quanh căn phòng một lượt. Khá bừa bộn, Jess trộm nghĩ, cần phải dọn dẹp lại nơi này. Sau đó, Jess xuống nhà vệ sinh cá nhân và ăn sáng. Phía bên ngoài trời, những tia nắng hiếm hoi xuyên qua lớp mây bàng bạc, dày đặc chiếu thẳng vào khung cửa.

    Ăn sáng xong, Jess cầm máy hút bụi lên phòng June. Đồ đạc khá bừa bộn, June chẳng bao giờ nghĩ tới chuyện dọn phòng nó. Jess nhớ có lần con nói rằng, bừa bộn tạo nên sự sáng tạo nghệ thuật. Nếu không biết đến những tin nhắn bắt nạt trong điện thoại thì khi nhìn căn phòng này, người ta chỉ liên tưởng đến một học sinh cấp ba rất đỗi bình thường. Bà dọn đống sách bừa bộn trên bàn học, vài cuốn sách nằm chỏng chơ khắp gian phòng, mỗi nơi một ít. Rồi bà phân loại chúng. Sách văn học, sách thiên văn hay sách về nghiên cứu mỹ thuật. Có một vài cuốn sách cũ, Jess để trong bìa các tông.

    Rồi bà nhặt lên cuốn Cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn. Đó từng là cuốn sách mà June thích đọc nhất. Sinh nhật năm chín tuổi, bà đã tặng cuốn sách đó cho con. Jess vẫn nhớ lời đề tặng của mình. Bà vội vàng mở ra, vài trang giấy long ra vì sách đã cũ. Jess nhặt lên, bao gồm cả trang có lời đề tặng.

    “Cho tưởng tượng, giấc mơ và những chuyến phiêu lưu kỳ diệu. Mẹ yêu con! June”.

    Jess nhìn dòng chữ nhỏ nhắn một hồi lâu. Sau đó, bà quyết định lấy keo dán và kim để khâu lại cuốn sách. Bà không để cuốn sách vào thùng các tông nữa, mà sẽ đem nó tới phòng bệnh cùng với các bức tranh.

    Jess chuyển sang gấp lại đống quần áo trong tủ, bỏ hết những quần áo nhăn nhúm qua một bên, bà quyết định sẽ giặt và là lại chúng ngay. Sau khi đã gần như xong xuôi mọi thứ, Jess mới xem tới những bức tranh nằm ngổn ngang bên góc phòng, có một vài phác thảo vẫn nằm nguyên trên giá. Khung cảnh ấy mới xong được một nửa, trên bầu trời vẫn thiếu những đám mây. Jess xem xét một bức tranh. Bà lục tìm dưới gầm giường thì thấy một tập phác thảo, khá dày dặn, một vài bức còn mới, số còn lại như đã vẽ từ lâu. Bà phủi bụi, ngắm nghía. Chẳng hiểu sao con bé lại bỏ nó dưới gầm giường.

    Jess tiến lại bên khung cửa sổ đầy đủ ánh sáng hơn, rồi ngồi xuống ghế. Bà bắt đầu lật giở từng bức tranh trong tập phác thảo. Con bé vẽ khá nhiều. Tất cả những gì vẽ trong tranh đều tái hiện lại khung cảnh của thị trấn Shadowfield. Một vài bức vẽ lại chân dung Jared đang hì hụi sửa chữa chiếc xe hỏng, thậm chí con bé còn vẽ cả chân dung khắc khổ của lão Geogre đang ngậm điếu thuốc trên môi, vẻ trầm tư. Jess dừng lại trước một bức tranh vẽ bà. Bà nhớ June đã từng vẽ bà vào cái lần dẫn con bé đi chơi quanh thị trấn, khi cả hai ngồi trên thảm cỏ. Con bé đã hứa rằng, nó sẽ cho bà xem lại bức tranh đó. Bẵng đi một thời gian, Jess quên khuấy đi mất, để rồi mọi lời hứa lại chìm vào lãng quên. Jess thầm trách sự vô tâm của chính mình.

    Jess tiếp tục lật giở tập phác thảo. Đột nhiên, bà dừng lại. Trước mặt bà những bức tranh có vẻ gì đó khác biệt. Hình ảnh của một cô gái bí ẩn nào đó, trạc tuổi con bé. Có đôi chỗ không rõ ràng, có vài bức khi vẽ xong, June lấy màu khác vẽ đè lên như để che giấu một bí mật. Chúng khác biệt so với hầu hết những bức tranh đã xem, như thể không phải do June vẽ. Ai đó đã nhét nhầm vào đây sao? Jess tự hỏi. Bà xem xét kỹ các bức tranh một lần nữa, rồi phát hiện ra tất cả đều là do June vẽ, vì phía góc trái của mỗi bức tranh đều ký tên June, gồm cả ngày, tháng, năm hoàn thành.

    Jess nhìn trân trân vào một phác thảo đầy đủ nhất. Cô gái lạ với mái tóc vàng sáng ngắn cắt bằng hiện ra mang gương mặt lạnh lùng, có vẻ gì thách thức. Ánh mắt màu xám tro thì toát lên vẻ sắc lạnh, gây chút khó chịu cho người đối diện. Vài bức phác thảo khác, hình ảnh của một mặt trăng ma quái đang tỏa thứ ánh sáng xanh lá ma mị. Cô gái này là ai? Một người bạn cùng trường của con bé chăng? Tại sao bà chưa thấy nó bao giờ? Biển suy nghĩ hỗn loạn khiến tâm trí Jess rối bời, mà chẳng biết xử trí ra sao. Rồi sau đó, bà gói ghém tất cả những bức tranh lại, bỏ vào một chiếc túi. Bà lái xe thẳng tới bệnh viện.

    Jess đi lên phòng bệnh, Jared đang ngồi đọc báo trên ghế. Thấy Jess tới, ông bèn dẹp tờ báo qua một bên.

    Jess ngồi xuống, lấy từ trong túi xách ra những bức tranh kỳ lạ. Bà bắt đầu vào chuyện.

    “Anh đã bao giờ thấy những bức tranh này chưa?” – Jess hỏi, giơ tranh ra trước mặt Jared.

    Ông cầm lấy, xem xét, vẻ đăm chiêu. Sau đó Jared lắc đầu nói:

    “Anh e là chưa. Con bé chưa bao giờ chia sẻ những bức tranh của nó với anh.”

    Jess trầm ngâm một hồi, bà chưa biết nói gì, ngoài những ngờ vực đang dâng lên trong lòng.

    “Anh có biết những người bạn của con bé không?” – Jess lại hỏi.

    “Dĩ nhiên. Nhưng con bé chẳng chơi thân với ai, ngoài thằng bé nhà White. Là Gavin White đó.” – Jared trình bày.

    “Trong số những người bạn của June, có ai giống như này không. Cô gái trong bức tranh này.” – Jess tiếp tục hỏi.

    Jared tần ngần, ông đưa bức tranh lên ngắm nghía một lần nữa, đăm chiêu hết sức. Cố lục lại trong suy nghĩ của mình những hình ảnh, nhưng Jared chẳng tìm được một chút thông tin nào. Con bé chưa bao giờ chia sẻ về chuyện trường lớp. Có lần Jared gặng hỏi, nhưng con bé nổi cáu nên ông đành thôi. Từ đó ông chẳng bao giờ dám đả động trực tiếp, thi thoảng chỉ dò hỏi tình hình qua Gavin hay cô Marry. J – giáo viên chủ nhiệm lớp.

    “Anh e là không. Không hề có cô gái này.” – Jared trả lời.

    “Tại sao?”

    Jared bèn lắc đầu, ông không nói thêm nữa. Trong đầu ông giờ đây cũng có những nghi ngờ tương tự Jess. Ông nghĩ, có thể là một người bạn mới quen của June, nhưng tại sao ông chưa bao giờ thấy con bé nói về chuyện đó.

    Cuộc trò chuyện bị cắt ngang bởi Bracher. Ông bước vào phòng, yêu cầu hai người đi ra ngoài, để ông và các y tá có thể kiểm tra định kỳ tình hình của June. Jared và Jess đi ra ngoài. Trên tay Jess vẫn cầm theo bức phác thảo. Cô gái ánh trăng, bà tạm gọi như vậy. Sau đó, bà đề nghị Jared gọi điện tới trường học để gặp Marry J.

    Không lạ gì là cô Marry J khá bối rối khi Jared gọi. Cô hiển nhiên không rõ về mối quan hệ của học sinh với nhau nhưng cũng cố gắng chứng tỏ điều ngược lại. Dù vậy, Marry J vẫn có thể cung cấp một số thông tin, sau khi gửi lời thăm hỏi dành cho June. Một lát sau, Jared thông báo với Jess.

    “Marry J. nói, trong lớp không có cô gái nào như thế cả. Và ở trường, June cũng không chơi với ai ngoài Gavin White.”

    Mọi thứ vượt ra ngoài trí tưởng tượng của Jess, bởi lẽ cô gái trong bức tranh không có thật. Jess nhìn lại bức tranh một lần nữa, đôi mắt màu xám tro như xoáy sâu vào trong mắt bà, khiến bà thoáng chút rùng mình.

    Jared và Jess cùng trở lại phòng bệnh khi Bracher đi ra. Ông ấy nói tình hình của June vẫn ổn định, dù không có tiến triển gì thêm. Jess nghe vậy liền thấy lòng chùng xuống. Thà ông ta chẳng nói còn hơn, nhưng thiết nghĩ đó là công việc. Jess cảm ơn Bracher, rồi bà đi thẳng vào phòng, trên tay vẫn nắm chặt những bức vẽ của June.

    Sau đó, bà lặng lẽ treo chúng lên, thậm chí ngay bên giường bệnh. Còn bức họa phác thảo cô gái ánh trăng, Jess vẫn giữ bên mình. Bà cảm thấy không thật sự cần thiết, hoặc chút gì đó bất an. Trực giác đã mách bảo bà như vậy, dẫu mọi thứ không hề chắc chắn.

    Bà ngắm nhìn thành quả của mình. Những bức tranh trở nên sinh động hơn, giá như con bé có thể tỉnh lại để xem cảnh tượng này. Nắm lấy bàn tay bé nhỏ, khá lạnh của June. Jess nhớ lại.

    *

    “Bây giờ, thằng Tom đã gần khỏi hẳn. Nó buộc viên đạn vào một cái dây đeo lên cổ để làm cái đồng hồ và thỉnh thoảng lại giở ra xem giờ.

    Tôi không biết viết gì thêm nữa cho cuốn sách này. Nếu như tôi biết là viết một cuốn sách sẽ khó khăn như thế nào thì tôi chẳng viết, mà cũng không có ý định viết nữa. Nhưng dù sao, tôi cũng phải đi ngay đến địa phận của những người da đỏ vì dì Saly định nuôi tôi và khai hóa cho tôi; mà tôi thì không chịu được điều đó, tôi đã thừa biết về nó rồi.”

    Jess ngừng, bà gập lại cuốn sách, chăm chú nhìn vào June. Con bé bèn lên tiếng:

    “Như vậy là cuộc phiêu lưu của Huckleberry Finn và Jim sẽ không bao giờ kết thúc phải không?”

    Jess gật đầu và nói:

    “Hai đứa sẽ xuôi mãi theo dòng Mississippi, và những gì còn lại đều đẹp đẽ như thế. Tình bạn và sự hi sinh cho nhau.”

    Jess cảm thấy câu nói của mình có phần hơi trừu tượng nên bà bèn dừng lại, vì sợ con khó hiểu. Dẫu biết rằng, người Mỹ nào cũng cần hiểu về Huck hay Mark Twain. Đặt cuốn sách xuống chiếc bàn bên cạnh đầu giường, Jess vuốt ve mái tóc của June, nhìn âu yếm.

    “Sau này con cũng sẽ thực hiện những cuộc phiêu lưu như Huck và Jim, con sẽ băng qua những vùng hoang mạc của nước Mỹ, và thậm chí là xuôi theo dòng Mississippi. Khi đó, ba mẹ đừng cấm cản con điều gì nhé!”

    Jess chỉ cười và sau đó bà nói:

    “Không hề. Mẹ và ba Jared sẽ chẳng bao giờ ngăn cản ước mơ của con. Nhớ giữ lấy nó.”

    Jess nắm chặt tay đứa con gái bé bỏng, và nói thêm:

    “Giờ thì đi ngủ thôi.”

    June mỉm cười, rồi nhắm tịt mắt. Bà hôn nhẹ lên vầng trán của con, cầu chúc những điều tốt đẹp.

    *

    Tiếng gió đập vào cửa khiến Jess giật thột, choàng tỉnh. Bà dáo dác nhìn quanh, vẻ như hoảng hốt. Bà đã thiếp đi một lúc. Nhìn về phía cánh cửa, rèm bay phần phật trong cơn gió rít mạnh từng lần.

    Cơn gió thổi mạnh, hất tung những bức tranh ban nãy bà không treo lên. Jess vội vàng thu lượm lại. Khi ấy bà nhận ra phòng vẫn chưa bật đèn, thứ ánh sáng duy nhất hắt từ bên ngoài hành lang vào. Bà vội nhặt lại những bức tranh, rồi đóng chặt cánh cửa. Jess ngồi xuống ghế, trong ánh sáng tờ mờ, những hình nét về cô gái ánh trăng hiện rõ, phủ một lớp ma mị trên gương mặt lạnh tanh. Đôi mắt dường như đang trở nên sống động. Jess hoảng hốt gấp chúng lại, để sâu vào trong ngăn kéo.

    ***

    Tảng đá nặng trịch rơi xuống lấp kín cửa hang. Trời bỗng tối như bưng, June lấy tay mò mẫm, rồi nó nhận ra xung quanh toàn đá là đá.

    Nó không còn nghe thấy tiếng la hét của Gavin nữa. Tiến lại gần cửa hang, nó rà tay quanh tảng đá xù xì, dính thứ gì đó nhớp nhúa. Biết không thể dùng sức, nhưng nó vẫn cố gắng ẩy thân hình nhỏ bé về phía tảng đá. Lát sau, nó ngồi bệt xuống đất, thở hổn hển, bất lực. Nó nghĩ mình sẽ bị mắc kẹt ở đây mất thôi.

    Một lát sau, June quyết định đi sâu vào trong hang, biết đâu lại tìm ra một lối khác thì sao. Nó đã từng đọc đâu đó về trường hợp tương tự như vậy. Khi cửa hang bị lấp kín, người ta sẽ đi sâu vào trong, thể nào cũng sẽ có lối thông thoát. Nghĩ vậy, nó đứng dậy, dò dẫm từng bước về phía trước. Nó đi mãi, tới khi vài tia sáng xuất hiện. Nó phát hiện ra một lỗ hổng trên trần hang. Nó bèn trèo lên. Lần thứ nhất, nó ngã phịch xuống đất, đau điếng người, vì những phiến đá trơn nhẵn như bôi mỡ không thể trèo lên được. Nỗ lực lần thứ hai, thứ ba đều thất bại.

    Sau đó, nó bèn nghĩ ra một kế. Nó quyết định lấy những phiến đá vừa nằm rải rác trên mặt đất, xếp chồng lên nhau. Vì trần hang cũng không quá cao, nếu xếp tới độ nhất định, nó có thể trèo lên phía trên được. Khoảng ba mươi phút sau, nó đã tạo được một bục đứng khá cao từ những phiến đá vụn. June trèo lên và nhìn thấy phía trên là một hành lang rộng, khoảng không gian như bị thứ ánh sáng mạnh hắt vào. Dụi mắt vài lần June mới nhìn rõ mọi thứ. Nó đặt hai tay lên mặt sàn đá, dồn lực, bật mạnh chân. Nó nhảy lên trên, thoát khỏi cái hang tăm tối. Lại là một hành lang rộng lớn khác trong tòa tháp. Giờ nó không biết được mình đang ở tầng thứ bao nhiêu của tòa lâu đài. Nhưng thây kệ, nó tiến thẳng về phía trước. Nó chỉ nghĩ tới Gavin thôi. Nó hy vọng sẽ tìm được cậu ấy.

    Đi tới cuối hàng lang, nó buộc phải rẽ phải. Hướng đi bị thu hẹp lại rất nhiều. Không gian phía trước mờ mịt dần, màn sương trắng làm giảm tầm nhìn của nó, nhiệt độ cũng giảm dần, nó cảm thấy khá lạnh.

    Rồi June thận trọng từng bước. Đột nhiên, nó cảm thấy như ai đó đang bước đi sau mình, nhưng khi dừng lại thì mọi thứ lại im lặng. June bước tiếp, tiếng bước chân rõ hơn. Nó dừng lại. Im lặng. Nó bước tiếp. Vẫn là tiếng bước chân đó. June quay lại nhưng chẳng thể thấy gì.

    “Ai đó?” – June cất tiếng hỏi.

    Đáp lại chỉ là tiếng vang của chính giọng nó.

    Sau đó, June rảo bước thật nhanh, gần như là chạy. Nó nghe rõ mồn một, tiếng bước chân đuổi theo. Nó chạy nhanh hơn, gió rít mạnh bên tai. Nó bước hụt xuống một cái hố. Chết chắc rồi. Nhắm tịt mắt lại, nó thấy mình rơi mãi, như thể rơi xuống một cái hố không đáy vậy.

    June ngất đi một lúc. Nó biết điều đó, bởi trong vô thức nó cứ rơi mãi cho tới khi đáp xuống một căn phòng có dạng hình tròn. Toàn bộ được lát thứ gạch màu đen huyền bí, bóng loáng. Nhìn xuống dưới chân, nó thấy hình ảnh phản chiếu méo mó của bản thân. Gương mặt chảy xệ, hai tròng mắt đen ngòm rơi ra khỏi hốc mắt, lăn tròn trên nền đất.

    Nó thét lên kinh hãi.

    “June.”

    Nó choàng tỉnh. Hóa ra chỉ là cơn ác mộng. Khi ấy, nó nhận ra mình đang nằm sõng soài ở trong căn phòng vừa mơ ban nãy. Sàn nhà lạnh ngắt như sân trượt băng. Hơi thở nó yếu ớt, làn khói trắng mỏng phả ra từ miệng. Đây là đâu? Nó tự hỏi.

    “Cậu tỉnh rồi.” – Một giọng nói mơ hồ vang lên khiến June khẽ giật mình, dáo dác nhìn quanh để tìm hiểu.

    Đoạn, nó gắng dậy, dù thân người đau nhức vô cùng. June quét quanh căn phòng một lượt, cho tới khi ánh mắt của nó dừng lại ở một người. Dáng hình cao dong dỏng quen thuộc và mái tóc ngắn cá tính. Lucine! Chính là cô ấy!

    “June.” – Lucine gọi, nó gần như á khẩu chẳng thốt thành lời.
     
  14. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XII

    LỜI HỨA
    Mặc cho June đứng đó, trố mắt ngạc nhiên. Lucine vẫn chằm chằm nhìn nó. Đôi mắt màu xám tro kèm ánh nhìn sắc sảo, mà June đã dành cả tiếng đồng hồ để vẽ. Nó chợt nhớ lại những hình ảnh của Lucine.

    Nó đang ngồi co ro trên ghế đá giữa sân trường. Tháng Mười một trời lạnh như cắt da cắt thịt. Vài tia nắng hiếm hoi của mùa đông chiếu rọi chẳng đủ để xua tan sự lạnh lẽo và ấm ức trong nó.

    June nhìn lại, chiếc áo khoác bên ngoài ướt nhẹp đang bốc mùi chua lòm. Vài đứa con trai đi qua huýt sáo, tỏ ý cười cợt. June lườm nguýt chúng, nó nhận ra một tay là bạn của Max trong đội bóng rổ - thằng Cody mặt choắt trông như mặt chuột.

    “Trời vẫn chưa đủ lạnh sao June dị hợm.” – Cody nhìn nó rồi la lớn, vẻ giễu cợt.

    “Cút đi, đồ mặt chuột.” – June gằn lên từng tiếng.

    Cody và đám con trai bỏ đi. Chuyện thi thoảng vẫn xảy ra như vậy ở trường, nên June chẳng bận tâm. Đám con gái trong đội cổ vũ của Ruby đã rình lúc nó vào nhà vệ sinh, rồi đổ ụp cả thùng rác chứa lẫn nước xuống người. May thay, nó lấy cặp che lên đầu, nhưng thân người vẫn bị ướt. Nó bực tức quay ra để hỏi cho ra nhẽ, nhưng chúng đã tháo chạy về các ngả dọc hành lang.

    “June.” – Gavin từ đằng xa hớt hải chạy lại và nói, vẻ mặt cậu ngạc nhiên khi nhìn thấy bộ dạng thảm bại của nó.

    “Lại là đám con gái trong đội của Ruby đúng không? Lũ đó hết trò rồi sao, để mình đi báo cho cô Marry Jane, sau đó có thể phản ánh lên Hội đồng phụ huynh nữa...” – Gavin nói một thôi một hồi.

    “Thôi nào Gavin...” – June ngắt lời Gavin – “... mình không muốn làm tới. Vả lại mình cũng chẳng muốn dây dưa gì tới cái Hội đồng phụ huynh chết tiệt đó. Bố Jared của mình đã quá nhiều chuyện cần quan tâm hơn rồi.”

    “Nhưng không thể để cậu chịu mãi ấm ức như vậy được.” – Gavin lại nó.

    Lúc này June mới để ý thấy Gavin đang cầm một tập tài liệu về thiên văn học. Thấy vậy, nó bèn nói:

    “Chẳng phải chiều nay cậu có hẹn bên Hội nhóm Thiên Văn Học gì đó sao, Gavin.”

    “Khoảng 3 giờ chiều, nhưng giờ cậu nên đi với mình tới phòng của cô Marry Jane.” – Gavin vẫn chưa buông tha.

    Nó cảm thấy thật sự mệt mỏi trước sự thái quá của cậu. Dường như nó chẳng bao giờ bận tâm tới những gì vừa xảy ra với mình, dẫu thực sự tồi tệ.

    “Việc cần thiết bây giờ là làm sạch chính bản thân mình đã. Cậu không thấy người mình bắt đầu chua lòm rồi hay sao.” – June cười nói, nhướng mày về phía chiếc áo khoác giờ đang nằm dúm dó dưới chân ghế đá.

    Vài thứ nhơm nhớp, kinh tởm vẫn bám dính trên đó. Đủ hiểu những thứ trong thùng rác gớm ghiếc thế nào rồi.

    “Cậu tính về thế nào. Hay để mình đưa cậu về?” – Gavin ngỏ lời.

    June không muốn làm phiền Gavin nên khéo léo chối từ.

    “Không cần đâu, mình đã nhắn tin cho bố Jared tới đón rồi. Giờ thì cậu mau đi lên sinh hoạt hội Thiên Văn gì đó đi. Mình gặp sau.”

    “Vậy thì mình đi trước nhé! Có chuyện gì nhớ báo cho mình ngay. Nhớ chưa!” – Gavin nói, rồi cậu nhanh chóng biến mất sau dãy tường lát gạch đỏ, nơi có những sợi dây trường xuân leo, phủ kín tới tận khung cửa sổ.

    Trong môn Lịch sử địa phương có nói, trường trung học Shadowfiled được dựng trên nền tảng của một tu viện cũ vào cuối thế kỷ XIX, nên hầu như mọi kiến trúc đều mang dáng dấp cổ kính. June chưa bao giờ thích môi trường này, dù thư viện là nơi đã mê đắm nó. Hay từ ban công tầng bốn của khu nhà học, nó có thể nhìn thấy thị trấn bé nhỏ đang thay đổi từng ngày. Những căn nhà hiện đại mọc lên dần thay thế dãy nhà gạch cũ kỹ, mục nát. Vài rạp chiếu phim hiện đại và quán bar. Đôi lúc nó nghĩ chẳng biết mình có thuộc về nơi này không nữa. Bởi lẽ, bên trong nó luôn thường trực cảm giác lạc lõng và cô độc.

    Sự ấm ức vẫn còn nguyên trong nó. Đoạn, nó nhặt chiếc áo khoác từ dưới đất lên, cuộn lại rồi cho vào túi nilon, buộc chặt. Nó cố gắng lái suy nghĩ sang hướng khác, về những ý tưởng chẳng hạn, hơn là về bản mặt đáng ghét của những đứa con gái trong nhóm Ruby.

    Nó chưa gọi cho bố Jared, vào giờ này ông vẫn bận ở xưởng. Bố đã nhắn tin cho nó bảo rằng, đã chuẩn bị sẵn thức ăn trên bàn, chỉ cần hâm lại trong lò vi sóng là có thể ăn được. Nó chẳng bao giờ phiền lòng bởi điều đó cả. Chuyện đã xảy ra cả tuần nay rồi.

    June quyết định đi xe buýt, người phụ xe nhăn mặt khi thấy nó lên xe. Ông ta cũng cố gắng hỏi chuyện nhưng nó chỉ ậm ừ. Chọn một hàng ghế cuối, June ngồi yên, tựa đầu vào cửa kính, lơ đãng nhìn ra ngoài. Xe chuyển bánh qua khu phố cổ, hướng ra đại lộ B, từ đó đi chừng vài dặm nữa là về đến nhà.

    Xe tăng tốc, hai hàng cây bên đường lao vun vút về phía sau, nhạt dần. June thấy đầu hơi choáng váng, bèn dùng tay day mạnh hai thái dương. Đèn đỏ, xe thắng gấp, nó hơi chúi người về phía trước. Đột nhiên, phía bên kia con đường, xuất hiện một cô gái kỳ lạ. Người dong dỏng cao, váy buông dài tới đầu gối, chiếc váy với những họa tiết mang phong cách boho có phần bắt mắt. Nó để ý trên cổ của cô gái còn đeo những chuỗi hạt lấp lánh, lạ kỳ. Thật tuyệt! June thốt lên trong lòng. Ấy vậy mà, lũ con gái trong nhóm của Ruby luôn mở miệng chê bai gu thời trang dị hợm của nó. Nghĩ vậy, June định giơ điện thoại lên chụp, nhưng cô gái đã đi mất. Hết đèn đỏ, xe bus lại chạy tiếp.

    Hình ảnh cô gái vẫn ám ảnh tâm trí June cho tới khi về nhà. Nó ao ước có một người bạn để sẵn sàng sẻ chia điều gì đó. Về sở thích vẽ vời, về thời trang hay những chiếc vòng đeo tay bắt mắt. Còn Gavin thì sao, dù gì cậu ấy cũng là con trai. June thừa biết đám con trai mười bốn, mười lăm tuổi thường nghĩ về điều gì. Không bóng rổ thì cũng mê đắm những tờ báo về khúc côn cầu, bóng chày, thậm chí cả những tạp chí người lớn nóng bỏng. Gavin không hẳn nằm trong số đó, nhưng đôi lúc có những chuyện, June chẳng thể chia sẻ với cậu.

    Nghĩ vậy, khi vừa bước vào trong phòng mình, June bèn quăng chiếc cặp cùng với túi áo khoác sang một bên. Nó chạy lại góc nhà, cầm cọ, bóp tuýp màu ra bảng, rồi bắt đầu vẽ một cách say sưa, quên cả giờ giấc.

    Nó đưa cọ phác thảo phần gương mặt có phần nhỏ nhắn, rồi tới mái tóc xoăn dài luôn phủ kín hai vai. Riêng phần đôi mắt, June đã dành một khoảng thời gian khá lâu để vẽ, sắc màu xám toát lên vẻ vừa lạnh lùng, vừa sắc sảo.

    Sau đó, June bắt đầu lấy vài tập tranh trong gầm giường ra, những thứ đã từng vẽ trước đó, về Ruby, đám con trai trong lớp, thậm chí cả người thủ thư khó tính... Nó tiến ra bãi cỏ sau nhà, châm lửa đốt. Nó thực sự hả hê trước cảnh tượng ấy, bao nhiêu ấm ức ban nãy như mau chóng được xua đi.

    *

    “June.” – Lucine cất tiếng khiến June giật mình quay trở về với thực tại.

    Chẳng có tia nắng nào rọi vào căn phòng cả. Cũng chẳng còn những bức tranh, bảng màu và cọ vẽ. Nó trở về với căn phòng tranh tối tranh sáng trong lâu đài. Không gian thì u ám, lạnh ngắt. Nó nhận ra mình vẫn đang đứng trân trân một cách quê mùa.

    “Lu… Lucine.” – Khó khăn lắm June mới cất lên thành tiếng.

    Vẫn khoanh hai tay trước ngược, Lucine rảo bước tự tin lại gần. June nhận ra tình trạng thảm hại của mình. Tóc rũ xuống vai áo ướt nhẹp, đôi tay thì lấm lem bùn đất. Bộ dạng đó khiến nó bối rối. Chưa biết xử trí ra sao thì Lucine đã chìa hai bàn tay của cô ấy ra. Không chút chần chừ, nó bèn nắm lấy tay Lucine. Bàn tay khá lạnh nhưng chẳng hiểu sao nó lại cảm thấy an tâm hơn.

    June đứng dậy. Lucine bèn ôm chầm lấy nó như người bạn cũ lâu ngày không gặp mặt.

    “Gặp lại cậu vui quá, June!” – Lucine nói.

    “Mình... mình cũng vậy, Lucine.” – June ngập ngừng trả lời.

    “Chúng ta đi thôi.” – Lucine đề nghị.

    “Nhưng đi đâu?” – June hỏi lại.

    “Rời khỏi tòa tháp đáng sợ này chứ sao.” – Lucine giải thích.

    Không nói thêm gì nữa, Lucine nắm chặt lấy bàn tay June lôi đi. Nó thấy thân thể mình nhẹ bẫng như đang bay. Mọi thứ xung quanh nó nhòe dần.

    *

    “Dừng lại đi, Lucine.” – Được một lúc sau thì June hét lớn vì cảm thấy chóng mặt; cảm giác nôn nao chộn rộn.

    Thấy vậy, Lucine bèn dừng lại. Hai người đang đứng ở một căn hầm, trông giống như hệ thống cống ngầm ở các thành phố lớn. Lucine nhìn June, vẻ lo lắng hiện rõ trên gương mặt thanh tú ấy - gương mặt mà June đã mất hàng giờ để có thể tưởng tượng và vẽ ra thành hình.

    “Sao vậy June? Cậu thấy chóng mặt hay khó chịu sao?” – Lucine hỏi.

    June gật đầu trả lời.

    “Mình thấy hơi chóng mặt và buồn nôn.”

    “Vậy thì ngồi xuống đây nghỉ một chút!” – Lucine đề nghị.

    June được thể ngồi xuống. Lucine cũng vậy. Nó mất một lúc để lấy lại bình tĩnh. Có lẽ mọi thứ tới quá nhanh, như chuyện Lucine xuất hiện ở đây vậy. Vả lại vẫn còn Gavin nữa, June suýt nữa thì quên mất. Nó đinh ninh, cậu ấy đang lạc ở đâu đó trong lâu đài bí hiểm này. Nghĩ vậy, nó bèn quay lại Lucine và nói:

    “Mình đang đi tìm Gavin. Cậu biết Gavin chứ?”

    Lucine gật đầu đáp lời:

    “Mình biết, nhưng chẳng phải Gavin đã chết rồi sao?” – Lucine thắc mắc liền sau đó.

    “Đúng vậy! Nhưng trong thế giới này, Gavin tồn tại dưới một dạng ký ức của mình. Giống như cậu vậy, Lucine.” – June trình bày ngắn gọn.

    Lucine gật gù như thể đã hiểu rõ mọi chuyện. June nhớ đã từng kể cho Lucine biết đôi chút về Gavin trong cuốn nhật ký mà nó từng viết hơn nửa năm trước. Nó không thể nhớ chính xác những gì đã viết trong cuốn nhật ký đó, nhưng nó từng kể cho Lucine về gia cảnh của Gavin, về niềm ao ước có thêm một đứa con của mẹ cậu ấy. Cả chuyện sau này cậu ấy sẽ lên New York hay Columbus để học đại học. Rồi chuyện đáng buồn nhất – cái chết của cậu ấy. Vậy nên Lucine cũng hiểu được phần nào. Nó hồi hộp chờ phản ứng từ cô ấy.

    “June này, cậu có biết ý nghĩa của tòa tháp này không?” – Lucine quay lại, nhìn thẳng vào nó và hỏi.

    June bối rối thật sự, nó lắc đầu đáp:

    “Mình không biết. Mình cảm giác nơi này thật sự đáng sợ thôi. Nhất là khi đã gặp phải những chuyện kỳ cục.”

    Nó bắt đầu kể cho Lucine. Từ chuyện kỳ lạ về những giọng nói thì thầm vọng từ vách đá. Những con mắt lạnh lùng gắn trên bức tường hay bức tượng canh gác với ánh nhìn ma quái. Lucine lại gật gù như thể đã hiểu hết mọi chuyện. Ánh mắt sắc sảo trở nên khó hiểu vô cùng.

    “Cậu có biết tại sao lại như thế không June?” – Lucine lại hỏi, giọng nói tựa hồ bí ẩn.

    June một mực lắc đầu. Lucine bắt đầu giảng giải mọi chuyện. Cô ấy nói lâu đài này là hiện thân cho những nỗi sợ hãi của nó. Sự dằn vặt, lo lắng, hay những phiền muộn lâu nay. Tất thảy đều được cất giấu ở đây. Tòa tháp này như tấm gương tương phản giữa những điều tốt đẹp và phần xấu xa nhất được chôn giấu tại đây.

    “Mình chưa hiểu, Lucine.” – June cảm thấy xấu hổ khi phải thú nhận sự thật này.

    Bởi lẽ, nó chẳng hiểu cái quái gì đang xảy ra ở đây cả. Giống như chuyện đang cảm thụ một bức tranh siêu thực. Những hình khối kỳ quái được bện lại bằng những sợi len rối, xoắn vào nhau. Nó đã từng xem bức tranh đó ở trung tâm triển lãm Dallas vào lần đầu lên thăm mẹ Jess.

    Lucine chẳng bộc lộ cảm xúc gì trước sự ngờ nghệch của nó. Cô ấy chỉ im lặng, ngước mắt nhìn lên trên. Vài giọt nước nhỏ xuống từ vách đá, thấm nhanh vào trong nền đất ẩm lạnh. Một mùi khó chịu bốc lên.

    “Mình đang so sánh tòa tháp này và thế giới ngoài kia. Ở đây mọi thứ đều xấu xa. Nỗi sợ hãi. Sự dằn vặt, hay thậm chí cả mối bận tâm, lo lắng của cậu đó nữa June. Cậu hiểu điều tớ đang nói chứ?” – Lucine lại hỏi.

    June ngập ngừng chẳng nói thành lời. Mối bận tâm ư! Nó hiểu, Lucine đang đề cập tới chuyện gì.

    “Thế giới ngoài kia chẳng phải tốt đẹp hay sao? Cậu sẽ chẳng phải lo lắng chuyện gì, chẳng phiền muộn hay vướng bận điều gì. Thế nên, chúng ta chẳng việc gì phải lưu lại nơi này một giây, một phút nào nữa.” – Lucine nói một tràng dài.

    Vẫn hơi chần chừ, bởi nó ghét cay ghét đắng việc lựa chọn hay đưa ra quyết định. Rồi nó nói:

    “Nhưng còn Gavin. Cậu ấy đang lạc đâu đó trong lâu đài, khi con quái vật đang tấn công hai đứa. Cậu ấy đẩy mình vào một góc tối và cứu mình. Mình không thể bỏ rơi Gavin được.”

    Lucine ra chiều suy ngẫm, đi tới đi lui trong một khoảng đất nhỏ phía dưới chân, hai tay vẫn khoanh ngay ngắn trước ngực. Đôi môi mỏng dài bặm lại như có điều khó nghĩ. June thì mải mê nghĩ tới Gavin, nó không thể rời bỏ tòa lâu đài khi chưa tìm thấy cậu ấy. Nếu như vậy thì sự dằn vặt trong nó sẽ chẳng bao giờ được ngủ yên.

    Cả hai người im lặng một quãng khá lâu. Thời gian chầm chậm như hàng tiếng đã trôi qua. Thi thoảng, June thở dài đầy mệt mỏi.

    Lucine lên tiếng phá vỡ bầu không khí u ám. Cô ấy nói:

    “Vậy thế này đi, chúng ta sẽ cùng nhau đi tìm Gavin. Sau đó mới đi phía ngoài, được chứ June?”

    “Dĩ nhiên rồi.” – June bèn nói như mở cờ trong bụng. Nó cảm ơn rồi ôm chầm lấy Lucine.

    “Vậy đi thôi!”

    Lucine rảo bước đi đằng trước, trong ánh sáng nhập nhoạng như ngày tàn, nó cố gắng theo sát để tránh bị lạc đường. Tòa tháp bí ẩn vẫn toát lên vẻ kỳ lạ, ma quái.

    *

    Chúng quyết định đi xuống. Vì June cho rằng, khi căn phòng sụt xuống thì Gavin đã rơi vào một khoảng không gian khác. Khả năng cao cậu ấy vẫn đang mắc kẹt trong đó. Lucine đồng ý với June.

    Thận trọng từng bước xuống bậc thang chạy xoắn quanh lâu đài, June cố gắng xác định nơi nó đã ngã nhưng không thể. Bên cạnh mình, Lucine chẳng tỏ vẻ sợ hãi gì cả. Mặc cho bóng tối bao phủ, cô ấy vẫn phăng phăng tiến về phía trước. Có đôi lúc, June lạc mất Lucine. Nó co giò chạy vội, may thay mà theo kịp. Lucine chẳng nói chẳng rằng, khiến nó sợ hãi hơn. Cả thân người lạnh ngắt, run lên bần bật. Nghĩ vậy, nó bèn lôi cọ vẽ trong túi áo khoác ra. Nó nhắm mắt, quét ngang. Những bóng đèn trong lần lượt hiện ra, xếp thẳng đều tăm tắp, dọc hành lang đi xuống, soi rõ mọi thứ. Như vậy sẽ tốt hơn, June trộm nghĩ trong lòng. Nó giắt cọ vào bên trong túi áo khoác, tự tin bước về đằng trước.

    Lucine đột nhiên quay lại nhìn nó và hỏi:

    “Cậu đang làm gì vậy June?”

    “Mình chỉ muốn thắp sáng một chút thôi, vì không gian tối quá, mình chẳng thể thấy đường.” – June đáp lại.

    Lucine chẳng nói gì nữa, cô ấy rảo bước nhanh về đằng trước, gần như là chạy. Đi hết hành lang xoắn dẫn đến một hành lang rộng hơn. Cảnh tượng quen thuộc trong những tòa lâu đài thời cổ, cột đá nhô cao lên chống đỡ phần mái vòm hình tròn rộng lớn. June ngước lên, một dải sáng leo lét bắt nguồn từ một góc. Nó chuyển động rồi cuối cùng mất hút vào một trong những đám mây đen kịt. June chưng hửng, nó tưởng rằng mình sẽ thấy một cảnh tượng kỳ lạ nào đó. Mây bắt đầu ló dạng. Một hình thù có dáng tròn vành vạnh, hiện ra một nửa, tỏa thứ ánh sáng xanh ma mị.

    “Nhìn kìa, Lucine.” – June la lớn, chỉ tay lên phía trên.

    Lucine ngước lên. Mặt trăng liền mất dạng sau đám mây dày đặc. Khoảng trời tối sầm.

    “Cái đó là gì?” – June thắc mắc.

    “Không gì cả, nhưng cũng chẳng có gì tốt đẹp. Mình mau đi thôi June. Không còn nhiều thời gian để thưởng lãm đâu.” – Lucine thúc giục.

    Chúng băng nhanh qua hành lang rồi rẽ trái, đâm thẳng ra một cái hang rộng lớn. Bên trong hang được nong rộng ra, vài chiếc máy bay trực thăng dễ dàng đậu xuống đây. June nhận định. Đoạn, nó và Lucine lách người qua những cột đá nằm sững sững ngổn ngang trên mặt hang. Phía trên đầu, những măng đá chĩa xuống nhọn hoắt. June thoáng rùng mình, một ý nghĩ khủng khiếp chạy qua đầu nó, nhỡ những măng đá này rơi xuống thì chết chắc. Chưa dứt lời, một măng đá rơi xuống, cắm thẳng phía trước mặt tụi nó. June nhìn sang Lucine, mặt cắt không còn một giọt máu như thể cầu cứu.

    Lucine vội nắm lấy tay June, kéo nó lách qua những cột đá. Nó chỉ kịp ngước nhìn lên trần hang vài giây, trước khi cả thân người bị lôi đi với tốc độ khủng khiếp. Khi ấy, những măng đá bắt đầu rụng xuống, vài cái vỡ tan tành khi va chạm với cột đá, vài cái cắm phập xuống nền đất.

    “Uỵch.”

    June thấy mình lao vào một không gian tăm tối khác, ngã chúi về đằng trước. Lộn vài vòng rồi mới dừng lại. Một tiếng tách vang lên mơ hồ. Theo đó, thứ ánh sáng kỳ lạ bắt đầu soi rõ mọi thứ. Lại trong một căn hầm hình ống. Lúc này phát hiện phần dưới hông trở xuống đang ngập ngụa trong một lớp sình lầy, nó phát hoảng, cố gắng cử động chân nhưng bất lực.

    Từ đằng xa, nó thấy Lucine bắt đầu gượng dậy. Thân người cô ấy khẽ chao đảo, một lát sau mới lấy lại được sự cân bằng. Tiến nhanh lại phía June, Lucine hỏi với giọng điệu lo lắng vô cùng.

    “Cậu có sao không June? Đưa tay đây cho mình!”

    June đưa tay, Lucine nắm lấy, kéo lên. Lớp sình lầy không để lại dấu vết trên người June mà chúng dễ dàng trượt xuống khi rũ. Thật kỳ lạ!

    “Chúng ta đi tiếp thôi, nhưng lần này đừng bỏ tay mình ra nhé!” – Lucine đề nghị. Nó chẳng nói thêm gì, chỉ răm rắp nghe lời. Cảm giác sợ hãi đang dâng lên trong người nó tột độ.

    Hai đứa lại đi tiếp. Qua mấy dãy hành lang, những đường ống ngầm, thậm chí tiếp tục đi xuống những bậc thang lắt léo, nhưng vẫn chẳng thấy tăm hơi Gavin đâu. Lạc đường rồi, June trộm nghĩ. Nó mệt mỏi thực sự, bàn tay trơn ướt muốn vuột khỏi bàn tay của Lucine. Đoạn, nó khụy người xuống nền đá lạnh lẽo. Cả thân thể rã rời, đổ ụp xuống, nó chẳng thể tiếp tục được nữa.

    “June, cậu sao thế?” – Thấy vậy, Lucine bèn hỏi.

    June lắc đầu nói:

    “Mình chỉ thấy mệt thôi. Nghỉ một lát là đỡ.”

    Lucine đỡ nó ngồi xuống nền đá ẩm. Tim nó đập thình thịch, người vã mồ hôi như tắm. Một lát sau, khi đã lấy lại sự bình tĩnh, June và Lucine đứng dậy đi tiếp. Lúc này, hành lang dẫn vào một gian phòng hình tròn, đá nhẵn thín và bóng loáng như gương. Nó ngó mình xuống dưới, cả thân hình méo mó hiện ra, chẳng thể nhìn rõ gì.

    “Cậu có nghĩ đã có chuyện gì xảy ra với Gavin không June?” – Lucine dò hỏi.

    June lắc đầu nói:

    “Mình không biết, cảm giác như chúng ta đang bị lạc.”

    “Mình cũng nghĩ thế. Và mình còn nghĩ tới một trường hợp xấu hơn.” – Lucine nói.

    June biết cô ấy đang đề cập tới chuyện gì, đó là trường hợp xấu nhất. Có thể, nó sẽ chẳng bao giờ tìm thấy Gavin nữa, thứ gì đó đã nuốt chửng cậu ấy chẳng hạn. June lắc đầu nguầy nguậy, không thể nào. Nó cố gắng xua tan ý nghĩ tiêu cực đó.

    “Không thể...”– June thẳng thừng phủ nhận... – “Gavin sẽ không sao đâu. Đi tiếp thôi!”

    Lucine thở hắt ra một cái, vẻ chán chường hiện rõ trên gương mặt cô ấy.

    Khoảng im lặng trở lại giữa hai người, từng khoảnh khắc chầm chậm trôi. Lucine lên tiếng:

    “Cậu biết tại sao khi ở đây, cậu luôn có cảm giác sợ hãi, lo lắng không June?”

    “Vì những thứ đó được cất giấu ở đây. Cậu đã nói thế.” – June đáp lời.

    “Đúng! Mình đã nói thế, nhưng mọi chuyện không đơn giản như vậy đâu. Cậu có nhớ những hành động của mình trong quá khứ không, vào những lúc cậu tỏ ra bực bội. Bị đám con gái trong nhóm của Ruby chòng ghẹo. Lần đó cậu đã làm gì?” – Lucine lại hỏi.

    “Mình...” – June ngập ngừng nói chẳng thành lời.

    “Cậu đã đốt những bức tranh. Có phải hành động đó khiến cậu cảm thấy như giải tỏa được những phiền muộn, ấm ức, thậm chí cả những nỗi đau ở hiện tại, đúng không?”

    June lặng lẽ gật đầu. Lucine bèn nói tiếp:

    “Ở thế giới thực, mọi sự đau khổ, áp lực mà cậu phải chịu đựng hằng ngày, ở trường lớp, thậm chí là ở nhà. Chúng sẽ dần lớn lên trong cậu, trong khi bản thân cậu quá nhỏ bé để có thể chịu nổi chúng. Từ đó mới sinh ra những hành động tiêu cực như vậy. Còn ở thế giới này, cậu sẽ chẳng bao giờ chịu áp lực, rồi buộc phải nổi giận như thế. Huống chi ở đây cậu chẳng đang cầm nắm chiếc chìa khóa - cây cọ vẽ để tạo ra những điều kỳ diệu hay sao.”

    Nó vẫn im lặng, một cảm giác gì đó như sự hối hận dấy lên trong người. Nó nói:

    “Mình xin lỗi, Lucine. Mình sẽ không bao giờ như vậy nữa. Mình hứa.”

    Lucine mỉm cười, rồi cô ấy ôm chầm lấy thân thể nhỏ bé, yếu ớt của nó.

    “Đừng lo, June! Có mình luôn ở bên cạnh cậu, bất cứ khi nào. Còn giờ mình đi ra ngoài thôi, bên ngoài thế giới.”

    “Nhưng còn Gavin nữa?” – June thắc mắc.

    “Gavin ư! Chúng ta đã đi tìm cậu ấy, nhưng cậu biết kết quả như thế nào rồi June. Những cạm bẫy giăng mắc khắp tòa tháp này, nếu còn ở lại, mình e rằng, chúng ta khó có thể thoát ra. Không thể bị chôn vùi ở đây được.” – Lucine giải thích một lần nữa.

    June vẫn chần chừ không nói, vì chưa biết tình trạng của Gavin giờ ra sao. Nhưng ngẫm lại cảnh tượng khủng khiếp ban nãy trong hang đá, nó lại thấy rùng mình ớn lạnh. Sự mâu thuẫn lại xuất hiện trong lòng, nó chẳng biết thế nào. Nó căm ghét những quyết định hay lựa chọn. Lucine vẫn nhìn nó dò hỏi, như cầu khẩn nó mau đưa ra quyết định của mình. Gavin đã nhiều lần xả thân để cứu mạng nó. Hồi còn học ở trường, chẳng phải lúc nào cậu ấy cũng ở bên nó sao, nhất là những khi nó buồn? Và chẳng phải cậu là người nó luôn nhớ tới sao, ngay cả trong thế giới này?

    “Đừng chần chừ nữa, June, chúng ta mau đi thôi!” – Lucine giục June.

    “Gavin đã từng cứu mình, Lucine. Hơn một lần.” – June quả quyết.

    “Điều đó cũng chẳng có nghĩa lý gì, khi cậu ấy chỉ tồn tại dưới dạng linh hồn thôi. Sự dằn vặt trong cậu đang ngăn cản cậu đó. Biết không?” – Lucine nói lớn, gần như là hét.

    “Sự dằn vặt ư?” – June ngạc nhiên hỏi lại.

    “Cậu luôn luôn dằn vặt về cái chết của Gavin mà. Cậu ấy rơi xuống vực ngay trước mắt cậu.”

    Lucine nói thêm, nếu như nó rời khỏi tòa lâu đài này thì sự dằn vặt về cái chết của Gavin sẽ được chôn vùi ở đây. Cậu ấy cũng sẽ không hối hận, hay tự trách móc bản thân về bất cứ điều gì nữa.

    June im lặng. Khi ấy, Lucine vẻ như mất bình tĩnh. Cô ấy vội buông tay June ra, đứng nghiêm trang, nhắm nghiền mắt như lẩm bẩm điều gì đó. Đột nhiên, một luồng sáng tỏa ra từ người cô ấy. Theo phản xạ, June nhắm tịt mắt lại, một lát sau mới mở ra.

    Trước mặt nó chính là Gavin. Nguyên vẹn, hoàn hảo. June á khẩu chẳng nói được gì. Lucine lên tiếng, đồng thời nở một nụ cười bí hiểm:

    “Chẳng phải Gavin đó sao, cậu ấy chỉ tồn tại giống như một linh hồn nhỏ bé, dễ biến mất bất cứ khi nào và ngược lại. Mình dễ dàng tạo ra hàng trăm ngàn phiên bản như thế này.”

    June tiến gần sang phía Gavin. Ánh mắt cậu nhìn về khoảng không trung. Trống rỗng. Vô hồn. June thử chạm vào bàn tay cậu, một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Nó rùng mình lùi lại.

    June nhận ra, đó không phải là cậu ấy. Chỉ như một bản sao rỗng tuếch, không có linh hồn.

    Nó nhìn về phía Lucine đầy vẻ ngờ vực.
     
  15. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XIII

    QUÁI VẬT RỄ CÂY
    Jess nhón lấy một tập san về sức khỏe định kỳ dưới quầy ăn nhanh bệnh viện. Bà vừa ăn vừa xem vài mẩu tin quảng cáo về một số phòng khám tư hay bệnh viện hòng tìm thấy một địa chỉ đáng tin cậy hơn nhưng không có. Jess bực dọc, bà chẳng thể tìm thấy chút thông tin hữu ích nào cả. Jess tiện tay lẳng luôn chiếc bánh hamburger đang ăn dở vào thùng rác, vẻ mặt bà tỏ rõ sự mệt mỏi, chán chường.

    Jess quay lại phòng bệnh, đã hơn 7 giờ tối. Jared đang chăm chú vào chiếc điện thoại của mình.

    “Em đã đi đâu đấy?” – Jared hỏi khi thấy Jess bước vào phòng.

    “Ăn chút gì đó thôi.” – Jess đáp gọn lỏn.

    “Anh có tìm thấy một cơ sở khá tốt ở Chicago, chuyên điều trị hôn mê thực vật. Chúng ta thử liên lạc tới đó xem sao?” – Jared trình bày sau khi rời mắt khỏi màn hình điện thoại.

    “Anh ghi số điện thoại và địa chỉ ra giấy đi! Chúng ta sẽ thử liên hệ xem sao.” – Jess đáp lại như thể cho có; giờ bà chẳng tin nổi mấy thứ thông tin rác rưởi trên internet nữa.

    Jess ngồi lại bên giường bệnh, vẻ mặt thẫn thờ, vô hồn.

    Mấy hôm nay hai người chia nhau tìm thông tin trên mạng internet, tra cứu mục sức khỏe, hay hỏi đáp trực tuyến với những chuyên gia có tiếng. Thậm chí Jess đã nhờ tới sự hỗ trợ của Richard – chồng mình, nhưng kết quả vẫn chỉ là con số không. Những người hàng xóm của Jared cũng lần lượt động viện họ, nhưng Jess chán ngấy những chuyến thăm hỏi như thế; hơn hết, con gái bà cần một không gian thật sự yên tĩnh để có thể hoàn toàn bình phục.

    Có tiếng gõ cửa nhẹ, đều đặn phía bên ngoài. Jared vội đứng dậy, mở cửa.

    Đó là ông bà White – bố mẹ của Gavin. Họ đang đứng trước cửa, mỉm cười thân thiện, trên tay còn xách theo một giỏ hoa quả đầy ụ; lúc nào họ cũng chu đáo như thế.

    “Ông bà White...” – Jess đứng dậy, có phần luống cuống... – “Mời ông bà vào chơi.”

    Hai người gật đầu như nói cảm ơn, rồi từ tốn bước vào phòng. Bà White tiện tay đưa giỏ trái cây cho Jess.

    “Chúng tôi biết tình hình của June đã lâu nhưng do không sắp xếp được công việc nên bây giờ mới tới thăm được. Mong ông bà thông cảm.” – Bà White nói, trong khi ông White đang thì thầm điều gì đó với Jared bên cửa sổ.

    “Không có gì...” – Jess bèn nói. – “... Ông bà bỏ chút thời gian tới là chúng tôi vui rồi, nhớ hồi đó June và Gavin lúc nào cũng kè kè bên nhau như hình với bóng. Nhưng tiếc thay...”

    Jess có phần ngập ngừng trong giọng nói, bà White thấy vậy liền lên tiếng:

    “Không sao, chúng tôi hiểu những gì hai người đang trải qua, vì chúng tôi đã từng ở trong tình cảnh đó rồi. Điều bà cần làm bây giờ là sự bình tâm thôi Jess ạ! Hãy chờ đợi!”

    Sau đó, mẹ của Gavin đỡ tay Jess ngồi xuống ghế, tiện thể rót một cốc nước, đưa cho Jess.

    “Cảm ơn bà.” – Jess cầm lấy và nói.

    Hai người đàn ông vẫn thì thầm bên cửa sổ. Bà White ra hiệu cho chồng ngồi xuống bên mình. Jared cũng nhấc chiếc ghế ở bên cạnh giường bệnh và ngồi xuống. Phía bên ngoài, dưới ánh đèn trầm đục, Jess như thấy những tinh thể màu trắng đang lặng lẽ rơi xuống. Tuyết đầu mùa, Jess thầm thì trong lòng.

    “Sắp tới Giáng sinh rồi, không biết hai ông bà có ý tưởng nào về buổi lễ không?” – Một lát sau bà White đưa ra gợi ý; ông White cũng mỉm cười đồng thuận.

    “Thú thực là chúng tôi chưa có ý tưởng nào về chuyện này cả, nếu như bà không nói, tôi đã quên luôn ngày lễ này rồi.” – Jared lên tiếng thú nhận.

    “Mải nghĩ tới con bé mà tôi đã gần như quên béng đi dịp lễ quan trọng này.” – Jess đế thêm.

    “Chúng tôi có ý kiến thế này. Không biết là ông bà có bằng lòng không?” – Ông White lên tiếng.

    Họ đã có ý định từ trước, về việc lên kế hoạch tổ chức một buổi lễ chào đón Giáng sinh sớm ngay tại bệnh viện này. Mọi thứ sẽ được tổ chức đơn giản nhất có thể. Không ồn ào, phô trương. Ông bà White cũng nói thêm, họ đã chuẩn bị hầu như đầy đủ mọi thứ, chỉ còn chờ sự đồng thuận từ Jared và Jess mà thôi. Cả hai người chấp thuận sau khi đã thảo luận với nhau.

    Họ cũng nhận được sự chấp thuận từ phía bệnh viện. Sau đó, những chiếc đèn led, đèn neon được trang trí bên cửa sổ, trên bức tường, thậm chí cả bên giường bệnh. Ông bà White còn cho đặt một cây thông Noel nhỏ ngay giữa căn phòng, phía bên dưới là cơ số những hộp quà tượng trưng. Họ tổ chức bữa tiệc Giáng sinh sớm trong sự lặng lẽ và cùng nhau cầu nguyện.

    ***


    Gavin men theo những bức tường ẩm ướt trong tòa lâu đài. Ánh sáng dần bị bóng tối xâm chiếm nên không thể nhìn thấy gì. Bước đi chậm rãi hết sức, thi thoảng cậu sơ ý giẫm phải một vũng nước đọng lại trên đường. Gavin đang cố gắng đánh lạc hướng con quái vật. Cậu thắc mắc không biết June đã chạy thoát khỏi tòa lâu đài hay chưa? Cậu lo lắng nửa như muốn quay lại, nhưng hiện giờ cậu đang bị lạc đường. Con quái vật cũng không thấy tăm hơi đâu nữa. Thảng hoặc, vọng lại từ đằng xa là những tiếng động kỳ lạ, nghe rợn người. Đoạn, Gavin rảo bước nhanh, gần như là chạy.

    Cố giữ cho tâm trí bình tĩnh nhất có thể, nhưng cứ mỗi bước chân Gavin lại thấy tim mình đập nhanh hơn bình thường, cảm tưởng như muốn nhảy phắt ra khỏi lồng ngực. Đôi chân cậu bủn rủn. Thi thoảng vừa đi cậu vừa ngoái lại đằng sau để xem xét tình hình, nhưng con đường ngày càng tăm tối, mịt mù hơn.

    Đột nhiên tiếng cộp cộp vang lên đều đều, như ai đó đang nện mạnh gót giày xuống nền đá. Càng tiến về đằng trước, Gavin như dự cảm được sự chẳng lành. Tiếng động lạ ngày một rõ hơn. Theo đó, những quầng sáng xuất hiện khiến mọi thứ hiện ra rành rành.

    Gavin thấy lối đi như được mở rộng, con đường dần hiện rõ với dáng vẻ trầm mặc. Nhưng không hẳn là một con đường, cậu phủ nhận, mà là một hành lang vô cùng rộng lớn. Phía bên cạnh là những cột đá cao chừng hai mươi mét với chu vi lớn. Không giống những cột đá trơn nhẵn được chạm khắc hoa văn phức tạp, mà chỉ là những phiến đá xù xì, góc cạnh được xếp chồng lên nhau, khéo léo từng viên một cho tới khi tạo nên một cột đá thẳng đứng, khổng lổ. Gavin ngước nhìn lên trên, những cột đá có chức năng nâng đỡ phần mái vòm cũng khổng lồ không kém. Phần mái vòm có phần đặc biệt với những họa tiết kỳ quái, mang màu sắc u tối, tạo nên một bức tranh siêu thực vĩ đại. Gavin nghĩ, có ngồi hàng giờ đồng hồ thì cậu cũng không thể nào lý giải nổi chúng.

    Một dải ánh sáng leo lét xuất hiện trên bức tranh mái vòm. Ban đầu chỉ dài hơn phần cánh tay một chút, nhưng sau đó nó bắt đầu chuyển động theo hình zíc zắc. Gavin tò mò đi theo chuyển động đó, cho tới khi nó dẫn tới trung tâm của bức tranh. Một mặt trăng to, tròn vành vạnh hiện ra và đang tỏa ra thứ ánh sáng xanh lá cực kỳ ma quái. Thứ ánh sáng dường như khiến Gavin nhức nhối. Cậu dụi mắt mấy lần rồi cắm cúi chạy nhanh về phía trước.

    Tới một đoạn, Gavin buộc phải rẽ trái vì không có hướng đi nào khác. Con đường dẫn cậu ra một căn phòng rộng lớn, hình tròn. Cậu ngước nhìn lên trên, chẳng có phần mái vòm nào cả, mà chỉ là một khoảng trời rộng lớn. Trên đó, những dải sáng đủ màu sắc bắt đầu cuộc trình diễn, như hiện tượng bắc cực quang nổi tiếng của vùng cực. Bên bức tường, xếp đều đặn những cánh cửa màu đồng đen, nom nặng trịch. Khung cảnh này khiến Gavin liên tưởng tới đấu trường La Mã huyền thoại trong truyền thuyết. Tuy chỉ khác một điều, cậu không phải là một đấu sĩ quả cảm, mà chỉ là một ký ức tồn tại đang ra sức bảo vệ cô bạn thân của mình mà thôi.

    Những cánh cửa dần hiện ra rõ hơn. Không phải màu đồng đen như Gavin thấy ban nãy mà là màu cánh gián, nhẵn bóng và không có nắm đấm cửa. Trên mỗi cánh cửa còn được khắc một dấu hiệu bí ẩn có hình dạng tròn. Gavin xoay người, thử đếm xem có bao nhiêu cánh cửa. Cậu nhận ra có tất cả năm cánh cửa, trên mỗi cánh cửa cũng đánh số thứ tự La Mã từ một đến bốn, cánh thứ năm lớn hơn thì không ghi gì.

    “Cạch.”

    Đột nhiên, cánh cửa I bật mở. Làn khói đen ngòm xịt ra, thoáng chốc rồi tan nhanh vào không khí. Một hình hài hiện ra trong ánh sáng. Với thân hình chỉ cao chừng một mét, cái đầu trọc nhẵn thín không mọc tóc. Hắn có đôi mắt xếch, đồng tử màu trắng dã, còn cái tai thì nhọn hoắt trông như một tên yêu tinh trong giai thoại xa xưa của người dân Bắc Âu.

    Hắn từ từ bước ra, dáng đi hơi chúi về phía trước. Tay trái hắn còn kéo lê theo một cây chùy lớn, trên đó gắn đinh lởm chởm. Tên quỷ lùn giương đôi mắt trắng dã về phía Gavin, miệng nở một nụ cười khinh khỉnh để lộ những chiếc răng vàng khè to bản, bẩn thỉu.

    Hắn quăng chiếc chùy đang cầm trên tay vào Gavin, nhưng cậu nhanh chóng thụp người xuống né kịp. Chiếc chùy lao trúng phía đối diện, một mảng tường lớn vỡ vụn và rơi xuống đất. Nếu như Gavin né không kịp thì có lẽ cậu đã tiêu đời rồi. Gavin cố gắng lục lọi xem trong ba lô của mình có thứ gì dùng được không, cậu không thể sử dụng con dao như những lần trước nữa. Phải có thứ gì đó lớn hơn; may thay, cậu tìm được một chiếc rìu chặt cây cỡ nhỏ được ba cậu chuẩn bị cho những chuyến dã ngoại.

    Bằng một sức mạnh thần bí, chiếc chùy ngay lập tức quay lại, nằm gọn trong bàn tay tên quỷ lùn. Hắn nắm chặt cả hai tay vào chùy, giơ cao lên và lao thẳng về phía Gavin. Cậu giơ rìu lên đỡ, sém chút nữa thì chiếc rìu đã văng khỏi tay cậu, một cảm giác bỏng rát lan khắp bàn tay rồi tới cánh tay.

    Lúc này, tên quỷ lùn mau chóng thực hiện đòn tấn công thứ hai với tốc độ nhanh hơn. Gavin né người sang bên trái, cú đánh này dù né được nhưng cũng khiến cậu loạng choạng rồi ngã uỵch xuống đất, đau điếng. Tên quỷ lùn vẫn chưa tấn công, dù hắn chỉ đứng cách cậu chưa đầy hai mét. Gavin lấy làm lạ trước cảnh tượng này – hắn đứng hơi nghiêng, đầu cúi xuống, tai như dỏng lên để nghe ngóng gì đó. Gavin chợt nhận ra, hắn không nhìn thấy cậu. Hắn chỉ có thể tấn công nương theo tiếng động mà thôi.

    Như hiểu ra mọi chuyện, Gavin gắng gượng đứng dậy, dù cả phần thân dưới đau điếng. Cậu như nín thở, lặng lẽ di chuyển về phía bức tường, chậm, thật chậm. Tên quỷ lùn vẫn không ngừng nghe ngóng, hắn dỏng tai lên, tiến thoái tới lui trong một khoảng diện tích khá nhỏ dưới chân mình. Trên tay hắn vẫn lăm lăm cây chùy sẵn sàng tấn công khi có thể. Lúc này Gavin đã tiến gần tới bức tường, chỗ đất đá vỡ vụn dưới nền đất do chiếc chùy của tên quỷ lùn gây ra. Gavin hít một hơi thật nhẹ qua lỗ mũi, trái tim đập dồn như trống trận của cậu cần một chút dưỡng khí. Liệu tên quỷ lùn kia có nghe thấy mình không? Hay là hắn đang cố gắng ngửi một cái gì đó; Gavin biết, một số sinh vật không thể nhìn nhưng bù lại chúng có thính giác cực kỳ tốt. Mồ hôi ướt đẫm trên mái tóc, khuôn mặt cậu, nỗi sợ hãi tới một ranh giới nào đó như muốn ăn mòn tâm trí cậu.

    Đoạn, Gavin từ từ ngồi xuống, cậu cố gắng nắm thật chặt chiếc rìu đang trở nên nặng trịch, như muốn ghì bàn tay mình. Lỡ như chiếc rìu rơi xuống, hay chỉ cần chạm khẽ vào nền đá thì chắc cậu tiêu đời. Rồi, Gavin nhanh tay lựa một hòn đá cỡ vừa. Cậu đứng thẳng người, lấy hết sức ném mạnh vào bức tường đối diện. Hòn đá ném trúng cánh cửa đồng, tạo nên một tiếng choang lớn giống như tiếng cồng. Tiếng động lớn khiến tên quỷ lùn giật nảy mình lùi lại vài bước, như thể hắn sắp té ngã tới nơi. Nhưng không, hắn bắt đầu xoay người tứ phía vẻ như hoảng hốt. Không để cho hắn có cơ hội, Gavin nhặt viên đá thứ hai ném mạnh về phía trước, nhưng lần này cậu chọn một hướng khác. Tên quỷ lùn xao nhãng, hắn đang cố lắng nghe để xác định đúng hướng tấn công, nhưng vô ích. Nắm được thế chủ động, Gavin tiếp tục ném đá loạn xạ theo những hướng khác nhau, tên quỷ lùn dường như bực tức vì hàng tá tiếng động đang khiến hắn mất phương hướng. Nhân lúc đó, Gavin lăm lăm chiếc rìu trong tay chạy nhanh về phía hắn, cậu giơ chiếc rìu lên, bổ một nhát chí mạng xuống đầu tên quỷ lùn.

    Hắn bàng hoàng ngước lên, nhưng không kịp trở tay nữa khi lưỡi rìu của Gavin đã cắm xuống, bửa đôi cái đầu nhẵn thín của ra. Hắn há hốc miệng đầy kinh hãi. Một dòng máu đỏ sậm túa ra, rồi lơ lửng bay trong không trung. Thân hình rúm ró của hắn đổ ụp xuống, chảy xệ ra như tảng sáp bị hơ nóng quá mức, cuối cùng chỉ là đống bầy nhầy, kinh tởm. Thứ sót lại chỉ là những hạt bụi lấp lánh phản chiếu với ánh sáng, một lát sau thì hoàn toàn biến mất khỏi căn phòng.

    Hai cánh cửa tiếp theo đánh số II, III lần lượt được mở ra. Khi làn khói biến mất, những hình thù quái dị dần dần hiện rõ. Chúng có hình dáng của một người trưởng thành, gương mặt dài giống như một con dê với cặp sừng dài, mắt sáng như những sinh vật sống về đêm, hai cánh tay hình thanh kiếm dài ngoằng, nhọn hoắt. Gavin cố gắng lục lọi trong tâm trí để có thể hình dung rõ ràng về sinh vật này nhưng cậu không thể.

    Chúng ngước nhìn lên khoảng trời u tối phía trên đầu. Hàng chục đốm sáng bắt đầu xuất hiện nhưng không phải những ngôi sao. Đám mây đen đặc bắt đầu tách ra, nhường chỗ cho một mặt trăng tròn vành vạnh. Những ánh mắt sáng quắc phản chiếu với ánh trăng. Không gian càng trở nên ma mị hơn. Chúng ném cái nhìn đầy hăm dọa sang bên Gavin khiến cậu rùng mình, ớn lạnh.

    Một con phóng nhanh về phía cậu, chĩa cánh tay dài nhọn của nó hòng đâm một nhát trí mạng. Gavin né nhanh người sang bên trái như một kỵ sĩ thực thụ. Con quái thú mất đà suýt nữa đâm sầm vào bức tường đối diện. Cú mất đà làm nó chững lại đôi chút. Nhanh chóng quay người, cậu đẵn một nhát rìu vào ống quyển khiến nó khụy xuống, hai cánh tay ôm lấy chân vẻ đau đớn. Nhân cơ hội đó, cậu bổ nhát rìu ngay giữa lưng con quái thú, nó gục xuống đất nhưng vẫn chưa chết, mà đang gắng gượng bò dậy. Thấy vậy, cậu tiếp tục bổ thêm một nhát rìu nữa trúng gáy con quái thú, cái đầu gần như lìa khỏi cổ nó. Con quái vật im hẳn, không cựa quậy được nữa, dòng máu đen sì bắt đầu rỉ ra từ cổ, rồi sau đó, cả thân thể nó dần xẹp lép, rữa ra và tan biến.

    Mải để ý tới những hạt bụi lấp lánh bay lên sau đó, một cú thúc vào mạn sườn bên phải khiến Gavin đau nhói, cậu la lên. Con quái thú còn lại đã đâm lén khiến Gavin ngã lăn ra, chiếc rìu liền rơi khỏi tay cậu. Gavin thử sờ tay lên mạn sườn, cảm giác ươn ướt, hình như máu đã bắt đầu chảy. Cậu cố gắng hít một hơi thật sâu, cung cấp ôxi cho hai buồng phổi. Lúc này Gavin không chắc, mình có thể cầm cự trong bao lâu nữa. Định thần lại Gavin mới phát hiện ra, mình đã ngã lên một vật thể cưng cứng nào đó trong ba lô. Cậu nhấc người lên thì phát hiện, đó là chiếc đèn pin chuyên dùng cho những buổi cắm trại.

    Từ đằng xa, trong ánh sáng nhập nhoạng, Gavin nhìn thấy hai con quái thú còn lại đang lao nhanh về phía cậu, chĩa những cánh tay nhọn hoắt ra tấn công. Gavin không còn cách nào khác, theo phản xạ, giơ chiếc đèn pin rồi bật lên. Mắt vẫn nhắm nghiền, cậu nghĩ rằng, chỉ còn nước chết thôi, những thanh kiếm sẽ đâm toạc bụng cậu. Nhưng lạ thay, một âm thanh kỳ lạ phát ra từ những con quái thú, giống như tiếng kêu rin rít nhẹ, nhưng gây ra đau đớn nghiêm trọng. Gavin bèn mở mắt, tay phải vẫn nắm chặt chiếc đèn pin, hóa ra ánh sáng từ chiếc đèn pin đã gây lóa mắt khiến chúng đau đớn. Con quái thú đang khụy người xuống. Nhanh như cắt, Gavin vội lấy lại chiếc rìu của mình.

    Tay trái cầm đèn pin, tay phải lăm lăm chiếc rìu, Gavin chạy lại, mau chóng tiêu diệt con quái thú còn lại. Từng nhát rìu trí mạng bổ xuống cơ thể nó, những dòng máu đen sì không ngừng xối ra, bay lơ lửng trong không trung như bong bóng, rồi bỗng chốc tan biến, hóa thành những hạt bụi lấp lánh như ban nãy.

    Bỗng nhiên, một thứ gì đó tác động mạnh đến tâm trí Gavin. Vài dư ảnh thoáng qua, không rõ ràng. Cậu chực đổ ụp người, tay vẫn cầm chặt chiếc rìu chống xuống, hai đầu gối khụy xuống nền đất.

    “Cạch.”

    Cánh cửa đánh số IV mở ra. Làn khói đỏ xịt ra giống như lúc mở đầu màn kịch, và diễn viên sẽ bước ra sau đó. Nhưng trong hoàn cảnh này, sẽ không có diễn viên nào cả. Gavin tự nhủ, không biết thứ quái quỷ nào sẽ lại xuất hiện đây.

    Khói biến mất. Một dáng hình nhỏ nhắn hiện ra. Mái tóc nâu dài thẳng, rũ xuống, rối bời.

    “June. Là cậu?” – Gavin ngạc nhiên thốt lên.

    June không nói gì mà tiến lại phía Gavin, đôi chân trần trắng nhợt chầm chậm bước đi, không gây tiếng động. Gavin để ý trên tay phải của June có cầm theo cả chiếc cặp giấy, tay trái thì cầm cọ vẽ te tua.

    “Chẳng phải cậu đang ở ngoài tòa tháp sao June?” – Gavin vẫn không thôi thắc mắc.

    June đang đứng trước mặt, nhưng tại sao cậu ấy lại im lặng như thế? Lẽ nào là ảo giác? Lẽ nào chỉ là một cái bóng mà thôi? Gavin không thôi tự hỏi bản thân, nhưng đầu óc cậu trống rỗng, chẳng thể tìm ra câu trả lời.

    June tiếp tục nhìn cậu, xoáy ánh mắt lạnh lùng, vô cảm khiến cho Gavin thoáng rùng mình lùi lại.

    “Cậu làm sao vậy June?” – Gavin mất bình tĩnh, cậu dùng hai tay lay mạnh bả vai June.

    Gavin thấy người June lạnh như băng. Vẫn không có biểu cảm gì, trông June khi ấy chẳng khác gì một con rối vô hồn đang được nghệ nhân điều khiển. Đột nhiên, cậu ấy ngước lên bầu trời đang tỏa ra thứ ánh sáng xanh ma mị, mắt đỏ khé một màu, toàn thân co giật. Gavin thét lên kinh hãi. Cậu giật lùi lại phía sau, té ngã. Đó không phải là June!

    Con rối lao vào Gavin, vươn đôi tay gớm ghiếc thộp lấy cổ họng cậu, bóp chặt. Gavin thấy khó thở, mắt cậu ứa lệ. Không gian xung quanh cậu cứ mờ nhòe rồi tối dần. Cậu cố gắng dùng hai tay để gỡ ra nhưng không thể. Nó càng siết chặt hơn, tiếng khè khè đắc chí phát ra từ khuôn miệng rộng đen ngòm.

    Quơ quào xung quanh, cậu chộp được chiếc rìu, giáng mạnh một cú vào đầu nó. Cậu thấy cổ họng dần dần được nới lỏng, không gian sáng rõ trở lại. Gavin nhận ra con rối đang loạng choạng, mất phương hướng, có lẽ nó hơi choáng sau cú đập ban nãy. Không để nó trở tay, cậu vung rìu lên, bổ xuống. Con rối đổ gục dưới chân cậu như một đống giẻ lau bùi nhùi, bẩn thỉu. Nó mau chóng rữa ra rồi biến mất như những con quái vật ban nãy.

    Đột nhiê,n vài hình ảnh chạy nhanh qua đầu cậu, hệt như vừa trải qua một giấc mơ, một thước phim tua nhanh. Gavin nhìn thấy một cô gái tóc dài lang thang đi một mình trong khuôn viên trường học, tay ôm khư khư xấp giấy vẽ được xếp gọn gàng. Lại một hình ảnh khác, vẫn là cô gái ấy. Cô đang ngồi trong lớp nhưng mắt lơ đãng nhìn ra ngoài khung cửa sổ, như đang tưởng tượng điều gì. Ở khung cảnh cuối cùng, cô gái ngồi một mình trên thảm cỏ, xung quanh là những tiếng la ó, cười cợt của đám hình nhân không nhìn rõ mặt. Gavin chợt hiểu ra, những con quái vật mình vừa giết ban nãy là tượng trưng cho những nỗi sợ hãi của June; chừng nào cậu ấy chưa thôi sợ hãi thì chúng vẫn tồn tại.

    Cánh cửa lớn không đánh số cuối cùng cũng bật mở. Từng tiếng dậm chân mạnh khiến cả gian phòng rung lên bần bật. Một sức mạnh khủng khiếp! Gavin bèn đứng dậy, tay nắm chặt lấy chiếc rìu, sẵn sàng tư thế phản công. Một bàn chân to lớn, gớm ghiếc. Con quái vật dần dần ló mặt ra. Nó cao hơn hai mét, với những chiếc rễ cây sần sùi bện chặt lại, hay xoắn vào nhau tạo nên những bộ phận trên cơ thể. Hai cánh tay khổng lồ dài ngoằng, tua tủa những chiếc gai sắc nhọn. Đôi mắt và miệng của hắn là hai cái hốc tối đen ngòm, không có tròng mắt.

    Hắn không buồn đe nạt tinh thần của Gavin mà lao vào tấn công ngay. Vươn một cánh tay lên không trung, rồi hắn quất mạnh xuống nền nhà, những viên gạch vỡ vụn, văng lên tung tóe dưới sức mạnh khủng khiếp ấy. Gavin lăn người qua bên phải né kịp, đồng thời cậu bổ chiếc rìu xuống, một đoạn rễ lớn đứt lìa khỏi cánh tay. Tuy nhiên ngay sau đó, từ chỗ bị chặt đứt bỗng nhiên mọc ra một nhánh khác, y như ban đầu.

    Gavin kinh hãi hòng tìm cách trốn chạy khỏi căn phòng, nhưng đầu óc cậu quay cuồng không thể xác định được phương hướng. Một cánh tay của con quái vật quật trúng người khiến Gavin văng ra một khoảng cách khá xa. Lưng đập vào tường đá, cậu có cảm giác như vài chiếc xương sườn đã gãy. Gavin thấy khó thở, cổ họng nghẹn ứ lại, nhưng cậu vẫn gắng gượng đứng dậy. Lúc này, một chiếc rễ đã quấn chặt lấy chân, cậu ra sức chặt, chiếc rễ đứt lìa, cậu toan bỏ chạy. Gavin nhận ra mình không thể đấu lại con quái vật này. Nỗi sợ hãi vẫn còn trong lòng June, nếu như cậu vẫn cố gắng chiến đấu thì chẳng khác nào tự sát cả.

    Gavin cố lách người, trườn thân mình khỏi những chiếc rễ đã bắt đầu lan ra, tua tủa, đâm toạc xuống nền gạch, xới tung căn phòng. Những nhánh cây lan nhanh tới một cái hốc như thể muốn bịt nó lại. Đó chính là lối ra, Gavin mừng rỡ thốt lên trong lòng.

    “Gavin! Cậu đang ở đâu thế?” – Giọng nói quen thuộc của June vang lên, lọt vào căn phòng.

    Lấy hết sức bình sinh, Gavin chạy lại, khéo léo băng qua những nhánh rễ đang xâm chiếm căn phòng, rồi cậu quăng mình qua cái hốc đang bắt đầu bịt lại. Gavin chẳng thèm để ý nó sẽ dẫn mình đi tới đâu. Cậu chỉ thấy mình như đang trượt trong một đường ống khổng lồ. Cậu trượt mãi, cho tới khi rơi phịch xuống nền cát ẩm. Vội đứng dậy, cậu nhận ra mình đang ở một đường hầm tối thui. Phía cuối đường, một tia sáng le lói giống như một cánh cửa đang hé mở. Gavin cắm cúi chạy một mạch về hướng đó.
     
  16. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XIV

    QUYẾT ĐỊNH CỦA JUNE
    Gavin tiếp tục chạy, gió rít mạnh hai bên tai. Gã quái vật rễ cây vẫn kiên trì truy đuổi. Liếc nhanh sang hai bên, cậu thấy những nhánh cây vẫn lan ra, bò lổm ngổm trên tường, cả phía dưới chân xới tung lớp nền đá. Mấy lần chúng ngáng qua đường tạo thành chướng ngại vật, phải khó khăn lắm Gavin mới vượt qua.

    Càng chạy cậu càng thấy ánh sáng soi rõ hơn, phía trước mặt là một căn phòng hình tròn. Cậu nhìn thấy hai dáng người nhỏ bé đang đứng đó. Gavin bèn tăng tốc, hai dáng người hiện rõ dần. Một người chính là June. Cô gái lạ mặt còn lại thì cậu chưa nhìn thấy bao giờ. Đúng lúc này Gavin nhận ra gã quái vật không còn truy đuổi nữa, những nhánh cây thu lại, lùi dần vào bóng đêm, rồi bất chợt mất dạng.

    “Gavin...”

    June vội lên tiếng khi nhận ra Gavin. Nó chạy lại xem cậu có làm sao không. Mồ hôi ướt đẫm người, còn gương mặt thì tái mét, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập. Gavin vẫn còn sợ, dù June không biết cậu đã gặp sự cố khủng khiếp như thế nào. Nó dùng tay áo lau mồ hôi trên trán, hai bên má của cậu. Một mặt giữ cho cậu bình tĩnh, mặt khác như muốn nói rằng cậu đã an toàn rồi.

    “Mình không sao...” – Gavin hổn hển đáp. – “... Chúng ta... mau rời khỏi nơi này thôi June. Không thể ở đây thêm một phút nào nữa.”

    “Sao cơ?” – June hỏi lại.

    “Cậu phải rời khỏi thế giới này ngay lập tức.” – Gavin đáp gọn lỏn.

    June dường như vẫn chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra; nhìn thấy bộ dạng lấm lem và sợ hãi như mọi lần của Gavin, nó chỉ thấy lo lắng cho cậu. June không nghĩ được gì trong tình huống này.

    “Cậu không nhìn thấy những gì vừa xảy ra hay sao?” – Gavin lại hỏi.

    June vẫn chưa trả lời. Thi thoảng nó đánh ánh mắt như cầu cứu sang bên cạnh mình, phía Lucine. Nhưng cô ấy vẫn khoanh tay đứng đó, vẻ mặt đang tỏ ra hết sức bình thản và có phần lạnh lùng.

    “Tất cả những chuyện này, cậu không thấy sao June. Mê cung khổng lồ, căn nhà gỗ, lũ lợn, chiếc xe biết bay và những vùng đất mọc lên một cách bất thường. Mọi thứ đều chỉ là sự giả dối mà thôi!” – Gavin nhìn thẳng vào mắt June như khẩn cầu nó tin vào những gì cậu đang nói.

    June im lặng, như thể có thứ gì đó đang bóp chẹt cổ họng khiến nó không thể diễn tả thành lời.

    “Cậu đang nói cái gì cơ? Giả dối, ảo tưởng ư? Thật nực cười làm sao! Gavin!”

    Một giọng nói rành rọt mang âm hưởng sắc lạnh vang lên trong khoảng không tăm tối. Cô nàng lạ mặt ban nãy chầm chậm bước ra, hai tay khoanh trước ngực, tự tin, gương mặt khẽ hếch lên trời mỉm cười tự mãn, khiêu khích.

    Lúc này Gavin mới hoàn toàn nhìn thấy khuôn mặt của cô gái lạ. Ánh mắt màu xám toát lên vẻ lạnh lùng và bí ẩn. Mái tóc xoăn dài được thả tự nhiên chứ không buộc gọn. Vài giọt nước bám trên lọn tóc nhỏ xuống chiếc áo màu vàng mang những họa tiết kỳ quái, sự pha trộn khá ăn ý giữa phong cách gypsy và hiện đại. Bất chợt, cô gái xoáy ánh mắt của mình vào Gavin khiến cậu có dự cảm chẳng lành. Theo phản xạ cậu lùi về phía sau vài bước, cảm giác lạnh toát chạy dọc sống lưng.

    Hít một hơi thật sâu, Gavin lấy lại sự bình tĩnh cần thiết. Cậu lại lên tiếng:

    “Tôi chỉ đang nói sự thật thôi, những gì tôi từng thấy và đã trải qua. Cậu không thấy ban nãy thứ gì đã đuổi theo tôi sao. Là một gã quái vật rễ cây. Gã đã suýt lấy mạng tôi nếu như tôi không chạy kịp.” – Gavin đang cố gắng chứng minh những gì mình thấy là đúng, nhưng có lẽ cậu đang trong tình thế bị động với dự cảm về mối hiểm họa đang sẵn sàng xảy đến với cậu.

    Lucine cười khẩy, cô ta vẫn không thôi xoáy ánh mắt vào Gavin, ném cho cậu một cái nhìn khinh khỉnh chẳng mấy dễ chịu.

    “Tôi chẳng thấy thứ gì đang đuổi theo cậu cả Gavin, chỉ thấy cậu đã bỏ rơi June và tôi đã là người tìm thấy. Vả lại, cậu đâu còn sống nữa hỡi linh hồn tội nghiệp.” – Lucine mỉa mai nói.

    “Tôi bỏ rơi June sao. Không đời nào! Khi đó tôi đang bận đánh lạc hướng con quái vật rễ cây để June có thể chạy thoát.”

    Lucine cười lớn, vang vọng khắp không gian thâm u.

    “Xin nhắc lại, tôi chẳng thấy con quái vật nào cả. Cậu đang nằm mơ giữa ban ngày sao Gavin.” – Lucine nói, lúc này cô ta đang đứng rất gần Gavin. Cậu có thể nhìn rõ đôi mắt xám điểm thêm vài tia hạch đỏ nối với đồng tử. Ánh mắt đó như sẵn sàng phóng những tia lửa điện nhằm hạ gục cậu bất cứ lúc nào.

    Gavin lên tiếng hỏi lần nữa, cậu nhận ra giọng mình trở nên khản đặc:

    “Cậu là ai? Tại sao... lại nói những lời dối trá như thế?”

    Cậu cảm thấy giọng mình lạc hẳn đi.

    “Dối trá ư?... – Lucine vẫn không thôi công kích Gavin – “... Một người đã cứu June mà cậu lại cho rằng người đó dối trá. Tôi đã cứu June khi cậu ấy ngất lịm đi.”

    Gavin dường như bất lực, dù bộ mặt thật của cô gái lạ mặt kia đã lộ rõ nhưng cậu lại chẳng thể nói được gì. Gavin tiến lại gần phía June, cậu ấy như đang bất động, khuôn mặt đờ đẫn không còn tí nét sắc nào cả.

    “Cậu nói gì đi June? Tại sao cậu lại im lặng như thế?” – Gavin dùng hai tay đặt lên đôi vai June, lay mạnh nhưng cả thân thể nó như nhũn ra, rã rời.

    Gavin buông tay. June ngồi thụp xuống.

    “Cậu coi chừng đó, nếu như cậu còn làm thế với June. Tôi cảnh cáo cậu đấy Gavin!” – Lucine gằn lên trong họng, từng tia giận dữ của cô ta nhắm thẳng vào Gavin càng làm cậu thấy kinh hãi hơn.

    Lucine tiến lại gần June hơn, dùng tay mình như muốn đỡ June dậy, nhưng cơ thể mềm oặt của June chỉ chực chờ đổ ụp xuống ngay cả trước một sự tác động hết sức nhẹ nhàng, y hệt những quân cờ domino vậy. Cô ta trưng ra vẻ mặt lo lắng trong khoảng không gian tranh tối tranh sáng. Gavin vẫn tiếp tục quan sát nhất cử nhất động.

    “Cậu còn nhớ phương thuốc lãng quên chứ June?” – Lucine tiếp tục sử dụng những chiêu trò của mình nhằm hạ gục Gavin.

    Gavin nghe và không hiểu những gì cô ta vừa nói. Phương thuốc lãng quên ư? Tại sao June chưa hề nhắc đến nó? Tại sao June lại giấu giếm cậu? Trong lòng cậu có hàng tá những câu hỏi kiểu vậy hiện hữu.

    June ngước nhìn Lucine, rồi nó nắm tay phía ngoài túi quần, phương thuốc vẫn còn đó, cảm giác như thứ ma lực vô hình lại tác động lên tâm trí nó lần nữa. Những giọng nói thầm thì như mời gọi, khiến nó có cảm giác muốn lôi nhanh phương thuốc ra khỏi túi, mở nắp rồi uống cạn ngay tức khắc.

    “Cậu vẫn còn giữ phương thuốc chứ June?” – Lucine lại hỏi.

    “Mình còn giữ.” – June nói.

    “Đó chẳng phải là điều tốt đẹp nhất sao? Cậu nên nhớ rằng, những gì mình nhìn thấy, cầm nắm được thì mới là thực. Còn những gì thuộc về ký ức thì sẽ nhanh chóng chìm vào sự quên lãng mà thôi.” – Lucine nói một thôi một hồi.

    June im lặng. Gavin chăm chú nhìn nó như đợi một câu trả lời rõ ràng nhất có thể.

    “Còn Gavin, cậu chỉ đang tồn tại như một dạng ký ức do June tạo ra mà thôi. Cậu không hề có thật.” – Lucine quay lại phía Gavin và nói với giọng điệu có phần đắc chí.

    “Không thể nào.” – Gavin thét lớn.

    “Không thể ư?” – Lucine tiếp tục, như nắm được điểm yếu của Gavin, cô ta bắt đầu lấn lướt.

    “Dù tôi không có thật, dù chỉ là tồn tại như một linh hồn không hơn, nhưng những gì cô vừa nói ban nãy đều là sự dối trá mà thôi. Hãy suy nghĩ đi June? Mình cần cậu tỉnh táo.” – Một lần nữa Gavin nhìn thẳng vào mắt June và nói, ánh mắt hiện rõ sự khẩn cầu và mong muốn được đáp lại.

    June vẫn câm lặng. Nó không nói được một lời nào trong mấy phút qua, cảm giác như thời gian dài đằng đẵng, trôi vô định. Những gì còn lại là sự hỗn độn, hàng tá câu hỏi không thể trả lời. Phía trước mặt nó, Lucine vẫn tỏ ra cực kỳ điềm nhiên, bình thản. Cô ấy chắp hai tay sau lưng, thi thoảng mắt ngước nhìn lên trên, nơi những hành lang sâu hun hút hình xoắn ốc kéo lên tới tận đỉnh, một khoảng trời chỉ bé bằng cái vung hiện ra.

    Bên cạnh nó, Gavin vẻ mỏi mệt. Cậu ngồi thụp xuống một phiến đá nhẵn nhụi loang loáng nước, hai tay ôm lấy đầu, bứt rứt mãi không thôi. Có lẽ Gavin đã quá mệt mỏi rồi, June trộm nghĩ. Nó nhìn quanh căn phòng một lượt. Một bên là Lucine đang đứng, một bên là Gavin. Nó buộc phải lựa chọn ư? Ý nghĩ đó như muốn thiêu đốt nó cháy rụi như những bức tranh đã từng vẽ, cháy rụi như cánh đồng cỏ nghi ngút khói ở Shadowfiled mỗi khi cuối vụ. Tâm trí nó lạo xạo những hình ảnh, còn bản thân nó đang trôi vô định giữa đống hỗn độn đó chẳng thể nào thoát ra. Tại sao mọi chuyện lại tới nông nỗi này? Tại sao nó không chết quách đi trên giường bệnh để không còn ai phải lo lắng cho mình nữa? Nó chợt liên tưởng tới hình ảnh bố Jared và mẹ Jess đang ngồi bên giường bệnh. Nó vẫn nằm im, gương mặt họ thì tiều tụy, hốc hác vì lo nghĩ. Những hình ảnh đó như nhát dao cứa sâu vào lòng nó, để lại một vết thương đang từ từ rỉ máu. Những suy nghĩ vây kín thành một nỗi tuyệt vọng sẵn sàng hạ gục nó. June ước, giá như có ai đó kéo nó ra khỏi vũng bùn này!

    *

    Bờ sông Little River có lẽ đẹp nhất khi vào hè. Những lùm cỏ xanh mướt mọc um tùm ven bờ. Khi ấy lũ chim sẽ bắt đầu về đây làm tổ, kết những cây cỏ lại thành một mái nhà nho nhỏ nhưng ấm cúng. June ngồi thừ, mắt lơ đãng nhìn về phía mặt sông loang loáng phản chiếu với ánh nắng mặt trời như được tráng lớp bạc.

    Nó vẫn chưa vẽ được chút gì kể từ khi tới đây, đã gần một tiếng rồi. Không một ý tưởng nào nảy sinh trong đầu June, bình thường nó sẵn sàng nghĩ ra hàng tá ý tưởng trong đầu, nhưng tiếc là không phải hôm nay. Từ dạo quen Lucine, nó cảm thấy cuộc sống mình dễ chịu hơn, bởi lẽ Lucine luôn là người lắng nghe nó. Cô ấy không bao giờ phàn nàn về bất cứ chuyện gì. Chứ không phải như bố Jared, một điều thế này, hai điều thế kia. Nó chán ngấy những dặn dò của ông rồi.

    Đôi khi trong những giấc mơ ngắn, nó thường gặp Lucine. Chẳng khác mấy so với tưởng tượng của nó. Lucine hiện ra như một mẫu người lý tưởng mà June ao ước bấy lâu nay. Có đôi lúc June cảm thấy cực kỳ ghen tức với cô ấy, dẫu chỉ là một người bạn trong trí tưởng tượng của mình. Từ ngoại hình xinh đẹp mà nó chắc chắn sẽ thu hút được mọi ánh nhìn của bất kỳ cậu con trai nào trong trường Trung học Shadowfield. June dám cá như vậy.

    Tõm. Cái gì đó vừa rơi xuống mặt sông khiến June giật thột quay lại. Gavin đang đứng đó, mỉm cười dù bị bắt quả tang.

    “Cậu làm mình giật mình đấy Gavin?” – Nó lên tiếng vẻ như trách móc.

    Gavin từ tốn ngồi xuống bên cạnh nó.

    “Mình đi tìm cậu khắp thị trấn, nhưng rồi chợt nghĩ ra chỗ này.” – Gavin nói.

    “Mình cần một chút yên tĩnh thôi. Cậu cũng biết mọi chuyện xung quanh tớ luôn tệ đến thế nào mà.” – June nói, giọng buồn thiu.

    “Chuyện lần trước mình đã báo cho cô Marry J. rồi. Cô ấy nói sẽ báo cáo lên Hội đồng Phụ huynh. Lần này đám con gái trong nhóm của Ruby chết chắc rồi.” – Gavin mừng rỡ thông báo với June như thể nó sẽ vui vẻ khi nghe chuyện đó, nhưng không. Nó dường như chẳng bận tâm tới chuyện đám con gái ngỗ ngược đó ra sao, chúng có trả thù June trong những lần tới không? Thú thực, June chẳng hề bận tâm.

    Nó mỉm cười, thầm cảm ơn Gavin, rồi đưa ánh mắt nhìn về phía con sông, trong những bụi cây um tùm ven bờ đó, ắt hẳn lũ chim đang miệt mài xây tổ để đẻ trứng.

    “Cậu sao vậy June, có chuyện gì buồn à!” – Gavin lên tiếng khi thấy nó im lặng như thế.

    “Không…” – Nó bèn lắc đầu phủ nhận... – “Ngược lại, dạo này mình thấy tâm trạng ổn hơn bao giờ. Cậu biết đấy!”

    Gavin nhìn nó ngạc nhiên, cậu chẳng biết chút gì. Cậu hỏi lại:

    “Mình chẳng biết gì cả, cậu có chuyện gì giấu mình sao. Hay lại về những ý tưởng của cậu, chúng luôn ngốn hết phần lớn thời gian của cậu mà. Đưa mình xem.”

    Không cần sự chấp thuận từ June, Gavin vội chộp lấy tập vẽ từ trên tay nó. Gương mặt cậu toát lên vẻ háo hức lạ thường. Cậu chăm chú lật giở từng bức tranh một, cho tới khi dừng lại trước bức phác họa về Lucine. Gavin bỗng khựng lại, June thấy vậy bèn nói:

    “Đó là một người mình đã từng thấy trên đường về nhà.”

    June không muốn Gavin đi sâu vào chuyện này, dù cậu là bạn thân của nó, nhưng đôi khi ai cũng cần có những bí mật của riêng mình.

    “Ấn tượng sâu sắc đến thế sao?” – Gavin bâng quơ hỏi, mắt cậu vẫn không rời khỏi bức tranh vẽ cô gái xa lạ. Có lẽ là một bí mật nho nhỏ của June. Gavin thầm nghĩ, rồi sau đó cậu đem trả chúng lại cho June.

    “Mình không rõ, nhưng chúng cũng như một ý tưởng chợt lóe trong đầu mình vậy. Một trong những khoảnh khắc cuộc sống.” – June phá lên cười sau câu nói của mình.

    Sau đó, June không muốn Gavin đề cập tới chuyện này nữa, bèn lái cuộc trò chuyện sang hướng khác. Nó hỏi Gavin:

    “Dạo này mình thấy cậu hay dành nhiều thời gian cho mẹ cậu?”

    Gavin gật đầu đáp lời:

    “Mẹ mình đang mang bầu nên thi thoảng mình hay dẫn mẹ đi tản bộ ngoài công viên. Bác sĩ bảo đó là một phương pháp tốt cho em bé sau này.”

    “Không biết cảm giác có thêm một đứa em gái hay em trai sẽ thế nào nhỉ? Mình chưa bao giờ tưởng tượng ra chuyện đó.” – June bâng quơ nói.

    Gavin mỉm cười chưa vội đáp lời, cậu hết sức thận trọng trong từng lời nói. Cậu không muốn làm June buồn. Chuyện gia đình của June. Gavin biết điều đó.

    “Thì khi đó cậu sẽ phải học cách nhường nhịn thôi, nên cũng chẳng sung sướng gì đâu.” – Gavin kết thúc câu chuyện bằng một câu pha trò.

    June khẽ cười mà sao nó thấy trong lòng lại trống rỗng đến thế.

    Những giấc mơ về Lucine cứ trở đi trở lại trong nó từ dạo đó. Cô ấy nói về một thế giới tưởng tượng trong mơ. Một thế giới toàn những thứ màu hồng. Nó đặng hỏi, nhưng Lucine chỉ đáp lại bằng một nụ cười bí ẩn xa lạ. Và rồi như mọi lần, Lucine biến mất vào trong bóng đêm mịt mùng chẳng để lại một dấu vết. June cố gọi với theo nhưng không được.

    Gavin tạm biệt nó khi cậu rẽ trái về đại lộ Autumn, giao với đại lộ B. Cậu nói, cậu cần phải về sớm để giúp mẹ làm một chiếc bánh tart trái cây hoàn hảo. June tự nhủ, nó đã bao giờ cùng mẹ Jess làm một chiếc bánh nào tử tế chưa. Nó không nhớ, cơn đau nửa đầu khiến nó chẳng thể nghĩ được gì.

    Nó rẽ trái, hướng về đại lộ B, đi thẳng về căn nhà nhỏ. Một ý nghĩ ấm áp lóe lên trong đầu, nó sẽ thả mình trên chiếc giường êm ái, để đánh một giấc, thả trôi tâm trí vào những giấc mơ.

    Nghĩ vậy, nó nhấn sâu chân ga, phóng thẳng về phía trước. Quang cảnh hai bên đường dần nhòe đi theo ánh đèn đường. Tiện tay, nó dò chỉnh tần số từ hệ thống radio cũ mèm trên xe. Nhưng chỉnh mãi chẳng được, nó bực dọc cho xe chạy chậm lại. Nó tỉ mỉ vặn nút chỉnh tần số. Tiếng rè rè đáng ghét dần được thay thế bằng những giai điệu du dương của Carrie Underwood. Thật trùng hợp, khi nó lại được nghe ca sĩ hát nhạc đồng quê mà mình yêu thích nhất. Vừa chạy xe, nó vừa âm ư theo giai điệu.

    Mười lăm phút sau, June có mặt ở nhà. Khoảng sân vẫn tối thui. Bố Jared vẫn chưa về, chắc lại chuyện nông trại. Cụm từ đó nó đã nghe đi nghe lại tới hàng trăm lần trong mùa hè này rồi.

    June xuống xe, rảo bước nhanh lên thềm sân để vào trong nhà. Cửa không khóa nên nó cứ thế đẩy vào. Bật công tắc, đèn sáng tỏ thứ ánh sáng dìu dịu, ấm áp; nó nhìn thấy bên chiếc bàn trong bếp, bố Jared đã chuẩn bị sẵn cho nó một vài thứ đồ ăn đơn giản. Có bánh mì kẹp xúc xích với dưa chuột và xà lách. Vài lát dăm bông mỏng và một bình nước ép táo để sẵn. June liếc nhìn chúng và tỏ vẻ ngán ngẩm. Nó chẳng thể nuốt trôi những thứ này thêm một lần nào nữa.

    Sự mệt mỏi thiêu rụi ý chí nó. Thả mình xuống giường, nó nhanh chóng chìm sâu vào giấc ngủ. Khi ấy, nó lại bắt đầu mơ.

    Lún sâu xuống chiếc đệm, June thấy mình đang từ từ rơi xuống với tốc độ cực kỳ chậm rãi. Nó rơi mãi cho tới khi đôi chân trần chạm xuống nền đất ẩm lạnh, như đi trên băng giá. Thử kiểm chứng, cúi xuống, rà tay trên nền đất, June nhận ra chúng nhẵn thín và lạnh lẽo. Lúc này, nó nhận ra mình đang đứng ở một căn hầm hình vòm, phía trước mặt, một dải sáng xanh lá ma quái hiện ra như dẫn đường. Nó bèn đi theo cho đến khi dẫn tới một căn phòng hình tròn. Giữa căn phòng trên băng ghế gỗ dài, nó nhìn thấy một dáng hình quen thuộc. June tiến lại gần và nó nhận ra, đó chính là Lucine. Mắt cô ấy vẫn nhắm nghiền, như thể chưa nhận ra sự có mặt của June. June chăm chú nhìn, chưa bao giờ giấc mơ về cô ấy lại trở nên rõ rệt như lúc này.

    “Lucine.” – Nó cất tiếng, giọng nói vang lên thoáng chốc rồi lọt thỏm vào thinh không.

    Lucine mở mắt, nhìn nó rồi cười nói:

    “Cậu tới rồi June. Mình đã đợi cậu từ lâu rồi.”

    “Mình đang ở đâu vậy, có phải là mơ không?” – June quét ánh mắt quanh căn phòng lạnh lẽo một lượt rồi ra vẻ thắc mắc.

    “Không hẳn. Nhưng mình nghĩ tại sao mọi chuyện trong mơ lại không thể trở thành hiện thực chứ?” – Lucine trình bày, ra hiệu cho June ngồi bên cạnh.

    June ngồi xuống, nó chẳng thấy gì ngoài sự lạnh lẽo đang xâm chiếm thân thể mình. Chẳng một chút ấm áp. Căn phòng này chỉ là một nơi xa lạ.

    “Mình không biết, có lẽ do mình quá mệt mỏi nên mới xảy ra những điều này. Có người nói, giấc mơ thường phản ánh đời thực đúng không? Ngay cả tâm trạng vui buồn trong cuộc sống, hay thậm chí cả những khát khao, mơ ước.” – June nói.

    Lucine quay sang nhìn nó; cô ấy chợt nắm lấy bàn tay của nó. Thoáng rùng mình nhưng June vẫn giữ được sự bình tĩnh.

    “Không đúng...” – Lucine bèn phủ nhận. – “... Cậu luôn khao khát một cuộc sống tốt đẹp mà June. Chính vì vậy, cậu thường trốn vào thế giới tưởng tượng hay giấc mơ của mình.”

    “Mình không phủ nhận chúng, nhưng thực tế những gì mình thấy khác xa so với những tưởng tượng của mình. Ngay giờ đây, mình chỉ cảm thấy lạnh lẽo và trống trải mà thôi, Lucine. Đặc biệt là trong căn phòng này.” – June rành rọt nhấn mạnh từng lời.

    Rồi June nhận ra giọng mình nhỏ dần, và tắt hẳn. Nó chợt thấy thân thể nhẹ bẫng như đang bay. Lucine cố gắng nắm lấy bàn tay nó nhưng không được. Có cả tiếng la hét, tiếng nô đùa, thậm chí tiếng cãi cọ... nhưng nó không thấy gì nữa, ngoài màn đêm đang phủ lên tất cả thứ bột đen đặc, mịn màng. June giật mình tỉnh giấc, người ướt đẫm mồ hô; nó nhận ra chân vẫn mang đôi giày thể thao màu xanh. Bên cạnh giường, bố Jared đang nhìn nó, vẻ mặt ông toát lên sự lo lắng vô cùng.

    “Con lại gặp ác mộng phải không June?” – Bố Jared hỏi.

    June gật đầu xác nhận.

    “Do mệt mỏi quá thôi. Bố xin lỗi vì dạo này thường về muộn, nhưng nếu có chuyện gì thì hãy nói với bố. Đồng ý chứ?”

    June gật đầu lần nữa, chẳng hiểu sao khi ấy, sự xuất hiện của bố Jared lại cho nó cảm giác bình yên lạ thường.

    “Con ngủ tiếp đi. Bố sẽ ở đây một lát nữa.”

    Rồi sau đó, June chẳng nói gì thêm, nó lại chìm sâu vào giấc ngủ và không còn mộng mị nữa, căn phòng hình tròn và Lucine đều trôi dạt về một chốn xa xăm, mờ mịt. Bởi lẽ nó biết rằng, cả đêm hôm đó, bố Jared đã ở bên cạnh, không rời nửa bước.

    *

    “June.”

    Nó ngẩng đầu và thấy Gavin đang bên cạnh. Cách đó chừng vài bước, Lucine vẫn đứng, hai tay khoanh trước ngực như sẵn sàng chờ đợi câu trả lời. Nó bám vào cánh tay của Gavin rồi từ từ gượng dậy. Người đỡ đau nhức hơn, nó bắt đầu nhìn rõ mọi thứ. Nó cười thầm tự nhủ, mình đã hy vọng hơn rất nhiều về thế giới này, nhưng đáp lại vẫn chỉ là những bức tường trơ dày, thô cứng và lạnh lẽo mà thôi.

    “Cậu suy nghĩ quá lâu đó June?” – Lucine lên tiếng, vẻ như trách móc.

    “Mình... mình...” – Nó định nói gì đó nhưng ấp úng không thành tiếng... – “”Mình xin lỗi, Lucine.”

    “Sao cơ?” – Lucine ngạc nhiên hỏi lại.

    “Vì... mình không thể ở lại thế giới này nữa. Mình cần tỉnh dậy. Chỗ của mình là bên ngoài kia, ở thế giới thực.” – Nó dứt khoát nói.

    “Cậu nói gì cơ June? Mình có nghe nhầm không?” – Lucine hỏi lại như thể không tin nổi vào tai mình.

    Gavin bèn lên tiếng giải thích, nhưng Lucine nạt nộ khiến cậu phải lặng im. Lucine giận dữ thật sự, dường như cô ta không còn giữ được sự bình tĩnh như vốn có nữa.

    “Câm ngay, Gavin. Tôi không phiền tới cậu. Hãy để June nói rõ mọi điều.”

    Đoạn, June lôi từ trong túi áo khoác da của nó ra một thứ. Lucine biết rõ đó là gì, vẻ mặt cô hiện rõ sự thất vọng.

    “Không. Không thể, June. Cậu không thể làm như thế được.” – Lucine nói.

    “Mình trả lại cậu, Lucine, mình không thể ở đây thêm nữa. Vậy nên mình chỉ muốn nói lời tạm biệt.” – June rành rọt từng lời như cứa sâu vào trái tim của Lucine khiến cô ta bực tức.

    “Tạm biệt ư? Cậu đừng quên những gì đã từng nói với tôi, June. Chúng ta đã cùng tâm sự, san sẻ với nhau như những người bạn thật sự.” – Lucine bày tỏ lý lẽ của mình.

    “Đã từng vậy. Mình biết ơn cậu, Lucine à. Nhưng mình không thể đắm chìm mãi vào trong những thứ này. Mình còn cuộc sống, còn bố mẹ...” – June nói, một thứ gì đó dâng lên từ lồng ngực khiến mọi thứ như nghẹn lại.

    Lucine cười khẩy.

    “Thật nực cười. Tôi có cảm giác như mình bị phản bội vậy June.”

    Lúc này Gavin dường như quá bực tức trước những gì Lucine nói, cậu liền lên tiếng:

    “Thôi đi, Lucine. Chẳng có sự phản bội nào ở đây cả. Chỉ có sự ích kỷ của cô mà thôi.”

    “Câm ngay, Gavin.”

    Lucine gằn lên từng tiếng khiến Gavin giật nảy người suýt té ngã. May thay, cậu bám được vào tay June. Cậu nhìn June như muốn cảnh báo rằng cần phải rời khỏi nơi này ngay. Đừng chậm trễ. Mau lên! June như hiểu được ý nghĩa ánh mắt của Gavin, bèn lăn phương thuốc quên lãng về phía Lucine. Lucine thấy vậy, dùng chân dẫm mạnh lên phương thuốc khiến nó vỡ tan tành. Từng mảnh nhỏ bụi kim tuyến lấp lánh bay lên rồi biến mất.

    “Được lắm, June. Cậu hãy đợi đấy!” – Lucine thách thức.

    Cả hai đứa định chạy về phía cánh cửa hòng trốn thoát, nhưng lối đi duy nhất đã bị Lucine chặn lại. Giơ đôi tay mảnh khảnh của mình ra, Lucine vẫy gọi thứ gì đó từ không khí. Bỗng nhiên, một hình hài khá cao lớn hiện ra khi làn khói trắng dần tan biến. Là Max! June trộm nghĩ, nhưng tại sao ánh mắt cậu ấy lại hằn lên sự giận dữ và đáng sợ đến thế. Nó không ngừng thắc mắc.

    Lucine gật đầu ra hiệu. Nhanh như cắt, Max chạy sang, lao thân hình đồ sộ vào Gavin. Không kịp phản ứng, cậu lăn tròn trên nền đất. Chưa kịp gượng dậy thì cả thân hình cao lớn của cậu chàng chơi bóng rổ đã đè lên người Gavin khiến cậu thấy khó thở vô cùng. Từ đằng xa, June thét lên kinh hãi, nó vội chạy sang, nhưng khi ấy, một sức mạnh kỳ lạ kéo ngược thân thể nó lại, ngã sõng soài ra nền nhà.

    “Cậu không thể làm được gì đâu, June!” – Lucine nhìn nó với ánh mắt thương hại.

    “Cậu định làm gì, Lucine?” – June sợ hãi hỏi lại.

    Lucine chỉ cười khẩy. Cô ta không nói gì mà đi thẳng về phía Max. Gavin cố thoát khỏi cánh tay như gọng kìm của Max nhưng không thể, càng giãy giụa thì cậu ta càng siết chặt hơn. Mắt Gavin ứa lệ rồi nhòa đi. Mọi thứ tối dần, cậu chỉ loáng thoáng nghe thấy tiếng June đang cố gọi tên mình. Tiếng gọi nhỏ dần rồi tắt hẳn.

    “Gavin.”

    June thét lớn. Nó gắng gượng ngồi dậy, nhưng mọi thứ đã quá muộn. Lucine biến mất cùng Gavin và Max - thuộc hạ của cô ta.









     
  17. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XV

    GIẢI CỨU

    June tiếp tục gào to tên Gavin trong vô vọng, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng, rợn người. Lucine đã bắt Gavin đi. Nó hoàn toàn bất lực, đầu gối khuỵu xuống, run lẩy bẩy và toàn bộ thân thể dường như đang mất dần cảm giác. June cứ thế nằm im mặc cho thời gian đang chầm chậm trôi qua, và trong lúc đó, chẳng biết Lucine đã làm gì Gavin.

    Mất một hồi lâu June mới có thể đứng dậy, thân thể vẫn mỏi rời. Nó quét ánh mắt quanh căn phòng một lần nữa. Lối đi ban nãy đã bị Lucine chặn lại, giờ chẳng khác gì một bức tường trống trải và lạnh lẽo. June đi quanh thăm dò, nó rà tay, áp tai vào... cố gắng tìm kiếm một manh mối, nhưng không thể. Thảng hoặc, một vài tiếng rin rít khe khẽ như vật thể kim loại sắc nhọn cạ nhẹ trên nền đá. Nó tập trung lắng nghe; và trộm nghĩ, ắt hẳn phải có một lối đi sau đó. Nghĩ vậy, nó bèn đứng thẳng người, hít một hơi thật sâu nhằm lấy lại bình tĩnh. Lôi cọ vẽ từ trong túi áo khoác, nó giơ tay quơ nhẹ, phác thảo thành hình vòm. Theo đó, những bụi sáng lấp lánh xuất hiện trong thoáng chốc rồi mất hút. Lát sau, một cánh cửa hiện ra, với nắm đấm hình tròn, màu đồng. Nó lấy tay vặn, rồi mạnh dạn đẩy cánh cửa ra. Đột nhiên, một làn gió lạnh thốc ngay vào mặt khiến nó thoáng rùng mình, theo phản xạ, giơ tay phải lên chống đỡ, nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Phía trước nó là một đường hầm sâu hút và tăm tối.

    Rà tay theo bức tường ẩm ướt, nó thận trọng từng bước. Phía dưới chân lạo xạo những lớp lá đang dần hoai mục. Không gian này chào đón nó bằng những thứ mùi kỳ lạ. Hít một hơi thật sâu lần nữa, June bắt đầu tiến vào. Ý nghĩ giải cứu Gavin khiến nó quyết tâm hơn.

    Càng đi June càng cảm thấy khí trời trong lành hơn. Không còn ngột ngạt, tù túng như trước nữa. Nó thấy dễ chịu, người khoan khoái hẳn. Nó đứng lại quan sát. Khi ấy, không gian xung quanh bắt đầu biến đổi. Căn hầm được mở rộng, từ hai bên cho tới phần mái vòm trên đầu. June quan sát phía hai bên bức tường, những mảng rêu xanh rì hiện rõ trong ánh sáng, một vài sợi dây đeo bám giống như dây trường xuân, chỉ khác là chúng chẳng có lấy một bông hoa nào, ngoài những chiếc lá màu xanh đen. Ngước nhìn lên trên, một khoảng trời màu xanh lá hiện ra, điểm thêm vài đám mây nặng trĩu, đen kịt. June nghĩ, nó đang ở bên ngoài tòa tháp chăng? Không thể nào. Nó vội vàng phủ nhận, rồi lặng lẽ đi tiếp. Mỗi bước chân, cảnh vật lại tiếp tục bị biến đổi. Từ đằng xa, những thân cây cao lớn như cây thủy tùng bắt đầu mọc lên, tán rộng rợp bóng, chẳng mấy chốc phủ kín khoảng trời. Không gian tối đi đôi chút, nhưng vẫn nhìn rõ đường. Một lối mòn lắt léo chạy xuyên qua khu rừng rậm. June rảo bước nhanh hơn, nó không dám chắc, con đường này sẽ dẫn đi đâu nhưng nó có linh cảm sẽ dẫn tới chỗ Gavin.

    Đi hết con đường mòn, nó thoát khỏi khu rừng. Phía trước nó, một mê cung đá sừng sững hiện ra. Những tảng đá với kích cỡ khác nhau nằm ngổn ngang không thứ tự. Có hòn được dựng ngược trông như cây măng đá khổng lồ, có hòn nằm ngang chắn cả lối đi. June không biết xử trí ra sao, nên chọn bừa một lối để đi. Băng qua những hòn đá, nó thấm mệt. Ngồi xuống thở dốc, mồ hôi ướt rịn khắp người, nó nghĩ mình đang bị lạc. Mê cung đá chẳng dẫn đi tới đâu cả.

    “Bụp!”

    Tiếng nổ lớn khiến June giật thột. Nó bàng hoàng đứng dậy, dáo dác nhìn quanh để tìm hiểu nguyên do.

    Đoạn, một phiến đá to bản trước mặt nó nứt toác. Làn khói mỏng mảnh thoát ra, dần dần thành một đụm khói lớn. Ban đầu chưa có hình thù rõ ràng, nhưng sau đó biến dạng. Một hình thù dần hiện ra khi làn khói tan đi. Dưới màn đêm huyền ảo pha lẫn với ánh sáng xanh ma quái, June chưa bao giờ thấy cảnh tượng kỳ dị này. Tim nó như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.

    Làn khói mỏng tan dần, sinh vật lạ hiện rõ. Mất một lúc khá lâu, June mới có nhìn nhận đầy đủ về sinh vật này. Gã vẫn đứng im, cái đầu nhẵn thín hơi cúi xuống. Đôi tai nhọn hoắt hơi vểnh lên, trông giống như tai dơi. Cả thân hình của gã phản chiếu với ánh sáng tạo nên một màu xanh lè gớm ghiếc. Gã từ từ xoay người, đối diện với June. Nó kinh hãi khi nhìn thấy đôi mắt đỏ quạch đang vằn lên những tia giận dữ của gã. Trông gã chẳng khác gì tạo hình của The Hermit – một trong những quân bài Tarot, tượng trưng cho sự cô độc.

    Gã bắt đầu di chuyển. Những ngón chân dài, nhọn với phần móng như được sơn màu đỏ chóe. Gã bước đi nhẹ nhàng như lướt trên mặt đất, không gây ra tiếng động. June giật lùi theo phản xạ, vấp phải một phiến đá rồi ngã. Gã bình thản tiến về phía nó, chẳng giống như đang tấn công đối thủ của mình. Nhưng khi khoảng cách được rút ngắn, gã The Hermit bắt đầu giở trò. Vươn đôi tay dài ngoằng, gã nhanh chóng thộp lấy cổ của June và bắt đầu siết chặt. Do không kịp phản ứng, June ngã ngửa ra. Nó cảm thấy không khí nhanh chóng thoát ra khỏi lồng ngực tới nỗi ngột thở. Theo phản xạ, nó dùng cả hai tay để gỡ nhưng không thể. Những ngón tay dài nhơ nhớp càng siết chặt hơn. Vô vọng quờ quạng xung quanh, nó nhặt được hòn đá, đập vào đầu gã một cú thật mạnh. Đột nhiên, hai bàn tay gớm ghiếc nới lỏng, June nhanh chóng thoát ra khỏi gã. Nó dự tính tìm một lối thoát thân nhưng chẳng thể. Khi ấy, gã dị nhân đã định thần lại sau cú đánh ban nãy. Gã cười khùng khục như thể đang mỉa mai đối thủ.

    June nhanh trí lôi từ trong túi ra chiếc cọ vẽ. Không còn nhiều thời gian, nó vung vẩy loạn xạ, những vật thể bằng kim loại rơi loảng xoảng từ trên trời xuống. Nó mau chóng vớ đại lấy một thứ. Đó là một thanh kiếm sắc nhọn. Gã dị nhân ném một tảng đá lớn về phía nó. Lăn người qua bên phải, June né được đòn tấn công trí mạng, hòn đá va phải một phiến đá khác, vỡ tan tành.

    Chớp lấy thời cơ, June lao nhanh về phía gã, nhưng thanh kiếm đâm sượt qua mạn sườn. Gã rú lên kinh khiếp. June tiếp tục đâm vào ống quyển tên quái nhân khiến cho gã khuỵu xuống. Thân hình gã co rúm lại, vẻ như sợ hãi. Gã ngước lên, ánh mắt không còn đỏ quạch như ban nãy, mà giống kiểu van xin hơn. Trông gã như đứa trẻ tội nghiệp trong hình hài kỳ dị. June lấy hết sức đâm phập thanh kiếm xuống. Dòng chất lỏng đen kịt xối ra, bắn lên cánh tay nó. Buông rời thanh kiếm, June ngã ngửa. Gã The Hermit tan biến trong không khí.

    Mất một lúc sau June mới đứng dậy được. Nó phát hiện ra, ban nãy trong sự hoảng loạn, nó tạo ra cơ man là vũ khí, từ thanh kiếm, chiếc rìu, thậm chí cả một cái chùy lớn. Nó nhặt lẹ vài thứ rồi mau chóng tiến sâu vào trong mê cung đá.

    Không khó khăn như tưởng tưởng ban đầu, June khéo léo đi qua những phiến đá ngổn ngang. Cuối cùng, nó đứng trước một phiến đá khổng lồ, nhác trông như cánh cửa đang chặn đứng một cửa hang. June trộm nghĩ, đó có thể là lối đi. Nó rảo bước quanh phiến đá lớn một vòng, xem xét có dấu hiệu gì khác thường nhưng không hề. Một lúc sau, nó tìm thấy một viên đá hình trụ tròn ở phía sau, trong tư thế cắm thẳng xuống đất. Nó đặt bàn tay lên trên, thử nhấn xuống. Viên đá lún xuống đất khiến nó giật mình lùi lại. Theo đó là một tiếng rầm lớn, mặt đất khẽ rung chuyển. Nó vội chạy sang mặt trước của phiến đá khổng lồ, giờ đã nứt toạc và tách làm đôi. Một lối đi hiện ra. Tối tăm và sâu thẳm. Không chần chừ, nó mau tiến vào. Lối đi là bậc thang dẫn xuống, nó vừa đi vừa đếm, có tất thảy năm mươi sáu bậc tất cả. Khi ấy nó nghĩ rằng, mình đã đi khá sâu xuống lòng đất. Có lẽ đây là tầng hầm của tòa tháp. Nơi chứa đựng tất cả sự ghê rợn. Nghĩ vậy, June thấy rùng mình, nó đi sát sạt bên bức tường đá gồ ghề. Ánh sáng yếu ớt chiếu rọi vào hầm khiến nó thấy khó chịu. Căng mắt ra nhưng cũng chẳng thấy gì, nó mò mẫm như mọi lần, men theo bức tường đá ẩm ướt, tiếp tục tiến vào.

    Nó cố trấn an là mình đã đi đúng hướng, đinh ninh rằng, Gavin vẫn an toàn. Dẫu nó chẳng biết mình sẽ phải làm gì để cứu cậu. Băng qua đoạn tối tăm, nó tới được một khoảnh đất khá rộng, rộng hơn một sân bóng rổ bình thường. Đối diện là một cánh cửa lớn, bằng đồng đen nặng trịch, không có nắm đấm cửa hay gì hết. Chúng trơn nhẵn. Nó trân trân nhìn cánh cửa một hồi. Nó phải bước vào trong đó, ý nghĩ ấy dường như thiêu rụi mọi quyết tâm của nó. Đừng sợ hãi, June! Nó hít sâu một hơi rồi tự nói với mình như thế.

    Nhưng chưa kịp làm gì thì cánh cửa đã chầm chậm dịch chuyển lùi vào phía trong. Cánh cửa lùi mãi cho tới khi tạo thành một lối đi sâu hun hút và tăm tối không kém. June chưa vội tiến vào, tay nắm chặt chiếc túi có đựng vài món vũ khí mà nó đã lượm nhặt trước đó. Đường hầm tối tăm một cách bất thường. Không gian im lìm tuyệt đối. Nó dễ dàng nghe thấy tiếng thình thịch liên hồi bên ngực trái. Sự sợ hãi dâng lên trong người như khiến nó muốn lùi bước.

    Tiếng giậm chân mạnh khiến June giật nảy mình. Mặt đất khẽ rung chuyển theo từng tiếng bước chân, vẻ như nặng nề. Thứ gì đó đang tiến ra từ đường hầm tăm tối. Một bóng dài đổ xuống khoảng đất rộng, con quái vật dần dần hiện ra trong ánh sáng. June giật lùi vài bước chực té ngã, nhưng may thay nó vẫn giữ được sự cân bằng. Nắm chặt tay túi vũ khí, nó hồi hộp chờ đợi. Lúc này, gã quái vật ló mặt. Không cao lớn như nó vẫn mường tượng trước đó, gã quái vật chỉ cao hơn tên The Hermit khoảng vài tấc. Chẳng mất thời gian để hình dung về gã quái vật này. Gã chính là hiện thân của Tikbalang (quái vật ngựa trong truyền thuyết dân gian của người Philippines). Nó đã từng đọc đâu đó thông tin này trên thư viện. Tikbalang là nỗi ám ảnh của những người đi rừng, họ thường lầm lẫn gã với một con người thực thụ. Gã có thói quen kéo nạn nhân của mình vào rừng sâu giam giữ trong những chiếc lồng lớn làm bằng cây.

    Gã quái vật hướng ánh mắt lên trời, đôi mắt chuyển sang màu trắng dã. Gã hí lên một tiếng vang vọng khắp không gian. June kinh hãi vô cùng. Thần kinh nó căng lên như dây đàn. Gã chuyển ánh mắt sang phía nó với vẻ hăm dọa. Nó biết, nếu muốn đi tiếp thì cần vượt qua cửa ải này. Không đợi gã có thời gian uy hiếp tinh thần mình thêm nữa, June nhanh chóng lấy từ trong chiếc túi vải thô ra một chiếc rìu. Nó không ngờ có một ngày mình lại phải sử dụng chiếc rìu này, thứ tạo ra từ trí nhớ của nó mỗi khi nhìn lão Geogre bổ củi bên hiên nhà.

    Nhanh như cắt, nó lao về phía tên quái vật, giơ cao tay, bổ một nhát trí mạng. Nhưng hắn kịp xoay người. June mất đà ngã chúi xuống đất, may thay, lớp lá hoai mục bên dưới trở thành tấm nệm bất đắc dĩ, nên nó không sao cả. Nó mau chóng đứng dậy. Gã quái vật cười khẩy, để lộ những chiếc răng to bản, màu ngà ngà, trông thật sự gớm ghiếc. Gã xoay người lại phản công. Bàn tay to lớn như cây chùy lăm lăm xông thẳng về phía June; nó thụp người né tránh, vung rìu đẵn một nhát vào ống quyển tên quái vật. Gã đau đớn, loạng choạng ngã chúi người. Nhưng chẳng hề hấn gì, gã quơ tay đánh trúng vào bụng June khiến nó văng ra một khoảng cách khá xa. Lưng va vào tường khiến nó đau đớn vô cùng, cảm giác như gãy từng chiếc xương sườn một.

    Nó trộm nghĩ, nếu như cứ đấu tay đôi thế này thì chắc chắn sẽ thua. Nỗi sợ hãi ăn mòn tâm trí khiến nó suy yếu. Tikbalang là hiện thân của đứa trẻ bị bỏ rơi lại trong khu rừng sâu, nếu muốn thu phục chúng thì cần phải nhổ một vài sợi lông trên chiếc bờm của gã, giống như thứ bùa chú khiến ta có thể sai khiến, điều khiển gã. Nó không chắc, làm theo cách này thì sẽ thành công hay không, nhưng chẳng còn cách nào khác, nó buộc phải thử.

    June lôi cây cọ vẽ trong túi áo khoác ra, quơ vài đường phác thảo trong không khí. Một hình nhân hiện ra. Đó là một người mẹ đang ẵm trên tay đứa con bé bỏng của mình. Ngay lập tức, hình ảnh đó thu hút sự chú ý của Tikbalang. Gã chăm chú nhìn, rồi lừ lừ tiến lại với vẻ hết sức cẩn trọng. June từ từ đi vòng quanh bức tường sang phía sau gã. Nó đi nhanh hết mức có thể, không được tạo tiếng động để gã phát hiện ra. Khi đó gã đang đứng trước mặt người phụ nữ bế con - ảo ảnh do June tạo ra. Gã giơ bàn tay to bản lên định chạm vào gương mặt người phụ nữ, nhưng vẫn chần chừ. Lúc này, June đã đứng đằng sau, chỉ còn vài bước nữa là có thể tiếp cận gã. Đám bờm dựng ngược vẻ thô cứng như lông nhím. June từ từ tiến lại, khéo léo dùng một chiếc dao nhỏ trong túi cắt đi vài sợi lông. May thay, gã vẫn chưa phát hiện. Gã chạm tay vào gương mặt người phụ nữ rồi khựng lại. Hình ảnh ấy chợt tan biến vào thinh không rồi nhanh chóng mất dạng. Gã gầm gừ, quay ngoắt lại phía sau. June giật mình té ngã. Gã tức giận khi phát giác trò lừa bịp của nó, gằn lên từng tiếng man rợ. Đôi mắt màu trắng dã nhìn June vẻ hăm dọa. Gã lao nhanh, giơ đôi bàn tay to bản định tóm lấy cổ June, siết chặt. June sợ hãi, nhắm tịt mắt, đồng thời giơ những chiếc lông lên. Bất giác, gã quái vật khựng lại, không còn tiếng gầm gừ giận dữ nữa. Gã cúi đầu xuống khúm núm, lùi lại sâu vào trong căn hầm rồi mất hút. June thở phào nhẹ nhõm rồi vội vàng đứng dậy.

    Căn hầm được mở rộng ra, ánh sáng le lói chiếu rọi, dù không sáng rõ nhưng June vẫn thấy được đường đi. Nó tiến vào thì cửa hầm đột ngột sập xuống. Khi ấy nó rảo bước nhanh hơn, gần như là chạy.

    Không gian bỗng trở nên sống động bởi những tiếng trống dồn, vang dội khắp căn hầm, va đập vào bức tường đá rồi vọng lại như thể một trận chiến khủng khiếp sắp xảy ra. June vẫn chạy. Trống ngực đánh thình thịch. Đôi chân mỏi rời như muốn khuỵu xuống. Sau đó, tiếng trống dồn nhỏ dần, nó cũng dừng lại, hổn hển thở. Lúc này, căn hầm bỗng nhuốm một màu xanh tai tái. Nguồn ánh sáng như tỏa ra từ những chiếc đèn neon đã sử dụng lâu ngày. Nó nhìn quanh một lượt nhằm tìm hiểu nguồn sáng nhưng không thể. Căn hầm vẫn kín mít, phía xa xa cuối con đường, một bóng đen cao lớn đang từ từ tiến lại gần.

    Đứng khựng lại, thân người June như đông cứng, bất động. Một sức mạnh vô hình khiến đôi chân nó chì xuống.

    Tiếp sau đó, tiếng gãy rắc vang lên, lớp đất đá bị cày xới bởi sức mạnh khủng khiếp. Mặt đất bắt đầu rung chuyển dữ dội. Đột nhiên, một thứ gì đó từ mặt đất trồi lên trước mặt June, khiến nó ngã vật ra. Là một cái rễ cây lớn, nó nhận định. Rễ cây tiếp tục trồi lên cho tới khi chạm vào trần hầm.

    Chúng bắt đầu lan ra nhanh chóng, những chiếc rễ lớn cày xới bề mặt hầm, lớp đất đá bị xới tung không thương tiếc. Tiếng gạch đá vụn rơi rào rào xung quanh như thể ngày tận thế. Chẳng mấy chốc, June không còn nhận ra diện mạo của căn hầm mà mình đứng ban nãy nữa. Phía dưới chân, những rễ cây ăn sâu xuống, đâm toạc vào nền đất. Nó cảm giác mình đang đứng ở một trong những phế tích của nền văn minh lớn đã bị chôn vùi theo thời gian. Hệt như ngôi đền nằm sâu trong khu rừng bị thời gian tàn phá. Những cây cổ thụ với bộ rễ lan rộng ra chiếm diện tích lớn, phần thân cây mục ruỗng tạo thành những cái hốc tăm tối, bẩn thỉu. June gắng gượng đứng dậy, ống quần bên phải rách toạc tới đầu gối vì bị vướng vào một chiếc gai nhọn. Từ phía cuối đường hầm tối tăm, sinh vật kỳ dị – tác giả của màn “trình diễn” vừa rồi dần dần lộ diện. Đó chính là gã quái vật rễ cây mà Gavin từng nhắc tới.

    Gã có thân hình khá cao lớn, khoảng chừng hai mét. Những bước chân nặng nề. Vì mỗi lần di chuyển, mặt đất lại rung lên từng hồi, nên lớp đất đá bên dưới bị nghiền vỡ vụn. Rễ và cành cây bện chặt lại với nhau, tạo nên các bộ phận chân tay giống y như người thật. Gương mặt gã là một gốc cây với hốc mắt đen ngòm, không tròng, còn cái miệng méo xệch thì đang ngoác rộng ra. Gã đứng đó, hơi nghiêng người. Trông gã như vị thần cây trong bộ phim Chúa tể của những chiếc nhẫn. Tuy nhiên, gã chẳng tốt đẹp như những vị thần cây. Và June chắc rằng, mình sẽ phải chiến đấu, đánh thắng gã thì mới có thể đi tiếp. Nghĩ tới đó, June thấy lòng chùng xuống, sự dằn vặt bấy lâu nay lại dấy lên trong lòng.

    Ngay lập tức, gã quái vật bắt đầu tấn công, vươn đôi tay dài ngoằng, tua tủa gai nhọn về phía June. May thay, nó thụp người né được đòn trí mạng. Gã mau chóng thu cánh tay khổng lồ về. Rồi cũng trong tư thế đó, gã lấy đà đánh tiếp, nhưng lần này gã tạt ngang. June thấy vậy bèn nhảy lên, thoát chết! Nó bỏ túi vải trên lưng, lấy một chiếc rìu lớn loại dùng để đẵn cây, lăm lăm trên tay, sẵn sàng phản công.

    Nhanh như chớp, nó lách người qua những chướng ngại vật mà gã biến ra. Những chiếc cọc gỗ nhọn hoắt tua tủa mọc lên khắp mặt đất. June tiếp cận được gã, nó nhanh chóng đẵn một nhát rìu vào thân người gã. Gã không hề hấn gì, chỉ phát ra tiếng rin rít khe khẽ. Từ vết thương, một dòng chất lỏng đen sì túa ra, rồi thoáng chốc bốc hơi thành làn khói đen ngòm bay lên, tan biến. June thấy lạ. Nhưng ngay sau đó, gã tóm được bàn chân nó bằng cách điều khiển dây – những sợi dây nhanh chóng lân lên đầu gối, rồi phần hông, quấn chặt. Lần này chết chắc rồi. Nó thầm nghĩ, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh. Vung rìu mạnh, nó chém đứt phựt những sợi dây thừng. Thân người được nới lỏng, nó đứng dậy. Một vài hình ảnh bất giác chạy sượt qua đầu nó, như thước phim tua nhanh. Nó loáng thoáng nhìn thấy hình ảnh của Gavin, thân thể cao gầy của cậu đang nằm bẹp rúm trong căn phòng với sàn bóng loáng như vừa được lau, đá hoa lát sàn màu đen trơn nhẵn càng tô điểm thêm sự ma quái. June cố gọi nhưng cậu không nghe thấy, không thể gượng dậy. Hình ảnh bị đứt đoạn, khi một khúc gỗ quăng trúng bụng June. Nó bay ra một đoạn khá xa, đau điếng.

    “Ngươi không thể thắng được ta đâu.” – June cố gắng hét lớn, giọng vang lên khắp không gian, dội vào những vách đá xù xì.

    Lăm lăm cây rìu trên tay, nó lao nhanh đến, bổ rìu xuống một bên chân gã quái vật. Gã khựng lại vài giây, loạng choạng, mất thăng bằng. Trong đầu June chỉ nghĩ tới hình ảnh rúm ró của Gavin mà thôi, chất adrenaline dường như đang ào ạt chảy trong người nó. Không sợ hãi. Nó tiếp tục tấn công, nhát rìu thứ hai bổ thẳng vào cánh tay bên phải của gã. Một dòng máu đen tuôn ra xối xả. Lần này gã rú lên, vẻ như đau đớn khôn cùng.

    June chợt nhận ra, gã quái vật rễ cây chính là hiện thân cho sự dằn vặt trong lòng nó. Nếu một khi nó vẫn giữ trong lòng thì không thể nào thắng được gã. Như hiểu ra mọi chuyện, nhanh như cắt, nó bổ thêm một nhát rìu vào giữa ngực gã quái vật, gã khuỵu hai đầu gối xuống đất, cánh tay dài thòng buông thõng như bất lực. Khi đó, những đốm lửa màu xanh xuất hiện từ những vết nứt trên cơ thể như muốn xé toạc gã. Gã rú lên lần cuối. Một vụ nổ khá lớn. Khi ấy, June chỉ kịp thụp người xuống ôm lấy đầu. Nó cảm thấy từng lớp đất đá trong căn phòng một lần nữa được xới tung lên, rơi rào rào xung quanh. Một lát sau thì mọi thứ mới im ắng.

    June bỏ tay ra khỏi đầu, ngước lên nhìn. Một cảnh tượng hoang tàn. Những nhánh cây cụt lủn vương vãi khắp phòng, vài vết tích về máu của gã quái vật vẫn sót lại đâu đó thành những vệt cháy xém trên mặt sàn. June thấy được ở phía cuối đường hầm, một nguồn sáng trắng hắt ra như đang mời gọi. Chẳng chút chần chừ, nó rảo bước, tiến thẳng vào trong đó.

    Cuối đường hầm, rẽ trái, June đi dọc một hành lang u tối khác dẫn thẳng tới một cánh cửa bằng sắt nặng trịch, cao chừng hai mét. Nắm đấm cửa khổng lồ được mạ đồng. Một cảm giác sợ hãi toát ra từ bên trong. Hít một hơi thật sâu, nó đẩy cánh cửa. Một làn khói xanh biếc xộc thẳng vào mặt khiến nó ho sù sụ mất một lúc. Không gian chào đón nó bằng thứ mùi thối rữa như mùi lưu huỳnh.

    Đó là một căn hầm khác, với trần hầm khá cao được ốp bằng loại đá màu trắng đã ngả màu ố vàng. Không gian này gợi cho nó nhớ tới những phòng bệnh bỏ hoang thời Thế chiến thứ Hai, hay một phòng thí nghiệm trong một khu vực xa xôi, hẻo lánh đã lâu năm không được sử dụng. Trong gian phòng có những chiếc kệ lớn được dựng sát tường, bên trên bày biện những đồ vật cũ kỹ. Một quả bóng nhựa bẹp rúm. Những chiếc cốc sứ sứt mẻ một vài chỗ, hay thậm chí là những tập giấy cũ nhàu không thể nhìn rõ chữ viết trên đó. Vài tuýp màu méo mó đã bị sử dụng hết. Vài chiếc cọ khô đầu nằm lăn lóc trên kệ, mạng nhện bám đầy. Nó đi vào phòng, phía cuối gắn trên bức tường đá là một tấm gương khá lớn, bám đầy bụi. Nó dùng tay lau mặt gương, và nhìn thấy hình ảnh méo mó của mình trong đó.

    Bất chợt, những hình ảnh trong gương bắt đầu chuyển động, xoáy tròn, hỗn tạp như hiệu ứng trong một đoạn quảng cáo trên truyền hình. Một lát sau thì chúng ngừng lại. Bên trong gương như phủ một lớp sương mờ đục, huyền ảo. Lớp sương mau chóng tan dần, những hình ảnh bắt đầu hiện ra một cách rõ ràng, chân thực. June nhìn thấy một căn phòng sơn màu xám lạnh lẽo. Chính giữa phòng kê một chiếc giường trống trơn bằng sắt đã hoen rỉ, được trải ga màu trắng toát. Hình ảnh chuyển sang khung cửa sổ lớn hình vòm, nhưng rèm che kín mít. Vài tia sáng hiếm hoi lọt qua khe cửa, tạo không gian nhờ nhờ sáng. Nó nhìn thấy dáng hình của một người phụ nữ đang quay đầu về phía khung cửa sổ. Bà đang chăm chú nhìn một thứ gì đó, nhưng tại sao bà lại không kéo rèm lên để có thể nhìn rõ khung cảnh bên ngoài!

    Chuyển cảnh, chiếc giường sắt lại hiện ra. Khi ấy, nó nhìn thấy trên đó là thân hình của một đứa con gái bé nhỏ đang nằm thoi thóp, mắt vẫn nhắm nghiền. Làn da xanh tái nhợt, đôi môi trắng bợt hệt như người đã chết. Trên cánh tay trái của cô bé là đám dây dợ lằng nhằng như những con rắn. Đoạn, đứa con gái mở mắt, nhìn về phía người mẹ, cô bé như muốn nói gì đó nhưng hình như chẳng còn sức lực. Cô bé gắng gượng mấp máy môi. Đám dây dợ đột nhiên trở nên sống động. Chúng bắt đầu uốn éo và siết chặt cánh tay cô bé. Chúng tiến lên phần bả vai, rồi tiến sang phần cổ. Cô bé kinh hãi, cố gắng gượng để hét một tiếng thật lớn, nhưng không thể. Người phụ nữ không hề biết chuyện gì đang xảy ra. Thậm chí bà chẳng thèm ngoái đầu lại nhìn. Bà vẫn chăm chăm nhìn ra bên ngoài. Một ánh nhìn dửng dưng. Một viễn cảnh tăm tối mà June biết rằng, nạn nhân chính là mình. Nó chính là cô bé đang nằm trên giường bệnh, trong căn phòng trắng toát và lạnh lẽo đó.

    June thét lớn. Tiếng thét vang vọng khắp căn hầm thí nghiệm. Tiếng thét thất thanh kèm gương mặt biến sắc như người đàn ông bên chiếc cầu giữa cơn giông bão, trong bức tranh của họa sĩ Edvard Munch. Đồ đạc trên kệ gỗ rơi xuống, lăn lóc khắp sàn nhà, khắp không gian lạo xạo những âm thanh phát ra từ nhiều hướng. Tấm gương trước mặt nó vỡ thành nhiều mảnh, từ chỗ đó tạo thành một lối đi u tối khác.

    Nó chẳng thể dừng lại. Nó đã đi qua xa, dấn thân vào cuộc phiêu lưu đầy chết chóc trong một thế giới ảo tưởng. Nó phải cứu Gavin, đó là ý nghĩ tồn tại duy nhất trong thâm tâm nó giờ đây. Nghĩ vậy, June không chần chừ mà tiến thẳng vào căn hầm tăm tối. Bóng tối nuốt gọn lấy thân thể nhỏ bé của nó.
     
  18. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XVI

    CẦU VỒNG ĐÊM GIÁNG SINH
    Không gian lặng như tờ. Thảng hoặc vọng lại từ đằng xa một thanh âm mơ hồ như tiếng thét của ai đó, nhưng chẳng mấy chốc lại bị nuốt gọn bởi màn đêm vô tận. Thứ ánh sáng mờ ảo như phát ra từ bóng đèn đã hết bột huỳnh quang, đùng đục. June thử tìm nguồn sáng nhưng chẳng thể thấy. Mắt vẫn chưa quen với bóng tối nên nó đi thật chậm. Thi thoảng vô tình giẫm phải thứ gì đó trên mặt đất khiến nó giật thót. Trống ngực đánh thình thịch. Trên tay nó vẫn lăm lăm cây rìu ban nãy, bàn tay và cả thân người đều ướt đẫm mồ hôi. Không khí như loãng hơn. Mọi thứ đang trở nên bí bách và ngột ngạt vô cùng. Dường như căn hầm không có lấy một lỗ thông gió nào.

    Nó từng được Gavin kể cho nghe về những căn hầm bí mật chôn sâu vài chục mét dưới lòng đất, trong một thành phố hay vùng đất bỏ hoang ở ngoại ô. Chúng được dùng làm cơ quan nghiên cứu khoa học hay bảo mật gì đó trong chiến tranh. Ngày nay con người đã tìm được hàng ngàn cái hầm như thế, nhưng vẫn chưa tìm ra bí mật. Mọi thứ đều bỏ ngỏ, như tâm trí nó vậy, chằng chịt những suy nghĩ và hình ảnh. Nó cá rằng, Lucine đã bắt Gavin và đi theo hướng này, linh tính đã mách bảo nó điều đó, dẫu chẳng có gì chắc chắn cả.

    Mắt dần quen với không gian tăm tối, nó nhận ra căn hầm vô cùng lộn xộn, với hàng tá đồ đạc lỉnh kỉnh. Hai bên bức tường kê những chiếc tủ kính đóng kín mít. Một làn sương bao phủ lên bề mặt, nên tạm thời nó chưa thể nhìn thấy bên trong là gì. Sờ tay lên xem thử, một cảm giác lạnh ngắt chạy dọc cánh tay khiến June giật mình lùi lại. Đột nhiên, nó cảm giác như mình giẫm phải thứ gì đó mềm mềm. Nó kinh hãi quay ngoắt 180 độ. Vội nhìn xuống, thì ra là một con gấu bông nhỏ, nó nhặt lên xem thử. Con gấu bông cũ kỹ, một mắt được gắn bằng một chiếc cúc áo trông cực kỳ dị hợm, một mắt không còn. Một phần bụng của nó bị rách toạc, lòi cả phần độn bông bên trong. Nó trân trân nhìn con gấu một hồi, ánh sáng mờ ảo phủ lên, khiến mọi thứ càng trở nên ma mị. Một cảm giác vừa thân quen vừa sợ hãi lướt nhanh qua người khiến June thấy kỳ lạ. Một dư ảnh nào đó, gợn về từ sâu thẳm tiềm thức. Nó thầm nghĩ, có thể điều đó gợi nhớ về một đồ vật thời thơ ấu bị quẳng vào sọt rác, không thương tiếc. Cô bé ấy thường tỏ ra giận dữ mỗi khi gặp chuyện buồn, mỗi khi bị bỏ rơi. Cô bé không thể nào kiềm chế được cơn giận của mình, cho tới khi sự giận dữ lên tới đỉnh điểm thì những đồ vật xung quanh, đống đồ chơi, những bức tranh... trở thành nạn nhân bất đắc dĩ. June không muốn nghĩ nữa, càng nghĩ đầu óc nó càng choáng váng. Đoạn, nó thả con gấu bông cũ kỹ trở lại mặt sàn.

    Nó bước tiếp, quan sát căn phòng một cách tỉ mỉ, chăm chú. Nó phát hiện phía sau những tủ kính là bức tường màu xám tro chằng chịt những vết xước lớn kéo dài. Có lẽ do móng vuốt của một con quái vật đã để lại. Quan sát kỹ một lúc, June thấy vài vệt ố xỉn màu còn bám lại trên đó, trông như vết máu khô lại sau nhiều ngày.

    Càng đi sâu vào trong, June càng cảm thấy không gian dần trở nên nóng bức và ngột ngạt. Cánh tay cầm chiếc rìu của nó như muốn rụng rời. Đôi chân nặng như chì, nó cảm giác mình không thể đi tiếp. Dừng lại, nó chống tay xuống gối, hổn hển thở.

    Đừng đi nữa. Một giọng nói vô hình chợt vang lên bên tai, không rõ ràng, tiếng được tiếng mất. Nó dừng lại nghe ngóng. Chẳng có gì cả. Có lẽ lại là do ảo giác. Nó tự nhủ, rồi đi tiếp.

    Đừng đi nữa, June! Mau trở lại đi! Lần này thì nó nghe rõ mồn một. Chắc chắn giọng nói xa lạ có nhắc tới tên mình, với âm hưởng mơ hồ, như thể được vọng lại từ một nơi xa xăm nào đó.

    “Ai đó?” – June cất tiếng, giọng nó cũng trở nên mơ hồ nốt, lọt thỏm trong thinh không, vô tận, nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng. Từng thời khắc chầm chậm trôi qua như hàng thế kỷ.

    Sau đó, nó đứng lại, quan sát. Nó quét mắt quanh căn hầm một lượt, từ dưới lên trên và ngược lại. Thậm chí nó cố xoáy ánh mắt về phía những tủ kính mờ mịt nhưng vẫn chẳng thấy gì. Chẳng có bóng dáng ai ở đây cả, chẳng có con quái vật nào. Chỉ có bản thân với nỗi sợ hãi, sự rệu rã, mỏi mệt đang muốn hạ gục nó.

    June vội buông rìu xuống. Một tiếng cạch sắc lạnh vang lên. Nó khuỵu gối xuống nền đất, cảm thấy khó thở. Rồi nó phát hiện ra, những tiếng thì thầm ấy bắt nguồn từ chính mình. Sự sợ hãi dâng lên trong nó đã ra sức ngăn cản, cảm giác như đó là một phản ứng vô điều kiện. June gục xuống như chàng kỵ sĩ ngã từ lưng ngựa trong bộ giáp sắt lỉnh kỉnh, nặng nề. Nó chẳng thể đi tiếp.

    Đột nhiên, một tiếng “tách” thu hút sự chú ý của nó. Ngẩng đầu lên, chưa rõ chuyện gì đang xảy ra, nó nhận thấy những tủ kính đang bắt đầu hé mở. Lần lượt từng chiếc một. Màn sương bí ẩn tan ra khiến mọi thứ hiện rõ. June trân trân nhìn. Đó là những chiếc lọ thủy tinh với kích cỡ khác nhau, giống như những vật mẫu trong phòng thí nghiệm, được dùng để đựng những tiêu bản của một sinh vật nào đó. Người ta sau khi giải phẫu xong, sẽ tiến hành đổ dung dịch phoóc-môn vào trong nhằm mục đích giữ những mẫu vật không bị hỏng theo thời gian. Dung dịch sẽ giữ chúng nguyên vẹn. June đã từng thấy những con ếch bị rạch bụng, phần da rạch được căng ra, ghim lên một tấm gỗ để cố định. Cả phần chân trước và hai chân sau cũng thế. Những con ếch đang trong tư thế nằm ngửa, phơi ra những bộ phận bên trong. Nào là tim, ruột, gan và lá lách... Hai con mắt trắng dã mở to vô hồn trong thứ dung dịch ngà ngà màu hổ phách đã bắt đầu vẩn đục. June không muốn nghĩ nữa, nhưng chẳng hiểu sao những hình ảnh ấy cứ tấp vào đầu nó, như cơn sóng tấp vào bờ cát, vào những vách đá đen ngòm dựng đứng.

    Gắng gượng dậy, June tò mò tiến đến gần. Những chiếc lọ được xếp đều tăm tắp. Phía bên trong đựng dung dịch màu ngà ngà. Đúng như những gì June từng thấy, bên trong đựng các mẫu vật thí nghiệm, tuy nhiên chúng mang hình dạng kỳ quái. Đúng hơn là những bào thai kỳ quái. Những thân hình nhỏ thó trong tư thế co quắp lại, hai cánh tay nhăn nheo bó gối. Còn cái đầu nhẵn thín to tướng trong tư thế hơi cúi xuống. Những tiêu bản quái thai. Nó đã từng đọc đâu đó trên tạp chí khoa học, về những đứa trẻ chết yểu, di chứng trong quá trình mang thai, tới khi sinh ra sẽ có hình dạng kỳ quái.

    June ghé mắt nhìn sâu vào bên trong. Tim nó đập thình thịch như muốn nhảy phắt ra khỏi lồng ngực. Nó trân trân nhìn về một bào thai, nằm dúm dó, co quắp. Làn da xanh tái, nhăn nheo tương phản với thứ dung dịch màu vàng. Nó đưa tay gõ gõ lên thành bình để thăm dò. Đột nhiên, hai con mắt trừng trừng mở to, trân trân nhìn nó. June kinh hãi hét lên thành tiếng. Một sức mạnh vô hình giật ngược về phía sau khiến nó té ngã xuống sàn. Đau điếng!

    Từ đằng xa, một chiếc lọ rơi xuống vỡ choang, mảnh thủy tinh vung vãi khắp sàn nhà. Dung dịch tràn ra lênh láng; và bắt đầu bốc mùi khăn khẳn. June chun mũi vẻ khó chịu. Nó bụm miệng mình lại, cảm giác buồn nôn dâng lên cuống họng. Không thể chịu được nữa, nó bắt đầu nôn khan. Chẳng có thứ gì trong dạ dày nó cả. Chuyện chưa dừng ở đó. Khi ấy, một bào thai trong chiếc lọ đang bắt đầu cựa quậy. Đôi tay nhăn nheo nhỏ xíu, vươn lên khoảng không như muốn nắm lấy thứ gì đấy. Cái đầu cử động hết qua trái rồi phải, còn đôi mắt đen thẳm thì mở to, nhìn trân trân vào June. Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng, nó bàng hoàng nhổm dậy trong tư thế sẵn sàng bỏ chạy. Tuy nhiên, một sức mạnh khủng khiếp đè nặng khiến đôi chân của June tạm thời tê liệt. Không thể bỏ chạy. June thầm nghĩ, nó tiếp tục quan sát. Thần kinh căng lên như dây đàn, như muốn đứt bung tất cả.

    Sinh vật nhỏ thó đang từ từ bò lại phía June; nó bò bằng tứ chi. Đôi mắt mở to ban nãy, giờ nhắm tịt lại. Cả thân hình run lẩy bẩy như cầy sấy. June đứng thẳng người dậy, tay lăm lăm cây rìu, sẵn sàng tư thế tấn công. Tuy nhiên, nó chẳng thể ra tay, không hiểu tại sao từng bước chuyển động của sinh vật lại khiến chân nó bủn rủn, rồi run lên bần bật. Vài hình ảnh chạy sượt nhanh qua đầu nó, như cảm giác khi đánh nhau với quái vật rễ cây. Mầm mống của nỗi sợ. June tạm gọi như vậy.

    Nó nhìn thấy một cô bé, đi lang thang bên bờ sông trong một chiều nắng nhẹ. Cô bé ướt từ đầu tới chân, vài cọng rau chân vịt, mì Ý và nước xốt sẫm màu vẫn bám lại trên tóc. Mùi khăn khẳn bốc ra. Một vài người đi đường trân trối nhìn nó nhưng chẳng ai nói gì, thậm chí lũ con nít còn tỏ ý cười cợt trước bộ dạng thảm bại. Nó chẳng buồn để ý, mà vẫn bước đi. Từng bước chân nặng nề. Rồi nó nhìn về phía con sông hiền hòa đang lững lờ chảy. Mặt nước sông sâu thẳm, nó thắc mắc thứ gì đang ở bên dưới. Một con quái vật chăng? Con quái vật Kraken đáng sợ, hay huyền thoại về quái vật biển Leviathan. Trong mỗi người đều chứa chấp một con quái vật như thế, rồi một ngày nó sẽ xé toạc cơ thể chúng ta để thoát ra, nhấn chìm ta xuống địa ngục.

    Vài chiếc bình khác liên tiếp rơi xuống, cắt đứt mạch hồi tưởng. Những hình ảnh bị đánh bạt về một nơi xa tắp. June giật mình quay tới lui. Nước đã lênh láng khắp sàn phòng. Mùi xú uế nồng nặc trong không gian bức bối khiến nó thấy buồn nôn. Những bào thai kỳ dị đang dần sống lại. Chúng chỉ tiến về phía nó, với tốc độ chậm rãi vô cùng. Không giống như đang tấn công, hay uy hiếp tinh thần June. Một phản xạ vô điều kiện, chúng tiến về phía nó, như để được thương hại, che chở. June thở hắt một cái đầy mệt mỏi. Lần này nó khuỵu hẳn xuống nền nhà, hai đầu gối chạm phải thứ dung dịch khó chịu. Chiếc rìu trượt khỏi bàn tay nó, rơi xuống. Hai tay buông thõng chẳng còn chút sức sống, nó hơi chúc đầu xuống, tâm trí thì trống rỗng, vô định. Trông nó khi ấy chẳng khác gì những sinh vật thảm thương đang lết đi trên sàn. Chỉ là hình ảnh phản chiếu của bản thân. Mầm mống của nỗi sợ, dằn vặt, cô đơn và buồn tủi đang vây xung quanh nó.

    Mày là một đứa cô đơn và thất bại trong mọi chuyện.

    Ai đó đã nói thế, kéo theo là một tràng cười dài hả hê, đầy vẻ giễu nại. Nó nhìn thấy hình ảnh Ruby và đám bạn của con bé xấc xược đó. Một đứa trong số chúng quay lại nhổ toẹt xuống mặt đất, rồi cuối cùng bỏ đi. Tiếng cợt nhả nhỏ dần. Không gian cũng im ắng ngay sau đó. June chẳng nghe thấy gì, thậm chí cả tiếng trái tim mình đập.

    Bóng tối đang nuốt chửng, xâm chiếm căn hầm.

    *

    June và mẹ đang rảo bước thật chậm bên bờ sông. Người dân trong thị trấn thường nói Little River đẹp nhất độ cuối hè đầu thu. Nước sông xanh ngăn ngắt, đôi chỗ thấy cả đáy, lộ những hòn sỏi nhỏ đủ kích cỡ và sắc màu. Nhưng ai biết đâu, trong thời kỳ Nội chiến, dòng sông nhuốm máu biết bao người ngã xuống. Thời gian trôi thật nhanh, nếu ngoảnh lại thì ta thấy mình cách thời điểm đang đứng một khoảng khá xa, và hầu như chẳng thấy gì. Ai đó đã nói với June như thế, có thể là trong bookmark của một cuốn sách về châm ngôn cuộc đời. Nó chẳng thể nhớ nổi.

    Cả hai vẫn chầm chậm bước. Thi thoảng nó khẽ liếc sang mẹ Jess. Bà vừa đi vừa nhìn về phía dòng sông, như thể đang suy nghĩ điều gì lớn lao lắm.

    “Dừng lại một lúc được không mẹ?” – June lên tiếng đề nghị.

    “Con mệt sao?” – Jess hỏi.

    Nó gật đầu. Hai mẹ con cùng ngồi xuống ghế đá được đặt trên con đường có rào chắn, ngăn cách với mặt sông chừng chục bước chân. Phía xa xa, vài đứa trẻ ngỗ nghịch tìm cách trèo qua hàng rào để xuống bờ sông. Cha mẹ chúng la toáng lên khi chứng kiến cảnh tượng đó.

    June vẫn chưa vẽ xong chân dung của mẹ, lúc hai người ngồi ăn kem bên trảng cỏ gần quảng trường trung tâm thị trấn. Nhưng nó không lo, vì đã xong cơ bản phần phác thảo rồi, phần còn lại thì đã tạc sâu vào trong tâm trí, ánh mắt của mẹ như nào, mái tóc của mẹ ra sao… Nó lơ đãng nhìn về phía con sông. Phía bên bờ bên kia, người ta đang xây dựng những tòa nhà chọc trời hiện đại, trung tâm mua sắm. Trong tương hai sẽ là sự tương phản với một bên là thị trấn già nua với những tàn tích từ thời kỳ Nội chiến tàn khốc, còn một bên là đô thị hiện đại. Nó rất muốn nói gì đó với mẹ Jess nhưng tạm thời chưa thể nghĩ ra.

    Mẹ Jess lên tiếng, phá vỡ bầu không khí im lặng.

    “Nếu như có thời gian, mẹ sẽ xin phép Jared để con có thể lên Dallas thăm mẹ sớm. Mẹ sẽ dẫn con đi xem những bức tranh ở trung tâm triển lãm thành phố. Sẽ sớm thôi.”

    “Con cũng nghĩ vậy.” – Nó đáp lại, gần như không biểu lộ chút cảm xúc gì sau câu nói đó, nhưng chẳng hiểu sao nó lại thấy hụt hẫng. Bởi lẽ nó biết, sẽ chẳng dễ gì để lên Dallas chơi.

    Rồi Jess cười, bà lùa tay vào mái tóc sau gáy xoa xoa. Một hành động gần như vô thức ở Jess, June đã quen với điều này nên nó chẳng phản ứng gì.

    “Mẹ sẽ về Dallas ngay sao?” – June hỏi.

    Jess gật đầu, nói:

    “Chuyện công việc ấy mà. Nếu con không thấy phiền.”

    June lắc đầu, nó bảo, chẳng thấy phiền hà gì cả. Như bố Jared cũng vậy, hay người lớn đều thế. Sau này, khi trở thành người lớn, nó cũng thế.

    Jess im lặng chưa nói. Một cảm giác gì đó chợt se lại trong lòng bà. Bà nghĩ ngay tới bao thuốc lá nằm trong túi xách, nhưng nghĩ đến con đang ở bên cạnh mình nên bà cố gắng kiềm chế. Một cảm giác ngột ngạt, dẫu thời tiết đang trở nên cực kỳ dễ chịu.

    Như nhận ra sự biến đổi trên gương mặt mẹ, June bèn thắc mắc.

    “Có chuyện gì vậy mẹ? Mẹ thấy trong người không ổn sao?”

    “Cần vài viên aspirin. Con biết đấy, người lớn luôn đem chúng trong túi xách của mình mà.” – Jess cười khẩy.

    Cả hai lại im lặng. Luôn như thế. Như một sự ngắt quãng trong những bản nhạc, mà đối phương cần phải có sự suy nghĩ thấu đáo để tiếp tục cuộc chuyện trò. Mọi thứ đều đúng với Jess. Sau này bà nhận ra, thật tai hại, chính nó đã vô tình tạo nên khoảng cách giữa hai mẹ con. Càng ngày càng xa cách.

    Bất giác, Jess nắm lấy đôi bàn tay xanh xao của June. Con bé dạo gần đây gầy đi trông thấy. Jess đã đề cập chuyện này với Jared. Và ông ta nói sẽ khắc phục. Jess thật sự ngán ngẩm trước những câu nói như vậy rồi. Con bé đã lớn và nó đủ thông minh để biết chuyện gì xảy ra.

    “Con không trách bố mẹ chứ June. Con đã hiểu tất cả.” – Jess cảm thấy khó diễn đạt vô cùng.

    June lắc đầu.

    “Con không biết. Con thật sự không biết mình có trách bố mẹ hay không. Nhưng con đã hiểu tất cả. Và con không biết làm cách nào để chấp nhận sự thật này. Dẫu con đã dành một giờ trong mỗi ngày để nghĩ về nó.”

    Jess thấy nghẹn nơi cuống họng. Bà chẳng thể giải thích. Những lý lẽ của người lớn. Muôn đời là vậy. Họ luôn cho mình có quyền đúng, ngay cả bản thân bà cũng vậy.

    Dẫu có nói thì cũng chẳng ích gì. Một viên đá đã ném xuống mặt sông, mặt sông nuốt chửng nó, chúng ta không thể lấy lại những gì đã mất.

    “Chỉ cần con chia sẻ, và mẹ sẽ lắng nghe...” – Jess ngập ngừng, bà cảm thấy thật sự kinh tởm trước câu nói của mình.

    Bà dừng lại, cúi gằm mặt xuống, hai bên tai đỏ ửng vì hổ thẹn, hai bàn tay đan chặt vào nhau, run lên. Cổ họng nghẹn ứ lại, đắng ngắt.

    Bất chợt, June áp bàn tay nó lên tay mẹ, như muốn nói điều gì. Nhưng rốt cuộc, nó chẳng nói. Jess cảm thấy một chút hơi ấm từ bàn tay con bé. Bà mỉm cười im lặng. Cuộc trò chuyện chìm vào sự quên lãng.

    Sau đó, hai mẹ con ra về. June cố gắng bước đi thật chậm. Nó muốn kéo dài thời gian, ở bên mẹ. Chỉ vậy thôi.

    Mẹ Jess chở nó về nông trại của bố. Căn nhà gỗ nhỏ đã sáng đèn. Bố Jared khi ở một mình có thói quen không bật nhiều đèn. Nó cố gắng tưởng tượng trong thứ ánh sáng vàng đục ấy, bố đang làm gì. Nó căng mắt nhìn về phía khung cửa sổ nhưng chẳng thấy. Rồi nó tập trung lắng nghe, đó là một giai điệu. Johnny Cash và June Carter đang song ca bài Jackson. Một trong những bài hát mà bố Jared yêu thích, cả mẹ nữa.

    Ngoảnh mặt lại nhìn mẹ, nó như muốn nói với mẹ điều đó, nhưng đành thôi. Bà đang thực hiện động tác gõ tay vô thức lên vô lăng. Mẹ không dám nhìn vào căn nhà.

    “Tới đây thôi!” – Jess nói.

    “Tạm biệt mẹ.” – June nói, rồi nó mở của định đi ra.

    Jess như muốn ngăn lại, bà lên tiếng:

    “Này... June.” – Thoáng ngập ngừng, Jess nói tiếp. – “… Mẹ luôn ở bên con, bất cứ lúc nào... con cần.”

    Nhưng có lẽ June chẳng còn nghe thấy, khi bóng dáng con bé đã đi vào sân nhà. Ánh sáng từ ngọn đèn cao áp rọi xuống khiến mọi thứ trở nên vàng vọt và hoài niệm.

    June bước lên bậc tam cấp, đi thẳng vào nhà. Johnny Cash đã chuyển sang giai điệu khác, trầm lắng hơn. Nó nhận ra đó là ca khúc Hurt.

    “Hôm nay tôi đã tự làm tổn thương mình

    ... để nhận ra một điều mình vẫn cảm nhận được mọi thứ”

    Lúc đóng cửa, nó len lén nhìn qua khe hẹp. Mẹ Jess đỗ xe thêm một lúc, rồi sau đó bà nổ máy, hướng thẳng ra đại lộ. Mất dạng.

    ***


    Không khí Giáng sinh tràn ngập khắp các nẻo đường ở Shadowfield. Người dân miền Nam đón Giáng sinh theo cách riêng của họ. Người ta vẫn thường nói với nhau như vậy. Từ vùng ngoại ô tới trung tâm thị trấn đèn hoa được chăng khắp, đèn led, đèn neon, rồi cây thông Noel.

    Lúc qua những tuyến phố tới bệnh viện, Jess cho xe chạy thật chậm. Vừa đi bà vừa âm ư theo những giai điệu ấm áp của ngày lễ. Gã hippie nháy mắt thân thiện khi nhìn thấy bà. Bà gật đầu chào lại. Nếu có dịp, Jess nghĩ cần phải uống với gã một ly, chắc hẳn họ vẫn có những kỷ niệm cần ôn lại. Dù gì Jess cũng đã từng có những kỷ niệm đẹp ở Shadowfield theo cách này hay cách khác.

    Khi Jess trở về phòng bệnh thì đã thấy một vài người ở đó. Vợ chồng lão Geogre - người hàng xóm thân thiện của Jared. Linda, vợ lão cũng mỉm cười với Jess, tuy nhiên bà gần như không thể nghe thấy mọi người trò chuyện nếu như không sử dụng chiếc máy trợ thính. Jess gật đầu mỉm cười với bà thay cho một lời chào.

    Trong tâm trí của Jess, Geogre hiện lên như một ông lão bảy mươi phúc hậu, miệng luôn ngậm tẩu thuốc, nhả khói điệu nghệ, nhưng nay lão lại trở nên trầm ngâm kèm một chút lo lắng đang hiện hữu trên gương mặt. Jess biết, bình thường June cũng hay trò chuyện với lão. Ngoài vợ chồng lão Geogre, còn có thêm một vài người họ hàng xa ở Texas mà Jess chưa từng gặp. Jess chào từng người khi bà bước vào phòng, tay ôm một đóa hoa lưu ly màu tím nhạt, loại hoa mà June thích. Con bé từng nói, đó là loại hoa dại mọc đầy ở vùng cực lạnh giá như Alaska hay Bắc Âu.

    Jess cắm hoa vào lọ, rồi để ở phía trên mặt tủ đầu giường bệnh. Vợ chồng lão Geogre có đem một vài món ăn truyền thống được chuẩn bị từ nhà. Họ cùng nhau bày biện ra bàn, cùng với ly, vài hũ đựng kẹo sắc màu, thậm chí cả những chiếc nón Giáng sinh chóp nhọn, nhỏ nhắn. Họ cùng làm trong lặng lẽ, ai nấy đều thấy vui. Giờ Jess cũng chẳng phàn nàn vì những người hàng xóm của Jared như trước nữa.

    Bên ngoài trời, những tinh thể tuyết trắng đang lặng lẽ rơi xuống. Jess nhớ lại những buổi trượt tuyết ở Ohio, vào dịp sinh nhật mười một tuổi của con bé. Cả nhà đã thực hiện một chuyến du lịch lên mạn Ohio, miền Đông bắc nước Mỹ. Bà chẳng nhớ chính xác chi tiết, những gì còn lại chỉ là dăm ba ký ức mờ nhạt. Bà nhớ, vẫn còn những bức ảnh đã cất sâu trong ngăn kéo ở Dallas, thi thoảng bà lại lôi ra xem.

    Bà nhớ nụ cười hồn nhiên của con bé, tương phản hoàn toàn với tình trạng hiện giờ - đôi môi tím tái vẫn mím chặt, trên cánh tay gầy nhẳng thì bùng nhùng dây dợ truyền dịch. Nghĩ tới đó, Jess lại thấy xót lòng. Bà mở sẵn cuốn sách của Mark Twain ở đầu giường, người Mỹ nào cũng từng đọc ông ấy, ít ra là một vài câu trích dẫn trong sách hay bất cứ đâu. Câu chuyện về sự hy sinh giữa con người với nhau, dù họ thân thích hay chỉ là người xa lạ. Ngay những con người đang ở đây cũng thế, chưa bao giờ Jess cảm thấy họ lại gần gũi đến thế.

    Chuẩn bị xong xuôi, họ cùng nhau cụng ly chúc tụng. Trời sập tối. Phóng tầm mắt ra xa, khu nông trại rộng lớn, những ngôi nhà nhỏ tỏa ra thứ ánh sáng màu vàng ấm áp phản chiếu từ những ngọn đèn. Phía trung tâm thị trấn, giữa quảng trường, người ta đang cùng nhau hát những bài ca mừng Giáng sinh ấm áp, kèm theo tiếng kèn, trống.

    “Vì June!” – Họ cùng nhau cụng ly và nói.

    ***



    Một dải sáng lóng lánh xuất hiện. Dù đang nhắm tịt mắt, nhưng June vẫn có thể cảm nhận được. Cảm giác ấm áp khẽ sượt qua lòng nó, dẫu chút ít, nhưng chúng thật rõ rệt. Nó quên ngay đi những gì khủng khiếp mới trải qua. Nó nghĩ rằng, mình chỉ vừa trải qua một cơn ác mộng khủng khiếp nhất. Nó biết, mọi chuyện không thực, nhưng vẫn cảm thấy đôi chút an ủi.

    Rồi, nó mở mắt và không khỏi ngạc nhiên. Trước mặt, một khung cảnh lạ lùng, tuyệt đẹp đang hiện hữu. Những dải sáng phản chiếu với tủ kính đầy đủ sắc màu. Là cầu vồng, June thốt lên. Theo đó, những bụi sáng li ti lơ lửng như nhảy múa trong không khí. Nếu nhắm mắt và cố gắng mường tượng, June cảm giác như nó đang nghe thấy một giai điệu thân quen nào đó, sâu trong những ngóc ngách tối tăm của con phố chật hẹp, bẩn thỉu, hay những đại lộ ngoại vi thênh thang, lộng gió. Đó là những bài ca chào mừng Giáng sinh.

    Dưới mặt sàn, những bào thai yếu ớt run lên sợ hãi. Chúng cảm thấy khó chịu thực sự khi thứ ánh sáng đó tiếp tục rọi vào. Chúng rên rỉ thành tiếng. Khe khẽ. Rồi lớn dần thành những tiếng rít đầy man rợ. Chúng nhắm tịt mắt, trông thảm thương vô cùng! Thứ ánh sáng tuyệt diệu đó đang thiêu đốt chúng, như mảnh nhựa tan chảy dưới sức nóng khủng khiếp của mùa hè. Chúng bắt đầu tan ra, sôi lên rồi bốc hơn. Thoáng chốc, chúng tan biến, không để lại chút dấu vết.

    Những mảnh kính vương vãi, thứ dung dịch hôi thối cũng không còn nữa, trả lại mặt sàn trơn láng như trước, như không hề có chuyện gì xảy ra. Cả căn phòng bỗng trở nên ấm áp và thân quen lạ thường. June không còn thấy đôi chân mình bủn rủn như trước nữa. Một cảm giác khoan khoái lạ thường trong cơ thể. Dẫu nó không chắc chắn rằng, mình có đang đúng không? Hay chỉ là những ảo giác trong cơn khủng hoảng bế tắc? Nó chẳng cần biết. Đoạn, nó nhặt cây rìu dưới sàn rồi đứng dậy đi tiếp. Cuối con đường tăm tối, nhưng nó chẳng còn cảm thấy sợ hãi nữa.
     
  19. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XVII

    NƠI CUỐI ĐƯỜNG HẦM

    Cuối đường hầm, một ánh sáng le lói xuất hiện. Thứ ánh sáng xanh ma mị mà June đã thấy hàng chục lần trước đó. Một cánh cửa cuối cùng, như một màn chất lỏng được dựng lên, phản chiếu lóng lánh. Không ngần ngại, nó bèn bước vào, cảm giác lạnh ngắt đi qua người. Đột nhiên, có một lực hút mạnh khiến nó ngã dúi dụi.

    Lăn tròn trên sàn nhà ẩm ướt một cách lố bịch, June vội đứng dậy. Gian phòng hình tròn, bức tường đá phủ rêu, lấm chấm trên đó là những vật màu đen, tròn tròn như những con mắt vừa rơi ra khỏi tròng. Chúng xoay xoay liên tục, thi thoảng rỉ ra thứ chất lỏng nâu sậm, theo đó, mùi thối rữa bốc lên như từ một sinh vật chết lâu ngày, mà lũ kền kền vẫn chưa tới rỉa xác. Nghĩ tới đó, June lại cảm thấy cơn buồn nôn trào lên cuống họng.

    Giữa căn phòng rộng lớn, khoảng ánh sáng tròn chiếu xuống mặt đất như đèn pha trên sân khấu kịch. Nó phát hiện một dáng hình nhỏ bé đang nằm co quắp, trông thật thảm thương. Gương mặt cậu bê bết thứ chất lỏng màu đỏ sậm như máu, thậm chí nhỏ ra từ lỗ tai. Hai tay bị trói ngược về đằng sau bởi sợi dây thừng chắc chắn. June chạy lại, nhưng một sức mạnh từ đâu không rõ nguồn gốc hất ngược trở lại khiến nó ngã sóng soài trên nền nhà lạnh ẩm. Đau điếng người.

    Khi ấy, từ trong vùng tối của căn phòng, Lucine xuất hiện với người cận vệ của mình – Max.

    Thấy Max, một cảm giác nhói lên trong lòng June, khó tả. Dẫu nó biết, cậu ấy không có thật, chỉ do Lucine tạo ra mà thôi. Chỉ là một ảo ảnh, không hơn. Max đứng đó, bên cạnh Lucine, ánh mắt xoáy vào thân hình co rúm của Gavin đầy vẻ giận dữ và thèm khát.

    June vẫn chưa thể đứng dậy, đôi chân nó cứng đờ, bất động. Chống hai tay xuống sàn, nó nỗ lực gượng dậy. Lucine nhìn nó với vẻ mặt đầy thương hại. Cô ấy vẫn đứng đó, thân hình cao gầy, mái tóc xoăn dài rủ xuống, hai tay thì khoanh trước ngực. Chưa ai nói với ai câu nào trong cuộc hội ngộ cuối cùng này. Cách June vài bước chân, Gavin đã bắt đầu cựa quậy, bàn tay cậu khẽ cử động từng ngón nhưng vẻ như khó khăn. Mắt lim dim mở. Cậu tỏ ra mừng rỡ khi thấy June ở đây.

    “Gavin. Cậu tỉnh rồi!” – June thốt lên.

    Ngay khi đó, Max từ xa tiến lại, túm lấy tóc Gavin, và bắt đầu dựng cậu đứng dậy với hành động cực kỳ thô bạo.

    “Đừng động vào cậu ấy, Max.” – June thét lên, vẻ như dọa nạt. Nhưng Max ra bộ chẳng nghe thấy gì, và như một cỗ máy hủy diệt không nhân tính, cậu ta tiếp tục làm công việc của tên tay sai trung thành.

    June đứng dậy, mặt đối mặt với Lucine. Cả hai vẫn im lặng chưa nói, như thể đang cố gắng suy nghĩ thấu đáo trước khi bắt đầu một câu chuyện thật dài. Không còn sự bối rối như khi mới gặp gỡ, giờ đây trong lòng mỗi người đều lấp đầy những toan tính, thậm chí cả sự khinh bỉ.

    Thi thoảng June vẫn liếc sang Gavin để xem cậu ra sao. Nó cầu mong tên tay sai kia sẽ không làm chuyện gì quá đáng, gây đau đớn cho cậu. Một phần, June cũng chưa dám làm gì vì đang trong tư thế của kẻ bị động. Nó nghĩ, cần phải tùy cơ ứng biến vào lúc này.

    Hít một hơi thật sâu, nó bắt đầu câu chuyện.

    “Lucine.” – Nó nói.

    Lucine nhướng mày lên như thể đang chăm chú.

    “Mình xin lỗi...” – June nói với giọng điệu chân thành... – “Mình không thể ở lại đây. Và mình thừa nhận, vào những lúc giận dữ, mình đã trút mọi điều lên cậu. Sự xấu xa và cả những dằn vặt.”

    Lucine cười khẩy; cô ấy bắt đầu đi lại quanh phòng, dáng vẻ bình tĩnh hết sức.

    “Tới bây giờ cậu mới nhận ra điều đó sao June? Cậu biết những lúc đó mình cảm thấy thế nào không, dù mình chỉ là một sản phẩm tưởng tượng của cậu, không hơn.” – Lucine nói, giọng như trách móc.

    Một chút gì đó hối hận dâng lên trong lòng June, khiến nó thấy rối trí, chưa biết nói thế nào. Nó chần chừ mất một hồi lâu mới nói:

    “Mình biết. Đó là lỗi của mình, và mình mong cậu tha thứ.”

    June nghĩ khi ấy, Lucine sẽ nhân cơ hội đó để bắt bẻ nó. Trút hết mọi lỗi lầm lên người nó. Nhưng không hề, Lucine bắt đầu dịu giọng lại, như mọi lần.

    “Mình luôn tha thứ cho cậu mà June. Lúc nào cũng vậy.”

    June cảm thấy mừng húm, một tia hy vọng lóe lên trong đầu. Lucine là bạn nó, dù mọi chuyện không hay đã xảy ra trước đó, cô ấy vẫn sẽ tha thứ và hiểu cho nỗi lòng của nó. Nhưng cho tới khi Lucine lại đề cập tới chuyện giữ nó ở lại thế giới này thì June thấy chùng lòng, cảm giác thất vọng ê chề khiến nó thấy mệt mỏi vô cùng. Lúc này, Lucine đã đến gần nó hơn. Chưa bao giờ nó gần Lucine tới như thế. Gương mặt cô ấy trắng nhách, đôi chỗ hơi tai tái và nổi gân xanh lè. Ánh mắt xám sâu thẳm giờ hiện lên những khát khao đến mức ích kỷ, ti tiện. Nó cố gắng tránh xa cái nhìn trực diện đó, nó không muốn đối diện với con người xấu xa này thêm nữa.

    Nó lên tiếng:

    “Không! Mình sẽ không thể ở lại thế giới này một giây nào nữa. Mọi chuyện xảy ra như thế đã quá đủ rồi, Lucine!”

    Lúc đó, Gavin đã hồi phục phần nào. Cậu đứng thẳng người dậy, hai tay vẫn bị trói ngược ra sau. Max đang đứng cạnh cậu, sẵn sàng thực thi nhiệm vụ của chủ nhân khi nhận được lệnh. Sự hồi tỉnh của Gavin làm xao nhãng cuộc trò chuyện.

    “Cậu ổn không, Gavin?” – June quay sang, ân cần hỏi.

    Gavin cố gắng nói nhưng không thể, nên cậu chỉ gật đầu. June thấy an tâm hơn phần nào.

    “Cậu vẫn không hiểu ý nghĩa của những chuyện mình đã làm sao June? Tất cả đều vì cậu.” – Lucine nói.

    “Mình hiểu. Nhưng mình vẫn còn cuộc sống ngoài kia, bố mẹ mình, bạn bè.” – June đáp lại.

    Lucine cười khẩy một lần nữa.

    “Thật nực cười làm sao! Bố mẹ, bạn bè ư? Những đứa như Ruby hay Max mà cậu vẫn có thể coi là bạn bè ư? Cậu đừng phủ nhận việc chúng đã từng đối xử với cậu như thế nào.”

    June không hề phủ nhận, nó nói ngay với Lucine điều đó. Nó không muốn nhắc lại những chuyện buồn trong quá khứ nữa.

    “Cậu nói như thể mình thật cao thượng June à! – Lucine cười lớn, vang vọng khắp gian phòng tăm tối – “… Mình nhớ cái lần cậu đã từng nói là ghét cay ghét đắng con nhỏ Ruby đó. Chẳng phải cậu đã vẽ hàng chục bức tranh về con bé đó, rồi đốt cho hả giận sao. Cậu thật sự hả giận khi nhìn ngọn lửa bùng cháy, liếm sạch những bức tranh đó thành tro tàn. June! Đừng chối bỏ bản chất thật của mình nữa! Như vậy thật giả tạo, cho nên cậu chẳng có quyền phán xét ai cả. Hiểu không?”

    Lucine gần như gầm lên, không gian vang vọng, dội lại từ những vách đá.

    “Đó là mặt xấu của mình. Mình không hề chối bỏ nó, Lucine. Nhưng mình không bao giờ giả tạo, không lừa dối ai cả.” – June lên tiếng phản biện.

    Lucine im lặng. Cô lặng lẽ di chuyển về phía những bức tường đá ẩm ướt. June thấy, Lucine rà tay lên đó. Đột nhiên, những giọng nói thì thầm, một lần nữa lại vang lên.

    Đoạn, Lucine ra hiệu cho June tiến lại gần, yêu cầu nó áp tai vào nghe.

    June ngoan ngoãn làm theo, dù nó chẳng hề biết chuyện gì sẽ xảy ra? Lucine có ý đồ gì không? Nó áp tai vào nghe. Những tiếng thì thầm không rõ rệt. Vài từ ngữ loáng thoáng lọt qua tai nó nhưng chẳng rõ ràng, vài từ như gió thoảng, bị đánh bạt đi về một nơi khá xa. Đôi lúc nó còn nghe được cả tiếng những con sóng táp mạnh vào vách đá. Tiếng thì thầm bên ngoài khung cửa sổ tối thẫm như mời gọi tha thiết. Có tiếng ỉ ôi, nỉ non, có tiếng khóc thút thít. Tiếng la hét thất thanh của một đứa trẻ tội nghiệp nào đó trong vô vọng, chán chường.

    Chợt, vài hình ảnh chạy nhanh qua đầu nó. Một thước phim tua nhanh. Cô bé vẫn ngồi đó, bên trảng cỏ, những bức tranh vương vãi. Gió bắt đầu nổi lên, bụi tung mùi mịt. Vài bức tranh theo cơn gió cuốn đi. Cô bé chạy theo, cố gắng nhặt chúng lại, nhưng chẳng thể. Cô chạy mãi, chạy mãi.

    *



    June cảm thấy mệt nhoài bởi những lần trốn chạy như thế. Xa xa nó vẫn nghe thấy tiếng la ó của Ruby và nhóm của mình. Nó chẳng biết mình đã bỏ xa đám con gái dị hợm, ngỗ nghịch đó chưa. Nó dừng lại, ngó nghiêng quan sát một hồi lâu.

    Hành lang trường học trở nên tối tăm vào lúc chiều muộn. Thứ ánh sáng nhờn nhợt bao phủ xung quanh. Nó thò tay vào trong túi áo, lấy điện thoại. Nó sẽ gọi một cuộc cho Gavin hay bố Jared để cầu cứu. Nhưng rốt cuộc nó chẳng thấy điện thoại của mình đâu. Nó hoảng hốt lần mò khắp người, rồi sực nhớ ra, nó vẫn để điện thoại ở chiếc ba lô trên lớp học, hành lang tầng ba dành cho khối Mười một.

    Khó khăn lắm nó mới thoát khỏi sự truy đuổi của đám con gái trong nhóm Ruby. Nghĩ tới con nhỏ đó, một cảm giác ấm ức và tức giận lại dâng lên, mắc nghẹn ở cổ họng, khó chịu vô cùng.

    Nó suy nghĩ một lát, rồi quyết định quay trở lại lớp học để lấy chiếc ba lô, hy vọng lũ con gái đáng ghét đó đã ra về. June nghĩ vậy, rồi quay ngoắt theo hướng ngược lại. Hành lang dài tăm tối. Không khí đột nhiên lạnh lẽo bất thường, vì dù gì giờ mới là tháng Chín. Nó hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh, chẳng hiểu sao một mỗi sợ vô hình đang hiện hữu trong người. Nó cắm cúi chạy xuống dưới những bậc thang, còn ba tầng nữa. Nó biết được khi nhìn vào tấm bảng màu xanh ghi chữ tầng sáu.

    Khi tới được tầng ba, nó thấy khá hồi hộp, tim đập nhanh như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Không khí ngột ngạt, phảng phất đâu đó mùi đồ ăn đã bắt đầu phân hủy ở những thùng rác mini. Cửa lớp đã mở sẵn, nó xộc thẳng vào nhưng rồi phải khựng lại. Đám con gái trong nhóm Ruby đang phục sẵn ở đó. Đột nhiên, cánh cửa đằng sau nó đóng rầm lại. June quay ngoắt lại, một nụ cười nham hiểm hiện rõ trên mặt Jane – con bé có mái tóc rối bù màu đỏ, vì bố nó là dân Ai-len. Con bé nhìn nó cười nhếch mép, hai tay khoanh trước ngực, dương dương tự đắc, như thầm nói với June, còn lâu mày mới thoát khỏi đây, con nhóc hỗn xược!

    Vài tiếng cười khúc khích sau lưng. Lúc này, nó nhận ra sự hiện diện của nhân vật phản diện. Một trong những chuyện điển hình xảy ra như cơm bữa, ở một trường trung học của nước Mỹ bắt đầu lên tiếng. Ruby nói với giọng điệu kênh kiệu như thường lệ của con bé.

    “Mày còn định trốn đi đằng nào nữa, June? Trường học này chẳng có mấy ngóc ngách mà bọn này không biết đâu? Ha ha.”

    Chúng vẫn cười, từng tràng dài. June quay lại, nhìn thẳng vào Ruby, không nói gì. Con bé đang ngồi giữa bàn. Bên cạnh nó, lần lượt là hai con bé sinh đôi nhà Button, mặt đầy mụn trứng cá và tàn nhang. Rồi tới con bé Vanessa cao nhòng, khẳng khiu. Một con bé lạ mặt nhỏ thó mà Ruby mới kết nạp vào hội. Nghe đồn bố con bé lạ mặt này làm chủ một nhà hàng trong trung tâm thị trấn. Lũ dị hợm, June nghĩ thầm.

    Đoạn, nó để ý thấy con bé Vanessa đang cầm trên tay chiếc ba lô màu xanh mòng két của mình. June tức tối nói:

    “Đưa ba lô đây, Vanessa!”

    “Trả ư? Không dễ dàng vậy đâu!” – Ruby lại lên tiếng.

    Con bé vẫn ngồi đó, chễm chệ, dùng hai tay vân vê mái tóc dài mượt mà của mình. Vẻ mặt xinh đẹp của con bé khiến June thấy khó ưa, nhưng chẳng hiểu sao lại khiến lũ con trai trong khối mê mẩn đến thế. Có lẽ chúng vẫn chưa biết bộ mặt thật của con bé này, sự giả tạo và đố kỵ. Nhưng dù June có nói gì đi chăng nữa, thì cũng chẳng ai tin một đứa mang danh dị hợm như nó.

    “Các cậu không có quyền giữ đồ của tôi. Mau trả lại, để tôi còn về nhà. Trời đã tối rồi!” – June bất lực lên tiếng.

    Ruby phá lên cười, con bé nhảy ra khỏi bàn một cách gọn nhẹ. Nó giật lấy chiếc ba lô từ tay của Vanessa, giơ lên, vung vẩy trong không khí như để trêu ngươi June. Cơn giận dâng lên, khiến mặt June đỏ chín như gấc, nóng phừng phừng. Nó muốn lao sang đấm vỡ mặt con bé khó ưa đó, nhưng nó kìm chế được; trong tình thế này, nó không thể một mình chống lại đám này được.

    “Vậy điều kiện là gì?” – June cất tiếng hỏi.

    Ruby cười, đáp như sẵn sàng đợi câu hỏi đó từ lâu.

    “Điều kiện ư? Mày cũng có quyền đưa ra điều kiện với tụi này sao June? Chúng mày xem, nó còn định đưa ra điều kiện với tụi mình kìa.”

    Vài đứa cười lớn, hùa theo sau câu nói của Ruby. June nhắc lại câu hỏi của mình một lần nữa, nó cảm thấy bất lực vô cùng.

    “Các người thử nói xem, biết đâu tôi có thể đáp ứng được. Tôi cầu xin các người, được chưa?”

    “Dễ dàng vậy sao, June-dị-hợm, June kỳ cục với mớ ba lăng nhăng trên người mình.”

    Lúc này, Ruby tiến gần lại phía June, không quên chuyền chiếc ba lô lại cho Vanessa. Ruby nhìn xoáy sâu vào trong mắt June, vẻ tức giận hiện rõ trên mặt con bé. Rồi nó nói rành rọt từng lời, như thể hăm dọa.

    “Ai đã viết thư cho Max hả June Walker?”

    “Bức thư nào? Tôi không hiểu cậu đang nói chuyện gì, Ruby?” – June ngạc nhiên hỏi lại. Nó chẳng nhớ có bức thư quái quỷ nào cả. Có hay chăng chỉ là cái cớ, là màn kịch mà tụi nó đang dàn dựng lên mà thôi.

    “Đừng giả bộ ngây ngô như vậy nữa. Tôi thật sự chán ghét bộ mặt này đấy, June à!” – Ruby nói, đồng thời con bé túm lấy một bên áo khoác da của June, kéo gần về phía nó, vẻ như hăm dọa.

    June nhanh chóng gạt phăng bàn tay dơ bẩn của con bé ra khỏi người mình, nhìn thẳng vào mắt nó rồi nói, rành rọt từng lời.

    “Tôi xin được nhắc lại với cậu, Ruby, chẳng có bức thư nào ở đây cả. Tôi còn chưa bao giờ nói chuyện với Max thì làm sao có bức thư quỷ quái nào đó. Các người chỉ đang lấy cớ để đe dọa tôi thôi. Xin các người hãy dừng lại đi.” – June nói một tràng dài. Gương mặt Ruby tối sầm lại.

    Con bé chưa vội nói, như thể đang nghĩ ngợi một phương án đối phó ghê gớm lắm.

    “Chẳng phải cậu có tình cảm với Max sao June.”

    Ruby cất tiếng, lần này đánh trúng vào điểm yếu của June. Nó khựng lại, đông cứng người, một cảm giác tê dại chạy dọc sống lưng, lan dần ra khắp cơ thể. Nó không thể lên tiếng, thứ gì đó đang chặn đứng cổ họng của nó.

    Ruby tiếp tục tấn công.

    “Tôi đoán trúng tim đen của cậu rồi June nhé!”

    Lúc này, June nhận ra chẳng có chuyện bức thư nào ở đây cả. Chúng ở đây và chỉ để xác định rõ một điều. Sự ganh ghét hiện rõ trên gương mặt của Ruby. Max chẳng bao giờ có tình cảm với nó, nhưng lũ con gái hỗn xược này đã để mọi thứ đi quá xa rồi.

    “Tôi xin nhắc lại một lần nữa, Ruby. Tôi và Max chẳng có gì liên quan tới nhau cả. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với cậu ta và trong tương lai cũng chẳng mơ ước gì tới chuyện đó. Kể cả các người, tránh xa tôi ra. Để cho tôi yên được không?”

    Nó giận dữ vô cùng, nó dần mất kiểm soát. Đột nhiên, một sức mạnh kỳ lạ thôi thúc, khiến nó chạy tới, đẩy Ruby ngã uỵch xuống nền nhà. Con bé khá bất ngờ nên chưa kịp phản ứng gì. Đám kia há hốc mồm ngạc nhiên. Không chần chừ, June giật phăng chiếc ba lô từ tay của Vanessa. Nó định tháo chạy ra cửa, nhưng Ruby la lớn:

    “Chặn nó lại, Button!”

    Con bé Jane chặn đứng cánh cửa. Từ hai phía, cặp đôi nhà Button lao nhanh lại phía nó, khóa chặt tay khiến nó không thể nào nhúc nhích. Một con bé đá vào chân khiến nó khuỵu xuống. Nhân vật phản diện tiến gần lại, vẻ thong thả. Ruby dùng một tay nâng nhẹ cằm June lên, ánh nhìn hiện rõ sự tức giận. Một cái tát trời giáng khiến mặt mày nó xây xẩm. June vùng mình, giãy giụa nhưng càng phản kháng thì đôi tay càng bị siết chặt lại, đau đớn vô cùng.

    “Thả tôi ra! Thả tôi ra!” – Nó la lớn, hy vọng ai có thể nghe thấy. Nhưng đáp lại chỉ là sự im lặng của bóng đêm đang phủ xuống căn phòng, cùng giọng cười khoái trá man rợ của đám con gái đó.

    Mọi thứ xa dần rồi cuối cùng chìm hẳn vào sự im lặng của màn đêm đen đặc.

    *

    June khuỵu xuống sàn. Nó gào lên:

    “Dừng lại đi, Lucine. Đừng hành hạ mình nữa. Đừng tái hiện những điều khủng khiếp đó nữa.”

    Nó van lơn Lucine, người chực đổ ụp xuống, hai chân run lẩy bẩy khuỵu xuống nền nhà. Nó vội bịt tai lại để không nghe thấy những âm thanh đáng sợ đó nữa. Thứ âm thanh như phát ra từ chốn địa ngục.

    Lucine không phản ứng gì, vẫn điềm tĩnh như thế. Cô ta biết, mình dễ dàng nắm bắt được điểm yếu của June. Cô ta lên tiếng:

    “Cậu đã thấy gì chưa June? Một lần nữa, mình xin được nhắc lại. Phần xấu xa của cậu, phần yếu đuối, hèn nhát đã được chôn chặt sau những bức tường kia. Cậu cần mình nhắc lại ý nghĩa của tòa tháp này không?”

    June im lặng. Nó như muốn bật khóc.

    “Tòa lâu đài sâu hút này chính là tầng tăm tối nhất trong con người cậu. Nếu trở lại, ý mình là bên ngoài thế giới kia, mình không dám chắc rằng, nó sẽ rời bỏ cậu. Một ngày nào đó, chúng sẽ lại bộc phát trong con người cậu mà thôi.”

    Lucine nói thêm, chỉ khi nó ở lại thế giới này, thì những nỗi sợ, phần bản chất xấu xa đó mới bị kìm giữ, không thể bộc lộ ra, và nó sẽ hưởng hạnh phục trọn vẹn. June không muốn nghe nữa – những lời dối trá này, hết lần này tới lần khác. Chẳng có gì là thực.

    Sau đó nó quả quyết nói:

    “Mình không tin. Lucine!”

    “Không tin ư?” – Lucine vặn lại.

    “Chính là cậu. Đừng buông những lời dối trá đó nữa. Mình xấu xa, hay giận dữ vô cớ. Nhưng mình vẫn còn mọi thứ ngoài kia, mình không chắc khi trở lại đó sẽ sống tốt hơn bây giờ. Nếu như ở lại đây, nghĩa là mình ích kỷ, chỉ nghĩ cho riêng bản thân.”

    June không thể ở lại. Nó quả quyết, nhấn mạnh thêm với Lucine về quyết định của mình. Lucine bèn cười lớn. Một tràng cười man dại, làm June nhớ tới những con quái vật đã ngáng đường nó. Bất chợt, những hình ảnh ấy hiện lên trong tâm trí nó, rõ mồn một. Không còn một Lucine như nó đã từng nghĩ. Phía trước mặt, cô gái ấy bỗng trở nên đáng sợ hơn bao giờ.

    Lucine nhìn nó, gằn lên từng tiếng giận dữ:

    “Cậu không hiểu những gì mình nói từ nãy sao, June! Cậu thật ngu xuẩn! Vậy hãy thử trở về với thế giới đau khổ ngoài kia đi. Cậu nên nhớ đây là tầng hầm chứa những phần xấu xa của cậu. Thử hình dung xem, nếu như chúng thoát ra thì sẽ như thế nào.”

    Một kịch bản tồi tệ. June nghĩ vậy. Mọi sự xấu xa sẽ tấn công nó, khiến bản thân nó thay đổi trong nháy mắt chẳng hạn. Vậy nên, điều cần làm bây giờ là thoát ra khỏi thế giới này. June bèn đứng dậy, một sự phấn chấn dâng lên trong tâm trí. Nó len lén nhìn về phía Gavin. Cậu vẻ như đã tỉnh táo hơn phần nhiều, dù tay vẫn đang bị Max kìm chặt. Nó nhìn vào mắt cậu như ra hiệu điều gì bí mật.

    “Mình sẽ đi, Lucine. Thế giới này trong mường tượng của mình. Mình đã kiểm soát nó, nên chẳng cớ gì mình không thể đi ra khỏi đây cả. Như một cơn ác mộng thôi. Chẳng ai chết trong cơn ác mộng của mình cả. Cậu biết rồi đấy!” – Nó nói, giọng điệu vô cùng tự tin.

    Lucine phá lên cười man rợ. Rồi cô ta mỉa mai nói:

    “Nực cười làm sao, khi cậu nghĩ mình có thể điều khiển được thế giới này. Hãy nhìn xem những gì đã xảy ra với anh chàng nhỏ bé, tội nghiệp của chúng ta. Cậu nghĩ sao, Gavin?”

    Lucine chuyển qua Gavin. Cậu đứng thẳng người dậy, không ngừng giãy giụa trong gọng kìm của Max, nhưng bất lực. Cậu nói:

    “Hãy buông tha cho June đi, Lucine. Cậu ấy còn nhiều thứ đáng trân trọng hơn những gì cậu nghĩ.”

    “Tha ư?” – Lucine lên tiếng, vẫn không thôi mỉa mai, cô ta bắt đầu đổi cách xưng hô... – “Ngươi thì hiểu gì chứ Gavin. Chẳng phải khi còn sống, ngươi suốt ngày lẽo đẽo bám theo June, mà cho tới khi chết vẫn không chịu buông tha cậu ấy. Vậy nên ngươi không có quyền lên tiếng ở đây.”

    Max như siết chặt đôi tay của Gavin hơn, khiến cậu rên lên khe khẽ.

    Lucine tiến gần lại phía June. Nó cố gắng tránh ánh mắt của cô ấy.

    “Đừng tránh mặt mình như thế, June. Cậu nghĩ rằng, cậu dễ dàng rời khỏi nơi này sao?”

    Lúc này, June đã quá mệt mỏi và sợ hãi. Nó không muốn đôi co cùng Lucine nữa. Nó bắt đầu xuống giọng:

    “Mình xin cậu đó Lucine. Hãy thả Gavin ra! Mình vẫn sẽ coi cậu là bạn. Và những ấn tượng xấu này sẽ bị chôn vùi, mình không còn nghĩ gì nữa, sau khi rời khỏi thế giới này...”

    “Không dễ dàng vậy đâu June, từ bỏ đi.”

    Lucine gằn lên từng tiếng đáng sợ. Đồng thời, cô ta nắm lấy đôi vai đang run lên bần bật. Ánh mắt xám lạnh xoáy vào đôi mắt June khiến nó kinh hãi vô cùng. Từng tia giận dữ hằn lên trong con mắt. June nhắm tịt mắt lại, và cầu xin Lucine hãy dừng lại.

    “Thả cậu ấy ra, Lucine!” – Gavin gào lớn.

    Cậu lấy hết sức hẩy người về phía sau khiến cho Max loạng choạng rồi té ngã. Sợi dây thừng theo đó cũng bung ra. Lấy hết sức bình sinh, cậu mau chóng lao người về phía Lucine như tên bắn. June và Lucine cùng té ngược ra sàn nhà. Đoạn, cậu chạy lại để đỡ June đứng dậy. Từ đằng xa Max cũng đang chạy lại, nhanh chóng tóm lấy cậu. Cả hai thân thể lăn tròn trên sàn. Gavin cố chống đỡ. Cậu dùng tay chân đấm loạn xạ trong không khí, vì chẳng nhìn thấy gì. Cậu cầm được một vật nhọn. Phập. Đột nhiên đối phương rú lên, hình dáng cao lớn từ từ tách khỏi người khiến cậu thấy dễ thở hơn. Max đang bưng mặt tỏ vẻ đau đớn khôn cùng. Gavin đã vô tình đâm trúng một con mắt của hắn, từng giọt máu đang rỉ ra trên gương mặt trắng nhách.

    Lucine tức tối gào lên:

    “Đồ ăn hại.”

    Rồi nhanh như cắt, sợi dây vô hình hiện ra từ không trung như những con rắn. Uốn éo vài vòng, một lần nữa quấn chặt thấy thân hình của Gavin. June thét lên, chạy lại. Một khúc gỗ trồi lên giữa sàn nhà hất tung lớp gạch đá ngáng nó lại, té chổng ngược, đau đớn. Gavin dùng tay, cố gỡ bỏ sợi dây thừng đang trói chặt thân thể mình. Cậu cảm thấy khó thở, nước mắt đang trào ngược ra. Max từ từ đứng dậy, tiến lại. Một con mắt đen thui và đang rỉ máu. Hắn lăm lăm trong tay chiếc chùy lớn có gắn đinh nhọn hoắt. Chết chắc rồi!

    “Dừng lại đi Max.” – Nó gào lớn, giọng như lạc đi theo tiếng gió rít mạnh.

    Không gian nổi gió, tiếng hút vọng lại từ những hành lang dài tăm tối.

    Max giơ chiếc chùy lên định nện mạnh vào thân hình đang co rúm lại của Gavin. June nhanh trí lấy chiếc cọ vẽ trong túi áo khoác ra. Nó chẳng biết mình có đang làm điều đúng đắn hay không. Nó quét ngang vào khoảng không trước mặt, như thể phác một nét cọ cơ bản trước phông nền tối thẫm. Dải sáng mang hình dáng đuôi của ngôi sao chổi hiện ra, với những hạt bụi lóng lánh như bụi tiên. Một sức mạnh nâng thanh dầm gỗ ban nãy lên khỏi mặt đất. Bằng một động tác dứt khoát, June hất bay thanh dầm về phía Max. Một cú chọt ngang thân người khiến Max văng ra, lưng đập mạnh vào bức tường xù xì. Thân người cao lớn của hắn ta đổ gục xuống sàn, thảm bại, trong thoáng chốc rồi tan biến như hạt bụi.

    “Cậu dám làm vậy sao, June!” – Lucine giận dữ thật sự.

    Gió càng rít mạnh hơn. Những vật thể nhỏ bay loạn xa trong không trung.

    June mau chạy lại phía Gavin, gỡ những sợi dây thừng đang quấn quanh người cậu. Rồi từ từ đỡ cậu đứng thẳng dậy. June hỏi cậu có sao không? Gavin bèn lắc đầu. Lúc này hai đứa đứng đối diện với Lucine. Ánh mắt cô không còn màu xám tro như mọi khi mà bắt đầu chuyển sang màu đỏ khé. Làn da xanh tái, gân máu nổi lên, ngón tay khẳng khiu với những chiếc móng nhọn màu đen sì. Cô ta trừng trừng nhìn hai đứa với ánh mắt đầy sự căm phẫn.

    “Các người không thể thoát khỏi nơi này đâu. Chịu chết đi!”

    Dứt lời, một cái gì đó lao vút từ những hành lang tăm tối đang bay về. Xé gió, mũi lao nhọn hoắt chực lao về phía hai đứa. June chỉ kịp kêu Gavin cúi người xuống. Vụ va chạm khủng khiếp. Mũi lao cắm thẳng vào vách đá khiến những phiến đá rơi xuống, lăn long lóc khắp phòng. Lucine tiếp tục tấn công. Cô ta một lần nữa biến ra từ trong không trung những sợi dây uốn éo nhằm trói gô hai đứa lại. Thấy vậy, June vẽ ra một tấm chắn vô hình bảo vệ. Những sợi dây chạm phải tấm chắn đều cháy sém và tan biến ngay, như một tấm lá chắn bảo vệ thần kỳ.
     
  20. Nhom4.0

    Nhom4.0 Thành viên tích cực

    Tham gia:
    12/8/2019
    Bài viết:
    580
    Đã được thích:
    28
    Điểm thành tích:
    28
    CHƯƠNG XVIII

    CUỘC CHIẾN CUỐI CÙNG
    Lucine lùi vào trong khoảng tối. June ngơ ngác không hiểu. Đột nhiên, căn phòng bắt đầu chuyển động. Phía bên kia bức tường, một phiến đá lùi vào, tạo thành một đường hầm sâu thẳm. Cẩn thận đấy, June! Gavin la lớn, khi cậu thấy một bóng dáng kỳ dị đang tiến ra. Mùi hôi thối bốc lên khiến cậu thấy khó chịu. June kéo cậu ra phía sau mình. Đồng thời, nó vồ lấy chiếc rìu mà mình làm rơi ban nãy, tay lăm lăm, sẵn sàng phản công.

    Khi ấy, những đôi chân lông lá dần hiện ra ánh sáng. Ban đầu là hai chân, rồi hai chân nữa. Một con nhện khổng lồ. Tám con mắt trắng dã, thân mình nó phình to như bóng đèn khéo léo được nâng đỡ bởi tám cái chân vững chãi như thép. Một sinh vật gớm ghiếc mà nó chỉ thấy trên phim ảnh, giờ đây đang đứng trước mặt nó. Nỗi sợ hãi của nó, Lucine đang lợi dụng những điểm yếu đó để tấn công.

    “Cho mình một thứ gì đó đi June?” – Gavin lay cánh tay nó và nói với giọng điệu cầu khẩn.

    “Cây chùy.” – June đáp gọn lỏn.

    Gavin nhanh trí vồ lấy cây chùy của Max đang nằm chỏng chơ trên mặt sàn, nắm chặt hai tay trong tư thế sẵn sàng tấn công. Hai đứa quá nhỏ bé so với kẻ thù của mình.

    Con nhện khổng lồ lao nhanh về phía June. Thân hình to hơn một chiếc xe hơi, vẻ như nặng cồng kềnh, nhưng lại di chuyển vô cùng khéo léo. Phía trước miệng của nó là những chiếc càng lớn đang không ngừng chuyển động. Nó phát ra những tiếng kêu rin rít như tiếng cạ vào bề mặt kim loại, nghe rợn người. Giữ chân sau làm trụ, con quái nhện giơ chân đằng trước cắm thẳng xuống phía June. Nó lẹ làng lăn người sang một bên né tránh. Đôi chân lông lá khổng lồ cắm xuống nền khiến gạch đá vỡ tan tành. Trong khi ấy, Gavin lăn tròn ra phía sau, nện cây chùy vào một trong tám chiếc chân. Nhưng chẳng hề hấn gì, cây chùy ấy không thể nào phá vỡ lớp bọc cứng như thép của con nhện. Một tiếng đanh vang lên rất rõ rệt. Gavin vẫn giữ được cây chùy trong tay, nhưng cậu thấy đau rát. Khi ấy, June lồm cồm bò dậy, và vẫn chưa biết chuyện gì đang diễn ra.

    “Lớp vỏ của nó rất cứng và bền. Cẩn thận đó June!” – Gavin la lớn, mách nước cho June cẩn trọng đề phòng.

    Con nhện phát hiện ra kẻ đang đánh lén mình, bèn quay lại. Một chiếc chân lông lá đánh ngang người Gavin. Cậu không kịp thét lên, thân hình nhỏ bé văng ra cùng cây chùy. Một cảm giác điếng người, như thể từng đốt sống cổ bị gãy. Gavin không thể nào đứng dậy. Mắt cậu nhòa lệ vì đau đớn.

    “Gavin.” – June bàng hoàng hét lên.

    June định chạy lại nhưng con quái nhện đã quay lại ngáng đường. Nó chồm thân hình to lớn về phía June, thực hiện một cú nhảy. June lăn tròn trên nền. Thân hình khổng lồ đổ gục xuống nền đất chới với, đụng phải bức tường khiến đất đá xung quanh rơi rào rào tựa mưa đổ.

    Con quái nhện thực sự choáng váng sau cú đụng chạm vừa rồi, thân hình nó bật ngửa, những cái chân huơ loạn xạ trong không trung. June đứng dậy, lăm lăm cây rìu chạy lại. Lấy hết sức bình sinh, nó giáng một nhát rìu vào giữa bụng quái nhện. Con vật rú lên đau đớn, nhưng cuộc chiến vẫn chưa tới hồi kết, không thể nào kết liễu con quái vật chỉ bằng một nhát rìu được. June biết Lucine sẽ không dễ dàng để nó thắng như vậy. “Bữa tiệc” hãy còn dài. Và giờ đây, June chỉ có thể tùy cơ ứng biến mà thôi.

    Đột nhiên, một sức mạnh kỳ lạ xoay chuyển con quái nhện về tư thế ban đầu như chẳng có chuyện gì xảy ra. Con quái vật không tỏ vẻ đau đớn gì sau cú đánh đó, dù cho vết thương ở bụng khiến nó chảy máu, từng giọt máu lớn nhễu xuống sàn nhà, đen sì và bốc mùi khăn khẳn, hôi thối.

    Một lần nữa con quái nhện lao nhanh về phía June phản đòn. Những cái chân lông lá, cứng như thép đâm thẳng xuống nền đất hăm dọa. Chết chắc rồi! June trộm nghĩ. Con quái nhện giơ chân lên một lần nữa. June bất ngờ, chẳng thể làm gì, cú phản đòn quá nhanh khiến nó cứng đờ người, không thể nào chuyển động. Nó nhắm mắt, chờ cho những chiếc chân lông lá kia xé rách, đâm toạc thân thể bé nhỏ, bất động trong vũng máu tanh tưởi. Nhưng khi ấy, đột nhiên, một sức mạnh đẩy nó ngã ra, lăn tròn trên mặt đất. Định thần lại, nó nhận ra Gavin đã cứu nó. Cậu đỡ nó dậy. Căn phòng bị xới tung, tạo thành một không gian hỗn độn, đất đá, cát và bụi.

    Mau chạy thôi! Gavin nhìn June ra hiệu. Nó để ý tới những lối đi tăm tối khắp xung quanh. Không chần chừ, nó nắm chặt lấy bàn tay Gavin, co giò tháo chạy. Thấy vậy, con quái nhện bèn phóng tơ từ bụng, đu mình lên trần nhà một cách vô cùng khéo léo. Một cú bật nhảy ngoạn mục khiến nó đứng chắn ngay trước mặt hai đứa, những chiếc càng ở miệng không ngừng vùng vẫy dọa nạt. Lối đi bị bít kín bởi những phiến đá khổng lồ không biết từ đâu rơi xuống. Lại là Lucine.

    Chúng buộc phải rẽ qua hướng khác với hy vọng tìm được một lối đi bất kỳ. Thấy vậy, con quái nhện phóng tơ giăng mắc khắp gian phòng, tạo thành những chướng ngại vật. June cố gắng dùng rìu để phá bỏ. Ngay lúc ấy, nó nhìn thấy một lối thoát hiểm. Nó nắm tay Gavin, khẽ lách người qua những sợi tơ bền chắc, rồi đẩy Gavin vào lối đi đó. Cậu thét lên một tiếng thất thanh. Một sức mạnh đánh cậu bật ngược trở lại căn phòng, tấm lưới nhện đã dính chặt vào cậu. Cả hai chân và hai tay bị siết chặt, trông giống như một tử tù sắp bị hành hình bởi những màn tra tấn man rợ có từ thời Trung cổ, nơi người ta bắt thú vật và con người phải lao vào nhau để chiến đấu vì mục đích sinh tồn.

    Lúc này, June biết được con quái nhện đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Nó buông tha hai đứa, lùi sâu vào trong một cái hốc rồi biến mất. Không gian lặng như tờ. Từng thời khắc trôi qua tựa hàng thế kỷ. Mọi thứ dần đông cứng. June hỏi Gavin có sao không? Nhưng cậu yếu quá nên không thể trả lời được. Khó khăn lắm nó mới thoát ra khỏi những lớp tơ chằng chịt, chăng đầy gian phòng. Nó nhìn quanh, căn phòng lúc này đã bị xới tung lên, không còn giống tình trạng ban đầu nữa.

    June định chạy về phía Gavin, nhưng một sức mạnh ghì chặt đôi chân nó xuống nền đất, cứng đờ. Nó không thể nào di chuyển. Một điệu cười man rợ vang vọng khắp căn hầm. Khi ấy, vị chủ nhân của “bữa tiệc” “màn trình diễn” vừa rồi từ tốn bước ra từ trong bóng tối, với dáng điệu hết sức khoan thai, bình tĩnh. Lucine xuất hiện trở lại.

    Cô ta bắt đầu phân trần:

    “Đừng phản kháng nữa June. Cậu biết là không thể chống lại tôi mà? Cậu đã quá yếu ớt.”

    Lucine hiện ra. Gương cô mặt trống rỗng, vô hồn. Làn da xanh tái nhợt, hệt người bị giam cầm quá lâu trong bóng tối không được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Còn đôi mắt vằn lên những tia hạch đỏ chạy ngang dọc, hiện rõ căm hận và cả sự ích kỷ.

    Đôi chân June được nới lỏng. Nó bắt đầu đứng thẳng dậy. Lucine đứng chắn giữa nó và Gavin. Mặc dù cậu đã hồi tỉnh, nhưng vẫn chưa thể nào thoát ra khỏi tấm lưới nhện khổng lồ, bền chắc.

    “Chạy đi, June! Đừng nhiều lời với cô ta nữa. Cô ta đã bộc lộ rõ bản chất xấu xa của mình rồi.” – Gavin lên tiếng, bất lực.

    Lucine quay ngoắt lại. Bằng một động tác xoay tay, nắm chặt của cô ta khiến Gavin đau đớn. Cậu khẽ rên lên.

    “Im đi, Gavin! Không tới lượt ngươi lên tiếng.” – Lucine dọa nạt.

    “Dừng lại đi Lucine!” – June nói, giọng như van lơn.

    Lucine dừng lại. Quay mặt về phía nó, xoáy ánh mắt vô hồn của cô ta khiến nó thoáng rùng mình, giật lùi lại. Nhưng nó biết, giờ đây bản thân không thể trốn tránh Lucine được nữa. Nó buộc phải đối mặt với cô ta, như đối mặt với phần bản thể xấu xa trong mình.

    “Hãy tha cho Gavin. Đừng hành hạ cậu ấy nữa.” – June khẩn cầu lần nữa.

    “Tha mạng ư? Cậu ta chẳng còn cái mạng nào để tha cả. Tôi sẽ dẫn cậu ra khỏi tòa tháp này. Còn cậu ta sẽ bị chôn vùi vĩnh viễn ở đây, chẳng còn một mẩu vụn ký ức nào.”

    Cô ta nói thêm, đây coi như là một mệnh lệnh và June không thể nào làm khác ngoài chuyện phải tuân theo.

    Cô ta nắm lấy bàn tay June muốn lôi đi. Không, Gavin thét lớn! Cậu không ngừng giãy giụa. Tấm lưới bung rời khiến cậu rơi phịch xuống. Lucine bàng hoàng quay lại. June nhanh trí giơ cọ vẽ. Một ngọn lửa lóe lên trong tâm trí. Đột nhiên, giữa căn phòng, bức tường lửa được dựng lên, ngăn cách giữa Lucine và Gavin.

    “Chạy nhanh, Gavin!” – June hét lớn, rát cả cổ họng.

    Lucine có vẻ luống cuống và sợ hãi khi nhìn thấy ngọn lửa. Nhưng khi định thần lại, cô ta đi xuyên qua ngọn lửa như không có chuyện gì xảy ra. Lucine nhìn thẳng vào mắt June, miệng nở một nụ cười khinh khỉnh:

    “Cậu nghĩ rằng thứ này sẽ khiến tôi đau đớn sao? Chẳng gì có thể tiêu diệt được tôi. Thật nực cười làm sao!”

    Vừa nói, cô ta vừa vươn cánh tay phải dài ngoằng ra, chộp lấy cổ Gavin, dễ dàng nhấc bổng cậu lên khỏi mặt đất.

    Gavin thấy nghẹt thở, nước mắt chực trào ra, đầm đìa trên gương mặt hốc hác. Lucine đắc thắng, cười lớn ngạo nghễ. Cô ta vẫn không buông tha, mặc cho Gavin đang điên cuồng giãy giụa.

    “Thôi đi, Lucine!” – June gào to, giọng nói vang vọng khắp căn hầm.

    June tỏ vẻ giận dữ. Lucine bèn buông tay. Gavin ngã sõng soài ra nền nhà. Người cậu mền nhũn như cọng bún. Lucine thô bạo đạp chân trên lưng cậu, hai tay vẫn chắp ra sau, gương mặt đắc chí vô cùng. June vẫn chẳng thể làm gì, nó đứng như trời trồng nhìn Lucine hành hạ Gavin. Sự giận dữ dâng lên trong nó tựa một ngọn lửa. Gương mặt thì đỏ gay hết sức. Nhưng tiếc thay, ngọn lửa ấy lại chẳng có tác dụng gì. Chẳng thứ gì có thể thiêu rụi được nơi đây – tầng hầm tăm tối này, khi nỗi sợ hãi đã bao trùm lên hết thảy, và cả những tiếng thì thầm phát ra từ những bức tường đá phủ rêu trơn ướt. Tựa như có hàng trăm linh hồn cô độc đang bị giam cầm trong đó. Nếu lắng nghe thật kỹ, có thể nghe được tiếng gào thét thống thiết, van xin rủ lòng thương hại.

    Lucine cười một tràng dài đầy man rợ. Cô ta vẫn đứng đó, cách vài bước chân. Dưới sàn, Gavin như sinh vật thảm thương đang nằm chờ chết. Trong quang cảnh tranh tối tranh sáng của tòa táp, hình ảnh của Lucine có chút tương đồng với June.

    Nó dễ dàng cảm thấy vậy, trong lòng nó, một vài hình ảnh chạy nhanh qua đầu. Đã có lúc nó ước mình giống Lucine. Một cô gái cá tính, mạnh mẽ và chẳng bao giờ sợ hãi nếu như bị bắt nạt. Khi ấy, Lucine không đơn thuần là một hình ảnh do chính nó tạo ra và mơ ước trở thành nữa. Lucine thẳng thắn, độc lập, một con người hoàn toàn khác. Nhưng giờ đây, khi đang đứng chờ chết trong tầng hầm tăm tối, nó chỉ thấy được thứ phản chiếu phần xấu xa nhất của một con người, đã làm những điều khủng khiếp.

    Nó chợt nhớ bố Jared từng bảo rằng, mỗi con người đều có một phần ác, phần tối tăm trong mình. Tựa một cái hố sâu thẳm chứa đựng những thứ ngoài trí tưởng tượng, nhưng điều quan trọng nhất không phải là ta trốn tránh và không dám đối diện với nó. Cái quan trọng là ta không để mình rơi xuống đó mà thôi. Có những người đã từng trượt dài trên cuộc đời của chính mình như bố vậy. Một tay đua công thức I khét tiếng rồi cuối cùng lại trở về với công việc đồng áng. Từng câu nói đó dội ngược về tâm trí một cách rõ rệt. Ấy vậy mà có bao giờ nó chịu ngồi yên để trò chuyện và lắng nghe bố đâu. June tự trách móc mình, giá như nó có lại khoảng thời gian đó. Ngồi cùng bố và học cách lắng nghe. Nhưng hiện giờ, mọi thứ đã quá muộn màng rồi. Phần tăm tối, phản chiếu chính con người nó – Lucine đang ngạo nghễ đứng đó với sự chiến thắng của chính mình. Nó chẳng thể làm gì hơn. Chính nó đã tạo ra và giờ nó sẽ là người chịu hậu quả.

    “Cậu đã thấy gì chưa June?”

    Lucine cất tiếng, kéo June ra khỏi dòng suy tưởng miên man. Nó trở về với thực tại. Căn hầm lạnh lẽo và tăm tối. Nhác trông qua bộ dạng thảm thương của mình, tóc bết thành từng lọn bẩn thỉu, đôi bàn tay xước xát và lem nhem. Nó thầm nhủ, vẻ như mỉa mai chính mình, lũ con gái trong nhóm của Ruby vẫn còn nhân từ chán, ít ra chúng chưa bao giờ gây ra nỗi sợ hãi thực sự. Chẳng hiểu sao giờ đây, June lại có một chút gì đó giống như sự thiện cảm với cả chính con bé Ruby đáng ghét đó. Thật nực cười làm sao!

    June chưa vội nói gì, nó đứng thẳng dậy. Trong tay cũng chẳng còn thứ vũ khí hộ thân nào nữa. Chiếc cọ vẽ thần kỳ, chiếc chìa khóa dẫn vào thế giới kỳ ảo này, giờ nằm lăn lóc trong góc phòng thảm thương không kém gì nó bây giờ. Nó nghĩ rằng chẳng cóthể cứu vãn được tình thế, sự thất bại là điều đương nhiên, và sẽ đến với nó như bao lần. Nhưng lần này sẽ là dấu chấm hết cho tất cả, cho câu chuyện hoang đường, sự ảo tưởng này. Nó đã mơ mộng quá lâu để có thể trở về với thực tại. Chẳng ai có thể sống mãi trong giấc mơ của chính mình, huống hồ đó lại là cơn ác mộng khủng khiếp.

    Nó đã có thời gian dài oán trách tất cả mọi thứ xung quanh mình, oán trách ba mẹ, cuộc ly hôn của họ, oán trách bạn cùng lớp. Nó đổ lỗi cho mọi thứ, và cho rằng tất cả những chuyện đó đã gây ra sự đau khổ, nỗi cô đơn trong lòng nó. Nhưng đã có lúc nào, một giây phút nhỏ nhoi trong đời, nó nghĩ cho mọi người, và chính bản thân nó cũng gây ra lỗi lầm.

    Giờ đây trong tình thế hiểm nguy này, nó chỉ có thể hồi tưởng về những giây phút đẹp đẽ, nhỏ nhoi trong đời mình. Nó ước chi mình có thể vẽ say mê như ngày xưa. Bất kỳ một ý tưởng nào lóe lên trong đầu đều dễ dàng hiện thực hóa thành những bức tranh, khi ấy chỉ mình nó với đam mê mà thôi. Nó vẫn nhớ vài lời hứa với mẹ Jess đã thực hiện được. Nó cảm thấy nhớ bà, nhớ gương mặt nhìn nghiêng đầy thu hút, nhớ ánh nhìn trìu mến, giọng nói ấm áp hay những ngón tay thon thả, điêu luyện khẽ lướt trên những phím đàn piano; và cả những giai điệu nữa.

    Từng ký ức, từng hình ảnh đẹp đẽ trong một giây sẽ trở lại với ta vào thời điểm khi ta nằm chết, trên vũng máu đỏ tươi giữa gian phòng trơn láng toàn màu trắng”.

    Đó là câu nói trong một bộ phim mà nó đã từng xem, tạm thời chưa thể nhớ ra được.

    June lắc đầu, một lời đáp trả miễn cưỡng với Lucine. Lucine nói tiếp, bàn chân phải với chiếc bốt đen vẫn đặt trên lưng của Gavin dọa nạt. Cậu vẫn nhắm nghiền mắt, thi thoảng có hé mở, nhưng có lẽ giờ cậu chẳng ý thức được điều gì. Còn tội ác nào hơn chuyện chà đạp một linh hồn tội nghiệp, chẳng thể nào siêu thoát. Nghĩ tới đây, nó lại tự trách mình, giá nó có thể xóa sạch ký ức về Gavin thì chẳng tới nông nỗi này, cậu ấy sẽ không xuất hiện ở đây.

    “Chẳng có ngọn lửa nào có thể thiêu rụi tôi đâu June. Cậu nghĩ rằng, việc trút giận vào những bức tranh và việc đốt chúng đi là xong chuyện sao. Tôi là tôi. Độc lập, mạnh mẽ và chẳng có liên hệ gì với cậu cả, chẳng đại diện cho phần ti tiện, ích kỷ, xấu xa trong lòng cậu. Đừng suy diễn quá như vậy June.” – Lucine giải thích một lần nữa.

    June thật sự mệt mỏi với những lý lẽ sáo rỗng này. Tất cả chỉ là sự giả dối, một bức màn đẹp đẽ dựng lên, mà ẩn chứa bên trong toàn những điều chết chóc và đen tối. Nó muốn nói điều đó với Lucine nhưng lại sợ nên chọn cách im lặng.

    Một lần nữa Lucine lại nhắc tới chuyện rời khỏi nơi đây; và tận hưởng những gì ngoài kia. Một ham muốn dâng đầy trong ánh mắt khát khao của Lucine. Cô ấy rất muốn kết bạn, cô ấy không muốn sống trong hoàn cảnh cô độc và bị giam cầm trong thế giới tăm tối của mình. Không thứ gì độc lập cả, giữa hai con người, giữa June và Lucine.

    Nhưng rồi June cũng lên tiếng, từng lời phát ra rõ ràng, vang vọng trong căn phòng.

    “Đừng xảo biện nữa Lucine. Cậu chẳng là ai nếu như tôi không vẽ ra cả. Tôi đã từng nghĩ chúng ta là bạn. Và, chúng ta đã thực sự là những người bạn. Cậu từng là chỗ dựa tinh thần tuyệt vời của tôi. Những tháng ngày trước kia, nhưng giờ đây, tôi chỉ thấy một phần tăm tối của con người mình thôi.”

    Nhắc lại lời bố Jared, nó nói không thể để mình trượt dài xuống một cái hố tăm tối được nữa. Câu nói có vẻ trừu tượng, nhưng nó khiến Lucine giận dữ hơn bao giờ. Ánh mắt trở nên đỏ quạch một lần nữa. Cô ta vươn đôi tay tóm lấy Gavin, nhấc bổng thân hình của cậu lên lần nữa. Gavin như bừng tỉnh vì bị đe dọa. Cậu không ngừng giãy giụa. Gương mặt lấm lem vì bùn đất và cả máu, rỉ ra từ hốc tai và mắt.

    June kinh hãi, hét lớn:

    “ĐỪNG.”

    Gavin hướng ánh mắt về phía June. Cậu ấy đang mỉm cười, như thể lời giã từ cuối cùng, nhưng không hề, với nỗ lực cuối cùng, cậu dùng tay của mình chụp lấy đầu Lucine, dùng hai đầu ngón tay cái ấn mạnh vào đôi mắt màu đỏ quạch. Lucine đau đớn, rú lên kinh khiếp. Hai hốc mắt nhỏ máu, đen ngòm, cô ta vội buông Gavin rơi phịch xuống nền nhà. Nhân cơ hội đó, cậu nhanh chóng lấy chiếc ba lô xuống khỏi lưng, mở sẵn. Nhưng không còn nhiều thời gian để lục tìm, phải chớp lấy thời cơ, cậu quăng nhanh chiếc ba lô về phía June. Chiếc ba lô trượt dài trên nền. Theo đó, những đồ vật lỉnh kỉnh văng ra tung tóe, nào là dao, dây thừng, một chiếc khăn mùi xoa, thậm chí cả một lát bánh mì kẹp dăm bông đã khô cứng, mốc meo. Khi đó, June để ý tới một vật nho nhỏ màu xanh ngọc bích. Bên trong chứa đựng thứ chất lỏng lóng lánh gần như trong suốt phản chiếu với ánh sáng hiếm hoi trong căn hầm. Như vỡ lẽ ra mọi thứ. Không chần chừ thêm, June lao thân mình, vươn tay chộp lấy chiếc bật lửa. Một ngọn lửa thật sự. Nó chỉ nghĩ được tới đó.

    Lucine dùng chân đá mạnh vào bụng của Gavin, khiến cậu văng ra một khoảng cách khá xa, lưng đập mạnh vào bức tường, từng đốt xương như vỡ vụn. Nhưng cậu chẳng cảm thấy đau đớn gì nữa. Trước khi cậu ngất đi, một ánh sáng chói lòa lan tỏa khắp gian phòng, theo đó là tiếng la hét thất thanh của Lucine – thanh âm cuối cùng, thanh âm của sự tàn lụi.

    “KHÔNG! JUNE, ĐỪNG LÀM VẬY!”

    June bật tách. Ngọn lửa cháy lan ra căn phòng, như chứa đầy khí gas. Những tia lửa uốn éo như những con trăn khổng lồ đang ngoác miệng, lao thẳng về phía Lucine. Cô ta mặt thất kinh, há hốc. Bằng nỗ lực cuối cùng, Lucine cố gắng tạo ra một màn chắn xanh biếc nhưng chẳng thể làm gì được nữa. Khi ấy, ngọn lửa đã chiếm lấy thân thể của cô ta. Từ đôi chân lên tới thân mình, mái tóc và gương mặt. Lucine không tỏ vẻ đau đớn, cô ta chỉ khóc, vẫn trong tư thế bị ngọn lửa thiêu rụi.

    June đã nhìn thấy cô ta khóc, một thứ gì đó giống như sự trách móc khiến nó thoáng mủi lòng. Lucine đang oán trách nó, rằng nó sẽ thấy hối hận thôi khi bước ra bên ngoài kia, bên ngoài thế giới thực với những nỗi đau thực sự, mất mát và cảm giác bị ruồng bỏ.

    Nó lắc đầu nói, một lời an ủi cuối cùng:

    “Dù gì thì cậu đã từng là một người thân thích của tớ, Lucine à! Tạm biệt cậu!”

    Lucine im lặng. Ngọn lửa thiêu rụi cô ta thành một đám tro đen đúa vương vãi trên nền đất, thoáng chốc bay lên như những hạt bụi sáng rồi cuối cùng biến mất trong bóng đêm. Nhưng khi đó June nhận ra, mọi chuyện chưa kết thúc, ngọn lửa không hề tắt, chúng bắt đầu lan ra khắp căn hầm, muốn thiêu rụi tất cả. Bốn bề đều là biển lửa. June không tài nào nhìn thấy lối đi. Nó chạy nhanh sang phía Gavin, đỡ cậu dậy. Gavin vẫn bất tỉnh, June lay mãi cậu mới tỉnh lại, không hiểu chuyện gì đang xảy ra. June dìu cậu đứng dậy, hai chân không trụ vững khuỵu xuống. June phát hiện ra lối đi giữa biển lửa, nó liều mình đẩy Gavin vào trước, rồi quăng mình theo sau. Ngọn lửa vẫn không có dấu hiệu dừng lại. Như lưỡi hái tử thần liếm sạch mọi thứ xung quanh.

    Gavin gượng dậy, cậu nắm lấy tay June. Cả hai chạy bán sống bán chết về phía con đường tối thẫm. Chúng chạy mãi cho tới khi phát hiện ra một khoảng sáng le lói cuối con đường. Một tia hy vọng, chúng thầm nghĩ, rồi tiếp tục tăng tốc. Tiếng gió rít mạnh hai bên tai, tiếng lửa cháy lép bép. Thảng hoặc lại có tiếng nổ rất lớn, tiếng gạch đá rơi xuống rào rào. Tòa tháp ngược đang chìm trong biển lửa. June lo sợ nó sẽ lan ra toàn bộ thế giới tưởng tượng này.

    June và Gavin đang đứng trước một vực thẳm, nếu nhìn xuống dưới sẽ chẳng thấy gì ngoài một lớp sương mù dày đặc và bí ẩn. June nhìn lại căn hầm, ngọn lửa hung hãn đang lao về phía bọn nó với tốc độ khủng khiếp. Không chần chừ thêm nữa, cả hai không còn lựa chọn nào khác. June nắm chặt lấy bàn tay Gavin, liếc sang phía cậu, nháy mắt ra hiệu. Hai đứa cùng nhảy xuống dưới. Thứ gì đó hút mạnh, tựa như đang ở giữa tâm một cơn bão lớn. Tay hai đứa vẫn nắm chặt lấy nhau, cùng xoay tròn trong cơn lốc xoáy. Không la hét. Không vùng vẫy. Chúng chẳng biết rồi mình sẽ bị cuốn đi tới đâu, có giống như một hố đen đang nuốt chửng lấy mọi thứ hay không?

    Đoạn, chúng rơi mãi xuống khoảng không vô định, tăm tối, cho tới khi đáp nhẹ xuống nền đất ẩm ướt, lành lạnh. Không gian chào đón hai đứa bằng hỗn tạp các loại mùi. June có thể ngửi thấy mùi lá cây hoai mục, mùi rác đang bắt đầu phân hủy, mùi mạt gỗ, mùi sơn, thậm chí cả mùi của một chiếc bánh pancake rưới xi rô việt quất mà mẹ Jess từng dạy nó cách làm. Nó cố gắng để nhớ nhưng chẳng thể. Đầu óc nó choáng váng, có lẽ cần thêm thời gian. Đã bao lâu rồi không được thưởng thức một chiếc bánh tử tế, nó sợ mình đã quên mất hương vị. Rồi nó tự nhủ, nếu như trở lại với thế giới ngoài kia, nó dám chắc mình sẽ nhờ mẹ chỉ lại cách làm món bánh đó. Nó trộm nghĩ như vậy.

    Sau đó, nó nhổm người dậy nhìn, phía xa xa Gavin đang nằm ngửa mặt lên trời, hình như cậu ấy bất tỉnh. Nó vội chạy lại, khẽ lay cậu dậy. Một lát sau Gavin tỉnh giấc, mắt dáo dác nhìn quanh, hoảng hốt vì vừa trải qua cơn ác mộng. Đúng là hai đứa đã trải qua cơn ác mộng khủng khiếp nhất trần đời.

    “Đừng lo, Gavin.”

    June thì thầm, nó cố gắng an ủi cậu bằng ánh mắt của mình. Mọi chuyện đã qua rồi. Nó kéo cậu đứng dậy. Xa xa phía bên tòa tháp, ngọn lửa vẫn đang cháy, từ đằng xa, nó dễ dàng cảm nhận được sự giận dữ của ngọn lửa đang lan dần. Rồi từ đây, chẳng mấy chốc, mọi thứ sẽ bị thiêu rụi hoàn toàn.

    Thế giới này – chẳng qua chỉ là cơn ác mộng mà thôi. Mất bao lâu để nó có thể nhận ra sự thật đó. Có nhắm mắt mường tượng, June cũng chẳng thể nhớ nổi từng chi tiết, nhưng nó dám chắc rằng, khi tỉnh dậy bên ngoài thế giới thực, một thứ gì đó sẽ theo nó suốt đời. Một vết sẹo vẫn còn đó và chẳng thể lành lại như ban đầu, nhưng hơn hết là ta không trượt dài trong đêm tối, trong cơn ác mộng của chính mình. Nó thầm nhắc lại câu nói của bố Jared như để an ủi.

    Một tiếng rầm lớn khiến nó giật mình; phía bên kia, ngọn lửa hung hãn vẫn đang liếm sạch mọi thứ. Ánh sáng phản chiếu lên sáng rực một góc trời. Nó và Gavin vẫn đứng đó chứng kiến, chẳng mấy chốc tòa tháp ngược đổ sụp xuống không còn chút tàn tích.
     

Chia sẻ trang này