CÁC QUỐC GIA CỔ ĐẠI Vào cuối thời nguyên thủy, Cư dân sống rất đông Ở những vùng đất lớn Dọc theo các dòng sông, Như sông Nin Ai Cập, Sông Dương Tử, Trường Giang, Trung Hoa thời cổ đại. Ở Ấn Độ - sông Hằng. Ti-grơ, Ơ-phơ-rat, Hai sông nặng phù sa, Ở khu vực Tây Á, Còn gọi là Lưỡng Hà. Nhờ nông cụ cải tiến, Đất rộng và phì nhiêu, Nông nghiệp phát triển mạnh, Năng suất cao hơn nhiều. Đặc biệt là lúa gạo, Cả khoai sắn, rau, dưa. Chăn nuôi cũng phát triển, Đã có phần dư thừa. Vậy là có chiếm hữu - Có người không đủ ăn, Có người thành giàu có, Giai cấp hình thành dần. Năm nghìn năm về trước, Lần đầu tiên, quốc gia Hình thành ở Ai Cập, Trung Quốc và Lưỡng Hà. Ở các quốc gia ấy Dân sống bằng nghề nông, Nhưng họ không có ruộng, Chỉ là người làm công. Sau mỗi mùa thu hoạch Họ phải nộp, trung bình, Một phần ba sản phẩm Cho chúa đất của mình. Ngoài ra phải lao dịch, Tức là làm không công Cho nhà giàu, quí tộc, Và cho cả cộng đồng. Bọn nhà giàu, quí tộc Không làm việc chân tay, Vì có người hầu hạ Suốt cả đêm lẫn ngày. Đó là các nô lệ, Vốn là những tù binh, Những người nghèo bị ép Bán sức để nuôi mình. Đứng đầu lớp quí tộc Có ông vua, ông này Nắm hết mọi quyền lực Trong mọi việc hàng ngày. Hơn thế, vua tự nhận Là thánh thần, hơn người. Trung Quốc là Thiên Tử, Nôm na là con trời. Còn ở nước Ai Cập Vua là Pha-ra-ông, Tức là “ngôi nhà lớn”. Các cháu thấy kỳ không? Để giúp việc vua ấy, Một bộ máy chính quyền Do quí tộc nắm giữ, Suốt từ dưới lên trên. Chúng bắt dân đóng thuế, Bắt đi lính, bắt phu, Xây cung điện, ai chống Sẽ bị giết, bỏ tù… * Vậy là ông đã nói Ngắn gọn trong mấy dòng Về ba quốc gia cổ, Tất cả đều Phương Đông. Giờ các cháu nghe tiếp Về hai nước Phương Tây, Rô-ma và Hy Lạp, Được hình thành thế này. Có hai bán đảo nhỏ Ở miền Nam châu Âu, Nhô ra Địa Trung Hải. Ở nơi ấy, từ lâu, Hơn ba nghìn năm trước Hình thành hai quốc gia, Là Hy Lạp cổ đại Và nhà nước Rô-ma. Đất ở đây không tốt Như các nước Phương Đông, Nên người dân buộc phải Tìm giống và chọn trồng Nhiều cây lưu niên phụ, Như ô-liu và nho. Chúng không cần nhiều nước, Nhưng quả mọng và to. Đặc biệt hai nước ấy Không chỉ giỏi nghề nông, Còn giỏi nghề làm rượu Và nhiều nghề thủ công, Như nghề luyện kim loại Làm công cụ, nữ trang, Nghề thủy tinh, gốm sứ, Cả nghề tìm, đãi vàng. Rô-ma và Hy Lạp Có nhiều cảng nước sâu, Nên buôn bán phát triển, Tấp nập thuyền và tàu. Xã hội hai nước ấy Gồm có hai loại người - Chủ nô và nô lệ. Tỉ lệ một trên mười. Nô lệ phải làm việc “Như nô lệ”, tất nhiên. Bị coi như súc vật, Không cơm áo, gạo tiền. Chủ nô, tức quí tộc, Lại sung sướng cực kỳ. Chỉ ăn chơi, nhảy múa, Không động tay làm gì. Nô lệ đã khởi nghĩa Rất nhiều lần ở đây, Vì họ không cam chịu Cuộc sống bất công này. * Vào buổi bình minh ấy, Các quốc gia cổ xưa Đạt được những thành tựu, Cũng không phải loại vừa. Trung Quốc có âm lịch, Mười hai tháng một năm. Ba mươi ngày một tháng, Tính toán cả ngày rằm. Họ có đồng hồ nước, Đồng hồ cát để bàn Để đo và tính toán Giờ giấc và thời gian. Người Phương Đông thời cổ Nghĩ ra chữ tượng hình Để ghi lại cảm nghĩ Và văn hóa của mình. Trong lĩnh vực toán học, Người Lưỡng Hà là người Nghĩ ra các con số Từ một cho đến mười. Những con số đơn giản Các cháu dùng ngày nay. Đơn giản như khi đếm Mười ngón trên hai tay. Trong khi người Ai Cập Lại tìm ra số Pi, Vì họ giỏi Hình Học, Chính xác đến lạ kỳ. Trong lĩnh vực xây dựng, Họ để lại cho ta Rất nhiều Kim Tự Tháp, Thành quách ở Lưỡng Hà. Người Rô-ma, Hy Lạp Vào thời ấy mịt mùng Đã có bảng chữ cái Nay nhiều nước vẫn dùng. Trong các lĩnh vực khác, Như Toán, Sử, thơ văn, Vật Lý, Triết, Hình Học, Điêu Khắc, Địa, vân vân, Xuất hiện nhiều tên tuổi Có thể gọi khổng lồ - Pla-tông, A-si-met, Ta-let, Pi-ta-go… Trong lĩnh vực xây dựng Và kiến trúc ở đây, Nhiều công trình đồ sộ Tồn tại đến ngày nay. Ông đã chiêm ngưỡng chúng - Đấu trường Cô-li-dê Ở Rô-ma cổ kính. Không tin à? Ông thề. Ông còn đến Hy Lạp, Thăm đền Pac-tê-nông. To, đẹp, hoành tráng lắm. Sao, lại không tin ông? Mai sau các cháu lớn, Cứ đến những nơi này, Ngắm chúng và hãy nhớ Lời ông nói hôm nay. Các cháu mệt chưa nhỉ? Chưa à? Có gì đâu. Học lịch sử thích lắm, Như ông nói từ đầu. Ngày mai ông sẽ nói Về lịch sử nước nhà. Giờ ngồi im, ông kể Chuyện một cậu lớp Ba. Câu chuyện này có thật, Đúng mắt thấy, tai nghe, Khi thăm nhà người bạn, Mới đây thôi, xin thề.
NƯỚC VĂN LANG Vào thời xa xưa ấy Đất nước của chúng ta Là một vùng rậm rạp Núi và đồi bao la. Có rất nhiều hang động Và cây cối tốt tươi Cùng nhiều loài động vật, Tất nhiên, có cả người. Các nhà khảo cổ học, Năm sáu mươi, sáu lăm, Tìm thấy dấu tích họ, Ba, bốn trăm triệu năm. Họ sinh sống rải rác Ở Hòa Bình, Hạ Long, Nghệ An và Phú Thọ… Chủ yếu dọc các sông. Ngoài săn bắn, hái lượm, Để có thêm thức ăn, Họ chăn nuôi, trồng trọt, Cuộc sống khá hơn dần. Gần ba nghìn năm trước, Dọc theo các triền sông Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, Như sông Mã, sông Hồng, Có nhiều bộ lạc lớn, Đã hình thành khắp nơi, Chung phong tục, ngôn ngữ, Hùng mạnh và đông người. Trong đó, hùng mạnh nhất Là bộ lạc Văn Lang Ở Việt Trì, Phú Thọ, Sống theo các bản làng. Khoảng thế kỷ thứ Bảy Trước Công Nguyên, một người, Một thủ lĩnh tài giỏi Của Văn Lang ra đời. Ông nhanh chóng khuất phục Các bộ lạc bốn phương, Thanh thế rất mạnh mẽ, Rồi tự xưng Hùng Vương. Ông lập một nước mới, Đặt tên là Văn Lang, Đóng đô ở Phú Thọ, Thuộc thời đại Hồng Bàng. Đất nước ấy rộng lớn, Gồm Bắc Bộ bây giờ Và vùng Thanh, Nghệ, Tĩnh, Phong cảnh đẹp, nên thơ. Nước có mười lăm bộ, Giống huyện quận ngày nay, Đứng đầu là Lạc Tướng. Bên dưới các bộ này Có rất nhiều chiềng, chạ, Tương đương như xã, làng, Đứng đầu là Bồ Chính, Chức quan thời Văn Lang. Nhà nước chưa có luật, Cả quân đội cũng không. Mỗi khi có chiến sự, Các trai tráng một lòng Theo lệnh vua chiến đấu. Lạc Tướng luôn dẫn đầu. Lo các việc chính sự Có các quan Lạc Hầu. Kiểu cha truyền con nối, Các vua lên ngai vàng. Mị Nương là công chúa. Hoàng tử là Quan Lang. * Là một nước nông nghiệp, Dân nước ta bấy giờ Giỏi về canh tác lúa, Biết dệt vải, thêu thùa. Chiếc trống đồng Ngọc Lũ, Phát hiện ở Hà Nam Và một số trống khác Cũng người thời ấy làm. Họ còn biết dùng sắt Đúc vũ khí, lưỡi cày. Đánh cá, nuôi gia súc, Đóng thuyền và trồng cây. Vì còn nhiều thú dữ Nên dân ở nhà sàn. Nhà làm bằng tre nứa, Tường là các tấm đan. Nam giới chỉ đóng khố. Nữ mặc váy, yếm che. Chân trần, đầu thường đội Một vòng lông chim xòe. Dân Văn Lang thời ấy Xăm mình, nhuộm răng đen. Theo chế độ mẫu hệ Và thờ cúng tổ tiên. Vào những ngày lễ hội Họ tổ chức đua thuyền, Thi giã gạo, làm bánh, Trong tiếng trống, tiếng kèn. Nước Văn Lang thế đấy, Có từ thời xa xưa. Một đất nước rộng lớn. Các cháu nghe, nhớ chưa? Bây giờ ông sẽ kể Câu chuyện cổ tích này, Xẩy ra vào thời ấy. Về bánh chưng, bánh dày.
NƯỚC ÂU LẠC Đời Hùng Vương Mười Tám, Tức thế kỷ thứ Ba, Trước Công Nguyên, hẳn thế, Nước Văn Lang chúng ta Không yên bình như trước. Vua quan lo ăn chơi, Không lo chuyện phòng vệ. Dân đói ăn nhiều nơi. Trong khi đó, Phương Bắc, Vua Tần, Tần Thủy Hoàng, Vào năm Hai Một Tám, Cho đánh chiếm Văn Lang. Người Lạc Việt thời ấy Sống cùng người Tây Âu, Còn gọi là Âu Việt, Có quan hệ từ lâu. Họ hợp sức chiến đấu. Quân giặc mạnh và đông, Giết thủ lĩnh Âu Việt, Nhưng họ không nản lòng. Sử cũ Trung Quốc chép Về quân dân Văn Lang: “Người Việt bỏ lên núi, Nhất quyết không đầu hàng. Ngày án binh bất động, Đêm quấy nhiễu quân Tần. Họ tôn một hào kiệt Để lãnh đạo toàn dân.” Hào kiệt ấy, Thục Phán, Vừa có đức, có tài, Ngăn được bọn xâm lược, Làm chiến tranh kéo dài. Sáu năm trời ròng rã Quân giặc bị giam chân. Trong một trận quyết chiến, Quân Việt thắng quân Tần. Tướng giặc bị giết chết Là Hiệu Úy Đồ Thư. Nhà Tần phải ra lệnh Cho rút quân từ từ. Vào năm Hai Không Bảy, Sau chiến thắng không lâu, Thục Phán lên ngôi báu. Lạc Việt và Tây Âu Được sáp nhập làm một, Một nước mới ra đời, Có tên là Âu Lạc, Đất rộng và đông người. Kinh đô của Âu Lạc Đóng ở vùng Cổ Loa, Một vùng đất bằng phẳng, Cách Bờ Hồ không xa. An Dương Vương Thục Phán Sau khi lên ngai vàng, Giữ nguyên bộ máy cũ Của vua Hùng Văn Lang. Nước vẫn chia thành bộ, Có Lạc Tướng, Lạc Hầu, Bồ Chính và chiềng chạ… Vốn tồn tại từ lâu. Đất nước đã phát triển, Trước hết là nghề nông, Nghề chăn nuôi, dệt vải, Rồi các nghề thủ công. Dân số gia tăng mạnh, Nhưng khoảng cách giàu nghèo Cũng gia tăng tương ứng, Làm mâu thuẫn tăng theo. * Các cháu nghe, hiểu chứ? Giờ ông kể vì sao Âu Lạc đã sụp đổ, Và trong hoàn cảnh nào. Thục Phán cho xây dựng Ở kinh đô của mình Một khu thành bằng đất, Sau gọi là Loa Thành. Sử cũ chép: “Thành ấy Rộng nghìn trượng, hình tròn, Như chiếc loa vỏ ốc…” Nay di tích vẫn còn. Với ba vòng khép kín, Tường thành này rất dài, Những mười sáu nghìn mét, Nếu ông nhớ không sai. Mặt thành khoảng mười mét. Chiều cao - năm đến mười. Chân thành, để đứng vững, Có chỗ rộng hai mươi. Có hào sâu đầy nước Bao bọc xung quanh thành, Thông với một đầm lớn, Dành cho các thủy binh. Giữa là khu Thành Nội, Nơi ở của Hoàng Gia, Cùng Lạc Hầu, Lạc Tướng Đầy tớ và người nhà. Cổ Loa, thành xưa ấy, Không chỉ là kinh đô, Mà còn một chiến lũy, Cùng quân đội, lương kho. * Đất nước mới thành lập, Được ít năm yên hòa Thì có họa xâm lược Từ phía quân Triệu Đà. Triệu Đà là viên tướng Được vua Tần ủy quyền Cai quản xứ Lưỡng Quảng Và những vùng kề bên. Vào năm Hai Không Bảy, Nhà Tần yếu, Triệu Đà Lập nên nước Nam Việt Ở vùng đất giáp ta. Chẳng bao lâu sau đó Triệu Đà đã dấy binh, Rắp tâm đánh Âu Lạc, Những tưởng sẽ thắng nhanh. Tuy nhiên, quân Âu Lạc, Có lợi thế đất nhà, Tướng giỏi, vũ khí tốt, Nên hắn thua, xin hòa. Vào năm Một Bảy Chín, Hắn lần nữa xuất quân Sau khi đã ly gián Thục Phán và triều thần. Do không còn tướng giỏi, Không chủ động phòng xa, Đất nước ta, Âu Lạc, Lọt vào tay Triệu Đà. Vậy là các cháu thấy, Thục Phán An Dương Vương, Chỉ vì do khinh xuất, Mà phải chết thảm thương. Cũng bắt đầu từ đó, Suốt một nghìn năm dài, Dân ta là nô lệ Của phong kiến nước ngoài. Trong suốt nghìn năm ấy Không khuất phục, đầu hàng, Nhân dân ta nổi dậy, Lập nhiều trang sử vàng.
HAI BÀ TRƯNG (mất năm 43) Bắt đầu giai đoạn mới Trong lịch sử nước nhà - Một nghìn năm lệ thuộc Vào phong kiến Trung Hoa. Vào năm Một Bảy Chín Trước Công Nguyên, Triệu Đà Sáp nhập vào Nam Việt Nước Âu Lạc của ta. Nam Việt, như ta biết Là Lưỡng Quảng ngày nay, Vùng đất thuộc Trung Quốc, Tức Quảng Đông, Quảng Tây. Triệu Đà chia Âu Lạc Thành hai quận, đông dân Và rộng lớn lúc ấy, Là Giao Chỉ, Cửu Chân. Giao Chỉ ở Miền Bắc, Còn Cửu Chân bây giờ Thuộc vùng Thanh Nghệ Tĩnh, Phong cảnh đẹp, nên thơ. Vào năm Một Một Một, Nhà Hán chiếm nước ta. Lập thêm một quận nữa, Nhật Nam, quận thứ ba. Quận này đất cũng rộng, Nhưng người thưa, hanh khô, Từ Quảng Bình cát trắng Đến Quảng Nam bây giờ. Nhà Hán nhập ba quận Với vùng đất người Tàu, Thành một Châu rộng lớn, Đặt tên là Giao Châu. Thủ phủ của Châu ấy Đóng ở huyện Thuận Thành. Luy Lâu là tên cũ, Nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Thái Thú đứng đầu quận. Thứ Sử đứng đầu Châu. Tất cả đều người Hán. Còn Lạc Tướng, Lạc Hầu Vẫn giữ nguyên người Việt. Cai trị vẫn như xưa. Dân chịu nhiều sưu thuế, Thân phận như trâu, lừa. Năm Ba Tư, Tô Định Được nhà Hán cử sang Làm Thái Thú Giao Chỉ. Tên này loại làng nhàng, Nhưng nham hiểm, độc ác, Chuyên vơ vét cho mình, Làm nhiều điều ngang ngược, Gây khổ cho dân tình. * Bấy giờ ở vùng đất Nay thuộc huyện Mê Linh, Có hai chị em gái Vừa đẹp vừa thông minh. Con một vị Lạc Tướng. Trưng Trắc là cô đầu. Cô em là Trưng Nhị, Ghét Tô Định từ lâu. Quan Thái Thú Tô Định, Gian xảo và đê hèn Lập mưu giết Thi Sách, Con quan huyện Châu Diên. Ông là chồng Trưng Trắc, Trước đó từng bất bình Với cách quan nhà Hán Cai trị dân nước mình. Vào đầu năm Canh Tý, Tức là năm bốn mươi, Hai Bà Trưng khởi nghĩa Thu hút rất nhiều người. Trước hết đền nợ nước, Sau để trả thù nhà. Nghĩa quân thắng dòn dã, Nức lòng dân gần xa. Theo truyền thuyết kể lại, Hay tin, Nguyễn Tam Trinh Từ Mai Động kéo đến Cùng hai nghìn tráng binh. Hơn ba nghìn lính nữ Theo chủ tướng, Ông Cai, Gia nhập quân khởi nghĩa, Từ vùng đất Thanh Oai. Quân Hai Bà rất mạnh. Sáu lăm thành đầu hàng. Tô Định trốn về nước, Nhục nhã và vội vàng. Hai Bà lập nước mới, Kinh đô ở Mê Linh, Đuổi Thái Thú phương Bắc, Cai trị theo cách mình. Đứng đầu đất nước ấy Là hai vị nữ vương. Xưa nay trong lịch sử, Một sự kiện phi thường. Năm Bốn Hai, nhà Hán Sai Mã Viện Phục Ba, Lưu Long làm phó tướng, Sang chiếm lại nước ta. Cùng rất nhiều xe ngựa Và hai vạn tinh binh Chúng tấn công Hợp Phố, Và cướp bóc dân tình. Mã Viện đi đường thủy, Lưu Long đi đường rừng, Gặp phải sự chống cự Của quân Hai Bà Trưng. Quân Mã Viện thế mạnh, Áp tới tận La Thành. Nghĩa quân không chống nổi, Rút lui bảo vệ mình. Sau một năm cầm cự, Dũng cảm và kiên cường, Quân Hai Bà đành rút, Binh sĩ chết đầy đường. Cuối cùng đến Phúc Thọ, Giặc dụ dỗ ra hàng, Nhưng Hai Bà tuẫn tiết, Nhảy xuống dòng Hát Giang. Ở đấy giờ đang có Ngôi đền thờ Hai Bà, Một tấm gương trung liệt, Trả nợ nước, thù nhà. Quân Mã Viện tuy thắng, Nhưng thiệt hại nặng nề. Mười phần chết sáu, bảy Ở vùng đất Cấm Khê. * Lại nói tướng Mã Viện, Khi việc bình định xong, Hắn ngạo nghễ cho đúc Chiếc cột lớn bằng đồng. Trên cột đồng hắn khắc Hai dòng chữ sơn son: “Khi cột đồng này gãy, Đất Giao Chỉ không còn.” Thật láo và hợm hĩnh Viên tướng người Tàu này. Cột đồng giờ chẳng thấy, Nước Việt vẫn còn đây. Hơn thế, còn hùng mạnh, Đã đánh đuổi nhiều lần Khiến quân giặc phương Bắc. Hoảng sợ, chẳng dám gần. * Chuyện Trưng Trắc, Trưng Nhị, Thế là ông kể xong. Một trang sử chói lọi Sống mãi cùng non sông.
BÀ TRIỆU (225 -248) Hôm qua ông đã nói, Vì sưu thuế nặng nề, Dân Giao Châu cơ cực Và khốn khổ đủ bề. Nhiều nơi dân khởi nghĩa Chống lại ách ngoại bang, Khiến vua quan Trung Quốc Phải hoảng sợ, kinh hoàng. Thái Thú quận Giao Chỉ Là Tiết Tống tâu vua: “Dân Giao Chỉ khó trị, Đất lam chướng bốn mùa…” Năm Hai Trăm Bốn Tám, Giữa thế kỷ thứ Ba, Một cuộc khởi nghĩa lớn Có nhiều người tham gia. * Một truyền thuyết kể lại, Xưa ở quận Cửu Chân Có một con voi trắng To đẹp như voi thần. Nó xuống núi phá phách, Dẫm đạp hết mùa màng. Nhiều khi còn táo tợn Xông cả vào xóm làng. Con voi thật to lớn, Duy nhất chỉ một ngà. Ai nhìn thấy cũng sợ, Phải né tránh từ xa. Thế mà một cô gái, Xinh đẹp, để vai trần, Quyết tay không bắt nó Để trừ hại cho dân. Cô đi trước, khiêu khích, Nhử nó ra đầm sình, Rồi nhảy lên đầu nó Đưa về nuôi nhà mình. Về sau, cô gái ấy Chiêu quân chống giặc Ngô, Luôn cưỡi nó ra trận, Voi một ngà, khổng lồ. Truyền thuyết còn kể lại Rằng ngực cô rất dài, “Dài tới hơn ba thước”, Thường phải vắt lên vai. Quân giặc nhìn, cả sợ, Liền bỏ chạy thoát thân. Cô gái ấy xinh đẹp, Oai nghiêm như vị thần. * Cô gái trong huyền thoại, Tên là Triệu Thị Trinh, Một anh hùng dân tộc, Dám vì dân quên mình. Bà người huyện Yên Định, Tỉnh Thanh Hóa bây giờ, Không may bố mẹ chết Khi đang còn trẻ thơ. Anh bà, Triệu Quốc Đạt, Nuôi em như mẹ hiền. Ông là một hào trưởng, Làm huyện lệnh Quan Yên. Lớn lên, bà giỏi võ, Có sức khỏe hơn người, Lại nung nấu chí lớn Muốn ra tay giúp đời. Gặp người chị dâu ác, Bà trốn nhà đi xa, Lên rừng chiêu binh mã, Hơn nghìn người theo bà. Thấy giặc Ngô tàn ác, Bà về bàn với anh Cùng khởi binh chống lại, Và được anh đồng tình. Từ căn cứ Yên Định, Nghĩa quân lấn đánh dần, Chiếm quận lỵ Tư Phố, Rồi cả vùng Cửu Chân. Quốc Đạt lâm bệnh chết, Bà cầm quân thay anh. Ra trận mặc giáp bạc, Cưỡi voi, cài trâm anh. Trông bà thật lẫm liệt, Xinh đẹp như nữ thần, Nên người ta thường gọi Là “Nhụy Kiều Tướng quân.” * Nghe tin có bạo loạn, Vua Ngô rất lo âu, Liền cử tướng Lục Dận Làm thứ sử Giao Châu. Cùng sáu nghìn binh mã, Theo đường bộ tới đây, Hắn quyết tâm đàn áp Cuộc khởi nghĩa lần này. Hắn dùng tiền mua chuộc Nhiều hào trưởng địa phương, Hứa phong cho Bà Triệu Chức Lệ Hải Bà Vương. Tất nhiên Bà từ chối, Nhất quyết không đầu hàng. Nghĩa binh được khích lệ, Tinh thần càng vững vàng. Nhiều trận đánh ác liệt Ở căn cứ Bồ Điền. Nhưng do lực quá yếu, Thiếu lương thực và tiền, Nên chỉ sau hai tháng Cầm cự rất kiên cường, Thành Bồ Điền thất thủ, Rơi vào tay đối phương. Bà Triệu đã tuẫn tiết Trên núi Tùng đầy mây. Nó ở xã Triệu Lộc, Huyện Hậu Lộc ngày nay. Bà mới hăm ba tuổi, Chết, để lại tấm lòng Và chiến công hiển hách, Sống mãi với non sông. * Giờ thì các cháu thấy Rằng phụ nữ nước ta Đúng là thật oanh liệt. Thật oanh liệt các Bà. Bà Trưng rồi Bà Triệu. Rồi sau nữa con nhiều. Tổ tiên chúng ta đấy. Ngoan cường và đáng yêu.
NHO GIÁO, ĐẠO GIÁO VÀ PHẬT GIÁO Nhà Đông Hán suy yếu, Đầu thế kỷ thứ ba. Ba nước Ngô, Thục Ngụy Ra đời ở Trung Hoa. Đó là thời Tam Quốc, Khi ba nước tranh tài. Nhà Ngô đã tự tiện Chia Giao Châu thành hai. Phần đất ở Trung Quốc Được gọi là Quảng Châu. Phần của Âu Lạc cũ Thì gọi là Giao Châu. Khi dẹp xong khởi nghĩa, Các triều vua Trung Hoa Cử người sang cai trị Các huyện ở nước ta. Cùng thời gian, đất nước Phát triển hơn xưa nhiều. Nhưng người dân vẫn khổ Và cơ cực đủ điều. Nhân tiện, ông muốn nói, Rằng vào thời gian này, Thế kỷ Một đến Sáu, Đã có nhiều đổi thay Trong đời sống văn hóa Và tinh thần nước ta. Nho Giáo rồi Đạo Giáo, Rồi Đạo Phật Thích Ca Được người Hán du nhập Vào đời sống hàng ngày. Sơ bộ, ông giải thích Về từng đạo thế này. * Nho Giáo, hay Khổng Giáo, Do Khổng Tử lập ra. Là bộ luật ứng xử Và lễ nghĩa người Hoa. Khổng Tử người nước Lỗ, Thông minh và thâm trầm, Một triết gia cổ đại, Hai nghìn năm trăm năm. Cơ sở của Nho Giáo Là Tứ Thư, Ngũ Kinh. Nó dạy người nhỏ tuổi Phải chăm lo học hành. Luôn kính yêu cha mẹ, Lớn, xây dựng nước nhà. Như các cụ vẫn nói: “Tu thân rồi tề gia…” Sống, có trên có dưới, Đúng đạo lý làm người. Vua được gọi “Thiên Tử”, Nôm na là “Con Trời’. Nó dạy nhiều điều khác, Nói chung, toàn điều hay. Ảnh hưởng của Nho Giáo Còn đến tận ngày nay. * Cùng thời với Khổng Tử, Có Lão Tử, là người Đã lập nên Đạo Giáo, Chủ trương sống ở đời Phải tuân theo số phận Và qui luật tự nhiên. Sống giản đơn, thanh bạch, Không lo lắng, buồn phiền. Ông cũng là tác giả Bộ sách Đạo Đức Kinh. Dựa vào nó, Lão Tử Xây dựng thuyết của mình. Đạo Giáo bao quát rộng, Ngoài nghi lễ tinh thần, Còn có cả tướng số, Thuốc chữa bệnh, thiên văn. Cả phép trừ ma thuật, Cả phong thủy, pháp thiền, Dưỡng sinh và diệt độc, Cả phép luyện thuốc tiên… Một người khác, Trang Tử, Cũng đóng góp phần mình Vào tư tưởng Đạo Giáo Bằng cuốn Nam Hoa Kinh. Ông này, theo truyền thuyết, Có giấc mơ lạ thường. Ông mơ mình hóa bướm, Bay lượn mãi bên đường. Tỉnh dậy, ông rất tiếc, Thấy mình vẫn là người, Không biết mơ hay tỉnh, Đành thở dài, mỉm cười. * Quê hương của Phật Giáo Không phải nước Trung Hoa, Mà là nước Ấn Độ. Đức Phật là Thích Ca. Ngài là người có thật, Sinh tháng Tư, ngày Rằm, Cách đây đã lâu lắm - Hai nghìn năm trăm năm. Giáo lý của Đạo Phật Chủ yếu ba điều này: Không được làm việc ác, Làm việc thiện hàng ngày. Điều thứ ba, luôn nhớ Làm sạch ý nghĩ mình Bằng cách ngồi thiền định Hoặc niệm Phật, cầu kinh. Thế giới, ba Đạo lớn, Là Đạo Phật lâu đời, Rồi đến Đạo Thiên Chúa, Cuối cùng là Đạo Hồi. Đạo Phật giúp hướng thiện, Xua đuổi cái ác tà, Làm lòng người nhân ái, Xã hội đẹp, hài hòa. Vậy là ông nói hết Tam Giáo của người Tàu, Nhập vào đời sống Việt, Cái thuở ấy ban đầu.
LÝ BÍ (503 – 548) VÀ NHÀ TIỀN LÝ Đầu thế kỷ thứ Sáu, Nhà Lương chia nước ta Thành sáu châu lớn nhỏ. Tên các châu ấy là: Giao Châu ở Bắc Bộ. Ở Thanh Hóa - Ái Châu. Đức, Lợi, Minh - Nghệ Tĩnh. Quảng Ninh là Hoàng Châu. Ở Giao Châu thời ấy Thứ Sử là Tiêu Tư, Tham lam và gian ác Nhưng giả bộ nhân từ. Hắn đặt nhiều thuế mới, Tăng lao dịch, lao công, Làm người dân cơ cực, Luôn ấm ức trong lòng. Rồi một cuộc khởi nghĩa, Năm Năm Trăm Bốn Hai, Do Lý Bí khởi xướng, Ác liệt và kéo dài. Sau, ông thành vua Việt, Hậu duệ người Trung Hoa, Đó là Lý Nam Đế, Chính trực và tài ba. Vào cuối đời Tây Hán, Để tránh nạn đao binh, Tổ tiên ông phiêu dạt Sang nước Nam yên bình. Đến đời thứ mười một Lý Nam Đế mới sinh. Cụ bà ông người Việt, Đa tài và rất xinh. Ông lập nhà Tiền Lý, Khai sinh nước Vạn Xuân, Một anh hùng dân tộc, Sống mãi cùng nhân dân. Ông tên là Lý Bí, Sinh ở nơi ngày nay Là vùng đất Thạch Thất Và thị xã Sơn Tây. Năm tuổi, ông mất bố. Bảy tuổi, mẹ qua đời, Ông sống với người chú. Đến khi ông lên mười, Một nhà sư đức độ Cho vào chùa nhập thiền. Sau mười năm đèn sách, Ông thành người thâm uyên. Tiêu Tư cho Lý Bí Làm Giám quân Đức Châu, Nay thuộc huyện Đức Thọ, Nhưng một thời gian sau, Thấy dân tình quá khổ Vì sưu thuế nặng nề, Vì chế độ lao dịch, Ông từ quan về quê. Ông chiêu binh, mãi mã, Quyết chống lại người Tàu. Trong số người hưởng ứng Có thủ lĩnh nhiều châu, Như Triệu Túc, Hà Nội, Phạm Tu ở Thái Bình. Thế mạnh như thác đổ, Háo hức lòng dân tình. Chỉ trong vòng ba tháng, Nghĩa quân chiếm hết châu. Tiêu Tư cùng gia thất Phải trốn chạy về Tàu. Toàn bộ vùng Bắc Bộ Nằm trong tay nghĩa quân. Lần lượt các châu khác Cũng được giải phóng dần. Vua nhà Lương, Vũ Đế, Tháng Tư, năm Bốn Hai, Cho quân sang trấn áp, Cử toàn những tướng tài. Nghe tin này, Lý Bí Liền chủ động đưa quân Sang bán đảo Hợp Phố Mai phục sẵn một phần. Thành Hợp Phố lúc ấy Còn thuộc về Giao Châu. Khi quân Lương kéo đến Liền bị đánh phủ đầu. Quân của tướng Tôn Quýnh Mười phần chết bảy phần. Thế là thành đại bại, Hắn phải đành rút quân. Cả nước được giải phóng Sau trận chiến thắng này, Kể cả quận Hợp Phố Thuộc Quảng Đông ngày nay. Ngày ấy ở vùng đất Quảng Bình đến Quảng Nam Là vương quốc Lâm Ấp, Ở phía bắc nước Chàm. Lâm Ấp thấy Lý Bí Đang bận đánh quân Lương, Định xâm lấn bờ cõi, Thái độ rất khinh thường. Chúng đem quân đánh chiếm Phần phía Nam Giao Châu, Nay là Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bằng đường bộ, bằng tàu. Lý Bí sai tướng giỏi Vào đánh dẹp, rất nhanh Đội quân của Lâm Ấp Đã bị đánh tan tành. * Năm Năm Trăm Bốn Bốn, Lý Bí tự xưng vương, Gọi là Lý Nam Đế, Một việc cũng bình thường. Đặt niên hiệu Thiên Đức, Quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập trăm quan văn võ, Xuống chiếu để yên dân. Lập đô ở Đan Phượng, Thuộc Hà Nội ngày nay, Cho xây điện Vạn Thọ Để triều kiến hàng ngày. Tướng Tinh Thiều giỏi chữ, Được đứng đầu ban văn. Còn đứng đầu ban võ Là Phạm Tu phong trần. Năm sau, vào tháng Sáu, Tướng Bá Tiên dẫn đầu Một đoàn quân hùng mạnh Sang chiếm lại Giao Châu. Lý Nam Đế lập tức Điều ba vạn nghĩa quân Quyết một lòng bảo vệ Đất nước mới Vạn Xuân. Ở cửa sông Tô Lịch Quân của ông bị thua. Tướng Tinh Thiều tử trận Khi phá vây cứu vua. Thế yếu, Lý Nam Đế Rút về thành Gia Ninh, Nay ở tỉnh Phú Thọ, Để chấn chỉnh lương, binh. Tháng Giêng năm Bốn Sáu Bá Tiên chiếm thành này. Tướng Phạm Tu tử trận, Vua phải bỏ nơi đây Để đến hồ Điển Triệt, Huyện Lập Thạch bây giờ. Ông đóng nhiều thuyền lớn, Đậu kín cả mặt hồ. Quân Lương không dám tiến, Chờ nước lụt dâng cao. Bất ngờ nước dâng thật, Thuyền quân giặc kéo vào. Do không phòng ngự trước Quân của vua thua to, Rút về động Khuất Lão, Dai dẳng thế dằng co. Năm Năm Trăm Bốn Tám, Ở trong hang quá lâu, Ông nhiễm bệnh, mù mắt, Qua đời mấy tháng sau. Hưởng thọ bốn sáu tuổi, Trị vì được năm năm, Vua băng hà, để lại Lừng lẫy một tiếng tăm. Người vợ vua yêu quí, Hoàng hậu Bùi Thị Quyền, Cũng là một dũng tướng, Hy sinh cùng chiến thuyền.
TRIỆU QUANG PHỤC (mất 571) VÀ NHÀ HẬU LÝ Lý Nam Đế khi mất, Có dặn dò ân cần Và trao lại quyền bính Cho một người rất thân. Đó là Triệu Quang Phục, Người cùng bố giúp ông Đánh giặc Lương đô hộ Và gây dựng non sông. Dưới triều đại nhà Lý Ông là Tả tướng quân, Người nắm quyền quân sự Đất nước trẻ Vạn Xuân. Vâng mệnh, Triệu Quang Phục, Sau thành Triệu Việt Vương, Đã giữ vững bờ cõi, Chống xâm lược nhà Lương. Ông là con Triệu Túc, Người ở huyện Chu Diên, Nay nằm ở vùng đất Phía Đông thành Long Biên. Hai cha con họ Triệu Theo Lý Bí từ đầu, Lập được nhiều công lớn Truyền tụng mãi về sau. Năm Năm Trăm Bốn Bảy, Ông đến một đầm lầy Có tên là Dạ Trạch, Huyện Khoái Châu ngày nay. Đó là một đầm lớn, Ở giữa có gò cao, Cây cối rất rậm rạp, Khó ra và khó vào. Ông tập trung ở đấy Những hơn hai vạn người. Dùng chiến thuật du kích, Giấu khói và giấu người. Trần Bá Tiên, tướng giặc, Muốn đánh nhanh thắng nhanh, Nhưng bị ông giữ lại, Ngập chân trong bùn sình. Đêm, các thuyền độc mộc Đi từ bãi Tự Nhiên Đến đánh úp lương thảo Doanh trại Trần Bá Tiên. Quân giặc bị bắt sống Hoặc bị giết hàng nghìn. Quân Lương rất mệt mỏi, Nhưng chỉ biết đứng nhìn. Năm Năm Trăm Bốn Tám, Lý Nam Đế qua đời. Ông xưng vương, điều ấy Hợp lẽ người, lẽ trời. Tên nước vẫn như cũ, Ông thành Triệu Việt Vương, Vẫn ở đầm Dạ Trạch, Vẫn chiến đấu như thường. Một thời gian sau đó Trần Bá Tiên về Tàu, Giao Dương Sàn, tỳ tướng, Phải mai phục dài lâu. Vua Vạn Xuân lập tức Tung quân đánh họ Dương. Quân Lương thua, tan vỡ Phải chạy về Bắc phương. Đất nước hết bóng giặc, Hết chiến tranh triền miên. Vua và tôi nhà Triệu Dọn về thành Long Biên. * Lại nói Lý Nam Đế Trước có người anh trai Tên là Lý Thiên Bảo, Một dũng tướng có tài. Khi vua Lý gặp khốn, Bị bệnh, nằm trong hang, Ông và Lý Phật Tử, Một người cùng họ hàng, Đem ba vạn binh mã Đánh vào vùng Đức Châu, Nay thuộc đất xứ Nghệ, Định tính kế dài lâu. Họ giết Trần Văn Giới, Một viên tướng người Tàu, Rồi đem quân ra Bắc, Tiến đánh vùng Ái Châu. Trần Bá Tiên đánh trả, Họ thua, sang Ai Lao, Đến đất người Di Lạo, Nay thuộc về nước Lào. Binh lính chết già nửa, Chỉ còn hơn vạn người. Họ chọn vùng đất rộng, Màu mỡ và xanh tươi Rồi lập nên nước mới Đặt tên là Dã Tăng, Còn tướng Lý Thiên Bảo Tự xưng vương, Đào Lang. Khi vua Đào Lang chết, Chỉ mấy năm sau này, Không có con nối dõi, Lý Phật Tử lên thay. Năm Năm Trăm Năm Bảy Lý Phật Tử lên đường Đem quân xuống giao chiến Với quân Triệu Việt vương. Hai bên đánh năm trận Ở vùng đất Thái Bình. Phật Tử biết mình yếu, Bèn chủ động hoãn binh. Ông đề nghị vua Triệu Cùng rút quân, giảng hòa. Hơn thế, còn mong muốn Được trở thành thông gia. Con trai Lý Phật Tử, Có tên là Nhã Lang, Muốn lấy con vua Triệu Là công chúa Cảo Nương. Còn nặng tình họ Lý, Triệu Việt Vương gật đầu, Chia đất nước ông có Thanh hai phần đều nhau. Phía Tây thuộc Phật Tử, Phía Đông của Việt Vương. Đất ai người ấy giữ, Đúng như lẽ đạo thường. Đường ranh địa giới ấy Là bãi sậy lơ thơ Giữa làng Thượng, Hạ Cát, Huyện Từ Liêm bây giờ. Sau đó Lý Phật Tử Dọn đến thành Ô Diên Nay là xã Hạ Mỗ, Cũng thuộc huyện Từ Liêm. Hai bên cựu thù địch Giờ giảng hòa với nhau, Thề thân ái, đoàn kết Tới răng long, bạc đầu. * Theo truyền thuyết kể lại, Khi lấy nàng Cảo Nương, Nhã Lang muốn tìm hiểu Binh tình nhà Việt Vương. Năm Năm Trăm Bảy Mốt Lý Phật Tử bội thề, Đánh úp Triệu Quang Phục, Bao vây khắp tứ bề. Thế yếu không địch nổi, Cùng con gái của mình Vua bỏ chạy, chạy mãi Rồi hai người quyên sinh. Thế là nhà Triệu mất, Trị vì hăm ba năm. Nhà Lý được khôi phục Sau bao nỗi thăng trầm. Lên ngôi, Lý Phật Tử Đóng đô ở Phong Châu, Cũng xưng Lý Nam Đế, Các sử gia đời sau Gọi là nhà Hậu Lý Để phân biệt gian, ngay Giữa Lý Bí vua trước Và Phật Tử vua này. Nhà Tùy bên Trung Quốc, Hơn ba mươi năm sau Cho quân sang đánh chiếm, Tướng Lưu Phương cầm đầu. Hay tin, Lý Phật Tử Rút về thành Cổ Loa. Bị bao vây, dụ dỗ, Ông nộp mình xin hòa. Cả hoàng tộc bị giết, Một cảnh tượng đáng thương. Vua bị đưa về Bắc Rồi cũng chết dọc đường. * Nước Vạn Xuân kết thúc, Năm Sáu Trăm Linh Ba. Nhà Đường được thành lập, Và đô hộ nước ta. Ngày mai ông sẽ kể Về giai đoạn sử này. Giờ thì nghe ông đọc Bài thơ tếu sau đây. Bài thơ về loài vật, Trong một chuyến đi chơi Tranh chỗ trên xe buýt, Bị người ta chê cười. Tác giả là Mac-sắc, Nhà thơ lớn người Nga. Ông dịch từ lâu lắm Sang tiếng Việt nước ta.
MAI THÚC LOAN (sinh cuối thế kỷ thứ Bảy) Năm Sáu Trăm Mười Tám Thiết lập đời Nhà Đường, Một triều đại phong kiến Phát triển và hùng cường. “An Nam Đô Hộ Phủ” Là tên gọi nước ta Từ Sáu Trăm Bảy Chín, Do nhà Đường đặt ra. Trung tâm Đô Hộ Phủ Được gọi là Tống Bình, Nay Thủ Đô Hà Nội, Xinh đẹp và văn minh. Nhà Đường cho xây dựng Nhiều tuyến đường giao thông, Giúp đi lại thuận tiện, Cả đường bộ, đường sông. Ở nước ta thời ấy, Ngoài nông nghiệp, công thương Cũng dần dần phát triển, Kể cả ngành mía đường. Tuy nhiên, dân vẫn khổ, Sống dưới ách ngoại bang. Chịu sưu cao thuế nặng, Cống nạp nhiều bạc vàng. * Cuối thế kỷ thứ Bảy, Ở Ngọc Trừng, Châu Hoan, Một vùng đất linh kiệt, Nay là huyện Nam Đàn, Có cậu bé mười tuổi Theo mẹ đi vào rừng. Mẹ bị hổ vồ chết. Hai mắt lệ rưng rưng, Cậu thề sau khôn lớn Giết hổ trả thù này. Rồi cậu luyện tập võ Rất chăm chỉ hàng ngày. Cậu đã giết được hổ, Có sức mạnh hơn người, Lại nuôi hoài bão lớn Sẽ hành đạo cứu đời. Đó là Mai Hắc Đế, Tên thật Mai Thúc Loan, Một anh hùng dân tộc, Sinh ở huyện Nam Đàn. Ông mở nhiều lò vật, Thành lập các phường săn, Luôn chiêu mộ trai tráng, Chuẩn bị sẵn khi cần. Ông quen nhiều hào kiệt, Cả đằng trong, đằng ngoài. Sau trở thành chiến hữu, Nhiều người thành tướng tài. Và rồi thời cơ đến, Năm Bảy Trăm Mười Ba, Ông dấy binh khởi nghĩa Ở ngay tại quê nhà. Đó là cuộc khởi nghĩa Chống lại ách nhà Đường, Nên nhanh chóng thu hút Người của khắp bốn phương. Nghĩa quân đang háo hức, Thế mạnh như chẻ tre, Nông dân đến tụ nghĩa Từ khắp mọi vùng quê. Mai Thúc Loan nhanh chóng Hạ được rất nhiều thành, Giải phóng một vùng lớn Gồm cả đất xứ Thanh. Ông lên ngôi, xưng đế, Đóng đô ở Vạn An, Nay là một vùng đất Thuộc thị trấn Nam Đàn. Vua biết mình mệnh thủy, Thủy tượng trưng màu đen, Nên lấy hiệu Hắc Đế, Chứ da ông không đen. Ông cho xây thành lũy, Rèn luyện lính đêm ngày Để chuẩn bị Bắc tiến, Kho lương thảo chất đầy. Nghe nói cả hai nước Khờ-me và Chiêm Thành Cũng giúp ông khởi nghĩa Giúp đánh nhanh, thắng nhanh. * Năm Bảy Trăm Mười Bốn Mai Hắc Đế tiến binh, Nhằm thẳng hướng Hà Nội, Lúc ấy gọi Tống Bình. Thanh thế ông lớn lắm, Có tới mười vạn quân. Dọc đường đi, dân chúng Còn gia nhập thêm dần. Viên tướng Quách Sở Khách, Thái thú của nhà Đường, Thế yếu, không địch nổi, Phải trốn về Bắc phương. Cả nước được giải phóng, Độc lập mười năm trời. Mười năm không nô lệ, Mười năm được làm người. Nhà Đường không cam chịu. Năm Bảy Trăm Hăm Hai Đã xuất quân trấn áp. Một cuộc chiến không dài. Tướng giặc, Dương Tư Húc, Đem mười vạn tinh binh Theo đường thủy Đông Bắc Tấn công thành Tống Bình. Nhiều trận đánh khốc liệt Ở sông Lam, sông Hồng, Dằng co hai thế trận Phòng ngự và tấn công. Cuối cùng Mai Hắc Đế Phải rút vào rừng sâu. Ông bị bệnh rồi mất, Để lại một mối sầu.
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG PHÙNG HƯNG (mất năm 791) Đường Lâm, đất long mạch, Gần thị xã Sơn Tây Vốn xưa rất tươi tốt, Nhiều gò và rừng cây. Đất địa linh, nhân kiệt, Sản sinh nhiều người hiền Kể cả hai vua lớn - Phùng Hưng và Ngô Quyền. Phùng Hưng thuộc dòng dõi Cự tộc và lâu đời. Phùng Hạp Khanh là bố, Tài đức quả hơn người. Cụ tổ Phùng Tôi Cái Từng phục vụ trong cung Của vua Đường Cao Tổ, Cũng là bậc anh hùng. Sau khi giúp Hắc Đế Nổi dậy chống nhà Đường, Phùng Hợp Khanh trở lại Với cuộc sống đời thường. Ông chăm lo công việc, Sớm trở thành rất giàu. Ba con trai sinh hạ. Phùng Hưng là con đầu. Tiếp đến là Phùng Hải. Phùng Dĩnh - em thứ ba. Đến năm mười tám tuổi, Mà côi cả mẹ cha. Phùng Hưng được nối nghiệp Thành hào trưởng Đường Lâm. Ông cao to, khỏe mạnh, Chính trực và công tâm. An Nam đô hộ phủ, Là tên nước bấy giờ, Do nhà Đường cai trị, Quan thì lo vét vơ, Dân quanh năm lao dịch, Lại sưu thuế nặng nề, Đâu cũng nghe lời oán, Khốn khổ đủ trăm bề. * Năm Bảy Trăm Bảy Sáu, Nhân lính ở Tống Bình, Nay là thành Hà Nội, Nổi loạn trong trại binh, Phùng Hưng đã phát động Khởi nghĩa chống nhà Đường, Nhận được sự hưởng ứng Của người khắp bốn phương. Chiếm Đường Lâm nhanh, gọn, Được Phùng Hưng dẫn đầu, Nghĩa quân chiếm phần lớn Vùng đất quanh Phong Châu. Lo xây thành, đắp lũy, Ông và hai em trai Chốt các nơi xung yếu Để chiến đấu lâu dài. Quan thứ sử Trung Quốc, Tức là Cao Chính Bình, Nhiều lần đem quân dẹp, Thế trận cứ lình xình, Hết đánh lại phòng ngự, Vừa đánh vừa nghỉ ngơi, Không thua cũng không thắng Suốt hai mươi năm trời. Năm Bảy Trăm Chín Mốt, Được Anh Hàn tiên sinh Làm quân sư chiến lược, Phùng Hưng đánh Tống Bình. Ông chia quân năm đạo, Từ năm hướng vây thành, Vừa đánh vừa chiêu mộ Thêm tướng và tân binh. Cao Chính Bình cố thủ, Nhưng thân cô, thế cô, Cuối cùng đổ bệnh chết Vì sợ hãi, buồn lo. Phùng Hưng lên thay hắn Cai trị đất An Nam. Tiếc rằng ông chết sớm, Nhiều việc chưa kịp làm. Phùng An, con trai cả, Nối ngôi, hai năm sau, Năm bảy trăm chín mốt, Được tướng giỏi dẫn đầu, Quân nhà Đường kéo đến, Quyết dành lại Tống Bình. Phùng An biết sức yếu, Đành phải ra nộp mình. Giặc truy lùng gay gắt Cả gia tộc họ Phùng, Nên người gia tộc ấy Phải tỏa đi các vùng. Người anh hùng dân tộc Phùng Hưng chống nhà Đường Được nhân dân tôn tặng Là Bố Cái Đại Vương. Một đền thờ cổ kính Ở Đường Lâm, Sơn Tây, Thờ cúng ông từ ấy Cho đến tận ngày nay. * Bây giờ ông sẽ kể Một cổ tích nước ngoài, Về bà mẹ nghèo khổ Đã dạy con thành tài. Các cháu nghe chăm chú. Nghe, ngẫm nghĩ về mình, Tự rút ra bài học Để thành người thông minh.
KHÚC THỪA DỤ (mất năm 907), KHÚC HẠO (trị vì 907 – 917), DƯƠNG ĐÌNH NGHỆ (mất năm 937) Cuối thế kỷ thứ Chín Nhà Đường ở Trung Hoa Đã hoàn toàn suy yếu. Nhiều khởi nghĩa nổ ra. Lớn, và kéo dài nhất Là khởi nghĩa Hoàng Sào. Vua Đường phải bỏ trốn, Lòng dân tình xôn xao. Lợi dụng cơ hội ấy, Hào trưởng quận Chu Diên Đã tập hợp dân chúng, Cùng phất cờ đứng lên. Ông là Khúc Thừa Dụ, Quê Hồng Châu, Hải Dương, Sống khoan hòa, trung thực, Được dân chúng mến thương. An Nam vào thời ấy Đổi thành Tĩnh Hải Quân. Tiết Độ Sứ người Hán Độc ác và vô luân. Hắn bị gọi về nước. Độc Cô Tổn lên thay. Rồi tên này thất sủng, Cuối cùng phải đi đày. Nhân thế, Khúc Thừa Dụ Đánh chiếm thành Tống Bình, Tự xưng Tiết Độ Sứ, Nắm quyền vào tay mình. Năm Chín Trăm Linh Sáu, Vua Đường phải cho ông Giữ chức Tiết Độ Sứ, Dẫu ấm ức trong lòng. Tiếc rằng năm sau đó Khúc Thừa Dụ băng hà. Con trai là Khúc Hạo Được chọn lên thay cha. Khúc Hạo liền lập tức Giảm sưu thế cho dân, Chấn chỉnh lại hành chính, Bỏ lao dịch không cần. Năm Chín Trăm Mười Bảy, Khúc Hạo chết, tiếc thay. Con trai, Khúc Thừa Mỹ Nối nghiệp cha, lên thay. * Ở Quảng Châu lúc ấy, Nhân nhà Đường rối ren, Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn Mưu phản, lập nước riêng. Liên kết với Nam Chiếu, Tỉnh Vân Nam ngày nay, Một mình ông cát cứ Vùng đất rộng lớn này. Tiết Độ Sứ Lưu Ẩn Chết năm Chín Trăm Mười. Lưu Nham lên thay thế, Thu phục được lòng người. Năm Chín Trăm Mười Bảy, Lưu Nham lập nước riêng, Đặt tên là Nam Hán, Mưu toan chiếm láng giềng. Thế là giặc Nam Hán, Năm Chín Trăm Ba Mươi Đem đại binh đánh Việt, Kiểu lấy thịt đè người. Khúc Thừa Mỹ thất trận, Bị bắt, đưa về Tàu. Nam Hán cử Lý Tiến Sang cai trị Giao Châu. Hay tin, Dương Đình Nghệ, Một tướng tài, thông minh, Đem quân từ Thanh Hóa, Tấn công thành Tống Bình. Quân Nam Hán lo sợ, Cố thủ không chịu ra, Chờ viện binh đến cứu. Nhưng đường hiểm và xa, Nên khi viện binh tới, Ông đã hạ Tống Bình, Hơn thế, còn đánh chặn, Chém đầu tướng viện binh. Danh tướng Dương Đình Nghệ Vốn quê ở làng Giàng, Nay Triệu Dương, Thanh Hóa, Thuộc dòng họ vẻ vang. Ông vốn là hào trưởng, Rất giàu và thương người. Nghe nói ông từng có Những ba nghìn con nuôi. Đánh xong giặc Nam Hán, Ông tự phong cho mình “Giao Châu Tiết Độ Sứ” Và nắm hết quyền binh. Noi theo gương Khúc Hạo, Liêm khiết và tài ba, Ông tiếp tục phát triển Nền tự chủ nước nhà.
NGÔ QUYỀN (898 - 944) Người anh hùng dân tộc, Tiền Ngô vương Ngô Quyền, Trong lòng người dân Việt Là một vị vua hiền. Bằng chiến thắng lịch sử Trong trận Bạch Đằng giang, Ông đặt dấu chấm hết Nghìn năm ách ngoại bang. Từ đấy nền độc lập Và tự chủ nước nhà Được khẳng định thêm nữa Trong hơn nghìn năm qua. Ông con một hào trưởng Thế lực lớn, công dày Ở châu Đường Lâm cũ, Nay thuộc huyện Hà Tây. Mới lọt lòng, thầy tướng Thấy ba chấm sau lưng, Liền sụp lạy mà phán Sau danh tiếng lẫy lừng. Nước Việt ta ngày ấy Gọi là Tĩnh Hải Quân, Do nhà Đường cai trị, Dân khổ sở muôn phần. Mà triều chính lúc đó Cũng rối ren nhiều bề. Nhà Đường đang suy sụp, Quan lại thì nhiêu khê. Hào trưởng Dương Đình Nghệ Thắng Nam Hán, dần dần Trở thành Tiết độ sứ, Cả vùng Tĩnh Hải Quân. Họ Dương lắm kẻ mạnh, Họ Ngô nhiều người hiền, Liên kết, gả con gái Cho chàng trai Ngô Quyền. Rồi Ngô Quyền được cử Cai trị đất Ái Châu, Một vùng đất rộng lớn, Đông dân và khá giàu. Năm Chín Trăm Ba Bảy, Kiều Công Tiễn đê hèn Sát hại Dương Đình Nghệ Rồi thâu tóm toàn quyền. Bị nhiều người phản đối, Tiết độ sứ họ Kiều Sang cầu quân Nam Hán. Lợi ít, nhục thì nhiều. Ngô Quyền đem binh lính Từ Châu Ái đánh ra, Giết chết Kiều Công Tiễn, Nhanh chóng rửa thù nhà. Rồi ông lo chuẩn bị, Quân và dân một lòng, Đợi quân Hán xâm lược, Đóng cọc các dòng sông. Năm Chín Trăm Ba Tám, Ở cửa sông Bạch Đằng Thuyền của quân Nam Hán Sa bẫy cọc đang giăng. Phần bị cọc đâm thủng, Phần bị thuyền Ngô Quyền Đánh đắm hơn một nửa. Rồi sông nước lại yên. Tướng giặc Lưu Hoằng Tháo Bỏ mạng nơi chiến trường. Từ đó giặc phương Bắc Bỏ mộng chiếm Nam phương. Ngô Quyền xưng vương đế, Đóng đô ở Cổ Loa, Lập nên triều đại mới, Làm vẻ vang nước nhà. Trong những năm sau đó Ông làm rất nhiều điều Để chấn hưng kinh tế, Được mọi người thương yêu. Bốn sáu tuổi, ông mất, Trị vì được sáu năm, Rồi nhà Ngô sụp đổ Năm Chín Trăm Sáu Lăm. * Ông có một cuốn sách, Gọi là Phật Thích Ca, Về giáo lý Đạo Phật, Cuộc sống người xuất gia. Hôm nào ông tóm lược Ba Đạo lớn trên đời. Các cháu biết rồi đấy - Phật, Thiên Chúa và Hồi. Giờ thì ông muốn kể Một truyện hay, không dài. Truyện Đức Phật dạy bảo La Hầu La, con Ngài.