1. Nhu cầu dinh dưỡng Chế độ ǎn uống của người mẹ có vai trò quan trọng quyết định đối với sự phát triển của thai nhi. Người mẹ phải ǎn uống cho mình và cho cả con trong bụng. Trong suốt thời kỳ có thai, người mẹ cần tǎng được từ 10kg đến 12kg và không nên tăng quá 18kg, như thế vừa tốt cho thai nhi và bạn cũng không phải lo lắng nhiều về vấn đề cân nặng của bạn sau khi sinh. Những trường hợp người mẹ bị thiếu ǎn hoặc ǎn uống kiêng khem không hợp lý chính là nguyên nhân của suy dinh dưỡng trong bào thai, trẻ đẻ ra có cân nặng thấp dưới 2500g. Khi có thai, nuôi con bú, nhu cầu về nǎng lượng và các chất dinh dưỡng đòi hỏi cao hơn ở mức bình thường vì nhu cầu ngoài đảm bảo cung cấp cho các hoạt động của cơ thể, sự thay đổi về sinh lý của người mẹ như biến đổi về chuyển hoá, tích luỹ mỡ, tǎng cân, sự tǎng về khối lượng của tử cung, vú, còn cần thiết cho sự phát triển của thai nhi và tạo sữa cho con bú. * Tǎng thêm nǎng lượng: Nhu cầu nǎng lượng của bà mẹ có thai 6 tháng cuối là 2550 Kcal/ngày, như vậy, nǎng lượng tǎng thêm hơn người bình thường mỗi ngày là 350 Kcal. Để đạt được mức tǎng này, người mẹ cần ǎn thêm 1 đến 2 bát cơm. Đối với bà mẹ nuôi con bú, nǎng lượng cung cấp tỷ lệ với lượng sữa sản xuất, nhưng nói chung, ở bà mẹ nuôi con 6 tháng đầu, nǎng lượng cần đạt được 2750 Kcal/ngày, như vậy, nǎng lượng tǎng thêm mỗi ngày là 550 Kcal (tương đương với 3 bát cơm mỗi ngày). * Bổ sung chất đạm và chất béo giúp việc xây dựng và phát triển cơ thể cho trẻ: Khi mang thai, nhu cầu chất đạm ở người mẹ tǎng lên giúp việc xây dựng và phát triển cơ thể của trẻ. Ngoài cơm (và lương thực khác) ǎn đủ no, bữa ǎn cho bà mẹ có thai cần có thức ǎn để bổ sung chất đạm và chất béo. Trước hết, cần chú ý đến nguồn chất đạm từ các thức ǎn thực vật như đậu tương, đậu xanh, các loại đậu khác và vừng lạc. Đây là những thức ǎn giá rẻ hơn thịt, nhưng có lượng đạm cao, lại có chất béo giúp tǎng nǎng lượng bữa ǎn và giúp hấp thu tốt các vitamin tan trong dầu (vitamin A,D,E). Chất đạm động vật đáng chú ý là các loại thủy sản như tôm, cua, cá, ốc... có điều nên cố gắng có thêm thịt, trứng, sữa. Nhu cầu chất đạm cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai 3 tháng cuối: 70g/ngày, còn đối với bà mẹ cho con bú cần cao hơn 83g/ngày. * Bổ sung vitamin, chất khoáng và các yếu tố vi lượng: Trong khi có thai cũng như nuôi con bú, với khẩu phần ǎn cân đối sẽ đảm bảo cung cấp vitamin, các chất khoáng và các yếu tố vi lượng. Trong thời kỳ có thai, cần khuyên người mẹ nên ǎn các loại thức ǎn, thực phẩm có nhiều vitamin C như rau, quả, các loại thức ǎn có nhiều canxi, photpho (cá, cua, tôm, sữa... ) để giúp cho sự tạo xương của thai nhi. Các thức ǎn có nhiều sắt như thịt, trứng, các loại đậu đỗ... để đề phòng thiếu máu. Khi cho con bú, đề phòng bệnh khô mắt do thiếu vitamin A, người ta khuyên người mẹ nên ǎn các thức ǎn có nhiều protein và vitamin như trứng, sữa, cá, thịt, đậu đỗ và các loại rau, quả có nhiều caroten (tiền vitamin A) như rau muống, rau ngót, rau dền, đu đủ, gấc, xoài... Ngoài ra, nên cho người mẹ trong vòng một tháng đầu sau khi sinh uống một liều vitamin A 200.000 đơn vị để đủ vitamin A trong sữa cho con bú 6 tháng đầu. 2. Chế độ ǎn. Trong thời kỳ có thai, nuôi con bú, chế độ ǎn uống rất quan trọng vì có ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả mẹ lẫn con. Trong chế độ ǎn, người mẹ không nên kiêng khem, nhưng cũng cần chú ý một số vấn đề nên hạn chế trong ǎn uống như: - Không nên dùng các loại kích thích như rượu, cà phê, thuốc lá, nước chè đặc... - Giảm ǎn các loại gia vị như ớt, hạt tiêu, tỏi, dấm. Trong khi có thai và cho con bú, người mẹ phải ǎn nhiều hơn bình thường. Trước hết, bữa ǎn cần cung cấp đủ nǎng lượng, nguồn nǎng lượng trong bữa ǎn ở nước ta chủ yếu dựa vào lương thực như gạo, ngô, mỳ... Các loại khoai củ cũng là nguồn nǎng lượng, nhưng ít chất đạm (protein), do đó chỉ nên ǎn trộn, không ǎn trừ bữa. Gạo nên chọn loại gạo tốt, không xay xát quá trắng vì sẽ mất nhiều chất dinh dưỡng, đặc biệt là vitamin B1 chống bệnh tê phù. Trong bữa ǎn, cần cung cấp đủ chất đạm (protein), vì chất đạm cần cho thai lớn, mẹ đủ sữa. Các loại thức ǎn động vật như thịt, cá, trứng sữa có nhiều chất đạm quí. Nhiều loại thức ǎn thực vật cũng giàu chất đạm, đó là các loại họ đậu (đậu tương, đậu xanh, đậu đen), lạc hạt, vừng. Khi có điều kiện, bữa ǎn hàng ngày nên có thêm thịt, cá, nếu không cũng có thêm đậu, lạc. Trong 3 tháng cuối, mỗi ngày nên ǎn thêm 1 quả trứng. Các thức ǎn như đậu tương, lạc, vừng và dầu mỡ còn cung cấp cho cơ thể chất béo, làm bữa ǎn ngon miệng, chóng tǎng cân và dễ hấp thu các chất dinh dưỡng khác. Hàng ngày, bữa ǎn của phụ nữ có thai và cho con bú không thể thiếu rau xanh là thức ǎn có nhiều vitamin và chất khoáng. Các loại rau phổ biến ở nước ta như rau ngót, rau muống, rau dền, xà lách... có nhiều vitamin C và caroten. Các loại quả chín như chuối, đu đủ, cam, xoài,... cũng rất cần thiết cho bà mẹ. Nếu có điều kiện, nên ǎn thêm quả hàng ngày. Các loại thức ǎn nói trên phần lớn có thể dựa vào vườn rau, ao cá và chuồng chǎn nuôi ở gia đình (VAC). Trong thời gian có thai, cho con bú, nếu người mẹ được sự quan tâm, chǎm sóc chu đáo của gia đình và xã hội, được sự theo dõi đầy đủ của nhân viên y tế, đó là nguồn động viên giúp họ yên tâm, phấn khởi, tin tưởng sinh đẻ được "mẹ tròn con vuông" và nuôi con có nhiều sữa, con cái sẽ khoẻ mạnh, ít ốm đau, bệnh tật. 3. Phòng chống thiếu máu dinh dưỡng khi có thai Thiếu máu là bệnh dinh dưỡng hay gặp ở phụ nữ có thai, đặc biệt là ở những người đẻ dày và ǎn uống thiếu thốn. Bệnh thiếu máu có ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ cả mẹ lẫn con. - Đối với mẹ: Người mẹ thiếu máu thường mệt mỏi, chóng mặt, khó thở khi gắng sức, khi đẻ có nhiều rủi ro. Tỷ lệ tử vong khi đẻ ở những người mẹ thiếu máu cao hơn hẳn ở bà mẹ bình thường. Do đó, người ta đã coi thiếu máu là một yếu tố nguy cơ trong sản khoa. - Đối với con: Thiếu máu thường gây tình trạng đẻ non và tử vong sơ sinh cao. Thiếu máu dinh dưỡng ở trẻ sơ sinh thường là do mẹ bị thiếu sắt nên lượng sắt dự trữ của cơ thể trẻ thấp. Ǎn uống hợp lý là biện pháp phòng chống bệnh thiếu máu tốt nhất, các thức ǎn có nhiều chất sắt là các loại đậu đỗ, các loại rau xanh (rau ngót, rau dền, rau khoai, rau bí...), các loại phủ tạng như tim, gan, thận... - Bổ sung viên sắt: Ngay từ khi bắt đầu có thai, tất cả các bà mẹ nên uống viên sắt. Với loại viên có hàm lượng là 60mg sắt nguyên tố, ngày uống một viên trước khi ngủ. Uống liên tục trong suốt thời kỳ có thai đến một tháng sau khi sinh. Để tǎng quá trình chuyển hoá và hấp thu sắt, cần tǎng cường vitamin C, do đó cần ǎn đủ rau xanh và quả chín. Những món ăn mà thai phụ cần tránh - Cà phê, trà, các chất kích thích, các món ăn rán (chiên), các loại bánh có nhiều kem, các loại nước uống đóng hộp có nhiều đường đều không phải là những thực phẩm tốt cho phụ nữ đang mang thai. Để giữ gìn sức khỏe trong những ngày đầu xuân, phụ nữ mang thai không nên hoặc hạn chế tối đa sử dụng những loại thực phẩm sau: - Thực phẩm chế biến sẵn: Đồ hộp hay thức ăn đóng gói sẵn luôn có những chất bảo quản, phẩm màu, gia vị... đều không tốt cho phụ nữ mang thai. Ngoài ra những loại thực phẩm này lại nghèo vitamin, nhất là vitamin C. - Chất béo: Đối với những phụ nữ mang thai, chất béo luôn khó tiêu, lại gây tăng cân nhanh. - Muối: Phụ nữ có thai nên ăn ít muối, bởi lạm dụng muối trong thức ăn sẽ có thể dẫn tới chứng phù, tiền sản giật. - Đường: Những loại thực phẩm như: bánh, mứt, kẹo có lượng đường quá nhiều, đối với người đang mang thai nên hạn chế vì đường rất dễ gây tăng trọng lượng cơ thể. Nếu lượng đường trong máu người mẹ quá cao rất dễ gây biến chứng không tốt cho cả mẹ lẫn con. Rượu và thuốc lá: Rượu và thuốc lá luôn là kẻ thù của sức khỏe con người. Đối với phụ nữ mang thai, rượu và thuốc lá làm chậm mọi quá trình phát triển của thai nhi, thai nhi dễ có những bất thường về tâm thần.