Thông tin: Việt Nam Lược Sử Diễn Ca

Thảo luận trong 'Các vấn đề giáo dục khác' bởi ngoinhahanhphu, 31/1/2016.

  1. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI

    Vào cuối thời nguyên thủy,
    Cư dân sống rất đông
    Ở những vùng đất lớn
    Dọc theo các dòng sông,

    Như sông Nin Ai Cập,
    Sông Dương Tử, Trường Giang,
    Trung Hoa thời cổ đại.
    Ở Ấn Độ - sông Hằng.

    Ti-grơ, Ơ-phơ-rat,
    Hai sông nặng phù sa,
    Ở khu vực Tây Á,
    Còn gọi là Lưỡng Hà.

    Nhờ nông cụ cải tiến,
    Đất rộng và phì nhiêu,
    Nông nghiệp phát triển mạnh,
    Năng suất cao hơn nhiều.

    Đặc biệt là lúa gạo,
    Cả khoai sắn, rau, dưa.
    Chăn nuôi cũng phát triển,
    Đã có phần dư thừa.

    Vậy là có chiếm hữu -
    Có người không đủ ăn,
    Có người thành giàu có,
    Giai cấp hình thành dần.

    Năm nghìn năm về trước,
    Lần đầu tiên, quốc gia
    Hình thành ở Ai Cập,
    Trung Quốc và Lưỡng Hà.

    Ở các quốc gia ấy
    Dân sống bằng nghề nông,
    Nhưng họ không có ruộng,
    Chỉ là người làm công.

    Sau mỗi mùa thu hoạch
    Họ phải nộp, trung bình,
    Một phần ba sản phẩm
    Cho chúa đất của mình.

    Ngoài ra phải lao dịch,
    Tức là làm không công
    Cho nhà giàu, quí tộc,
    Và cho cả cộng đồng.

    Bọn nhà giàu, quí tộc
    Không làm việc chân tay,
    Vì có người hầu hạ
    Suốt cả đêm lẫn ngày.

    Đó là các nô lệ,
    Vốn là những tù binh,
    Những người nghèo bị ép
    Bán sức để nuôi mình.

    Đứng đầu lớp quí tộc
    Có ông vua, ông này
    Nắm hết mọi quyền lực
    Trong mọi việc hàng ngày.

    Hơn thế, vua tự nhận
    Là thánh thần, hơn người.
    Trung Quốc là Thiên Tử,
    Nôm na là con trời.

    Còn ở nước Ai Cập
    Vua là Pha-ra-ông,
    Tức là “ngôi nhà lớn”.
    Các cháu thấy kỳ không?

    Để giúp việc vua ấy,
    Một bộ máy chính quyền
    Do quí tộc nắm giữ,
    Suốt từ dưới lên trên.

    Chúng bắt dân đóng thuế,
    Bắt đi lính, bắt phu,
    Xây cung điện, ai chống
    Sẽ bị giết, bỏ tù…

    *
    Vậy là ông đã nói
    Ngắn gọn trong mấy dòng
    Về ba quốc gia cổ,
    Tất cả đều Phương Đông.

    Giờ các cháu nghe tiếp
    Về hai nước Phương Tây,
    Rô-ma và Hy Lạp,
    Được hình thành thế này.

    Có hai bán đảo nhỏ
    Ở miền Nam châu Âu,
    Nhô ra Địa Trung Hải.
    Ở nơi ấy, từ lâu,

    Hơn ba nghìn năm trước
    Hình thành hai quốc gia,
    Là Hy Lạp cổ đại
    Và nhà nước Rô-ma.

    Đất ở đây không tốt
    Như các nước Phương Đông,
    Nên người dân buộc phải
    Tìm giống và chọn trồng

    Nhiều cây lưu niên phụ,
    Như ô-liu và nho.
    Chúng không cần nhiều nước,
    Nhưng quả mọng và to.

    Đặc biệt hai nước ấy
    Không chỉ giỏi nghề nông,
    Còn giỏi nghề làm rượu
    Và nhiều nghề thủ công,

    Như nghề luyện kim loại
    Làm công cụ, nữ trang,
    Nghề thủy tinh, gốm sứ,
    Cả nghề tìm, đãi vàng.

    Rô-ma và Hy Lạp
    Có nhiều cảng nước sâu,
    Nên buôn bán phát triển,
    Tấp nập thuyền và tàu.

    Xã hội hai nước ấy
    Gồm có hai loại người -
    Chủ nô và nô lệ.
    Tỉ lệ một trên mười.

    Nô lệ phải làm việc
    “Như nô lệ”, tất nhiên.
    Bị coi như súc vật,
    Không cơm áo, gạo tiền.

    Chủ nô, tức quí tộc,
    Lại sung sướng cực kỳ.
    Chỉ ăn chơi, nhảy múa,
    Không động tay làm gì.

    Nô lệ đã khởi nghĩa
    Rất nhiều lần ở đây,
    Vì họ không cam chịu
    Cuộc sống bất công này.

    *
    Vào buổi bình minh ấy,
    Các quốc gia cổ xưa
    Đạt được những thành tựu,
    Cũng không phải loại vừa.

    Trung Quốc có âm lịch,
    Mười hai tháng một năm.
    Ba mươi ngày một tháng,
    Tính toán cả ngày rằm.

    Họ có đồng hồ nước,
    Đồng hồ cát để bàn
    Để đo và tính toán
    Giờ giấc và thời gian.

    Người Phương Đông thời cổ
    Nghĩ ra chữ tượng hình
    Để ghi lại cảm nghĩ
    Và văn hóa của mình.

    Trong lĩnh vực toán học,
    Người Lưỡng Hà là người
    Nghĩ ra các con số
    Từ một cho đến mười.

    Những con số đơn giản
    Các cháu dùng ngày nay.
    Đơn giản như khi đếm
    Mười ngón trên hai tay.

    Trong khi người Ai Cập
    Lại tìm ra số Pi,
    Vì họ giỏi Hình Học,
    Chính xác đến lạ kỳ.

    Trong lĩnh vực xây dựng,
    Họ để lại cho ta
    Rất nhiều Kim Tự Tháp,
    Thành quách ở Lưỡng Hà.

    Người Rô-ma, Hy Lạp
    Vào thời ấy mịt mùng
    Đã có bảng chữ cái
    Nay nhiều nước vẫn dùng.

    Trong các lĩnh vực khác,
    Như Toán, Sử, thơ văn,
    Vật Lý, Triết, Hình Học,
    Điêu Khắc, Địa, vân vân,

    Xuất hiện nhiều tên tuổi
    Có thể gọi khổng lồ -
    Pla-tông, A-si-met,
    Ta-let, Pi-ta-go…

    Trong lĩnh vực xây dựng
    Và kiến trúc ở đây,
    Nhiều công trình đồ sộ
    Tồn tại đến ngày nay.

    Ông đã chiêm ngưỡng chúng -
    Đấu trường Cô-li-dê
    Ở Rô-ma cổ kính.
    Không tin à? Ông thề.

    Ông còn đến Hy Lạp,
    Thăm đền Pac-tê-nông.
    To, đẹp, hoành tráng lắm.
    Sao, lại không tin ông?

    Mai sau các cháu lớn,
    Cứ đến những nơi này,
    Ngắm chúng và hãy nhớ
    Lời ông nói hôm nay.

    Các cháu mệt chưa nhỉ?
    Chưa à? Có gì đâu.
    Học lịch sử thích lắm,
    Như ông nói từ đầu.

    Ngày mai ông sẽ nói
    Về lịch sử nước nhà.
    Giờ ngồi im, ông kể
    Chuyện một cậu lớp Ba.

    Câu chuyện này có thật,
    Đúng mắt thấy, tai nghe,
    Khi thăm nhà người bạn,
    Mới đây thôi, xin thề.
     

    Xem thêm các chủ đề tạo bởi ngoinhahanhphu
    Đang tải...


  2. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    NƯỚC VĂN LANG

    Vào thời xa xưa ấy
    Đất nước của chúng ta
    Là một vùng rậm rạp
    Núi và đồi bao la.

    Có rất nhiều hang động
    Và cây cối tốt tươi
    Cùng nhiều loài động vật,
    Tất nhiên, có cả người.

    Các nhà khảo cổ học,
    Năm sáu mươi, sáu lăm,
    Tìm thấy dấu tích họ,
    Ba, bốn trăm triệu năm.

    Họ sinh sống rải rác
    Ở Hòa Bình, Hạ Long,
    Nghệ An và Phú Thọ…
    Chủ yếu dọc các sông.

    Ngoài săn bắn, hái lượm,
    Để có thêm thức ăn,
    Họ chăn nuôi, trồng trọt,
    Cuộc sống khá hơn dần.

    Gần ba nghìn năm trước,
    Dọc theo các triền sông
    Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ,
    Như sông Mã, sông Hồng,

    Có nhiều bộ lạc lớn,
    Đã hình thành khắp nơi,
    Chung phong tục, ngôn ngữ,
    Hùng mạnh và đông người.

    Trong đó, hùng mạnh nhất
    Là bộ lạc Văn Lang
    Ở Việt Trì, Phú Thọ,
    Sống theo các bản làng.

    Khoảng thế kỷ thứ Bảy
    Trước Công Nguyên, một người,
    Một thủ lĩnh tài giỏi
    Của Văn Lang ra đời.

    Ông nhanh chóng khuất phục
    Các bộ lạc bốn phương,
    Thanh thế rất mạnh mẽ,
    Rồi tự xưng Hùng Vương.

    Ông lập một nước mới,
    Đặt tên là Văn Lang,
    Đóng đô ở Phú Thọ,
    Thuộc thời đại Hồng Bàng.

    Đất nước ấy rộng lớn,
    Gồm Bắc Bộ bây giờ
    Và vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh,
    Phong cảnh đẹp, nên thơ.

    Nước có mười lăm bộ,
    Giống huyện quận ngày nay,
    Đứng đầu là Lạc Tướng.
    Bên dưới các bộ này

    Có rất nhiều chiềng, chạ,
    Tương đương như xã, làng,
    Đứng đầu là Bồ Chính,
    Chức quan thời Văn Lang.

    Nhà nước chưa có luật,
    Cả quân đội cũng không.
    Mỗi khi có chiến sự,
    Các trai tráng một lòng

    Theo lệnh vua chiến đấu.
    Lạc Tướng luôn dẫn đầu.
    Lo các việc chính sự
    Có các quan Lạc Hầu.

    Kiểu cha truyền con nối,
    Các vua lên ngai vàng.
    Mị Nương là công chúa.
    Hoàng tử là Quan Lang.

    *
    Là một nước nông nghiệp,
    Dân nước ta bấy giờ
    Giỏi về canh tác lúa,
    Biết dệt vải, thêu thùa.

    Chiếc trống đồng Ngọc Lũ,
    Phát hiện ở Hà Nam
    Và một số trống khác
    Cũng người thời ấy làm.

    Họ còn biết dùng sắt
    Đúc vũ khí, lưỡi cày.
    Đánh cá, nuôi gia súc,
    Đóng thuyền và trồng cây.

    Vì còn nhiều thú dữ
    Nên dân ở nhà sàn.
    Nhà làm bằng tre nứa,
    Tường là các tấm đan.

    Nam giới chỉ đóng khố.
    Nữ mặc váy, yếm che.
    Chân trần, đầu thường đội
    Một vòng lông chim xòe.

    Dân Văn Lang thời ấy
    Xăm mình, nhuộm răng đen.
    Theo chế độ mẫu hệ
    Và thờ cúng tổ tiên.

    Vào những ngày lễ hội
    Họ tổ chức đua thuyền,
    Thi giã gạo, làm bánh,
    Trong tiếng trống, tiếng kèn.

    Nước Văn Lang thế đấy,
    Có từ thời xa xưa.
    Một đất nước rộng lớn.
    Các cháu nghe, nhớ chưa?

    Bây giờ ông sẽ kể
    Câu chuyện cổ tích này,
    Xẩy ra vào thời ấy.
    Về bánh chưng, bánh dày.
     
  3. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    NƯỚC ÂU LẠC

    Đời Hùng Vương Mười Tám,
    Tức thế kỷ thứ Ba,
    Trước Công Nguyên, hẳn thế,
    Nước Văn Lang chúng ta

    Không yên bình như trước.
    Vua quan lo ăn chơi,
    Không lo chuyện phòng vệ.
    Dân đói ăn nhiều nơi.

    Trong khi đó, Phương Bắc,
    Vua Tần, Tần Thủy Hoàng,
    Vào năm Hai Một Tám,
    Cho đánh chiếm Văn Lang.

    Người Lạc Việt thời ấy
    Sống cùng người Tây Âu,
    Còn gọi là Âu Việt,
    Có quan hệ từ lâu.

    Họ hợp sức chiến đấu.
    Quân giặc mạnh và đông,
    Giết thủ lĩnh Âu Việt,
    Nhưng họ không nản lòng.

    Sử cũ Trung Quốc chép
    Về quân dân Văn Lang:
    “Người Việt bỏ lên núi,
    Nhất quyết không đầu hàng.

    Ngày án binh bất động,
    Đêm quấy nhiễu quân Tần.
    Họ tôn một hào kiệt
    Để lãnh đạo toàn dân.”

    Hào kiệt ấy, Thục Phán,
    Vừa có đức, có tài,
    Ngăn được bọn xâm lược,
    Làm chiến tranh kéo dài.

    Sáu năm trời ròng rã
    Quân giặc bị giam chân.
    Trong một trận quyết chiến,
    Quân Việt thắng quân Tần.

    Tướng giặc bị giết chết
    Là Hiệu Úy Đồ Thư.
    Nhà Tần phải ra lệnh
    Cho rút quân từ từ.

    Vào năm Hai Không Bảy,
    Sau chiến thắng không lâu,
    Thục Phán lên ngôi báu.
    Lạc Việt và Tây Âu

    Được sáp nhập làm một,
    Một nước mới ra đời,
    Có tên là Âu Lạc,
    Đất rộng và đông người.

    Kinh đô của Âu Lạc
    Đóng ở vùng Cổ Loa,
    Một vùng đất bằng phẳng,
    Cách Bờ Hồ không xa.

    An Dương Vương Thục Phán
    Sau khi lên ngai vàng,
    Giữ nguyên bộ máy cũ
    Của vua Hùng Văn Lang.

    Nước vẫn chia thành bộ,
    Có Lạc Tướng, Lạc Hầu,
    Bồ Chính và chiềng chạ…
    Vốn tồn tại từ lâu.

    Đất nước đã phát triển,
    Trước hết là nghề nông,
    Nghề chăn nuôi, dệt vải,
    Rồi các nghề thủ công.

    Dân số gia tăng mạnh,
    Nhưng khoảng cách giàu nghèo
    Cũng gia tăng tương ứng,
    Làm mâu thuẫn tăng theo.

    *
    Các cháu nghe, hiểu chứ?
    Giờ ông kể vì sao
    Âu Lạc đã sụp đổ,
    Và trong hoàn cảnh nào.

    Thục Phán cho xây dựng
    Ở kinh đô của mình
    Một khu thành bằng đất,
    Sau gọi là Loa Thành.

    Sử cũ chép: “Thành ấy
    Rộng nghìn trượng, hình tròn,
    Như chiếc loa vỏ ốc…”
    Nay di tích vẫn còn.

    Với ba vòng khép kín,
    Tường thành này rất dài,
    Những mười sáu nghìn mét,
    Nếu ông nhớ không sai.

    Mặt thành khoảng mười mét.
    Chiều cao - năm đến mười.
    Chân thành, để đứng vững,
    Có chỗ rộng hai mươi.

    Có hào sâu đầy nước
    Bao bọc xung quanh thành,
    Thông với một đầm lớn,
    Dành cho các thủy binh.

    Giữa là khu Thành Nội,
    Nơi ở của Hoàng Gia,
    Cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng
    Đầy tớ và người nhà.

    Cổ Loa, thành xưa ấy,
    Không chỉ là kinh đô,
    Mà còn một chiến lũy,
    Cùng quân đội, lương kho.

    *
    Đất nước mới thành lập,
    Được ít năm yên hòa
    Thì có họa xâm lược
    Từ phía quân Triệu Đà.

    Triệu Đà là viên tướng
    Được vua Tần ủy quyền
    Cai quản xứ Lưỡng Quảng
    Và những vùng kề bên.

    Vào năm Hai Không Bảy,
    Nhà Tần yếu, Triệu Đà
    Lập nên nước Nam Việt
    Ở vùng đất giáp ta.

    Chẳng bao lâu sau đó
    Triệu Đà đã dấy binh,
    Rắp tâm đánh Âu Lạc,
    Những tưởng sẽ thắng nhanh.

    Tuy nhiên, quân Âu Lạc,
    Có lợi thế đất nhà,
    Tướng giỏi, vũ khí tốt,
    Nên hắn thua, xin hòa.

    Vào năm Một Bảy Chín,
    Hắn lần nữa xuất quân
    Sau khi đã ly gián
    Thục Phán và triều thần.

    Do không còn tướng giỏi,
    Không chủ động phòng xa,
    Đất nước ta, Âu Lạc,
    Lọt vào tay Triệu Đà.

    Vậy là các cháu thấy,
    Thục Phán An Dương Vương,
    Chỉ vì do khinh xuất,
    Mà phải chết thảm thương.

    Cũng bắt đầu từ đó,
    Suốt một nghìn năm dài,
    Dân ta là nô lệ
    Của phong kiến nước ngoài.

    Trong suốt nghìn năm ấy
    Không khuất phục, đầu hàng,
    Nhân dân ta nổi dậy,
    Lập nhiều trang sử vàng.
     
  4. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    HAI BÀ TRƯNG (mất năm 43)

    Bắt đầu giai đoạn mới
    Trong lịch sử nước nhà -
    Một nghìn năm lệ thuộc
    Vào phong kiến Trung Hoa.

    Vào năm Một Bảy Chín
    Trước Công Nguyên, Triệu Đà
    Sáp nhập vào Nam Việt
    Nước Âu Lạc của ta.

    Nam Việt, như ta biết
    Là Lưỡng Quảng ngày nay,
    Vùng đất thuộc Trung Quốc,
    Tức Quảng Đông, Quảng Tây.

    Triệu Đà chia Âu Lạc
    Thành hai quận, đông dân
    Và rộng lớn lúc ấy,
    Là Giao Chỉ, Cửu Chân.

    Giao Chỉ ở Miền Bắc,
    Còn Cửu Chân bây giờ
    Thuộc vùng Thanh Nghệ Tĩnh,
    Phong cảnh đẹp, nên thơ.

    Vào năm Một Một Một,
    Nhà Hán chiếm nước ta.
    Lập thêm một quận nữa,
    Nhật Nam, quận thứ ba.

    Quận này đất cũng rộng,
    Nhưng người thưa, hanh khô,
    Từ Quảng Bình cát trắng
    Đến Quảng Nam bây giờ.

    Nhà Hán nhập ba quận
    Với vùng đất người Tàu,
    Thành một Châu rộng lớn,
    Đặt tên là Giao Châu.

    Thủ phủ của Châu ấy
    Đóng ở huyện Thuận Thành.
    Luy Lâu là tên cũ,
    Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.

    Thái Thú đứng đầu quận.
    Thứ Sử đứng đầu Châu.
    Tất cả đều người Hán.
    Còn Lạc Tướng, Lạc Hầu

    Vẫn giữ nguyên người Việt.
    Cai trị vẫn như xưa.
    Dân chịu nhiều sưu thuế,
    Thân phận như trâu, lừa.

    Năm Ba Tư, Tô Định
    Được nhà Hán cử sang
    Làm Thái Thú Giao Chỉ.
    Tên này loại làng nhàng,

    Nhưng nham hiểm, độc ác,
    Chuyên vơ vét cho mình,
    Làm nhiều điều ngang ngược,
    Gây khổ cho dân tình.

    *
    Bấy giờ ở vùng đất
    Nay thuộc huyện Mê Linh,
    Có hai chị em gái
    Vừa đẹp vừa thông minh.

    Con một vị Lạc Tướng.
    Trưng Trắc là cô đầu.
    Cô em là Trưng Nhị,
    Ghét Tô Định từ lâu.

    Quan Thái Thú Tô Định,
    Gian xảo và đê hèn
    Lập mưu giết Thi Sách,
    Con quan huyện Châu Diên.

    Ông là chồng Trưng Trắc,
    Trước đó từng bất bình
    Với cách quan nhà Hán
    Cai trị dân nước mình.

    Vào đầu năm Canh Tý,
    Tức là năm bốn mươi,
    Hai Bà Trưng khởi nghĩa
    Thu hút rất nhiều người.

    Trước hết đền nợ nước,
    Sau để trả thù nhà.
    Nghĩa quân thắng dòn dã,
    Nức lòng dân gần xa.

    Theo truyền thuyết kể lại,
    Hay tin, Nguyễn Tam Trinh
    Từ Mai Động kéo đến
    Cùng hai nghìn tráng binh.

    Hơn ba nghìn lính nữ
    Theo chủ tướng, Ông Cai,
    Gia nhập quân khởi nghĩa,
    Từ vùng đất Thanh Oai.

    Quân Hai Bà rất mạnh.
    Sáu lăm thành đầu hàng.
    Tô Định trốn về nước,
    Nhục nhã và vội vàng.

    Hai Bà lập nước mới,
    Kinh đô ở Mê Linh,
    Đuổi Thái Thú phương Bắc,
    Cai trị theo cách mình.

    Đứng đầu đất nước ấy
    Là hai vị nữ vương.
    Xưa nay trong lịch sử,
    Một sự kiện phi thường.

    Năm Bốn Hai, nhà Hán
    Sai Mã Viện Phục Ba,
    Lưu Long làm phó tướng,
    Sang chiếm lại nước ta.

    Cùng rất nhiều xe ngựa
    Và hai vạn tinh binh
    Chúng tấn công Hợp Phố,
    Và cướp bóc dân tình.

    Mã Viện đi đường thủy,
    Lưu Long đi đường rừng,
    Gặp phải sự chống cự
    Của quân Hai Bà Trưng.

    Quân Mã Viện thế mạnh,
    Áp tới tận La Thành.
    Nghĩa quân không chống nổi,
    Rút lui bảo vệ mình.

    Sau một năm cầm cự,
    Dũng cảm và kiên cường,
    Quân Hai Bà đành rút,
    Binh sĩ chết đầy đường.

    Cuối cùng đến Phúc Thọ,
    Giặc dụ dỗ ra hàng,
    Nhưng Hai Bà tuẫn tiết,
    Nhảy xuống dòng Hát Giang.

    Ở đấy giờ đang có
    Ngôi đền thờ Hai Bà,
    Một tấm gương trung liệt,
    Trả nợ nước, thù nhà.

    Quân Mã Viện tuy thắng,
    Nhưng thiệt hại nặng nề.
    Mười phần chết sáu, bảy
    Ở vùng đất Cấm Khê.

    *
    Lại nói tướng Mã Viện,
    Khi việc bình định xong,
    Hắn ngạo nghễ cho đúc
    Chiếc cột lớn bằng đồng.

    Trên cột đồng hắn khắc
    Hai dòng chữ sơn son:
    “Khi cột đồng này gãy,
    Đất Giao Chỉ không còn.”

    Thật láo và hợm hĩnh
    Viên tướng người Tàu này.
    Cột đồng giờ chẳng thấy,
    Nước Việt vẫn còn đây.

    Hơn thế, còn hùng mạnh,
    Đã đánh đuổi nhiều lần
    Khiến quân giặc phương Bắc.
    Hoảng sợ, chẳng dám gần.

    *
    Chuyện Trưng Trắc, Trưng Nhị,
    Thế là ông kể xong.
    Một trang sử chói lọi
    Sống mãi cùng non sông.
     
  5. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    BÀ TRIỆU (225 -248)

    Hôm qua ông đã nói,
    Vì sưu thuế nặng nề,
    Dân Giao Châu cơ cực
    Và khốn khổ đủ bề.

    Nhiều nơi dân khởi nghĩa
    Chống lại ách ngoại bang,
    Khiến vua quan Trung Quốc
    Phải hoảng sợ, kinh hoàng.

    Thái Thú quận Giao Chỉ
    Là Tiết Tống tâu vua:
    “Dân Giao Chỉ khó trị,
    Đất lam chướng bốn mùa…”

    Năm Hai Trăm Bốn Tám,
    Giữa thế kỷ thứ Ba,
    Một cuộc khởi nghĩa lớn
    Có nhiều người tham gia.

    *
    Một truyền thuyết kể lại,
    Xưa ở quận Cửu Chân
    Có một con voi trắng
    To đẹp như voi thần.

    Nó xuống núi phá phách,
    Dẫm đạp hết mùa màng.
    Nhiều khi còn táo tợn
    Xông cả vào xóm làng.

    Con voi thật to lớn,
    Duy nhất chỉ một ngà.
    Ai nhìn thấy cũng sợ,
    Phải né tránh từ xa.

    Thế mà một cô gái,
    Xinh đẹp, để vai trần,
    Quyết tay không bắt nó
    Để trừ hại cho dân.

    Cô đi trước, khiêu khích,
    Nhử nó ra đầm sình,
    Rồi nhảy lên đầu nó
    Đưa về nuôi nhà mình.

    Về sau, cô gái ấy
    Chiêu quân chống giặc Ngô,
    Luôn cưỡi nó ra trận,
    Voi một ngà, khổng lồ.

    Truyền thuyết còn kể lại
    Rằng ngực cô rất dài,
    “Dài tới hơn ba thước”,
    Thường phải vắt lên vai.

    Quân giặc nhìn, cả sợ,
    Liền bỏ chạy thoát thân.
    Cô gái ấy xinh đẹp,
    Oai nghiêm như vị thần.

    *
    Cô gái trong huyền thoại,
    Tên là Triệu Thị Trinh,
    Một anh hùng dân tộc,
    Dám vì dân quên mình.

    Bà người huyện Yên Định,
    Tỉnh Thanh Hóa bây giờ,
    Không may bố mẹ chết
    Khi đang còn trẻ thơ.

    Anh bà, Triệu Quốc Đạt,
    Nuôi em như mẹ hiền.
    Ông là một hào trưởng,
    Làm huyện lệnh Quan Yên.

    Lớn lên, bà giỏi võ,
    Có sức khỏe hơn người,
    Lại nung nấu chí lớn
    Muốn ra tay giúp đời.

    Gặp người chị dâu ác,
    Bà trốn nhà đi xa,
    Lên rừng chiêu binh mã,
    Hơn nghìn người theo bà.

    Thấy giặc Ngô tàn ác,
    Bà về bàn với anh
    Cùng khởi binh chống lại,
    Và được anh đồng tình.

    Từ căn cứ Yên Định,
    Nghĩa quân lấn đánh dần,
    Chiếm quận lỵ Tư Phố,
    Rồi cả vùng Cửu Chân.

    Quốc Đạt lâm bệnh chết,
    Bà cầm quân thay anh.
    Ra trận mặc giáp bạc,
    Cưỡi voi, cài trâm anh.

    Trông bà thật lẫm liệt,
    Xinh đẹp như nữ thần,
    Nên người ta thường gọi
    Là “Nhụy Kiều Tướng quân.”

    *
    Nghe tin có bạo loạn,
    Vua Ngô rất lo âu,
    Liền cử tướng Lục Dận
    Làm thứ sử Giao Châu.

    Cùng sáu nghìn binh mã,
    Theo đường bộ tới đây,
    Hắn quyết tâm đàn áp
    Cuộc khởi nghĩa lần này.

    Hắn dùng tiền mua chuộc
    Nhiều hào trưởng địa phương,
    Hứa phong cho Bà Triệu
    Chức Lệ Hải Bà Vương.

    Tất nhiên Bà từ chối,
    Nhất quyết không đầu hàng.
    Nghĩa binh được khích lệ,
    Tinh thần càng vững vàng.

    Nhiều trận đánh ác liệt
    Ở căn cứ Bồ Điền.
    Nhưng do lực quá yếu,
    Thiếu lương thực và tiền,

    Nên chỉ sau hai tháng
    Cầm cự rất kiên cường,
    Thành Bồ Điền thất thủ,
    Rơi vào tay đối phương.

    Bà Triệu đã tuẫn tiết
    Trên núi Tùng đầy mây.
    Nó ở xã Triệu Lộc,
    Huyện Hậu Lộc ngày nay.

    Bà mới hăm ba tuổi,
    Chết, để lại tấm lòng
    Và chiến công hiển hách,
    Sống mãi với non sông.

    *
    Giờ thì các cháu thấy
    Rằng phụ nữ nước ta
    Đúng là thật oanh liệt.
    Thật oanh liệt các Bà.

    Bà Trưng rồi Bà Triệu.
    Rồi sau nữa con nhiều.
    Tổ tiên chúng ta đấy.
    Ngoan cường và đáng yêu.
     
  6. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO

    Nhà Đông Hán suy yếu,
    Đầu thế kỷ thứ ba.
    Ba nước Ngô, Thục Ngụy
    Ra đời ở Trung Hoa.

    Đó là thời Tam Quốc,
    Khi ba nước tranh tài.
    Nhà Ngô đã tự tiện
    Chia Giao Châu thành hai.

    Phần đất ở Trung Quốc
    Được gọi là Quảng Châu.
    Phần của Âu Lạc cũ
    Thì gọi là Giao Châu.

    Khi dẹp xong khởi nghĩa,
    Các triều vua Trung Hoa
    Cử người sang cai trị
    Các huyện ở nước ta.

    Cùng thời gian, đất nước
    Phát triển hơn xưa nhiều.
    Nhưng người dân vẫn khổ
    Và cơ cực đủ điều.

    Nhân tiện, ông muốn nói,
    Rằng vào thời gian này,
    Thế kỷ Một đến Sáu,
    Đã có nhiều đổi thay

    Trong đời sống văn hóa
    Và tinh thần nước ta.
    Nho Giáo rồi Đạo Giáo,
    Rồi Đạo Phật Thích Ca

    Được người Hán du nhập
    Vào đời sống hàng ngày.
    Sơ bộ, ông giải thích
    Về từng đạo thế này.

    *
    Nho Giáo, hay Khổng Giáo,
    Do Khổng Tử lập ra.
    Là bộ luật ứng xử
    Và lễ nghĩa người Hoa.

    Khổng Tử người nước Lỗ,
    Thông minh và thâm trầm,
    Một triết gia cổ đại,
    Hai nghìn năm trăm năm.

    Cơ sở của Nho Giáo
    Là Tứ Thư, Ngũ Kinh.
    Nó dạy người nhỏ tuổi
    Phải chăm lo học hành.

    Luôn kính yêu cha mẹ,
    Lớn, xây dựng nước nhà.
    Như các cụ vẫn nói:
    “Tu thân rồi tề gia…”

    Sống, có trên có dưới,
    Đúng đạo lý làm người.
    Vua được gọi “Thiên Tử”,
    Nôm na là “Con Trời’.

    Nó dạy nhiều điều khác,
    Nói chung, toàn điều hay.
    Ảnh hưởng của Nho Giáo
    Còn đến tận ngày nay.

    *
    Cùng thời với Khổng Tử,
    Có Lão Tử, là người
    Đã lập nên Đạo Giáo,
    Chủ trương sống ở đời

    Phải tuân theo số phận
    Và qui luật tự nhiên.
    Sống giản đơn, thanh bạch,
    Không lo lắng, buồn phiền.

    Ông cũng là tác giả
    Bộ sách Đạo Đức Kinh.
    Dựa vào nó, Lão Tử
    Xây dựng thuyết của mình.

    Đạo Giáo bao quát rộng,
    Ngoài nghi lễ tinh thần,
    Còn có cả tướng số,
    Thuốc chữa bệnh, thiên văn.

    Cả phép trừ ma thuật,
    Cả phong thủy, pháp thiền,
    Dưỡng sinh và diệt độc,
    Cả phép luyện thuốc tiên…

    Một người khác, Trang Tử,
    Cũng đóng góp phần mình
    Vào tư tưởng Đạo Giáo
    Bằng cuốn Nam Hoa Kinh.

    Ông này, theo truyền thuyết,
    Có giấc mơ lạ thường.
    Ông mơ mình hóa bướm,
    Bay lượn mãi bên đường.

    Tỉnh dậy, ông rất tiếc,
    Thấy mình vẫn là người,
    Không biết mơ hay tỉnh,
    Đành thở dài, mỉm cười.

    *
    Quê hương của Phật Giáo
    Không phải nước Trung Hoa,
    Mà là nước Ấn Độ.
    Đức Phật là Thích Ca.

    Ngài là người có thật,
    Sinh tháng Tư, ngày Rằm,
    Cách đây đã lâu lắm -
    Hai nghìn năm trăm năm.

    Giáo lý của Đạo Phật
    Chủ yếu ba điều này:
    Không được làm việc ác,
    Làm việc thiện hàng ngày.

    Điều thứ ba, luôn nhớ
    Làm sạch ý nghĩ mình
    Bằng cách ngồi thiền định
    Hoặc niệm Phật, cầu kinh.

    Thế giới, ba Đạo lớn,
    Là Đạo Phật lâu đời,
    Rồi đến Đạo Thiên Chúa,
    Cuối cùng là Đạo Hồi.

    Đạo Phật giúp hướng thiện,
    Xua đuổi cái ác tà,
    Làm lòng người nhân ái,
    Xã hội đẹp, hài hòa.

    Vậy là ông nói hết
    Tam Giáo của người Tàu,
    Nhập vào đời sống Việt,
    Cái thuở ấy ban đầu.
     
  7. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    LÝ BÍ (503 – 548) VÀ NHÀ TIỀN LÝ

    Đầu thế kỷ thứ Sáu,
    Nhà Lương chia nước ta
    Thành sáu châu lớn nhỏ.
    Tên các châu ấy là:

    Giao Châu ở Bắc Bộ.
    Ở Thanh Hóa - Ái Châu.
    Đức, Lợi, Minh - Nghệ Tĩnh.
    Quảng Ninh là Hoàng Châu.

    Ở Giao Châu thời ấy
    Thứ Sử là Tiêu Tư,
    Tham lam và gian ác
    Nhưng giả bộ nhân từ.

    Hắn đặt nhiều thuế mới,
    Tăng lao dịch, lao công,
    Làm người dân cơ cực,
    Luôn ấm ức trong lòng.

    Rồi một cuộc khởi nghĩa,
    Năm Năm Trăm Bốn Hai,
    Do Lý Bí khởi xướng,
    Ác liệt và kéo dài.

    Sau, ông thành vua Việt,
    Hậu duệ người Trung Hoa,
    Đó là Lý Nam Đế,
    Chính trực và tài ba.

    Vào cuối đời Tây Hán,
    Để tránh nạn đao binh,
    Tổ tiên ông phiêu dạt
    Sang nước Nam yên bình.

    Đến đời thứ mười một
    Lý Nam Đế mới sinh.
    Cụ bà ông người Việt,
    Đa tài và rất xinh.

    Ông lập nhà Tiền Lý,
    Khai sinh nước Vạn Xuân,
    Một anh hùng dân tộc,
    Sống mãi cùng nhân dân.

    Ông tên là Lý Bí,
    Sinh ở nơi ngày nay
    Là vùng đất Thạch Thất
    Và thị xã Sơn Tây.

    Năm tuổi, ông mất bố.
    Bảy tuổi, mẹ qua đời,
    Ông sống với người chú.
    Đến khi ông lên mười,

    Một nhà sư đức độ
    Cho vào chùa nhập thiền.
    Sau mười năm đèn sách,
    Ông thành người thâm uyên.

    Tiêu Tư cho Lý Bí
    Làm Giám quân Đức Châu,
    Nay thuộc huyện Đức Thọ,
    Nhưng một thời gian sau,

    Thấy dân tình quá khổ
    Vì sưu thuế nặng nề,
    Vì chế độ lao dịch,
    Ông từ quan về quê.

    Ông chiêu binh, mãi mã,
    Quyết chống lại người Tàu.
    Trong số người hưởng ứng
    Có thủ lĩnh nhiều châu,

    Như Triệu Túc, Hà Nội,
    Phạm Tu ở Thái Bình.
    Thế mạnh như thác đổ,
    Háo hức lòng dân tình.

    Chỉ trong vòng ba tháng,
    Nghĩa quân chiếm hết châu.
    Tiêu Tư cùng gia thất
    Phải trốn chạy về Tàu.

    Toàn bộ vùng Bắc Bộ
    Nằm trong tay nghĩa quân.
    Lần lượt các châu khác
    Cũng được giải phóng dần.

    Vua nhà Lương, Vũ Đế,
    Tháng Tư, năm Bốn Hai,
    Cho quân sang trấn áp,
    Cử toàn những tướng tài.

    Nghe tin này, Lý Bí
    Liền chủ động đưa quân
    Sang bán đảo Hợp Phố
    Mai phục sẵn một phần.

    Thành Hợp Phố lúc ấy
    Còn thuộc về Giao Châu.
    Khi quân Lương kéo đến
    Liền bị đánh phủ đầu.

    Quân của tướng Tôn Quýnh
    Mười phần chết bảy phần.
    Thế là thành đại bại,
    Hắn phải đành rút quân.

    Cả nước được giải phóng
    Sau trận chiến thắng này,
    Kể cả quận Hợp Phố
    Thuộc Quảng Đông ngày nay.

    Ngày ấy ở vùng đất
    Quảng Bình đến Quảng Nam
    Là vương quốc Lâm Ấp,
    Ở phía bắc nước Chàm.

    Lâm Ấp thấy Lý Bí
    Đang bận đánh quân Lương,
    Định xâm lấn bờ cõi,
    Thái độ rất khinh thường.

    Chúng đem quân đánh chiếm
    Phần phía Nam Giao Châu,
    Nay là Thanh, Nghệ, Tĩnh,
    Bằng đường bộ, bằng tàu.

    Lý Bí sai tướng giỏi
    Vào đánh dẹp, rất nhanh
    Đội quân của Lâm Ấp
    Đã bị đánh tan tành.

    *
    Năm Năm Trăm Bốn Bốn,
    Lý Bí tự xưng vương,
    Gọi là Lý Nam Đế,
    Một việc cũng bình thường.

    Đặt niên hiệu Thiên Đức,
    Quốc hiệu là Vạn Xuân.
    Lập trăm quan văn võ,
    Xuống chiếu để yên dân.

    Lập đô ở Đan Phượng,
    Thuộc Hà Nội ngày nay,
    Cho xây điện Vạn Thọ
    Để triều kiến hàng ngày.

    Tướng Tinh Thiều giỏi chữ,
    Được đứng đầu ban văn.
    Còn đứng đầu ban võ
    Là Phạm Tu phong trần.

    Năm sau, vào tháng Sáu,
    Tướng Bá Tiên dẫn đầu
    Một đoàn quân hùng mạnh
    Sang chiếm lại Giao Châu.

    Lý Nam Đế lập tức
    Điều ba vạn nghĩa quân
    Quyết một lòng bảo vệ
    Đất nước mới Vạn Xuân.

    Ở cửa sông Tô Lịch
    Quân của ông bị thua.
    Tướng Tinh Thiều tử trận
    Khi phá vây cứu vua.

    Thế yếu, Lý Nam Đế
    Rút về thành Gia Ninh,
    Nay ở tỉnh Phú Thọ,
    Để chấn chỉnh lương, binh.

    Tháng Giêng năm Bốn Sáu
    Bá Tiên chiếm thành này.
    Tướng Phạm Tu tử trận,
    Vua phải bỏ nơi đây

    Để đến hồ Điển Triệt,
    Huyện Lập Thạch bây giờ.
    Ông đóng nhiều thuyền lớn,
    Đậu kín cả mặt hồ.

    Quân Lương không dám tiến,
    Chờ nước lụt dâng cao.
    Bất ngờ nước dâng thật,
    Thuyền quân giặc kéo vào.

    Do không phòng ngự trước
    Quân của vua thua to,
    Rút về động Khuất Lão,
    Dai dẳng thế dằng co.

    Năm Năm Trăm Bốn Tám,
    Ở trong hang quá lâu,
    Ông nhiễm bệnh, mù mắt,
    Qua đời mấy tháng sau.

    Hưởng thọ bốn sáu tuổi,
    Trị vì được năm năm,
    Vua băng hà, để lại
    Lừng lẫy một tiếng tăm.

    Người vợ vua yêu quí,
    Hoàng hậu Bùi Thị Quyền,
    Cũng là một dũng tướng,
    Hy sinh cùng chiến thuyền.
     
  8. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    TRIỆU QUANG PHỤC (mất 571)
    VÀ NHÀ HẬU LÝ

    Lý Nam Đế khi mất,
    Có dặn dò ân cần
    Và trao lại quyền bính
    Cho một người rất thân.

    Đó là Triệu Quang Phục,
    Người cùng bố giúp ông
    Đánh giặc Lương đô hộ
    Và gây dựng non sông.

    Dưới triều đại nhà Lý
    Ông là Tả tướng quân,
    Người nắm quyền quân sự
    Đất nước trẻ Vạn Xuân.

    Vâng mệnh, Triệu Quang Phục,
    Sau thành Triệu Việt Vương,
    Đã giữ vững bờ cõi,
    Chống xâm lược nhà Lương.

    Ông là con Triệu Túc,
    Người ở huyện Chu Diên,
    Nay nằm ở vùng đất
    Phía Đông thành Long Biên.

    Hai cha con họ Triệu
    Theo Lý Bí từ đầu,
    Lập được nhiều công lớn
    Truyền tụng mãi về sau.

    Năm Năm Trăm Bốn Bảy,
    Ông đến một đầm lầy
    Có tên là Dạ Trạch,
    Huyện Khoái Châu ngày nay.

    Đó là một đầm lớn,
    Ở giữa có gò cao,
    Cây cối rất rậm rạp,
    Khó ra và khó vào.

    Ông tập trung ở đấy
    Những hơn hai vạn người.
    Dùng chiến thuật du kích,
    Giấu khói và giấu người.

    Trần Bá Tiên, tướng giặc,
    Muốn đánh nhanh thắng nhanh,
    Nhưng bị ông giữ lại,
    Ngập chân trong bùn sình.

    Đêm, các thuyền độc mộc
    Đi từ bãi Tự Nhiên
    Đến đánh úp lương thảo
    Doanh trại Trần Bá Tiên.

    Quân giặc bị bắt sống
    Hoặc bị giết hàng nghìn.
    Quân Lương rất mệt mỏi,
    Nhưng chỉ biết đứng nhìn.

    Năm Năm Trăm Bốn Tám,
    Lý Nam Đế qua đời.
    Ông xưng vương, điều ấy
    Hợp lẽ người, lẽ trời.

    Tên nước vẫn như cũ,
    Ông thành Triệu Việt Vương,
    Vẫn ở đầm Dạ Trạch,
    Vẫn chiến đấu như thường.

    Một thời gian sau đó
    Trần Bá Tiên về Tàu,
    Giao Dương Sàn, tỳ tướng,
    Phải mai phục dài lâu.

    Vua Vạn Xuân lập tức
    Tung quân đánh họ Dương.
    Quân Lương thua, tan vỡ
    Phải chạy về Bắc phương.

    Đất nước hết bóng giặc,
    Hết chiến tranh triền miên.
    Vua và tôi nhà Triệu
    Dọn về thành Long Biên.

    *
    Lại nói Lý Nam Đế
    Trước có người anh trai
    Tên là Lý Thiên Bảo,
    Một dũng tướng có tài.

    Khi vua Lý gặp khốn,
    Bị bệnh, nằm trong hang,
    Ông và Lý Phật Tử,
    Một người cùng họ hàng,

    Đem ba vạn binh mã
    Đánh vào vùng Đức Châu,
    Nay thuộc đất xứ Nghệ,
    Định tính kế dài lâu.

    Họ giết Trần Văn Giới,
    Một viên tướng người Tàu,
    Rồi đem quân ra Bắc,
    Tiến đánh vùng Ái Châu.

    Trần Bá Tiên đánh trả,
    Họ thua, sang Ai Lao,
    Đến đất người Di Lạo,
    Nay thuộc về nước Lào.

    Binh lính chết già nửa,
    Chỉ còn hơn vạn người.
    Họ chọn vùng đất rộng,
    Màu mỡ và xanh tươi

    Rồi lập nên nước mới
    Đặt tên là Dã Tăng,
    Còn tướng Lý Thiên Bảo
    Tự xưng vương, Đào Lang.

    Khi vua Đào Lang chết,
    Chỉ mấy năm sau này,
    Không có con nối dõi,
    Lý Phật Tử lên thay.

    Năm Năm Trăm Năm Bảy
    Lý Phật Tử lên đường
    Đem quân xuống giao chiến
    Với quân Triệu Việt vương.

    Hai bên đánh năm trận
    Ở vùng đất Thái Bình.
    Phật Tử biết mình yếu,
    Bèn chủ động hoãn binh.

    Ông đề nghị vua Triệu
    Cùng rút quân, giảng hòa.
    Hơn thế, còn mong muốn
    Được trở thành thông gia.

    Con trai Lý Phật Tử,
    Có tên là Nhã Lang,
    Muốn lấy con vua Triệu
    Là công chúa Cảo Nương.

    Còn nặng tình họ Lý,
    Triệu Việt Vương gật đầu,
    Chia đất nước ông có
    Thanh hai phần đều nhau.

    Phía Tây thuộc Phật Tử,
    Phía Đông của Việt Vương.
    Đất ai người ấy giữ,
    Đúng như lẽ đạo thường.

    Đường ranh địa giới ấy
    Là bãi sậy lơ thơ
    Giữa làng Thượng, Hạ Cát,
    Huyện Từ Liêm bây giờ.

    Sau đó Lý Phật Tử
    Dọn đến thành Ô Diên
    Nay là xã Hạ Mỗ,
    Cũng thuộc huyện Từ Liêm.

    Hai bên cựu thù địch
    Giờ giảng hòa với nhau,
    Thề thân ái, đoàn kết
    Tới răng long, bạc đầu.

    *
    Theo truyền thuyết kể lại,
    Khi lấy nàng Cảo Nương,
    Nhã Lang muốn tìm hiểu
    Binh tình nhà Việt Vương.

    Năm Năm Trăm Bảy Mốt
    Lý Phật Tử bội thề,
    Đánh úp Triệu Quang Phục,
    Bao vây khắp tứ bề.

    Thế yếu không địch nổi,
    Cùng con gái của mình
    Vua bỏ chạy, chạy mãi
    Rồi hai người quyên sinh.

    Thế là nhà Triệu mất,
    Trị vì hăm ba năm.
    Nhà Lý được khôi phục
    Sau bao nỗi thăng trầm.

    Lên ngôi, Lý Phật Tử
    Đóng đô ở Phong Châu,
    Cũng xưng Lý Nam Đế,
    Các sử gia đời sau

    Gọi là nhà Hậu Lý
    Để phân biệt gian, ngay
    Giữa Lý Bí vua trước
    Và Phật Tử vua này.

    Nhà Tùy bên Trung Quốc,
    Hơn ba mươi năm sau
    Cho quân sang đánh chiếm,
    Tướng Lưu Phương cầm đầu.

    Hay tin, Lý Phật Tử
    Rút về thành Cổ Loa.
    Bị bao vây, dụ dỗ,
    Ông nộp mình xin hòa.

    Cả hoàng tộc bị giết,
    Một cảnh tượng đáng thương.
    Vua bị đưa về Bắc
    Rồi cũng chết dọc đường.

    *
    Nước Vạn Xuân kết thúc,
    Năm Sáu Trăm Linh Ba.
    Nhà Đường được thành lập,
    Và đô hộ nước ta.

    Ngày mai ông sẽ kể
    Về giai đoạn sử này.
    Giờ thì nghe ông đọc
    Bài thơ tếu sau đây.

    Bài thơ về loài vật,
    Trong một chuyến đi chơi
    Tranh chỗ trên xe buýt,
    Bị người ta chê cười.

    Tác giả là Mac-sắc,
    Nhà thơ lớn người Nga.
    Ông dịch từ lâu lắm
    Sang tiếng Việt nước ta.
     
  9. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    MAI THÚC LOAN (sinh cuối thế kỷ thứ Bảy)

    Năm Sáu Trăm Mười Tám
    Thiết lập đời Nhà Đường,
    Một triều đại phong kiến
    Phát triển và hùng cường.

    “An Nam Đô Hộ Phủ”
    Là tên gọi nước ta
    Từ Sáu Trăm Bảy Chín,
    Do nhà Đường đặt ra.

    Trung tâm Đô Hộ Phủ
    Được gọi là Tống Bình,
    Nay Thủ Đô Hà Nội,
    Xinh đẹp và văn minh.

    Nhà Đường cho xây dựng
    Nhiều tuyến đường giao thông,
    Giúp đi lại thuận tiện,
    Cả đường bộ, đường sông.

    Ở nước ta thời ấy,
    Ngoài nông nghiệp, công thương
    Cũng dần dần phát triển,
    Kể cả ngành mía đường.

    Tuy nhiên, dân vẫn khổ,
    Sống dưới ách ngoại bang.
    Chịu sưu cao thuế nặng,
    Cống nạp nhiều bạc vàng.

    *
    Cuối thế kỷ thứ Bảy,
    Ở Ngọc Trừng, Châu Hoan,
    Một vùng đất linh kiệt,
    Nay là huyện Nam Đàn,

    Có cậu bé mười tuổi
    Theo mẹ đi vào rừng.
    Mẹ bị hổ vồ chết.
    Hai mắt lệ rưng rưng,

    Cậu thề sau khôn lớn
    Giết hổ trả thù này.
    Rồi cậu luyện tập võ
    Rất chăm chỉ hàng ngày.

    Cậu đã giết được hổ,
    Có sức mạnh hơn người,
    Lại nuôi hoài bão lớn
    Sẽ hành đạo cứu đời.

    Đó là Mai Hắc Đế,
    Tên thật Mai Thúc Loan,
    Một anh hùng dân tộc,
    Sinh ở huyện Nam Đàn.

    Ông mở nhiều lò vật,
    Thành lập các phường săn,
    Luôn chiêu mộ trai tráng,
    Chuẩn bị sẵn khi cần.

    Ông quen nhiều hào kiệt,
    Cả đằng trong, đằng ngoài.
    Sau trở thành chiến hữu,
    Nhiều người thành tướng tài.

    Và rồi thời cơ đến,
    Năm Bảy Trăm Mười Ba,
    Ông dấy binh khởi nghĩa
    Ở ngay tại quê nhà.

    Đó là cuộc khởi nghĩa
    Chống lại ách nhà Đường,
    Nên nhanh chóng thu hút
    Người của khắp bốn phương.

    Nghĩa quân đang háo hức,
    Thế mạnh như chẻ tre,
    Nông dân đến tụ nghĩa
    Từ khắp mọi vùng quê.

    Mai Thúc Loan nhanh chóng
    Hạ được rất nhiều thành,
    Giải phóng một vùng lớn
    Gồm cả đất xứ Thanh.

    Ông lên ngôi, xưng đế,
    Đóng đô ở Vạn An,
    Nay là một vùng đất
    Thuộc thị trấn Nam Đàn.

    Vua biết mình mệnh thủy,
    Thủy tượng trưng màu đen,
    Nên lấy hiệu Hắc Đế,
    Chứ da ông không đen.

    Ông cho xây thành lũy,
    Rèn luyện lính đêm ngày
    Để chuẩn bị Bắc tiến,
    Kho lương thảo chất đầy.

    Nghe nói cả hai nước
    Khờ-me và Chiêm Thành
    Cũng giúp ông khởi nghĩa
    Giúp đánh nhanh, thắng nhanh.

    *
    Năm Bảy Trăm Mười Bốn
    Mai Hắc Đế tiến binh,
    Nhằm thẳng hướng Hà Nội,
    Lúc ấy gọi Tống Bình.

    Thanh thế ông lớn lắm,
    Có tới mười vạn quân.
    Dọc đường đi, dân chúng
    Còn gia nhập thêm dần.

    Viên tướng Quách Sở Khách,
    Thái thú của nhà Đường,
    Thế yếu, không địch nổi,
    Phải trốn về Bắc phương.

    Cả nước được giải phóng,
    Độc lập mười năm trời.
    Mười năm không nô lệ,
    Mười năm được làm người.

    Nhà Đường không cam chịu.
    Năm Bảy Trăm Hăm Hai
    Đã xuất quân trấn áp.
    Một cuộc chiến không dài.

    Tướng giặc, Dương Tư Húc,
    Đem mười vạn tinh binh
    Theo đường thủy Đông Bắc
    Tấn công thành Tống Bình.

    Nhiều trận đánh khốc liệt
    Ở sông Lam, sông Hồng,
    Dằng co hai thế trận
    Phòng ngự và tấn công.

    Cuối cùng Mai Hắc Đế
    Phải rút vào rừng sâu.
    Ông bị bệnh rồi mất,
    Để lại một mối sầu.
     
  10. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG
    (mất năm 791)

    Đường Lâm, đất long mạch,
    Gần thị xã Sơn Tây
    Vốn xưa rất tươi tốt,
    Nhiều gò và rừng cây.

    Đất địa linh, nhân kiệt,
    Sản sinh nhiều người hiền
    Kể cả hai vua lớn -
    Phùng Hưng và Ngô Quyền.

    Phùng Hưng thuộc dòng dõi
    Cự tộc và lâu đời.
    Phùng Hạp Khanh là bố,
    Tài đức quả hơn người.

    Cụ tổ Phùng Tôi Cái
    Từng phục vụ trong cung
    Của vua Đường Cao Tổ,
    Cũng là bậc anh hùng.

    Sau khi giúp Hắc Đế
    Nổi dậy chống nhà Đường,
    Phùng Hợp Khanh trở lại
    Với cuộc sống đời thường.

    Ông chăm lo công việc,
    Sớm trở thành rất giàu.
    Ba con trai sinh hạ.
    Phùng Hưng là con đầu.

    Tiếp đến là Phùng Hải.
    Phùng Dĩnh - em thứ ba.
    Đến năm mười tám tuổi,
    Mà côi cả mẹ cha.

    Phùng Hưng được nối nghiệp
    Thành hào trưởng Đường Lâm.
    Ông cao to, khỏe mạnh,
    Chính trực và công tâm.

    An Nam đô hộ phủ,
    Là tên nước bấy giờ,
    Do nhà Đường cai trị,
    Quan thì lo vét vơ,

    Dân quanh năm lao dịch,
    Lại sưu thuế nặng nề,
    Đâu cũng nghe lời oán,
    Khốn khổ đủ trăm bề.

    *
    Năm Bảy Trăm Bảy Sáu,
    Nhân lính ở Tống Bình,
    Nay là thành Hà Nội,
    Nổi loạn trong trại binh,

    Phùng Hưng đã phát động
    Khởi nghĩa chống nhà Đường,
    Nhận được sự hưởng ứng
    Của người khắp bốn phương.

    Chiếm Đường Lâm nhanh, gọn,
    Được Phùng Hưng dẫn đầu,
    Nghĩa quân chiếm phần lớn
    Vùng đất quanh Phong Châu.

    Lo xây thành, đắp lũy,
    Ông và hai em trai
    Chốt các nơi xung yếu
    Để chiến đấu lâu dài.

    Quan thứ sử Trung Quốc,
    Tức là Cao Chính Bình,
    Nhiều lần đem quân dẹp,
    Thế trận cứ lình xình,

    Hết đánh lại phòng ngự,
    Vừa đánh vừa nghỉ ngơi,
    Không thua cũng không thắng
    Suốt hai mươi năm trời.

    Năm Bảy Trăm Chín Mốt,
    Được Anh Hàn tiên sinh
    Làm quân sư chiến lược,
    Phùng Hưng đánh Tống Bình.

    Ông chia quân năm đạo,
    Từ năm hướng vây thành,
    Vừa đánh vừa chiêu mộ
    Thêm tướng và tân binh.

    Cao Chính Bình cố thủ,
    Nhưng thân cô, thế cô,
    Cuối cùng đổ bệnh chết
    Vì sợ hãi, buồn lo.

    Phùng Hưng lên thay hắn
    Cai trị đất An Nam.
    Tiếc rằng ông chết sớm,
    Nhiều việc chưa kịp làm.

    Phùng An, con trai cả,
    Nối ngôi, hai năm sau,
    Năm bảy trăm chín mốt,
    Được tướng giỏi dẫn đầu,

    Quân nhà Đường kéo đến,
    Quyết dành lại Tống Bình.
    Phùng An biết sức yếu,
    Đành phải ra nộp mình.

    Giặc truy lùng gay gắt
    Cả gia tộc họ Phùng,
    Nên người gia tộc ấy
    Phải tỏa đi các vùng.

    Người anh hùng dân tộc
    Phùng Hưng chống nhà Đường
    Được nhân dân tôn tặng
    Là Bố Cái Đại Vương.

    Một đền thờ cổ kính
    Ở Đường Lâm, Sơn Tây,
    Thờ cúng ông từ ấy
    Cho đến tận ngày nay.

    *
    Bây giờ ông sẽ kể
    Một cổ tích nước ngoài,
    Về bà mẹ nghèo khổ
    Đã dạy con thành tài.

    Các cháu nghe chăm chú.
    Nghe, ngẫm nghĩ về mình,
    Tự rút ra bài học
    Để thành người thông minh.
     
  11. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    KHÚC THỪA DỤ (mất năm 907), KHÚC HẠO (trị vì 907 – 917), DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (mất năm 937)

    Cuối thế kỷ thứ Chín
    Nhà Đường ở Trung Hoa
    Đã hoàn toàn suy yếu.
    Nhiều khởi nghĩa nổ ra.

    Lớn, và kéo dài nhất
    Là khởi nghĩa Hoàng Sào.
    Vua Đường phải bỏ trốn,
    Lòng dân tình xôn xao.

    Lợi dụng cơ hội ấy,
    Hào trưởng quận Chu Diên
    Đã tập hợp dân chúng,
    Cùng phất cờ đứng lên.

    Ông là Khúc Thừa Dụ,
    Quê Hồng Châu, Hải Dương,
    Sống khoan hòa, trung thực,
    Được dân chúng mến thương.

    An Nam vào thời ấy
    Đổi thành Tĩnh Hải Quân.
    Tiết Độ Sứ người Hán
    Độc ác và vô luân.

    Hắn bị gọi về nước.
    Độc Cô Tổn lên thay.
    Rồi tên này thất sủng,
    Cuối cùng phải đi đày.

    Nhân thế, Khúc Thừa Dụ
    Đánh chiếm thành Tống Bình,
    Tự xưng Tiết Độ Sứ,
    Nắm quyền vào tay mình.

    Năm Chín Trăm Linh Sáu,
    Vua Đường phải cho ông
    Giữ chức Tiết Độ Sứ,
    Dẫu ấm ức trong lòng.

    Tiếc rằng năm sau đó
    Khúc Thừa Dụ băng hà.
    Con trai là Khúc Hạo
    Được chọn lên thay cha.

    Khúc Hạo liền lập tức
    Giảm sưu thế cho dân,
    Chấn chỉnh lại hành chính,
    Bỏ lao dịch không cần.

    Năm Chín Trăm Mười Bảy,
    Khúc Hạo chết, tiếc thay.
    Con trai, Khúc Thừa Mỹ
    Nối nghiệp cha, lên thay.

    *
    Ở Quảng Châu lúc ấy,
    Nhân nhà Đường rối ren,
    Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn
    Mưu phản, lập nước riêng.

    Liên kết với Nam Chiếu,
    Tỉnh Vân Nam ngày nay,
    Một mình ông cát cứ
    Vùng đất rộng lớn này.

    Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn
    Chết năm Chín Trăm Mười.
    Lưu Nham lên thay thế,
    Thu phục được lòng người.

    Năm Chín Trăm Mười Bảy,
    Lưu Nham lập nước riêng,
    Đặt tên là Nam Hán,
    Mưu toan chiếm láng giềng.

    Thế là giặc Nam Hán,
    Năm Chín Trăm Ba Mươi
    Đem đại binh đánh Việt,
    Kiểu lấy thịt đè người.

    Khúc Thừa Mỹ thất trận,
    Bị bắt, đưa về Tàu.
    Nam Hán cử Lý Tiến
    Sang cai trị Giao Châu.

    Hay tin, Dương Đình Nghệ,
    Một tướng tài, thông minh,
    Đem quân từ Thanh Hóa,
    Tấn công thành Tống Bình.

    Quân Nam Hán lo sợ,
    Cố thủ không chịu ra,
    Chờ viện binh đến cứu.
    Nhưng đường hiểm và xa,

    Nên khi viện binh tới,
    Ông đã hạ Tống Bình,
    Hơn thế, còn đánh chặn,
    Chém đầu tướng viện binh.

    Danh tướng Dương Đình Nghệ
    Vốn quê ở làng Giàng,
    Nay Triệu Dương, Thanh Hóa,
    Thuộc dòng họ vẻ vang.

    Ông vốn là hào trưởng,
    Rất giàu và thương người.
    Nghe nói ông từng có
    Những ba nghìn con nuôi.

    Đánh xong giặc Nam Hán,
    Ông tự phong cho mình
    “Giao Châu Tiết Độ Sứ”
    Và nắm hết quyền binh.

    Noi theo gương Khúc Hạo,
    Liêm khiết và tài ba,
    Ông tiếp tục phát triển
    Nền tự chủ nước nhà.
     
  12. ngoinhahanhphu

    ngoinhahanhphu Thành viên nổi tiếng

    Tham gia:
    3/8/2014
    Bài viết:
    4,501
    Đã được thích:
    1,145
    Điểm thành tích:
    823
    NGÔ QUYỀN (898 - 944)

    Người anh hùng dân tộc,
    Tiền Ngô vương Ngô Quyền,
    Trong lòng người dân Việt
    Là một vị vua hiền.

    Bằng chiến thắng lịch sử
    Trong trận Bạch Đằng giang,
    Ông đặt dấu chấm hết
    Nghìn năm ách ngoại bang.

    Từ đấy nền độc lập
    Và tự chủ nước nhà
    Được khẳng định thêm nữa
    Trong hơn nghìn năm qua.

    Ông con một hào trưởng
    Thế lực lớn, công dày
    Ở châu Đường Lâm cũ,
    Nay thuộc huyện Hà Tây.

    Mới lọt lòng, thầy tướng
    Thấy ba chấm sau lưng,
    Liền sụp lạy mà phán
    Sau danh tiếng lẫy lừng.

    Nước Việt ta ngày ấy
    Gọi là Tĩnh Hải Quân,
    Do nhà Đường cai trị,
    Dân khổ sở muôn phần.

    Mà triều chính lúc đó
    Cũng rối ren nhiều bề.
    Nhà Đường đang suy sụp,
    Quan lại thì nhiêu khê.

    Hào trưởng Dương Đình Nghệ
    Thắng Nam Hán, dần dần
    Trở thành Tiết độ sứ,
    Cả vùng Tĩnh Hải Quân.

    Họ Dương lắm kẻ mạnh,
    Họ Ngô nhiều người hiền,
    Liên kết, gả con gái
    Cho chàng trai Ngô Quyền.

    Rồi Ngô Quyền được cử
    Cai trị đất Ái Châu,
    Một vùng đất rộng lớn,
    Đông dân và khá giàu.

    Năm Chín Trăm Ba Bảy,
    Kiều Công Tiễn đê hèn
    Sát hại Dương Đình Nghệ
    Rồi thâu tóm toàn quyền.

    Bị nhiều người phản đối,
    Tiết độ sứ họ Kiều
    Sang cầu quân Nam Hán.
    Lợi ít, nhục thì nhiều.

    Ngô Quyền đem binh lính
    Từ Châu Ái đánh ra,
    Giết chết Kiều Công Tiễn,
    Nhanh chóng rửa thù nhà.

    Rồi ông lo chuẩn bị,
    Quân và dân một lòng,
    Đợi quân Hán xâm lược,
    Đóng cọc các dòng sông.

    Năm Chín Trăm Ba Tám,
    Ở cửa sông Bạch Đằng
    Thuyền của quân Nam Hán
    Sa bẫy cọc đang giăng.

    Phần bị cọc đâm thủng,
    Phần bị thuyền Ngô Quyền
    Đánh đắm hơn một nửa.
    Rồi sông nước lại yên.

    Tướng giặc Lưu Hoằng Tháo
    Bỏ mạng nơi chiến trường.
    Từ đó giặc phương Bắc
    Bỏ mộng chiếm Nam phương.

    Ngô Quyền xưng vương đế,
    Đóng đô ở Cổ Loa,
    Lập nên triều đại mới,
    Làm vẻ vang nước nhà.

    Trong những năm sau đó
    Ông làm rất nhiều điều
    Để chấn hưng kinh tế,
    Được mọi người thương yêu.

    Bốn sáu tuổi, ông mất,
    Trị vì được sáu năm,
    Rồi nhà Ngô sụp đổ
    Năm Chín Trăm Sáu Lăm.

    *
    Ông có một cuốn sách,
    Gọi là Phật Thích Ca,
    Về giáo lý Đạo Phật,
    Cuộc sống người xuất gia.

    Hôm nào ông tóm lược
    Ba Đạo lớn trên đời.
    Các cháu biết rồi đấy -
    Phật, Thiên Chúa và Hồi.

    Giờ thì ông muốn kể
    Một truyện hay, không dài.
    Truyện Đức Phật dạy bảo
    La Hầu La, con Ngài.
     

Chia sẻ trang này