Ðề: Bỏ làng ... ra phố 32. Gặp những người “chăn dắt” ca-ve Đúng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, ông “giám đốc sở lượn” hội quân ở quán bia “Vườn nhãn”. Đây là nơi những người “chăn dắt” ca-ve thường xuyên lui tới ăn uống và tính toán mưu kế làm ăn. Ông Bèo lại được bám càng ông “giám đốc sở lượn” đến tận bàn nghị sự. Theo sự tư vấn của ông “giám đốc”, hôm nay ông Bèo đã phải giắt lưng mang theo một triệu đồng để làn lễ tạ ơn các đệ tử của ông “giám đốc”. Đúng giờ hẹn, bốn đệ tử của ông “giám đốc” đã ngồi quanh bàn ở dưới gốc một cây nhãn già, cành lá xum xuê, lại cách xa những bàn bia của khách vãng lai. Khi ông “giám đốc” tới nơi, cả bốn đệ tử đều đứng dậy, chào đại ca một cách lễ phép. Ông giám đốc ngồi xuống ghế xong mới nói: “Hôm nay bạn tôi có lời cám ơn các chú! Nào ngồi cả xuống đi. Gọi bia uống một tuần rồi có gì hãy nói!”. Nhân viên nhà hàng vườn nhãn đứng tựa ở một gốc nhãn cách đó chừng dăm bảy mét, nhận được tín hiệu thì lập tức chạy đi rót bia hơi. Theo nhận xét của ông Bèo thì nhà hàng này đã bố trí riêng một cô nhân viên chăm sóc cho bàn khách đặt biệt này. Ông có cảm giác như cái bàn này chỉ đón các vị khách do ông “giám đốc sở lượn” đưa tới. Ngoài các quý khách này, hẳn không có ai được “kính trọng” như vậy. Khi sáu cốc bia ngàu bọt được đặt xuống bàn, ông “giám đốc sở lượn” nhắc ông Bèo: - Nào ông bạn có lời với các chiến hữu đi! Ông Bèo giật mình đứng dậy, bưng cốc bia ấp úng nói: - Hôm nay nhờ ơn giám đốc đây tôi được gặp mặt, cảm ơn các anh em đã giúp đỡ. Xin các vị nâng cốc! Bữa bia ra mắt của ông Bèo tuy tốn kém bạc triệu làm cho ông đau hơn bị thiến, nhưng với ông đấy cũng là bài học để đời. Từ lời lẽ xưng hô tâng bốc của đám đệ tử, ông Bèo biết rằng ở cái nơi ông đang thuê trọ là thuộc “quan khu miền Tây”. Quân khu này lại có các bang riêng. Có bang chuyên thu nạp “hàng xịn”. Có bang chuyên kinh doanh hàng xi-cần-hen (tức là hàng đã qua sử dụng). Có bang chuyên lo hàng biên mậu, nghĩa là lo người đưa lên các thị trường biên giới. Theo các “bang trưởng” báo cáo với ông “giám đốc sở lượn” thì các bang này đều không có cái Ngọ và cái Dậu. Điều này đã an ủi ông Bèo rằng cả hai con ông chưa bị dồn vào nơi hang hùm, nọc rắn. Nhất định chúng nó đã có việc làm và chúng nó chưa bán linh hồn cho quỷ dữ. Ông Bèo ngồi giữa đám đầu lĩnh của ông “giám đốc sở lượn” mới hiểu ở trong thành phố hào hoa này có lắm thứ nghề, lắm hạng người. Có loại nghề lừa lọc sống trên nỗi đau đớn, khó nhọc, thậm chí sống trên tội lỗi. Điều ông thấy lạ là các cơ quan pháp luật tại sao còn để họ nhởn nhơ, phè phỡn như vậy? Nếu như ngày đầu ông Bèo và bà Bột cảm nhận ở ông “giám đốc” như một người phóng khoáng, giao du quảng đại, nói năng cởi mở thì sau cuộc ra mắt với đường dây “chăn dắt” gái của ông “giám đốc”, ông Bèo đã có suy nghĩ khác. Có lẽ đây cũng chính là những cái bẫy người. Ai nhẹ dạ, cả tin thì chính những cái bẫy nàu sẽ săn bắt, sẽ tung mồi ra nhử rồi bán trao tay cho các nhà chứa, các ổ mại dâm trá hình. Có biết bao người phụ nữ vì cuộc sống áo cơm xô đẩy đã rơi vào những cái bẫy này? Vậy mà trong đám người vất vưởng ấy chưa có dấu hiệu nào con gái của ông sa bẫy. Tự nhiên ông Bèo không còn thấy tiếc tiền, tiếc công nữa. Ông đã tính đến kế rời xa lũ “người quỷ ám” đang uống bia như ba ba thuồng luồng kia. Ông sẽ kiên nhẫn chờ con, ông sẽ tin ở hai đứa như tin ở chính mình. Rồi ông Bèo tự an ủi: Thôi con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh! 33. Ngày gặp mặt Không hẹn mà trùng hợp, đúng bốn tuần lễ sau khi được nhận công việc, cả cái Ngọ và cái Dậu đều được gia chủ bố trí cho về thăm bố mẹ. Bà cụ Thọ thuê một anh xe ôm quen ở đầu phố đưa tận nhà trọ của ông Bèo. Mới hơn tám giờ sáng anh xe ôm đã đưa cái Ngọ đến tận cửa. Lúc ấy bà Bột đang đi chợ, còn ông Bèo đang thẫn thờ ngồi uống nước nhân trần rửa ruột buổi sáng. Từ ngày chuyển về nhà trọ mới, hai ông bà bỏ thói quen ăn sáng. Mấy tuần đầu vì nhớ con nuốt không trôi nên bỏ bữa. Rồi quen dạ, không thấy cần ăn. Vả lại, chơi cả ngày chẳng lẽ lại ăn thì có khác gì ăn hại, ăn báo cô? Cái nết ở nhà quê đã ăn thì phải làm, ăn mà không làm, hoặc không làm mà đòi ăn thì có mà giống ỉn. Một mình đối ẩm với cốc nhân trần để ngẫm cái sự đời cũng làm cho bộ nhớ của ông bật ra khỏi cái nhu cầu ăn. Ông nhớ hai đứa con, nhớ những kỉ niệm dưỡng dục mà áy náy, thẹn thùng về việc dạy dỗ con. Ông dạy các con cái ý thức lao động, ăn củ khoại luộc cũng chớ bóc ngắn cắn dài, áo quần rách thì phải vá. Cái áo cũ thì đừng vá miếng vải mới, nó vừa kệch cỡm, vừa làm cho tấm áo cũ rách to thêm. Vì những lời lẽ đó, ông Bèo vứng tin rằng con ông không bao giờ can tâm làm cái nghề bán trôn nuôi miệng. Giữa lúc cái niềm tin ấy làm ông Bèo hưng phấn trở lại thì cái Ngọ xuất hiện ở cửa . Nó reo to: - A! Bố! Bố đang nghĩ gì đấy? Rồi nó ôm chầm lấy ông, hai tay bóp chặt lấy cổ và vai ông, làm ông cứ ngây người như đang mơ. Cái Ngọ hỏi ông rối rít: “Mẹ đi đâu hả bố? Mẹ có khoẻ không bố? Cái Dậu đã về nhà chưa hả bố?”. Ông Bèo không kịp trả lời con nhưng lại hỏi cái Ngọ: “Ai kia hả con?”. Bấy giờ cái Ngọ mới sực nhớ ra, vội nói rằng đây là chú lái xe ôm ở cùng xóm. Cụ chủ nhà thuê chú chở con đến đây để còn biết bố mẹ và gia đình nhà mình. Bàn giao cái Ngọ cho hai phụ huynh xong, chú xe ôm xin phép ra về và hẹn giờ đón cái Ngọ vào buổi tối. Khó có thể nói hết được cảm xúc của ông Bèo lúc đó. Ông cứ ngồi nhìn con để phát hiện những cử chỉ, những nét mới trong lời nói và tâm tư, tình cảm của con. Khi bà Bột đi chợ về thì cũng là lúc cái Dậu được về thăm bố mẹ. Cả nhà hân hoan rối rít trong niềm vui sum họp. Mới gần một tháng xa nhà mà ai cũng ngỡ như là đã lâu lắm mới có cuộc gặp mặt này. Bà Bột thì hỏi về nỗi vất vả của công việc ô-sin, cách ứng xử của các gia chủ, cả việc nhỏ nhặt như chỗ ngủ của con, giờ giấc con phải làm. Bà đặc biệt quan tâm tới hoàn cảnh cái Dậu chăm bẵm hai đứa trẻ mồ côi. Những lúc cả hai đứa cùng khát sữa thì sao. Cái Dậu thật thà vạch áo cho mẹ xem hai cái bầu vú thường đêm phải cho hai đứa ngậm để tranh thủ ngủ. Bà Bột nhìn hai cái núm vú cái Dậu mà xót xa thương tiếc. Thế là con bé đã mất hẳn sự trong trắng, thuần khiết của đời con gái thơ ngây. Bà Bột thấy cái giá mà con gái bà phải trả cho miếng cơm manh áo mới đắt làm sao? Những người bạn trai sau này của nó liệu có cảm thông cho nó không? Cái Dậu thấy mẹ thẫn thờ hoài niệm thì nói: - Phải cứu hai đứa trẻ thôi mẹ ạ! 34. Cái Dậu giữ giá Từ lúc nhìn tận mắt, sờ tận tay bộ ngực nuôi con bất đắc dĩ của cái Dậu, bà Bột cứ bồn chồn rạo rực cả người. Bà đưa tiền cho cái Ngọ rồi sai hai chị em ra chợ mua một ít quả chín về ăn sau bữa ăn trưa để bà Bột nói riêng với ông về việc “hệ trọng” này. Sau khi hai đứa ra khỏi nhà, bà Bột khép cửa, cài then rồi nói với bộ mặt nghiêm trang bà ngồi sát cạnh ông Bèo nói: - Này ông, có việc này của con Dậu tôi hỏi ý kiến ông xem thế nào? Ông Bèo cũng bị lây cái không khí căng thẳng của bà vợ, hỏi: - Sao, con Dậu làm sao? Bà Bột kể trong hơi thở hổn hển, tim đập chân run rằng cả hai đầu vú nó sạm lại, không còn hồng hào như chũm cau mà nó cho con nhà chủ bú đêm nên trông nó như gái đang nuôi con. “Thế nó làm gì có sữa mà cho bú?” “Không, tôi kiểm tra thì thấy nó vẫn rắn nhưng mà hai cái núm nó dài ra, thâm như quả sim chín. Mới trông thì nó không còn con gái nữa. Rõ khổ, thế là nát một đời hoa rồi!”. - Thế thì hôm nay bào nó ở nhà, không đi nữa. - Dưng mà đã kí hợp đồng với trung tâm việc làm, lại còn nhà người ta nữa chứ. Tự nhiên bỏ việc như ở chợ làm sao được. Ông Bèo càng lo lắng hơn, hỏi lại: - Hay là con bà đã léng phéng, vớ vẩn với đứa nào rồi? Cái thằng chủ nhà ấy có tử tế không? Liệu nó có cho con bà ăn bùa mê thuốc lú gì không? Bà Bột quả quyết rằng con Dậu chưa bị sao cả. Chỉ vì ban đêm buồn ngủ quá mà hai đứa trẻ khát sữa thì khóc, nó đành cho ngậm vú để ngủ. Đang tuổi ăn, tuổi ngủ mà. Ông Bèo vẫn chưa yên tâm hỏi: “Nó ngậm vú không có sữa thì mút mãi cũng phải khóc chứ. Ngủ yên làm sao được?” Chuyện nuôi con không có sữa thì ông Bèo không có kinh nghiệm bằng vợ. Nhưng ý kiến không cho con Dậu đi làm nữa xem ra không ổn lắm. Nó có vẻ tàn nhẫn, thất đức với hai đứa trẻ vô tội. Nó có vẻ tàn nhẫn, thất đức với hai đứa trẻ vô tội. Nó còn có vẻ thất hứa với gia đình nhà chủ. Giữa lúc người ta đau khổ, hoạn nạn, nỡ lòng nào bỏ mặc người ta? Bà Bột hỏi lại ông Bèo: “Ở đời chỉ biết cái lợi của mình mà không nghĩ cái lợi cho người khác thì mình có đành lòng không? Hồi chúng mình nuôi con, rét căm căm, ông mặc quần đùi đi đánh dậm bắt tép ướt thâm cả cái của quý mới có ăn đấy thôi. Làm gì được ăn trắng mặc trơn như bây giờ!”. Cuối cùng hai vợ chồng ông Bèo phải thống nhất với nhau là giao quyền cho cái Dậu tự quyết định. Mãi sau bữa ăn trưa, mâm bát đã dọn hết, các con ngồi gọn cả trên phản, ông Bèo mới đưa câu chuyện ra bàn. Giọng ông Bèo vẫn không kìm nổi cảm xúc thương tiếc về nhan sắc con gái của cái Dậu. Ông ướm lời xem ý tứ cái Dậu có đồng tình bỏ việc nuôi trẻ sơ sinh không có mẹ hay không. Việc này ông bà giao cho cái Dậu toàn quyền quyết định. Cái Dậu nghe xong thì từ tốn, nhẹ nhàng thưa: - Không hiểu sao con lại thấy thương hai đứa bé, con lớn bằng từng này mà xa mẹ con còn thấy thiếu huống hồ chúng nó mới được hơn ba mươi ngày. Bây giờ mà bỏ chúng nó thì phải tội chết. Thôi, bố mẹ cứ để con làm. Bố vẫn dạy con rằng sống ở đời nếu có phúc thì có phần. Con là phận gái, con phải giữ thân con chứ. Ông Bèo và bà Bột nhìn con Dâu rồi lại nhìn nhau. Họ đều nghĩ thầm: “Âu cũng là tại cái số của con người cả”. 35. Ông Thọ qua đời Buổi tối dọn dẹp gọn gàng trong nhà, ngoài bếp thì đã hơn chín giờ. Bà Thọ gọi cái Ngọ ngủ sớm để nửa đêm về sáng thức thay bà trông nom ông. Mấy bữa nay ông có vẻ giở bệnh khác thường. Bữa ăn ông chỉ húp mấy thìa nước hồ nấu thịt bò hầm với khoai tây và một ít rau xanh. Khi sức khoẻ của ông còn khá thì có thể ngậm ống hút để hút cháo, nhưng hai bữa gần đây, ông không hút được nữa, bà Thọ và cái Ngọ phải thay nhau bón cho ông bằng thìa. Mỗi lần bón chỉ bốn, năm thì thì ông lại nghiến chặt hai hàm răng, không ăn nữa. Bà Thọ đã lên chùa thỉnh sư cụ trụ trì thì được biết chỉ ít ngày nữa là ông sẽ về với tiên tổ. Bà đã chuẩn bị sẵn áo quần mới, giầy, tất, mũ đội đầu, kính đọc sách và cả cỗ bài tú lơ khơ lúc sinh thời ông hay chới cùng bà để giết thời gian. Tất cả tư trang của ông đã xếp gọn gàng vào một ngăn tủ. Bà còn dặn cái Ngọ: “Đây là đồ dùng để ông mang đi, con nhá!”. Từ bữa ông yếu, chỉ có mỗi cô con gái cả là bác sĩ ngày ngày qua lại nhưng chín giờ tối lại phải về nhà. Cô con gái thứ hai thì xa, nếu không có gì đột xuất thì Chủ nhật mới có thể về thăm bố. Còn cặp vợ chồng hai người con trai đang đánh chuyến hàng lên Hà Khẩu- Pò Chài ở mãi bên Tàu không liên lạc được. Đêm nay trời trở gió. Những cơn gió lạnh cuối mùa đông như có những mũi kim nhỏ li ti cắm vào da thịt. Gió lách qua khe cửa chiu chíu, rin rít như có người gõ cửa muốn vào trong nhà cho đỡ rét. Bà Thọ đã đặt cả tấm lò sưởi của Liên Xô cạnh nơi ông nằm mà da thịt ông vẫn lạnh như cục nước đá. Bà Thọ xuýt xoa: “Rét thế này ở quê trâu còn lăn ra chết nứa là người. Không biết có qua được đêm nay không?” Nửa đêm, mệt quá, bà Thọ chợp mắt đi lúc nào không hay… Cái Ngọ vừa dậy thay phiên trực thì thấy ông cựa mình nhè nhẹ. Nó quấn cả chiếc chăn ngồi co ro ở mép giường ông Thọ. Mắt nó nhíu lại, chập chờn, có lúc như đang trong cơn mơ ngủ. Dưới ánh đèn ngủ màu xanh nhạt, cái Ngọ như thấy ông Thọ đang nằm trên một mảng bè trôi bồng bềnh giữa biển cả. Xung quanh ông có những đàn cá đang bơi theo, há hai hàm răng nhọn hoắt chờ để rỉa thịt ông. Cái Ngọ hốt hoảng định hét lên nhưng không cất được thành lời. Giật mình thức giấc, nó thấy khủng khiếp quá. Nó chồm người sờ quanh ông Thọ, thấy người ông cứng đờ như một khúc gỗ. Hai hàm răng ông mở to và hai mắt ông cũng mở trân trân như thể ông đang hốt hoảng kêu cứu trước một cơn nguy biến gì đó. Cái Ngọ, vội vàng lay gọi bà Thọ. Bà ghé tai vào mũi ông một vài giây rồi nói: “Ông ấy đi rồi!”. Bà Thọ không khóc, cũng không kêu gọi các nhà trong phố mà bà động viên cái Ngọ cùng giúp bà thay quần áo mới, bóp chân tay cho ông. Bà Thọ xoa dầu khắp cơ thể ông cho da ông nóng ấm trở lại. Tiếp đó, bà vuốt mắt vuốt miệng cho ông. Đôi mắt ông từ từ khép lại, hàm răng ông cũng khép lại như là đang ngủ. Tất cả chừng ấy công việc chỉ có hai bà cháu làm. Không ai nói to dường như muốn để ông nghỉ thêm cho tròn giấc. Bà Thọ làm việc không ngừng tay mà không biết mệt. Cái Ngọ lúc đầu còn sợ sệt, run rẩy nhưng sau đó thì bạo dần. Nó khoẻ hơn nên làm những việc nặng hơn như dùng nước nóng lau toàn thân cho ông, kéo thẳng hai gối chân và khuỷu tay cho ông. Buộc hai ngón tay cái vào để cả hai bàn tay ông đặt trên bụng như ra ông đang ngủ. Mọi việc chuẩn bị hành trang cho ông Thọ ra đi tạm xong thì trời tang tảng sáng. Xóm phố đã lác đác có nhà lên đèn. Bấy giờ bà mới nói: “Bà cảm ơn con! Con đã giúp bà làm trọn phận sự với ông rồi!” 36. Một cuộc chia thừa kế Nhờ có ban liên lạc hưu trí và hội người cao tuổi cùng các ban ngành của phường dứng ra giúp đỡ gia đình lo liệu nên ông Thọ về nơi an nghỉ cuối cùng cũng được mồ yên mả đẹp. Ông được mai táng ở nghĩa trang của một làng cũ mới thành phường. Việc này là do bà Thọ biết lo xa. Cách đây mấy năm, khi ông mới gặp tai biến, bà đã gặp các vị quản trang ở thôn, đăng ký mua 4 mét vuông đất ở nghĩa trang rồi bỏ tiền xây cả hai cái quách sâu 2 mét, có nắp bằng bê tông, phòng khi ông được về với tiên tổ thì có chỗ nghỉ ngơi. Vậy là, cả bà Thọ cũng đã có sẵn một ngôi quách nằm cạnh ông và được yên nghỉ theo thể thức đào sâu chôn chặt một lần, vĩnh cửu, lễ tang của ông có đủ ba đôi vợ chồng con. Duy đôi vợ chồng người con trai út do buôn bán xa không về kịp nên hai cái khăn tang vẫn còn buộc chờ ở chân bàn thờ ông Thọ. Sau lễ cũng ba ngày, vợ chồng người con út mới về. Và một cuộc chia thừa kế đã diễn ra trong căn phòng, nơi ông Thọ tắt thở.Vợ chồng người con út do bị thua lỗ trong chuyến buôn “biên mậu” lên tiếng trước: - Bây giờ chỉ còn một mình mẹ, tuổi lại cao, sức cũng yếu. Để mẹ sống một mình ở đây sợ lúc ốm đau không có con nào bên cạnh như bố thì khổ. Chúng con muốn mẹ xem xét, nếu ở với ai thì để chúng con bàn bạc cách phụng dưỡng mẹ. Bà Thọ khảng khái nói: - Tôi không ở với ai cả. Tôi sống thế này cũng ổn rồi. Các anh, các chị rỗi việc thì đến thăm, bận thì thôi. Khi nào tôi nằm liệt giường, liệt chiếu lúc ấy hẵng hay. Cậu con trai thứ ba nhưng đóng vai là trai trưởng nói: - Mẹ ở thế này chúng con không yên tâm làm ăn. Lúc nào cũng canh cánh lo nghĩ không biết mẹ thế nào. Xin mẹ về ở với vợ chồng con, cả cháu Ngọ cũng sẽ về để phục vụ mẹ. Chị con dâu cả được lời cũng góp ý kiến: - Vâng! Con đã bố trí sẵn cả một phòng để mẹ nghỉ ngơi. Cái Ngọ cũng về với mẹ, công cán của cái Ngọ, nhà con và các bác, các chú cùng lo. Mẹ về với chúng con là vừa hợp lí, hợp tình, vừa yên tâm cho mọi người. Bà Thọ như sực nhớ ra điều gì rồi bất chợt hỏi lại: - Các anh các chị tính vậy nhưng còn cháu Ngọ nó có bằng lòng về giúp việc nhà anh chị không, phải chờ ý kiến cái Ngọ đã chứ? Cái Ngọ từ đầu cuộc họp gia đình còn mải lau dọn bếp núc, rửa bát đũa, nấu nước, pha trà phục vụ mọi người. Tuy vậy nó vẫn lắng nghe mọi người về thừa kế gia sản bà Thọ. Nó thấy mọi người tính đến nó như một tài sản riêng. Nếu ai giành được phần nuôi bà Thọ, đương nhiên được quyền sử dụng cái Ngọ. Nó như một món hàng đi kèm với bà Thọ và việc trả lương cho nó lại là sự đóng góp, bố thí của bốn người con bà Thọ. Đang suy nghĩ miên man về việc đó thì cô dâu trưởng gọi to: - Ngọ ơi! Ngọ đây bà hỏi! Cái Ngọ lau hai tay vào tấm tạp dề đeo trước ngực rồi nem nép bước ra cạnh bà Thọ. Nó nhỏ nhẹ nói: - Dạ thưa, bà gọi cháu ạ? Bà Thọ nói vắn tắt một số ý tứ của mọi người rồi hỏi: - Nếu mai kia bà về ở với cô chú trưởng, cháu có về ở với bà không? Cái Ngọ hết nhìn bà Thọ rồi lại nhìn lên ảnh ông Thọ trên bàn thờ. Trong khói hương, cái Ngọ như nhìn thấy ông nằm một mình lạnh ngắt và đôi mắt đã dãn hết đồng tử mở trân trân chưa thể khép lại. Mọi người trong nhà nhắc hỏi ý kiến cái Ngọ. Lúc ấy nó mới giật mình ấp úng trả lời: - Cháu được bà gọi về đây phục vụ ông bà. Nay ông đã về. Còn bà đi với các cô chú thì cháu xin phép bà và các cô chú cho cháu “ngược”. Cháu lại về với bố mẹ cháu thôi ạ. Cái Ngọ nói xong, tất cả mọi người trong cuộc chia “thừa kế” đều tưng hửng, cụt hứng không bàn thêm nữa. Bà Thọ kết luận: “Thôi thế nàu! Các anh, các chị cứ để tôi ở đây với cháu Ngọ. Khi nào tôi đi theo bố các anh các chị rồi hãy phân chia tài sản. Cái Ngọ sẽ ở đây với tôi khi nào tôi đi thì cháu sẽ về với bố mẹ cũng được.”
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 37. Lá rách đùm lá rách Hai người con dâu bà Thọ còn tỏ ra cay cú khi không giành được cái Ngọ trong gói thừ kế nhận mẹ về nuôi. Họ đã thoả hiệp với nhau rằng nếu không được mẹ bằng lòng về ở cùng thì hai người sẽ luân phiên nuôi mẹ mỗi người người một tuần lễ. Sáng thứ 2 mẹ đến và tối Chủ nhật mẹ lại về nhà kia. Thế là công bằng hơn cả. Chị con dâu út còn có sáng kiến theo dõi, kiểm chứng sự chăm nuôi mẹ của nhau bằng cách cân mẹ trước khi bàn giao. Tuần nào mẹ sụt cân tức là nhà ấy nuôi mẹ không chu đáo. Nếu theo cách chia phiên ấy thì cái Ngọ thuộc diện dư dôi. Nhưng bà Ngọ không muốn cắt hợp đồng với cái Ngọ. Cô dâu út đáo để, tính toán ngay: - Đây nhá, con tính cho mẹ nghe, lương hưu của mẹ được hơn một triệu. Một mình mẹ lại thêm cái Ngọ thì sống sao nổi. Mẹ ở với chúng con thì mới có được đủ cho cái Ngọ làm. Chúng con đỡ mẹ trả lương cho nó, mẹ đỡ phải lo nghĩ về việc ấy. Thấy bà Thọ vẫn lặng im không rõ đồng tình hay phản đối, cô dâu út lại nói: - Nếu mẹ giữ cái Ngọ ở đây thì chỉ trả nó một nửa lương thôi. Việc có gì đâu mà trả lương nhiều thế? Bà Thọ muốn chấm dứt cái chuyện cò kè bớt một thêm hai với cái Ngọ. Bà nói với hai con dâu: - Tôi biết các chị, các anh lo cho tôi nhưng mà bố các anh, các chị mới mất. Tôi còn phải ở đây với ông ấy cho nhà đỡ hiu quạnh, mà tôi cũng đỡ lẻ loi. Còn việc cháu Ngọ ở với ai là tuỳ nó, tôi không ép nó và tôi cũng không xin các anh, các chị trả tiền công cho nó. Biết không ép được bà Thọ đi theo để dễ bề chiếm đoạt cái Ngọ, biến nó làm chim mồi trong các vụ buôn bán “biên mậu”, hai cô con dâu bàn với chồng tìm người khác thay cái Ngọ để mỗi tuần đến dọn dẹp nhà cửa cho bà Thọ một lần và phục vụ ở nhà riêng của họ. Cái Ngọ lại lâm vào nguy cơ mất việc làm. Thấy vậy, cái Ngọ ngỏ lời với bà Thọ xin ở cùng bà, giúp bà mọi việc mà không lấy tiền công. Nó nói: “Bà ơi, bà già rồi. Đêm hôm lạnh lẽo, gió máy thất thường. Ngộ nhỡ làm sao thì ai đỡ cho bà!”. Cái Ngọ thương bà nên khóc sụt sùi khiến bà Thọ cũng khóc theo. Hai bà cháu cứ ôm chặt lấy nhau như thể sợ có ai bắt buộc bà cháu phải chia lìa. Từ đó, bà Thọ quý mến cái Ngọ như là cháu ruột. Bà Thọ giao cho cái Ngọ sổ lương hưu rồi dẫn nó đến nhà cụ tổ trưởng tổ hưu để kí uỷ nhiệm cho cái Ngọ hàng tháng đi lĩnh lương thay bà. Cái Ngọ ghi chép chi li vào sổ sách các khoản chi cho hai bà cháu. Từ đồng mắm tới mớ rau, từ tiền điện đến tiền nước, tiền vệ sinh. Ngày nào phải chi tiền nó cũng ghi rồi đọc cho bà nghe. Những đồng tiền lương hưu ít ỏi của bà Thọ không hề suy suyển đồng nào. Hai bà cháu vẫn ngày hai bữa đỏ lửa. Cơm vẫn dẻo và canh vẫn ngọt. Các con của bà Thọ, ngoài cô bác sĩ hàng tuần thăm nom chăm sóc mẹ, còn các anh con trai thì ngày một xa. Họ đã không cho mẹ tiền nhưng lại lấy đi của bà Thọ những đồ dùng cần thiết trong nhà. Khi thì chị dâu út lấy cái nồi cơm điện to với cái cớ rằng mẹ ăn ít không phải dùng nồi to. Lần khác chị con thứ lấy đi cái ấm nấu nước bằng điện với lí do vì hai bà cháu nấu than tổ ong không cần dùng điện nữa. Ngay cả những bát đĩa vẫn dùng cũng có chị nhặt nhạnh đem đi. Bà Thọ tự an ủi với cái Ngọ rằng: Bà cháu ta cứ giữ đủ dùng thôi. Giữ nhiều mà làm gì, cháu nhỉ? 38. Rõ tim đen Mỗi ngày hai bữa trước khi vào bữa ăn, bà Thọ lại nhắc cái Ngọ xới một bát cơm nóng, đôi đũa và quả trứng luộc đặt lên bàn thờ. Rồi bà thắp nén nhang và mời: Mời ông về xơi cơm với bà cháu tôi! Trong khói hương, cái Ngọ nhìn thấy như ông đang cười trên khung ảnh. Nó nghĩ vậy là ông ra đi cũng chỉ có hai bà cháu, nay ông về cũng chỉ có hai bà cháu! Nhờ thế mà bữa cơm đỡ nhạt miệng hơn. Cô bác sĩ hàng tuần vẫn khám bệnh cho mẹ nói rằng huyết áp của mẹ hồi này cao hơn. Những lúc thấy người chóng mặt, đau đầu thì mẹ phải uống ngay viên thuốc hạ huyết áp. Cái Ngọ được cô bác sĩ dặn dò cẩn thận về cho bà uống thuốc và đặt bà nằm gối đầu thấp để máu lên đầu cho bà đỡ chóng mặt. Thế nhưng hai anh con trai mỗi khi về thăm mẹ thì cứ làm cho bà Thọ nghĩ ngợi, trầm uất. Anh con trai thứ ba được xếp vai trưởng nói với mẹ: - Mẹ thật là bảo thủ. Bảo mẹ về ở với con, với cháu cho ấm cúng, gần gũi thì mẹ không nghe cho. Mẹ sống thế này chúng con còn bụng dạ nào mà làm ăn nữa. Anh con trai út thì nói: “Hay là cụ ăn phải bùa phải bả của con bé Ngọ rồi. Lạ thật, cháu cụ thì cụ chẳng thương mà lại gắn bó với người dưng!”. Bà Thọ không đối gia đối giảm với hai anh con trai. Lối sống bon chen, phũ phàng chốn chợ búa đã cướp đi của bà Thọ hai người con trai đích thực. Bà bảo: Khi bố các anh nhắm mắt thì các anh đang ở chợ xa, chợ đêm. Chẳng nhẽ bây giờ các anh còn muốn tôi về coi nhà cho các anh các chị đi chợ à? Vận động rồi gây áp lực không xong, anh con út nói toạc ý định với bà Thọ rằng anh ta đang cần vốn đi buôn, anh muốn mẹ bán căn nhà đang ở đi để chia cho họ mỗi người một ít vốn. Bà Thọ choáng váng như bị lên cơn huyết áp. Bà bảo cái Ngọ lấy viên thuốc cho bà uống rồi lặng lẽ đi nằm. Cái Ngọ phải nói như van xin, hai con trai bà Thọ mới im lặng ra về. Thế là đã rõ tim đen của hai người con trai. Thì ra họ đang tập trung mọi suy nghĩ tới việc bán nốt căn nhà mà bà đang sinh sống và hương khói cho ông. Cái Ngọ không hiểu vì sao cuộc đời lại dày vò, tàn nhẫn với bà như thế. Nó không biết làm gì để an ủi, động viên bà. Lại thấy hai người con trai lạnh lùng chì chiết, cái Ngọ cũng hoang mang , lo lắng cho bà. Nó hỏi: - Bà ơi! Nếu các chú đuổi cháu đi thì sao hả bà? Bà Thọ giải thích cặn kẽ với cái Ngọ rằng, ngôi nhà bà đang ở là do cơ quan cấp cho hai ông bà từ thời bao cấp. Đấy là tài sản của riêng ông bà. Các cô, các chú ai nấy đều đã có tài sản và ở riêng. Không ai được quyền chia căn nhà ông bà đang ở. Bà Thọ còn dặn rằng: Khi nào bà chết thì đoàn thể, mặt trận và điạ phương sẽ bóc thư đọc di chúc của bà về căn nhà bà đang ở. Bà nói: Nếu con ở cùng bà tới ngày bà nhắm mắt thì sẽ có các cụ, các ông bà ở địa phương giúp đớ. Con đừng lo!”. Cái Ngọ không biết bà Thọ đã viết gì trong bản di chúc thiêng liêng, kín đáo kia nhưng nó biết rằng tuổi già của bà rất cần tình cảm và tấm lòng của nó. Những cái đó bà còn quý hơn vả bạc vàng, tiền của mà khi nhắm mắt bà không mang theo được.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố Đọc đến đây mình đoán là bà Thọ để lại nhà cho cái Ngọ... Được thế thì tốt quá nhỉ!!! . Mẹ nó Post tiếp đi!
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 39. Đưa vong ông Thọ lên chùa Lễ cúng tứ - cửu (cúng 49 ngày) ông Thọ rơi vào 23 tháng Chạp, ngày Táo Quân lên chầu trời để tấu với Ngọc Hoàng về tình hình dân chúng ở hạ giới. Bà Thọ vốn là cán bộ từ thời chống Pháp, lại quen sống tập thể và không mê tín dị đoan nên việc chuẩn bị cho ông lên chùa có phần trang trọng nhưng giản dị. Bà Thọ xin với sư thầy trụ trì chùa cho được đặt một tấm bia đá có khắc ảnh chân dung ông ở dãy tường nhà cầu trước khi vào vọng cung chùa. Tuy các tín đồ Phật tử quy tập về chùa khá đông nhưng sư thầy vẫn dành chỗ rộng rãi, thoáng mát để bà Thọ đặt bát hương, tiện cho việc hương khói. Ngoài ra, cũng theo chỉ dẫn của sư thầy, bà Thọ chỉ làm một mâm cỗ chay, một ít phẩm oản, một đĩa cau trầu, một nải chuối chín và một tập tiền giấy để ông tiêu vặt ở dưới cõi âm. Bà Thọ còn mua một chai rượu trắng nhỏ bằng ngón tay cái, tượng trưng cho nếp sống trần sao âm vậy để ông có chút rượu quê nhâm nhi lúc nhớ vợ, con, cháu, chắt. Lễ nhập môn để ông vào chùa được sư thầy thỉnh kinh, dâng sớ tâu với Bồ Tát theo thể thức dành cho con nhang đệ tử đã ký thác nơi cửa Phật. Theo lời của sư thầy thì vong linh của ông Thọ đã được siêu thoát về või niết bàn. Bà Thọ cũng như được cởi bỏ gánh nặng. cuối cùng, sư thầy hỏi bà Thọ: “Thí chủ còn có điều gì muốn nói với vong của ông nhà không?”. Bà Thọ ngồi xuống tấm chiếu cói trải trước ban thờ, hai tay chắp vào nhau cùng với nén hương đang toả khói. Bà hỏi; - Ông ơi! Bây giờ các con lại muốn tôi phân chia nốt tài sản cho chúng nó. Ông bảo tôi phải làm thế nào? Mong ông chỉ bảo cho tôi với! Sư thầy nhắm mắt, nét mặt đăm chiêu như đang nghe tiếng nói từ nơi xa lắm. Rồi sư thầy nói lại tiếng nói của người dưới âm. - Chúng nó đều có phần cả rồi. Bà không phải chia cho ai nữa cả. Ai thiện tâm sống với bà đến lúc bà đi thì cho người ta. Cho người nghèo thì mới quý. Nói xong sư thầy như lạc mất giọng và rùng mình chao đảo trước khi ra khỏi cuộc trò chuyện, sư thầy có lời khuyên với bà Thọ: - Nam mô A-di-đà Phật, trần sao âm vậy. Người ta không coi trọng cái của mà bà cho. Người ta coi trọng cái cách cho của bà kìa. Bà Thọ như được giải thoát mọi nỗi băn khoăn trong đầu. Sau bữa đó, ngày nào bà cũng cùng cái Ngọ lên chùa hương khói, trò chuyện với ông. Dường như sau mấy năm bị tai biến không nói được, bây giờ hai cụ lại được trò chuyện, chia sẻ nỗi niềm. Khoảng cách âm dương ở đây không còn xa biệt nữa. Bà Thọ thấy khoẻ hơn. Cái Ngọ được bà bảo ban, chỉ dẫn nhiều điều, nhiều việc, chẳng khác gì đứa cháu trong nhà. Từ ngày lo xong việc mai táng, cúng giỗ cho ông không còn nữa, hai bà cháu chỉ việc gì không đừng được, cái Ngọ mới xin bà Thọ dăm ba đồng để mua sắm cho riêng mình. Cũng từ ngày các con trai bà Thọ gây sức ép lương cho cái Ngọ, bà Thọ đã giao hết số lương hưu hàng tháng để cái Ngọ tính toán việc chi tiêu. Cái gì bà cháu chưa cần thì một đồng nó cũng không chi. Trước khi ông qua đời nó còn được dùng bếp ga, nay nó nấu bếp chủ yếu bằng lò than tổ ong. Mỗi ngày chỉ dùng hết một viên than tổ ong mà nấu nướng thoả sức kể cả việc nấu nước nóng cho bà tắm táp, gội đầu. Cái Ngọ chi tiêu mọi thứ nhưng mua một bao diêm, một cây nến nó cũng ghi vào sổ rồi mỗi tuần lại đọc cho bà Thọ nghe. Vậy là việc bát cơm, chén nước của hai bà cháu đã nhẹ bẫng, khiến bà Thọ nhẹ lòng. Rồi ngày nào bà cũng dành thời gian bảo cái Ngọ đưa lên chùa trò chuyện với ông. Khi bà Thọ ngồi thiền nhập tâm về nơi cực lạc thì cái Ngọ lại quét dọn trong chùa, ngoài sân như thể người của nhà chùa vậy. 40. Bản chúc thư của bà Thọ Một buổi sớm mùa xuân, bà Thọ dặn cái Ngọ: “Hôm nay nhà có khách, con nhớ nấu ấm trà hoa cúc để bà mời các cụ nhá!”. Rồi bà lấy một bộ chén tống bằng gốm màu xanh như cánh con chim bói cá ở trong tủ ra, tráng kỹ bằng nước nóng, đặt thành hai hàng trên bàn nước. Vừa làm, bà Thọ vừa giới thiệu: - Bộ chén này ông con sắm từ hồi ông còn khoẻ. Ông bảo rằng đây là chén của làng Chu Đậu ở Hải Dương. Mẫu men này tựa như men cổ cách đây hơn năm trăm năm đấy. Chén này ông mới uống nước vài ba lần rồi cất sợ con cháu làm vỡ mất. Thấy bà Thọ chuẩn bị trang trọng quá, cái Ngọ hỏi bà: - Bà ơi, khách có ăn cơm trưa ở nhà không để con còn đi chợ? Bà giật mình như bị đánh thức giữa giấc ngủ. Bà nói: - Không ăn cơm đâu con ạ. Toàn những người làm việc thiện, dày công đức lắm. Con chỉ cần nấu nước hoa hoè bà vẫn uống hàng ngày để mời khách là được. Bốn khách đến nhà sáng hôm ấy có ba người già và một người phụ nữ trung niên. Một cụ ông có gương mặt quắc thước, mắt sáng, tóc bạc trắng cắt ngắn vừa ngồi xuống ghế đã nói: “Cụ Thọ ạ! Hội người cao tuổi của phường chúng tôi hôm nay có mời đại diện Ban tư pháp phường đến đây để giúp cụ làm bản chúc thư như cụ đề nghị hôm trước. Hôm nay Ban lãnh đạo Hội chúng tôi đều có mặt cả”. Sau một tuần nước hoa hoè vừa thơm vừa mát, cụ hội trưởng bảo cái Ngọ mang hết cốc chén ra ngoài, lau sạch bàn nước để lấy chỗ đặt giấy bút, cụ trịnh trọng đọc một bản thảo đã có chữ viết đậm nét. - Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam … Phường Tân Nghĩa ngày … tháng … năm … Hôm nay vào hồi tám giờ sáng, tại nhà cụ bà Tô Thị Hoàn tức cụ bà Thọ, ở số nhà 32 tổ 16, phường Tân Nghĩa, chúng tôi gồm: Đại diện Hội người cao tuổi phường, đại diện Ban tư pháp phường cùng có mặt để chứng kiến việc cụ Tô Thị Hoàn tức cụ bà Thọ, 83 tuổi chủ của ngôi nhà số 32 tổ 16 có hộ khẩu thường trú tại phường từ năm 1960. Nay cụ ông đã an nghỉ, cụ Tô Thị Hoàn là người thừa kế ngôi thứ nhất và là người duy nhất có hộ khẩu tại ngôi nhà này. Bà Thọ đề nghị Hội người cao tuổi và Ban tư pháp chúng tôi lập một chúc thư có nội dung như sau: … Đọc đến đây, cụ Chủ tịch Hội người cao tuổi hạ tờ giấy nháp xuống bàn rồi tháo kính trắng nghỉ một lát và hỏi; - Phần đầu lập như thế có đúng luật không nhà tư pháp? Bà cán bộ nữ tươi cười nhìn mọi người rồi nói: “Dạ đúng rồi nhưng cho cháu ghi số của cuốn hộ khẩu, số chứng minh thư của cụ Hoàn nữa là đủ ạ!”. Đến lượt bà Thọ nói. Bà Thọ nghẹn ngào xúc động và nghẹn giọng, đứt quãng từng đoạn. Bà nói rằng: “Tôi và ông nhà tôi lấy nhau từ thời đi chống Pháp. Có với nhau bốn mặt con, hai gái, hai trai. Chị gái đầu đã có gia đình, có con, có cháu nội, cháu ngoại. Chị thứ hai lấy chồng xa, cũng có con cái đề huề. Còn hai người con trai đã lấy vợ và tách hộ khẩu ở riêng. Khi ra ở riêng vợ chồng tôi cũng đã cho một khoản tiền để mua mỗi người một gian nhà cấp bốn như bố mẹ để sống riêng. Sau đó khu tập thể này đuợc nhà nước hoá giá, tôi và ông nhà tôi vay mượn tự xây lên thành căn nhà hai tầng, mỗi tầng hơn 30m2. Đấy là tài sản riên của vợ chồng tôi. Nay ông Thọ nhà tôi đã mất, ông ấy dặn tôi giao ngôi nhà này cho ai đã sống với chúng tôi đến hơi thở cuối cùng. Hôm ông ấy đi, chỉ có con cháu Ngọ ngồi bên và lo cho ông ấy chu tất. Còn tôi từ ngày ông ấy đi cũng chỉ có con bé cháu này sớm hôm gần gũi chia ngọt sẻ bùi. Cháu là đứa con gái nết na, chịu thương chịu khó, nghèo túng nhưng không tham lam, học hành ít chứ nhưng biết tôn trọng nhân cách. Tôi đã xin với vong linh ông nhà tôi, được ông ấy bằng lòng ngay. Xin các cụ làm chứng để tôi đỡ cháu một quãng đường dài…”. Các cụ trong Hội người cao tuổi và đại diện Ban tư pháp rất cảm động và quý trọng tấm lòng nhân hậu của bà Thọ. Các cụ cũng chúc mừng cho cái Ngọ đã gặp được tấm lòng từ thiện cao cả của hai cụ Thọ. Ý nguyện của người đang sống gặp với người đã chết đã nâng đỡ cho cái Ngọ để nó phụng dưỡng bà Thọ những năm tháng cuối của cuộc đời.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 41. Cuộc gặp mặt bất ngờ Vừa ăn bát mỳ sợi nấu với mấy lá rau cải xanh, bà Thọ dặn: - Hôm nay là chủ nhật, bà có chút việc phải đi vắng. Ngọ ở nhà dọn dẹp nhà cửa rồi nấu cơm trưa để hai bà cháu cùng ăn. Ở nhà nhớ khoá cửa bên trong, khách lạ đến thì không được mở cửa mời vào nhà, con nhá! Cái Ngọ lễ phép nói: Vâng! Rồi hỏi thêm: “Bà đi bộ hay đi xe taxi để con gọi xe cho bà?” Bà Thọ lắc đầu vẻ không cần. Rồi bà cầm cái khăn vuông dệt bằng len màu xanh nhẹ gót bước đi. Từ ngày rước ông lên chùa, dáng đi của bà Thọ nhẹ nhàng và mau bước hơn. Trí óc của bà có vẻ thông tuệ, sáng lán hơn cả hồi ông đau bệnh nằm liệt giường. Ấy là sớm nay, bà đã đi chợ sớm. bà mua rau, trầu cau, têm vài miếng trầu gói vào túi nilong nhỏ để ăn cả buổi sáng. Cái Ngọ nghe lời bà Thọ, khép cửa, cài then và khoá cả ổ khoá trong. Rồi nó thấy trống trải, đơn lẻ và ngồi đứng không yên. Thấy nén hương trên bàn thờ đã cháy xuống chân, cái Ngọ đốt thêm một nén nữa cắm vào bát hương, rồi bắt chước bà hàng ngày, cái Ngọ cũng khấn cầu: - Con lạy ông! Ông sống không thác thiêng thì phù hộ cho bà con khoẻ mạnh, sống lâu, phù hộ cho con được hầu hạ ở bên bà để con khỏi sa vào những cám dỗ của những kẻ lòng lang dạ thú. Con cũng xin ông phù hộ cho bố mẹ con và em Dậu được bình an, và có đủ cơm no, áo lành. Cái Ngọ học theo sư thầy ở trên chùa. Nó nhắm mắt, thả cho tâm trí bay bổng ra khỏi làn hương. Trong một vầng ánh sáng màu bạc lấp loá nơi đáy mắt, cái Ngọ như nhìn thấy ông Thọ ở ngay trên bàn thờ. Ông có vẻ bằng lòng với cái Ngọ vì hàng ngày hai bà cháu vẫn có bát cơm, đôi đũa đặt lên bàn thờ mời ông về xơi cơm. Nó nghe văng vẳng như ông nói: “Cháu đã thành người nhà ta, ăn cơm, uống nước nhà ta. Trời phật sẽ độ trì cho cháu… Ta muốn cháu giúp ta chăm sóc, gần gũi với bà, đừng để cho bà cô đơn, lạnh lẽo giữa nơi dương thế…”. Trong khi cả vong linh ông và đứa cháu gái đang hướng về phía bà Thọ thì bà lại thuê xe ôm cùng phố đưa bà đến gặp bố mẹ cái Ngọ tại căn nhà trọ ở xóm chợ. Không cần phải hỏi thăm, bà Thọ đã tới ngay căn phòng ở đầu dãy nhà mái ngói xi măng. Ông Bèo đang ngồi ở phản gỗ uống nước, nhìn thấy người xe ôm và bà Thọ vội đứng dậy chào. Bà Thọ nhận thấy nét mặt ông Bèo hao hao giống cái Ngọ nên dừng chân trước cửa phòng hỏi: - Có phải bác là bố đẻ cháu Ngọ không? - Dạ thưa cụ, phải ạ! - Đúng là giỏ nhà ai quai nhà ấy. Nhìn bác tôi nhận ra ngay. - Dạ mời cụ ngồi chơi. Nhà cháu… nhà cháu đi thuê, nó có vậy thôi ạ. Bà Thọ ngồi xuống phản, nhìn quanh nhà rồi hỏi: - Thế bác gái nhà ta đi đâu? - Dạ thưa cụ! Nhà con đi mua mớ rau ngoài chợ ạ! - Thế còn em của cháu Ngọ, nó có hay về với hai bác không? - Dạ thưa cụ, cũng thi thoảng thôi ạ. Cháu nó cũng bận quá. Bà Thọ bưng bát nước uống. Trong lòng xót xa, ái ngại cho vợ chồng ông Bèo. Sao những người thật thà, chịu thương chịu khó lại phải lam lũ thế này? Phải chăng lại là cái số phận riêng từ tiền kiếp? Đặt bát nước xuống phản gỗ, bà Thọ cởi mở, cảm thông với vợ chồng ông Bèo và nói: - Tôi có câu chuyện muốn nói với hai bác! 42. Buồn ngủ gặp chiếu manh Đặt vội mớ rau muống vào chậu nước sạch ở ngoài hiên nhà, bà Bột cuống quýt, xuýt xoa, không giấu nổi niềm vui khi thấy bà Thọ đến chơi nhà. Nhưng cũng ngay sau đó, bà Bột tỏ ra ái ngại nói: - Chỗ ở của chúng con xuềnh xoàng quá. Chả bù cho nhà con ở quê, rõ rộng, cụ ạ! Bà Thọ thong thả, dịu dàng động viên: - Các cụ ta có câu: Ăn hết nhiều chứ ở thì hết mấy. Tôi biết hai bác đưa con lên thành phố là để lập nghiệp cho cháu chứ cái ăn, cái ở của hai bác thì có việc gì phải lo nữa. Trao đổi qua lại một hồi, từ chuyện ăn ở, việc làm đến việc kèm cặp, bảo ban con cái, nhất là con gái đang ở tuổi dậy thì, bà Thọ lựa lúc vui vẻ, không khí chan hoà, đầm ấm mới nói: - Tôi đến thăm hai bác, biết nơi ăn ở sinh sống thế này nên có ý định muốn nói với hai bác, để hai bác cùng suy nghĩ, nếu bằng lòng thì nói, không bằng lòng thì thôi… Cả hai vợ chồng ông Bèo đều vâng dạ, hồi hộp lắng nghe. Bà Thọ nói tiếp: - Ấy là tôi có nhã ý mời hai bác đến chỗ tôi, tôi cho thuê cả cái tầng 1, có một phòng ngủ, một cái bếp, một nhà vệ sinh và một chỗ kê bàn ghế tiếp khách. Hai bác cứ xử dụng cả cái tầng 1. Đấy là diện tích thừa của tôi. Tôi cho hai bác thuê bằng cái giá thuê căn phòng này thôi. Đến chỗ tôi ở để gần gũi với bà cháu tôi cho vui vẻ. Cháu Ngọ cũng đỡ nhỡ bố mẹ. Nhà tôi cũng bớt vắng vẻ hiu quạnh. Ông Bèo nhìn bà Thọ, xúc động tới trào nước mắt. Ông Bèo nghẹn ngào nói: - Đội ơn cụ. Trước hết là cháu Ngọ nhà con được giúp việc gia đình hai cụ, cái ân huệ ấy đã lớn. Nay cụ lại cho chúng con đến ở cùng, được núp bóng cụ là chúng con sung sướng lắm rồi. Thật cứ như mơ ngủ giữa ban ngày vậy, thưa cụ. Bà Thọ thấy hài lòng vì đã trồng được cái cây nhân ái, đem lại cho đời một sự hứa hẹn đơm hoa kết trái. Bà nói tiếp: - Việc này tôi chưa nói với cháu Ngọ vì còn chờ ý kiến hai bác. Nếu hai bác không còn băn khoăn, cấn cá điều gì thì ghi cho tôi số chứng minh thư nhân dân để tôi làm giấy báo cáo với phường và tổ dân phố. Rồi chọn ngày nào đẹp rồi hai bác vào nhập gia. Thế là đầy đủ thủ tục. Vợ chồng ông Bèo chỉ còn biết vâng, dạ để đáp lại thịnh tình của bà Thọ. Khi chia tay ra về, bà thọ còn căn dặn: - Thế là tôi đã cho hai vác thuê. Tiền bạc bao nhiêu không phải suy nghĩ. Cũng không phải đặt cọc làm gì. Cái Ngọ nhà bác là của tín chấp lớn với tôi rồi! Bà Thọ đã lên xe ôm đi từ lâu mà vợ chồng ông Bèo vẫn như còn ở trong mơ. Hai người cùng ngơ ngác nhìn nhau chưa biết nên làm việc gì trước, việc gì sau. Bà Bột hỏi chồng: - Vậy ngày nào ta đi nhỉ? - Phải chờ cái Ngọ về. Phải hỏi nó xem mình phải làm gì để nhập gia cho đúng phép. Dù thế nào cũng phải làm mâm cơm lễ tạ cụ ông, xin cụ che chở cho được êm thuận trong ngoài. Cả buổi sáng hôm đó, vợ chồng ông Bèo xốn xang, háo hức, chẳng khác gì người buồn ngủ lại gặp chiếu manh. Ông Bèo cứ tấm tắc, nức nở khen tấm lòng bao dung, cởi mở của bà Thọ. Ông nói với vợ: “Ở đời vẫn còn nhiều người sống tốt, có lòng yêu thương đồng loại, không bon chen, ích kỷ”. Lúc đầu, vợ ông cứ cho là may mắn cái Ngọ gặp được bà Thọ, nhưng khi chỉ còn hai vợ chồng, ngẫm nghĩ, ông Bèo cũng không quên nhắc với vợ rằng: Phải ở hiền thì mới gặp được lành, mình ạ! 43. Ở hiền gặp lành Tất cả mọi việc đều như tình cờ. Tất cả mọi đồ dùng trong nhà trọ mới của ông Bèo và bà Bột đều như là mới. Vợ chồng ông Bèo chỉ đem về cái thùng gỗ chở đủ cả nồi niêu, bát đĩa, chổi cùn ghế rách đặt ở góc khuất gần bếp nấu cơm. Bà Thọ chỉ cái tủ lạnh kê ở gần bếp nói: Có cá, thịt, rau quả thì bỏ vào cái tủ lạnh này. Ngọ hướng dẫn bố mẹ con cách dùng tủ nhé! Sau khi kê xong đồ đạc, ngồi uống nước ở phòng khác, bà Thọ đưa cho ông Bèo một tờ giấy khổ to hơn giấy vở học trò và dặn: “Đây là hợp đồng thuê nhà. Tôi đã làm hai bản. Một bản tôi giữ. Một bản anh chị giữ. Nếu hai anh con trai tôi về hỏi thì anh chị cứ nói là tôi cho thuê. Tiền hàng tháng sẽ thanh toán cho bà!” Nói xong, bà Thọ giải thích thêm: - Ấy là tôi nói vậy cho có vẻ sòng phẳng thôi. Khoản tiền thuê nhà của anh chị mới chỉ bằng nửa tháng lương của cháu Ngọ thôi mà. Mấy tháng nay, Ngọ nó làm không công cho tôi rồi đấy! Thì ra mọi việc cho vợ chồng ông Bèo về ở đã được bà Thọ lo liệu cẩn thận, kỹ càng. Về mặt pháp lý là hoàn toàn hợp lý. Không một ai trong số bốn người con của bà được can thiệp. Ngày ba bữa, bà Thọ và cái Ngọ vẫn ăn cơm riêng ở tầng hai. Ông Bèo và bà Bột vẫn ăn ở tầng một. Bữa nào có bát canh ngon, bà Bột lại bưng lên biếu bà Thọ để tỏ lòng biết ơn với cụ. Cái Ngọ vẫn ngày ngày tháp tùng cụ bà lên chùa để cụ trò chuyện với cụ ông. Đêm đêm, cái Ngọ vẫn xoa bóp, bôi dầu, chăm chút cho giấc ngủ của cụ bà. Cái gia đình mới với bốn thành viên tuy không cùng ăn chung một nồi, uống chung một ấm nhưng rất quan tâm, chia sẻ với nhau hơn. Duy có việc tiền bạc thuê nhà thì bà Thọ dặn mọi người rằng đã tính toán sòng phẳng trong văn bản hợp đồng, có chứng thực của tổ dân phố và phường sở tại. Nhưng bà Thọ vẫn còn một nỗi niềm trăn trở. Ấy là thói tham lam, ích kỷ của hai người con dâu. Họ vốn có ác cảm với cái Ngọ vì không lôi kéo được nó vào những canh bạc buôn bán và mua chuộc, hối lộ các trạm kiểm soát thu thuế trên tuyến “biên mậu”, nay lại là nguyên cớ gây trở ngại cho ý định thôn tính nốt căn nhà của bà Thọ, ắt hẳn những người con cạn tình, cạn nghĩa ấy sẽ chẳng ngồi yên. Bà Thọ nói: - Cháu Ngọ là đứa con nết na, hiếu thảo. Chỉ nhìn nó như vậy là tôi cũng biết công sức dạy dỗ và cái gương soi cho con cái của anh chị. Tôi đã làm chúc thư để giao căn nhà này cho cháu. Tài sản này là riêng của vợ chồng tôi. Tôi sống ở đây và nếu chết cũng ở đây với cháu. Chúng tôi không phải theo con nào cả. Mong anh chị giúp tôi hoàn thành được những điều tâm nguyện thiêng liêng đó. Tôi và ông ấy vẫn sống khôn, chết thiêng sẽ độ trì cho cháu. 44. Toà án lương tâm Hai người đàn ông không còn trẻ nhưng cũng chưa già ngồi trên một chiếc xe máy phân khối lớn dừng xe ngay trước cửa nhà, rồ ga hai nhịp làm vang rung cả dãy nhà tập thể. Rồi với vẻ tự nhiên như người nhà, họ rút chìa khoá trong túi quần ra định thọc vào ổ khoá nhưng không được. Nét mặt họ vẫn đanh quánh lại càng sắt lại. Một người đứng ra giữa đường, ngửa mặt lên tầng hai gọi to: Ngọ ơi! Ngọ ơi! Ngọ ơi! Ngọ. Cái Ngọ đang giặt quần áo trong nhà tắm, tay áo còn xắn cao, chạy ra cửa chính, mở cửa, thò cổ ra nói! Dạ, chú chờ cháu một tý ạ! Tiếp đó, cái Ngọ vào khoá vòi nước rồi cầm chìa khoá chạy xuống cầu thang, mở cửa nhà mời hai chú vào. Nó vội vàng pha chè vào ấm, rót nước sôi rồi mời: - Cháu mời hai chú xơi nước ạ! Một người là con út của bà Thọ hất hàm hỏi: - Bà đâu, ai nằm dưới này mà sắp xếp có vẻ nếp nang thế? Cái Ngọ thưa: - Thưa chú, bà đêm qua khó ở, ngủ không ngon giấc, sáng nay bà đang nằm thêm một chút ạ. - Bà làm sao? Đã gọi báo cho bác cả chưa? Cái Ngọ lai nem nép thưa: - Thưa chú, đêm qua bác cả đã gọi điện dặn cháu đánh gió và lấy thuốc cho bà. Cháu đã làm theo nên hôm nay bà đã đỡ ạ. Nghe xong, cả hai người con trai cùng đứng dậy đi lên tầng hai, xộc thẳng vào phòng bà Thọ đang nằm. Anh con thứ ba lại gần giường, ngồi xuống cạnh mẹ hỏi: - Bây giờ mẹ thấy thế nào? Mẹ có đói không? Con đi mua cho mẹ bát cháo nhé? Bà Thọ gượng ngồi dậy nói: - Mẹ không sao cả. Tuổi già nó thế ấy mà. Lúc ốm, lúc khoẻ, cứ như là giả vờ vậy thôi. Đêm qua mẹ khó ngủ, sáng nay dậy muộn một chút thôi mà. Anh con út của bà Thọ nôn nóng hỏi: - Nghe đồn mẹ cho thuê cái tầng 1 rồi phải không? Mẹ cho ai thuê đấy? Bà Thọ vẫn ôn tồn nói: - Phải rồi. Mẹ không ở hết nên gọi người cho thuê lấy tiền hai bà cháu chi tiêu, đỡ cho các con khỏi phải đóng góp nuôi mẹ. Anh con út chất vấn mẹ tiếp: - Thế người thuê là ai? Mẹ không sợ sau này họ chiếm mất cả nhà à? - Sao con lại cứ nghĩ xấu về người khác thế. Phật dạy rằng tâm thiện thì mới làm được việc thiện. Làm nhiều việc thiện thì khi chết mới được về với Phật. Làm việc ác thì khi chết phải vào vạc dầu nấu đủ ba đông đấy con ạ. Người con thứ ba của bà Thọ nói năng có vẻ từ tốn, dịu dàng hơn nhưng vẫn không giấu được lòng ghen tuông, đố kỵ: - Mẹ ơi! Vì sao chúng con là con đẻ mà mẹ lại xa lánh, còn đứa cháu nhặt ở đầu đường xó chợ thì mẹ lại gần gũi, yêu thương hơn cả con cháu mình. Hay là mẹ phải bùa, phải bả gì nó. Mẹ nuôi nó trong nhà đã là một cái mầm hoạ, nay mẹ lại giao cả gia tài cho nó thì sẽ mất hết. Bà Thọ nghe xong, không kìm lòng được nữa. Bà nói với hai con trai: - Nào con đã hỏi thì mẹ giả nhời xem mẹ đúng hay sai nhé? Sau khi đến tuổi trưởng thành ai đã kéo các con ra khỏi vòng tay của mẹ? Ai đã khởi xướng việc chia tài sản của bố mẹ khi bố đang ốm thập tử nhất sinh? Ai đã chia luân phiên nhau trách nhiệm chăm nuôi bố mẹ? Bây giờ phần của các con đã chia đều và hết. Căn phòng tập thể này là của riêng bố mẹ. Bố còn hàng ngày về kia, mẹ còn hàng ngày cơm bưng nước rót cho bố. Nhà của mẹ còn rộng thì mẹ cho thuê. Đấy là quyền của mẹ. Các con không có quyền hưởng nữa. Khi nào chết, mẹ cho ai thì người ấy được. các con hãy tự phán xử mình đi, toá án của lương tâm các con sẽ phải phán xét đấy. 45. Cuộc tranh tụng tay ba Hai người con trai của bà Thọ biết không thể nói chuyện trong gia đình để giành lại quyền lợi. Họ bèn đi mời “luật sư” để tìm cách đấu tranh. Một văn phòng luật sư đứng ra ký hợp đồng với hai người con trai bà Thọ và giao cho vị luật sư tên là Vũ Ba Phải đảm trách việc tranh tụng. Hai vị thân chủ xuất trình với luật sư Ba Phải hai tờ giấy khai sinh và chứng minh thư đã có công chứng của phòng công chứng nhà nước. Luật su Vũ Ba Phải xem xong rồi gật gù nói: - Đây là hai căn cứ pháp lý rất quan trọng xác nhận hai ông là con đẻ của hai cụ nhà ta. Với căn cứ này hai ông đều có quyền được hưởng thừa kế các tài sản của hai cụ để lại. Anh con út của bà Thọ lại lộp chộp nói ngay lời luật sư Ba Phải: - Thế mà mẹ tôi lại chiếm giữ toàn bộ ngôi nhà. Không cho anh em tôi một tấc, một thước nào. Rồi cụ ấy lại còn đem cho người dưng nước lã mới kỳ lạ chứ. Luật sư Ba Phải lại hỏi: - Thế trước khi cụ ông tạ thế cụ có di chúc lại bằng văn bản không? Người con trai lớn nói: - Ông tôi bị tai biến năm năm rồi. Sau khi tai biến là bị bại liệt cả người, có viết lách gì được nữa. Rồi cái đêm cụ đi thì anh em tôi đều không có mặt bên cụ nên chắc cụ không để giấy tờ di chúc cho ai cả. Luật sư Ba Phải giảng giải: - Hiện nay cụ bà còn đang sống tại ngôi nhà đó. Cụ ông ra đi không có di chúc. Vậy thì, phải chờ xin ý kiến cụ bà trong một chúc thư nào đó. Cụ ấy phân chia như thế nào là ý chí của cụ ấy, không ai chia thay cụ được. Người con út lại không giữ được bình tĩnh: - Ông cứ nói ba phải như thế thì bảo vệ làm sao được quyền lợi cho chúng tôi. Vậy, ông ký hợp đồng làm gì? Vị luật sư cười nói hồn nhiên như không nghe thấy câu nói của anh con út. Ông gật gù cái đầu có vẻ hợp ý rồi nói: - Không hiểu vì sao bố mẹ tôi lại đặt tôi là thằng Ba Phải. Rồi cái tên nó cứ hoàn thiện dần nhân cách của tôi. Bởi vậy khi học xong phổ thông tôi xin đi học luật rồi bổ túc thêm thời gian là thành luật sư. Nhưng tôi không làm thầy cãi để nói trái thành phải hoặc nói phải thành trái đâu nhá. Người con út bà Thọ lại nói: - Nếu kí hợp đồng mà thua kiện thì chẳng hoá tiền mất tật mang à? Vị luật sư nói tiếp: - Thắng lớn hay thua là phải dựa vào các chứng cứ pháp lý. Những căn cứ ấy phải trung thực và được pháp luật thừa nhận. Ví dụ như di chúc của cụ ông xác định chia thừa kế cho hai con trai và cụ bà cùng đồng thuận. Khi cụ bà mất thì phần tài sản sẽ chia cho hai anh. Còn hiện nay cụ bà đang sống, cụ chưa chia thừa kế thì ngôi nhà này cụ bà vẫn là sở hữu chủ. Các anh chưa có quyền gì đối với khối tài sản này. Người con trai lớn của bà Thọ hỏi luật sư: - Có mấy điều chúng tôi cần luật sư tư vấn cho để chúng tôi giữ được khối tài sản này. Một là tuy mẹ tôi còn sống nhưng tuổi đã cao, sức đã yếu, nay lại giao ngôi nhà cho gia đình một người du cư từ nhà quê lên phố. Ở lâu ngộ nhỡ họ làm giấy tờ bán mua cho nhau rồi lừa cho cụ ký vào thì chúng tôi mất trắng tay. Ông có cách nào ngăn cản được không? Hai là cái con bé ô sin của cụ nó đã bỏ bùa mê thuốc lú cho mẹ tôi, nên có thể mẹ tôi lại làm giấy tờ cho nó thừa hưởng ngôi nhà. Rồi khi cụ đột ngột ra đi thì sao? Ông luật sư Vũ Ba Phải có vẻ đăm chiêu suy nghĩ rồi nói: - Để các anh vừa lòng vừa tai thì tôi cứ đứng về phía các anh để lập luận, tranh tụng tại nhà mình mà không có ông thẩm phán toà án nào cả. Nghe xong, có thể các anh phải chịu hoàn toàn án phí và không được chửi tôi là thằng Ba Phải nhá. Nếu bằng lòng như thế thì tôi sẽ thay mặt các anh làm đơn, đứng nguyên đơn khởi kiện ra toà án dân sự của quận ngay không cần phải đắn đo gì nữa. Được không?
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 46. Hai bà cháu ra toà Chiểu theo giấy gọi của toà án dân sự quận, bà Thọ và cái Ngọ phải có mặt ở toà vào hồi 8 giờ sáng. Nhưng vì đường phố đông đúc, xe cộ thường bị tắc vào giờ cao điểm, hai bà cháu thức dậy từ 5 giờ, nấu ăn sáng cho chắc dạ, rồi đi ra khỏi nhà. Đến bến xe bus, cái Ngọ tìm cho bà chỗ ngồi có mái che nhưng giờ này sinh viên đi học đông quá, nếu ngồi ghề thì xe đến không kịp lên, có thể nhỡ giờ ở công đường nên bà Thọ cứ kiên trì đứng ở mép hè. Khi xe đến, cái Ngọ đưa bà vào sát cửa ở trong trạm đợi xe rồi dùng cả hai tay đẩy mông cho bà lên trước. Khi bà Thọ có chỗ đứng ở trong xe hẳn hoi, cái Ngọ mới đu người nhảy lên. Cũng lúc ấy xe chuyển bánh và cánh cửa xe khép lại kẹp chặt lấy vạt áo phía sau của cái Ngọ. Người phụ xe lợi dụng tình thế cái Ngọ mắc kẹt, anh lơ xe lợi dụng thời điểm hiếm hoi đó cứ vòng tay qua lưng cái Ngọ kéo ghì vào người anh ta. Trong khi đó, miệng anh lơ xe cứ cuốn lên với lời lẽ vừa rẻ vừa thô lỗ, làm cho cái Ngọ ngượng chín cả mặt. Chỉ trong vòng hơn mười phút mà cái Ngọ có cảm giác như bị tra tấn về cả tinh thần và thể xác. Xuống xe hơn năm phút cái Ngọ mới hoàn hồn. Bà Thọ lấy làm tiếc vì không có cách gì giải thoát cho cháu. Bà nói: - Biết thế, lúc sáng bà cháu mình gọi tác taxi mà đi thì hơn. Cái Ngọ lại động viên bà: - Vất vả một tý nhưng đỡ tốn tiền bà ạ.Tội gì phải mất tiền oan. Việc phải ra hầu toà đối với bà Thọ không có gì nghiêm trọng bởi vì bà biết đây là giấy mời của toàn dân sự cấp quận. Tuy bà là bị đơn nhưng bà không có tâm lý sợ sệt và lo lắng gì. Nhưng với cái Ngọ thì khác. Đây là lần đầu tiên cái Ngọ đến trước công đường xem toà xét xử. Nó cứ tưởng tượng ra cảnh người ta đưa bà ra trước vành móng ngựa. Khi toà gọi đến tên thì phải thưa. Khi muốn nói thì phải có lời thưa bẩm và xin phép. Khi toà ngắt lời thì đập miếng gỗ xuống mặt bàn nghe như tiếng súng lục nổ khiến bà giật mình. Tim bà sẽ đập nhanh lên và huyết áp của bà tăng lên. Lúc ấy có thể bà gục ngã ở vành móng ngựa mất. Sáng nay, cái Ngọ đã cẩn thận mang viên thuốc Concor để hạ nhịp tim cho bà. Nó còn cẩn thận rót nước sôi để nguội vào một chai La-vie để cấp cứu khi bà bị tăng nhịp tim và huyết áp. Cái Ngọ cứ vẩn vơ nghĩ: sao bà lại phải ra toà nhỉ? Bà có tội tình gì đâu, bà có vay mượng, nợ nần tiền bạc của ai đâu? Mà sao người kiện bà ra toà lại là hai chú con trai của bà? Hay là bà mang cái nợ đời từ ngày nào đến nay trời mới bắt tội? Nghĩ thế nhưng cái Ngọ lại tự bào chữa cho bà Thọ. Nó nói thầm: Sao trời không có mắt? Bà Thọ thảo hiền trung thực, thẳng thắn, gần tám mươi tuổi mà trời không buông tha? Sao lại phải bắt bà ra chốn công đường? Hai con trai kiện mẹ, đưa mẹ ra toà, vậy thì tình cảm gia đình có như người dưng nước lã không? Việc như thế này từ thuở lọt lòng mẹ đến giờ Ngọ mới gặp. Eo ôi! Người ở phố sao lại cạn tàu ráo máng với nhau thế nhỉ? Ở quê Ngọ tuy con người cũng ở mỗi người mỗi nhà, chết mỗi người một mồ nhưng vắng anh em xa có láng giềng gần, thường cho nhau bát canh qua bờ rào, tối lửa tắt đèn có nhau. Nghĩ vậy, cái Ngọ cứ cầu trời khấn Phật trong óc mong sao cho bà Thọ thắng kiện. Nếu bà mà thua thì thật là “Trời không có mắt”. 47. Cái lý của người mẹ Đúng chín giờ sáng công đường mở cửa, bà Thọ dắt cái Ngọ vào trong phòng xét xử. Phòng vắng. Hai bà cháu được hướng dẫn cho ngồi ở một hàng ghế bên bị. Ở phía bên nguyên chỉ có một người đàn ông trạc hơn bốn mươi tuổi mặc áo quần kiểu Tây, thắt caravat màu đỏ. Hội đồng xét xử có tới bốn người. Ba người ngồi ghế chủ toạ, một người ngồi ghế cong tố viên ở bên cánh phải. Chủ toạ phiên toà là thẩm phán Lê Công. Chủ toạ lắc chuông báo hiệu đến giờ làm việc và dõng dạc nhắc nhở cả hai bên nguyên và bên bị một số quy tắc làm việc của Hội đồng xét xử. Đó là tất cả phải tôn trọng pháp luật cụ thể là theo luật dân sự, luật thừa kế, luật hôn nhana và gia đình đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua. Ở tại toà ai muốn phát biểu phải xin phép và được chủ toạ đồng ý. Không gây rối, nói năng thô lỗ và xúc phạm danh dự của nhau. Cả hai bên đều có quyền kháng án đối với bản án đã tuyên và có quyền cáo tỵ thẩm phán chủ toạ và hội đồng xét xử nếu thấy toà xét xử không vô tư, thiên vị không có căn cứ pháp lý… Khi chủ toạ hỏi: Các đương sự đã nghe rõ quyền và nghĩa vụ của mình chưa thì bà Thọ xin hỏi: - Thưa quý toà! Ai kiện và bắt tôi ra toà hôm nay ạ? Vị chủ toạ cầm tờ đơn lên tay và đọc: - Nguyên đơn là Đỗ Tắc Nhân, 41 tuổi và Đỗ Quả Báo, 39 tuổi đều là con trai của ông Đỗ Sinh Thọ và bà Chu Thị Hoà. Hai ông Nhân và Báo kiện về tài sản thừa kế… Bà Thọ hỏi: - Con trai tôi đâu? Chủ toạ đáp: - Hai con trai bà có giấy uỷ nhiệm cho văn phòng luật sư làm người đại diện pháp luật. Vị luật sư ấy đã có mặt. Luật sư Vũ Ba Phải, yêu cầu ông xuất trình giấy uỷ nhiệm của thân chủ và chứng chỉ hành nghề của ông để toà xem xét. Luật sư Vũ Ba Phải mang bộ giấy tờ cần thiết trình với ngài thẩm phán Lê Công. Ngài thẩm phán đọc lướt qua rồi tuyên bố chấp nhận để luật sư Ba Phải được làm người đại dienẹ cho hai nguyên đơn. Đến lượt toà hỏi bà Thọ: - Bà xuất trình giấy tờ tuỳ thân để toà xem xét! Bà Thọ trả lời: - Thưa toà, tôi không có giấy tờ nào để tuỳ thân cả. Tôi đi đâu cũng chỉ có đứa cháu đi tuỳ thân thôi ạ! - Chứng minh thư của bà đâu? Bà Thọ chậm dãi trả lời: - Thưa quý toà, cách đây gần một năm, chồng tôi mất. Tôi gửi ông ấy cái chứng minh thư để ông ấy nhớ tìm tôi ở dưới âm phủ. Vâng! Thưa toà, tôi đã nhập tịch ở bên ấy rồi ạ! - Bà mang theo hộ khẩu hoặc một loại giấy tờ gì khác, chẳng hạn như sổ đỏ của ngôi nhà hoặc sổ hưu để lĩnh lương chẳng hạn? Bà Thọ trả lời cứng cỏi hơn: - Thưa quý toà, tôi là người lương thiện, sống có địa chỉ do chính quyền quản lí. Bỗng dưng có người kiện tôi ra toà. Nếu toà muốn xử thì toà phải đi xuống tổ dân phố, xuống phường, gặp công an để điều tra xem tôi có phải là người bị kiện không? Tôi xem phim trên truyền hình thấy ông Bao Công cũng làm như thế. Sao quý toà không làm như Bao Công cho dân chúng tôi được nhờ. Bà Thọ càng nói càng tỏ ra mẫn tiệp. Bà lại hỏi: - Thưa quý toà, hôm nay toà đưa việc các con tôi kiện mẹ ra toà, đòi đuổi tôi ra khỏi nơi tôi đang sinh sống, tôi rất muốn nhìn tận mặt con tôi ở đây xem nét mặt nó còn giống khi tôi cho chúng nó bú mớm hay là nó đã thành người khác rồi! Thưa ông chủ toạ và ông luật sư: Trong đời các ông đã có lần nào đưa mẹ đẻ ra toà chưa? Thế thì các ông phân xử làm sao công bằng được. Ông luật sư thì vì tiền mà cãi. Còn ngài thẩm phán thì vì cái gì mà xử? Hãy cho tôi đối chất trực tiếp với con tôi một lần rồi ngài luật sư hãy đứng ra bảo vệ các thân chủ. Nói xong, bà Thọ bước ra khỏi hàng ghế trước mặt vị thẩm phán. Vừa đi bà vừa nói: Xin các ngài cho tôi về. Tôi xin cảm tạ.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 48. Bao Công đi đêm Đọc đơn kiện của hai nguyên đơn Đỗ Tắc Nhân và Đỗ Quả Báo, thẩm phán Lê Công cũng nhận thấy khó xử. Nếu vhỉ có tình tiết ông chồng bà Thọ khi qua đời không có di chúc cho thừa kế thì cả bốn người con của ông Thọ đều có quyền hưởng thừa kế và được xếp vào hàng thừa kế thứ hai, sau bà Thọ. Tuy hai người con gái từ chố không nhận thừa kế nhưng như thế không có nghĩa là hai người con trai được hưởng cả phần quyền thừa kế của hai người chị. Biết đâu, hai người chị lại hiến phần thừa kế của mình cho người khác thì sao? Điều quan trọng là bà Thọ đang sống tại căn nhà ấy và đến nay, bên nguyên đơn vẫn chưa đưa ra được căn cứ pháp lý về sự đóng góp của họ để xây dựng khối tài sản đó. Mọi giấy tờ hợp pháp về căn nhà do bà Thọ đang giữ đó là những khó khăn khiêế cho thẩm phán Lê Công còn băn khoăn, lúng túng. Trong khi đó, luật sư Vũ Ba Phải lại đang tích cực hoạt động hành lang để thúc đẩy cho việc xử kiện nghiêng về phía nguyên đơn. Kinh nghiệm nghề nghiệp của luật sư Vũ Ba Phải là lôi kéo thẩm phán thụ lý vụ án theo sự hoa tiêu của luật sư, tạo điều kiện để đương sự gặp được thẩm phán với một thảo luận ngầm. Thoả thuận đó là câu châm ngôn có từ thời xa xưa của các quan phụ mẫu xử kiện: “Của đồng chia ba, của nhà chia đôi”. Căn nhà của bà Thọ là của nhà. Nếu xử cho anh em nguyên đơn thắng kiện thì người xử sẽ có một nửa. Cái giải thưởng này thật là hấp dẫn, nhưng quả là khó nuốt. Vả lại đấy mới là lời ngỏ ý của luật sư. Chắc gì hai đương sự đã chịu trả giá như vậy. Việc thoả thuận này cần phải có đủ ba mặt một lời và phải có sự ràng buộc lẫn nhau. Suy đi, tính lại, thẩm phán Lê Công quyết định cùng luật sư Vũ Ba Phải đi gặp đương sư. Địa điểm gặp nhau lúc đầu dự định tại phòng VIP của một nhà hàng sinh thái ở một vùng giáp ranh giữa hai tỉnh. Theo luật sư Vũ Ba Phải thì ở vùng giáp ranh nó như cái sân chùa có nhiều bà vãi và chú tiểu, ai cũng nghĩ đã có người khác lo quét chùa nhưng thực ra chẳng ai động chổi gì cả. Bởi thế sân chùa lại là nơi nhiều rác bẩn. Ở các vùng giáp ranh thì tỉnh này lại ngỡ tỉnh kia quản lí nên các loại tội phạm thường tụ tập về đây ăn chơi; thực ra là chốn chín người mười làng, dễ trà trộn và ẩn náu. Nhưng ông thẩm phán Lê Công lại giàu trí cảnh giác quá. Ông bảo: “Những chỗ ăn chơi như ghế chính là bãi thả chim mồi của công an đấy. Có khi họ còn gắn ca mê ra ghi hình cả cả gắn rệp ghi âm các cuộc gặp mặt mờ ám. Đến đấy thỉ chẳng khác nào “thưa ông tôi ở bụi này”. Theo tôi thì tốt nhất ta cứ đến thẳng nhà đương sự”. Cuộc gặp mặt ở nhà đương sự thật là “nhất cửa lưỡng tiện”. Ông thẩm phán có dịp “mắt thấy tai nghe” mặt hàng của ông luật sư Vũ Ba Phải. Nếu đúng là “hàng hiệu” thì việc làm án nó cũng thêm động lực, thêm quyết tâm. Vị thẩm phán và luật sư đã “xăm xăm băng lối vườn khuya gập gềnh” đến nhà nguyên đơn Đỗ Tắc Nhân. Ngôi nhà toạ lạc ở một thửa đất riêng, xung quanh có hàng rào sắt nhọn, có cổng sắt cao, rộng, lúc nào cũng đóng kín. Hai người được mời lên phòng khách ở tầng hai để đàm đạo. Ông luật sư vào để: - Việc thụ lí vụ kiện của hai ông có một số tình tiết phức tạp, bất lợi cho bên nguyên. Ông thẩm phán đã đi điều tra ở cơ sở rồi, bây giờ muốn bàn với hai ông cho dứt khoát cái khoản lại quả. Ông Nhân tỏ ra biết điều; - Vâng! Thưa anh. Ý anh thế nào anh cứ cho ý kiến ạ! Thẩm phán Lê Công nói: - Việc sử dân sự thường diễn ra ba giai đoạn chính. Giai đoạn một là thụ lý hồ sơ, điều tra tìm chứng lí mới đưa ra xử. Công việc này chỉ có thẩm phán làm, nên có chế độ riêng. Giai đoạn hai là xét xử. Đoạn này có bốn người tham gia, ba của toà và một của viện… Phải có sự đồng tình thì mới ra được án văn. Chế độ chính là công đoạn này. Theo thông lệ thì cứ có án văn là phải chi ngay. Còn giai đoạn ba là dành cho khâu thi hành án. Ông phải làm việc với đội thi hành án. Phần của tôi là ra cho ông án văn như yêu cầu của nguyên đơn. Cuộc thoả thuận còn chưa ngã ngũ thì có tin bà Thọ đi cùng chị con gái cả đến nhà chơi. Tình thế quả là bất lợi. Bên bị đơn gặp thẩm phán và luật sư ở nhà nguyên đơn. Việc này nếu vỡ lở ra thì nguy to. Nghĩ vậy, thẩm phán Lê Công đề nghị ông Nhân chủ nhà thả chiếc thang nhôm ngoài hành lang cho ông thoát hiển xuống vườn rồi ông ra khỏi cổng về ngay. Ông thẩm phán Lê Công để lại nhà nguyên đơn cả đôi giày da đen bóng lộn ở chân cầu thang. 49. Mua đứt bán đoạn Cuộc hợp đồng tay ba gồm nguyên đơn, luật sư và thẩm phán tuy có gặp trắc trở nhưng vẫn đi đến thống nhất. Quyền và nghĩa vụ từng bên được xác lập rõ ràng. Ông thẩm phán đảm nhiệm hai công đoạn chính. Sau khi hoàn thành công đoạn điều tra thu thập chứng cứ, ông sẽ được nhận một khoản bồi dưỡng tương đương với năm cây vàng. Việc áp dụng các điều luật, viết xong án văn được khoán với giá 10 cây. Tổng cộng nếu hoàn thành trọn gói vụ kiện thì gia chủ phải chi tới 20 cây vàng. gần bằng một nửa số tài sản mà bà Thọ đang chiếm giữ. Anh em Nhân và Báo mỗi người còn lại 10 cây vàng. Những người trong cuộc thấy việc ăn chia như vậy là thoả đáng. Người làm việc nhiều được trả công nhiều. Người chiếm đoạt được tài sản của mẹ cũng tự bằng lòng vì đã giành lại khối tài sản trong tay vợ chồng lão nhà quê vai u thịt bắp. Nhưng việc chuyển giao tiền hay vàng từ nguyên đơn cho ông thẩm phán mới thật nan giải. Luật sư Vũ Ba Phải đề nghị phương thức mua đứt bán đoạn nghĩa là khi tiền trao thì cháo múc. Nhưng cả hai anh em Nhân và báo đều viện lí do là không có tiền ứng trước, xin để xong vụ kiện sẽ bán căn nhà rồi thanh toán luôn một thể. Từ những bài học kinh nghiệm nghề nghiệp, ông thẩm phán Lê Công hỏi lại: - Khi xử xong vụ kiện, anh không trả công tôi theo hợp đồng thì tôi trắng tay à? Có gì làm căn cứ để tôi đòi lại tiền như đã thoả thuận? Nguyên đơn Đỗ Tắc Nhân thề: - Thề với anh rằng em mà làm sai hợp đồng thì sẽ bị trời chu đất diệt. Thẩm phán Lê Công lại nói: - Đã thống nhất phương thức mua đứt bán đoạn thì cứ trả tiền rồi mới ăn bánh sau này đỡ phiền toái. Đến ngay cả cái việc vay tiền của nhau, nếu không có chứng cứ còn chẳng đòi được nữa là. Nguyên đơn lại nghĩ cách khác: - Hay là em viết giấy vay của anh số tiền ấy, nếu em không trả thì anh cứ đưa ra toà mà truy tố. Ông thẩm phán vẫn lắc đầu nói: - Không được, người ta sẽ hỏi tôi cho anh vay làm gì? Khi nào? Rồi người ta tìm ra đây là cuộc đóng kịch vay mượn thì tôi mất hết. Anh có biết một năm tôi xử bao nhiêu vụ án không? Tôi mất quyền xét xử là trắng tay anh hiểu không? Cuối cùng, luật sư Vũ Ba Phải cũng phải khuyên thân chủ rằng: Đã đi kiện thì phải lo tiền lót. Xã hội thời kỳ kinh tế thị trường là đồng tiền đi trước - đồng tiền khôn. Các vị chức sắc có ai thả chim ra khỏi chuồng rồi đi đuổi bao giờ. Đến lượt nguyên đơn hỏi lại: - Thế tôi xuống tiền mà việc không xong thì tôi hỏi ai? Đòi ai? Nếu tôi nói là đưa cho thẩm phán để xử cho tôi thắng kiện thì các ông khép cho tôi vào tội vu cáo cán bộ. Lúc ấy tôi biết kêu ai? - Luật sư Vũ Ba Phải thấy thân chủ cũng có lý. Bởi vì các vị quan toà chỉ trọng chứng chứ không trọng cung. Không có đủ chứng lý thì toà giết như giết rệp, cãi làm sao được. Nguyên đơn còn hỏi: - Nếu mua đứt bán đoạn mà ông thẩm phán chỉ làm xong hồ sơ, lấy 5 cây vàng rồi ngài không xử được thì tôi dùng làm giấy lộn à? Đến công đoạn hai, tôi phải chi 10 cây vàng mà bản án không thể thi hành được thì tôi mua để làm gì? Cả nước đang có hàng chục ngàn bản án không đủ điều kiện thi hành. Mua đứt bán đoạn những việc nửa chừng, nửa đoạn thế thì có khác nào thả chim ra để đuổi.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 50. Tài khoản trung gian Giải pháp mua đứt bán đoạn mà ba bên gồm ông thẩm phán Lê Công, ông luật sư Vũ Ba Phải và hai anh em Đỗ Tắc Nhân con trai bà Thọ không thể thống nhất để thực hiện được. Với kinh nghiệm làm ăn nhiều năm ở hành lang các công đường, luật sư Vũ Ba Phải để nghị: - Tôi có cách này có thể phù hợp với cả hai bên và tránh được tình trạng bên cầm chuôi, bên kia cầm lưỡi. Mong mọi người cùng suy nghĩ. Thẩm phán Lê Công bồn chồn, bứt rứt như có kiến đốt. Ông nghĩ ông là người có công nhất trong việc xử vụ án này. Ông có đủ căn cứ pháp lý để bác đơn kiện của anh em Đỗ Tắc Nhân và bắt nó phải nộp án phí dân sự. Nhưng nhờ có tay luật sư Vũ Ba Phải, ông đã phải về tận phường điều tra, nghiên cứu hồ sơ của bà Thọ. Ông đã tìm ra một kẽ hở quan trọng khiến ông có thể lật ngược thế cờ. Và chỉ ông mới có thể làm được việc đó. Vậy mà, giờ này đương sự dám tự cho được ngang hàng với ông, tự chọn vị thế chủ động để dồn ép ông, đẩy ông từ một quan toà trở thành người làm thuê lấy tiền. Ông Lê Công thấy như đã bị xúc phạm. Ông muốn phá bỏ cái hợp đồng ma quỷ ấy đi cho rảnh nợ. Cái hợp đồng mà vì nó ông có thể mất đi một tước vị danh giá: thẩm phán toá án nhân dân quận. Muốn có danh phận ấy, ông đã phải mất hơn hai mươi năm gắn bó với ngành toà án, lại phải học bốn năm ở trường Đại học luật. Chức danh thẩm phán của ông là do Chủ tịch nước bổ nhiệm chứ chẳng phải chơi. Thế mà, đương sự lại cò kè mặc cả với ông. Họ lại biến ông thành một món hàng. Ngay cả khi ông đứng dưới Quốc huy, tuyên một án văn ông cũng bị người ta coi như một màn trò. Điều ấy làm ông đau đớn. Sau cuộc tuyên xử “trang trọng” này, những người hiểu biết câu chuyện sẽ nói gì về ông? Nghĩ ngợi, rồi thẩm phán Lê Công tự vượt chính mình. Cái bức tường rào chắn bằng hai mươi cây vàng quả là một chướng ngại lớn. Hai mươi năm nay, ông Lê Công chưa có cơ hội nào để có một khoản tiền lớn như vậy. Và cũng chưa có một tình huống nào dễ xoay chuyển từ không thành có như vậy. Khả năng quyền biến của ông có thể từng bước chuyển vụ án từ trái sang phải và không ai có thể biết. Chỉ có lương tâm người trong cuộc sẽ phải thường xuyên đối mặt với chân lý, với lẽ phải. Lương tâm là chốn pháp đình uy nghiêm khiến cho người quan toà nhìn thấy quỷ dữ cho dù nó được che đậy bằng cái gì. Nhưng trót vì tay đã nhúng chàm. Thẩm phán Lê Công đã từng bày mưu ma chước quỷ để giúp hai người con trai bà Thọ lấy đi tấm lòng thơm thảo mà ông và bà đã tích góp hơn 40 năm. Chính ông ta đã nhận trọng trách điều tra và lập thành án văn chấp nhận vụ kiện đòi thừa kế của hai người con trai tham lam và bất hiếu của bà Thọ. Ông đã đòi tạm ứng năm cây vàng làm tin và bây giờ thì chính thẩm phán Lê Công thành con tin. Danh dự sự nghiệp của ông đã nằm trong tay người có tiền. Họ muốn ông làm gì, chắc nào ông đã cưỡng lại nổi. Cuối cùng thẩm phán Lê Công phải chấp nhận một tài khoản trung gian ký gửi một ngân hàng. Anh em Đỗ Tắc Nhân phải chuyển toàn bộ tiền công của ngài thẩm phán vào đó để bảo lãnh cho công việc của ngài thẩm phán. Chỉ có điều ngài thẩm phán không được rút ra ngay như các khoản tiền tươi thóc thật khác mà khi nào rút thì phải có đủ ba chữ ký: đó là chữ ký của thẩm phán Lê Công, chữ ký của đương sự Đỗ Tắc Nhân và chữ ký của chân gỗ, luật sư Vũ Ba Phải. Thiếu một trong ba chữ ký thì không ai rút được tiền khỏi tài khoản. 51. Bị đơn lỳ Bà cụ Thọ linh cảm thấy việc kiện đòi thừa kế của hai anh con trai Nhân và Báo có nhiều điều khuất tất. Ông Thọ mới quy theo tiên tổ, bà cụ Thọ còn đang sống, lẽ ra việc quyết định về gia sản phải do cụ bà đảm trách. Vì sao anh Báo và anh Nhân phải vội vàng đòi chia thừa kế? Anh Báo và anh Nhân cùng vin vào lí do bà cụ Thọ có thể đột ngột ra đi, nếu không chia thừa kế sớm, e sau khi cụ bà ra đi sẽ nảy sinh những tình tiết mới, pháp luật sẽ khó phân xử. Đấy là về lý, còn về tình thì cả hai anh đều muốn cụ bà Thọ về ở cùng để phụng dưỡng mẹ, không muốn khi mẹ già khuất núi lại không có mặt con. Cái nguyên cớ này mới nghe ai cũng nghĩ rằng hai anh rất hiếu đễ, nhưng đằng sau cái chiêu bài nguỵ trang ấy, cụ bà Thọ đã nhìn thấy rõ ý đồ của hai người con dâu. Họ đang buôn xuôi bán ngược. Nay ở cửa khẩu biên giới này mai về chợ vải Ninh Hiệp hay chợ Bắc Qua. Họ đã từng mời mẹ về và đem theo cái Ngọ giúp việc để họ đưa cái Ngọ đi làm “hàng” giải đen cho mấy trạm kiểm soát liên ngành hoặc mấy thằng ban buôn thèm gái trẻ để được “phá trinh”. Gả bán được con bé một lần bằng lãi cả một chuyến buôn nên họ ráo riết săn đuổi con bé. Ngoài ra, việc phụng dưỡng mẹ chồng đối với họ chỉ là món hàng xa xỉ. Một tháng họ ở nhà với chồng còn chẳng được mười đêm thì mẹ chồng váng mình sốt mẩy có nghĩa lý gì? Bà cụ Thọ nghĩ vậy nên đã chia phần tiền hỗ trợ cho hai anh cưới vợ, làm nhà riêng nên căn nhà này là của riêng hai cụ. Đất làm nhà bà do cơ quan cấp thanh lý từ nhà tập thể. Vật liệu xây dựng nhà, tiền công thợ, tiền mua vật tư gỗ, cửa…đều do cụ bà Thọ bỏ tiền mua. Mọi hoá đơn chứng từ cùng với giấy cấp nhà của cơ quan đều mang tên cụ bà Thọ và cụ còn lưu giữ đầy đủ. Cụ Thọ đã cất kỹ các loại giấy tờ này từ khi hai anh con trai xin mẹ chia thừa kế. Lý trí của người mẹ mách bảo với cụ Thọ rằng cả hai người con trai cụ không làm nổi bổn phận người con. Họ đã bị ma lực của đồng tiền lôi kéo, tha hoá… Bố ốm liệt giường hàng năm nhưng họ không nghỉ nổi một chuyến hàng. Tháng đôi ba lần đến nhà thăm bố nhưng họ chưa tắm, lau cho bố lấy một lần mà chỉ đưa cho mẹ ít đồng chi tiêu và coi mẹ như một thứ ô sin. Bởi thế khi cụ ông Thọ mất, cả hai anh con trai đều vắng mặt. Bà cụ Thọ héo cả ruột gan vì nỗi không phải hai con bận công to việc lớn của Nhà nước mà chỉ vì cả hai anh vừa đi buôn vừa xanh giữ cái của quý cho vợ. Mà canh vậy thôi chứ nào có giữ nổi. Chỉ một cút rượu với đĩa vó bò là người ta khiêng cả nhà đi cũng chẳng biết. Chẳng thế mà có chuyến buôn ngược Lào Cai, anh con trai uống rượu say quá con tàu đến ga cuối cùng rồi quay về Hà Nội, đến ga Phú Thọ anh mới biết. Những chuyến đi như thế làm cho bà mẹ càng xót xa. Với giác quan của người mẹ, bà cụ Thọ có linh cảm như cái gia đình của con trai chỉ là sự lắp ghép hững hờ, khó bền chặt được. Nay lại thấy ông luật sư, ông thẩm phán sốt sắng muốn chia nhanh thừa kế cho hai anh con trai, bà cụ Thọ biết có chuyện chẳng lành. Hình như họ đang mượn danh luật pháp để hù doạ bà, dồn ép bà. Thế thì bà cụ Thọ cũng thách đố đấy, xem họ làm được gì nào? Ai có tài, có giỏi thử ra quyết định cưỡng chế, đưa bà ra khỏi căn nhà này đi. Bà già rồi, bà không còn gì để mất nữa. Bà sẽ sống mái với những mưu mô của cái liên minh ma quỷ của họ. Nghĩ vậy nên đã hai lần bà cụ Thọ nhận được trát mời của ông Lê Công ra toà nhưng bà cụ Thọ đều mượn cớ yếu mệt không ra. Lần thứ ba nhận giấy mời, bà cụ Thọ đến toà rất đúng giờ. Khi thẩm phán Lê Công hỏi: - Bà có mang theo giấy tờ để xác nhận giá trị ngôi nhà, tài sản chung của bà và chồng bà không? - Vợ chồng tôi ở đây, đẻ ra hai nguyên đơn ở đây, nuôi họ lớn lên ở đây, cưới vợ cho họ ở đây. Hơn ba mươi năm rồi cần gì giấy tờ? Rồi bà cụ Thọ thủng thẳng hỏi lại ông thẩm phán Lê Công: - Thưa quý toà, làm ơn cho tôi hỏi một câu ạ! - Vâng, bị đơn được phép hỏi. - Thưa quý toà! Trong Bộ luật Dân sự có một điều nói rằng: “Những tài sản chiếm hữu ngay tình và công khai thì sau 30 năm được coi là sở hữu của người chiếm hữu”. Không biết đấy là điều bao nhiêu thưa quý toà. Nếu vợ chồng tôi chiếm hữu hơn 30 năm qua mà chính quyền địa phương không cản trở, các hộ liền kề không khiếu kiện thì đó là tài sản hợp pháp của tôi chứ ạ! - Nhưng đó là tài sản chung của cả gia đình. Các con bà yêu cầu chia thừa kế nên toà phải giải quyết. Bà cụ Thọ lại hỏi: - Chia xong thừa kế thì tôi ở đâu? Thưa quý toà. - Bà sẽ ở với một trong hai con trai. Họ có đủ cơ sở vật chất để phụng dưỡng mẹ. Bà cụ Thọ nói: - Nếu có vật chất mà không có lòng kính trọng yêu thương mẹ thì vật chất mà làm gì thưa ông Thẩm phán? Nói xong bà cụ Thọ xin phép nghỉ vì lí do sức khoẻ. Bà cụ đứng dậy đi ra khỏi pháp đường để mặc ông thẩm phán và luật sư Vũ Ba Phải đứng nhìn nhau tưng hửng và bất lực. 52. Ông thẩm phán “xù” Thẩm phán Lê Công không ngờ bà cụ già gần 80 tuổi lại “rắn” đến thế. Thì ra, hai phiên trước bà không đến toà là do sự hiểu biết pháp luật chứ không phải do sức khoẻ. Tại phiên xét xử đầu tiên bà đã làm cho chủ toạ phiên toà phải cứng họng. Rồi với lí do sức khoẻ, bị đơn đã chủ động kéo dài vụ án. Cách ứng xử của bà cụ Thọ khiến cho thẩm phán Lê Công phải suy nghĩ lại. Ông tiên lượng rằng bà cụ Thọ còn giữ kỹ một số chứng cứ pháp lý. Vì việc điều tra xét xử còng bộc lộ một số yếu điểm. Rõ rệt nhất là ý định muốn đánh nhanh thắng nhanh nên ông đã tới tấp viết giấy mời bà cụ Thọ trong ba tuần lễ liên tiếp. Người ta se nghĩ ngay tới việc làm khoán, xử án khoán, xử cho xong việc, xong sớm nghỉ sớm. Rồi từ đó người ta sẽ suy luận rằng ông đứng toà xử thuê nên mới có sự nhiệt tình dạt dào như vậy.Cái chiến thuật tốc chiến tốc thắng của thẩm phán Lê Công và luật sư Vũ Ba Phải đã bị phá vỡ. Bà cụ Thọ đã có kế sách lui binh đúng pháp luật. Cứ đà này, mỗi phiên xét xử, bà cụ Thọ lại xuất trình thêm tình tiết mới hoặc bị đơn chờ xét xử xong rồi kháng án và xuất trình chứng lý với cấp toà phúc thẩm. Khi ở cấp xét xử phúc thẩm, với những tình tiết mới, người ta huỷ án sơ thẩm, yêu cầu xử lại. Đến lúc ấy thì vừa mất ăn, vừa phải làm dưới sự giám sát của hội đồng thẩm phán, làm sao có thể bẻ cong công lý? Vậy là vụ án dân sự bình thường này đã trở thành không bình thường. Nói theo ngôn ngữ của bọn du côn là vụ này có thể “gãy răng”. Ông thẩm phán Lê Côgn thấy mình cũng phải đặt lên bàn cân để tính toán, cân nhắc lại. “Nếu vụ án được xử bình thường theo ý của ông phán quyết, việc thi hành án diễn ra suôn sẻ thì một trong hai người con trai của bà cụ Thọ chỉ cần rước bà mẹ về để phụng dưỡng. Thế là xong. Vừa được tiếng là con có hiếu, lại không cần tới chế tài pháp luật. Bà mẹ (tức là bà cụ Thọ ) dọn về ở với một trong hai đứa con trai và giao uỷ quyền cho hai con trai bán căn nhà ấy. Hai người con trai sẽ bán được ngay và giải tán ngay cái tài khoản trung gian. Ông thẩm phán cầm tay hai mươi lượng vàng êm, gọn, không vướng bận tâm tư. Toà phúc thẩm không phải xem xét gì nữa. Ông thẩm phán sẽ không phải ngoại giao hành lang với ông thẩm phán của toà phúc thẩm. Ngộ nhỡ ông ấy không xuôi thì vụ việc vỡ lở ra, mọi sự sẽ mất hết”. Suy đi, nghĩ lại ông Lê Công đành phải tính tới nước lùi. Nếu đến phiên xử tới, ông sẽ bác đơn kiện đòi thừa kế của hai người con trai. Đó là cách rút lui an toàn nhất, dễ nhất mà ông có thể chọn được. Sau khi chọn giải pháp bác đơn của hai nguyên đơn Đỗ Tắc Nhân và Đỗ Quả Báo, ông thẩm phán Lê Công gọi luật sư Vũ Ba Phải đến để dàn xếp. Luật sư đề nghị: - Tiền đã gửi vào tài khoản, tốt nhất là anh nên xử như đã bàn để lấy cái phần đã làm. Còn họ kháng án lên phúc thẩm là chuyện mới phát sinh, chưa có trong hợp đồng. Thẩm phán Lê Công biết không thể ngăn nổi nên nói: - Thôi thôi! Ông nói với đương sự tính trả tôi một phần công điều tra và nghiên cứu rồi tôi sẽ ký giải ngân cho. Bằng không thì tài khoản trung ấy coi như bị phong toả. Tôi không ký thì cứ để tiền nằm đấy. Sợ gì! Luật sư Vũ Ba Phải sáng mắt lên như vừa mới nhớ ra điều gì. Ông ta để xuất với thẩm phán Lê Công: - Anh cứ xử theo cái án bỏ túi ấy đi. Nếu họ kháng án thì ta trích cái phần còn lại để lo chạy ông thẩm phán xét xử ở toà phúc thẩm. Ai cũng một lần da đến thịt thôi mà. Thẩm phán Lê Công gặng hỏi: - Ông lo chạy việc ấy nhá. Tôi chịu thôi. Cứ theo đuổi với ông thì mất cả chì lẫn chài. Vợ con tôi treo niêu hết cả thì đi đứt.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố Truyện hay quá bạn ơi, thực sự mình rất ít thời gian vào diễn đàn nhưng nếu có là mình lại đi tìm truyện của bạn để đọc. Cảm ơn bạn.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 53. Bàn cân “ảo” của ông thẩm phán Ông thẩm phán Lê Công lấy thói quen cẩn trọng, bình tĩnh để ứng xử với hai nguyên đơn là con trai bà cụ Thọ. Tình thế bắt ông phải dùng tới bàn cân ảo trong đầu để tính toán. Trên bàn cân có hai cái đĩa, một cái ông đặt lên đĩa 10 lượng vàng. Vàng thỏi hình chữ nhật của công ty vàng bạc SJC Phú Nhuận cứ rực lên trong đầu ông một thứ ánh sáng kỳ lạ. Khi thìa nó loé như một bó kim nhọn, sắc đâm thẳng vào đầu óc ông. Khi thì nó mơn trớn, vuốt ve, mời gọi ông. Khi thì nó biến thành một cô gái diêm dúa, khiêu gợi, quyến rũ như một thứ ma lực làm cho ông không sao chống cự nổi. Còn ở cái đĩa cân bên kia, ông Lê Công chỉ thấy có một bản án văn. Bản án văn này ông đã soạn thảo trên máy tính và đã in ra một bản đầu. Tuy ông chưa ký tên, đóng dấu Quốc huy nhưng cái cân nó nặng trĩu, kéo nghiêng cán cân chổng vọt lên trời làm cho các thỏi vàng xô dạt như muốn rơi xuống đất. Theo một quán tính bản năng của con người, thẩm phán Lê Công buột miệng kêu: “Đổ! Đổ!”. Tiếng kêu làm cho ông tỉnh cơn mơ, trở về với thực tại. Ông đọc lại bản án văn in mới thấy văn bản soạn thảo còn nhiều lỗi sót. Dường như ông Lê Công viết nó trong trạng thái tinh thần không ổn định. Ngay từ dòng thứ hai của trang đầu, cái dòng chữ quốc hiệu đã thuộc lòng: “Độc lập - Tự do – Hạnh phúc” Ông lấy bút đỏ chữa lại chữ “lo” thành chữ “do” rồi cảm thấy xấu hổ. “Chẳng lẽ lại lấy thanh danh cao quý của Nhà nước trao cho để “tự lo” hạnh phúc bằng một việc làm đổi trắng thay đen và thất đức, thất nhân tâm như vậy sao?” Đến phần nhận định vụ đòi chia thừa kế của hai người con bà cụ Thọ, thẩm phán Lê Công càng tỏ ra lúng túng. Ông bí từ ngữ đến nỗi có những từ ông phải lặp lại tới nhiều lần. Một thực tế là bà cụ Thọ đã chia cho hai con trai mọi điều kiện tinh thần, vật chất để lập gia đình riêng và đã tách hộ khẩu khỏi gia đình lập hộ khẩu khác. Họ cũng chưa làm bổn phận nghĩa vụ chăm sóc bố mẹ già khi ốm đau. Ông chưa có căn cứ gì để chứng minh rằng khối tài sản mà bà cụ Thọ đang sở hữu là có đóng góp của hai người con trai( nay là nguyên đơn ). Vậy mà, khi bà cụ Thọ chưa xuất trình chứng cứ pháp lý về mua bán vật liệu, thanh toán công xây dựng thì ông đã vội vã đánh đồng cả bị đơn là không có căn cứ bác bỏ sự đóng góp của hai nguyên đơn với khối tài sản. Rồi ông lặp lại một cách nguyên vẹn ý kiến của hai nguyên đơn nói rằng bà cụ Thọ đã bán căn nhà cho vợ chồng ông Bèo và bà Bột mà không có sự đồng thuận của các đồng sở hữu căn nhà. Sau phần nhận định, ông thẩm phán Lê Công nhân danh Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên xử cho bà cụ Thọ được hưởng một phần hai khối tài sản. Phần còn lại là của ông cụ Thọ, nhưng vì ông Thọ mất không để lại di chúc nên các con được hưởng thừa kế. Hai người con gái có đơn từ chối thừa kế nên hai nguyên đơn Vũ Tắc Nhân và Vũ Quả Báo được hưởng cả. Để việc thi hành án thuận lợi, có lý có tình, ông Lê Công còn đưa ra giải pháp là đưa bà cụ Thọ về ở với một trong hai con trai để các con phụng dưỡng khi tuổi già và căn nhà sẽ được phát mại để chia bằng tiền cho thoả đáng. Tuy nhiên, ông thẩm phán vẫn thấy lương tâm cắn rứt. Cái án văn này có thể phù hợp với xu thế mua đứt bán đoạn và ông có thể “hoá phép” để thu về những thỏi vàng ma quái. Nhưng cái vị quan toà thật trong con người ông lại không chấp nhận sự phán quyết ấy. Vị quan toà thanh liêm đặt cho ông một loạt câu hỏi: “Cán cân công lý ta giao cho ngươi chẳng lẽ lại thiên lệch thế sao? Cái giá của một vị quan toà chẳng lẽ lại rẻ rúng thế sao? Sau phiên toà này, có còn ai tin vào chân lý ở chốn pháp đình? Nếu bà cụ Thọ kia là mẹ đẻ của ngươi thì ngươi sẽ hành xử ra sao? Nếu hai nguyên đơn kia là con ngươi thì ngươi, đòi thừa kế với ngươi như vậy thì ngươi sẽ đau đớn xót xa, tủi hổ ra sao?” Thẩm phán Lê Công bị quay cuồng bởi những câu hỏi gay gắt, quyết liệt quanh cái bàn cân ảo mà ông đang dùng để đong đếm cho vụ án này… 54. Ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn Thẩm phán Lê Công như người ở trên võ đài vừa mới trải qua sáu hiệp đấu bốc. Tuy không bị thua nốc ao nhưng mệt mỏi rã rời. Ông bải hoải lê bước vào góc võ đài và ngã vào vòng tay đón nhận của những tấm lòng nhân ái. Bây giờ, ông mới rút ra cho mình một kết luận rất giản đơn. Ấy là phải tự vượt qua chính mình. Phải đánh thắng con quỷ trong người mình để con người trở về với cái chân, cái thiện và cái mỹ. Nói theo cách nói của luật sư Vũ Ba Phải thì ông thẩm phán đã chọn một lối đi an toàn mà chưa bị thương tích. Gọi nôm na là ông đã thua. Miếng ăn đã tới miệng mà lại để tuột khỏi tầm tay. Đối thủ của ông lại chỉ là một bà cụ già, một thường dân. Có người còn độc mồm độc miệng đồ rằng, chỉ cần kéo dài việc thục lý vụ án, chỉ cần mớm cung gài bẫy là có thể dồn bà cụ Thọ vào chân tường. Án sẽ tuyên và việc thi hành án sẽ có thể diễn ra theo hai kịch bản. Một là: Bà cụ Thọ uất ức quá nổi lên một cơn huyết áp tăng-xông và mọi việc sẽ dễ dàng định đoạt. Hai là: Bà cụ Thọ chống án lên phúc thẩm. Ông sẽ tìm đồng minh ở cấp phúc thẩm xử án hoặc trả lại hồ sơ để sơ thẩm xử lại. Vụ án dân sự sẽ chạy như đèn cù. Và thời hiệu của vụ án sẽ hết. Vậy là ông vô can. Tiền, vàng vẫn là của ông. Nhà vẫn tranh chấp. Bụi thời gian sẽ vùi lấp hồ sơ vụ án trong ngăn tủ của ông. An toàn, tuyệt đối an toàn Nhưng sau cú đánh chí mạng trên võ đài, ông thẩm phán đã hạ được đối thủ và bảo vệ được đai đẳng trong chốn pháp đình. Ông Lê Công cảm thấy thanh thản, thoải mái, nhẹ nhàng. Không khí quanh ông đỡ ngột ngạt hơn. Những người xung quanh, những người hâm mộ ông nhìn ông với ánh mắt tin tưởng rộng lượng và chân tình hơn. Thẩm phán Lê Công mở máy tính, đọc lại cái file án văn đã soạn thảo. Ông thẳng thắn dứt khoát xoá đi những điều phi lý mà ông cố ý lập lờ, vòng vo trước đây. Và kết luận cuối cùng của thẩm phán Lê Công là bác đơn kiện đòi thừa kế của hai con cụ Thọ… Soạn thảo xong, ông cầm máy điện thoại phôn cho luật sư Vũ Ba Phải hẹn gặp riêng ông ta ở một địa chỉ kín đáo, xa thành phố. Ông thông báo quyết định mới về vụ án với ông “luật sư chân gỗ” của nguyên đơn. Luật sư Vũ Ba Phải sửng sốt hỏi: - Ơ kìa! Sao anh lại bỏ lõ cơ hội hiếm hoi như vậy? Ông thẩm phán Lê Công mệt mỏi trả lời: - Cổ nhân có câu: “Tham thực thì cực thân”, tôi sợ nuốt không trôi nên chọn kế “tẩu vi thượng sách”. Ông bảo khách hàng của ông gặp tôi để giải phóng cái tài khoản chung ấy đi. Tôi không cần công sá gì của họ nữa. Tôi nghĩ kỹ rồi ông ạ. 55. Vỡ “toà” Lần thứ ba, thẩm phán Lê Công viết giấy mời cả bên nguyên và bên bị tới toà án quận. Theo dự kiến của ông thì khả năng phát sinh tình tiết mới sẽ không diễn ra, hoặc nếu có diễn ra thì chỉ có bà cụ Thọ có thể tung ra căn cứ pháp lý để tự vệ. Nhưng khác với những phiên toà trước, bên nguyên chỉ uỷ quyền cho luật sư tới thì lần này cả hai con trai bà cụ Thọ cùng hai con dâu đã tới toà. Phía bị đơn vẫn chỉ có bà cụ Thọ cùng với cái Ngọ. Hai bà cháu nương tựa vào nhau chầm chậm bước vào phòng xử án. Bà cụ Thọ cho cái Ngọ đeo cái túi giả da vắt chéo qua ngực. Không rõ bên trong có gì mà cái túi căng phồng như không thể đựng nổi bất kỳ cái gì nữa. Riêng bà cụ Thọ chỉ xách theo một chai nước đun sôi để nguội để uống khi toà đang xét xử. Bên nguyên và bên bị ngồi hai dãy ghế đối diện nhau, cùng hướng mặt lên phía hội đồng xét xử. Toà rung chuông báo hiệu đến giờ làm việc. Thẩm phán Lê Công mặc comple đen, thắt caravat màu đào. Ông chải đầu rẽ ngôi bên phải và đeo kính trắng nhỏ, không rõ đó là kính để đọc văn bản hay kính trang trí. Mở đầu phiên toà, sau thủ tục đầu tiên, thẩm phán Lê Công hỏi bên nguyên: - Hôm nay, bên nguyên có bổ sung căn cứ pháp lý gì mới hay không? Luật sư Vũ Ba Phải thay mặt bên nguyên trả lời rằng không có gì mới. Toà quay sang bên bị. Bên nguyên cả hai người con trai cụ Thọ cùng nhìn nhau và đảo mắt nhìn trộm bà mẹ đang bỏm bẻm nhai trầu. Bà cụ Thọ càng tỏ ra bình tĩnh và cứng rắn làm cho hai người con hơi bối rối. Thẩm phán Lê Công hỏi: - Hôm nay, bên bị có chứng cứ pháp lý gì mới để trình bày với toà không? - Dạ thưa tòa có ạ. Ông Lê Công nói: - Bên bị đưa chứng cứ mới cho Toà đi! - Thưa không cần. Những chứng cứ này tôi chỉ đưa cho cấp toà nào không bảo vệ, dung túng cho những đứa con thất đức. Những đứa con thất đức định ăn thịt mẹ không có quyền hỏi tôi ăn cắp sữa của ai cho nó bú! Không có quyền hỏi tôi đã ăn nằm với ai mà sinh ra chúng nó. Ngày xưa con bất hiếu với mẹ vòn bị quan xử phạt tiền và đánh 20 gậy giữa công đường. Sao ngày nay toà lại để cho nghịch từ đòi hỏi ngang ngược như vậy? Thưa quý toà, nếu nay mai con trai quý toà học theo con tôi thì quý toà có còn yêu thương được nó nữa hay không? Thưa quý toà! Muốn cho xã hội yên bình, xã tắc quy củ, gia đình êm ấm thì công đường của quý toà phải giữ cho nghiêm minh, không thể để cho đạo đức băng hoại, phong hoá suy đồi. Sao quý toà lại còn hỏi bọn nghịch tử căn cứ pháp lý để con quay quắt lại với mẹ đẻ? Bởi thế, tôi thấy không cần xuất trình chứng lý với quý toà. Tôi thờ Phật, tôi nghe theo 14 lời răn của Phật, nếu làm ngơ với việc ác thì đó làm tâm xà. Nếu ủng hộ điều thiện, làm việc thì mới là tâm Phật… Ông thẩm phán bị đảo ngôi thành người đang nghe tuyên án. Những lời phán quyết của bà cụ Thọ làm cho tất cả những người ngồi ở phía nguyên đoen đều bỏ chạy ra ngoài phòng xử án. Khi bà cụ Thọ nói xong, ông thẩm phán Lê Công chỉ vớt vát nói rằng: - Vì thế, phiên toà hôm nay sẽ bác đơn đòi chia thừa kế của nguyên đơn đấy. Phiên toà vỡ. Cả cái nghi thức đọc án văn của ông thẩm phán Lê Công cũng không thực hiện được. 56. Chơi luật rừng Nhận được án văn phán quyết của thẩm phán Lê Công, anh em Đỗ Quả Báo càng căm gan tím ruột bàn nhau tìm kế trả thù. Một mặt, Đỗ Quả Báo đòi Lê Công phải ký rút tiền ra khỏi tài khoản trung gian mà không chi trả Lê Công một khoản chi phí nào ngoài mức án phí dân sự. Mặt khác, hai anh em hắn quyết tìm cách trả thù vợ chồng ông Bèo. Việc đầu tiên bọn chúng làm là mua một cái khoá cửa rồi thuê một người ở chợ lao động vẫn đứng đầu phố, chờ ngoài ngõ. Đến đêm, khi vợ chồng ông Bèo tắt đèn đóng cửa đi ngủ thì khoá cửa ngoài lại, giam cả bà cụ Thọ và gia đình ông Bèo ở bên trong. Sáng hôm sau, khi vợ chồng ông Bèo ngủ dậy, mở khoá trong thì mới biết bên ngoài bị khoá. Cả bốn người bị giam ở trong nhà suốt buổi sáng. May mà mỗi tầng đều có khu vệ sinh khép kín, nếu không thì…không biết xử lý chất phế thải ra sao. Giữa buổi sáng hôm ấy, bà cụ Thọ phải gọi điện cho công an phường đến mới giải toả xong. Biết rằng đó là sự trả thù của hai đứa con nên bà cụ Thọ vờ như không biết ai là thủ phạm. Những đêm sau đó, anh em Đỗ Quả Báo còn thuê người trộn phân tươi với dầu luyn quét lên phía ngoài cánh cửa của tầng một nhà ông Bèo. Mùi phân tươi làm cho cả gian nhà bị ô nhiễm trầm trọng. Nhưng tệ hại hơn là việc cọ rửa cánh cửa, bờ tường vô cùng khó khăn. Cái chất xú uế cứ nồng nặc bao trùm khắp gian nhà làm cho bà Bột mấy lần muốn nôn mửa. Cả ngày hôm ấy, vợ chồng ông Bèo cứ phải ra bờ hồ ngồi dưới gốc cây để cố quên đi cái mùi thù hận đang vây hãm căn nhà. Cả hai bữa, vợ chồng ông Bèo đành ăn bánh mỳ thay cơm. Bà Bột lo lắng hỏi chồng: - Cứ thế này mãi thì sống thế nào được nhỉ? Hay là ta đi thuê nhà khác để ở. Ông Bèo phân tích tình hình, nhận định rằng đây là thủ đoạn của hai người con trai bà cụ Thọ. Nếu mình bỏ đi ngay thì trúng kế của chúng. Nếu mình thấy khó mà đi thì để bà cụ Thọ sống ra sao? Ông Bèo nhấn mạnh: - Ở đời có những kẻ khi vui thì vỗ tay vào. Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai. Lúc này chúng ta phải coi bà cụ Thọ như mẹ đẻ của mình, càng phải an ủi động viên để bà vượt qua cơn bĩ cực này. Hai người con trai đã cạn tình cạn nghĩa với bà thì chúng ta càng phải chia sẻ với bà nhiều hơn, nhất là cái Ngọ. Bà cụ Thọ cũng lựa lời an ủi hai vợ chồng ông Bèo: “Tôi biết con tôi đang làm việc thất đức. Có lẽ chúng nó còn mong tôi chết đi cho rảnh. Đau lòng lắm anh chị ạ. Nếu tôi nhờ công an và chính quyền thì chúng nó sẽ vào vòng lao lý. Nhưng có lẽ nào người mẹ lại đưa con vào tù. Thôi! Ta lại vâng lời Phật là lấy ân trả oán thì oán cởi, lấy oán trả ơn thì oán oán trùng trùng. Anh chị hãy giúp tôi gia ân cho chúng nó”
Ðề: Bỏ làng ... ra phố Chờ mấy hôm mới lại được đọc chuyện của mẹ nó. Mẹ nó dạo này bận à, post tiếp đi nhá!
Ðề: Bỏ làng ... ra phố Ừa, dạo này tớ hay bận chút nhưng sẽ cố gắng hết sức để chia sẻ với các bạn. Cảm ơn các bạn đã quan tâm, theo dõi truyện mình post.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 57. Gậy ông đập lưng ông Biết bà cụ Thọ còn băn khoăn day dứt vì hai người con trai tham lam, ích kỷ và mù quáng. Nhưng bà mẹ vẫn còn nặng lòng vừa giận vừa thương. Cụ than thở với bà Bột: “Ngay đến con hổ dữ cũng không ăn thịt con. Mình là người làm thế sao đành”. Bà cụ Thọ âm thầm chịu đựng, không kêu ca, nguyền rủa con đã nhẫn tâm làm điều thất đức, cốt sao không để cho xóm giềng biết. Nhưng bà cụ Thọ lại thương cho cả nhà cái Ngọ. Họ sống chất phác, chân quê nhường dưới kính trên mà bị chính hai con của bà o ép, phũ phàng. Sau lần bị chúng thuê người dùng phân tươi trộn với dầu luyn bôi khắp cửa nhà, bà cụ Thọ quyết lòng tìm mưu ứng phó. Trước hết, bí mật đi đặt một bộ camera giám sát từ trên tầng hai để theo dõi những kẻ khả nghi lởn vởn trước cửa. Bộ máy Tàu nàu tuy rẻ tiền nhưng hiện đại nên chỉ sau một buổi lắp đặt, cụ Thọ và cái Ngọ ở trong phòng đã có thể thấy cả những con chuột chạy ở dưới đường. Người quen đến, cụ Thọ có thể nhận được mặt qua màn hình ti vi. Tiếp đó, cụ nhờ ông Bèo bí mật làm cho một cái bẫy treo một xô nhỏ đựng sơn đen pha với dầu ma dút. Khi có kẻ gian đến cửa làm trò bậy bạ, cụ Thọ chỉ cần giật dây cho xô đựng sơn lập úp, sơn đen và ma dút sẽ chụp lên người tên đạo tặc. Tiếp đó,cụ Thọ sẽ điện cho một số người cùng tổ dân phố chặn đầu, khoá đuôi để bắt giữ kẻ xấu. Mọi việ trong kế hoạch “phòng thủ” của bà cụ Thọ đều được ông Bèo âm thầm thực hiện và tập dượt. Tuổi già khó ngủ nên bà cụ Thọ nhận việc theo dõi màn hình ở trong phòng ngủ. Khi có động bà sẽ đánh thức cái Ngọ cùng dạy để phối hợp tấn công tội phạm. Sau cái đêm tung tiền thuê mấy thanh niên tỉnh ngoài về tìm việc ở chợ lao động làm cái việc quét vôi hỗn hợp dầu luyn và phân tươi lên cửa nhà ông Bèo, anh em Nhân và Báo vờ đến thăm mẹ để nghe ngóng tình hình. Họ thấy vợ chồng ông Bèo mặt mũi vẫn tươi tỉnh, hồn nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Bà cụ Thọ và cái Ngọ vẫn đi lễ chùa. Mùi hôi thối, xú uế không thấy còn phảng phất quanh cửa. Hai tên nghĩ rằng bọn nhận làm thê không làm mà vẫn lấy tiền. Chúng chia nhau lững thững ra góc phố, nơi anh em lao động ngoại tỉnh vẫn thường đứng chờ khách.Gặp ai hắn cũng ngó nghiêng, nhìn tận mặt và hỏi: “Hình như … tối qua tôi thuê cậu làm việc phải không nhỉ?” Nhưng không có ai nhận. Hai anh em Nhân Báo tức tối chửi đổng một mình: “Mẹ kiếp! Bọn này đã nghèo lại ăn gian nói dối! Đã thế thì cho chúng mày nhịn đói nhăn răng!” Sau đó, Nhân bảo Báo: “Phải đẩy vợ chồng thằng nhà quê đi ngay. Vợ chồng nó còn bám trụ ở đấy thì “cụ Khốt” còn tinh tướng”. Nhân dự địnhlàm một chiến dịch “tấn công” nhà ông Bèo. Theo kế hoạch thì anh em hắn sẽ tự thực hiện. Giờ hành sự sẽ thực hiện vào giờ Tý và giờ Dần nghĩa là vào lúc một giờ sáng và bốn giờ sáng. Giờ ấy mọi người còn đang ngon giấc. Phương tiện tấn công đợt này là phân tươi có rất nhiều dòi. Loại này chỉ cần đổ một xô nhỏ thì dòi sẽ bò vào cả giường nằm của vợ chồng lão nhà quê. Để nuôi được dòi, chúng phải mua một nửa cân có ươn cho ruồi nhặng bu bám và đẻ trứng. Quả nhiên ba ngày sau, dòi con đã bò trắng cả miệng xô. Bọn chúng chỉ cần pha thêm một ít phân tươi nữa là thành một loại “bom vi trùng” để tấn công đối phương. Thằng Báo được anh phân công làm trước. Nó xuất quân lúc 12 giờ đêm, mang theo “bom vi trùng” hạng nặng. Nó đi xe máy đến đầu ngõ thì dừng lại, dựng xe khoá cổ rồi đúng nghe ngóng động tĩnh trogn nhà để chuẩn bị hành động. Nhưng thật không may cho thằng Báo là bà cụ Thọ đã nhận ra tiếng xe máy của nó. Thêm vào nữa, trên màn hình đã thấy rõ bóng người trong khoảng sáng lờ mờ của chiếc đèn điện trên cột đèn đầu ngõ. Dáng thằng Báo đi không lẫn với ai được. Tay phải nó xách cái xô “vũ khí vi trùng”, tay trái nó khuyềnh khoàng, vung vẩy. Khi còn cách chừng dăm mét, bà cụ Thọ đã nhìn rõ bộ mặt vừa đáng thương vừa đáng ghét của nó. Bà cụ Thọ lay gọi cái Ngọ bảo nó đứng ra gần cửa chuẩn bị mở khoá cửa ra ban công. Khi tên Báo mới bước tới cửa nhà, bà cụ bảo giật bẫy. Cả xô sơn từ trên cao đổ ụp xuống đầu thằng Báo làm cho nó hốt hoảng ngã sấp xuống đất. Xô phân có dòi trên tay nó cũng đổ ra làm cho hàng đàn dòi cứ thế công pha bò lên mặt, lên cổ, lên áo quần của hắn. Sau khi xô sơn đánh trúng thằng Báo, bà cụ Thọ điện báo cho tự vệ dân phố ùa ra, bắt quả tang thằng Báo đang gây rối trật tự công cộng. Người ra lập biên bản bắt rồi thẩm vấn nhanh thằng Báo. Đội hình sự của công an phường đã tương kế tựu kế chuẩn bị hiện trường để bốn giờ sáng bắt gọn tên Nhân cùng với các tang chứng vật chứng mà hắn dùng để khủng bố gia đình ông Bèo cùng với bà cụ Thọ. 58. Có gan gây rối… không có gan chịu đòn 4 giờ sáng đến lượt Đỗ Tắc Nhân sặc sụa, giãy giụa trong hơi sơn pha dầu đổ ụp từ trên tầng hai xuống. Hắn còn chưa kịp hoàn hồn thì tổ bảo vệ dân phố đã ập đến yêu cầu hắn về trụ sở đội dân phòng. Tại đây, tổ bảo vệ cho hắn mượn bộ quần áo bảo hộ lao động và cho phép hắn dùng khăn tẩm xăng để lau bớt nước sơn trên đầu. Sau đó, người ta tiến hành hỏi cung và ghi tờ khai cùng biên bản hiện trường. Đỗ Tắc Nhân nhìn những gương mặt quen thuộc trong ngõ phố mà thấy xấu hổ, thẹn thùng. Hắn cúi gằm mặt và trả lời lí nhí những câu hỏi của tổ bảo vệ dân phố. Ông tổ trưởng hòi: “Anh có thù hận gì với mẹ mà lại xử sự với mẹ đẻ của mình như vậy?”. Đỗ Tắc Nhân nói trong cổ họng: - Dạ không! Tôi không thù hận gì mẹ tôi cả. Tôi chỉ thù hận vợ chồng cái lão đã chiếm đoạt tài sản của mẹ tôi thôi ạ! - Anh có bằng chứng gì về sự chiếm đoạt đó không? Im lặng hồi lâu, hắn nói: - Thưa không ạ! Ông tổ trưởng bảo vệ hỏi: - Anh đã gây rối ở đây mấy lần rồi? - Dạ mới một lần. - Anh đã khoá cửa và bôi phân tươi vào cửa nhà mẹ anh? - Dạ chúng tôi thuê ạ. - Sao không thuê làm nữa? Đỗ Tắc Nhân càng lúng túng hơn. Hắn trả lời thành thật: - Dạ thưa, chúng tôi tiếc tiền và thấy bọn họ làm không đạt hiệu quả. Vì thế, chúng tôi phải tự tay làm thì mới hả giận! - Bây giờ, anh đã hả giận chưa? Anh có muốn nói điều gì với mẹ đẻ của anh không? Sau khi nghe xong lời khai và biên bản vi phạm gây rối trật tự công cộng. Ông tổ trưởng bảo vệ tuyên bố: - Tôi gây rối trật tự công cộng có tổ chức của anh theo pháp luật thì anh có thể bị truy tố trước pháp luật và khung hình phạt có thể từ sáu tháng đến 2 năm tù giam. Thể theo nguyện vọng của anh, tôi sẽ gọi điện cin cho anh gặp mẹ nếu bà cụ đồng ý. Nếu cụ không cho gặp thì chúng tôi sẽ dẫn anh ra công an phường để họ xem xét xử lí. Nói xong, người tổ trưởng bảo vệ cầm máy điện thoại gọi về nhà cho cụ Thọ. Bấy giờ là năm giờ sáng, bà cụ Thọ băn khoăn suy nghĩ một lát rồi nói: - Nhờ các ông nói giúp, tôi bị mất ngủ nhiều đêm quá, hôm nay mới được ngủ bù cho lại sức. Khi nào tôi khoẻ mới gặp nó được. Thực ra thì cụ Thọ làm sao có thể ngủ yên được. Tim bà cụ thi thoảng lại nhói đau báo hiệu một cú sốc nặng nề về tâm lý và tình cảm. Phương ngôn có câu: “Hổ dự còn chẳng ăn thịt con” lẽ nào người mẹ mang nặng đẻ đau, tần tảo chắt chiu để nuôi dạy con, chỉ mong sao nó nên người mà… nào ngờ đồng tiền và những sự cám dỗ vật chất đã cướp trên tay hai đứa con trai của cụ. Cả hai đứa con trai đã thành một người khác. Nhưng bây giờ nó lại trở thành kẻ tội đồ. Cứu con hay để mặc cho nó bị pháp luật xử lý? Liệu bài học này có giúp chúng tỉnh ngộ hay không? Liệu sau khi thoát khỏi vòng lao lý, vợ nó có để yên cho nó tu tỉnh trở thành người lương thiện hay không? Bà cụ Thọ suy nghĩ, trăn trở hết đêm hôm ấy. Sáng hôm sau, cụ Thọ gọi điện cho chị con gái cả giao cho chị tổ chức họpo toàn thể gia đình vào ngày chủ nhật kế đó. Trong căn phòng ở tầng hai, nơi ông cụ Thọ đã từng sống và trút hơi thở cuối cùng, bà cụ Thọ gọi các con đứng trước bàn thờ chồng rồi thắp hương trước bức ảnh chân dung cụ ông, nói: - Ông ơi! Ông sống linh thác thiêng, ông hãy về nhìn mặt các con và cho tôi một lời khuên. Chỉ vì tiền mà sống cạn nghĩa, cạn tình với ông và tôi, nay nó đã thành kẻ có tội, pháp luật sẽ nghiêm trị nó về tội gây rối trật tự an ninh. Toà án lương tâm sẽ phán xét nó vì tội bất hiếu, bất nghĩa. Hôm nay, trước mặt các con, tôi xin ông cho tôi lời khuyên: Cứu nó hay để cho pháp luật xét xử? Nếu ông bảo tôi cứu thì tôi xin âm dương đồng bạc này ông háy cho đồng tiền nằm ngửa. Nếu ông bảo không thì ông cho đồng tiền nằm sấp. Tôi xin lời chỉ dẫn của ông! Bà cụ Thọ thắp hương vào bát nhang và nhắm mắt tưởng niệm. Lúc sau, bà cụ Thọ tung đồng tiền kẽm mện giá 5.000 đồng lên cao. Đồng tiền kẽm rơi xuống nền nhà, lật mấy vòng và nằm im với mặt sấp báo hiệu rằng cụ ông đồng ý để pháp luật xét xử thằng con trai bất hiếu. Bà cụ Thọ nói với các con: - Vậy là bố các con đã biết hết cả. Sự phán quyết của ông ấy là mệnh lệnh đối với mẹ. Thôi, các con lớn rồi, có gan làm thì phải có gan chịu. Mẹ không dám trái ý bố các con đâu! 59. Thuốc đắng dã tật Người lo sợ và hốt hoảng nhất là vợ của thằng Nhân. Cô ta lăn lóc, vật vã quỳ xuống dưới chân bà cụ Thọ van xin: “Con lạy mẹ! Con xin mẹ! Chồng con dại dột ngu tối, tham vàng bỏ ngãi, mẹ tha cho anh ấy, mẹ cứu lấy anh ấy. Mẹ đừng để người ta bắt anh ấy vào tù! Mẹ ơi! Cháu nội mẹ còn thơ dại lắm, mẹ cứu anh ấy đi!” Bà cụ Thọ cầm nước mắt không nổi cũng khóc theo con dâu. Giọng cụ Thọ nhoè trong nước mắt: “Mẹ tự trách mình không dạy nó nên người. Mẹ trót để cho tiền bạc giành giật mất nó ở trên tay. Không biết lần này mẹ có giành lại được nó không?” Người chị cả, chỗ dựa tin cậy của bà cụ Thọ cũng xin: “Cậu Nhân như thế là đã phạm tội lớn với mẹ nhưng con tin rằng lần này cậu sẽ mở được mắt ra. Cậu sẽ biết rằng: Không có cái gì cao quý hơn tình mẹ. Bạc vàng, tiền của cũng không mua được tình mẹ. Con xin mẹ rộng lòng cho vợ chồng cậu Nhân viết một bản cam đoan với mẹ từ nay về sau không phạm tội bất hiếu với mẹ nữa. Mẹ hãy lượng thứ và cho vợ chồng cậu Nhân một cơ hội để chuộc lại lỗi lầm!” Lời khẩn cầu thống thiết của người chị cả khiến bà cụ Thọ nguôi ngoai nỗi đau vò xé trong lòng. Cụ Thọ lại gọi cái Ngọ lấy giấy viết đơn bãi nại cho con gửi lên cơ quan điều tra, xin cho thằng Nhân được miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Sau khi nhận được quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra quận, vợ chồng Đỗ Tắc Nhân chủ động đến gặp vợ chồng ông Bèo để dàn hoà. Đỗ Tắc Nhân nói: “Vợ chồng em thật không phải với hai bác, mong hai bác thể tất. Chỉ tại chúng em nông cạn biết một mà không biết mười. May nhờ mẹ em và hai bác rộng lượng, bao dung nếu không thì em phải nhập kho bóc lịch. Bác chẳng lạ gì cái cảnh một ngày ở tù. Lúc ấy thì tiền rừng bạc bể cũng có còn nghĩa lý gì nữa”. Thấy vợ chồng Đỗ Tắc Nhân có vẻ phục thiện, ông Bèo ôn tồn nói: - Không nói chắc cô chú cũng biết. Vợ chồng tôi ăn xó mó niêu ở nhà quê quen rồi. Vì thương hai đứa con gái không có tài sắc, không có của chìm của nổi, cũng chẳng nhiều chữ nghĩa gì cho cam. Ở quê lo hai tay vày lỗ miệng còn khó, chắc gì lấy được tấm chồng. Chúng nó muốn đổi đời nên đánh đường ra phố làm ăn. Nhưng ở phố nhiều cạm bẫy, nhiều rủi ro lắm, sợ các cháu không giữ nổi mình nên vợ chồng tôi theo con ra phố, làm chỗ dựa cho hai đứa đi làm. Khi nào chúng nó kiếm được chồng, tôi lại hồi hương. Nhà cửa, đất đai ở quê còn bỏ không, chiếm nhà của bà với cô chú mà làm gì? Thấy bà đã gần tám mươi mà đang sống một mình, vợ chồng tôi muốn được phụng dưỡng bà, phòng khi tắt lửa tối đèn. Cháu Ngọ cũng vì quý bà, kính yêu bà mà tự nguyện chia sẻ bát cơm bát cháo với bà mà không nghĩ tới tiền công như hồi ông còn sống. Hôm nay, nhân cô chú nói lại chuyện cũ, vợ chồng tôi cũng xin cởi lòng để cô chú hiểu cho! Từ đó, tình cảm của vợ chồng ông Bèo với bà cụ Thọ ngày càng trở nên đằm thắm, mặn mà. Có nhiều khi bà cụ Thọ gọi ông Bèo là bác cả với ý rằng cụ đã coi ông Bèo như con giai trưởng vậy. 60. Cái Dậu gặp phận đa đoan Đời người, ai cũng có phận và có phúc. Trong phận có phúc và trong phúc có phận. Cái Dậu về giúp việc cho gia đình có hai đứa con sinh đôi. Mẹ của hai cháu đã ra đi trong cuộc vượt cạn khắc nghiệt nhất, để lại hai đứa bé cho một người cho có 31 tuổi. May mà nhờ có ông bà nội cưu mang, chăm bẵm, hai đứa trẻ đã qua cơn hiểm nghèo. Cái Dậu vào giúp việc nuôi hai đứa nhỏ. Thương hai đứa bé những đêm khát sữa, cái Dậu đánh cho nó ngậm vú mình để chợp mắt qua đêm. Không ngờ, cái núm vú chũm cau chưa hề sinh nở cũng làm ấm lòng hai đứa bé sơ sinh. Cơ duyên được làm mẹ đến sớm với cái Dậu khiến nó thương yêu, gắn bó với hai đứa trẻ mồ côi. Dậu đặt tên cho thằng lớn là Hi Vọng và đứa con gái bé là Hạnh Nguyên. Dậu quấn quýt với Hi Vọng và Hạnh Nguyên đến nỗi cô không thể xa chúng nó nữa ngày hay một đêm để về thăm bố mẹ và chị Ngọ. Tuy vậy, tuần nào cô cũng gọi điện thoại hỏi thăm bố mẹ ít nhất một lần và tuần nào cũng đặt ống nghe sát miệng đứa bé cho nó u ơ nói chuyện với ông bà. Trong mỗi lần điện thoại, Dậu thường dành nhiều thời gian kể về Hi Vọng và Hạnh Nguyên. Hi Vọng đã biết ngồi, cái cổ cứng cáp, đôi mắt tinh anh. Hạnh Nguyên biết theo con khi con bế anh Vọng. Nó tham lắm, muốn được bế một mình. Có hàng đống câu chuyện kể với mẹ về Hi Vọng và Hạnh Nguyên. Đến nỗi bà Bột phải than thở với ông Bèo: - Ông này, cái Dậu nhà mình thành gái không chồng mà phải nuôi con mất rồi! Đến cả bố mẹ đẻ cũng không được nó yêu quý, gắn bó như thế, ông ạ! Ông Bèo cũng thấy lạ. Chẳng hiểu cái năng khiếu bẩm sinh làm mẹ của nó có từ bao giờ mà nó lại cáng đáng được một nách hai con thơ như thế? Chẳng hiểu nó ăn cái chất gì mà lại xuống sữa để hai đứa đêm đêm ngậm vú mà ngủ được? Quả là trời cho. Nhưng như thế là phận cái Dậu đa đoan quá. Chẳng lẽ ông Tơ bà Nguyệt lại tác thành cho nó với người đàn ông đã đi một lần đò? Âu cũng là số phận. Tạo hoá không lấy của ai tất cả mà cũng không cho ai tất cả. Thôi, bà cũng đừng lo nghĩ nhiều về cái Dậu. Thế là nó thành người sớm, được giao thiên chức sớm. Nó thiệt so với chị em về cái sự bay nhảy, va chạm đường đời. Nhưng nó hơn chị em ở cái chỗ sớm được làm mẹ. Có điều bố của hai đứa trẻ ăn ở với nó ra sao? Anh ta có yêu thương nó không hay nó chỉ là người ở vú? Vài ba năm nữa hai đứa bé lớn lên, gia đình người ta không cần người giúp việc nữa thì nó thành ra nhỡ nhàng. Đi cũng dở mà ở cũng không xong. Lúc ấy cái Dậu liệu có tìm được hạnh phúc hay không? Nghĩ vậy nhưng mỗi khi nghe tiếng cái Dậu trong ống điện thoại thì cả hai vợ chồng ông Bèo lại quên lú đi mất. Sự bao dung lo liệu của người làm cha mẹ lại kéo ông bà đến với những niềm vui nho nhỏ của con cũng như những lo toan vướng trở bước chân con. Có lần, bà Bột hỏi nhỏ cái Dậu trong máy điện thoại: “Này! Mẹ hỏi cái này, con phải nói thật với mẹ cơ nhá!”. “Vâng, con có giấu cái gì đâu ạ!”. “Bố hai đứa bé bây giờ ra sao? Anh ta có tử tế không?”. “Mẹ hỏi thế là thế nào?”. “Mẹ cứ lo anh ta lợi dụng con thôi!” Cái Dậu vẫn hồn nhiên nói: - Chú ấy vấn đi làm suốt ngày. Nhiều hôm chẳng kịp về ăn cơm. Bà nội phần cơm đến khuya rồi lại cất đi. - Thế ban đêm bà nội có ngủ với các cháu không? - Bà nội còn phải chăm ông nội. Ông có bệnh đau khớp chạy vào tim. Bà phải canh giấc ngủ cho ông ngộ nhỡ lên cơn đau không có ai biết. - Tội nghiệp. Nhà người ta hoàn cảnh thế cũng là éo le. Thôi thì cố nhẫn con ạ. Trời phú cho cái Dậu đức tính nhẫn nại, cần cù, cả sự dịu dàng ít kêu ca phàn nàn về thân phận. Ngay cả cái tương lai đa đoan đi mắc núi lại mắc sông của nó nó cũng không hay biết gì. Vì tình cũng phải mà liều nhắm mắt đưa chân cũng phải. Mặc cho thiên địa xoay vần.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 61. Uỷ quyền nuôi con Bố của hai đứa trẻ Hi Vọng và Hạnh Nguyên tự nhiên ít nói, lạnh lùng, không còn dành thời gian chăm sóc hai đứa con như trước nữa. Cứ hết giờ đi làm về anh lại vào phòng đóng sập cửa ở bên trong. Bà nội của hai đứa bé mấy lần gõ cửa vào phòng, chỉ thấy anh nằm ngửa, mắt trân trân nhìn lên trần nhà như đang suy nghĩ điều gì hệ trọng lắm. Bà cụ Nghoã ngồi xuống cạnh giường hỏi: - Hiếu này! Con làm sao thế? Có điều gì con hãy nói để mẹ chia sẻ với con? Anh Hiếu vẫn im lặng. Bà mẹ lại gặng hỏi: - Hay là con thiếu tiền lo cho gia đình rồi buồn bã nhớ thương mẹ hai đứa? Những lúc bà cụ Nghĩa gạn hỏi như vậy, anh Hiếu chỉ thở dài nói: - Con xin mẹ đấy! Mẹ cho con yên một tý được không? Thấy vậy cái Dậu không dám nói to với hai đứa trẻ như trước. Nó chỉ dùng những cái hất hàm, những lời thì thầm nựng yêu hai đứa trẻ. Ngay cả những bước đi trong nhà, cái Dậu cũng nhón gót đi lại nhẹ nhàng hơn, sợ bố của hai đứa trẻ phật ý. Cái Dậu không hiểu nguyên cớ gì khiến “chú chủ” thay đổi tâm tính như vậy? Từ ngày hai đứa bắt đầu nhận biết xung quanh, cái Dậu đã tập cho hai đứa trẻ đi tiểu tiện, đại tiện khá ổn đinh theo giờ, đỡ tốn tiền mua bỉm và đỡ công giặt giũ. Mỗi ngày cái Dậu nấu hai nồi cháo gạo mới với nước thịt nạc ninh kỹ với cà rốt và rau xanh rồi gột thành bột lỏng cho hai đứa trẻ ăn bằng thìa. Khi ăn, cả hai đứa cùng nằm, cái Dậu dùng thìa bón cho đứa này rồi lại bón cho đứa kia. Cả hai đứa cùng ăn, hết bát cháo lại cùng chơi, không đòi bế ẵm đong đưa như những đứa trẻ khác. Bà nội của hai đứa trẻ thì lo đi chợ mua sắm thức ăn và khi hai đứa ngủ thì bà trông cháu đỡ cho cái Dậu giặt quần áo, tắm gội. Bà cụ Nghĩa thường hay ao ước với chồng: - Ông này! Tôi nói thế này ông xem có được không nhá? Giá mà ông Tơ bà Nguyệt se duyên cho cái Dậu với thằng Hiếu nhà mình thì hai đứa trẻ được nhờ ông nhỉ? Nhưng mà cái duyên trời định ấy hình như không phải như bà cụ Nghĩa mong ước. Bố của hai đứa trẻ đang có một kế hoạch khác. Anh ta tìm đường thoát nghèo bằng cách đi lao động xuất khẩu. Với tay nghề thợ điện bậc 5/7 của anh, chỉ cần anh đăng ký và có tiền đặt cọc là đi được ngay sang thị trường Hàn Quốc hoặc sang Đài Loan. Nhưng gánh nặng trách nhiệm với gia đình đang dày vò tâm lý anh. Bố anh đã già, cuộc sống như ngọn đèn trước gió, sinh có hạnm tử bất kỳ. Mẹ anh cũng bắt đầu xuống sức. Hai đứa con mồ côi mẹ đang còn thơ dại. Nếu không đi xuất khẩu thì một mình anh không thể nuôi nổi sáu miệng ăn. Nếu đi thì có tiền giúp gia đình nhưng hai đứa trẻ sẽ ra sao? Sau nhiều đêm suy nghĩ. Một đêm, chờ hai đứa trẻ ngủ yên, anh Hiếu vào phòng cái Dậu và con, đánh thức cái Dậu dậy. Cái Dậu ngỡ ngàng có pha chút sợ hãi. Nó hỏi: “chú bảo cháu cái gì cơ ạ?”. Anh Hiếu lúng túng một lúc rồi nói: - Tôi cám ơn Dậu đã chăm cho hai đứa con tôi an toàn từ nhiều tháng nay. Tôi biết tiền công của tôi trả cho Dậu chưa tương xứng với sức lao động của Dậu mà Dậu còn bỏ ra giúp tôi nuôi chúng nó. Nay tôi hỏi Dậu điều này, nếu mà có thế nào thì Dậu cũng nói. Cái Dậu thấy không khí nghiêm trọng quá nên nói: - Vâng, chú cứ nói ạ. Anh Hiếu im lặng một lát rồi nói: - Chẳng nói thì Dậu cũng biết, hai đứa nhỏ nhà tôi nếu không gặp Dậu thì không biết thế nào. Nhưng hoàn cảnh nhà tôi thế này thì chưa biết bao giờ mới mở mày mở mặt được. Nay có đợt đi xuất khẩu lao động. Tôi định đi mấy năm để gửi tiền về cho ông bà và hai đứa, cũng để trả công cho Dậu cao hơn, xứng đáng hơn. Chỉ muốn hỏi xem Dậu có bỏ hai đứa mà đi hay không? Nếu Dậu kiên tâm ở với hai đứa thì tôi đi vài năm để lấy tiền nuôi chúng nó. Nếu Dậu không thì tôi phải tính cách khác. Nói xong anh Hiếu nghẹn ngào, nước mắt cứ giàn giụa chảy xuống má, môi. Nước mắt chảy trở lại nơi cuống họng nghe thấy mằn mặn. 62. Cầu cứu bố mẹ Nghe tiếng cía Dậu thoảng thốt trong ống nghe máy điện thoại, bà Bột nghĩ có điều gì chẳng lành đang đến với con. Bà luống cuống đặt máy xuống rồi gọi ông Bèo lại gần, giọng trầm trồ có vẻ như rất hệ trọng: - Không biết có việc gì mà cái Dậu nó gọi điện thoại nhắn tôi với ông đến ngay chỗ nó. việc gấp lắm. Vẻ mặt ông Bèo đần ra, mắt ngơ ngác, miệng hỏi lại: - Nó có việc gì quan trọng lắm à? Việc gì nhỉ? Chả lẽ… Khi gặp những việc hệ trọng như thế này, ông Bèo trở thành người lỳ dạn, sẵn sàng chấp nhận mọi sự va đập của sóng gió cuộc đời. Ông linh tính như cái Dậu đang gặp một cái hạn, một cơn sóng dữ. Hay là anh chủ nhà dở trò sàm sỡ, gây sự đã rồi? Mới chỉ nghĩ tới đó, ông Bèo đã thấy nghèn nghẹn ở cổ. Ông nói với bà Bột: “Tôi với bà phải đi đến ngay xem có việc gì không”. Bà Bột vội thu xếp công việc, nhắn cái Ngọ ở nhà cơm nước cho bà rồi hai vợ chồng ra ngay phố, gọi một người xe ôm làm “Zin ba cầu” chạy đến nhà cái Dậu đang giúp việc. Cái Dậu đang quấy bột cho hai đứa trẻ ăn sáng. Một xoong bột khá đầy còn đang bốc khói. Cái Dậu để cách thuỷ trong một chậu nước lạnh cho cháo mau nguội. Ngoài chậu, nó còn đặt một chiếc quạt điện để cháo sớm được ăn. Vừa làm việc nó vừa chào bố mẹ và giải thích “sắp đến giờ ăn của hai đứa. Bữa nào chúng nó cũng ăn hết xoong bột này. Ăn nhanh lắm. Ăn xong thì nằm chơi. Bấy giờ mới dọn dẹp giặt giũ được”. “Thế bà nội đâu? Chả lẽ… Bà nội lo đi chợ mua bán thức ăn và chăm sóc ông nội. Ông yếu lắm lại hay lên cơn huyết áp”. “Thế bố hai đứa có giúp được gì không?”. “Chú ấy đi làm suốt ngày. Hết làm trong cơ quan lại đi làm thêm. Thế mới đủ tiền nuôi hai đứa này”. “Thế tiền công của con ra sao?”. “Chú ấy trả đủ hàng tháng nhưng mà con lại mua sữa pha thêm với nước cháo cho trẻ con. Không có sữa chúng nó khổ lắm. Thế con vẫn cho chúng nó bú giả vờ à? Có rát ngực lắm không?”. “Rát, nhưng mà ngủ quên thôi”. Nhiều chuyện muốn hỏi con, ông bà Bèo cứ như ăn phải bùa mê thuốc lú mà quên, mà lẫn. Cuối cùng ông hỏi: - Có nghĩa là con làm không cho người ta. Thôi thì cũng coi như là làm từ thiện vậy. Nhưng mà làm từ thiện cả đời thì phải có chí lớn con ạ. Bà Bột nghe ông Bèo nói vậy lại ngỡ ông nói dỗi với con gái. Bà cắt ngang hai cha con: - Thế thì bố mẹ muốn biết con là thế nào với bố của hai đứa trẻ này. Anh ta chỉ cần con cho hai đứa trẻ thôi ư? Phải thế nào nữa chứ. Con có nghe người ta nói về tò vò nuôi con nhện thế nào không? Cả ba người im lặng một hồi lâu. Ông Bèo lại sốt sắng hỏi: “Thế con gọi bố mẹ có việc gì?”. Cái Dậu kể lại câu chuyện mà chú Hiếu hỏi ý kiến nó đêm hôm qua. Câu chuyện làm cả hai ông bà cùng ngơ ngác. Cái Dậu đã là cái gì của người ta mà người ta tin cậy đến thế? Vợ, không phải. Người yêu cũng không. Họ tộc cũng không. Lòng tin cậy ấy có cơ sở gì để giữ ấm lâu dài? Biết trả lời người ta thế nào đây? Nhận lời thì e cái Dậu mất cả thời trẻ trung con gái. Từ chối thì không đành. Làm sao cái Dậu dám bỏ hai đứa trẻ mà đi. Cả ba người lòng dạ rối bời. Đi thì mắc núi, trở lại mắc sông. Cái lý không thắng nổi cái tình. Cái tình không đủ mạnh để bước qua rào cản của xã hội. - Thế bố bảo con nói với chú ấy thế nào? Cái Dậu gặng hỏi. Ông Bèo hết nhìn vợ lại nhìn con, rồi ông lại nhìn hai đứa trẻ sau khi ăn bột no nê đang nằm chơi ngoan ngoãn trên giường như hai thiên thần. Lòng ông bỗng trào lên một tình cảm xúc động. Ở hai đứa trẻ, tâm hồn và tình cảm của cái Dậu cứ xoắn xuýt hoà quyện với nhau. Ông nghĩ: Có lẽ trời cho gia đình ông hai sinh linh thánh thiện. Đó là cái phúc. Ngẫm cả đời ông, muốn tìm đến cái phúc dù rất nhỏ bé cũng chưa lúc nào dễ dàng. Con ông không có công sinh nhưng có công dưỡng được hai con người. Đó cũng coi như là phúc lớn. Nghĩ xong, ông nghẹn ngào nói với con gái: - Con ơi! Vậy là người ta đã cho con làm mẹ. Con cứ nghe trong tim mình, nếu gắn bó với hai đứa trẻ được cả đời thì con có phúc lớn. Bố mẹ không nói thay con được. 63. Một lời nói tựa nhát dao Đêm đã khuya, bé Hi Vọng và Hạnh Nguyên ăn xong bữa cháo cuối cùng đã lăn ra ngủ. Mặt hai đứa trẻ ngây thơ và thánh thiện như chưa hề biết những bão táp của cuộc đời đã tràn qua thân thể và số phận nó. Trong mơ, con Hạnh Nguyên còn luôn nhoẻn miệng cười. Ngắm gương mặt hai đứa trẻ, Dậu không muốn tắt đèn đi ngủ nữa. Dậu sợ giấc mơ đẹp sẽ biến mất trên khuôn mặt Hạnh Nguyên. Dậu cứ ngồi dưới chân hai đứa trẻ, nhìn chúng nó không chán mắt. Tự nhiên Dậu liên tưởng tới tư chất của hai đứa với những ước nguyện hàng ngày Dậu thầm cầu mong. Bé Hạnh Nguyên hiền lành, ít hoạt động, chỉ có đôi mắt như sớm nhận biết những người xung quanh. Nó biết nghe bà nội hát ru, biết đón nhận hơi thở ấm áp của bà. Nó biết nhìn theo Dậu mỗi khi Dậu âu yếm, chăm bẵm cho anh Hi Vọng. Còn bé Hi Vọng thì luôn chân, luôn tay. Chỉ trong chớp mắt, bé Hi Vọng đã lật sấp người, toài đến sát em Hạnh Nguyên để chơi với em. Từng ngày mỗi bé lại có một cử chỉ mới, một thứ ngôn ngữ mới. Dậu có thể hiểu được bé Hi Vọng nói gì và bé Hạnh Nguyên nói gì. Bố của hai đứa trẻ có khi hai ngày liền không gặp được con. Bé Hi Vọng có lúc còn tỏ ra lạ với bố. Nó thường khóc mỗi khi bố nó bồng lên tay đối mặt với mình. Lúc ấy, Dậu lại nhẹ nhàng đón bé Hi Vọng và ông nó vào lòng với lời vỗ về âu yếm quen thuộc làm cho nó nín bặt. Khuya lắm, Dậu vẫn ngồi trong màn như muốn phơi gan phơi ruột cùng hai đứa trẻ. Bỗng bà cụ Nghĩa nhẹ nhàng mở cửa bước vào. Bà Nghĩa ân cần hỏi: - Hai đứa ngủ lâu chưa con? Tại sao con chưa ngủ - Con sắp ngủ đây ạ! - Con nói thật với bà đi. Hình như con đang có điều gì suy nghĩ đau đầu phải không? Dậu có cảm giác như bà cụ Nghĩa đã đọc được những suy nghĩ của mình nên im lặng, mắt Dậu vẫn chăm chăm nhìn hai đứa trẻ.Bà cụ Nghĩa ân cần nói: - Dậu ơi! Con cố gắn giữ gìn sức khoẻ. Cả nhà trông cậy vào con đấy. Nếu con ốm thì không chỉ hai đứa trẻ mà cả nhà cũng khốn đốn con ạ. - Vâng! Cháu sẽ cố gắng ạ. Bà cụ Nghĩa lại ân cần, nỉ non: - Hình như thằng Hiếu hồi này ít để ý tới hai đứa trẻ phải không? - Vâng! Chú ấy bận lắm. Mà cháu thấy chú ấy gầy đi nhiều. Chỉ sợ chú ấy ốm ạ. Bà cụ Nghĩa càng xúc động khi nhận thấy sự lo lắng của cái Dậu cho con trai mình. Theo giác quan của một người từng trải, bà biết đó là tín hiệu đầu tiên của tình yêu nam nữ. Nhưng bà vẫn chưa thấy con trai bà có những biểu hiện gì tỏ ra yêu quý cái Dậu ngoài những lời cảm ơn chân tình nhưng xã giao. Bà cụ Nghĩa lại lựa lời hỏi: - Chú Hiếu chưa nói gì với cháu à? - Chú nói gì ạ? Cả hai bà cháu cùng thăm dò nhau. Bà cụ Nghĩa muốn tìm hiểu xem cái Dậu có yêu thương con trai bà, có cảm thông và sẵn sàng chia sẻ gánh nặng với con trai bà không? Còn cái Dậu thì muốn nghe từ trong tim bà mẹ xem có khoảng cách nào cho mình không? Đối với cái Dậu thì đây là một việc rất khó nói. Xét cho cùng, Dậu vẫn chỉ là người giúp việc gia đình. Nói theo cách ông Bèo thì Dậu chỉ là đứa ở. Làm sao đũa mốc lại dám chòi mâm son? vậy thì Dậu chỉ biết nghe thôi, chẳng lẽ lại xen vào nói chuyện gia đình nhà chủ. Mà nếu có hỏi như chú Hiếu thì Dậu cũng chỉ là người ngồi xó bếp, dám đâu nói chuyện thế giới. Dậu đã biết phận và yên với phận mình. Chú Hiếu nói như đánh đố, Dậu bó tay hàng thôi, chẳng dám nhận lời mà cũng không từ chối. Chỉ biết rằng hai đứa trẻ Hi Vọng và Hạnh Nguyên đã bện cái hơi của Dậu và ngược lại Dậu cũng bện hơi hai đứa khó xa nhau được. Chú Hiếu đi xa về gần thì Dậu cũng thương yêu và chăm hai đứa. Chú Hiếu có trả thêm tiền công thì Dậu cũng có thêm hộp sữa, quả trứng cho hai đứa. Bây giờ Dậu chỉ sợ chú Hiếu đem hai đứa cho người khác nuôi. Nghĩa là Dậu phải về với bố mẹ. Còn hai đứa trẻ thì sang tay người khác. Những lúc trái gió trở trời biết hai đứa có an toàn, chịu ăn, chịu trơi không? Gợi mãi, gợi mãi, bà cụ Nghĩa đột ngột hỏi: - Bà nghe bố Hiếu định gửi hai đứa cho cháu để đi xuất khẩu lao động? Dậu càng tỏ ra lúng túng, khó nói lên lời. Cuối cùng Dậu hỏi lại: “Bà ơi! Chú đi xuất khẩu lao động liệu chú có về nữa không ạ?”. Bà cụ Nghĩa ngây người, lúng túng hơn cả cái Dậu. Tuy vậy, bà vẫn tin con trai bà sẽ trở về vì nó còn cả bố mẹ và hai đứa con kia mà.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố Cảm ơn bạn đã theo dõi, mình đọc thấy hay lại có ý nghĩa nên muốn chia sẻ cùng mọi người. Chúc bạn thấy nhiều niềm vui trong cuộc sống.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố 64. Ba mặt một lời Tâm sự với cái Dậu, bà cụ Nghĩa giật mình lo sợ vì ý định ra đi của Hiếu. Tuy vậy, bà Nghĩa vẫn nghĩ có lẽ đấy là kế sách thăm dò tình cảm cái Dậu của anh con trai chứ không tin đấy là sự thật. Tuy thế, đêm nay, bà cụ Nghĩa cứ ngồi lỳ ở cửa ra vào ở tầng một chờ anh Hiếu đi làm về để hỏi cho ra nhẽ. Mãi tới 12 giờ đêm Hiếu mới về. Bà cụ Nghĩa mở cửa phòng đón con làm cho Hiếu ngạc nhiên. Sau lời chảo thân yêu với mẹ, Hiếu hỏi: - Sao hôm nay mẹ chưa đi nghỉ? Bà cụ Nghĩa đi cùng Hiếu vào phòng rồi nói: - Mẹ có điều này muốn nói với con. Hai mẹ con ngồi vào bên bàn ăn. Hiếu ăn thêm bát cơm cho đỡ đói. Bà mẹ gắp thức ăn cho con rồi hỏi: - Mẹ nghe nói con định đi xuất khẩu lao động à? Hiếu nhìn mẹ hỏi lại: - Ai nói với mẹ vậy? - Mẹ nghe nhưng chưa tin. Lúc chiều nói chuyện với cái Dậu, mẹ mới biết là thật…Nhà mình thế này, con của con vừa mồ côi mẹ vừa bé bỏng quá. Bố con thì đang như ngọn đèn trước gió, tắt lúc nào cũng không hay. Mẹ thì yếu rồi. Mẹ không tin là con lại trút gánh nặng này cho mẹ. Con đi, nếu ở nhà bố có mệnh hệ gì thì mẹ bó tay. Nghĩ thế nên mẹ không ngủ được. Phải chờ con về hỏi cho ra nhẽ… Bà cụ Nghĩa lại nghẹn ngào, nước mắt lã chã. Hiếu nói: - Người ta đang tuyển người đi lao động ở Hà Quốc hai năm. Con định tranh thủ đi làm để kiếm ít đồng tiền may ra thoát được cái cảnh này. Nhưng đấy mới là ý nghĩ ban đầu của con. Con còn phải lo nhiều thứ lắm, nhất là cái khoản tiền đặt cọc bảy ngàn đô la Mỹ chưa biết xoay đâu để có. Đã đi làm sao được. Với lại, con mới ướm thử xem cái Dậu nó nghĩ thế nào? Nếu nó sợ khổ thì thế nào nó cũng xin thôi việc cho mà xem. Câu chuyện giữa hai mẹ con lại quay về xung quanh cái Dậu. Bà cụ Nghĩa hết lời khen Dậu tận tuỵ và thương yêu hai đứa nhỏ như con đẻ. Cả hai đứa bé cũng như hợp mệnh với cái Dậu. Bà cụ Nghĩa quả quyết rằng nó là người thiện tâm, quên cả bản thân thì hai đứa bé. Người ấy chẳng phải thử thách xa gần mà làm gì. “Thật vàng chẳng phải thau đâu, mà đem thử lửa cho đau lòng vàng”. Bất chợt, bà cụ Nghĩa hỏi con: “Nhưng sao con lại hỏi nó về việc ấy. Nó là người giúp việc, làm sao nó dám trả lời?”. Đến lượt anh con trai lúng túng. Anh không tự cắt nghĩa được vì sao anh lại hỏi ý kiến Dậu, vì sao anh lại có ý nghĩ gửi con và bố mẹ cho Dậu mà đi xa? Niềm tin của Hiếu đối với Dậu thật là cảm tính. Nếu Dậu nhận lời của Hiếu thì cái món nợ tình nghĩa này biết làm sao trả được. “Có phải con định đặt vấn đề để tìm mẹ cho hai đứa bé không?” Hiếu thật thà bộc bạch với mẹ rằng cái vết thương lòng của anh còn đang rỉ máu. Rằng sự ra đi của vợ anh đã đẩy anh đến bên một bờ vực rất sâu không có gì khoả lấp được. Hiếu phải thú thật rằng có lúc quẫn trí quá, anh đã định chạy trốn thật xa để thoát thân. Nhưng như vậy thì Hiếu sẽ thành người con bất hiếu và người cha bất nghĩa. Nhưng mà từ khi vợ mất, Hiếu cứ như con gà mắc phải mớ bòng bong, không làm sao rút chân ra khỏi những sợi dây oan nghiệt đang càng ngày càng thắt chặt lấy hai chân. Hiếu đã làm việc một ngày đến 16 tiếng đồng hồ nhưng đời sống gia đình vẫn bấp bênh. Hai con vẫn có ngày thiếu sữa. Tiền công của người giúp việc nợ đọng hàng tháng chưa trả được. Thuốc thang cho bố luôn luôn là nỗi lo thường trực trong đầu. May mà hai con chịu ăn, chịu chơi. May mà người giúp việc nhân đức và cảm thông. Nhiều khi Hiếu chưa chạy được tiền mua sữa thì Dậu đã ứng tiền công của mình mua sữa cho hai đứa trẻ. Giá như không nặng lòng với người vợ cũ thì Hiếu đã… Nhưng Hiếu lại sợ cái Dậu vì khó khăn mà bỏ chạy. Ở đời này, có ai lai đi làm giúp việc nuôi hai đứa trẻ sơ sinh mà lại không có tiền công? Dậu bỏ đi lúc này thì Hiếu sẽ gặp khó khăn biết nhường nào. Bà cụ Nghĩa nghe con trai tâm sự, biết rằng Hiếu chưa nguôi ngoai nỗi đau thắt ruột mới trải qua. Bà chỉ dặn con: “Mỗi việc làm của con ngày nay là cho cả năm con người. Con nhớ đừng tính quẫn. Bố mẹ già rồi, nếu đi theo tiên tổ được thì cũng không có gì đáng tiếc. Nhưng còn hai đứa bé. Con phải thương yêu chúng nó, bù trì cho chúng nó, con ạ!”. 65. Xuất hiện người thứ ba Giữa lúc Dậu còn đang bối rối về quan hệ với bố của hai đứa trẻ Hi Vọng và Hạnh Nguyên thì lại có thêm một tình huống mới. Bà ngoại của hai cháu Hi Vọng và Hạnh Nguyên đường đột đưa đến nhà một người phụ nữ lạ hoắc và giới thiệu với bà cụ Nghĩa: “Đây là em họ của mẹ hai đứa cháu. Chúng tôi giới thiệu với ông bà để cho dì nó ở đây trông nom hai đứa”. Tên của người phụ nữ mới đến là Mật. Bà ngoại của hai đứa giới thiệu rằng cô Mật là em họ của vợ anh Hiếu. Bà ngoại phải vận động mãi cô mới chịu lên chăm sóc hai cháu. “Thôi thì sểnh cha còn chú, sểnh mẹ con ấp vú dì”. Bà ngoại nói xong thì nước mắt cứ lã chã tuôn rơi. Nỗi đau mất con, nỗi xót thương hai đứa cháu đá làm bà ốm lên ốm xuống mất mấy tháng liền. Vừa hồi phục lại bà đã phải cất công đi tìm khắp họ gần, họ xa, tuyển được cô Mật lên với hai cháu. Cô Mật thuộc diện người phụ nữ khô chân gân mặt, tuổi trạc ngoài ba mươi. Cô sống ở nông thôn mới ra phố nên cử chỉ còn khép nép, vụng về lắm. Suốt từ lúc vào nhà tới giờ, cô Mật chỉ ngồi yên ở một góc ghế, hai tay bứt rứt, ngọng nghịu. Thi thoảng bà cụ Nghĩa có lời hỏi thăm thì cô chỉ cúi gằm và nói ấp úng trong cổ họng. Mọi sự giới thiệu về cô Mật thì chỉ có mẹ vợ của anh Hiếu làm người dẫn chương trình. Bà cụ Nghĩa lại hỏi: - Chị Mật đã lập gia đình chưa? Đến lúc này cô Mật mới bật lò xo, trả lời: - Dạ chửa ạ! Bà cụ Nghĩa hỏi lại: - Sao? Chị đang có chửa à? Con so hay con rạ đấy? Bà thông gia MC liền đỡ lời: - Không, cháu nó chưa có ai đâu bà ạ! Ở nhà quê, gia đình lại khó khăn nên cháu nó chưa nghĩ tới. Bà cụ Nghĩa hiểu ý nên tế nhị lái câu chuyện sang hướng khác. Bà thông gia còn phân bua về việc ít thời gian chăm sóc cháu ngoại sau khi mẹ của hai đứa ra đi. Chả là vào thời kỳ ấy, ông ngoại bị bạo bệnh nên bà phải phục dịch ông ở bệnh viện và ở nhà. Lại thêm hai đứa cháu nội quặt quẹo, ốm đau nên bà không có lúc nào ra phố trông nom cháu ngoại. May mà nhờ giời lại cho anh em nó chịu ăn, chịu chơi. Nhìn chúng nó ngoan ngoãn, vô tư vui chơi như hai thiên thần bé nhỏ, bà ngoại không khỏi áy náy như có lỗi với con gái đã khuất và hai cháu. Bà hỏi bà cụ Nghĩa: - Anh Hiếu vẫn đi làm suốt ngày đấy ạ? Thế thì chả có thời gian nào la cho hai đứa, bà nhẩy? Bà cụ Nghĩa vẫn ôn tồn nói: - Bố nó bây giờ là cái đầu tàu kéo cả gia đình này. Nó không đi làm thì cả nhà trông vào ai được. Hai bà thông gia thở dài, thở ngắn khắc khoải lo lắng cho anh Hiếu. Nói xa, nói gần rồi bà mẹ vợ của anh Hiếu cũng thổ lộ: - Thương con, thương cháu thì cả hai nhà đều nặng lòng nhưng nghĩ cách gì đỡ cho con cho cháu thì thấy khó quá. Gia tộc nhà tôi muốn xin ông bà cho dì của hai đứa lên đây để đỡ đần anh Hiếu và hai đứa… Bà cụ Nghĩa hiểu ý bà thông gia nhưng chưa biết nói thế nào cho phải. Từ chối thì chắc bà thông gia không bằng lòng. Nhận lời thì còn khó gấp ngàn lần. Liệu anh Hiếu con trai bà có thuận không? Liệu cô ấy có thật lòng thương hai đứa trẻ mồ côi không? Sau này nếu anh Hiếu ưng thuận thì ắt cô ấy phải sinh con, liệu tình cảm của cô với hai đứa lớn có được như bây giờ không? Cái gia đình năm, sáu miệng ăn như gia cảnh nhà anh Hiếu liệu có được cơm lành, canh ngọt? bà cụ Nghĩa rùng mình khi nghĩ tới cảnh đá thúng đụng nia của người mẹ kế với con chồng. Hạnh phúc gia đình lúc ấy chỉ như tấm chăn ngắn, đắp cho năm sáu người, người này kéo thì người kia hở, không làm thế nào đắp đủ cho tất cả. Liệu hai đứa trẻ mồ côi có được đắp tấm chăn ấy không? Bữa cơm đãi thông gia của bà cụ Nghĩa có các món ăn đồng quê do bà thông gia mang lên và do bàn tay cô Mật chế biến khá đậm đà. Cô luộc cá rô đồng, bỏ hết xương hom, xương đầu để nấu nồi canh rau cải. Một đĩa tôm rảo tự nhiên vùng nước lợ đã rang khô ăn vừa chắc thịt vừa ngọt miệng. Riêng hai đứa trẻ thì bà ngoại dành cho những chiếc đùi ếch rim với nước mắm cáy ninh thành nước cháo cho hai đứa ăn vài ngày. Cái Dậu bữa ấy không phải làm bếp mà chỉ làm bổn phận trông hai đứa trẻ. Nó có cảm giác sắp phải ra rìa, không được chủ động với mọi công việc trong nhà. Dậu nói thầm với hai đứa trẻ: “Từ nay Hi Vọng và Hạnh Nguyên sẽ có dì thay mẹ rồi nhá!”. Nói thế nhưng cái Dậu vẫn ngờ ngợ, bán tín bán nghi vì việc này chú Hiếu chưa hề biết. Phải chăng đêm nay, chú Hiếu về sẽ hay.
Ðề: Bỏ làng ... ra phố Đọc một mạch hết cả mấy trang chuyện. đọc truyện mà cảm động quá chủ tóp ạ. chờ chuyện tiếp..................